Đề tài Hồi ức tuổi thơ trong sáng tác cho thiếu nhi của Nguyễn Nhật Ánh

LỜI CẢM ƠN Trước hết, em xin gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc nhất đến ThS Trần Thị Mỹ Hồng, người đã tận tình hướng dẫn, định hướng cho em trong suốt quá trình thực hiện đề tài. Em xin trân trọng gửi lời cảm ơn sâu sắc đến các thầy, cô giáo trong Khoa SP Tiểu học – Mầm non, Khoa Khoa học Xã hội, Trường Đại học Quảng Bình đã tận tình giảng dạy, động viên, khích lệ, giúp đỡ em trong suốt quá trình học tập tại trường. Cảm ơn tất cả bạn bè đã lo lắng, động viên, giúp đỡ ủng hộ em

pdf70 trang | Chia sẻ: huong20 | Ngày: 11/01/2022 | Lượt xem: 748 | Lượt tải: 2download
Tóm tắt tài liệu Đề tài Hồi ức tuổi thơ trong sáng tác cho thiếu nhi của Nguyễn Nhật Ánh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
trong thời gian học tập và hoàn thành khóa luận tốt nghiệp. Do điều kiện về thời gian cũng như năng lực nghiên cứu của bản thân còn hạn chế, đề tài sẽ không tránh khỏi những thiếu sót, rất mong nhận được sự đóng góp của quý thầy cô và các bạn sinh viên để đề tài được hoàn chỉnh hơn. Cuối cùng em kính chúc quý thầy cô giáo, chúc các bạn sức khỏe và thành công. Em xin chân thành cảm ơn! Đồng Hới, ngày 19 tháng 05 năm 2018 Sinh viên thực hiện đề tài Mai Thị Mỹ Duyên LỜI CAM ĐOAN Tôi cam đoan đề tài “Hồi ức tuổi thơ trong sáng tác cho thiếu nhi của Nguyễn Nhật Ánh” là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các kết quả nghiên cứu có tính độc lập riêng, không sao chép bất kỳ tài liệu nào và chưa công bố nội dung này ở bất kỳ đâu. Các số liệu trong đề tài được sử dụng trung thực, nguồn trích dẫn có chú thích rõ ràng, minh bạch, có tính kế thừa, phát triển từ các tài liệu, tạp chí, các công trình nghiên cứu đã được công bố, các website. Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan danh dự của tôi. Đồng Hới, ngày 19 tháng 05 năm 2018 Sinh viên thực hiện đề tài Mai Thị Mỹ Duyên MỤC LỤC A - PHẦN MỞ ĐẦU ............................................................................................. 1 1. Lí do chọn đề tài ......................................................................................................... 1 2. Lịch sử vấn đề ............................................................................................................ 2 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ............................................................................. 6 3.1. Đối tượng nghiên cứu ................................................................................................. 6 3.2. Phạm vi nghiên cứu ..................................................................................................... 6 4. Phương pháp nghiên cứu ........................................................................................... 6 5. Đóng góp mới của đề tài ............................................................................................ 6 6. Cấu trúc đề tài ............................................................................................................. 7 B- PHẦN NỘI DUNG ........................................................................................... 8 CHƯƠNG 1: NGUYỄN NHẬT ÁNH – NHÀ VĂN THÂN QUÝ CỦA TUỔI THƠ ....................................................................................................................... 8 1.1. Cuộc đời ................................................................................................................... 8 1.2. Sự nghiệp sáng tác ............................................................................................... 10 1.3. Quan niệm sáng tác cho thiếu nhi ....................................................................... 11 1.4. Vai trò của hồi ức trong sáng tác viết cho thiếu nhi của Nguyễn Nhật Ánh .... 13 1.4.1. Khái niệm “hồi ức” ................................................................................................ 13 1.4.2.Vai trò của hồi ức trong sáng tác viết cho thiếu nhi của Nguyễn Nhật Ánh ..... 14 CHƯƠNG 2: NHỮNG HỒI ỨC TUỔI THƠ TRONG SÁNG TÁC CHO THIẾU NHI CỦA NGUYỄN NHẬT ÁNH ..................................................................... 18 2.1. Hồi ức tuổi thơ với những trò chơi bất tận ......................................................... 18 2.2. Hồi ức tuổi thơ với những ước mơ và khát vọng đẹp đẽ ................................... 21 2.3. Hồi ức tuổi thơ với những yêu thương ............................................................... 24 2.4. Hồi ức tuổi thơ với những rung cảm đầu đời ..................................................... 27 2.5. Hồi ức tuổi thơ với những chiêm nghiệm, suy tư về con người và cuộc đời ... 33 CHƯƠNG 3: NGHỆ THUẬT THỂ HIỆN HỒI ỨC TUỔI THƠ TRONG SÁNG TÁC CHO THIẾU NHI CỦA NGUYỄN NHẬT ÁNH ...................................... 38 3.1. Điểm nhìn trần thuật ............................................................................................ 38 3.1.1. Hồi ức qua điểm nhìn trẻ thơ ................................................................................ 38 3.1.2. Hồi ức qua điểm nhìn người lớn ........................................................................... 40 3.1.3. Sự dung hòa điểm nhìn trẻ thơ – người lớn ......................................................... 42 3.2. Không gian và thời gian nghệ thuật .................................................................... 44 3.2.1. Không gian nghệ thuật ........................................................................................... 44 3.2.2. Thời gian nghệ thuật .............................................................................................. 44 3.3. Ngôn ngữ và giọng điệu ...................................................................................... 48 3.3.1. Ngôn ngữ ................................................................................................................ 53 3.3.2. Giọng điệu ............................................................................................................... 56 C- PHẦN KẾT LUẬN ......................................................................................... 62 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................ 64 1 A - PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Văn học thiếu nhi là một bộ phận không thể thiếu trong dòng chảy văn học Việt Nam với ý nghĩa giáo dục, bồi dưỡng tâm hồn, nhân cách trẻ em ở mọi lứa tuổi khác nhau. Văn học thiếu nhi Việt Nam đến nay đã đạt được những thành tựu rất đáng ghi nhận, với đội ngũ nhà văn đông đảo, đa dạng về độ tuổi và phong cách, năng động về sức tìm tòi, khám phá, đổi mới tư duy và cách tiếp cận cuộc sống với những cây bút khá nổi như Tô Hoài, Phạm Hổ, Trần Hoài Dương, Trần Đăng Khoa, Nguyễn Nhật Ánh, Phan Hồn Nhiên, Hoàng Dạ Thi, Nguyễn Ngọc Tư, Nguyễn Ngọc Thuần... Viết cho thiếu nhi, những nhà văn luôn cần mẫn sáng tạo, mở rộng đề tài và tìm tòi hướng khai thác mới mẻ, đáp ứng nhu cầu thưởng thức của độc giả. Họ đã thành công với nhiều mảng đề tài gắn với những suy nghĩ, cảm xúc hồn nhiên của trẻ thơ cùng những bài học giáo dục có ý nghĩa nhân văn sâu sắc. Trong số các tác giả viết cho thiếu nhi nổi bật nhất là Nguyễn Nhật Ánh. Xuất hiện trên văn đàn như một hiện tượng văn học, Nguyễn Nhật Ánh là một cây bút tài năng với nỗ lực cách tân không ngừng về mặt tư duy cũng như nghệ thuật. Mỗi tác phẩm của ông ra đời đều mang tới một ấn tượng mới mẻ cho người đọc. Với giọng văn hài hước nhẹ nhàng cùng nghệ thuật phân tích tâm lý sâu sắc những trang văn của ông thực sự hấp dẫn các độc giả không chỉ là trẻ em mà cả với những ai “từng là trẻ em”. Nguyễn Nhật Ánh đã có một số đầu sách kỉ lục về lượng phát hành, có sức chinh phục mạnh mẽ độc giả nhỏ tuổi, đạt nhiều giải thưởng cả trong nước và quốc tế. Ông thuộc số những cây bút hiếm hoi được các em luôn ngóng đến, tin tưởng, yêu quý. Sáng tác của ông cũng thực sự góp phần vào sự đổi mới diện mạo văn học thiếu nhi nước ta vài chục năm nay. Từ sau năm 1975, các nhà văn Việt Nam đã thành công trong việc chọn hồi ức làm chất liệu sáng tác, đặc biệt là hồi ức tuổi thơ chất chứa nhiều rung cảm. Với mỗi con người, tuổi thơ là quãng thời gian đầu đời có ý nghĩa quan trọng để định hình nên nhân cách. Tuổi thơ đong đầy kỷ niệm, vụng dại, thơ ngây càng lùi xa càng không ngừng quay trở về trong hiện tại. Với văn chương, hồi ức không 2 chỉ là chất liệu mà còn là nhu cầu chiêm nghiệm, nhận thức lại các vấn đề của quá khứ, là cách thức bộc lộ cái tôi sâu kín. Sáng tác của Nguyễn Nhật Ánh cũng không nằm ngoài mạch chảy này. Trong truyện Nguyễn Nhật Ánh, hồi ức có vai trò quan trọng, đặc biệt là hồi ức tuổi thơ vốn đã xa xôi. Tìm về quá khứ qua màn sương hoài niệm cũng là tìm lại sự vô tư, tìm lại con người thơ dại. Đó không chỉ là đích đến mà còn là cuộc hành trình tìm lại bản thể, là sự chiêm nghiệm, nghĩ suy về thời quá vãng bằng cái nhìn từng trải và sâu sắc hơn. Phải chăng đây là một trong những lí do khiến tác phẩm neo lại bền lâu trong trái tim nhiều thế hệ độc giả? Chúng tôi thực sự ấn tượng với truyện viết cho tuổi thơ của Nguyễn Nhật Ánh bởi những trang văn hóm hỉnh, giàu ý nghĩa nhân sinh. Nhận thức được ảnh hưởng của tác giả đối với văn học thiếu nhi nên chúng tôi quyết định chọn đề tài: "Hồi ức tuổi thơ trong sáng tác cho thiếu nhi của Nguyễn Nhật Ánh" với mong muốn chiếm lĩnh giá trị nhân văn – thẩm mĩ của ngòi bút Nguyễn Nhật Ánh, cũng như lí giải sức sống mãnh liệt của tác phẩm trong lòng bạn đọc. 2. Lịch sử vấn đề Xuất hiện trên văn đàn hơn hai mươi năm nay, với tư cách là nhà văn viết cho tuổi nhỏ, Nguyễn Nhật Ánh đã góp phần làm khởi sắc văn học thiếu nhi nước nhà. Từ thập niên 90 của thế kỉ XX, ông nổi lên như một “hiện tượng tác giả” thu hút sự quan tâm, chú ý của giới nghiên cứu, phê bình. Đã có nhiều bài viết đăng tải trên báo, tạp chí, internet, các giáo trình, luận văn, luận án nhìn nhận, đánh giá tác phẩm của ông ở nhiều phương diện khác nhau. Công trình nghiên cứu Truyện viết cho thiếu nhi sau năm 1975 của Lã Thị Bắc Lý đề cập đến truyện Nguyễn Nhật Ánh, đặc biệt là bộ Kính vạn hoa như những minh chứng cho sự đổi mới của truyện viết cho thiếu nhi Việt Nam sau 1975 ở các phương diện: đề tài, quan niệm về con người và nghệ thuật. Sau này, trong bài viết Cảm nhận về văn học thiếu nhi Việt Nam đầu thế kỉ XXI, tác giả tiếp tục nhắc tới Nguyễn Nhật Ánh với tư cách là một trong những “nhà văn giao thời của hai thế kỉ”, “là tác giả tiêu biểu nhất của văn học thiếu nhi Việt Nam những năm cuối thế kỉ XX” [13]. 3 Năm 2013, cuốn Nguyễn Nhật Ánh – hoàng tử bé trong thế giới tuổi thơ (Lê Minh Quốc biên soạn) ra đời giúp người đọc có cái nhìn khá đầy đủ về tiểu sử, hành trình văn chương Nguyễn Nhật Ánh. Với tình cảm nồng hậu dành cho bạn văn đồng hương xứ Quảng, tác giả tập sách nhận định: “Với dòng văn học dành cho thiếu nhi và tuổi mới lớn, hiện nay anh (Nguyễn Nhật Ánh) đang giữ một vị trí đặc biệt” [20;51]. Bên cạnh đó trong những năm gần đây có không ít tiểu luận, luận văn của sinh viên đại học, cao học chọn truyện Nguyễn Nhật Ánh làm đề tài nghiên cứu. Thế giới trẻ thơ qua cách nhìn của Nguyễn Nhật Ánh trong bộ truyện Kính vạn hoa (2005) của Phạm Thị Bền là công trình chuyên biệt đầu tiên nghiên cứu về văn xuôi Nguyễn Nhật Ánh, đặc biệt về Kính vạn hoa. Lấy trẻ thơ làm hệ quy chiếu, nhà văn thể hiện nhận thức về thế giới xung quanh (tự nhiên, xã hội và nội tâm con người) qua điểm nhìn của nhân vật trẻ em với các phương thức tiếp cận đặc thù (tiếp cận trẻ từ sân chơi, cuộc chơi, từ các vùng miền, hoàn cảnh khác nhau). Luận văn còn tìm hiểu nghệ thuật thể hiện thế giới trẻ thơ trong bộ Kính vạn hoa trên các phương diện: ngôn ngữ trẻ thơ, nghệ thuật khắc họa chân dung nhân vật và âm sắc trẻ thơ trong giọng điệu trần thuật. Luận văn Thạc sĩ nghiên cứu về truyện Nguyễn Nhật Ánh còn có Thế giới nghệ thuật truyện Nguyễn Nhật Ánh (2009) của Vũ Thị Hương, Yếu tố huyền thoại trong truyện Nguyễn Nhật Ánh (2011) của Lê Thị Diệu Phương, Đặc điểm truyện Nguyễn Nhật Ánh (2011) của Bùi Thị Thu Thủy... Các luận văn có nhiều điểm gặp gỡ nhau nhưng không có đề tài nào đề cập đến vấn đề mà chúng tôi khảo sát. Mỗi tác phẩm của Nguyễn Nhật Ánh được xuất bản đều được quan tâm thể hiện thông qua bài giới thiệu đăng tải trên các phương tiện thông tin đại chúng. Bài viết mang tính nghiên cứu tổng quát truyện Nguyễn Nhật Ánh phải kể đến Cho tôi xin một vé đi tuổi thơ – Đọc văn xuôi Nguyễn Nhật Ánh của Nguyễn Thị Thanh Xuân đăng trên báo Văn nghệ thành phố Hồ Chí Minh, số 237 (ra ngày 26/12/1996). Theo tác giả bài viết, giá trị độc đáo của truyện Nguyễn Nhật Ánh trước hết là thái độ vào cuộc của nhà văn, “nghĩa là Nguyễn Nhật Ánh nắm rõ luật 4 chơi, tuân thủ nghiêm chỉnh các quy ước tự nhiên giữa những người trẻ tuổi”, “nói các ngôn ngữ họ nói, nghĩ những điều họ nghĩ và thấy những gì họ nhìn thấy” [24;21]. Vũ Ân Thy trong Nguyễn Nhật Ánh – người bạn thân mến của độc giả trẻ đăng trên báo Sài Gòn giải phóng (1997) đề cao tác phẩm của nhà văn xứ Quảng “có sức hấp dẫn lạ và mới. Nó lôi cuốn thiếu nhi và có sức thuyết phục người lớn có trách nhiệm với thế hệ trẻ”. Truyện Nguyễn Nhật Ánh “luôn gần gũi như truyện dân gian cổ tích, như ước mơ của tuổi thơ mà lại mang tính hấp dẫn hiện đại” [23;17]. Cũng tiếp cận từ phương diện nội dung, Vân Thanh trong Nguyễn Nhật Ánh nhà văn thân quý của tuổi thơ đăng trên Tạp chí Văn học số 6- 1998 nhận định: “Nguyễn Nhật Ánh thông qua sự sống dung dị và trẻ trung, giúp ta tiếp nhận được nhiều vấn đề: lí tưởng sống, tình bạn, tình yêu nam nữ, tình thầy trò, tình yêu quê hương” [22;78]. Ngoài ra có thể kể đến: Chú bé rắc rối của Vân Thanh đăng trên báo Thiếu niên tiền phong (1991), Bong bóng lên trời của Ngọc Cúc trên báo Người lao động (1991), Quà xuân của các em – Bộ sách Kính vạn hoa của Nguyễn Nhật Ánh được tái bản của Lê Hữu Bắc Sơn trên tạp chí Giáo dục (2003) hay Nguyễn Nhật Ánh, vẫn thế, với “Lá nằm trong lá” của Thụy Anh trên báo điện tử tuoitre.vn (2011), Nước mắt hồi sinh thế giới của Lưu Khánh Thơ trên thanhnien.com (2013)... Các bài viết khẳng định sức lôi cuốn của ngòi bút Nguyễn Nhật Ánh, cung cấp những thông tin khái quát, những cảm nhận về tác phẩm cụ thể của nhà văn. Không chỉ chinh phục độc giả trong nước, truyện của Nguyễn Nhật Ánh còn được dịch ra một số ngôn ngữ khác, là cầu nối đưa tác giả và văn học thiếu nhi Việt Nam đến với bạn bè thế giới. Năm 2004, truyện Mắt biếc được dịch sang tiếng Nhật (do Nhà xuất bản Terrainc ấn hành). Dịch giả Kato Sakae tự tin cho rằng tác phẩm tái hiện không gian làng quê Việt Nam đậm đà bản sắc dân tộc nên không chỉ lớp trẻ mà cả độc giả trung niên Nhật cũng sẽ yêu thích tác phẩm này. Năm 2008, tác phẩm Cô gái đến từ hôm qua được Tiến sĩ Maxim Synnerberg – 5 người biên soạn Từ điển Nga – Việt đề nghị đưa vào giáo trình giảng dạy tiếng Việt của Đại học Moscow, Nga. Việc Nguyễn Nhật Ánh tham dự Hội thảo quốc tế về văn học thiếu nhi tại Stockhom năm 2009 và giải thưởng Văn học ASEAN năm 2010 đã tạo cơ hội thuận lợi để tác phẩm của anh đến với độc giả nhiều nước trên thế giới. Như vậy, tác phẩm Nguyễn Nhật Ánh viết cho thiếu nhi không chỉ chạm tới trái tim của bạn đọc trong nước mà đã vượt qua khoảng cách địa lý, tạo được sự đồng cảm với độc giả nước ngoài. Văn chương là con đường đẹp đẽ để dân tộc này đến với dân tộc khác. Với ý nghĩa đó, truyện Nguyễn Nhật Ánh là nhịp cầu hòa bình nối kết tâm hồn độc giả, nối kết văn học Việt Nam với thế giới. Số lượng ý kiến phong phú chứng tỏ sự quan tâm đông đảo của các nhà nghiên cứu, phê bình, các nhà văn và độc giả đối với “hiện tượng” Nguyễn Nhật Ánh. Tác phẩm của ông được tiếp cận, soi chiếu từ nhiều góc độ: tính giáo dục, thế giới trẻ thơ đa dạng, nghệ thuật kể chuyện... Các sáng tác viết cho thiếu nhi của Nguyễn Nhật Ánh đã được rất nhiều nhà nghiên cứu trong và ngoài nước quan tâm, song nghiên cứu về hồi ức trong truyện thiếu nhi của ông còn ít, mới chỉ dừng lại ở nhận xét ngắn gọn trong các bài viết. Theo Lê Minh Quốc, “quê nhà là sự ám ảnh lâu dài trong tâm trí nhà văn” [20;55], “khi viết về kỉ niệm, trang viết của ông được dịp phiêu lãng nhẹ nhàng và giàu cảm xúc như thơ” [20;57]. Thái Phan Vàng Anh khi nghiên cứu người kể chuyện trong văn Nguyễn Nhật Ánh nhận xét: “nhà văn thường chọn cách kể từ ngôi thứ nhất- người kể chuyện “tôi”, khiến cho truyện Nguyễn Nhật Ánh có tính chất hồi ức”[1;61]. Còn Nguyễn Thị Thanh Xuân chỉ ra khi viết về những bâng khuâng rung cảm đầu đời, Nguyễn Nhật Ánh “tựa quá nhiều vào quá khứ. Quan màn sương hoài niệm, những mối tình mới chớm đề buồn, dở dang và gắn liền với một nhân dáng” [24;25]. Có thể thấy truyện Nguyễn Nhật Ánh dùng hồi ức làm chất liệu không nằm ngoài dòng chảy văn học thiếu nhi Việt Nam sau 1975. Tuy nhiên, các ý kiến nhận định về vấn đề này còn rất ít ỏi, chưa khái quát. Cho đến nay, chưa có bài viết, công trình nào nghiên cứu hồi ức tuổi thơ trong sáng tác Nguyễn Nhật Ánh 6 như một đối tượng khoa học thực sự. Do vậy, thực hiện đề tài này, chúng tôi mong muốn góp thêm một cách tiếp cận văn chương Nguyễn Nhật Ánh và có thêm những tri thức quý báu cho công việc học tập và giảng dạy sau này. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài là hồi ức tuổi thơ trong sáng tác viết cho thiếu nhi của Nguyễn Nhật Ánh. 3.2. Phạm vi nghiên cứu Chúng tôi khảo sát một số sáng tác viết cho thiếu nhi của Nguyễn Nhật Ánh. 4. Phương pháp nghiên cứu Chúng tôi chủ yếu sử dụng các phương pháp cơ bản sau: - Phương pháp phân tích – tổng hợp: được dùng trong việc phân tích các luận chứng, từ đó có những đánh giá và kết luận khách quan, khoa học. - Phương pháp so sánh, đối chiếu: nhằm chỉ ra những nét chung và nét độc đáo riêng của các tác phẩm viết cho thiếu nhi của Nguyễn Nhật Ánh. - Phương pháp hệ thống: nhằm liệt kê các tác phẩm viết cho thiếu nhi có sử dụng chất liệu hồi ức của Nguyễn Nhật Ánh, đồng thời hệ thống các luận chứng để nhìn nhận rõ hơn những đặc điểm xuyên suốt, nhất quán trong sáng tác của Nguyễn Nhật Ánh. - Ngoài ra, đề tài còn sử dụng các phương pháp khác như phương pháp liên ngành, phương pháp loại hình,.... 5. Đóng góp mới của đề tài - Về lý luận: Đề tài nghiên cứu hồi ức tuổi thơ trong sáng tác viết cho thiếu nhi của Nguyễn Nhật Ánh, qua đó góp phần khẳng định phong cách Nguyễn Nhật Ánh trong văn học thiếu nhi Việt Nam đương đại. - Về thực tiễn: Đề tài góp phần vào việc tiếp nhận, tìm hiểu, nghiên cứu về hồi ức tuổi thơ trong sáng tác viết cho thiếu nhi của Nguyễn Nhật Ánh, từ đó là tài liệu cho giáo viên, sinh viên, quý bậc phụ huynh quan tâm và tham khảo. 7 6. Cấu trúc đề tài Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảonội dung đề tài được triển khai trong 3 chương: Chương 1: Nguyễn Nhật Ánh- nhà văn thân quý của tuổi thơ. Chương 2: Những hồi ức tuổi thơ trong sáng tác cho thiếu nhi của Nguyễn Nhật Ánh. Chương 3: Nghệ thuật thể hiện hồi ức tuổi thơ trong sáng tác cho thiếu nhi của Nguyễn Nhật Ánh. 8 B- PHẦN NỘI DUNG Chương 1: NGUYỄN NHẬT ÁNH - NHÀ VĂN THÂN QUÝ CỦA TUỔI THƠ 1.1. Cuộc đời Nguyễn Nhật Ánh sinh ngày 7.5.1955 tại xã Bình Quế, huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam. Ông có nhiều bút danh khác nhau như: Anh Bồ Câu, Chu Đình Ngạn, Đông Phương Sóc, Sóc Phương Đôngtuổi thơ của ông gắn liền với vùng quê Quảng Nam, một vùng quê nghèo nhưng phong cảnh nên thơ hữu tình, và chính gia đình, quê hương là dòng sữa ngọt ngào nuôi dưỡng tâm hồn của Nguyễn Nhật Ánh để mỗi khi hồi tưởng lại, nó như một thước phim quay chậm không có điểm dừng. Và ông đã dồn tất cả tình yêu ấy vào những trang văn, trang thơ của mình: “Tôi viết về Bình Quế trong Mắt Biếc, Bình Tú trong Đi qua hoa cúc, Bình Trung trong Hạ Đỏ và Tam Kỳ trong Hoa hồng xứ khác” [2;25]. Những kỉ niệm có ở quê hương của một cậu học trò tinh ý, giàu tình cảm đã trở thành nguồn cảm hứng, là chất xúc tác bất tận tạo nên cái “tạng” hợp trẻ con và một cây bút gắn bó với trẻ con ở Nguyễn Nhật Ánh. Ông từng chia sẻ: khi đi vào con đường văn chương, ông viết đủ thứ nhưng chủ yếu là viết cho thiếu nhi, ông nhận thấy đây là mảng đề tài hợp với tạng chất của mình. Ông luôn bị “ám ảnh bởi kí ức tuổi thơ” và nó trở thành mãnh lực lôi cuốn nhà văn trong sự nghiệp sáng tác củamình. Năm 13 tuổi, Nguyễn Nhật Ánh đã có bài thơ đăng báo đầu tiên Thành phố tháng tư, trong thời gian học trung học ông đã có các tác phẩm thơ truyện in trên các báo Tuổi Ngọc, Phổ Thông, Hoa tình thương và tạp chí Văn nghệ(Sài Gòn)Ngay từ nhỏ, Nguyễn Nhật Ánh đã đam mê đọc sách và tập tành viết lách: “Thuở bé, tôi rất mê đọc sách. Tôi bị quyến rũ bởi các tác phẩm của Thạch Lam, Khái Hưng, Tô Hoài, Thế Lữ, đắm chìm trong những trang sách của Edmond de Amicis (Tâm hồn cao thượng), Victor Hugo (Những người khốn khổ), Hector Malot (Không gia đình), và tôi mơ ước saunày mình sẽ trở thành nhà văn. Lớn lên, qua nhiều khúc quanh của cuộc đời, cuối cùng tôi cũng trở thành nhà văn và sống được bằng chính cái nghề mình yêu thích từ thuở ấu thơ, đó là hạnh phúc lớn lao đối với tôi. Nếu bây giờ tôi kiếm được rất nhiều tiền mà không phải bằng 9 nghề mình yêu thích, có lẽ tôi không cảm thấy hạnh phúc thực sự” [2;14]. Niềm đam mê văn chương cùng với vốn sống phong phú đã tạo nên phong cách và giá trị trong những tác phẩm của ông. Những năm tháng tình nguyện tham gia phong trào Thanh niên xung phong, trải qua những vất vả thiếu thốn về vật chất nhưng lại đầy ắp tình người, tình đồng đội đã giúp ông viết nên những vần thơ cháy bỏng, đầy khát vọng và niềm tin vào cuộc sống: “Môi trường Thanh niên xung phong đã rèn luyện tôi thành một con người biết vượt khó, có nghị lực, luôn yêu đời. Nó giúp cho con người sáng tác của tôi có một niềm tin và cái nhìn trong trẻo với cuộc sống. Nếu không có thời gian đi Thanh niên xung phong thì không hẳn tôi đã có những trang viết tươi tắn như bây giờ” [19;18]. Năm 1973, ông vào Sài Gòn theo học ngành sư phạm, những năm tháng dạy học, sống lại trong môi trường trong sáng và thánh thiện của tuổi học trò những trang viết của ông đậm chất thơ trong trẻo, nhẹ nhàng, mang tính hướng thiện và giáo dục cao. Không những thế, Nguyễn Nhật Ánh cũng từng hăng hái tham gia các hoạt động Đoàn tổ chức các hoạt động cho thiếu nhi. Công việc viết báo phụ trách trang thiếu nhi giúp nhà văn nắm bắt những vấn đề nhạy cảm trong cuộc sống hiện tại của thanh thiếu niên và đi vào những trang viết của ông như một yếu tố kích thích trí tò mò và lôi cuốn người đọc. Khi cầm bút, nhà văn ý thức về trách nhiệm của mình. Để có vốn hiểu biết phong phú về thế giới học trò, ông đã sưu tầm các loại SGK từ lớp 1 đến lớp 12 về đọc để nắm sát chương trình học phổ thông hiện nay, đăng ký lớp học tiếng Anh buổi tối để có cơ hội quan sát, nắm bắt những “sự kiện” tronglớp học hay tâm tình, trò chuyện với chính con gái cũng như các bạn của con gái mình. Nhận xét về Nguyễn Nhật Ánh, tác giả Vân Thanh viết: “Nếu trong thời kì chống Mỹ ở miền Bắc hiện tượng Trần Đăng Khoa đã gây nên sự phấn chấn cho nhiều giới người đọc, cả người lớn lẫn trẻ con, cả trong nước lẫn cả thế giới, thì trong công cuộc Đổi mới hôm nay Nguyễn Nhật Ánh là một nhà văn được lớp trẻ vô cùng gần gũi và yêu mến” [22;57]. Như vậy, với tính cách, tâm hồn, trải nghiệm nghề nghiệp và tấm lòng, tâm huyết của một nhà văn chân chính, chuyên tâm viết cho thiếu nhi, Nguyễn Nhật 10 Ánh xứng đáng là một tên tuổi để lại dấu ấn đậm nét trong lòng độc giả văn học thiếu nhi đương đại. 1.2. Sự nghiệp sáng tác Với niềm say mê văn chương, Nguyễn Nhật Ánh đến với nghiệp cầm bút như một điều tất yếu. Xuất phát điểm từ thơ ca, ông là tác giả của 5 tập thơ: Thành phố tháng Tư (in chung với Lê Thị Kim, 1984), Đầu xuân ra sông giặt áo (1986), Thơ tình Nguyễn Nhật Ánh (1988), Lễ hội của đêm đen (1994) và Tứ tuyệt cho nàng (1994), trong đó, nhiều bài thơ được phổ nhạc: Thành phố, tình yêu và nỗi nhớ, Đầu xuân ra sông giặt áo, Như là cổ tích... Đến với văn xuôi từ những năm 80 của thế kỉ XX, cho đến nay, Nguyễn Nhật Ánh vẫn luôn trung thành với những sáng tác cho tuổi thơ và tuổi mới lớn. Tác giả viết cho thế hệ trẻ với niềm yêu mến, sự đồng cảm và lòng nhiệt tình không thay đổi theo thời gian. Có thể nói, cho đến thời điểm này, Nguyễn Nhật Ánh là nhà văn viết cho thiếu nhi có nhiều đầu sách nhất Việt Nam, đến nay ông đã có gần 100 tác phẩm được xuất bản. Không chỉ nhiều về số lượng, tác phẩm của Nguyễn Nhật Ánh còn nhận được nhiều giải thưởng cao quý và đặc biệt là sự đón đọc của đông đảo bạn đọc trong và ngoài nước. Nguyễn Nhật Ánh đã đóng góp cho nền VHTN Việt Nam một khối lượng tác phẩm đồ sộ ở nhiều thể loại, trong khoảng 15 năm, ông đã có trên 40 tập truyện ngắn viết cho thiếu nhi. Trong đó có 2 bộ truyện nhiều tập: Kính vạn hoa, dài 45 tập do Nhà xuất bản Kim Đồng in từ năm 1995 đến 2002; Chuyện xứ Lang Biang, dài 4 tập do Nhà xuất bản Kim Đồng in từ năm 2004 đến năm 2005. Đặc biệt, bộ Kính vạn hoa được Trung ương Đoàn Thanh Niên Cộng sản Hồ Chí Minh trao huy chương “Vì thế hệ trẻ” và được Hội nhà văn Việt Nam trao tặng thưởng. Đến với các tác phẩm của Nguyễn Nhật Ánh, người đọc luôn thấy được sự dí dỏm, nhẹ nhàng của nhà văn như trong: Buổi chiều Window, Trại hoa vàng, Cô gái đến từ hôm qua, Phòng trọ ba người, Bồ câu không đưa thưnhững nhân vật của Nguyễn Nhật Ánh đều nghịch ngợm nhưng hồn nhiên, vô tư với tình bạn trong sáng và cả những rung cảm rất chân thật theo kiểu “tình học trò” những nhân vật ấy không hề xa lạ hay đến từ một xứ sở nào khác mà đích thực là họ 11 bước ra từ cuộc sống của mỗi chúng ta. Bằng những thấu hiểu về những chuyển biến tâm lý của lứa tuổi mới lớn với những rung động bất thường đến khó hiểu, nhà văn viết về tình yêu của thanh thiếu niên một cách chân thực nhưng không kém hấp dẫn như trong Thằng quỷ nhỏ, Cô gái đến từ hôm qua, Mắt biếcNguyễn Nhật Ánh cũng đi sâu vào khai thác những chủ đề về chuyện trường lớp, bài vở, mối quan hệ với thầy cô, gia đình và đặc biệt là tình bạn như trong 45 tập Kính vạn hoa, Cho tôi xin một vé đi tuổi thơ Trong các tác phẩm của mình, nhân vật chính thường xưng “tôi”, nó trở thành một lối kể chuyện quen thuộc nhưng không gây cảm giác nhàm chán cho người đọc. Ngược lại, nó tạo cho người đọc những trải nghiệm thú vị “trở về tuổi thơ qua từng trang sách” bởi nhà văn viết văn không phải dành cho trẻ em mà “viết cho những ai đã từng là trẻ em”. Nhà văn bằng ngòi bút của mình đã đưa độc giả trở về sân ga tuổi thơ của mình. Bên cạnh đó, độc giả còn biết đến nhà văn xứ Quảng với bút danh Anh Bồ Câu phụ trách chuyên mục gỡ rối tơ lòng cho tuổi hoa, bút danh Chu Đình Ngạn bình luận thể thao hấp dẫn. 1.3. Quan niệm sáng tác cho thiếu nhi Viết cho tuổi thơ, nhà văn kể cho các em câu chuyện giản dị, gần gũi của chính các em xoay quanh chuyện học, chuyện chơi hay những những bâng khuâng, rung động trước người khác giới bằng văn phong dí dỏm nhưng không kém phần tinh tế. Sự thống nhất trong đề tài và bút pháp thể hiện được xuất phát từ quan niệm sáng tác cho thiếu nhi của nhà văn. Nguyễn Nhật Ánh bắt đầu cầm bút khi nền văn học nước nhà đang trên đà đổi mới cả về tư duy sáng tác cũng như phương thức thể hiện. Văn học từ cảm hứng sử thi dần chuyển sang cảm hứng thế sự - đời tư. Văn học thiếu nhi cũng không nằm ngoài quỹ đạo ấy. Trước yêu cầu của thời đại, Nguyễn Nhật Ánh cũng như các nhà văn viết cho thiếu nhi khác đều trăn trở đi tìm cho mình một quan niệm văn chương phù hợp. Quan niệm ấy sẽ chi phối mạnh mẽ tới toàn bộ hành vi sáng tạo, làm nên một Nguyễn Nhật Ánh – “hoàng tử bé trong thế giới tuổi thơ” 12 (Lê Minh Quốc). Là một cây bút chuyên nghiệp, Nguyễn Nhật Ánh quan niệm nhà văn khi viết cho thiếu nhi “là trụ đỡ tinh thần cho các em”. Những năm 80 của thế kỉ XX, sách khiêu dâm chép tay như nạn dịch lây lan đe dọa những tâm hồn trong trẻo và cho đến nay, nguy hại của “văn hóa đen” vẫn đang rình rập lứa tuổi học đường. Trong bối cảnh đó, truyện Nguyễn Nhật Ánh đã kéo người đọc đến với sự lành mạnh, trong sáng đúng với lứa tuổi hồn nhiên. Nhà văn “trở thành lá chắn cho tâm hồn học trò” (Đỗ Trung Quân), đưa đến tiếng cười dí dỏm, nghịch ngợm để các em yên tâm mà vui sống. Nguyễn Nhật Ánh cho rằng: “Là một nhà văn chuyên tâm viết cho thanh thiếu niên, tôi nghĩ công việc của tôi là giúp cho các bạn đọc trẻ giàu có cảm xúc hơn, qua đó sống tốt hơn” [dẫn theo Hiện tượng NNA]. Tác giả đưa trẻ thơ vào thế giới kì diệu của chữ nghĩa và sự tưởng tượng, bồi đắp tâm hồn thơ ngây, thuần phác của các em để khi lớn lên, giã từ sân ga tuổi nhỏ, các em sẽ có cái nhìn điềm tĩnh hơn vào cuộc sống, nuôi dưỡng những tình cảm thiêng liêng, cao quý của con người. Tác phẩm của Nguyễn Nhật Ánh luôn hướng tới hai yếu tố: “Trẻ em khen hay và phụ huynh khen tốt”, nghĩa là vừa đảm bảo được tính thẩm mĩ hợp với gu mĩ cảm của trẻ em nhưng vừa phải có ý nghĩa giáo dục. Tuy nhiên, Nguyễn Nhật Ánh không trói văn học vào cái khung “văn dĩ tải đạo” mà mở rộng đường biên của chức năng văn học. “Nhà văn viết cho thiếu nhi bao giờ cũng đồng thời là một nhà giáo dục” nhưng làm thế nào để thực hiện vai trò giáo dục ấy thì không đơn giản. Để thành công, “nhà văn viết cho thiếu nhi phải là nhà giáo dục bẩm sinh. Tính giáo dục trong tác phẩm nếu được thấm nhuần bởi trái tim thì sẽ tránh được sự gượng gạo so với khi nó bị áp đặt bởi lí trí” [6;10]. Trong suốt hành trình sáng tác cho thiếu nhi, Nguyễn Nhật Ánh “viết hồn nhiên như cậu học trò ngồi viết truyện đời mình”. Không định trở thành người hướng dẫn, dạy dỗ tuổi nhỏ bằng những lời giáo huấn nặng nề, ông làm người bạn tâm tình của trẻ thơ, kể cho các em nghe những câu chuyện của tâm hồn. Nguyễn Nhật Ánh đã trở thành một nhà văn, một người bạn, một nhà tâm lí, một nhà giáo dục đối với thanh thiếu niên và những bậc phụ huynh với văn phong 13 giản dị nhưng không cẩu thả, lối viết quen thuộc nhưng không sáo mòn. Những áng văn của Nguyễn Nhật Ánh trở nên sâu lắng, cấu tứ và cách nhìn cũng đầy mới lạ, hấp dẫn. 1.4. Vai trò của hồi ức trong sáng tác viết cho thiếu nhi của Nguyễn Nhật Ánh 1.4.1. Khái niệm “hồi ức” Trong tiếng Hán, “về, đi rồi trở lại nghĩa là hồi” [3;124], “ức” có nghĩa: 1. Nhớ tương ức: cùng nhớ nhau [3;257]; 2. Ghi nhớ, nhớ chôn vào tim óc gọi là kí ức . “Hồi ức” hiểu một cách đơn giản là nhớ lại những điều đã qua. Từ điển tiếng Việt định ...ơ được dạy về yêu thương một cách tự nhiên khi những cảm thức ban sơ về đạo đức nhẹ nhàng lắng sâu trong trái tim bạn đọc. 2.4. Hồi ức tuổi thơ với những rung cảm đầu đời Nảy sinh từ tâm hồn, thơ ca Nguyễn Nhật Ánh là dòng chảy tình yêu không bến dừng: "Anh sẽ viết tình yêu lên cỏ biếc/ Màu xanh kia năm tháng chẳng phai mờ" (Hơi thở đất đai). Văn xuôi của Nguyễn Nhật Ánh được ví như sự nối dài thi ca. Trong truyện viết cho tuổi thơ, cách riêng là tuổi mới lớn, tình yêu được thể hiện ở những xao động của mối tình đầu. “Cái thuở ban đầu lưu luyến ấy” hiện lên với những dấu ấn không thể mờ phai, như chất men ủ trong kí ức, càng xa quá khứ càng làm say nồng hiện tại. Nếu như hoài niệm về tuổi ấu thơ, nhà văn khắc sâu sự hồn nhiên, ngay thơ con trẻ, thì viết về tuổi mới lớn, ông phát hiện tinh tế những cung bậc buồn vui của trái tim ưu tư, đa cảm. Mỗi tác phẩm có mạch cảm xúc riêng, như vui tươi, ngộ nghĩnh trong Cô gái đến từ hôm qua, Hoa hồng xứ khác, Trại hoa vàng hay lắng sâu, day dứt bao nỗi niềm trong Hạ đỏ, Mắt biếc, Còn chút gì để nhớ, Đi qua hoa cúc Ở lứa tuổi học trò - giai đoạn đặc biệt khi con người ở khoảng giao niên, không còn là trẻ con, song vẫn chưa thực sự chín chắn để trưởng thành, sự rung động trước người khác giới là sự tất yếu của phát triển tâm lí. Đề cập đến tình yêu đầu, nhà văn có góc nhìn tinh tế riêng. Nếu truyện ngắn Trần Thiên Hương khám 28 phá tình yêu đầu ở những rung cảm của các nhân vật nữ thì Nguyễn Nhật Ánh đi sâu vào nội tâm của những chàng trai mới lớn. Nhà văn đã lưu giữ khoảnh khắc gặp gỡ đầu khi nhân vật nhận ra tình cảm không còn vô tư như tuổi nhỏ. Bằng tâm hồn nhạy cảm, Nguyễn Nhật Ánh nắm bắt được cái mơ hồ bất chợt, như có như không của cảm xúc. Trong Hạ đỏ nhân vật “tôi” rung động trước sự dịu dàng của một thiếu nữ thôn quê: "Khi Út Thêm chào dì tôi ra về, tôi đã ngẩn ngơ trước nụ cười rụt rè của nó."(Chương 12). Chương trong Còn chút gì để nhớ cũng bị nụ cười đáng yêu của Quỳnh làm mê đắm. Cuộc gặp gỡ đầu tiên khiến cậu không thể quên được nụ cười ấy. Lần đầu tiên con tim lỡ nhịp: "Chưa bao giờ tôi thấy một nụ cười xinh như vậy. Tim tôi đập thon thót trong lồng ngực" (chương 5, 6). Những nhân vật đang còn ở tuổi mới lớn trong lần đầu gặp gỡ hãy còn nhiều bối rối, rụt rè. Cả nhân vật trong Hạ đỏ hay Còn chút gì để nhớ đều không phải là người chủ động trong lần đầu gặp gỡ ấy. Chương thậm chí còn chưa kịp nở nụ cười đáp lại cô bé Quỳnh. Nhân vật bị những nụ cười, những gương mặt đáng yêu ám ảnh trong giây phút gặp gỡ đầy ngỡ ngàng, thoáng chút bối rối. Cũng có khi tình yêu chớm nở không phải từ lần đầu tiên gặp gỡ đầy bất ngờ mà là khoảnh khắc lạ kì của trái tim chợt thức. Trong Mắt biếc, Ngạn và Hà Lan chơi thân với nhau từ thuở nhỏ, lớn lên bên nhau với biết bao kỉ niệm, song đó chỉ là cảm xúc của tình bạn ấu thơ. Trái tim Ngạn chỉ chợt thức khi bỗng một ngày cậu nhận ra những điều lạ lùng về Hà Lan và về chính cậu: "Sau một đêm nằm mộng, sáng ra tôi chợt nhìn thấy ở cô bạn nhỏ ngày nào một người thiếu nữ xinh đẹp và lạ lẫm sau một đêm ngủ dậy, tôi bỗng nhận ra mình lớn vọt hẳn lên, ra dáng một chàng trai hẳn hoi" và bất giác thay đổi cách xưng hô gọi bằng tên và xưng bằng tôi. Ngạn nhận ra "Càng lớn đôi mắt nó càng đẹp. Tự dưng tôi thấy xốn xang quá thể". Khoảnh khắc bất chợt nhận thấy sự xao xuyến của con tim, khoảnh khắc nhận ra đôi mắt ấy còn đẹp hơn thuở trước chính là thời khắc con người nhận ra tình yêu đầu tiên đến. Những cảm xúc hiện lên và tan ra trong tích tắc, mong manh và mơ hồ. Khoảnh khắc lỡ nhịp của trái tim lần đầu biết yêu là sự đánh dấu cho cuộc 29 chia xa với tuổi thơ để dần lớn đối với mỗi người. Bởi thế, thời khắc xao động ấy có sức ám ảnh lớn trong hoài niệm. Nhà văn tái hiện phút làm quen đầy bối rối, có phần khờ dại cùng những cung bậc cảm xúc phù hợp với lứa tuổi của các em. Đó là sự lựa chọn tinh tế của một con người từng trải, thấu hiểu và trân trọng thế giới nội tâm của lứa tuổi trăng tròn. Các nhân vật vẫn còn là những cậu bé đang dần trở thành người lớn, nên không tránh khỏi những phút giây làm quen dại khờ. Tác phẩm của Nguyễn Nhật Ánh chứa đựng nhiều cuộc làm quen đầy thú vị, hài hước. Trong Cô gái đến từ hôm qua, Thư nghĩ ra việc bí mật vẩy mực vào đằng sau áo Việt An để lấy cớ trò chuyện. Cách làm quen còn pha nét trẻ con làm độc giả phải bật cười. Việc làm quen lần đầu tiên thất bại bởi Việt An biết sự thật đã "chẳng thèm liếc lấy một cái". Lần làm quen thứ hai là hỏi mượn Việt An cuốn sách Giamilia nhưng lại chép thơ Nguyễn Bính: "Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng" vào cuốn sách, để sau đó bị bắt đền cuốn sách mới. Sự làm quen có không ít dại khờ nhưng lại chất chứa tình cảm chân thành của nhân vật. Nguyễn Nhật Ánh đã viết bằng một cái nhìn âu yếm, bao dung, pha chút hóm hỉnh, khiến sự mộc mạc, chân thành của tình yêu đầu ngây thơ hiện hữu rõ nét trên trang sách. Hình ảnh của nhân vật “tôi” si tình trong Hạ đỏ cũng làm quen với Út Thêm một cách vụng dại. Tình cờ, cậu gặp Út Thêm khi cô đi xay thóc qua xóm. Sự trùng hợp ngẫu nhiên đã khiến "tôi" không tin là thật: "Tôi phải dụi mắt bốn năm lần để biết rằng tôi không nằm mơ. Trong một thoáng tôi không biết phải làm gì. Tôi cứ đứng ôm chặt lấy thân cau, tưởng như đời đời không gỡ tay ra nổi" (chương 14). Với giọng kể hài hước, Nguyễn Nhật Ánh đã tạo nên hình ảnh anh chàng mới lớn dại khờ trước tình yêu. Sau khi trấn tĩnh, nhân vật tôi quyết định đợi Út Thêm ở chỗ cầu tre đến tận trưa. Quãng thời gian đợi chờ ngóng trông bỗng trở nên thi vị. Thiên nhiên bất chợt đẹp hơn dưới đôi mắt của kẻ tình si: "Hàng dương liễu hai bên bờ không ngừng reo vi vu trong gió như để động viên tôi. Chỉ có đám chèo bẻo làm tổ trên những ngọn cây cao là ưa thóc mách. Chốc chốc chúng lại rủ nhau sà xuống và liệng ngang trước mặt tôi, miệng kêu lên những tiếng ngạc nhiên ra ý hỏi" (chương 14). Những suy nghĩ vẩn vơ trong 30 lúc chờ đợi khiến nhân vật tôi không nhớ ra điều định nói và lúng túng đến độ quên cả đứng lên khi gặp Út Thêm: "Tự dưng tôi bỗng hồi hộp lạ lùng. Tôi nghe rõ tiếng đập thình thịch của trái tim trong ngực. Quên sạch sành sanh cả những điều định nói với Út Thêm" (chương 14). Lần làm quen đầy bối rối được khắc họa rõ nét. Dường như trước tình yêu đầu tiên, trái tim vốn non nớt càng trở nên dại khờ. Út Thêm nói đường thường đi đến chợ Bình Trung mà "tôi tưởng như nghe một lời hò hẹn. Đầu tôi choáng váng. Lòng tôi tràn ngập hân hoan" (chương 14). Từ những khoảnh khắc gặp gỡ, làm quen đầy bối rối, trái tim dẫn lối những nhân vật mới lớn bước vào công cuộc chinh phục. Mối tình đầu thoáng qua được trở dậy từ hoài nhớ, hiện lên với những phút giây từ vui mừng, cho đến thất vọng, đổ vỡ. Nguyễn Nhật Ánh đã tạo nên những câu chuyện tình yêu đầy lãng mạn, nhưng cũng chất chứa bao nỗi niềm day dứt, nhớ thương. Trong những câu chuyện tình yêu tuổi nhỏ, với những biến chuyển quan trọng về mặt cảm xúc, nhà văn hướng ngòi bút vào miêu tả nội tâm nhân vật, nhằm thể hiện nét riêng trong tâm lí, tính cách. Có thể nhận thấy hai mạch chảy cảm xúc: Cô gái đến từ hôm qua, Hoa hồng xứ khác, vui tươi, hóm hỉnh, cònHạ đỏ, Mắt biếc, Còn chút gì để nhớ, đan xen nhiều hơn những day dứt, da diết nhớ thương của tình đầu dang dở. Nhân vật Thư trong Cô gái đến từ hôm qua bước vào cuộc chinh phục cô bạn Việt An cùng với sự song hành của những kỉ niệm với Tiểu Li. Thư trải qua vô vàn sắc thái xúc cảm từ hi vọng đến thất vọng. Câu chuyện tình yêu diễn ra với nhiều bất ngờ không đoán trước bởi sự thông minh của Việt An, sự dại khờ của Thư. Thư như bị "quay như quay dế" trước sự lém lỉnh của Việt An và cả cả nhóm bạn. Hải gầy đóng vai một "chuyên gia tình yêu" với những góp ý dựa trên lí thuyết sách vở. Kế hoạch Hải đặt ra theo câu ngạn ngữ Pháp "theo tình tình chạy, trốn tình tình theo" không có hiệu quả. Thay vì Việt An phải nhớ nhung Thư thì cậu chàng lại không thể chịu cảnh bao ngày không nói chuyện với Việt An. Quy luật tâm lí của kẻ đang yêu được nhìn qua con mắt hài hước. Tình huống được tạo dựng đầy bất ngờ với sự chuyển xoay trục tình cảm pha khiến câu chuyện tình yêu tuổi học trò vừa chân thành vừa ngộ nghĩnh. Chẳng hạn Thư nấp 31 trong thùng chiếc xe tải để quan sát cuộc chuyển thư của Hải gầy cho Việt An nên vô tình bị đưa đến ngoại ô, để rồi phải lững thững đi bộ về nhà trong mệt mỏi. Những ngày bị Việt An từ chối nhận thư là những ngày nhân vật Thư sống trong đau khổ: "chạy trốn tình yêu đâu phải chuyện dễ dàng. Hình bóng Việt An lúc nào cũng chập chờn trong đầu tôi"(chương 9). Cậu bạn đã đi từ sự thất vọng, khổ đau sang bất ngờ, ngỡ ngàng và vỡ òa hạnh phúc khi biết Việt An là cô bé Tiểu Li năm xưa. Sự trùng khít đến diệu kì của hoài niệm và hiện tại đưa nhân vật trải qua nhiều sắc thái tâm lí khác nhau để cuối cùng có được cái kết có hậu. Mối tình đầu giữa Chuẩn và Cẩm Phô trong Trại hoa vàng cũng mang màu sắc tươi vui, hồn nhiên. Bắt đầu nảy nở từ tình huống éo le về chiếc quần được mệnh danh là “Bermuđa”, nhân vật tôi bị nhóm nữ sinh lớp 10a2 trêu chọc, và vô tình quen cô bạn dịu hiền. Sau tình huống va xe giữa Chuẩn và Cẩm Phô trên đường đi học về, Chuẩn phát hiện tình cờ cô bạn là hàng xóm của Phú ghẻ - bạn thân của mình và đã quyết định tìm cách làm quen hò hẹn với Cẩm Phô. Câu chuyện của đôi bạn trẻ như truyện cổ tích về chàng Chử Đồng Tử giữa đời thực. Những cung bậc cảm xúc khác nhau từ việc gửi thư tình, lần đầu tiên hẹn hò luống cuống nhầm giờ hẹn, hay những hôm dạy kèm cho Cẩm Phô được khắc họa sinh động. Tình yêu đầu kết tụ qua nụ cười của Cẩm Phô khi nhận những đóa hoa hồng do chính tay Chuẩn chăm sóc: "Trong một thoáng tôi nhận ra nó đáng yêu không thể tả. Trước đây tôi cũng đã nhận ra điều đó mấy trăm ngàn lần rồi, nhưng lần này mới là lần phát hiện có giá trị nhất. Và cũng chính trong khoảnh khắc kì diệu đó, tôi hiểu rằng nụ cười và ánh mắt của Cẩm Phô chiều nay sẽ mãi mãi in sâu vào tâm khảm tôi" (chương 18). Đó là những cảm xúc tinh tế vào thời khắc tình yêu được tìm thấy và in dấu trong tim. Không hiện hữu quá nhiều sự vui tươi, trẻ trung như tình yêu đầu trong Cô gái đến từ hôm qua hay Trại hoa vàng, mối tình đầu trong Hạ đỏ trầm lắng, ưu tư. Trong mùa hè đáng nhớ năm lớp chín ở quê ngoại, lần đầu tiên nhân vật tôi cảm nhận được sự xao xuyến trong tim, cũng là lúcnhận thấu nỗi buồn nặng trĩu. Tình đầu dang dở bắt đầu bằng những giai điệu nhẹ nhàng xốn xang: "Không hiểu sao mỗi lần nghĩ tới Út Thêm, tôi cảm thấy người tôi lơ lơ lửng lửng và tôi mong gặp 32 lại nó biết bao. So với nhỏ Thơm, Út Thêm dịu dàng hơn. Mà tôi tôi lại thích những bạn gái dịu dàng" (chương 12). Tình yêu được cảm nhận qua trái tim non nớt là điều gì đó mơ hồ, như ảo ảnh thoáng qua. Mỗi sự chuyển biến trong tình yêu là một tâm trạng đan xen. Những thay đổi của nhân vật mới lớn đều được nhà văn miêu tả tinh tế. Tâm trạng của nhân vật tôi với trăm mối tơ lòng khi lần đầu tiên đến nhà Út Thêm không chỉ được thể hiện trực tiếp bằng lời tự bạch: "lòng tôi đang ngổn ngang những cảm xúc trái ngược nhau" mà còn ẩn giấu qua hình ảnh con đường nhỏ ngập đầy cỏ may tim tím: "Con đường nhỏ dẫn tôi đến một trảng cỏ xanh ngút mắt. Trảng ngập cỏ may. Mới đi một quãng ngắn, hai ống quần tôi đã ghim đầy những cánh hoa tim tím li ti" (chương 20). Thiên nhiên đồng điệu với trái tim bỗng đa cảm cảu con người. Thời gian dạy học cho chị em Út Thêm có lẽ là những ngày nhiều niềm vui nhất đối với nhân vật tôi. Tuy vậy, niềm vui vẫn không xóa tan được nỗi lo về ngày chia xa gần kề. "Tôi" vẫn thường ngóng lên tán phượng và lo lắng về mùa hè sắp qua bởi khi màu hoa phượng dần phai cũng là lúc phải chấm dứt những cuộc gặp gỡ. Tình yêu chưa được một lần tỏ bày đã phải chôn chặt trong tim vì tin Út Thêm sắp lấy chồng. Nhân vật tôi trải qua bao sắc thái, từ choáng váng khi nghe tin, đến đau đớn lặng lẽ bỏ về, để rồi sau đó con tim đang yêu lại tự trấn an rằng Út Thêm đùa. Biết được sự thật, nhân vật tôi lặng lẽ trở về thành phố, rời xa chốn làng quê với bao kỉ niệm, bỏ lại sau lưng mối tình đầu dang dở. Cảm xúc của nhân vật lần đầu yêu dù mang màu sắc vui tươi hay bâng khuâng, day dứt, lắng sâu cũng đều được Nguyễn Nhật Ánh thể hiện trong chuyển biến vi diệu. Những kỉ niệm vui buồn, những mộng mơ về một thời vụng dại, ngây ngô được trở mình thức giấc trên những trang văn đầy hoài niệm. Tình yêu đầu đôi khi kết thúc bằng nỗi buồn, day dứt, nhưng cũng bởi thế mà nó neo lại ở một nơi sâu thẳm trong trái tim, không dễ phai mờ. Cái kết buồn của tình yêu tuổi mới lớn đem lại cho người đọc sự ám ảnh không dứt. Tình yêu đầu lỡ dở cũng là điểm đánh dấu nhân vật thêm trưởng thành. “Tôi” trong Hạ đỏ chia xa tuổi thơ cùng với nỗi buồn tình yêu rạn vỡ: "Khi lần đầu tiên đón nhận nỗi buồn, tôi hiểu rằng tuổi thơ của mình đã hết. Nó đã bay xa. Đóa phượng cuối cùng 33 của mùa hè năm nay chưa kịp rã cánh, tôi đã vội chia tay với ngày tháng vô tư" (chương 30). Dẫu vậy, tình yêu đơn phương chưa một lần tỏ bày không dễ mờ phai. Bó hoa cỏ may Út Thêm gửi tặng ngày ra đi khiến lòng nhân vật tôi càng thêm trĩu nặng. Nỗi buồn xoáy sâu cùng những bông cỏ may tím. Tình yêu dang dở sẽ còn neo lại mãi trong hoài nhớ gắn với hình ảnh người con gái dịu dàng ở miền quê xa. Mắt biếc cũng chất chứa tình yêu dang dở như trong Hạ đỏ. Cũng là tình yêu đơn phương không nói thành lời, nhưng không giấu vào trong những bông cỏ may mà ẩn mình trong cái lặng lẽ của màu tím đồi sim.Đi qua hoa cúc cũng kết thúc trong nỗi buồn khi Trường ra đi, về quê mẹ và vào Nam sinh sống sau sự mất tích của chị Ngà. Người thanh niên ngậm ngùi chia tay bụi hoa cúc, để lại một kỉ niệm buồn của tuổi thơ êm đềm: Có một người đi qua hoa cúc, Có hai người đi qua hoa cúc Bỏ lại sau lưng cả tuổi thơ mình... Mối tình đầu với những cái kết khác nhau vui hay buồn mang lại những màu sắc và cảm xúc phong phú cho những tác phẩm của Nguyễn Nhật Ánh. Hiện lên trong dấu ấn khó quên là tình học trò trong sáng tươi vui, đan xen cả những nỗi buồn bâng khuâng, hoài niệm day dứt cho một mối tình dang dở. Nhưng tất cả đều sẽ là những hồi ức đẹp và đáng quý nhất trong cuộc đời. 2.5. Hồi ức tuổi thơ với những chiêm nghiệm, suy tư về con người và cuộc đời Quá khứ tưởng như đã ngủ yên, khuất lấp sau bao bề bộn của đời thường nhưng nhờ hồi ức, vụt sống dậy, sáng tỏ những gương mặt người, những kỉ niệm chôn sâu trong tâm trí. Ấu thơ và những ngày đầu vụng dại mới lớn là quãng thời gian một đi không trở lại. Hồi ức trong truyện Nguyễn Nhật Ánh như “tấm vé” đưa con người trở về sân ga tuổi nhỏ, để mỗi chuyến tàu là một cuộc ngược dòng thời gian tìm về thế giới trong trẻo, hồn nhiên. Mỗi chuyến đi không chỉ hiển lộ quá khứ với xúc cảm tuổi thơ mà còn là cuộc hành trình nhiều chiêm nghiệm, suy tư về con người và cuộc đời. 34 Hồi ức - hành trình chiêm nghiệm cái “tôi” Thời kĩ trị, nhịp sống hiện đại cuốn con người vào guồng quay bất tận với những bon chen, toan tính. Bên cạnh đó, sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin, sự phổ biển của internet, mạng xã hội khiến con người sống với “thế giới ảo” nhiều hơn, đôi khi thờ ơ, vô cảm và đánh mất cái “tôi”, lãng quên những giá trị tinh thần của cuộc sống. Quá khứ, nhất là quãng đời ấu thơ và những năm tháng vụng dại với những ước mơ, khát vọng đẹp đẽ bị khuất lấp sau những bon chen của cuộc sống thường nhật. Trong các tác phẩm, lấy điểm tựa là hồi ức, Nguyễn Nhật Ánh đã ngược dòng trở về quá khứ, kiếm tìm và chiêm nghiệm cái “tôi” của quãng đời “một đi không trở lại”. Khoảng cách thời gian với tầm nhìn văn hóa, sự từng trải của chủ thể hồi ức trong hiện tại khiến sự chiêm nghiệm, suy tư càng trở nên sâu sắc. Xuyên suốt nhiều tác phẩm là nhân vật “tôi” dù mang nhiều cái tên khác nhau như cu Mùi hồn nhiên (Cho tôi xin một vé đi tuổi thơ), Kha (Thiên thần nhỏ của tôi), Chuẩn (Trại hoa vàng) hay Ngạn (Mắt biếc), Đông (Ngồi khóc trên cây)... đều mang bóng hình tác giả. Cái “tôi” với những nét tâm lí nghịch ngợm yêu thiên nhiên, đa sầu đa cảm, có phần rụt rè trước các bạn nữ... luôn trở đi trở lại trong các trang văn, tạo nên nét “duyên” riêng biệt trong cá sáng tác của nhà văn. Hành trình chiêm nghiệm cái tôi trước hết là sự trở về với làng quê – “thiên đường đã mất” trong hồi ức. Tình yêu quê hương đất nước được thể hiện qua việc lưu giữ những nét quê truyền thống, để từ cội nguồn ấy, ươm mầm cho thế giới tình cảm phong phú của các em sau này. Cái “tôi” của tác giả vẫn luyến nhớ không nguôi đến làng quê xưa cũ. Không phải ngẫu nhiên mà nhiều câu chuyện được bắt đầu từ kì nghỉ của “tôi” khi trở về thăm quê, để rồi nảy sinh những tình cảm tốt đẹp. Quê hương là nơi ươm mầm cho tình yêu thiên nhiên và những xúc cảm rung động đầu đời. Cái tôi con người mãi thuộc về làng quê, dù có đi xa vẫn như cậu học trò rụt rè trước đời sống thị thành (Chương trong Còn chút gì để nhớ, Ngạn trong Mắt biếc...). Theo dòng hồi ức, nhân vật “tôi” hiện lên là một con người không hoàn hảo. 35 Đây cũng là đặc điểm nổi bật của các nhân vật trong truyện Nguyễn Nhật Ánh. Trước năm 1975, do hoàn cảnh xã hội đặc biệt của hai cuộc chiến tranh vệ quốc, các tác phẩm viết cho thiếu nhi thường gắn với biến cố thời đại, nặng về giáo huấn, nêu gương nên trẻ thơ thường được lí tưởng hóa, dễ bị cường điệu. Với sáng tác của Nguyễn Nhật Ánh, nhân vật bộc lộ cái “tôi” hồn nhiên, nghịch ngợm, mang nhiều ưu điểm nhưng cũng không ít hạn chế. Huy trong Bàn có năm chỗ ngồi học giỏi văn, biết giúp đỡ bạn bè nhưng cũng ương ngạnh, tự ái, gian dối khi đánh tráo cây của bạn. Trường nhạy cảm, tinh tế, giàu tình yêu thương nhưng cũng học đòi theo thói xấu của bạn bè, lừa ông ngoại bằng cách đưa ra lông mèo thay vì nhổ tóc bạc cho ông để kiếm tiền (Đi qua hoa cúc). “Tôi” – người anh vì trả thù thói mách lẻo của em gái mà đánh cắp chùm giây chun, rồi giấu cả hộp chì màu khiến Út Quyên bị điểm kém (Tôi và Út Quyên)... Con người và nhất là trẻ thơ không phải những chỉnh thể thuần nhất về tính cách mà đan xen nhiều mặt tốt – xấu trong một nhân cách đang trên bước đường tạo lập và hoàn thiện. Chúng như bước từ cuộc đời vào trang sách của Nguyễn Nhật Ánh, tốt hay xấu đều hồn nhiên trong thế giới của chính chúng. Những lỗi lầm của trẻ nhỏ được nhìn bằng cái nhìn ấm áp, bao dung đậm tình người. Trải nghiệm về những lỗi lầm khiến trẻ thơ lớn thêm lên về mặt tâm hồn. Nhân vật “tôi” - cậu bé Thiều trong Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh hiện hữu với vô vàn những lỗi lầm thơ trẻ. “Tôi” đôi khi ghen tị với thằng em nhỏ hơn chỉ vì Tường và con Mận hay chơi chung. Và “tôi” đã trả thù bằng cách để ông Năm Ve bắt con cóc Cu cậu – thú cưng của Tường.. Nhưng tình yêu thương của em trai khiến Thiều cảm thấy day dứt. Sự hối hận, ăn năn níu giữ tâm hồn nhân vật bên ranh giới của tính người, là sự khởi đầu cho hành trình “phục thiện” và thanh lọc tâm hồn. Những chiêm nghiệm về con người với sự đan xen tốt xấu trong truyện Nguyễn Nhật Ánh tạo nên một thế giới chân thực, gần gũi với đời thường. Đồng thời, nó mang giá trị giáo dục sâu sắc, không xơ cứng mà khơi gợi và đánh thức những nghĩ suy trong tâm hồn độc giả nhỏ. 36 Hồi ức – Suy tư về những số phận bất hạnh, éo le Hiện thực trong truyện Nguyễn Nhật Ánh không được tô hồng mà như từ đời thực đi vào trang văn, đôi khi vẫn lưu lại vị mặn của mồ hôi và nước mắt. Nhà văn không ngần ngại điểm xuyết những gam màu xám buồn với những mảnh đời éo le, bất hạnh vào thế giới hồn nhiên, trong sáng của các em. Hiện diện trong nhiều tác phầm là hình ảnh những đứa trẻ sinh trưởng trong hoàn cảnh gia đình khó khăn, thiếu thốn, chịu nhiều thiệt thòi (Bong bóng lên trời, Bàn có năm chỗ ngồi, Thiên thần nhỏ của tôi, Lá nằm trong lá, Còn chút gì để nhớ, Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh...). Hồi ức trong Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh tái hiện một tuổi thơ lấp lánh sắc màu dí dỏm, vui tươi nhưng cũng đầy xót xa tưởng đã chìm sâu khuất lấp vào lãng quên. Qua đó, bức tranh về kiếp sống con người được nhìn bằng lăng kính tuổi thơ như hiện hữu trước mắt. Đó là câu chuyện về gia đình nhân vật “tôi” nhọc nhằn mưu sinh, người bố phải xa gia đình, lên thành phố kiếm việc, người mẹ theo xe tải đi buôn củi, cốt chỉ để cho mâm cơm trong nhà có thêm phần thịt cho các con. Đó là tình cảnh nhà con Mận: cha nghi bị bệnh phong phải lén mọi người chữa bệnh ở trên gác, mẹ mở tiệm tạp hóa nhưng rồi căn nhà bị cháy rụi... Những kiếp đời nghèo khó, nhọc nhằn kiếm sống qua ngày len cả vào cảm nhận của lứa tuổi vốn không phải lo cơm gáo gạo tiền, vì vậy càng trở nên xót xa, trĩu nặng. Vì hoàn cảnh khó khăn của gia đình, những đứa trẻ hồn nhiên, vô tư cũng phải chịu nhiều thiệt thòi về vật chất. Tí Hoa chẳng bao giờ được cho tiền tiêu vặt nên ước mơ giản đơn về một cái bánh mì thịt cũng trở nên xa vời (Buổi sáng) hay chiếc áo vàng vào dịp tết lẽ ra may cho em nay phải nhường cho thằng em bé hơn (Bướm vàng bướm đỏ). Không chỉ về vật chất, các em còn chịu nhiều thiệt thòi về tinh thần, nhất là những đứa trẻ thôn quê. Với chị em Út Thêm và Du, trường học là một ước mơ xa vời. Mùa hè có những bông hoa phượng học trò thật xa lạ. Với chúng, “đó chỉ là mùa nắng cháy trên những cánh đồng khô nẻ chân chim”. Nỗi lo về cuộc sống mưu sinh đôi khi trực tiếp đè nặng lên vai tuổi nhỏ. Các em phải trang trải, phụ giúp gia đình như Hiền (Bàn có năm chỗ ngồi), Lợi (Lá nằm trong lá), Tài Khôn, Thường (Bong bóng lên trời) hay tự lập nuôi sống bản 37 thân như Chương (Còn chút gì để nhớ)... Nhân vật đặt trong trong những trải nghiệm, va chạm với cuộc đời. Nỗi nhọc nhằn mưu sinh để lại dấu ấn đậm sâu với nhân vật, tạo nên những cảm thức buồn về thân phận trẻ thơ. Trang sách khép lại, nhưng dư âm của nỗi buồn về số phận một con người thì vẫn vang vọng. Viết cho thiếu nhi, Nguyễn Nhật Ánh không né tránh hiện thực để tô hồng cuộc đời mà giúp các em có cái nhìn chân thực hơn về cuộc sống từ nhiều góc độ khác nhau thông qua những mảnh đời éo le, vất vả. Ngòi bút trĩu nặng yêu thương của nhà văn giúp độc giả đến gần hơn với những góc khuất của cuộc sống, nơi ánh sáng hạnh phúc chưa chiếu rọi đến những số phận ngây thơ, vô tội. Quan trọng hơn, nhà văn không từ những nỗi bất hạnh của trẻ thơ làm sáng lên vẻ đẹp tâm hồn của nhân vật. Những đứa trẻ dù khó khăn đến đâu vẫn không đánh mất nhân cách, tâm hồn sáng trong và tấm lòng nhân ái. Triết lí sống vì nhau trở thành chìa khóa tâm hồn giúp con người đến với nhau, vượt trên nỗi gian khổ để sống, tin tưởng, không thôi hi vọng vào tương lai. Và Bong bóng lên trời, Thiên thần nhỏ của tôi, Lá nằm trong lá, Ngồi khóc trên cây, Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh... đã trở thành những câu chuyện về tình bạn, tình anh em... với nhiều cung bậc, sắc thái mà ở cung bậc nào cũng khiến độc giả ấm lòng. Và trên tất cả, đó là bài ca về TÌNH NGƯỜI, về niềm tin vào nội lực của con người mang đạm tính nhân văn. * * * Lấy điểm tựa là hồi ức để ngược dòng về quá khứ, Nguyễn Nhật Ánh đã tạo dựng một thế giới đa thanh với nhiều cung bậc tình cảm. Đó có thể là thế giới nghịch ngợm, hồn nhiên, trong trẻo qua những trò chơi tuổi nhỏ nhưng cũng đong đầy khát vọng và yêu thương. Đó còn là thế giới giao thời của tuổi ấu thơ và trưởng thành với sự lỡ nhịp của trái tim lần đầu yêu. Những thước phim quay chậm về quá khứ không chỉ là sự đắm say trong những rung cảm, khoảnh khắc của tuổi thơ mà còn lắng sâu những nghĩ suy về con người, cuộc sống. Nó đồng thời là cuộc hành trình chiêm nghiệm cái “tôi” từ sự gián cách về thời gian bằng đôi mắt của người trưởng thành trải qua những thăng trầm của cuộc sống. Tất cả tổng hòa trong tính nhân văn sâu sắc của một trái tim hết lòng vì con trẻ. 38 Chương 3 NGHỆ THUẬT THỂ HIỆN HỒI ỨC TUỔI THƠ TRONG SÁNG TÁC CHO THIẾU NHI CỦA NGUYỄN NHẬT ÁNH 3.1. Điểm nhìn trần thuật Trong tác phẩm nghệ thuật, điểm nhìn đóng vai trò quan trọng trong việc thể hiện quan điểm riêng của nhà văn về thế giới. Điểm nhìn “thể hiện vị trí người kể dựa vào để quan sát, cảm nhận, trần thuật, đánh giá các nhân vật và sự kiện” [21;104]. Nó biểu hiện “sự chú ý, quan tâm và đặc điểm của chủ thể trong việc tạo ra cái nhìn nghệ thuật”. Mỗi nhà văn thường chọn cho mình một góc nhìn khác nhau để thể hiện ý đồ nghệ thuật riêng. Do đó, điểm nhìn còn góp phần “đem lại cho người thưởng thức một cái nhìn mới đối với cuộc sống” [21;113]. Nguyễn Nhật Ánh chọn nhiều điểm nhìn linh hoạt: điểm nhìn trẻ thơ, điểm nhìn người lớn và sự dung hòa hai điểm nhìn trong nhiều sáng tác làm lăng kính để quan sát, để kể lại những câu chuyện tuổi thơ và tuổi mới lớn. Sự kết hợp nhiều điểm nhìn giúp nhà văn có thể đặt một lăng kính vạn hoa quan sát thế giới thú vị và đầy màu sắc. 3.1.1. Hồi ức qua điểm nhìn trẻ thơ Trẻ thơ luôn gắn với những gì hồn nhiên và trong sáng nhất. Mọi sự việc được nhìn qua đôi mắt vô nhiễm ấy đều trở nên lung linh, diệu kì. Điểm nhìn trẻ thơ được các nhà văn sử dụng với những ý đồ nghệ thuật riêng. Với điểm nhìn này, Nguyễn Nhật Ánh đã thực sự thu mình nhỏ lại để làm bạn với các em, kể cho các em nghe những câu chuyện được xây nên nhờ chất liệu kí ức và hoài nhớ. Trẻ thơ nhìn thế giới của chúng ta – thế giới người lớn bằng góc nhìn riêng của chúng. Và cũng vì thế, trẻ em tạo nên thế giới khác biệt mà chỉ chúng mới có thể hiểu và lí giải được. Nhóm bạn cu Mùi, Hải cò, Tủn, Tí sún trong Cho tôi xin một vé đi tuổi thơ chỉ nhìn thấy sự đơn điệu, tẻ nhạt ở thế giới ba mẹ bắt chúng sống với những việc làm lặp lại chán ngắt mà người lớn gọi là sự "ổn định". Chúng tìm cách làm cho thế giới ấy thú vị hơn với những lập luận dí dỏm và hồn nhiên, trong cách chúng đặt lại tên cho thế giới, trong cách chúng đóng vai ba mẹ. 39 Người kể chuyện đã lí giải về sự khác biệt giữa trẻ con và người lớn: "Chẳng qua so với người lớn, trẻ con sống trong một bầu khí quyển khác và dưới một thứ ánh sáng khác. Ở đó, bọn trẻ tiếp cận thế giới theo cách của chúng,.." (Chương 1). Chỉ có thể qua cái nhìn trẻ thơ, nhà văn mới có thể hiểu thấu được những hành động trẻ thơ một cách hài hước đến thế. Và dẫu có những việc đáng trách như cuộc tìm kiếm kho báu làm chết vườn cây của ba Hải cò thì người đọc vẫn thấy một cái nhìn bao dung, cảm thông với sự dại khờ tuổi nhỏ. Điểm nhìn trẻ thơ tuy không phải là sự lựa chọn hoàn toàn mới mẻ nhưng vẫn đem lại những hiệu quả đặc biệt đối với truyện Nguyễn Nhật Ánh, tạo nên hiệu ứng tích cực đối với độc giả nhí. Tuổi thơ hồn nhiên được hiện lên rõ ràng từ chất liệu của kí ức. Từ góc nhìn trẻ thơ, chất dí dỏm, tinh nghịch được bộc lộ một cách tự nhiên. Nó tạo nên điệu chung của tác phẩm, trong đó vị trí cảm nhận cuộc sống đóng vai trò quan trọng chinh phục trái tim độc giả. Thế giới tuổi thơ hiện ra đa sắc qua cái nhìn “non xanh” thơ trẻ. Đó là khung cảnh tuyệt đẹp nơi chúng tự do làm bạn cùng muông thú, nơi muôn vật vui đùa mà không lo sập bẫy của thợ săn (Ngồi khóc trên cây). Đó là tuổi thơ với bao trò chơi lí thú từ bắn bi, đào hầm trong Cô gái đến từ hôm qua, nhặt nắp keng đổi kẹo trong Ngồi khóc trên cây... Ngay cả những trò chơi xấu cũng được miêu tả, lí giải và nhìn nhận từ góc nhìn trẻ thơ. "Đánh lộn" là trò chơi khiến bọn trẻ gặp nhiều thương tích. Dưới sự lí giải của trẻ thơ, nhân vật tôi trong những trò chơi đánh lộn ấy, có khi là người "anh hùng" bảo vệ cho kẻ yếu, có khi chiến đấu vì các bạn hữu. Bởi thế, trong Cho tôi xin một vé đi tuổi thơ, bọn trẻ khi chơi trò đóng vai ba mẹ đã coi đánh lộn như một điều hiển nhiên chúng phải làm trong cuộc sống của mình (Chương hai: Ba mẹ tuyệt vời). Chất dí dỏm, hồn nhiên của trẻ thơ không chỉ hiển lộ qua trò chơi tinh nghịch mà còn ở những tình huống hài hước. Chẳng hạn, cậu bé Trường trong Đi qua hoa cúc gặp tình huống dở khóc dở cười vì tật tè dầm khi đã mười ba tuổi. Ngạn trong Mắt biếc đã từng ước mình chết như chú Hoan để cả nhà phải khóc thương và ba phải day dứt vì đã đánh đòn cậu. Nhưng chú sẽ chỉ chết có năm hôm thôi rồi sống lại, và sẽ tỏ ra giận dỗi với ba. Những suy nghĩ vừa đáng yêu vừa đáng trách ấy chỉ có thể được cảm nhận đầy đủ, sâu sắc thông qua điểm nhìn trẻ thơ. 40 Hồi ức qua điểm nhìn trẻ thơ hiện lên một cách sống động với tất cả những ngây dại, hồn nhiên tuổi nhỏ. Thế giới được vẽ nên từ góc nhìn của một người kể chuyện thu mình nhỏ lại, lí giải mọi vật bằng đôi mắt trẻ thơ. Thành công của truyện Nguyễn Nhật Ánh viết cho thiếu nhi một phần là bởi điểm nhìn trẻ thơ được sử dụng một cách hợp lí và hiệu quả. 3.1.2. Hồi ức qua điểm nhìn người lớn Trong truyện Nguyễn Nhật Ánh, có thể bắt gặp những triết lí sâu sắc trong những câu chuyện của trẻ thơ và dành cho trẻ thơ. Các tác phẩm của ông mang hình ảnh một người lớn ngoái nhìn lại quá khứ. Đôi khi khó có thể phân biệt một cách rạch ròi truyện viết cho thiếu nhi hay người lớn (Cho tôi xin một vé đi tuổi thơ). Truyện của Nguyễn Nhật Ánh thu hút được cả độc giả lớn tuổi, và những bài học được rút ra dường như không phải chỉ để dành cho tuổi nhỏ. Xuất phát từ cơ chế của sự hồi tưởng, người kể chuyện có xu hướng kéo dần quá khứ trở về hiện tại. Truyện thường xuất hiện những lời bình giá, nhận xét sự việc trong quá khứ. Người kể chuyện nhận xét trong tâm thế của người biết trước kết quả và có tầm vốn sống lớn hơn nhân vật. Chẳng hạn, việc đánh giá một cách hài hước về thái độ của người lớn đối với con trẻ: "Ba mẹ chúng ta hồi đó (chúng ta bây giờ đôi khi cũng vậy), thường tìm cách lảng sang chuyện khác hoặc không nhịn được mà nổi khùng lên với đám con cái chẳng qua là vì họ tự giận mình không giỏi giang như các nhà khoa học đó thôi" (Chương ba, Cho tôi xin một vé đi tuổi thơ). Quá khứ được đánh giá và lí giải một cách thấu đáo từ cái nhìn của hiện tại. Đan cài tron.... Sự lặp lại của hiện tượng và sự vật tạo nên sự chững lại của thời gian. Nhưng ở các chương tiếp theo, với những trò chơi lí thú cùng nỗ lực đổi thay thế giới, cảm thức về thời gian phụ thuộc vào niềm vui của nhóm bạn. Ba ngày chơi trò làm ba mẹ trôi qua nhanh chóng "niềm vui ngắn chẳng tày gang", hay kéo dài lê thê như thể "xưa nay một năm có tới bốn mùa đông". Ý niệm về thời gian với tuổi nhỏ được cảm nhận bằng tâm trạng vui buồn. Thời gian được hiện diện trong nhiều truyện kể như một lát cắt trong dòng thời gian tuyến tính và được cảm nhận căng kéo tự do theo chủ quan của người kể chuyện. Đây cũng là sự phù hợp với cơ chế tâm lí linh hoạt của sự hồi tưởng. Song dù được kể với cách thức nào, nhà văn đã tạo dựng được quãng thời gian hồi ức khó quên với nhân vật và lôi cuốn người kể chuyện. Sự chi phối của dòng hồi tưởng nhân vật khiến thời gian trở nên linh hoạt, quá khứ và hiện tại đan xen. Ở Mắt biếc, khi nhắc tới ấn tượng về sạp tạp hóa lung linh sắc màu, nhân vật tôi lồng ghép cái nhìn của thì hiện tại: “Ấn tượng đó sâu sắc đến nỗi mãi đến tận bây giờ, khi tôi đã bước qua tuổi ba mươi, cứ mỗi lần đi ngang qua một quầy tạp hóa bất chợt nào, tôi không kiềm chế được ý định dừng chân lại và dán mắt vào tủ kiếng với nỗi xao xuyến lạ lùng” [chương 1]. Ngạn vẫn còn nhớ lần duy nhất cậu và bà nói chuyện nghiêm túc như người bạn 52 lớn về tương lai của Hà Lan: "Đến bây giờ mỗi khi nhớ lại tôi vẫn không cắt nghĩa được tại sao tôi lại với bà tôi những lời như vậy và tại sao bà tôi cũng lại nói với tôi những lời như vậy" (chương bốn). Những lần người kể chuyện ngưng lại câu chuyện hiện tại để xen vào đó cái nhìn của "tôi" thực tại với những day dứt, băn khoăn. Trong thời gian song hành quá khứ - thực tại, chuỗi thời gian quá khứ và thực tại liên tục đan quyện, gặp gỡ, tạo thành những chuỗi thời gian gắn kết. Quá khứ là nguyên cớ trực tiếp ảnh hưởng đến thực tại và có vai trò to lớn đối với số phận của nhân vật. Cô gái đến từ hôm qua là sự đan cài rõ nét giữa hai dòng chảy quá khứ - thực tại. Quá khứ là tuổi thơ của nhân vật tôi – người kể chuyện và tình bạn cùng Tiểu Li, hiện tại là cuộc theo đuổi cô bạn Việt An đầy thử thách. Mạch kể xuyên suốt của tác phẩm là sự so sánh giữa "tôi" "oai hùng" trong quá khứ, và "tôi" bi thảm trong thực tại. Cuộc theo đuổi Việt An càng khó khăn, nhân vật tôi càng nuối tiếc về quá khứ. Hai mạch thời gian quá khứ và hiện tại được kể đan cài nhau tạo nên thế đối sánh. Chuỗi suy tưởng trong thế đối nghịch, phân thành hai mạch kể rõ rệt, một bên là bao niềm vui và bên kia là bao sầu não: "Phải nói hồi nhỏ tôi có "uy" với con gái ghê gớm" và "Lớn lên, mọi chuyện đâm ra khác hẳn". Hai dòng chảy thời gian song hành đã gặp gỡ trong kết thúc. Cô bé Tiểu Li của thuở ấu thơ là Việt An của hôm nay. Nhà văn đã khéo léo xếp đặt hai mạch thời gian cho cuộc gặp gỡ đầy hữu ý của quá khứ - thực tại. Trong thời gian song hành quá khứ - thực tại, việc đan cài là sự khẳng định gắn kết giữa quá khứ và hiện tại trong một dòng chảy, cũng như mức độ ảnh hưởng của quá khứ đối với nhân vật trong thực tại. Quá khứ được đánh thức bởi sự hồi tưởng, đôi khi lại đem đến những sự gặp gỡ diệu kì. Hoài niệm là một phần của quá khứ, song vẫn là một phần của cuộc sống hiện tại. Các kiểu thời gian trong truyện của Nguyễn Nhật Ánh được biểu hiện với nhiều dạng thức: từ thời gian quá khứ tuyến tính, cho tới đan cài thời gian quá khứ - hiện tại. Sự linh hoạt trong các kết hợp các dạng thức thời gian nhằm mục đích biểu đạt những dụng ý riêng của nhà văn. Thời gian được sử dụng đan xen, khiến cho quá khứ, hiện tại gắn kết và không còn là những dạng thể tách biệt. 53 Thời gian nghệ thuật ấy góp phần thể hiện không gian hồi ức tuổi thơ một cách đậm nét, nối kết hồi ức và hiện tại, tạo nên sự gắn bó giữa nhân vật trong dòng thời gian. Không – thời gian thấm đẫm kỉ niệm xưa cũ giữ vị trí chính yếu trong truyện Nguyễn Nhật Ánh. Cặp không – thời gian này tạo nên hình thức tồn tại của thế giới nghệ thuật, đồng thời khơi mở những kí ức, đưa nhân vật ngược dòng quá khứ trở về “miền xanh thẳm” để tìm lại những giá trị tốt đẹp của thời thơ ấu một đi không trở lại. 3.3. Ngôn ngữ và giọng điệu 3.3.1. Ngôn ngữ Ngôn ngữ là chất liệu, là phương tiện biểu hiện mang tính đặc trưng của văn học. Không có ngôn ngữ thì không có tác phẩm văn học. Ngôn ngữ là yếu tố đầu tiên mà nhà văn sử dụng trong quá trình chuẩn bị và sáng tạo tác phẩm, nó cũng là yếu tố xuất hiện đầu tiên trong sự tiếp xúc của người đọc với tác phẩm. Cũng chính vì thế, M.Gorki đã từng viết: “Yếu tố đầu tiên của văn học là ngôn ngữ, công cụ chủ yếu của nó và cùng với các sự kiện, các hiện tượng của cuộc sống là chất liệu của văn học”. 3.3.1.1. Ngôn ngữ trẻ thơ trong sáng, giản dị Ngôn ngữ truyện kể đã tạo nên sức hút của truyện Nguyễn Nhất Ánh. Trong truyện Nguyễn Nhật Ánh, sắc màu trẻ thơ thể hiện ngay ở nhan đề, ở cách nhà văn đặt tên các chương mục. Trong Cho tôi xin một vé đi tuổi thơ, tên 12 chương truyện thật gợi, đủ để làm thành thế giới tuổi thơ: Tóm lại là đã hết một ngày; Bố mẹ tuyệt vời; Đặt tên cho thế giới; Buồn ơi là sầu; Khi người ta lớn; Tôi là thằng cu Mùi; Tôi ngoan trong bao lâu?; Chúng tôi trở thành lũ giết người như thế nào?; Ai có biết bây giờ là mấy giờ rồi không?; Và tôi đã chìm; Trang trại chó hoang; Cuối cùng là Chuyến tàu không có người soát vé Nhưng đấy mới chỉ là bề mặt văn bản, cái hồn của truyện Nguyễn Nhật Ánh nằm ở cái nhìn trẻ thơ của tác giả. Hay nói cách khác, Nguyễn Nhật Ánh nhìn mọi chuyện bằng nụ cười trẻ thơ. Đó là trường nhìn thuận lợi để nhà văn khơi sâu vào tâm lí tuổi thơ với những trạng thái cảm xúc “cắc cớ” (nhất là lứa tuổi 54 mới lớn). Dù kể chuyện từ ngôi thứ ba khách quan, trung tính (Thằng quỷ nhỏ, Bồ câu không đưa thư, Trước vòng chung kết) hay hóa thân thành một cậu bé, cô bé “tuổi teen” để “nhìn ngắm” thế giới (Chú bé rắc rối, Trại hoa vàng, Bàn có năm chỗ ngồi, Đi qua hoa cúc), ngôn ngữ của người kể chuyện trong truyện Nguyễn Nhật Ánh luôn tường thuật chi tiết sự việc, sự kiện từ cái nhìn của thiếu nhi/thiếu niên. Trong Cho tôi xin một vé đi tuổi thơ, bằng việc di chuyển điểm nhìn từ cái tôi tác giả - người kể chuyện ở hiện tại, về cái tôi – cu Mùi tám tuổi những ngày thơ ấu, Nguyễn Nhật Ánh đã làm một phép liên tưởng bất ngờ, thú vị. Nhà văn đã tạo nên một vùng thẩm mỹ - thế giới thật sự của thiếu nhi - trong những tác phẩm của ông. Đó là gia đình, trường lớp, làng quê; là những giấc mơ tuổi nhỏ, là những miền tưởng tượng ngay trong thế giới quen thuộc xung quanh nhưng chỉ riêng trẻ nhỏ mới “thấy” (Đảo mộng mơ; Chuyện xứ Lang Biang) Được kể, tả qua ngôn ngữ tự sự từ cái nhìn thơ trẻ, không gian trong truyện Nguyễn Nhật Ánh vừa thơ mộng vừa ngộ nghĩnh, và là cả một thế giới lộng lẫy và bí ẩn. Trong nhiều tác phẩm ngôn ngữ truyện kể là thứ ngôn ngữ của trẻ con, mà “đối với người lớn thì ngôn ngữ trẻ con cũng giống như một thứ ngoại ngữ”. Các chú chó Binô và Bêtô trong Tôi à Bêtô đã tìm cách cắt nghĩa cách nói lạ lùng của cô bé Ni: “Mẹ ơi, con nhức đầu”. (có nghĩa) Mẹ ơi, con muốn nghỉ học sáng nay; Mẹ ơi, hôm nay tháng mấy rồi? (có nghĩa) Mẹ ơi, sắp đến sinh nhật con rồi ; Mẹ ơi, ngày mai trời có mưa không hở mẹ? (có nghĩa) Mẹ ơi, mai mẹ dẫn con đi siêu thị nha mẹ. Nguyễn Nhật Ánh hiểu và kể chuyện bằng thứ ngoại ngữ dành cho người lớn ấy nên hiển nhiên truyện Nguyễn Nhật Ánh là tiếng nói của thiếu nhi. Cũng chỉ Nguyễn Nhật Ánh mới “bênh vực” cho những hành động ngược đời, ngổ ngáo, trở chứng của trẻ (như ăn cơm trong thau, uống nước bằng chai, gọi cái nón là cuốn tập, tivi là quạt máy, đi ngủ là đi chợ hay tìm kho báu trong vườn nhà) và xem nó như là “những cuộc cách tân táo bạo” hay những “sáng tạo” gắn liền với tâm lí, óc tưởng tượng phong phú và nhu cầu làm cho cuộc sống của trẻ thú vị, mới mẻ hơn (Cho tôi xin một vé đi tuổi thơ). Có thể nói, truyện Nguyễn Nhật Ánh là những câu chuyện không hề xa lạ, 55 khó hiểu. Truyện Nguyễn Nhật Ánh thu hút tất cả mọi người một phần do “ngôn ngữ trẻ thơ” tươi tắn đó. 3.3.1.2. Ngôn ngữ trữ tình, đậm chất thơ Bên cạnh ngôn ngữ trẻ thơ trong sáng, giản dị là ngôn ngữ trữ tình đậm chất thơ, nhà văn sử dụng ngôn ngữ giàu hình ảnh, cảm xúc ở những đoạn văn tả cảnh hay tả tâm trạng, có tác dụng dẫn dắt các sự kiện một cách logic, tăng sự hấp dẫn của truyện, tái hiện và lắng đọng những hồi ức. Truyện dài Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh viết về “tuổi thơ nghèo khó của trẻ ở một làng quê” thông qua cách kể của Thiều xưng “tôi” trong tác phẩm. Truyện được bắt đầu từ chuyện xem hoa tay.Với cách lựa chọn nhân vật người kể chuyện như vậy, nhà văn đã khai thác thứ ngôn ngữ hồn nhiên, trong trẻo của trẻ thơ. Bằng những lời văn nhẹ nhàng, giàu chất trữ tình, nhà văn đã đưa độc giả của mình đến gần hơn với tuổi thơ đã đi vào hồi ức. Mở đầu tác phẩm với hai câu thơ: “Ngồi im trong gió nghe đêm rớt Chợt thấy hoa vàng trên cỏ xanh” Có thể thấy một điều rằng: Nguyễn Nhật Ánh thật nhẹ nhàng và sâu lắng khi đưa ngòi bút của mình đi dưới những màu xanh của lá, màu vàng của hoa...Tâm hồn chúng ta không khỏi bâng khuâng khi đọc những câu văn khắchọa tình cảm trong sáng của lứa tuổi học trò mà Thiều dành cho Mận: Khi trả lời tôi, gương mặt con Mận rạng lên như thể đang tắm trong nắng mai khiến tôi không thể nào rời mắt nhìn đi nơi khác ... Hay những câu thơ chứa đầy niềm tin và hi vọng vào tình yêu và tương lai của nhân vật “tôi” dành cho cô bé Rùa trong Ngồi khóc trên cây: “Ở trong xa cách Một đôi vai gầy Ở trong tan vỡ Nụ cười thơ ngây” 56 Chất trữ tình và chất thơ cũng xuất hiện nhiều trong các đoạn văn miêu tả cảnh thiên nhiên: “Khói lên nghi ngút khiến màn sương buổi sớm chưa kịp tan đã trở nên dày đặc. Trên ngọn hải đường lập lòe hoa đỏ sát hàng rào nhà nhỏ Thảo, lũ chim sẻ chí chách gọi nhau hệt một bọn trẻ lắm mồm.Tôi hít một hơi đầy lồng ngực và đưa mắt ngắm khoảnh vườn của mình với vẻ trìu mến. Bên cạnh những đóa đồng tiền rực rỡ như những ngọn pháo bông, những bông cẩm chướng e ấp một nét đẹp thùy mị, dịu dàng là những đoá hồng xinh tươi và quí phái . Những cụm hoa chen nhau chiếm gần trọn nửa khoảnh vườn”[31;1]. Đoạn văn cho thấy những cảm nhận tinh tế về thiên nhiên chỉ có ở nhân vật “tôi” trong Trại hoa vàng, thể hiện tình yêu thiên nhiên cùng với một tâm hồn nhạy cảm, phong phú ở một chàng trai đa sầu đa cảm. Ngôn ngữ tự sự của Nguyễn Nhật Ánh vừa giản dị, trong sáng, vừa trữ tình, giàu chất thơ không chỉ phù hợp với các em thiếu nhi mà còn làm cho những người “đã từng là thiếu nhi” được lắng đọng, được sống lại hồi ức về thế giới vi diệu của trẻ thơ và tìm lại những dấu ấn khó phai trong tuổi mới lớn. 3.3.2. Giọng điệu Trong cuộc sống hàng ngày, giọng điệu được hiểu như lời nói, giọng nói của mỗi cá nhân con người, phản ánh thái độ, tư tưởng, tình cảm, cách đánh giá nhất định và nó thường mang tính nhất thời. Còn trong văn học, giọng điệu là một phạm trù thẩm mĩ, có vai trò rất lớn trong việc tạo nên phong cách nhà văn. Đồng thời được tổ chức công phu và là kết quả của một quá trình sáng tạo thực sự giúp cho nhà văn khi sáng tác có thể liên kết các yếu tố hình thức lẫn nhau làm cho chúng cùng mang một âm hưởng nào đó, cùng chung một khuynh hướng nhất định. 3.3.2.1. Giọng điệu hài hước, tinh nghịch, hóm hỉnh Đọc những tác phẩm của Nguyễn Nhật Ánh ta thấy mặt mạnh trong giọng điệu của nhà văn, đó là giọng điệu hài hước, hóm hỉnh.Chính những trang văn của Nguyễn Nhật Ánh đã đã đem đến cho độc giả nhiều tiếng cười sảng khoái. Để tạo nên giọng điệu hóm hỉnh, tinh nghịch, tác giả đã xây dựng dày đặc những chi tiết hài hước. 57 Chính giọng điệu hài hước này đã gây hứng thú, tiếng cười cho người đọc.Chúng ta sẽ xa rời những toan tính, vụ lợi để trở về với tiếng cười trong trẻo của tuổi thơ. Đó là lý do vì sao bộ truyện dài Kính vạn hoa của ông có sức hấp dẫn đến vậy. Những chi tiết hài trong truyện gây ra tiếng cười đủ mọi cung bậc. Có khi là tiếng cười rúc rích như những chuyện tiếu lâm lẫn bài học của Tiểu Long: “Hình bình hành lúc nào cũng nghiêng nghiêng một bên như người vẹo cột sống, còn hình thang thì nằm chẹp bẹp, đầu nhỏ, đít to” [34;2]; có khi là nụ cười thú vị trước những câu nói dí dỏm của cậu học trò thông minh Quý ròm hoặc tiếng cười sảng khoái khi các cậu nhóc phát hiện ra một cái gì đó ngồ ngộ (chẳng hạn: Văn Châu không phải là con trai mà là con gái, Thùy Vân có biểu hiện “tí tách” vì hồi nhỏ thường hay đái dầm,...) Những chi tiết này cứ xuất hiện một cách bất ngờ, như những móc xích xâu chuỗi câu chuyện lại với nhau, làm cho mỗi trang sách thêm phần mới lạ, người đọc không cảm thấy nhàm chán. Hay nhân vật Tiểu Long tính tình hiền lành, nhường nhịn, điềm đạm, trái ngược hẳn với tính cách nóng như lửa của ông bạn ròm, nhưng lại khá cù lần nên thường bị Quý ròm át giọng và chỉ huy. Tuy cù lần nhưng đôi khi nhờ phương châm "chậm mà chắc", lại giúp cả bọn giải quyết vấn đề. Nối tiếp Kính vạn hoa, Chuyện xứ Lang Biang của ông lại tiếp tục chinh phục hàng triệu thiếu nhi Việt Nam đang đứng trước cơn bão mang tên Harry potter lúc bấy giờ. Sự hài hước diễn ra trong môi trường lớp học, trong những bài học về cách sử dụng thần chú, trong những giờ học thực hành cho phép biến hình. Ví như Kan Tô biến chiếc ghế của thầy Hailixiro đang ngồi thành quả mít: “Trong khi quả mít bị đè dẹp lép, múi mít xì tứ phía còn hột mít văng tùm lum, thì thầy Hailixiro nhảy tưng tưng vì bị mớ gai nhọn chích vô mông. Trông thầy lúc này y chang một con voi đang khiêu vũ”. Ở Tôi à Bêtô, tính chất dễ thương, dí dỏm được bộc lộ qua giọng điệu của một chú cún. Nhân vật tôi - Bêtô tự nói về cuộc đời của mình với sự thú vị khi được kết bạn với thằng Laica ra sao, sức cuốn hút mà thằng Bino đem đến cho cậu như thế nào, sự ân cần, yêu thương của chị Ni và bố mẹ chị Ni dành cho chú 58 ta nhiều đến đâu, và những trò kì quái mà Bêtô đã làm để khiến cuộc sống của mình bớt tẻ nhạt đi.Ngay cả cách Bêtô tự khoe về thành tích phá phách của mình cũng đậm chất hài hước: “Tôi đã phá hỏng rất nhiều thứ: Giầy dép, sách vở, những đôi vớ. Và cả những chiếc đồng hồ. À, sẽ không thừa nếu tôi bổ sung thêm vào bảng liệt kê đầy ấn tượng của mình thành tích mới nhất: Mới hôm qua đây thôi, tôi đã kịp biến chiếc điện thoại cầm tay của bà chị Ni thành một thứ thích hợp nằm trong thùng rác” [41;4]. Điều quan trọng ở đây là, truyện kể bằng giọng điệu của một chú cún nhưng thực chất là nhà văn đang cố nhìn, hiểu và cảm nhận bằng chính tâm hồn cùng những suy nghĩ của những cô bé, cậu bé. Giọng điệu nổi bật trong tác phẩm Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh là giọng hồn nhiên, hóm hỉnh. Có thể nhận thấy rằng, chính giọng điệu hồn nhiên, hóm hỉnh, hài hước đã giúp tác giả thể hiện được một cách sinh động thế giới xung quanh các em, để từ đó khắc chạm những bức tranh cuộc sống lung linh, sáng trong trong tâm hồn trẻ nhỏ : “Tôi len lén ngồi vào chỗ, không dám nhìn con Xin. Nhưng qua khóe mắt tôi vẫn hồi hộp theo dõi nó và gần như nín thở khi thấy nó sè sẹ mở phong bì rút lá thư ra đọc. Tất nhiên tôi không biết được con Xin nó làm gì...” [40;32]. Với một giọng kể chân chất hồn hậu, khi dí dỏm khi ngọt ngào, cả tếu táo và nghịch ngợm nữa, mỗi cuốn sách của Nguyễn Nhật Ánh giống như một ống kính vạn hoa. Với các em, chỉ cần xoay khẽ một chút các em sẽ thấy biết bao quen thân và lạ lẫm để rồi ngồi cười khúc khích với nhau, hoặc lặng đi, nhìn nhau rưng rưng tiếc thương một cái gì đã mất. Còn với người lớn, mỗi lần xoay khẽ kính vạn hoa kia, cả tuổi thơ lộng lẫy và đau đớn tưởng đã chìm sâu khuất lấp vào lãng quên bỗng rực lên trước mắt làm cho người ta lắm khi khó cầm được nước mắt. "Ðược tắm mình trong dòng sông trong trẻo của tuổi thơ sẽ giúp bạn gột rửa những bụi bặm của thế giới người lớn một cách diệu kì ", Nguyễn Nhật Ánh đã nói vậy và ông đã đúng. 3.3.2.2. Giọng điệu triết lý, chiêm nghiệm và suy tư Trong văn học nói chung và văn xuôi nói riêng, giọng triết lý, chiêm nghiêm thường xuất hiện ở những nhà văn “ưa” suy tư, trăn trở với đời. Những nhà văn 59 có nhiều trải nghiệm trong cuộc sống luôn muốn khái quát quy luật cuộc đời và văn chương qua những chiêm nghiệm. Nguyễn Nhật Ánh là một trường hợp đặc biệt. Ông thuộc thế hệ nhà văn trưởng thành sau năm 1975 chỉ chuyên viết về thiếu nhi nhưng văn phong của ông đậm đà những cung bậc cảm xúc. Không dừng lại ở tiếng cười tinh nghịch, dí dỏm, truyện của Nguyễn Nhật Ánh còn đem đến cho ta những khoảng lặng đáng quý toát ra từ giọng điệu triết lý hồn nhiên của trẻ thơ. Trong truyện Cho tôi xin một vé đi tuổi thơ, nhà văn hóa thân vào hai vai: một người lớn đang nhìn về quá khứ, kể về câu chuyện thuở thiếu thời của mình và một đứa trẻ tự do thích làm việc theo ý mình. Cu Mùi – nhân vật chính trong truyện luôn quan sát, phân tích cuộc sống xung quanh, đôi khi đưa ra những triết lý sắc bén về các quan hệ xã hội, về các khái niệm đối nghịch như con ngoan - con hư, sự đơn điệu - sự ổn định, sự êm đềm - vô vị, sự giống nhau - khác nhau... Với đặc tính này cu Mùi xuất hiện rất đặc biệt thông qua một cảm giác, một nhận xét về cuộc đời: “cuộc sống thật là buồn chán và tẻ nhạt” [32;10]. Mùi từng có suy nghĩ trong kinh nghiệm khi ngồi bàn cuối: Trong lớp tôi luôn ngồi bàn chót. Ngồi bàn chót thì tha hồ tán gẫu, cãi cọ, cấu véo hay giở đủ trò nghịch ngợm mà không sợ cô giáo phát hiện. Nhưng điều hấp dẫn ở vị trí tối tăm đó là ít khi bị kêu lên bảng. Trong quá trình cải cách thế giới cũ kĩ, già nua của những đứa trẻ, chúng nhận ra những triết lý hồn nhiên nhưng không kém phần sâu sắc. Thằng cu Mùi giải thích vì sao nó lại thích ngồi bàn chót theo một quy luật rõ ràng là “bộ nhớ của chúng ta quá nhỏ để chứa cùng lúc nhiều khuôn mặt hay nhiều tên” nên cô giáo không thể nhớ tới và kêu cu Mùi lên bảng trả bài nếu cô không vô tình gặp mặt nó. Cũng như cái cách nó nói về giờ ra chơi: “có nghĩa là những lời vàng ngọc của thầy cô tuột khỏi trí nhớ nhanh như gió, hết sức trơn tru”. Còn trên thế giới này, “có lẽ có rất nhiều đứa nhỏ trạc tuổi tôi đều bị các bậc phụ huynh cột chặt vào giấc ngủ trưa theo cách người ta cột bò vào cọc”. Trong tâm trí đứa trẻ tám tuổi - dĩ nhiên chưa có những triết lý như người lớn - cu Mùi cũng đã lờ mờ nhận ra “khi ba tôi đi ngủ thì buộc lòng phải đi ngủ, giống như một con cừu còn thức thì người chăn cừu không yên tâm chợp mắt được”. Sự 60 kiểm soát này làm đứa con cảm thấy “cuộc sống đối với tôi thật là đơn điệu, nếu sự lặp đi lặp lại là biểu hiện chính xác và rõ rệt nhất của sự đơn điệu”. Đọc Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh (Chương 13), thì việc đan xen giữa giọng điệu hội thoại là giọng suy tư và sâu lắng là khá rõ nét. Chú Đàn coi việc chuyển thư của người con trai đến người con gái là "làm chim xanh". Chú khen Tường "Con là con chim xanh giỏi nhất thế gian" lời khen của chú làm thằng nhóc sướng rên.Nhưng con chim xanh giỏi nhất thế gian đó cũng có ngày gặp nạn. Tường đã khóc khi không làm tròn nhiệm vụ, “có thể nó cũng muốn ngưng lại nhưng không được. Con người ta khóc cũng giống như trời mưa. Chỉ khi nào hết nước thì trời mới thôi mưa và chúng ta mới thôi khóc”. Sức hút của văn chương Nguyễn Nhật Ánh trước hết là triết lý sống vì nhau xuyên suốt trong tác phẩm của anh, với các em nó là bài học luân lý, là sự khám phá về cái gọi là tình người; với người lớn nó là chìa khóa mở ra biết bao nỗi ăn năn. Ai cũng vậy thôi, ít nhất một lần trong đời gây khổ đau cho người khác vì sự vô tâm, tắc trách của mình. Chìa khóa sống vì nhau đã giúp tâm hồn con người tìm về những nỗi ăn năn để thao thức cùng với nó. Trong Tôi à Bêtô những triết lý của chú chó bé con trở nên thú vị. Hãy nghe chú chó Binô nói về nỗi sợ hãi “như một điều thích thú”: “Được sợ hãi, đó là thứ cảm giác mà nhiều người sẵn sàng trả tiền được thưởng thức” [41;48]. Con người ta cũng thường bỏ tiền ra để mua nỗi sợ hãi như đọc truyện ma, xem phim kinh dị nhưng không mấy ai ngồi suy ngẫm, nhấm nháp về ý nghĩa của hành động đó.Và đây, những triết lí về cuộc đời của Bêtô tuy chưa có sự từng trải nhưng lại hiện sự sắc sảo, thông minh. Người lớn chúng ta đừng tưởng trẻ con chỉ có sự ngây thơ hồn nhiên. Sự nhạy cảm với cuộc sống giúp trẻ con có những nhận xét chính xác về cuộc đời, về con người: “Bạn thấy chưa, càng lớn tuổi, con người ta càng nó ít đi. Họ nghĩ nhiều hơn” [42;7] ; “Lời ăn tiếng nói của người già mới sâu sắc làm sao!” [42;18]. “Dưới những tia nắng ngược, những ngôi nhà bỗng nhiên tỏa sáng Những người đi lại trên phố nom cũng hồn nhiên và hiền lành hơn Những đăm chiêu, mưu mô tính toán không còn chút dấu vết trên mặt họ. Trông họ thoải mái lạ lùng.” [42;122]. 61 Trong diễn từ đọc tại lễ trao giải thưởng văn học ASEAN tại Thái Lan, Nguyễn Nhật Ánh đã nói: " Mỗi dân tộc đều có treo một quả chuông trước cửa sổ tâm hồn của mình. Nhà văn có sứ mạng phải rung những quả chuông lên bằng văn chương." Và thế là với những sáng tác của mình, quả chuông của Nguyễn Nhật Ánh đã rung lên. Khi đã theo con tàu của Nguyễn Nhật Ánh để đi về tuổi thơ một lần, tôi tin mỗi lần Nguyễn Nhật Ánh rung chuông, người ta khó lòng bỏ qua một tấm vé để lại được cùng ông háo hức lên tàu. Bằng giọng điệu tinh nghịch, hóm hỉnh và giọng triết lý, chiêm nghiệm đậm chất trẻ thơ, Nguyễn Nhật Ánh đã tạo ra một thế giới tràn đầy niềm tin, tiếng cười trong các tác phẩm của mình. Sáng tác của Nguyễn Nhật Ánh khám phá thế giới trẻ thơ sinh động nhiều màu sắc. Những suy tư, chiêm nghiệm được tác giả diễn đạt bằng giọng điệu hài hước, hóm hỉnh khiến những bài học giáo dục trong tác phẩm nhẹ nhàng mà vẫn sâu sắc. * * * Nguyễn Nhật Ánh đã lựa chọn linh hoạt những điểm nhìn để tạo ra một lăng kính đặc biệt muôn màu. Đó là điểm nhìn trẻ thơ trong trẻo, điểm nhìn của người lớn mang tính sâu sắc, triết lí và toàn năng khi dẫn dắt câu chuyện và sự dung hòa giữa hai điểm nhìn để soi chiếu dòng hồi ức đa sắc về thế giới tuổi thơ và tuổi mới lớn. Với ý nghĩa như những tấm vé đưa độc giả trở về sân ga tuổi thơ, Nguyễn Nhật Ánh tạo nên cặp phạm trù song hành không gian hoài niệm và thời gian quá khứ, tâm tưởng. Cặp không – thời gian này khơi mở những kí ức, đưa nhân vật ngược dòng quá khứ trở về với “miền xanh thẳm” để tìm lại những giá trị tốt đẹp, hồn nhiên đáng quý của thời thơ ấu một đi không trở lại. Bên cạnh đó ngôn ngữ giản dị, trong sang, đậm chất thơ và giọng điệu hóm hỉnh, triết lý cũng là những phương diện nghệ thuật thể hiện hồi ức trong tác phẩm Nguyễn Nhật Ánh. 62 C- PHẦN KẾT LUẬN Sự đa dạng trong phong cách viết của các tác giả đã làm nên sức hấp dẫn của văn học thiếu nhi Việt Nam thời kì đổi mới, tạo nên một thể loại văn học vô cùng gần gũi, bình dị.Văn học thiếu nhi đa dạng về thể loại, phong phú về nội dung, hình thức, chứa đựng nhiều giá trị nhân văn hướng tới giáo dục và hoàn thiện nhân cách con người. Với hơn 100 tác phẩm, trong đó có một số tác phẩm được giải thưởng, được dịch sang tiếng nước ngoài, Nguyễn Nhật Ánh trở thành một hiện tượng độc đáo. Ông đã đóng góp không nhỏ cho nền văn học thiếu nhi sau 1975 nói riêng và văn học Việt Nam nói chung. Nguyễn Nhật Ánh là một hiện tượng văn học đặc biệt bởi nhiều thế hệ độc giả đều yêu thích tác phẩm của ông - trẻ em tìm thấy tuổi thơ sinh động, hồn nhiên, chân thật của chính mình; còn người lớn thì nhận được những “tấm vé” về lại tuổi thơ. Nằm trong mạch chảy văn học thiếu nhi Việt Nam sau năm 1975, hồi ức là loại chất liệu được Nguyễn Nhật Ánh sử dụng. Nhà văn viết cho trẻ thơ như lần giở kí ức của chính mình. Thông qua màn sương kỉ niệm, Nguyễn Nhật Ánh đã tạo dựng một thế giới tuổi thơ vi diệu, đắm say trong những trò chơi hồn nhiên, thơ dại. Hồi ức tuổi thơ còn tràn đầy khát khao đẹp đẽ và tình yêu thương được nhìn qua trái tim bao dung, lòng nhiệt thành con trẻ. Viết cho thiếu nhi, truyện Nguyễn Nhật Ánh không chỉ có sự hồn nhiên, ngây thơ mà còn chất chứa nhiều xúc cảm mới mẻ, mơ hồ, mong manh của trái tim lần đầu rung động trước người khác giới. Cùng với sự tái hiện quá khứ đã qua, hồi ức còn là cuộc hành trình đi tìm bản thể, chiêm nghiệm cái tôi và suy tư về cuộc đời. Nguyễn Nhật Ánh đặt sự vật, con người trong điểm nhìn trẻ thơ để phát lộ thế giới trong trẻo riêng trong cách nhìn của các em. Ngược lại, điểm nhìn người lớn đã đem đến cho sáng tác của nhà văn sự sâu sắc, triết lí, cũng như kìm nén để những ngây dại thơ bé không đi quá đà. Sự dung hòa hai điểm nhìn đã mở rộng biên độ tác phẩm để đối tượng độc giả không chỉ thu hẹp trong trẻ thơ mà cả người lớn cũng yêu thích. Lấy hồi ức làm chất liệu, không gian hoài niệm và thời gian quá khứ, tâm tưởng trở thành một cặp song hành. Không gian làng quê – thiên đường đã mất cùng với thành thị hiện đại, xô bồ mở ra theo trường hoạt 63 động của nhân vật. Nó tương ứng với không gian quá khứ theo trật tự tuyến tính và những khoảng ngưng của thời gian. Không – thời gian gắn kết quá khứ, hiện tại, thực và tâm tưởng, khơi mở những kí ức, tái hiện nhưng gương mặt người, những kỉ niệm chôn sâu trong tâm trí. Bên cạnh đó thủ pháp giấc mơ và ngôn ngữ, giọng điệu trẻ thơ cũng hấp dẫn người đọc vào hành trình trở về sân ga tuổi nhỏ. “Có thể nói mỗi cuốn sách Nguyễn Nhật Ánh như mỗi chuyến tàu trở về tuổi thơ, ở đó có nhiều toa, mỗi toa là mỗi bất ngờ, mỗi thú vị mỗi háo hức mỗi mê say, khi làm ta bật cười, khi làm ta rưng rưng hoặc lặng đi suy ngẫm”... Hồi ức tuổi thơ trong sáng tác cho thiếu nhi của Nguyễn Nhật Ánh kết tinh trở thành phần di sản đẹp đẽ hướng con người ta tới cái Chân – Thiện – Mỹ của cuộc đời. 64 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO I. Tài liệu tham khảo 1. Thái Phan Vàng Anh (2013), “Nguyễn Nhật Ánh, người kể chuyện của thiếu nhi”, Tạp chí Non nước, số 187 (tháng 6), tr.59-64. 2. Phạm Thị Bền (2005), Thế giới trẻ thơ qua cách nhìn của Nguyễn Nhật Ánh trong bộ truyện Kính Vạn Hoa, Luận văn Thạc sĩ khoa học Ngữ văn, Đại học Sư phạm Hà Nội. 3. Thiều Chửu (2009), Hán Việt từ điển, Nxb Thanh niên. 4. Trần Hoài Dương (2014), Miền xanh thẳm (in lần thứ 5), Nxb Kim Đồng. 5. Nguyễn Hương Giang (2000), “Người nuôi dưỡng tâm hồn trẻ thơ”, Tạp chí Văn nghệ Quân đội, số 8, tr.106-109. 6. Việt Hà (2006), “Nhà văn Nguyễn Nhật Ánh – Mãi giữ một tâm hồn trẻ thơ”, Trò chuyện với 100 nhà văn Việt Nam, Nxb Văn hóa Sài Gòn. 7. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (đồng chủ biên) (2013), Từ điển thuật ngữ văn học (tái bản), Nxb Giáo dục. 8. Vũ Thị Hương (2009), Thế giới nghệ thuật truyện Nguyễn Nhật Ánh, Luận văn Thạc sĩ khoa học Ngữ văn, Đại học Sư phạm Hà Nội. 9. Trần Đăng Khoa (2009), “Lá bùa của nhà ảo thuật”, Tạp chí Văn học và tuổi trẻ, số tháng 7. 10. Nguyễn Văn Long (chủ biên) (2012), Giáo trình văn học Việt Nam hiện đại, tập II (Từ sau Cách mạng tháng Tám 1945), in lần thứ 4, Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội. 11. Lã Thị Bắc Lý (2011), Giáo trình văn học trẻ em, Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội. 12. Lã Thị Bắc Lý (), Truyện viết cho thiếu nhi sau năm 1975, Luận án. 13. Lã Thị Bắc Lý (2013), Cảm nhận về văn học thiếu nhi Việt Nam đầu thế kỉ XXI, cập nhật ngày 10/06/2014. 14. Thúy Nga, Huyền Sương, Ngọc Cúc (2002), Kính vạn hoa còn chút gì để nhớ, Nxb Kim Đồng. 15. Nguyên Ngọc (1993), “Viết cho trẻ em hôm nay càng khó hơn”, Tạp chí Văn 65 học, số 5, tr.4-5. 16. Nhiều tác giả (1983), Bàn về văn học thiếu nhi, Nxb Kim Đồng. 17. Hoàng Phê (chủ biên) (2010), Từ điển tiếng Việt, Nxb Từ điển bách khoa. 18. Lê Thị Diệu Phương (2011), Yếu tố huyền thoại trong truyện Nguyễn Nhật Ánh, Luận văn Thạc sĩ khoa học Ngữ văn, Đại học Sư phạm Hà Nội. 19. Nguyễn Minh Phương (2014), Hồi ức trong truyện Nguyễn Nhật Ánh, Luận văn Thạc sĩ khoa học Ngữ văn, Đại học Sư phạm Hà Nội. 20. Lê Minh Quốc (biên soạn) (2012), Nguyễn Nhật Ánh, hoàng tử bé trong thế giới tuổi thơ, Nxb Kim Đồng. 21. Trần Đình Sử (2005), Giáo trình dẫn luận thi pháp học, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 22. Vân Thanh (1998), “Nguyễn Nhật Ánh nhà văn thân quý của các em”, Tạp chí Văn học, số 6, tr.73-78. 23. Vũ Ân Thy (1997), “Nguyễn Nhật Ánh – người bạn thân mến của độc giả trẻ”, Báo Sài Gòn giải phóng, số 9, tr.17-19. 24. Nguyễn Thị Thanh Xuân (1996), “Cho tôi xin một vé đi tuổi thơ – Đọc văn xuôi Nguyễn Nhật Ánh”, Văn nghệ thành phố Hồ Chí Minh, số 237 (ra ngày 26/12/1996), tr.12-13, tr.28. II. Ngữ liệu nguồn 25. Nguyễn Nhật Ánh (2005), Người Quảng đi ăn mì Quảng, Nxb Trẻ. 26. Nguyễn Nhật Ánh (2011), Bàn có năm chỗ ngồi (tái bản lần thứ 23), Nxb Trẻ. 27. Nguyễn Nhật Ánh (2011), Buổi chiều Windows (in lần thứ 18), Nxb Trẻ. 28. Nguyễn Nhật Ánh (2011), Hoa hồng xứ khác (in lần thứ 20), Nxb Trẻ. 29. Nguyễn Nhật Ánh (2011), Lá nằm trong lá (tái bản lần thứ 2), Nxb Trẻ. 30. Nguyễn Nhật Ánh (2011), Mắt biếc (tái bản lần thứ 21), Nxb Trẻ. 31. Nguyễn Nhật Ánh (2011), Trại hoa vàng (tái bản lần thứ 19), Nxb Trẻ. 32. Nguyễn Nhật Ánh (2012), Cho tôi xin một vé đi tuổi thơ (tái bản lần thứ 32), Nxb Trẻ. 33. Nguyễn Nhật Ánh (2012), Cô gái đến từ hôm qua (tái bản lần thứ 27), Nxb Trẻ. 34. Nguyễn Nhật Ánh (2012), Kính vạn hoa (tái bản), Nxb Kim Đồng. 35. Nguyễn Nhật Ánh (2012), Út Quyên và tôi (tái bản lần thứ 22), Nxb Trẻ. 36. Nguyễn Nhật Ánh (2013), Còn chút gì để nhớ (tái bản lần thứ 27), Nxb Trẻ. 66 37. Nguyễn Nhật Ánh (2013), Đi qua hoa cúc (tái bản lần thứ 19), Nxb Trẻ. 38. Nguyễn Nhật Ánh (2013), Ngồi khóc trên cây, Nxb Trẻ. 39. Nguyễn Nhật Ánh (2013), Thiên thần nhỏ của tôi (tái bản lần thứ 27), Nxb Trẻ. 40. Nguyễn Nhật Ánh (2013), Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh (tái bản lần thứ 11), Nxb Trẻ. 41. Nguyễn Nhật Ánh (2013), Tôi là Bêtô (tái bản lần thứ 22), Nxb Trẻ. 42. Nguyễn Nhật Ánh (2014), Hạ đỏ (tái bản lần thứ 28), Nxb Trẻ.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfde_tai_hoi_uc_tuoi_tho_trong_sang_tac_cho_thieu_nhi_cua_nguy.pdf
Tài liệu liên quan