BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP.HỒ CHÍ MINH
LÊ THỊ HIỀN
DẠY THỰC HÀNH LÀM VĂN Ở BẬT
THPT THEO QUAN ĐIỂM GIAO TIẾP
LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC
TP. HỒ CHÍ MINH - 2010
LỜI TRI ÂN
Để hoàn thành luận văn này, tôi đã nhận được rất nhiều sự hỗ trợ, giúp đỡ tận tình,
quý báu của các thầy cô, gia đình, bạn bè và các đồng nghiệp.
Tôi xin được gửi lòng tri ân sâu sắc đến các thầy cô trong khoa Ngữ văn, các thầy cô
giảng dạy, Phòng Khoa học Công nghệ - sau đại học Trường Đ
137 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1468 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Dạy thực hành làm văn ở bật THPT theo quan điểm giao tiếp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ại học Sư phạm TP. Hồ Chí
Minh, Ban giám hiệu và Tổ bộ môn Văn trường Dự bị Đại học và Trường THPT An Đông.
Tôi xin đặc biệt tri ân tiến sĩ Phan Thị Minh Thúy – người trực tiếp hướng dẫn tôi
hoàn thành luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn tất cả các thầy cô, cảm ơn gia đình và bạn bè, đồng
nghiệp…
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
STT VIẾT TẮT VIẾT ĐẦY ĐỦ
1 DH Dạy học
2 DHLV Dạy học làm văn
3 GA Giáo án
4 GV Giáo viên
5 HS Học sinh
6 HTDH Hình thức dạy học
7 KN Kĩ năng
8 LV Làm văn
9 NL Nghị luận
10 PP Phương pháp
11 PPDH Phương pháp dạy học
12 SGK Sách giáo khoa
13 SGV Sách giáo viên
14 TNSP Thực nghiệm sư phạm
15 VB Văn bản
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
So với các môn học khác được giảng dạy trong nhà trường, Ngữ văn là bộ môn có
nhiệm vụ đặc biệt: cung cấp kiến thức văn học, kĩ năng sử dụng tiếng mẹ đẻ và bồi dưỡng
tình cảm thẩm mĩ cho học sinh (HS). Trong đó, việc rèn luyện năng lực ngôn ngữ chính là
việc giúp HS biết cách phân tích, cảm thụ văn bản (đọc Văn) và tạo lập văn bản (Làm văn).
Tạo lập văn bản (VB) là mục đích cuối cùng của quá trình dạy học (DH) Ngữ văn vì VB là
đơn vị lớn nhất trong hệ thống cấu trúc ngôn ngữ, là sản phẩm cuối cùng của hoạt động giao
tiếp, là sự tổng hợp về kiến thức – kĩ năng – tư duy, giúp HS bộc lộ được phẩm chất, năng
lực, tình cảm, thái độ của mình. Vì thế, phân môn Làm văn (LV) có một vị trí, vai trò quan
trọng đối với quá trình hình thành năng lực giao tiếp cho HS. Đây cũng là phân môn cuối
cùng khép lại chương trình dạy học tiếng Việt ở nhà trường phổ thông. Với sứ mệnh đó, LV
cần phải được quan tâm, đầu tư về nội dung DH và PPDH ở mức cao nhất vì hiệu quả của
dạy học làm văn (DHLV) xét đến cùng chính là hiệu quả của toàn bộ việc DH Ngữ văn.
Xuất phát từ bản chất đặc thù của LV là gắn với thực hành nên có thể thấy hoạt động
DHLV phải lấy thực hành làm hoạt động chủ đạo để HS lĩnh hội kiến thức và rèn luyện kĩ
năng, kĩ xảo. DH thực hành LV thực chất là tổ chức cho HS được thể hiện con người cá nhân
trong giao tiếp. Yêu cầu nâng cao hiệu quả, chất lượng của những giờ thực hành LV đòi hỏi
phải có một cách DH thiết thực, vừa phù hợp với đặc thù của phân môn vừa đi đúng yêu cầu
của phương pháp DH hiện đại – lấy HS làm trung tâm, coi trọng sự chủ động, sáng tạo của
HS trong hoạt động học. Theo chúng tôi, đây là vấn đề khiến nhiều GV trực tiếp tham gia
giảng dạy ở nhà trường phổ thông còn băn khoăn, trăn trở.
Tầm quan trọng của DHLV trong nhà trường đã xác định rõ như thế nhưng trên thực
tế, kết quả DHLV vẫn chưa đáp ứng được sự mong đợi, việc DHLV vẫn bộc lộ những điểm
hạn chế, trong đó dễ thấy nhất là sự yếu kém về kĩ năng thực hành ở cả người dạy và người
học. Hoạt động thực hành còn thiếu những chỉ dẫn cụ thể về mặt kĩ năng, thao tác nên kết
quả đạt được chưa cao. Trong DHLV, chúng tôi thấy vẫn có các hiện tượng như: làm văn
theo mẫu, đề văn trùng lặp, đơn điệu, hình thức dạy học nhàm chán, nặng nề... Một điểm nữa
là việc dạy thực hành LV chưa thực sự gắn với hoạt động giao tiếp, chưa hướng HS đến
những vấn đề của cuộc sống phong phú, đa chiều nên chưa đem lại sự hứng thú, bổ ích cho
người học. Giải quyết những khó khăn trong quá trình dạy thực hành LV là một bài toán
không dễ, buộc GV phải có sự đầu tư, tìm tòi, lựa chọn nội dung và phương pháp dạy học
(PPDH) cho phù hợp.
Trong xu thế đổi mới giáo dục, chúng ta đã đặt ra những yêu cầu mang tính toàn diện:
đổi mới về chương trình DH, về nội dung DH, về PPDH, về hình thức dạy học… trong đó,
đổi mới về PPDH được xem là đòn bẩy, then chốt. Nó không chỉ được hiểu giản đơn là tạo ra
các PPDH bằng một số thao tác, biện pháp, hình thức mới lạ mà là việc lựa chọn, sử dụng có
hiệu quả các PPDH và cách phối hợp linh hoạt các PP đó. Dạy thực hành LV đã có từ lâu
nhưng đến nay, việc lựa chọn PPDH thực hành cho phù hợp, triển khai nó một cách khoa
học, triệt để… thì vẫn chưa được sự quan tâm, đầu tư đúng mức. Cách thức vận dụng PPDH
của nhiều GV vẫn còn mang tính hình thức, chưa phát huy được hiệu quả của PPDH mới đối
với nội dung DH và đối tượng HS.
Từ yêu cầu thực tiễn như đã phân tích, chúng tôi thấy rằng việc vận dụng quan điểm
giao tiếp vào dạy thực hành LV là một hướng dạy đúng đắn, vừa phù hợp với đặc thù của
phân môn, vừa phát huy được tính chủ động, sáng tạo của HS. Với ý nghĩa đó, chúng tôi
chọn đề tài “DẠY THỰC HÀNH LÀM VĂN Ở BẬC TRUNG HỌC PHỔ THÔNG THEO
QUAN ĐIỂM GIAO TIẾP”.
Thực hiện đề tài này, luận văn của chúng tôi đã có một số đóng góp sau đây:
- Bước đầu góp phần cụ thể hóa lí thuyết DH Tiếng Việt nói chung và dạy học LV nói
riêng, triển khai nó trong việc dạy từng kĩ năng thực hành LV ở bậc THPT.
- Phân tích cơ sở thực tiễn của việc dạy thực hành LV: cơ sở của việc dạy thực hành
LV, những quy trình và thao tác khi tiến hành dạy các kĩ năng thực hành LV.
- Cung cấp những kinh nghiệm DH thực hành LV (cách sử dụng hệ thống bài tập, hình
thức dạy học (HTDH), kĩ năng DH cho GV THPT và sinh viên ngành sư phạm Ngữ văn
dưới hình thức một tài liệu tham khảo trong giảng dạy, học tập.
2. Lịch sử vấn đề
Quan điểm giao tiếp đã trở thành cơ sở lí thuyết cho việc DH tiếng Việt (trong đó bao
gồm cả LV). Nó chi phối đến việc xây dựng chương trình SGK và quy định PP đặc thù trong
việc dạy bản ngữ. Nhiều công trình, bài viết đã đề cập đến quan điểm giao tiếp trong DHLV
ở nhà trường nói chung và DHLV ở bậc THPT nói riêng, theo những hướng khác nhau, xuất
phát từ mục đích của việc nghiên cứu và DH. Chúng tôi đã tiến hành khảo sát một số công
trình, đề tài, bài viết có liên quan đến việc vận dụng quan điểm giao tiếp vào DHLV, theo
những cách khác nhau, có thể trình bày như sau:
2.1. Quan điểm giao tiếp được nhắc đến như một định hướng DH trong các sách giáo
trình PPDH của bộ môn Ngữ văn ở các trường đại học. Cuốn Phương pháp dạy học Văn, tập
2 (Phan Trọng Luận) và Phương pháp dạy học tiếng Việt (Lê A) có một phần dành riêng cho
việc hướng dẫn PPDH LV và xem quan điểm giao tiếp là cơ sở lí thuyết quan trọng đối với
hoạt động DH phân môn này. So với giáo trình Phương pháp dạy học Văn, giáo trình
Phương pháp dạy học tiếng Việt giới thuyết kĩ hơn về lí thuyết giao tiếp, việc vận dụng quan
điểm giao tiếp vào DH thực hành LV. Riêng đối với PP dạy thực hành LV, tác giả giáo trình
cho rằng cần tạo được nhu cầu giao tiếp cho HS và tạo được môi trường giao tiếp tốt bởi HS
luôn muốn được nói, được trình bày, được tranh luận những điều mà mình biết, mình nghĩ.
GV phải biết khơi gợi nhu cầu đó và tạo một môi trường giao tiếp tự nhiên để các em có điều
kiện bộc lộ mình. Những gợi ý trong hai cuốn giáo trình chính là những hướng dẫn quan
trọng về mặt PPDH thực hành đối với cả sinh viên và những GV trực tiếp đứng lớp. Tuy
nhiên, cả hai cuốn giáo trình mới dừng lại ở những gợi ý về mặt PPDH chứ chưa có sự triển
khai cụ thể PP giao tiếp vào quá trình DHLV ở nhà trường phổ thông. Việc vận dụng quan
điểm giao tiếp vào DHLV như thế nào vẫn còn là một thử thách không nhỏ đối với năng lực
sư phạm của người giảng dạy.
2.2. Một số bài viết hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp bàn về việc DHLV theo quan điểm
giao tiếp. Đây có thể xem là một cách xây dựng tiền đề lí thuyết cho DH thực hành LV trong
nhà trường. Trong bài viết Bản chất của việc làm văn trong nhà trường phổ thông, Dương
Thị Thanh Hương không trực tiếp thiết lập mối quan hệ giữa lí thuyết giao tiếp với DHLV
nhưng qua việc xác định bản chất LV là một hoạt động tư duy ngôn ngữ, hoạt động giao tiếp,
tác giả đã cho thấy DHLV chính là cách tổ chức cho HS được hoạt động, thực hành về ngôn
ngữ ở bậc cao hơn. Ở góc độ trực tiếp, một số bài viết khác khai thác sâu hơn mối quan hệ
giữa lí thuyết giao tiếp với DHLV, phân tích làm rõ sự ảnh hưởng của quan điểm giao tiếp
vào quá trình DH như: Quan điểm giao tiếp trong dạy học làm văn ở THPT (Nguyễn Thị
Hiên), Về việc dạy học làm văn theo định hướng giao tiếp (Lê Thị Minh Nguyệt), Quan điểm
giao tiếp và việc dạy làm văn (Nguyễn Quang Ninh), Dạy ngôn bản dạng nói và ngôn bản
dạng viết trong giao tiếp và để giao tiếp (Nguyễn Trí)… Điểm chung nhau giữa các tác giả
này là sự nhận xét sắc sảo, chi tiết về đặc điểm của việc tạo lập VB trong DHLV, yêu cầu tất
yếu của việc vận dụng quan điểm giao tiếp vào hoạt động tạo lập VB. Quan điểm chung của
các tác giả là: việc dạy tạo lập VB phải hướng đến mục đích cuối cùng là nâng cao năng lực
sử dụng tiếng mẹ đẻ (luyện tập thành thạo bốn kĩ năng nghe, nói, đọc, viết), năng lực giao
tiếp cho HS. Không những thế, DHLV cần bắt đầu bằng việc tạo được nhu cầu, mục đích
giao tiếp, phải định hướng giao tiếp và đưa HS vào hoạt động giao tiếp, giúp HS nâng kĩ
năng sử dụng ngôn ngữ thành năng lực ngôn ngữ, đồng thời rèn luyện tư duy tổng hợp. Mặc
dù góc độ bàn luận ở đây có thể nông sâu khác nhau nhưng những bài viết trên đã đóng góp
không nhỏ trong quá trình lựa chọn PPDH thực hành LV, khơi gợi những ý tưởng ban đầu
cho việc vận dụng quan điểm giao tiếp vào từng hoạt động thực hành kĩ năng LV.
2.3. Song song với những bài viết trên, chúng tôi thấy còn có khá nhiều đề tài triển
khai trực tiếp hoặc gián tiếp quan điểm giao tiếp vào hoạt động DH thực hành LV: có bài
hướng tới việc tích cực hóa hoạt động học tập của HS trong DHLV thông qua việc xây dựng
hệ thống bài tập; có bài lại vận dụng quan điểm giao tiếp trong những vấn đề cụ thể của quá
trình DHLV, ví dụ: dạy một bài lí thuyết LV, dạy một kĩ năng thực hành, sử dụng phương
tiện DH hay một HTDH… theo hướng giao tiếp.
Xét ở mức độ vận dụng quan điểm giao tiếp vào DHLV một cách gián tiếp, chúng tôi
thấy có sự đóng góp khá phong phú, hữu ích của nhiều bài viết như: Đổi mới ra đề làm văn ở
THCS theo hướng ra đề tự luận mở “vận dụng tư duy ở cấp độ cao” (Nguyễn Hồng Kiên),
Từ thực tế viết văn nghị luận của học sinh trung học phổ thông xây dựng hệ thống bài tập
rèn luyện kĩ năng làm văn (Nguyễn Thị Ly Na), Một số dạng bài tập rèn luyện kĩ năng xây
dựng đoạn văn nghị luận cho học sinh lớp 10 (Mai Văn Năm), Phát huy tính chủ động, sáng
tạo của học sinh khi dạy văn nghị luận trong sách Tập làm văn 8,9 (Đoàn Thị Kim Nhung),
Một cách hướng dẫn học sinh lớp 12 nhận diện và sửa chữa lỗi sai trong tập làm văn (Hà
Thị Quyến)1…
Các bài viết trên đều đề cập ít nhiều đến PP giao tiếp và trọng tâm nghiên cứu của các
tác giả nghiêng hẳn về phần thực hành. Hệ thống bài tập dựng đoạn, rèn luyện kĩ năng LV
của hai tác giả Mai Văn Năm và Nguyễn Thị Ly Na cung cấp những ngữ liệu quý giá cho
người dạy. Đó là những dạng bài tập vận dụng thiết thực, có thể áp dụng trong những giờ
dạy thực hành theo quan điểm giao tiếp. Phần ra đề và phần rèn luyện kĩ năng diễn đạt, kĩ
1 Tên các bài viết được trích dẫn ở phần Thư mục tham khảo.
năng hoàn chỉnh bài viết là một trong những nội dung quan trọng của DH thực hành LV
được các tác giả Nguyễn Hồng Kiên, Hà Thị Quyến nhấn mạnh bằng những nhận xét hoặc
quy trình DH thực hành. Tác giả Nguyễn Hồng Kiên cho rằng “ra đề tự luận mở kết hợp với
vận dụng tư duy ở cấp độ cao là hướng đổi mới kiểm tra đánh giá có thể phát huy khả năng
sáng tạo và vận dụng kiến thức vào thực tiễn một cách tốt nhất” [23, 18]. Từ yêu cầu của
việc thực hành, tăng cường khả năng hoạt động giao tiếp của HS, Hà Thị Quyến tìm ra cách
thức phát hiện lỗi và sửa lỗi sai trong LV bằng cách cho HS tự phát hiện lỗi, tự điều chỉnh, tự
sửa lỗi. Hai bài viết đều hướng tới vấn đề kiểm tra, tự kiểm tra, tự đánh giá kết quả LV của
HS bằng chính hoạt động thực hành của các em. Đây cũng là một trong những biểu hiện của
PP giao tiếp trong DH thực hành LV.
Có một số bài viết vận dụng trực tiếp quan điểm giao tiếp vào việc DHLV hoặc về nội
dung DH hoặc về kĩ năng DH (thiết kế một công đoạn, một ý tưởng…). Đáng chú ý trong số
này là ba bài nghiên cứu của tác giả Nguyễn Thị Hiên: Dạy học nội dung tập làm văn trong
sách giáo khoa Ngữ văn 8 theo hướng giao tiếp, Thiết kế bài học “Sử dụng yếu tố miêu tả
trong văn thuyết minh” (Ngữ văn 9) theo hướng giao tiếp và Thiết kế câu hỏi dạy học làm
văn theo hướng giao tiếp. Ở từng nội dung DH hay từng bài học, tác giả xây dựng thành một
quy trình với các bước cụ thể như xác định yêu cầu của bài học, chuẩn bị nội dung, PP,
phương tiện DH, cách tiến hành bài học trên lớp thông qua những câu hỏi dẫn dắt, gợi ý và
hình thức hoạt động theo nhóm của HS. Từ cách thiết kế câu hỏi DHLV trong một bài cụ thể,
tác giả khẳng định “việc thiết kế câu hỏi trong dạy học Làm văn không chỉ dừng ở việc giúp
HS tái hiện, nhận thức lại những tri thức Làm văn đã được trình bày trong SGK mà quan
trọng hơn là còn phải phát huy được cao nhất những nhu cầu, hứng thú và tiềm năng của
HS, phải kích thích HS say mê học tập, bồi dưỡng cho HS những bổ ích khác ngoài bài
giảng” [12. 27]. Những bài viết của tác giả phần nào đã góp phần làm rõ hơn quan điểm giao
tiếp trong DHLV ở góc độ ứng dụng thực tiễn mà dựa vào đó, GV có thể khai thác sâu hơn,
rộng hơn các phương tiện, hình thức DH theo hướng giao tiếp ở những nội dung khác của
LV.
Những bài nghiên cứu trên cho thấy quan điểm giao tiếp đã thực sự “thấm” vào lí luận
và thực tiễn của DHLV, PP giao tiếp có một ưu thế nổi bật đối với hoạt động thực hành LV.
Cho đến nay, chúng tôi nhận thấy chưa có một công trình nào vận dụng quan điểm giao tiếp
vào DHLV, đặc biệt là dạy thực hành LV như một quy trình DH với những thể nghiệm sư
phạm đầy đủ. Cách thức vận dụng quan điểm giao tiếp sẽ còn là một khoảng đất rộng cho
việc khám phá, ứng dụng sáng tạo của người dạy.
Chính vì vậy, dựa trên những công trình về lí thuyết và thực hành LV, những bài viết
về quan điểm giao tiếp trong DHLV và định hướng đổi mới DH môn Ngữ văn hiện nay,
chúng tôi tiếp tục đi sâu vào quan điểm giao tiếp trong DH thực hành LV, xem xét việc vận
dụng quan điểm này và cố gắng thiết kế thành quy trình dạy học thực hành các kĩ năng LV,
bổ sung, hoàn thiện PPDH LV, góp phần vào việc nâng cao hiệu quả dạy và học phân môn
LV trong nhà trường hiện nay.
3. Phạm vi, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài của chúng tôi giới hạn trong phạm vi:
- Đối tượng điều tra là HS và GV tham gia học tập, giảng dạy ở bậc THPT.
- Nguồn khảo sát ngữ liệu là SGK và SGV THPT.
- Đối tượng nghiên cứu là dạy và học thực hành phân môn LV ở bậc THPT.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Khi thực hiện luận văn này, chúng tôi xác định những nhiệm vụ nghiên cứu là:
- Xác định cơ sở lí thuyết và thực tiễn của việc DH thực hành LV theo quan điểm giao
tiếp.
- Xây dựng quy trình DH thực hành các kĩ năng LV theo quan điểm giao tiếp, hướng
đến cách ra đề, cách kiểm tra, đánh giá HS theo quan điểm giao tiếp.
- Thiết kế một số giáo án dạy thực hành LV theo quan điểm giao tiếp để thể nghiệm
quy trình dạy thực hành các kĩ năng LV, dựa trên sự đối chứng để rút ra những kết luận sư
phạm đối với việc DH phân môn LV trong nhà trường.
4. Phương pháp nghiên cứu
Để phù hợp với mục đích nghiên cứu và đối tượng nghiên cứu, chúng tôi sử dụng linh
hoạt một số phương pháp sau đây:
4.1. Phương pháp tổng hợp lí luận và thực tiễn
Phương pháp này được sử dụng để tổng hợp cơ sở lí luận của các tác giả viết về LV,
tổng hợp các nghiên cứu thực tiễn dạy học làm văn để trên cơ sở đó hình thành phương pháp
dạy LV phù hợp với đối tượng học sinh THPT.
4.2. Phương pháp thống kê, phân loại
Phương pháp này được chúng tôi sử dụng để thống kê lại các tài liệu liên quan đến
phân môn LV, phân loại tài liệu theo chủ đề, theo trình tự thời gian; thống kê các phiếu tham
khảo ý kiến của giáo viên và học sinh về thực tế dạy học LV; thống kê kết quả thực nghiệm
sư phạm, phân loại và đánh giá những kết quả thu được nhằm kiểm nghiệm phương pháp đã
được vận dụng trong quá trình dạy thực hành LV.
4.3. Phương pháp phân tích ngôn ngữ
Phương pháp phân tích ngôn ngữ là quan sát, phân tích các hiện tượng ngôn ngữ theo
các chủ đề nhất định và chỉ rõ những đặc trưng của chúng. Vận dụng phương pháp này,
chúng tôi muốn khi tiến hành hoạt động thực hành LV, HS tập so sánh, phân tích các lỗi mà
các em phạm phải khi diễn đạt: lỗi về dùng từ, viết câu. Trên cơ sở đó, chúng tôi hướng dẫn
học sinh cách vận dụng ngôn ngữ vào hoạt động giao tiếp ở mức độ cao hơn câu – mức độ
văn bản.
4.4. Phương pháp thực nghiệm sư phạm
Chúng tôi tiến hành thực nghiệm sư phạm trong một số giờ ở các trường phổ thông
bằng cách xây dựng nội dung thực nghiệm, trình tự tiến hành thực nghiệm, đối tượng thực
nghiệm… Qua kết quả thực nghiệm, chúng tôi muốn kiểm định lại tính khả thi của đề tài,
hiệu quả đạt được và phạm vi ứng dụng của đề tài trong dạy học LV ở trường phổ thông.
4.5. Phương pháp so sánh – đối chiếu
PP này được chúng tôi sử dụng để so sánh nội dung thực hành LV trong SGK cũ và
SGK Ngữ văn nhằm tìm ra những điểm tương đồng cũng như những khác nhau về cách xây
dựng chương trình LV, mức độ ưu tiên cho thực hành LV ở nhà trường phổ thông. Ngoài ra,
chúng tôi còn sử dụng PP so sánh – đối chiếu để tiến hành so sánh PP dạy thực hành LV theo
quan điểm giao tiếp với một số PPDH khác, so sánh kết quả thực nghiệm sư phạm qua một
số bài dạy đối chứng. Từ kết quả so sánh, chúng tôi muốn rút ra những nhận xét mang tính
chất sư phạm cho việc DH thực hành LV ở bậc THPT.
5. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, phần nội dung luận văn bao gồm 3
chương:
Chương 1: Cơ sở lí luận
Chương này trình bày những cơ sở lí luận của việc dạy thực hành LV ở
bậc THPT theo quan điểm giao tiếp, cụ thể: chúng tôi chú ý đến quan điểm giao tiếp và mối
quan hệ của nó với phân môn LV; đến đặc trưng, nhiệm vụ của phân môn LV trong nhà
trường như một định hướng đúng đắn để lựa chọn PPDH, đồng thời so sánh giữa chương
trình DHLV trong SGK cũ và SGK mới để triển khai vai trò thực hành LV trong việc nâng
cao năng lực giao tiếp cho HS.
Chương 2: Dạy thực hành LV ở bậc THPT theo quan điểm giao tiếp
Dựa trên đánh giá về việc dạy thực hành LV (những khó khăn và thuận lợi) ở trường
THPT hiện nay, chúng tôi xây dựng định hướng, quy trình dạy kĩ năng thực hành LV, xác
định cách ra đề, kiểm tra, đánh giá hoạt động thực hành LV theo quan điểm giao tiếp.
Chương 3: Một số bài dạy thể nghiệm
Chương này xác định mục đích của việc thực nghiệm sư phạm; thiết kế nội dung DH
thực hành LV theo quan điểm giao tiếp trên một số bài cụ thể; đưa ra những nhận định, phân
tích, đánh giá tổng hợp về sự hữu ích của việc sử dụng phương pháp giao tiếp vào DH thực
hành LV.
NỘI DUNG
Chương 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN
1.1. Đặc trưng và mục tiêu, nhiệm vụ của phân môn Làm văn
1.1.1. Đặc trưng của Làm văn
LV là phân môn có hai đặc trưng cơ bản: tích hợp về kiến thức và tổng hợp về kĩ năng
(KN), về các thao tác tư duy.
Bài LV là kết quả tích hợp của nhiều loại kiến thức: kiến thức tiếng Việt, kiến thức
văn học, kiến thức lịch sử - văn hóa và những hiểu biết, những trải nghiệm từ cuộc sống của
HS… Khi làm bài, các em sử dụng kiến thức đã tích lũy được về từ, về các quy tắc ngữ
pháp, về cách sử dụng tiếng Việt trong giao tiếp để diễn đạt những suy nghĩ, hiểu biết của
các em về văn học, đời sống. Sự tích hợp kiến thức trong bài LV còn thể hiện ở việc HS
dùng vốn kiến thức xã hội để lí giải các hiện tượng văn học hoặc sử dụng một hiện tượng
văn học để minh họa cho thực tế cuộc sống.
Chẳng hạn, đứng trước yêu cầu Cảm nhận của em về một vẻ đẹp trong bài Thu điếu
(Câu cá mùa thu) của Nguyễn Khuyến, HS không chỉ suy nghĩ để lựa chọn nội dung nghị
luận mà còn suy nghĩ cách thức làm rõ nội dung nghị luận, trong đó có vấn đề huy động kiến
thức. Tùy thuộc vào mong muốn cho người đọc biết cảm nhận của mình mà HS lựa chọn vẻ
đẹp của bức tranh mùa thu, vẻ đẹp tâm hồn nhà thơ hay vẻ đẹp của ngôn từ trong bài Thu
điếu. Lúc này, HS phải tái hiện lại toàn bộ kiến thức mà các em đã tiếp nhận được khi tham
gia hoạt động đọc – hiểu VB (cuộc đời, con người Nguyễn Khuyến, thời đại mà tác giả sống,
đặc điểm sáng tác của Nguyễn Khuyến, hoàn cảnh sáng tác của bài thơ, nội dung, nghệ thuật
của bài thơ…). Hoặc khi muốn làm rõ một vấn đề, hiện tượng đời sống như “hiện tượng đắm
chìm vào thế giới game online của giới trẻ hiện nay”, HS cần thể hiện kiến thức của mình
bằng những dẫn chứng từ thực tế cuộc sống, những nhận định của bạn bè, những trải nghiệm
của bản thân. Kiến thức của HS còn bao gồm những hiểu biết đối với các vấn đề nảy sinh
xung quanh hiện tượng “nghiện” game online và thái độ của cộng đồng trước hiện tượng
này. Muốn cho bài viết có sức hấp dẫn đối với người tiếp nhận, HS phải lựa chọn những từ
ngữ độc đáo, có sắc thái biểu cảm phong phú và vận dụng nhiều kiểu câu, nhiều biện pháp tu
từ cú pháp để tăng tính thuyết phục đối với người tiếp nhận.
Như vậy, bài LV của HS phải là sản phẩm được tạo thành từ năng lực sử dụng tiếng
Việt, từ khả năng huy động vốn kiến thức, khả năng lắp ghép và kết nối thành công những
mảng kiến thức riêng lẻ lại với nhau. Cách thức lập luận, diễn đạt của HS chính là chất keo
gắn những mảng kiến thức đó thành một chỉnh thể thống nhất, trọn vẹn. Nhưng để có được
cách lập luận chặt chẽ, sắc sảo, HS phải được luyện tập thành thạo nhiều thao tác – kĩ năng
LV và phối hợp các thao tác – kĩ năng đó trong từng bài viết. Nói cách khác, yêu cầu này thể
hiện đặc trưng thứ hai của phân môn LV: tính tổng hợp về KN.
Muốn tạo lập VB, HS cần thực hiện đồng thời nhiều KN (KN lập dàn ý, KN liên kết
đoạn, dựng đoạn, KN trình bày VB…), nhiều thao tác tư duy (tư duy logic, tư duy hình
tượng, tư duy thẩm mĩ…). Bài văn của HS chỉ đi đúng hướng khi HS phân tích được yêu cầu
của đề bài, giải quyết yêu cầu đó bằng hệ thống các luận điểm, luận cứ và triển khai chúng
thành những đoạn văn có sự liên kết chặt chẽ, logic. Từng KN được tách riêng để luyện tập
nhưng lại cần vận dụng đồng thời khi tạo lập VB. Chẳng hạn, để tạo lập VB với yêu cầu của
đề bài “Trình bày suy nghĩ về sự nguy hại của đạo đức giả đối con người và cuộc sống từ ý
kiến “Đạo đức giả là một căn bệnh chết người luôn nấp sau bộ mặt hào nhoáng”2, HS cần
phân tích làm rõ yêu cầu của đề về nội dung NL (“suy nghĩ về sự nguy hại của đạo đức giả
đối với con người và cuộc sống”), phạm vi NL (đời sống xã hội), thao tác NL (giải thích,
phân tích, chứng minh, bình luận). Sau đó, HS có thể suy nghĩ để xây dựng các luận điểm,
luận cứ cho nội dung NL và sắp xếp chúng như sau: 1. Giải thích ý kiến “Đạo đức giả là một
căn bệnh chết người luôn nấp sau bộ mặt hào nhoáng”. 2. Những sự nguy hại do thói đạo
đức giả gây ra đối với con người và cuộc sống. 3. Bài học cho mỗi người trong việc tránh và
chống căn bệnh đạo đức giả.
Cùng với hoạt động vận dụng tổng hợp KN, HS còn thể hiện năng lực tư duy tổng hợp
trong quá trình tạo lập VB. Tư duy logic giúp HS lựa chọn ý và sắp xếp các ý theo một trình
tự hợp lí, biết kết nối các sự kiện, tìm những dẫn chứng xác đáng, tiêu biểu để đưa ra những
nhận xét, đánh giá, những phán đoán, suy luận sâu sắc, mới mẻ. Bài văn còn bộc lộ những
cảm xúc của HS trước cái đẹp của văn chương, của con người và cuộc sống nên không thể
thiếu vai trò của tư duy hình tượng, tư duy thẩm mĩ. Ví dụ, khi cảm nhận về vẻ đẹp của hình
tượng thơ trong bài “Đây thôn Vĩ Dạ” hay bức tranh thiên nhiên trong truyện ngắn“Hai đứa
trẻ”, những liên tưởng, tưởng tượng về một khu vườn thôn Vĩ xanh tươi hay hoặc thiên
nhiên tĩnh lặng, yên ả vào buổi chiều tà ở một phố huyện nghèo sẽ mang lại cho bài văn
2 Đề thi Đại học năm 2010, khối D.
những nét mềm mại, mượt mà và đậm cảm xúc cá nhân. HS sẽ khó đồng cảm với người
khác, sẽ thờ ơ với cuộc sống nếu không phát huy trí tưởng tượng của mình. Khi hình dung
cảnh người đàn bà hàng chài bị chồng hành hạ dã man ngay trên bờ biển, cảnh bà van xin
chánh án Đẩu (“Quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, xin đừng bắt con bỏ
nó…”) vì gia đình, vì các con…, HS sẽ đồng cảm với vẻ đẹp tiềm ẩn bên trong cái dáng vẻ
thô kệch, quê mùa của người phụ nữ đó. Từ đó, chúng ta có thể thấy rằng yêu cầu dạy văn và
học văn là khơi gợi, đánh thức cảm xúc của người học để đưa văn học đi theo một quỹ đạo –
sứ mệnh: giáo dục HS về nhân cách, bồi dưỡng đạo đức, tâm hồn cho các em.
1.1.2. Mục tiêu, nhiệm vụ của Làm văn
Với những đặc trưng đã trình bày ở trên, việc DH LV hướng tới ba mục tiêu là hoàn
thiện tri thức (tri thức về các kiểu loại VB, các KN LV), nâng cao năng lực sử dụng ngôn
ngữ (vận dụng ngôn ngữ vào việc sản sinh VB, phục vụ cho mục đích giao tiếp) và nâng cao
năng lực tư duy (kết hợp các thao tác tư duy khi tạo lập VB).
Các mục tiêu DH trên quy định nhiệm vụ của DHLV trong nhà trường: Thứ nhất, việc
DHLV phải giúp HS nhận biết và phân biệt các loại VB, nắm vững quy trình tạo lập VB.
Thứ hai, việc DHLV phải giúp HS thực hành được những loại VB đã học, từ đó hình thành
những kĩ năng, kĩ xảo LV. Nhiệm vụ này đòi hỏi GV phải tổ chức tốt các hoạt động học tập
để HS thực hành vận dụng ngôn ngữ, kiến thức lí thuyết LV, từng kĩ năng LV, từng thao tác
tư duy và thực hành tổng hợp kiến thức, kĩ năng vào việc sản sinh VB, giúp HS làm chủ quá
trình học tập. Như vậy, mục tiêu, nhiệm vụ của phân môn LV được triển khai từ chính bản
chất của nó: lấy thực hành làm trọng tâm khi hướng dẫn HS hoàn thành quá trình giao tiếp
bằng VB.
Qua hoạt động thực hành, những mảng kiến thức tách rời được gắn kết hài hòa, những
KN riêng lẻ được phối hợp nhuần nhuyễn, những thao tác tư duy được vận dụng khéo léo để
đưa ra sản phẩm cuối cùng là VB. Vì vậy, bản chất của LV chính là hoạt động thực hành và
việc đi sâu vào thực hành LV, tổ chức các hoạt động thực hành LV cho HS thực sự là cách
DHLV đúng đắn, khả thi, hữu ích.
1.2. Lý thuyết hoạt động giao tiếp với việc dạy học làm văn
1.2.1. Khái lược lí thuyết hoạt động giao tiếp
Giao tiếp được hiểu là hoạt động liên cá nhân nhằm trao đổi tư tưởng, tình cảm giữa
con người với nhau. Nó là một hiện tượng xã hội chỉ xuất hiện khi có nhu cầu giao tiếp, hoàn
cảnh giao tiếp, đối tượng giao tiếp.
Hoạt động giao tiếp có thể được tiến hành bằng nhiều phương tiện khác nhau như cử
chỉ, điệu bộ, tín hiệu, ngôn ngữ… Trong đó, ngôn ngữ được xem là công cụ giao tiếp tiện lợi
và linh hoạt nhất bởi nó biểu đạt đa dạng, phong phú các suy nghĩ, trạng thái tình cảm của
con người. Đồng thời, cũng thông qua hoạt động giao tiếp, con người tự trau dồi cho mình
vốn từ ngữ cũng như khả năng vận dụng từ ngữ vào việc diễn đạt những nội dung phức tạp
của tư duy. Vì vậy, khi tham gia giao tiếp, người ta chú ý nhiều đến cách thức vận dụng ngôn
ngữ, khả năng lĩnh hội ngôn ngữ của các đối tượng giao tiếp.
Hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ chịu sự chi phối của các nhân tố giao tiếp: đối
tượng – mục đích – nội dung – hoàn cảnh – phương tiện (cách thức) giao tiếp với mối quan
hệ như sau:
Hoàn cảnh giao tiếp
Mục đích giao tiếp
Người nói
(Người viết)
Tạo lập
Mã hóa
Văn bản
(Ngôn bản)
Tiếp nhận
Giải mã
Người nghe
(Người đọc)
Phương tiện giao tiếp
Hiệu quả giao tiếp
Sơ đồ 1.1. Cơ chế hoạt động giao tiếp
Sơ đồ trên cho thấy việc hình thành VB chịu sự tác động rõ rệt của các nhân tố giao
tiếp khách quan (hoàn cảnh giao tiếp, phương tiện giao tiếp) và chủ quan (mục đích giao
tiếp, đối tượng giao tiếp). VB được tạo lập phải thỏa mãn mong muốn bộc lộ hiểu biết, tình
cảm, tư tưởng của người nói (người viết) nhưng cũng phải đáp ứng được những yêu cầu giao
tiếp cơ bản là phù hợp với hoàn cảnh giao tiếp, có khả năng tác động và tạo ra phản ứng ở
người nghe. Việc tạo lập VB và tiếp nhận VB thành công nghĩa là hoạt động giao tiếp đã đạt
được mục đích.
Dựa trên cơ chế của hoạt động giao tiếp, chúng tôi nhận thấy hoạt động DH trong nhà
trường cũng là một hoạt động giao tiếp song hoạt động này có một số điểm khác với hoạt
động giao tiếp thông thường trong đời sống.
Thứ nhất, tuy cả hai dạng hoạt động giao tiếp đều có chung một bối cảnh giao tiếp
rộng (thời đại lịch sử, văn hóa, tập quán, phong tục…) nhưng hoạt động DH luôn diễn ra ở
một hoàn cảnh giao tiếp hẹp, không đổi là lớp học, trường học, trong khi hoàn cảnh giao tiếp
hẹp của đời sống xã hội lại rất đa dạng, chẳng hạn như trong khu mua sắm, ở nơi làm việc,
nơi hội họp, gia đình…
Thứ hai, hoạt động giao tiếp trong đời sống xuất phát từ nhiều mục đích khác nhau,
tùy vào nhu cầu của người tham gia giao tiếp nhưng mục đích giao tiếp của DH được xác
định rõ và hầu như không thay đổi (giúp HS chiếm lĩnh tri thức, hình thành KN, kĩ xảo, xây
dựng PP học tập; bồi dưỡng tư tưởng, tình cảm, thái độ, quan điểm sống cho HS).
Thứ ba, đối tượng giao tiếp trong đời sống thuộc nhiều thành phần, nhiều lứa tuổi,
trình độ khác nhau còn đối tượng giao tiếp của DH là GV và HS. Hoạt động DH là hoạt động
trao đổi, tương tác giữa GV với HS và giữa HS với nhau nhằm hướng tới mục đích giao tiếp
đã đề ra.
Với cách hiểu như trên, hoạt động DH là một hoạt động giao tiếp đặc biệt. Chính vì
thế, mọi hoạt động DH, trong đó có hoạt động DHLV, cần được tổ chức trên nền tảng của lí
thuyết giao tiếp.
1.2.2. Dạy học Làm văn thực chất là hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ
Từ lí thuyết hoạt động giao tiếp, chúng tôi nhận thấy việc DHLV thể hiện rõ cơ chế
của một hoạt động giao tiếp vì bao giờ nó cũng bắt đầu từ một động cơ, một nhu cầu giao
tiếp (ý đồ giao tiếp) và được cụ thể hóa thành các mục đích giao tiếp. Mục đích giao tiếp,
trình độ của đối tượng giao tiếp (HS) chi phối cách thức tạo lập VB và hiệu quả của quá trình
giao tiếp. Nếu xuất phát từ mục đích giới thiệu một danh lam thắng cảnh, một tác phẩm, một
công trình kiến trúc… thì HS sẽ hướng tới việc tạo lập VB thuyết minh; hoặc nếu mục đích
giao tiếp là thuyết phục người nghe (người đọc) tin vào quan điểm của mình trước một vấn
đề văn học, đời sống thì HS sẽ thực hành tạo lập VB nghị luận…
Bên cạnh đó, dưới ánh sáng của lí thuyết hoạt động giao tiếp, ngữ pháp VB đã làm rõ
vai trò và quá trình hình thành VB, đặc trưn._.g của VB. Những cơ sở lí thuyết này một lần nữa
khẳng định việc DHLV là một hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ.
Trước hết, theo ngữ pháp VB, câu chưa phải là đơn vị lớn nhất của ngôn ngữ, chưa thể
hiện đầy đủ chức năng giao tiếp. Hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ không dừng lại ở các
đơn vị từ ngữ, câu riêng lẻ mà bằng một chuỗi câu liên kết chặt chẽ, thể hiện một nội dung
giao tiếp thống nhất, trọn vẹn (văn bản). VB vừa là sản phẩm, vừa là phương tiện của hoạt
động giao tiếp. Hoạt động DHLV là hoạt động tạo lập VB nên tất yếu việc thực hành tạo lập
VB đó phải được diễn ra trong giao tiếp và để giao tiếp.
Một điểm nữa là quá trình tạo lập VB trong DHLV được soi sáng trên cơ sở lí thuyết
về sự hình thành VB trong giao tiếp của ngữ pháp VB. Để thấy rõ quá trình này, nhiều nhà
nghiên cứu đưa ra các mô hình giao tiếp khác nhau nhưng tựu trung lại có sáu mô hình giao
tiếp được xếp vào hai nhóm: mô hình giao tiếp coi trọng sự tạo lập văn bản (mô hình các
yếu tố và chức năng giao tiếp của Jakobson, mô hình tự điều chỉnh) và mô hình giao tiếp coi
trọng sự trao đổi (mô hình đường dẫn, mô hình vòng khép, mô hình phản hồi, mô hình giản
yếu về giao tiếp của J. Lyons). Mỗi mô hình có một ưu điểm nổi bật và những vận dụng hữu
ích đối với việc DH nhưng nhóm mô hình giao tiếp coi trọng sự tạo lập văn bản có thể vận
dụng trực tiếp vào hoạt động DHLV trong nhà trường. Mô hình các yếu tố và chức năng giao
tiếp của Jakobson được hình dung như sau:
NGỮ CẢNH
(chức năng quy chiếu)
THÔNG ĐIỆP
(chức năng thi học)
NGƯỜI PHÁT NGƯỜI NHẬN
(chức năng cảm xúc) TIẾP XÚC (chức năng tác động)
(chức năng đưa đẩy)
MÃ
(chức năng siêu ngôn ngữ)
Sơ đồ 1.2. Mô hình các yếu tố và chức năng giao tiếp của Jakobson. [3,29]
Mỗi yếu tố trong mô hình của Jakobson ứng với một nhân tố trong quá trình giao tiếp.
Người phát muốn thể hiện sự hiểu biết hoặc bày tỏ tình cảm mà chuyển đến cho người nhận
một thông điệp (hoàn chỉnh về nội dung và hình thức của VB) trong hoàn cảnh giao tiếp nhất
định (ngữ cảnh). Ngôn ngữ được lựa chọn, sắp xếp nhằm chuyển tải thông điệp (mã) phải có
tính chất chung để người phát và người nhận có thể hiểu được nhau. Quá trình giao tiếp giữa
người phát và người nhận diễn ra trực tiếp hoặc gián tiếp (tiếp xúc). Như vậy, VB trong mô
hình của Jakobson cũng chứa đựng ý chủ định của người tham gia giao tiếp và được điều
chỉnh theo sự tác động của các nhân tố ngoài VB.
Khác với mô hình của Jakobson, mô hình tự điều chỉnh (self – regulatory model) coi
cái tôi của người tạo lập VB làm trung tâm. Cả người tạo lập VB và người tiếp nhận VB đều
không chú tâm vào việc tạo ra thông tin mới như lí thuyết tiếp nhận tin mà tạo ra một thông
điệp được lấy từ tình huống giao tiếp, dựa vào tình huống giao tiếp mà điều chỉnh cách trình
bày VB cho phù hợp với đối tượng giao tiếp và thể hiện được tư chất cá nhân. Mục tiêu cơ
bản của việc tự điều chỉnh này là tạo ra sự khác biệt so với tất cả những người giao tiếp khác,
những người giao tiếp có thực hay tiềm tại. Mô hình tự điều chỉnh thiên về các VB viết mà ở
đó sự hiểu biết, cá tính sáng tạo, khả năng tự phê phán, tự điều chỉnh của cá nhân tham gia
giao tiếp thể hiện khá rõ nét. Người giao tiếp ý thức được sự tự điều chỉnh của mình, tức là ý
thức được việc lựa chọn cách diễn đạt phù hợp với hoàn cảnh giao tiếp, đối tượng giao tiếp.
Khi đó, VB là sản phẩm của từng cá nhân, thể hiện cảm xúc, thái độ, hiểu biết của cá nhân
đó, đặc biệt thể hiện được sự sáng tạo của cá nhân khi tạo ra VB để đưa vào hoạt động giao
tiếp. Mô hình này giải thích cho quá trình hình thành phong cách của nhà văn, nhà thơ khi
VB mà họ sáng tạo được độc giả tiếp nhận.
Hai mô hình trên cho chúng ta hình dung những đặc điểm của hoạt động tạo lập VB
trong LV. Việc sản sinh VB cũng phải tính đến nhu cầu giao tiếp của HS và sự chi phối của
các nhân tố giao tiếp. Đồng thời, VB phải cho biết cá tính, phẩm chất, năng lực của HS như
một chủ thể sáng tạo. Chẳng hạn, khi GV đưa ra tình huống như sau “Nhà thơ Tố Hữu từng
đặt ra câu hỏi: “Ôi sống đẹp là thế nào hỡi bạn?”. Anh (chị) hãy viết một bài văn 600 chữ
để trả lời cho câu hỏi của nhà thơ.” nghĩa là GV đang yêu cầu HS thực hiện một hoạt động
giao tiếp bằng VB. Nếu tình huống này đủ sức khơi dậy nhu cầu giao tiếp của HS thì các em
sẽ ngẫm nghĩ và tìm cách trả lời. Quá trình suy nghĩ và hồi đáp đó là quá trình HS phân tích
các yêu cầu trong đề bài, xác định các luận điểm, luận cứ cần có và triển khai các luận điểm
đó thành một bài văn hoàn chỉnh. Trong phạm vi bài viết được quy định dài 600 chữ, HS
phải giải thích được khái niệm “sống đẹp”, chứng minh được quan điểm của mình bằng
những dẫn chứng từ văn học, cuộc sống, có những liên hệ sâu sắc đến bản thân. Tùy cách
hiểu về khái niệm “sống đẹp” trong tình huống đặt ra mà HS có những giải đáp trọn vẹn,
đầy đủ hoặc nông cạn, hời hợt; có cách xử lí vấn đề khéo léo, rõ ràng hoặc lúng túng,
ngượng ngập. Cách giải đáp vấn đề làm nên dấu ấn riêng của HS trong bài viết.
Quá trình hình thành VB trong giao tiếp còn quy định hai đặc trưng quan trọng của VB
là tính hướng nội (VB được tạo lập như một hệ thống tĩnh) và tính hướng ngoại (VB chịu sự
chi phối của các nhân tố giao tiếp). Hai đặc trưng này đặt ra yêu cầu là việc DHLV trong nhà
trường không chỉ cung cấp cho HS những kiến thức lí thuyết về VB như kết cấu của VB, các
phương thức, phương tiện liên kết trong VB, chủ đề của VB… mà còn dạy HS tạo lập VB
theo nhu cầu giao tiếp, hướng đến chức năng giao tiếp của VB. Qua hoạt động giao tiếp, HS
hiểu rõ hơn kết cấu của VB, các KN cần có để tạo lập VB, đồng thời luyện tập từng KN LV,
luyện tập các thao tác tư duy, cách thức kết hợp kiến thức đã có và vận dụng tất cả những
KN, thao tác tư duy, kiến thức đó vào việc sản sinh VB mới theo nhu cầu giao tiếp cá nhân.
Tóm lại, DHLV là một hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ nên việc DHLV, nhất là
dạy thực hành, cần được tổ chức thành hoạt động giao tiếp. Nói cách khác, các cơ sở lí
thuyết nêu trên cho phép khẳng định quan điểm giao tiếp là quan điểm đúng đắn, phù hợp
khi vận dụng vào việc DHLV ở nhà trường phổ thông.
1.2.3. Cách dạy thực hành làm văn theo quan điểm giao tiếp
Việc DHLV theo quan điểm giao tiếp thể hiện ở quy trình áp dụng PP giao tiếp vào
các nội dung DH (tổ chức thành các bước, các khâu hoạt động của GV và HS) và cách thức
vận dụng các hình thức, phương tiện DH theo PP giao tiếp. Quan điểm giao tiếp trong
DHLV yêu cầu cả người dạy và người học ngoài việc nắm vững chuẩn kiến thức ngôn ngữ
còn phải biết hoạch định chiến lược giao tiếp (cách thức đưa ngôn ngữ vào hoạt động hành
chức).
Đối với GV, chiến lược giao tiếp bắt đầu bằng việc xác định mục đích giao tiếp. Mục
đích đó là giúp HS hình thành KN, kĩ xảo LV, vận dụng các KN LV vào việc tạo lập VB
hoàn chỉnh.
Hoạt động tiếp theo trong chiến lược giao tiếp của GV là xác định đặc điểm HS – đối
tượng giao tiếp. Trước khi tổ chức hoạt động thực hành, GV phải tìm hiểu nhu cầu, năng lực
nhận thức, tâm lí lứa tuổi (sở thích, tình cảm, thái độ…) của HS. Mỗi đối tượng HS thích
ứng với từng hoạt động thực hành, từng kiểu bài tập hình thành KN, kĩ xảo. Chẳng hạn, với
một lớp học cụ thể, GV phân loại đối tượng HS theo trình độ để thiết kế bài tập thực hành
cho các em. Đối tượng HS khá, giỏi, có nhận thức nhạy bén thường hứng thú với những dạng
bài tập thực hành mang tính tư duy cao. Đối tượng HS yếu cần được giao những bài tập thực
hành theo mức độ vừa (không đòi hỏi quá cao về mặt tư duy cũng như độ phức tạp trong các
thao tác thực hành). Để thực hành lập dàn ý bài văn nghị luận, đối với HS khá, giỏi, GV đưa
ra bài tập “Hình ảnh Bê-li-cốp (Người trong bao – Sê-khốp) trong những con người của xã
hội hiện đại” nhưng đối với HS trung bình hoặc yếu, GV đưa ra bài tập dễ hơn “Suy nghĩ
của anh (chị) về nhân vật Bê-li-cốp trong truyện ngắn Người trong bao (Sê-khốp)” và kèm
theo những gợi ý thực hành.
Chiến lược giao tiếp của GV còn thể hiện ở khả năng định hướng hoạt động giao tiếp
(thiết kế tình huống giao tiếp, miêu tả tình huống giao tiếp và dẫn dắt HS thực hiện quá trình
giao tiếp, kiểm tra, đánh giá hoạt động giao tiếp của HS). Việc tạo tình huống giao tiếp trong
dạy thực hành LV cần phù hợp với trình độ và tâm lí của HS, có khả năng tác động đến nhu
cầu giao tiếp của các em. Tình huống giao tiếp trong DHLV là những tình huống giả định, do
GV tạo ra, giả định là tình huống thực tế trong cuộc sống. Hoạt động này tương ứng với khâu
thiết kế bài tập thực hành và các đề LV khi kiểm tra KN LV ở HS. Ví dụ: Tình huống sau
đây có thể sử dụng trong hoạt động thực hành KN lập dàn ý hoặc kiểm tra bằng hình thức tự
luận “Suy nghĩ của anh (chị) về cách khẳng định bản thân của giới trẻ ngày nay”. Tình
huống này có thể tạo được nhu cầu bộc lộ của HS vì ở lứa tuổi vị thành niên, nhận thức cuộc
sống và mong muốn được khẳng định bản thân của các em khá mạnh mẽ. Do đó, khi tiếp
nhận tình huống, HS sẽ dễ dàng thể hiện quan điểm, cảm xúc hơn.
Muốn dẫn dắt HS tham gia vào tình huống giao tiếp, GV cần miêu tả tình huống và tạo
hứng thú giao tiếp cho HS bằng hệ thống câu hỏi gợi mở. Cùng với hoạt động này, GV hoàn
thành chiến lược giao tiếp bằng những hình thức kiểm tra, đánh giá hoạt động thực hành LV
của HS như tự luận, bài tập trắc nghiệm, bài tập điền khuyết, vấn đáp… Điều quan trọng khi
hướng dẫn HS thực hành LV theo quan điểm giao tiếp là GV phải chủ động tạo được môi
trường giao tiếp sinh động, dân chủ nhằm giúp HS cảm nhận không khí hoạt động thoải mái,
hiểu rõ ý nghĩa và tự nguyện tham gia vào hoạt động thực hành. Những lời nhận xét chính
xác, những lời khuyến khích, động viên đúng lúc của GV chính là chất xúc tác cho HS tham
gia tích cực vào quá trình giao tiếp.
Đối với HS, chiến lược giao tiếp bắt đầu từ việc các em xác định mục đích, yêu cầu
của hoạt động giao tiếp. HS phải thấy được mình tạo lập VB đó nhằm mục đích gì: thuyết
phục người nghe (người đọc) tin vào quan điểm của HS trước vấn đề đặt ra; bày tỏ thái độ,
tình cảm (đồng tình, phản đối, ngợi khen…); đem đến cho người tham gia giao tiếp một trải
nghiệm của bản thân thông qua quá trình nghị luận… Ví dụ: Khi tiếp nhận tình huống “Một
bài học sâu sắc, ý nghĩa mà cuộc sống đã tặng cho em”, một HS lựa chọn “Bản chất của
thành công” làm đề tài cho bài viết của mình. Đó là những trải nghiệm của bản thân em từ
những gì đã quan sát, đã học hỏi trong cuộc sống.3
Khi đã có nhu cầu, mục đích giao tiếp, HS phải tiếp tục xác định đối tượng tham gia
tiếp nhận VB do các em tạo ra. Từ đó, HS lựa chọn cách thức tổ chức và trình bày suy nghĩ
(chọn ý và lập dàn ý), cách diễn đạt sao cho phù hợp với đối tượng giao tiếp và hoàn cảnh
giao tiếp. Thông thường, việc tạo lập VB của HS diễn ra trong một hoàn cảnh giao tiếp giả
định (lớp học), với những đối tượng giao tiếp giả định (GV và HS). HS giao tiếp với GV khi
tham gia vào hoạt động khám phá tình huống có vấn đề dưới sự hướng dẫn của GV. HS cũng
tự giao tiếp với nhau khi các em cùng hợp tác làm việc để giải quyết tình huống hoặc đánh
giá, nhận xét kết quả thực hành của nhau. VB – sản phẩm của mỗi cá nhân không nhất thiết
chỉ do GV tiếp nhận, đánh giá mà các HS khác cũng có thể tham gia tiếp nhận như một chủ
thể giao tiếp độc lập. Khi có sự phản hồi từ GV hoặc từ các thành viên khác trong lớp, HS sẽ
tự điều chỉnh nội dung giao tiếp (VB), rút ra những kinh nghiệm làm bài, hoàn thiện KN
thực hành LV.
3 Bài viết của Hà Minh Ngọc, HS khối chuyên văn Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, khóa 2006-2008. Bài đăng trên báo Giáo
dục, Thứ năm, 26-10-2006.
Chẳng hạn, khi thực hành viết đoạn văn nghị luận (NL) theo một câu chủ đề cho sẵn,
mỗi HS viết một đoạn và giả định người tiếp nhận đoạn văn đó là những HS cùng nhóm. Khi
tiếp nhận đoạn văn, mỗi HS trong nhóm sẽ đưa ra những nhận xét khác nhau: sự rõ ràng, đầy
đủ về nội dung; sự mạch lạc trong diễn đạt… Sau khi có sự phản hồi từ các thành viên trong
nhóm, HS sẽ tự điều chỉnh lại nội dung, hình thức của đoạn văn. Khi đoạn văn do HS viết
đến với GV – đối tượng giao tiếp có trình độ cao hơn – GV sẽ có thêm những nhận xét mới
giúp HS bổ sung, sửa chữa đoạn văn của các em. Như vậy, thông qua giao tiếp, HS từng
bước hoàn thiện KN dựng đoạn.
Quan điểm giao tiếp trong DHLV còn thể hiện ở cách thức vận dụng các hình thức và
phương tiện DH. Để phù hợp với hoạt động giao tiếp khi thực hành tạo lập VB, hình thức
DH chủ yếu là hình thức nhóm học tập, hình thức học tập cá nhân, vấn đáp trực tiếp (đối
thoại). Các hình thức học tập này vừa phát huy vai trò của từng cá nhân, vừa tạo nên sự
tương tác nhiều chiều giữa người dạy với người học và giữa người học với nhau. Các
phương tiện DH tương ứng với hình thức DH khi vận dụng quan điểm giao tiếp là hệ thống
bài tập thực hành (bài tập nêu vấn đề), các loại phiếu học tập, Graph, các phương tiện kĩ
thuật hỗ trợ (phần mềm Power Point, máy chiếu Projector)…
Nhìn chung, việc DHLV theo quan điểm giao tiếp giúp HS hình thành được năng lực
giao tiếp cũng như sự chủ động khi tham gia vào các hoạt động giao tiếp đa dạng, phong phú
trong đời sống.
1.3. Thực tế dạy học làm văn ở nhà trường phổ thông hiện nay
1.3.1. Về cấu tạo chương trình và nội dung bài học làm văn
Chương trình LV trong SGK Ngữ văn bậc THPT hiện nay về cơ bản có những điểm
kế thừa và đổi mới so với chương trình LV trong SGK Làm văn (CCGD). Trên cơ sở so sánh
cấu tạo chương trình LV của hai bộ sách, chúng tôi muốn làm rõ những ưu điểm nổi bật của
chương trình LV trong SGK Ngữ văn với việc dạy thực hành LV trong nhà trường.
SGK Làm văn
(Chương trình cũ)
SGK Ngữ văn
(Chương trình mới)
- Chương trình tập trung hình
thành kĩ năng tạo lập VB NL.
- Chương trình tập trung hình
thành kĩ năng tạo lập VB NL.
Văn NL đã được giới thiệu từ
Cấu tạo
chương
trình
- Văn NL được chia thành các
kiểu bài: giải thích, chứng minh,
bình luận, phân tích, bình giảng.
- SGK cấu tạo thành hai phần rõ
rệt: phần đầu cung cấp lí thuyết
và phần sau đưa ra các dạng đề
bài. Hầu như không có sự xen kẽ
giữa lí thuyết và thực hành.
- Ngoài 8 bài viết trong một năm,
chương trình không có những bài
thực hành riêng cho HS rèn
luyện kĩ năng.
lớp 7, 8, 9 và được mở rộng,
nâng cao ở bậc THPT.
- Không chia văn NL thành các
kiểu bài mà chia thành các thao
tác NL (giải thích, chứng minh,
phân tích, so sánh, bác bỏ, bình
luận…).
- Sự phân bố giữa lí thuyết và
thực hành gần như ngang bằng
nhau. Cứ sau mỗi bài cung cấp
lí thuyết tạo lập VB NL lại có
một bài thực hành.
- Bên cạnh 8 bài viết trong một
năm, HS có những tiết thực
hành riêng để rèn luyện KN.
Cấu tạo
nội
dung
bài học
- Mỗi bài học trong chương trình
LV gồm hai phần: nội dung bài
học, luyện tập.
- Bài học cung cấp sẵn kiến thức
lí thuyết cho HS, không có chỉ
dẫn thực hành
- Mỗi bài học gồm hai hoặc bốn
phần: Kết quả cần đạt, nội dung
bài học, Ghi nhớ, Luyện tập.
Đối với bài thực hành, nội dung
bài gồm 2 phần: Kết quả cần
đạt và Luyện tập.
- Bài học hướng dẫn HS thực
hành để đi tới lĩnh hội kiến
thức.
Cách cấu tạo chương trình và nội dung bài học trong hai bộ sách SGK Làm văn
(CCGD) và SGK Ngữ văn ở bậc THPT thể hiện nhiều điểm tương đồng và khác biệt.
Về điểm tương đồng, cả hai chương trình LV đều coi trọng việc giúp HS tạo lập VB
nghị luận (loại VB khó tạo lập đối với HS) dựa trên đặc điểm tâm lí và trình độ của HS ở bậc
THPT. Đặc biệt, phần thực hành LV trong từng bài học luôn được chú ý khá nhiều với
những yêu cầu thực hành bám sát vào mục tiêu và nội dung bài học. Việc chương trình LV
trong SGK Ngữ văn vẫn giữ phần thực hành LV với số lượng bài viết là 8 bài/năm và phần
luyện tập trong mỗi bài học là sự kế thừa những ưu điểm của chương trình LV trong SGK
Làm văn (CCGD). Điều đó chứng tỏ chương trình LV luôn tập trung vào việc triển khai mục
tiêu DHLV cũng như phát huy bản chất của phân môn trong quá trình DH.
Về sự khác biệt, chúng tôi nhận thấy có một số điểm sau đây:
Thứ nhất, cấu tạo chương trình LV ở SGK Ngữ văn cân đối và hợp lí hơn. Trước đó,
HS đã được làm quen với VB NL và những thao tác lập luận đơn giản (giải thích, chứng
minh) nên việc thực hành tạo lập VB NL ở bậc THPT không hoàn toàn xa lạ hoặc gặp quá
nhiều khó khăn với HS. SGK Ngữ văn không chia VB NL thành các kiểu bài riêng lẻ giống
như SGK Làm văn cũ mà chia thành các thao tác NL, tạo điều kiện cho HS nắm bắt và thực
hành từng thao tác theo mức độ khó dần. Kết hợp với việc thực hành các thao tác lập luận,
HS được rèn luyện các KN tìm hiểu đề, lập dàn ý, diễn đạt… trong suốt quá trình học LV từ
lớp 10 đến lớp 12 (trong khi SGK Làm văn lại dành hầu hết các KN này vào lớp cuối của bậc
học). Sự hợp lí này góp phần làm tăng hiệu quả thực hành LV của HS bởi lẽ một bài văn NL
có thể kết hợp nhiều thao tác khác nhau chứ không bó buộc trong một thao tác nhất định.
Việc lựa chọn thao tác lập luận tùy thuộc hoàn toàn vào yêu cầu của đề bài và khả năng nghị
luận của HS. Các KN LV được tách thành những bài học riêng giúp HS có điều kiện để
luyện tập, lặp lại nhiều lần hoạt động thực hành, từ đó nắm vững KN LV nghị luận, tránh
được những sai sót không đáng có trong quá trình làm bài.
Thứ hai, ưu điểm thấy rõ trong cấu tạo chương trình LV của SGK Ngữ văn so với
SGK Làm văn là sự phân bố giữa giờ học lí thuyết và giờ học thực hành. SGK Ngữ văn tạo
điều kiện cho HS được thực hành nhiều hơn khi sắp xếp bài thực hành ngay sau bài lí thuyết.
Chẳng hạn, sau bài Thao tác lập luận bác bỏ là bài Luyện tập thao tác lập luận bác bỏ (SGK
Ngữ văn 11, tập 2, chương trình chuẩn). Như vậy, ngoài 8 bài viết giống như SGK Làm văn,
HS còn có những giờ thực hành LV trên lớp, giảm được sự lúng túng và khó khăn khi vận
dụng thao tác, KN vào hoạt động tạo lập VB.
Mặt khác, trong mỗi bài học, SGK Ngữ văn đi theo hướng tinh giản lí thuyết và chú
trọng thực hành. Phần lí thuyết nặng nề, khô khan được lược bớt và thay vào đó là những câu
hỏi hướng dẫn HS tìm hiểu vấn đề, rút ra những kết luận về tri thức LV. Căn cứ vào những
câu hỏi gợi ý trong bài học, GV hướng dẫn HS nắm bắt kiến thức lí thuyết, HS làm việc
nhiều hơn, thực sự trở thành chủ thể của quá trình học.
Thứ ba, trong cách xây dựng bài học lí thuyết LV ở SGK Ngữ văn, một điểm mới có
thể nhận thấy rõ là phần Kết quả cần đạt và phần Ghi nhớ. Hai phần này giúp GV và HS
định hướng nội dung bài học, PPDH và những kiến thức trọng tâm cần khắc sâu, cần thực
hành vận dụng. Kiến thức lí thuyết được thu gọn, thời gian dành cho thực hành được ưu tiên
tối đa. HS không phải vất vả để đưa vào trí nhớ khối lượng kiến thức đồ sộ mà chỉ cần nắm
những ý cơ bản nhất, dựa vào đó để triển khai hoạt động thực hành.
Cách xây dựng nội dung bài học của SGK Ngữ văn hạn chế được những giờ học thụ
động, nặng nề, hạn chế lối dạy áp đặt, nhồi nhét kiến thức. Yếu tố thực hành trong chương
trình LV thuộc SGK Ngữ văn được đề cao, tập trung hơn, phản ánh đúng bản chất của phân
môn, phát huy yếu tố tích cực của người học.
Thứ tư, SGK Làm văn chú trọng đến các kiểu VB NL và phần NL văn học khiến cho
phạm vi làm bài của HS bị bó hẹp, kết quả là sự lặp lại nhàm chán trong các đề bài, kiểu bài,
làm nảy sinh tình trạng văn mẫu, sao chép, học vẹt. Tình trạng này được khắc phục khá rõ
trong SGK Ngữ văn khi văn NL văn học và văn NL xã hội được xem trọng như nhau. Hơn
nữa, văn NL xã hội cũng không giới hạn trong những bài bình luận về tư tưởng, đạo lí mà
phủ sóng khá rộng sang các hiện tượng đời sống, đưa vào đề bài những vấn đề quen thuộc,
gần gũi với HS. Những gợi ý trong SGK về các dạng đề tự luận mở giúp GV có điều kiện lựa
chọn hoặc xây dựng những tình huống trong DH, những bài tập thực hành đa dạng, phong
phú, khơi gợi được nhiều hứng thú cho người học hơn. HS được chủ động trình bày hiểu
biết, thái độ, quan điểm, tình cảm của bản thân trước những vấn đề mà các em gặp trong đời
sống thường ngày.
Nhìn chung, những điểm mới trong cách xây dựng chương trình và nội dung bài học
LV của SGK Ngữ văn phần nào đã phát huy được những ưu điểm và hạn chế những khuyết
điểm của SGK Làm văn (CCGD). Trong đó, ưu điểm nổi bật của SGK Ngữ văn chính là phát
huy gần như tối đa bản chất thực hành của phân môn. Cấu tạo nội dung bài học và PPDH đều
đi theo hướng lấy người học làm trung tâm, đưa HS vào hoạt động thực hành, bằng thực
hành để rèn luyện thành thạo KN LV, vận dụng KN đã học tạo lập thành công VB NL, hoàn
tất quá trình DHLV ở bậc THPT. Những ưu điểm trên là cơ sở quan trọng để GV vận dụng
quan điểm giao tiếp vào DH thực hành LV.
1.3.2. Một vài đánh giá về việc dạy học làm văn ở nhà trường phổ thông hiện nay
Trong phạm vi và điều kiện khảo sát của mình, chúng tôi nhận thấy thật khó để có thể
đánh giá cho sâu sắc, toàn diện về thực trạng DH LV trong nhà trường phổ thông hiện nay.
Bằng kinh nghiệm của một GV trực tiếp đứng lớp giảng dạy và dựa trên phiếu khảo sát,
chúng tôi muốn nhấn mạnh đến một số khía cạnh của thực tế DHLV và xem đó là cơ sở thực
tiễn để vận dụng quan điểm giao tiếp vào dạy thực hành LV.
Về phía GV, ngoài kiến thức chuyên ngành, phương pháp DH bộ môn, thực tế cuộc
sống hiện đại và tâm lí HS đã giúp GV có những cách nhìn nhận mới mẻ, nhiều chiều, từ đó
thiết kế những tình huống thực hành sinh động, tạo sự thu hút đối với HS. Nhiều GV đã
“đánh trúng” vào tâm tư, tình cảm của HS bằng khả năng nắm bắt những vấn đề mà HS quan
tâm, biết cách tạo điều kiện cho HS được nói, được viết những điều các em ấp ủ trong lòng.
Như vậy, năng lực sư phạm vững vàng và vốn hiểu biết xã hội của GV từ trước đến nay là
một trong những nhân tố đầu tiên quyết định sự thành công của giờ thực hành LV.
Mặt khác, những đổi mới về nội dung chương trình DHLV đã tạo điều kiện thuận lợi
cho GV áp dụng nhiều PP, HTDH đa dạng vào tiết dạy thực hành LV, nhất là việc áp dụng
PPDH đặc thù của phân môn. Nhiều GV hiểu rõ PP giao tiếp, cách thức vận dụng PP giao
tiếp trong DH thực hành LV cho thấy ở một mức độ nào đó, việc vận dụng PP giao tiếp đã
trở thành một sự tự ý thức của người dạy. Hơn nữa, việc tinh giản lí thuyết và tăng thời
lượng thực hành giúp GV hạn chế được những tiết dạy chay, học chay. GV chủ động và sáng
tạo hơn khi thiết kế các hoạt động thực hành cho HS.
Định hướng đổi mới hình thức kiểm tra, đánh giá (đổi mới cách ra đề, kiểm tra bằng
trắc nghiệm, tự luận, bằng graph, phiếu học tập…) và sự hỗ trợ của những phương tiện kĩ
thuật DH hiện đại đã mang đến những màu sắc sinh động cho tiết thực hành LV. Thực tế cho
thấy những đề LV trong một số kì thi gần đây đã đón nhận những lời khen của số đông GV
và HS bởi cách tạo tình huống thú vị. Đề văn không chỉ thu hút HS bởi những vấn đề vừa
quen thuộc vừa mới lạ mà còn bởi cách đặt vấn đề khiến HS phải suy ngẫm thật kĩ trước khi
đặt bút viết. HS cũng tỏ ra hứng thú khi được thực hành bằng nhiều hình thức học tập, tự
kiểm tra, tự đánh giá hoạt động của chính các em.
Kết quả DHLV hiện nay phản ánh khá rõ nét đặc điểm tâm lí, trình độ hiểu biết của
HS. Cuộc sống khách quan tác động đến HS khiến cho suy nghĩ, hành động của các em khác
thế hệ cha anh rất nhiều. Hầu hết HS đều tỏ ra nhanh nhạy trước các vấn đề về đời sống, lứa
tuổi, hứng thú với những điều mới lạ và mong muốn thể hiện cái tôi bằng nhiều hình thức.
Do đó, việc lựa chọn nội dung, PPDH thực hành LV không tách rời mục đích giáo dục nhân
cách, quan điểm sống, thái độ sống cho HS.
Nhìn một cách khách quan, tất cả những yếu tố thuận lợi trên đã mang lại sự thay đổi
tích cực cho việc DHLV trong nhà trường phổ thông. Tuy nhiên, việc dạy và học LV, nhất là
dạy thực hành LV hiện nay vẫn còn vấp phải một số khó khăn, trở ngại do điều kiện khách
quan lẫn chủ quan và đòi hỏi cần có giải pháp thiết thực để nâng cao chất lượng DH phân
môn này.
Từ kết quả khảo sát, chúng tôi nhận thấy phần nhiều GV và HS còn chưa quan tâm
thật sự đến tiết học thực hành nên yêu cầu rèn luyện KN, kĩ xảo cho HS thường bị xem nhẹ.
Một số GV dạy tiết thực hành LV theo cách đối phó, dạy cho đủ số giờ, đủ giáo án và cách
thức triển khai PPDH thực hành còn mang tính qua loa, đại khái. Bên cạnh đó, GV cũng
chưa khai thác hết những chỉ dẫn về PPDH trong SGK, SGV, đôi khi tỏ ra lúng túng trong
việc vận dụng PP vào hoạt động DH.
Trong hoạt động thực hành LV, đa số HS chưa hiểu hết ý nghĩa của tiết thực hành nên
chưa có tâm lí tham gia tích cực vào giờ học. Nhiều em còn yếu khi thực hành các KN phân
tích đề, tìm ý, lập dàn ý, đặc biệt là khả năng lập luận, diễn đạt ý tưởng của mình. Ngoài tiết
thực hành trên lớp, HS chưa có ý thức tự thực hành KN LV, hoặc cho đó là những KN quá
khó nên các em thường bỏ qua. Vì thế, các lỗi dễ bắt gặp trong bài văn của HS là các lỗi
thiếu ý, lặp ý, lạc đề, bố cục bài viết không rõ ràng, mạch lạc…
Một thực tế nữa là sự mâu thuẫn giữa số lượng KN LV cần thực hành với thời lượng
quy định trong chương trình. Mặc dù chương trình LV đã có sự xen kẽ hợp lí giữa tiết học lí
thuyết và tiết học thực hành nhưng thời gian cho các bài thực hành quá ít. Mỗi bài thực hành
chỉ được bố trí trong phạm vi một tiết (45 phút) nên không đủ cho GV và HS hoạt động, rất
khó để kiểm tra, đánh giá mức độ thành thạo KN của HS. Một số KN LV phức tạp (KN lập
dàn ý, KN dựng đoạn…) cần được luyện tập nhiều lần nhưng giới hạn thời gian đã khiến cho
những tiết thực hành KN này trở thành những tiết học theo kiểu “cưỡi ngựa xem hoa” và làm
GV gặp nhiều trở ngại khi xử lí nội dung bài học theo mục tiêu DH đã đề ra.
Xuất phát từ những khía cạnh thực tế của việc DHLV trong nhà trường phổ thông hiện
nay, chúng tôi cho rằng nếu xác định đúng đắn mục đích DH thực hành LV, đặc điểm đối
tượng HS và lựa chọn, áp dụng PPDH một cách phù hợp thì kết quả DH LV sẽ có những
bước tiến xa hơn.
Chương 2
VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM GIAO TIẾP
TRONG VIỆC DẠY THỰC HÀNH LÀM VĂN Ở BẬC THPT
2.1. Vai trò, nguyên tắc dạy thực hành làm văn và những kĩ năng làm văn cần rèn
luyện cho HS
2.1.1. Vai trò của thực hành làm văn
Việc dạy thực hành LV là một bước giúp HS củng cố, mở rộng lí thuyết, vận dụng
những gì đã học vào thực tiễn giao tiếp; hình thành những KN, kĩ xảo trong việc sử dung
tiếng mẹ đẻ, phối hợp những kiến thức riêng lẻ thành kiến thức tổng hợp. Thông qua hoạt
động thực hành LV, HS được phát triển toàn diện về tư duy khoa học, tư duy logic, tư duy
sáng tạo. Hoạt động tạo lập VB, nhất là tạo lập VB NL xã hội, còn giúp HS rèn luyện KN
sống, định hình phong cách và chuẩn mực giao tiếp khi tham gia các hoạt động xã hội đa
dạng.
2.1.2. Nguyên tắc dạy thực hành làm văn
Để đảm bảo được tính khách quan, khoa học, việc dạy thực hành LV theo quan điểm
giao tiếp cần dựa trên một số nguyên tắc cơ bản sau:
Thứ nhất, việc DH cần bám sát vào mục tiêu và nội dung bài học trong SGK. Mỗi bài
học trong SGK và SGV đều có một phần trình bày mục tiêu DH (phần Kết quả cần đạt) giúp
GV và HS định hướng hoạt động thực hành, đảm bảo nội dung trọng tâm của bài học. Nếu
không xác định được mục tiêu thì GV khó thiết kế được các hoạt động thực hành cho HS
cũng như khó đánh giá được mức độ hình thành KN, kĩ xảo ở các em.
Thứ hai, hoạt động DH phải được tổ chức trên tinh thần hướng vào hoạt động giao
tiếp, tạo môi trường giao tiếp, nhu cầu giao tiếp cho HS, lấy hoạt động giao tiếp làm mục
đích và phương tiện đánh giá kết quả DH thực hành. Nguyên tắc này đảm bảo việc vận dụng
quan điểm giao tiếp vào DH thực hành LV cần phải được thực hiện theo nhiều mức độ: diện
và điểm, rộng và sâu.
Thứ ba, GV cần chú ý phát huy sự năng động, sáng tạo, tạo ra hứng thú nhận thức và
nhu cầu tham gia hoạt động thực hành ở HS. Bản thân HS phải ý thức được ý nghĩa của hoạt
động thực hành, có mong muốn được học hỏi, khám phá và vận dụng kiến thức.
Thứ tư, hoạt động DH thực hành LV cần có những tiêu chí, hình thức kiểm tra, đánh
giá, đo lường hiệu quả hình thành KN, kĩ xảo ở HS.
2.1.3. Những kĩ năng làm văn cần rèn luyện cho HS
Chương trình LV bậc THPT tập trung rèn luyện kĩ năng (KN) tạo lập VB NL nên
ngoài những KN chung của LV như KN phân tích đề, KN trình bày VB, GV cần chú ý tổ
chức cho HS thực hành thành thạo KN tìm ý, lập dàn ý bài văn NL, KN diễn đạt, lập luận (sử
dụng các thao tác lập luận), KN tóm tắt VBNL.
So với các KN khác, KN tìm ý, lập dàn ý và KN diễn đạt, lập luận của văn NL khó
hơn, đòi hỏi cao hơn về mặt tư duy. Nhiều HS biết tìm ý nhưng không biết sắp xếp ý cho hợp
lí, có ý nhưng không biết cách thức lập luận làm rõ vấn đề. Do yêu cầu cao và khó của những
KN này, HS cần được luyện tập nhiều lần ở từng đơn vị KN và kết hợp khéo léo trong cả bài
làm.
2.2. Vận dụng quan điểm giao tiếp trong việc dạy thực hành các kĩ năng làm văn ở
bậc THPT
2.2.1. Trong việc dạy kĩ năng phân tích đề
2.2.1.1. Mục đích, yêu cầu
a. Mục đích
Việc thực hành KN phân tích đề trong LV là hoạt động định hướng giao tiếp đầu tiên
đối với người dạy và người học. Người dạy xây dựng được hệ thống bài tập thực hành phân
tích đề phù hợp với từng đối tượng giao tiếp sao cho qua hoạt động thực hành, HS nhận biết
được những yêu cầu của đề bài về vấn đề (nội dung) NL, thao tác NL cần được sử dụng và
phạm vi NL, từ đó định hướng tìm ý, lập dàn ý sát với nội dung NL, tránh tình trạng lạc đề,
lệch đề. Đối với người học, việc thực hành KN này bằng hoạt động giao tiếp vừa giúp HS
thành thạo trong việc nhận biết và phân loại được các dạng đề NL, thực hành với các dạng đề
theo mức độ từ dễ đến khó vừa hình thành thói quen xác định mục đích tạo lập VB qua việc
phân tích đề bài.
b. Yêu cầu
- Hệ thống bài tập phân tích đề phải được lựa chọn phù hợp với nội dung bài học thực
hành và trình độ của HS.
- HS nắm vững cách thức phân tích đề, biết phát hiện những yêu cầu của đề bài và
những từ khóa thể hiện yêu cầu đó.
- Mức độ thành thạo KN phân tích đề là thước đo hiệu quả của h._.àm văn (tạo lập văn bản) trong chương trình, sách
giáo khoa tiếng Việt, làm văn ở trường phổ thông (từ lớp 1 đến lớp 12), Ngôn ngữ (16),
56-61.
47. Phạm Văn Tình (2007), Tóm tắt văn bản và một phương pháp tóm tắt văn bản tự động,
Ngôn ngữ và Đời sống (9), 10-14.
48. Nguyễn Thị Phương Thảo (2000), Dạy hàm ngôn là dạy nghệ thuật giao tiếp cho học
sinh Trung học phổ thông, Nghiên cứu giáo dục, (12), 14-15.
49. Trần Ngọc Thêm (1999), Hệ thống liên kết văn bản tiếng Việt, NXB Giáo dục.
50. Đỗ Ngọc Thống (1994), Về môn làm văn ở trung học phổ thông, Nghiên cứu giáo dục,
(1), 22.
51. Đỗ Ngọc Thống (2006), Tìm hiểu chương trình và sách giáo khoa Ngữ văn trung học
phổ thông, NXB Giáo dục.
52. Đỗ Ngọc Thống (2007), TS. Phạm Minh Diệu, TS Nguyễn Thành Thi, Làm văn, (Dùng
cho các trường cao đẳng sư phạm), NXB Đại học sư phạm.
53. Đỗ Ngọc Thống (2008), Đề văn nghị luận xã hội trong chương trình Ngữ văn, Văn học
và Tuổi trẻ (155), 19-23.
54. Đỗ Ngọc Thống (2008), Đề thi môn Ngữ văn THPT theo yêu cầu phân hóa, Văn học và
Tuổi trẻ (177), 26-30.
55. Đỗ Ngọc Thống (2002), Đổi mới dạy và học môn Ngữ văn ở THCS, NXB Giáo dục, Hà
Nội.
56. Nguyễn Thị Thu Thủy (2008), Bác bỏ và dạy học lập luận bác bỏ trong chương trình
Ngữ văn 11 Trung học phổ thông, Giáo dục, (188), 21-23.
57. Phan Thị Thủy (2006), Dạy làm văn ở trung học cơ sở theo quan điểm giao tiếp, Giáo
dục, (138), 26-27.
58. Trần Thị Bích Trà (2007), Yêu cầu của giao tiếp sư phạm trong hoạt động dạy học, Giáo
dục, (154), 9-10.
59. Nguyễn Trí (2000), Kinh nghiệm dạy ngôn bản theo phương hướng giao tiếp ở một số
nước, Nghiên cứu giáo dục, (3), 18-19.
60. Nguyễn Trí (1996), Dạy ngôn bản dạng nói và dạng viết trong giao tiếp và để giao tiếp,
Nghiên cứu giáo dục, (12), 25-27.
61. Nguyễn Trí (2007), Tình huống giao tiếp, tình huống giao tiếp giả định và việc dạy hội
thoại, (176), 17-18.
62. Nguyễn Trí, Nguyễn Trọng Hoàn, Đinh Thái Hương (2001), Một số vấn đề đổi mới
phương pháp dạy học Văn – Tiếng Việt, NXB Giáo dục.
63. Bùi Minh Toán (1992), Về quan điểm giao tiếp trong giảng dạy tiếng Việt, Nghiên cứu
giáo dục, (5), 24-25.
64. Nguyễn Đức Tồn (2003), Mấy vấn đề lí luận và phương pháp dạy - học từ ngữ tiếng Việt
trong nhà trường, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.
65. Trường Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh (2003), Hội thảo Đổi mới giảng dạy
Ngữ văn ở trường đại học 2003, NXB Đại học Quốc gia Tp. HCM.
66. Thái Duy Tuyên (1999), Những vấn đề cơ bản của giáo dục học hiện đại, NXB Giáo dục
Hà Nội.
PHỤ LỤC
PHỤ LỤC 1:
PHIẾU THAM KHẢO Ý KIẾN GIÁO VIÊN
Kính gửi quý thầy cô!
Nhằm giúp cho việc dạy học Làm văn (LV), đặc biệt là văn nghị luận ở bậc THPT đạt
hiệu quả cao hơn, chúng tôi rất mong nhận được ý kiến đóng góp của quý thầy cô thông qua
phiếu tham khảo này. Mong quý thầy cô vui lòng trả lời cho các câu hỏi dưới đây. Xin chân
thành cảm ơn quý thầy cô!
(Xin quý thầy cô đánh dấu X vào ô trống, một câu hỏi có thể lựa chọn nhiều phương
án trả lời).
1. Theo Thầy/Cô, cách sắp xếp nội dung của chương trình LV nghị luận trong SGK Ngữ văn
hiện nay (1 tiết lí thuyết, 1 tiết thực hành) là cách sắp xếp:
Rất hợp lí
Hợp lí
Tương đối hợp lí
Không hợp lí
2. Khi dạy thực hành LV nghị luận cho HS, Thầy/Cô thường áp dụng những phương pháp
(PP) nào?
PP phân tích ngôn ngữ
PP luyện theo mẫu
PP giao tiếp
PP thuyết giảng
Các PP khác:…………………………………………………………….
3. Thầy/Cô hiểu thế nào về PP giao tiếp?
PP giao tiếp là PP tổ chức cho HS được tiếp nhận các tài liệu ngôn ngữ thông qua các
hoạt động giao tiếp, từ đó hình thành kĩ năng LV cho HS.
PP giao tiếp là PP sắp xếp các tài liệu ngôn ngữ trong quá trình dạy học sao cho vừa
đảm bảo tính chính xác, chặt chẽ vừa phản ánh được chức năng, đặc điểm của chúng
trong hoạt động giao tiếp.
PP giao tiếp là PP tổ chức cho HS được thực hành, vận dụng ngôn ngữ vào trong các
tình huống giao tiếp giả định để hình thành kĩ năng, kĩ xảo cho HS.
Cả 3 ý kiến trên đều đúng.
4. Theo Thầy/Cô, những cách thức cần triển khai PP giao tiếp khi dạy thực hành các kĩ năng
LV nghị luận là:
Xác định các ngữ liệu cần cho HS thực hành phù hợp với đặc điểm của từng đối tượng
HS.
Tổ chức các hoạt động thực hành LV sao cho HS trở thành chủ thể tích cực, sáng tạo
khi tham gia thực hành, từ đó hình thành KN, kĩ xảo LV cho HS.
Thiết kế hình thức, phương tiện dạy học phù hợp với từng hoạt động thực hành.
Tổ chức cho HS tự kiểm tra, tự đánh giá hoạt động thực hành của các em.
Các cách thức khác:………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………
5. Khi dạy thực hành tạo lập VB nghị luận, Thầy/Cô nhận thấy HS của mình thường yếu ở
những điểm nào?
HS chưa biết cách phân tích yêu cầu của đề bài.
HS chưa biết cách xây dựng dàn ý theo yêu cầu của đề bài.
HS còn yếu hoặc không biết cách vận dụng các thao tác nghị luận trong bài viết.
HS yếu trong kĩ năng diễn đạt, lập luận, chưa biết cách triển khai ý thành đoạn.
Kiến thức văn học, kiến thức cuộc sống của HS còn nhiều hạn chế.
6. Thầy/Cô sử dụng PP giao tiếp khi dạy các nội dung thực hành nào của văn nghị luận?
Thực hành KN tìm hiểu đề văn nghị luận
Thực hành KN tìm ý, lập dàn ý bài văn nghị luận
Thực hành vận dụng thao tác nghị luận
Thực hành KN liên kết đoạn, viết đoạn trong văn nghị luận
Các nội dung thực hành khác: ……………………………………………
……………………………………………………………………………
7. Những hình thức dạy học nào thường được Thầy/Cô áp dụng khi dạy thực hành các kĩ
năng LV nghị luận cho HS?
Học tập cá nhân
Học tập nhóm
Thuyết trình
Các hình thức dạy học khác: ……………………………………………..
8. Sau khi HS thực hành từng kĩ năng LV nghị luận, Thầy/Cô thường kiểm tra hiệu quả thực
hành bằng cách nào?
Kiểm tra miệng
Kiểm tra bằng đề tự luận
Kiểm tra bằng trắc nghiệm
Kiểm tra bằng phiếu học tập, Graph
Các hình thức kiểm tra khác (nếu có):……………………………………
9. Theo Thầy/Cô, những khó khăn chủ yếu trong việc dạy thực hành về văn nghị luận ở bậc
THPT hiện nay là:
Thời lượng dành cho các tiết thực hành còn quá ít.
HS chưa nắm vững các thao tác, kĩ năng nghị luận.
HS còn thụ động, khả năng tự làm việc và phối hợp hoạt động còn yếu.
Kiến thức lí thuyết LV và kĩ năng thực hành LV chưa thật sự tương xứng với nhau.
Thiếu những chỉ dẫn cụ thể về PPDH thực hành LV.
Những khó khăn khác:
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………
10. Khi tổ chức cho HS thảo luận, trao đổi trong những giờ thực hành, Thầy/Cô nhận thấy
thái độ học tập của HS như thế nào?
Rất hứng thú, tích cực
Bình thường, không mấy hào hứng
Uể oải, ít hoạt động
Thụ động, không hợp tác
11. Thầy/Cô cho rằng cách ra đề LV như thế nào sẽ đáp ứng được trình độ, tâm lí của HS
hiện nay?
Đề văn mang tính tư duy cao, bám sát vào những vấn đề thực tiễn cuộc sống.
Đề văn phù hợp với trình độ của HS, bám sát vào những vấn đề thực tiễn cuộc sống.
Đề văn phù hợp với trình độ HS, bám sát vào các tác phẩm văn học trong nhà trường.
Đề văn phù hợp với trình độ của HS, có sự liên hệ từ văn học đến cuộc sống.
Ý kiến khác: …………………………………………………………………..
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………
12. Để HS thực hành tốt các nội dung của văn nghị luận, Thầy/Cô thường hướng dẫn HS
bằng những cách nào?
Hướng dẫn HS thực hành bằng những câu hỏi gợi ý trong SGK và những chỉ dẫn trong
SGV.
Dựa trên phương pháp dạy học đặc thù của phân môn để thiết kế những hình thức,
phương tiện dạy học phù hợp với đối tượng HS và nội dung thực hành.
Kết hợp những chỉ dẫn trong SGK, SGV và thiết kế hệ thống câu hỏi hướng dẫn thực
hành.
Chỉ hoàn toàn dựa vào những câu hỏi gợi ý trong SGK.
13. Ngữ liệu về văn nghị luận mà Thầy/Cô thường sử dụng để dạy thực hành cho HS được
lấy ở đâu?
Sử dụng ngữ liệu ngay trong SGK Ngữ văn.
Ngữ liệu được chọn lọc từ bên ngoài.
Lựa chọn ngữ liệu trong SGK và ngữ liệu từ bên ngoài.
Chọn những bài viết xuất sắc của HS làm ngữ liệu.
14. Khi tổ chức một giờ học thực hành LV bằng PP giao tiếp, Thầy/Cô thường gặp những
khó khăn gì?
Không kịp thời gian.
Lớp học ồn ào.
HS thụ động.
Phát sinh những tình huống ngoài dự kiến.
15. Muốn áp dụng PP giao tiếp vào dạy học thực hành LV nghị luận (xét về phương tiện dạy
học), Thầy/Cô cho rằng nên dùng những phương tiện dạy học nào?
Hệ thống câu hỏi gợi mở.
Các dạng bài tập (bài tập tình huống, bài tập nêu vấn đề…).
Các phương tiện kĩ thuật hỗ trợ (dụng cụ học tập, giáo án điện tử,…).
Các phương tiện khác: …………………………………………………...
16. Sau những tiết dạy thực hành LV nghị luận bằng PP giao tiếp, Thầy/Cô nhận thấy kết
quả học tập của HS như thế nào?
HS có sự tiến bộ rõ rệt, vận dụng thành thạo các kĩ năng LV nghị luận, thao tác nghị
luận vào hoạt động tạo lập văn bản.
HS nắm được các kĩ năng, thao tác nghị luận nhưng chưa vận dụng thành thạo.
HS vẫn còn lúng túng trong nắm bắt các kĩ năng nghị luận cũng như vận dụng kĩ năng
nghị luận khi tạo lập văn bản.
HS tự tin, chủ động, tham gia học tập tích cực hơn.
Kính chúc quý thầy cô sức khỏe và thành công!
PHỤ LỤC 2:
PHIẾU KHẢO SÁT Ý KIẾN HỌC SINH
Các em thân mến! Môn Làm văn (LV) là môn học có vị trí quan trọng trong việc rèn
luyện kĩ năng nghe, nói, đọc, viết và kĩ năng giao tiếp cho các em. Việc viết bài LV cho
đúng, cho hay hẳn là mong muốn của nhiều em. Phần LV nghị luận ở bậc THPT có nhiều
nội dung thực hành giúp các em hình thành kĩ năng viết văn nghị luận (NL). Vì vậy, mong
các em vui lòng cho biết khó khăn và thuận lợi khi học thực hành tạo lập văn bản NL bằng
cách trao đổi ý kiến qua những câu khảo sát dưới đây nhằm tìm ra phương pháp thực hành
LV hiệu quả nhất. Chân thành cảm ơn các em. Chúc các em thành công với những bài LV và
ngày càng yêu môn Ngữ văn hơn.
(Lưu ý: Các em có thể lựa chọn một hoặc nhiều phương án trả lời. Nếu chọn phương
án nào, các em đánh dấu (x) vào ô trống của phương án đó).
1. Theo các em, việc thực hành từng thao tác, kĩ năng LV NL sau khi học xong lí thuyết là:
Rất cần thiết
Cần thiết
Bình thường
Không cần thiết
2. Trong các kĩ năng thực hành về văn NL, em thấy kĩ năng nào khó nhất?
Kĩ năng phân tích đề
Kĩ năng tìm ý, lập dàn ý bài văn NL
Kĩ năng liên kết đoạn, viết đoạn
Kĩ năng trình bày văn bản NL
3. Trong giờ thực hành LV, các em cảm thấy giờ học hiệu quả hơn khi được học theo những
hình thức nào trong các hình thức dưới đây:
GV thuyết giảng
Làm việc theo cá nhân
Thảo luận nhóm
Thuyết trình
4. Theo các em, trong những thao tác, kĩ năng LV NL dưới đây, những thao tác, kĩ năng nào
cần được thực hành nhiều nhất:
Kĩ năng tìm hiểu đề
Kĩ năng tìm ý, lập dàn ý
Kĩ năng liên kết đoạn, triển khai ý thành đoạn
Các thao tác NL (giải thích, chứng minh, phân tích, bác bỏ…)
Kĩ năng khác: ……………………………………………………………
5. Khi thực hành các kĩ năng tạo lập văn bản NL, các em cảm thấy khó khăn, lúng túng vì:
những thao tác, kĩ năng thực hành về văn NL quá khó.
những chỉ dẫn thực hành chưa cụ thể.
không biết cách diễn đạt ý tưởng, suy nghĩ.
không hiểu yêu cầu của đề bài, không nắm vững kiến thức lí thuyết.
Những khó khăn khác: …………………………………………………
…………………………………………………………………………..
6. Trước khi viết bài văn NL, các em thường thực hiện những thao tác nào dưới đây:
Xác định yêu cầu của đề bài (vấn đề NL, phạm vi NL, thao tác NL) rồi mới bắt tay vào
viết.
Xác định yêu cầu của đề, lập dàn ý cho đề bài rồi mới bắt tay vào viết.
Chỉ đọc qua đề bài rồi bắt tay vào viết.
7. Các em hứng thú với những bài tập thực hành LV như thế nào?
Bài tập có sẵn trong SGK, lấy từ các vấn đề văn học, ít phải suy nghĩ nhiều.
Bài tập có sẵn trong SGK, là những tình huống có vấn đề, gắn với thực tiễn cuộc sống.
Bài tập lấy từ tình huống giao tiếp trong thực tiễn cuộc sống.
Bài tập lấy từ một vấn đề văn học trong SGK nhưng liên hệ đến thực tiễn cuộc sống.
8. Sau khi thực hành, các em muốn được đánh giá, kiểm tra kết quả thực hành của mình như
thế nào?
GV nhận xét, đánh giá bài thực hành của các em.
Các em nhận xét, đánh giá bài thực hành của nhau; thầy cô giúp các em rút ra kết luận
cuối cùng.
Không cần phải kiểm tra, đánh giá vì sẽ mất thời gian.
Ý kiến khác:
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………
9. Khi bắt tay vào viết bài văn NL, các em cảm thấy mình gặp những khó khăn, những sai sót
gì?
Không hiểu yêu cầu của đề bài nên khi viết không bám sát vấn đề hoặc đi lệch vấn đề.
Không biết cách lựa chọn và đưa dẫn chứng từ văn học, cuộc sống vào bài viết.
Chưa biết cách diễn đạt, lập luận cho rõ ràng (lặp ý, thiếu ý, dùng từ, viết câu chưa
chính xác…).
Chưa biết cách thức tách đoạn, liên kết đoạn, viết đoạn nên phần thân bài thường chỉ
là một đoạn dài.
Những khó khăn khác: …………………………………………………
……………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………
10. Các em được thực hành các thao tác, kĩ năng LV NL bằng những phương tiện nào?
Phiếu học tập
Graph
Bài tập trắc nghiệm
Bài tập tự luận
Các phương tiện học tập khác:……………………………………………
Chúc các em học tập thật tốt!
PHỤ LỤC 3: KẾT QUẢ KHẢO SÁT Ý KIẾN GIÁO VIÊN
Câu Nội dung khảo sát Kết quả
khảo sát
SL %
1 Theo Thầy/Cô, cách sắp xếp nội
dung của chương trình LV nghị luận
trong SGK Ngữ văn hiện nay (1 tiết
lí thuyết, 1 tiết thực hành) là cách
sắp xếp:
Rất hợp lí 1 2
Hợp lí 4 8
Tương đối hợp lí 42 84
Không hợp lí 3 6
2 Khi dạy thực hành LV nghị luận cho
HS, Thầy/Cô thường áp dụng những
phương pháp (PP) nào?
PP phân tích ngôn ngữ 2 4
PP luyện theo mẫu 3 6
PP giao tiếp 45 90
PP thuyết giảng 0 0
3 Thầy/Cô hiểu thế nào về PP giao
tiếp?
PP giao tiếp là PP tổ chức cho
HS được tiếp nhận các tài liệu
ngôn ngữ thông qua các hoạt
động giao tiếp, từ đó hình
thành kĩ năng LV cho HS.
0 0
PP giao tiếp là PP sắp xếp các
tài liệu ngôn ngữ trong quá
trình dạy học sao cho vừa đảm
bảo tính chính xác, chặt chẽ
vừa phản ánh được chức năng,
đặc điểm của chúng trong hoạt
động giao tiếp.
2 4
PP giao tiếp là PP tổ chức cho
HS được thực hành, vận dụng
ngôn ngữ vào trong các tình
huống giao tiếp giả định để
hình thành kĩ năng, kĩ xảo cho
HS.
35 70
Cả 3 ý kiến trên đều đúng. 13 26
4 Theo Thầy/Cô, những cách thức cần
triển khai PP giao tiếp khi dạy thực
hành các kĩ năng LV nghị luận là:
Xác định các ngữ liệu cần cho
HS thực hành phù hợp với đặc
điểm của từng đối tượng HS.
0 0
Tổ chức các hoạt động thực
hành LV sao cho HS trở thành
chủ thể tích cực, sáng tạo khi
tham gia thực hành, từ đó hình
thành KN, kĩ xảo LV cho HS.
47 94
Thiết kế hình thức, phương
tiện dạy học phù hợp với từng
3 6
hoạt động thực hành.
Tổ chức cho HS tự kiểm tra,
tự đánh giá hoạt động thực
hành của các em.
0 0
5 Khi dạy thực hành tạo lập VB nghị
luận, Thầy/Cô nhận thấy HS của
mình thường yếu ở những điểm nào?
HS chưa biết cách phân tích
yêu cầu của đề bài.
50 100
HS chưa biết cách xây dựng
dàn ý theo yêu cầu của đề bài.
30 60
HS còn yếu hoặc không biết
cách vận dụng các thao tác
nghị luận trong bài viết.
25 50
HS yếu trong kĩ năng diễn đạt,
lập luận, chưa biết cách triển
khai ý thành đoạn.
45 90
Kiến thức văn học, kiến thức
cuộc sống của HS còn nhiều
hạn chế.
15 30
6 Thầy/Cô sử dụng PP giao tiếp khi
dạy các nội dung thực hành nào của
văn nghị luận?
Thực hành KN tìm hiểu đề
văn nghị luận
50 100
Thực hành KN tìm ý, lập dàn
ý bài văn nghị luận
50 100
Thực hành vận dụng thao tác
nghị luận
22 44
Thực hành KN liên kết đoạn,
viết đoạn trong văn nghị luận
34 68
7 Những hình thức dạy học nào
thường được Thầy/Cô áp dụng khi
dạy thực hành các kĩ năng LV nghị
luận cho HS?
Học tập cá nhân 10 20
Học tập nhóm 50 100
Thuyết trình 5 10
8 Sau khi HS thực hành từng kĩ năng
LV nghị luận, Thầy/Cô thường kiểm
tra hiệu quả thực hành bằng cách
nào?
Kiểm tra miệng 0 0
Kiểm tra bằng đề tự luận
Kiểm tra bằng trắc nghiệm
50
3
100
6
Kiểm tra bằng phiếu học tập,
Graph
0 0
9 Theo Thầy/Cô, những khó khăn chủ
yếu trong việc dạy thực hành về văn
nghị luận ở bậc THPT hiện nay là:
Thời lượng dành cho các tiết
thực hành còn quá ít.
3 6
HS chưa nắm vững các thao
tác, kĩ năng nghị luận.
50 100
HS còn thụ động, khả năng tự
làm việc và phối hợp hoạt
động còn yếu.
40 80
Kiến thức lí thuyết LV và kĩ
năng thực hành LV chưa thật
sự tương xứng với nhau.
7 14
Thiếu những chỉ dẫn cụ thể về
PPDH thực hành LV.
1 2
10 Khi tổ chức cho HS thảo luận, trao Rất hứng thú, tích cực 33 66
đổi trong những giờ thực hành,
Thầy/Cô nhận thấy thái độ học tập
của HS như thế nào?
Bình thường, không mấy hào
hứng
17 34
Uể oải, ít hoạt động 38 76
Thụ động, không hợp tác 2 4
11 Thầy/Cô cho rằng cách ra đề LV như
thế nào sẽ đáp ứng được trình độ,
tâm lí của HS hiện nay?
Đề văn mang tính tư duy cao,
bám sát vào những vấn đề
thực tiễn cuộc sống.
0 0
Đề văn phù hợp với trình độ
của HS, bám sát vào những
vấn đề thực tiễn cuộc sống.
15 30
Đề văn phù hợp với trình độ
HS, bám sát vào các tác phẩm
văn học trong nhà trường.
10 20
Đề văn phù hợp với trình độ
của HS, có sự liên hệ từ văn
học đến cuộc sống.
25 50
12 Để HS thực hành tốt các nội dung
của văn nghị luận, Thầy/Cô thường
hướng dẫn HS bằng những cách
nào?
Hướng dẫn HS thực hành
bằng những câu hỏi gợi ý
trong SGK và những chỉ dẫn
trong SGV.
40 80
Dựa trên phương pháp dạy
học đặc thù của phân môn để
thiết kế những hình thức,
phương tiện dạy học phù hợp
với đối tượng HS và nội dung
thực hành.
5 10
Kết hợp những chỉ dẫn trong
SGK, SGV và thiết kế hệ
thống câu hỏi hướng dẫn thực
hành.
5 10
Chỉ hoàn toàn dựa vào những
câu hỏi gợi ý trong SGK.
5 10
13 Ngữ liệu về văn nghị luận mà
Thầy/Cô thường sử dụng để dạy
thực hành cho HS được lấy ở đâu?
Sử dụng ngữ liệu ngay trong
SGK Ngữ văn.
30 60
Ngữ liệu được chọn lọc từ bên
ngoài.
2 4
Lựa chọn ngữ liệu trong SGK
và ngữ liệu từ bên ngoài.
10 20
Chọn những bài viết xuất sắc
của HS làm ngữ liệu.
8 16
14 Khi tổ chức một giờ học thực hành
LV bằng PP giao tiếp, Thầy/Cô
thường gặp những khó khăn gì?
Không kịp thời gian. 5 10
Lớp học ồn ào. 50 100
HS thụ động. 30 60
Phát sinh những tình huống
ngoài dự kiến.
8 16
15 Muốn áp dụng PP giao tiếp vào dạy
học thực hành LV nghị luận (xét về
phương tiện dạy học), Thầy/Cô cho
rằng nên dùng những phương tiện
dạy học nào?
Hệ thống câu hỏi gợi mở. 50 100
Các dạng bài tập (bài tập tình
huống, bài tập nêu vấn đề…).
50 100
Các phương tiện kĩ thuật hỗ
trợ (dụng cụ học tập, giáo án
4 8
điện tử,…).
16 Sau những tiết dạy thực hành LV
nghị luận bằng PP giao tiếp,
Thầy/Cô nhận thấy kết quả học tập
của HS như thế nào?
HS có sự tiến bộ rõ rệt, vận
dụng thành thạo các kĩ năng
LV nghị luận, thao tác nghị
luận vào hoạt động tạo lập văn
bản.
5 10
HS nắm được các kĩ năng,
thao tác nghị luận nhưng chưa
vận dụng thành thạo.
50 100
HS vẫn còn lúng túng trong
nắm bắt các kĩ năng nghị luận
cũng như vận dụng kĩ năng
nghị luận khi tạo lập văn bản.
6 12
HS tự tin, chủ động, tham gia
học tập tích cực hơn.
27 54
PHỤ LỤC 4: KẾT QUẢ KHẢO SÁT Ý KIẾN HỌC SINH
1. Theo các em, việc thực hành từng thao tác, kĩ năng LV NL sau khi học xong lí thuyết là:
Rất cần thiết 150 75%
Cần thiết 50 25%
Bình thường 0 0%
Không cần thiết 0 0%
2. Trong các kĩ năng thực hành về văn NL, em thấy kĩ năng nào khó nhất?
Kĩ năng phân tích đề 200 100%
Kĩ năng tìm ý, lập dàn ý bài văn NL 150 75%
Kĩ năng liên kết đoạn, viết đoạn 200 100%
Kĩ năng trình bày văn bản NL 50 25%
3. Trong giờ thực hành LV, các em cảm thấy giờ học hiệu quả hơn khi được học theo những
hình thức nào trong các hình thức dưới đây:
GV thuyết giảng 150 75%
Làm việc theo cá nhân 40 20%
Thảo luận nhóm 200 100%
Thuyết trình 140 70%
4. Theo các em, trong những thao tác, kĩ năng LV NL dưới đây, những thao tác, kĩ năng nào
cần được thực hành nhiều nhất:
Kĩ năng tìm hiểu đề 60 30%
Kĩ năng tìm ý, lập dàn ý 120 60%
Kĩ năng liên kết đoạn, triển khai ý thành đoạn 80 40%
Các thao tác NL (giải thích, chứng minh, phân tích, bác
bỏ…)
180 90%
5. Khi thực hành các kĩ năng tạo lập văn bản NL, các em cảm thấy khó khăn, lúng túng vì:
những thao tác, kĩ năng thực hành về văn NL quá khó 100 50%
những chỉ dẫn thực hành chưa cụ thể 40 20%
không biết cách diễn đạt ý tưởng, suy nghĩ 140 70%
không hiểu yêu cầu của đề bài, không nắm vững kiến
thức lí thuyết
40 20%
6. Trước khi viết bài văn NL, các em thường thực hiện những thao tác nào dưới đây:
Xác định yêu cầu của đề bài (vấn đề NL, phạm vi NL,
thao tác NL) rồi mới bắt tay vào viết.
60 30%
Xác định yêu cầu của đề, lập dàn ý cho đề bài rồi mới bắt
tay vào viết.
20 10%
Chỉ đọc qua đề bài rồi bắt tay vào viết. 120 60%
7. Các em hứng thú với những bài tập thực hành LV như thế nào?
Bài tập có sẵn trong SGK, lấy từ các vấn đề văn học, ít
phải suy nghĩ nhiều.
40 20%
Bài tập có sẵn trong SGK, là những tình huống có vấn đề,
gắn với thực tiễn cuộc sống.
40 20%
Bài tập lấy từ tình huống giao tiếp trong thực tiễn cuộc
sống.
100 50%
Bài tập lấy từ một vấn đề văn học trong SGK nhưng liên 120 60%
hệ đến thực tiễn cuộc sống.
8. Sau khi thực hành, các em muốn được đánh giá, kiểm tra kết quả thực hành của mình như
thế nào?
GV nhận xét, đánh giá bài thực hành của các em. 120 60%
Các em nhận xét, đánh giá bài thực hành của nhau; thầy
cô giúp các em rút ra kết luận cuối cùng.
180 90%
Không cần phải kiểm tra, đánh giá vì sẽ mất thời gian. 0 0%
9. Khi bắt tay vào viết bài văn NL, các em cảm thấy mình gặp những khó khăn, những sai sót
gì?
Không biết cách lựa chọn và đưa dẫn chứng từ văn học,
cuộc sống vào bài viết.
140 70%
Không hiểu yêu cầu của đề bài nên khi viết không bám
sát vấn đề hoặc đi lệch vấn đề.
140 70%
Chưa biết cách diễn đạt, lập luận cho rõ ràng (lặp ý, thiếu
ý, dùng từ, viết câu chưa chính xác…).
180 90%
Chưa biết cách thức tách đoạn, liên kết đoạn, viết đoạn
nên phần thân bài thường chỉ là một đoạn dài.
160 80%
10. Các em được thực hành các thao tác, kĩ năng LV NL bằng những phương tiện nào?
Phiếu học tập 20 10%
Graph 40 20%
Bài tập trắc nghiệm 80 40%
Bài tập tự luận 140 70%
PHỤ LỤC 5: GIÁO ÁN ĐIỆN TỬ
THỰC HÀNH
I. Phân tích đề
Đề 1: Từ ý kiến dưới đây, anh (chị) suy nghĩ gì về việc “chuẩn
bị hành trang vào thế kỉ mới”?
“Cái mạnh của con người Việt Nam là sự thông minh và
nhạy bén với cái mới… Nhưng bên c ạnh cái mạnh đó vẫn
tồn tại không ít cái yếu. Ấy là những lỗ hổng về kiến thức cơ
bản do thiên hướng chạy theo những môn học “thời
thượng”, nhất là khả năng thực hành và sáng tạo bị hạn chế
do lối học chay, học vẹt nặng nề…”.
(Theo Vũ Khoan, Chuẩn bị hành trang vào thế kỉ mới).
Đề 1, tr.23, SGK Ngữ văn 11, tập 1.
Câu hỏi gợi ý:
1. Đề bài yêu cầu NL vấn đề gì?
2. Vấn đề cần NL giới hạn trong phạm vi nào (thuộc về đời
sống xã hội hay văn học)?
3. Để làm rõ vấn đề trên, anh (chị) sử dụng những thao tác NL
nào?
4. Đề bài trên thuộc dạng đề bài nào mà em đã học?
5. Kết cấu đề gồm mấy phần?
- Vấn đề NL: việc “chuẩn bị hành trang”.
- Phạm vi NL: đời sống xã hội.
- Thao tác NL: giải thích, chứng minh, bình luận.
- Đề bài thuộc dạng đề NL xã hội.
- Kết cấu đề gồm 3 phần: phần dẫn dắt vấn đề, phần nêu vấn
đề, phần quy định phạm vi làm bài.
Đề 1, tr.23, SGK Ngữ văn 11, tập 1.
Thảo luận nhóm
+ Nhóm 1,2 thảo luận phân tích đề 3, SGK, tr.23.
+ Nhóm 3,4 thảo luận phân tích đề: Suy nghĩ của anh chị về
lòng ích kỉ và sự vị tha trong xã hội hiện đại.
+ Nhóm 5,6 thảo luận phân tích đề: Anh (chị) suy nghĩ như
thế nào về ý kiến sau: “Nụ cười mang lại hạnh phúc cho
những người xung quanh và do đó cũng mang lại hạnh phúc
cho chính bản thân bạn”. (Dale Carnegie).
Thời gian thảo luận: 5 phút
Kết quả thảo luận
Nhóm 3,4
Đề bài Suy nghĩ của anh chị về lòng ích kỉ và sự vị tha
trong xã hội hiện đại.
Vấn đề NL “lòng ích kỉ và sự vị tha trong xã hội hiện đại”
Phạm vi NL Đ i s ng xã h i
Thao tác NL Giải thích, chứng minh, bình luận
Dạng đề NL Xã hội
Kết cấu đề
NL
2 phần: nêu vấn đề và quy định thao tác NL.
Kết quả thảo luận
Nhóm 5,6
Đề bài Anh (chị) suy nghĩ như th ế nào về ý kiến sau:
“Nụ cười mang lại hạnh phúc cho những người
xung quanh và do đ ó cũng mang lại hạnh phúc
cho chính bản thân bạn”. (Dale Carnegie).
Vấn đề NL Nụ cười mang lại hạnh phúc cho con người.
Phạm vi NL Đ i s ng xã h i
Thao tác NL Giải thích, chứng minh, bình luận
Dạng đề NL Xã hội
Kết cấu đề
NL
3 phần (dẫn dắt vấn đề, nêu vấn đề và quy đ ịnh
thao tác NL).
Thực hành cá nhân
Đề: “Người hạnh phúc nhất là người đem đến hạnh phúc cho
nhiều người nhất” (Đi-đơ-rô).
Anh (chị) suy nghĩ thế nào về vấn đề này?
II. Lập dàn ý
Đề 1: Từ ý kiến dưới đây, anh (chị) suy nghĩ gì về việc “chuẩn
bị hành trang vào thế kỉ mới”?
“Cái mạnh của con người Việt Nam là sự thông minh và
nhạy bén với cái mới… Nhưng bên c ạnh cái mạnh đó vẫn
tồn tại không ít cái yếu. Ấy là những lỗ hổng về kiến thức cơ
bản do thiên hướng chạy theo những môn học “thời
thượng”, nhất là khả năng thực hành và sáng tạo bị hạn chế
do lối học chay, học vẹt nặng nề…”.
(Theo Vũ Khoan, Chuẩn bị hành trang vào thế kỉ mới).
Câu hỏi gợi ý
1. “Việc chuẩn bị hành trang bước vào thế kỉ mới” được hiểu
thế nào?
2. Tại sao người Việt Nam phải chuẩn bị hành trang cho việc
bước vào thế kỉ mới?
3. Để chuẩn bị hành trang vào thế kỉ mới, người Việt Nam cần
phải làm gì?
4. Bản thân em tự chuẩn bị hành trang vào thế kỉ mới cho
mình như thế nào?
II. Lập dàn ý
Dàn ý đại cương
A. Mở bài: Giới thiệu vấn đề NL, trích dẫn ý kiến.
B. Thân bài
1. Giải thích “việc chuẩn bị hành trang vào thế kỉ mới”.
2. Người Việt Nam cần phải chuẩn bị hành trang vào thế kỉ
mới vì sự phát triển, sự khẳng định vị thế của đất nước và để
khẳng định bản thân của từng người Việt Nam.
3. Những điều người Việt Nam cần làm cho việc chuẩn bị
hành trang vào thế kỉ mới.
4. Cách chuẩn bị hành trang vào thế kỉ mới của bản thân.
C. Kết bài: Khái quát lại vấn đề và suy nghĩ cá nhân.
Dàn ý chi tiết
A. Mở bài: Giới thiệu vấn đề NL, trích dẫn ý kiến.
B. Thân bài
1. Giải thích “việc chuẩn bị hành trang vào thế kỉ mới”
- Thế kỉ mới là thế kỉ của những tiến bộ vượt bậc về
khoa học – kĩ thuật – công nghệ, thế kỉ của sự giao
lưu, hội nhập, hợp tác và phát triển.
- Hành trang bước vào thế kỉ mới của con người là sức
khỏe, sự am hiểu kiến thức nhiều lĩnh vực (khoa học,
văn hóa, lịch sử…), kĩ năng s ống, ý chí, niềm tin, lý
tưởng sống.
2. Người Việt Nam cần phải chuẩn bị hành trang vào thế kỉ
mới vì:
- Đất nước Việt Nam đang có những khởi sắc toàn diện,
đang trên đà phát triển và mở rộng giao lưu, hợp tác
với nhiều quốc gia trên thế giới. Mỗi người Việt Nam
được chuẩn bị hành trang tốt sẽ giúp đất nước khẳng
định vị thế của mình trước bạn bè thế giới.
- Việc chuẩn bị tốt hành trang giúp người Việt Nam
năng động, tự tin hơn trước sự phát triển nhanh chóng
và sự biến đổi liên tục của thế kỉ mới, hơn nữa còn
giúp họ vượt lên đón đầu những thành công trong thế
kỉ mới.
3. Những điều người Việt Nam cần làm cho việc chuẩn bị
hành trang vào thế kỉ mới.
- Phát huy những điểm mạnh của người Việt Nam (“sự
thông minh, nhạy bén với cái mới…”) để trau dồi kiến
thức và sáng tạo trong công việc, chủ động, vững vàng
trong cuộc sống.
- Hạn chế, khắc phục những điểm yếu (“lỗ hổng về kiến
thức”, sự yếu kém trong khả năng th ực hành do ‘lối
học chay, học vẹt nặng nề”…).
4. Việc chuẩn bị hành trang của bản thân để bước vào thế kỉ
mới.
- Trang bị vốn hiểu biết bằng thái độ chủ động, tích cực
trong học tập, luôn có tinh thần học hỏi, cầu tiến.
- Luôn chú ý rèn luyện sức khỏe của bản thân cũng như
rèn luyện kĩ năng sống, bản lĩnh sống.
C. Kết bài
Khái quát lại vấn đề và có những nhận xét cá nhân.
Thảo luận nhóm
- Đề: Bạo lực học đường đang là vấn đề báo động trong
ngành giáo dục hiện nay. Là học sinh, ý kiến của em về vấn
đề này như thế nào?
- Số lượng nhóm: 4 nhóm.
Yêu cầu
- Thời gian thảo luận nhóm: 15 phút
- Thời gian trình bày cho mỗi nhóm: 3 phút
- Thời gian nhận xét, trao đổi: 10 phút
- Dùng phiếu học tập để lập dàn ý.
Kết quả thảo luận nhóm
Dàn ý đại cương
A.Mở bài: Giới thiệu vấn đề cần NL.
B.Thân bài
1. Giải thích về cụm từ “bạo lực học đường”.
2. Thực trạng nạn bạo lực học đường hiện nay.
3. Những hậu quả do nạn bạo lực học đường gây ra.
4. Nguyên nhân dẫn tới bạo lực học đường.
5. Giải pháp ngăn chạn nạn bạo lực học đường.
C. Kết bài: Khái quát vấn đề NL.
Thực hành cá nhân
Đề: Tâm sự của Hồ Xuân Hương trong bài Tự tình (bài II).
Yêu cầu:
- Trả lời câu hỏi trong bài tập trắc nghiệm.
- Dựa vào bài tập trắc nghiệm để lập dàn ý dàn ý chi tiết
cho đề bài.
- Thời gian thực hành: 10 phút.
- Dùng phiếu học tập để lập dàn ý.
- Ghi nhận xét kết quả thực hành của bạn cùng nhóm vào
phiếu học tập.
Kết quả thực hành cá nhân
Dàn ý đại cương
A.Mở bài
B.Thân bài
1. Nỗi niềm về sự cô đơn, lẻ loi của nhà thơ giữa cuộc đời.
2. Nỗi đau của nhà thơ trư ớc tình duyên éo le, ngang trái,
hạnh phúc lỡ làng, không trọn vẹn.
3. Niềm khát khao tình yêu, hạnh phúc của nữ sĩ Xuân
Hương.
C. Kết bài
Tổng kết thực hành
1. Nhận xét
2. Bài tập thực hành ở nhà
Thực hành phân tích đề và lập dàn ý đối với đề bài sau:
Mười sáu tuổi, tôi không phải là một đứa trẻ nhưng chưa phải
là người lớn. Suy nghĩ của anh (chị) về câu nói trên?
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LA5345.pdf