Đẩy mạnh xúc tiến đầu tư phát triển các khu công nghiệp ở Việt Nam

Lời nói đầu Trong công cuộc CNH , HĐH đất nước, Nhà nước ta khẳng định phải dựa vào nội lực là chính. Tuy nhiên xuất phát từ điều kiện của nước ta là một nước có nền kinh tế yếu kém, điểm xuất phát thấp cơ sở hạ tầng lạc hậu, thu nhập quốc dân và thu nhập dân cư thấp. Vì vậy, nguồn vốn để CNH, HĐH phụ thuộc nhiều từ các nhà đầu tư ở trong nước và nước ngoài . Để thu hút đầu tư cho công cuộc phát triển của quốc gia, khu công nghiệp (KCN) được đánh giá là một nhân tố quan trọng. Vì ở đó, các côn

doc34 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1565 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Đẩy mạnh xúc tiến đầu tư phát triển các khu công nghiệp ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g trình hạ tầng cơ sở được tập trung, đầu tư nhanh với chất lượng cao, hình thành các dịch vụ cần thiết và các thủ tục đơn giản đáp ứng yêu cầu của nhà đầu tư. Nhiều nước đã thành công trong công cuộc CNH, HĐH như xây dựng những KCN như vậy. ở Việt Nam hiện nay, KCN đã trở thành những thực thể kinh tế - xã hội không thể thiếu trong nền kinh tế. KCN đã góp phần tăng sản lượng công nghiệp, tăng xuất khẩu, giảm thất nghiệp, tăng thu nhập người dân hình thành cơ cấu kinh tế hợp lý hơn, ... Có được sự thành công này là do chính sách của Nhà nước ta nhằm thu hút đầu tư cho phát triển KCN. Như vậy, để tiếp tục phát triển KCN ở Việt Nam chúng ta cần thu hút nhiều hơn nữa các nguồn vốn vào KCN. Đề tài này, sẽ tập trung nghiên cứu về: “Đẩy mạnh xúc tiến đầu tư phát triển các khu công nghiệp ở Việt Nam" Phần I: Giới thiệu những vấn đề chung về khu công nghiệp. Phần II: Những vấn đề về xúc tiến đầu tư. Phần III: Một số vấn đề thực tế xúc tiến đầu tư phát triển KCN. Trong khuôn khổ của đề án môn học với những hạn chế về kiến thức hiểu biết thực tiễn, đề án này không tránh khỏi những thiếu sót. Bởi vậy, em rất mong được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô giáo bộ môn. Em xin chân thành cảm ơn ! Phần 1: Giới thiệu những vấn đề chung về khu công nghiệp 1. khu công nghiệp là gì? Khu công nghiệp đầu tiên trên thế giới với đầy đủ các thành phần của nó được thành lập năm 1896 Otraffort park thành phố Manchester( Anh) với tư cách là một doanh nghiệp tư nhân .Vùng công nghiệp Clearing ở thành phố Chicago, bang Illinois được coi là khu công nghiệp đầu tiên của nước Mỹ bắt đầu hoạt động từ năm 1899. Một khu công nghiệp được chính quyền thành phố Naple ở Italy thành lập năm 1904.Tuy nhiên, trước cuối những năm 1940 số khu công nghiệp trên thế giới rất ít. Nước Mỹ dẫn đầu và tới năm 1940 đã có 33 khu công nghiệp . Nước đang phát triển đầu tiên biết sử dụng một cách có hệ thống các khu công nghiệp được tài trợ công cộng là Puerto Rico.Trong những năm từ 1947 - 1963 Chính phủ nước này đã xây dựng 480 nhà máy để cho thuê, với cơ sở hạ tầng phù hợp để nhử các công ty chế biến Mỹ. Hầu hết, các nhà máy này tập trung trong hơn 30 khu công nghiệp. Khu công nghiệp đầu tiên ở các nước đang phát triển Châu á được khai trương ở Singapore năm 1951.Từ khoảng những năm 1960, Liên Hiệp Quốc bắt đầu xuất bản những công trình nghiên cứu và tổ chức các hội thảo về khu công nghiệp với tư cách là một công cụ phát triển Xuất phát từ các quốc gia ở ven bờ đông và nam Địa Trung Hải vào đầu thế kỷ 19, quan niệm về khu công nghiệp lan sang Châu á dưới hình thức hải cảng tự do. Cùng với sự phát triển của hoạt động thương mại và đầu tư, khu công nghiệp dần dần xuất hiện dưới nhiều hình thức khác nhau: khu mậu dịch tự do,khu quá cảng, đặc khu kinh tế,… Theo nghĩa rộng, khu công nghiệp bao gồm toàn bộ tất cả các khu vực được Chính phủ nước sở tại cho phép chuyên môn hoá sản xuất công nghiệp, nó là khu biệt lập có chế độ mậu dịch và thuế quan riêng, không phụ thuộc vào chế độ mậu dịch và thuế quan phổ thông của nước đó. Theo quan niệm này, khu công nghiệp bao gồm các cảng tự do, các khu mậu dịch tự do, các khu vực phi thuế quan, các khu vực công nghiệp tự do, các khu vực ngoại thương. Theo nghị định 36/CP quy định về khu công nghiệp, khu chế xuất của Chính phủ Việt Nam ban hành ngày 27/4/1997, thì "khu công nghiệp là khu tập trung các doanh nghiệp chuyên sản xuất hàng công nghiệp và thực hiện các dịch vụ cho sản xuất công nghiệp, có danh giới địa lý xác định, không có dân cư sinh sống. Trong khu công nghiệp có thể có doanh nghiệp chế xuất". Khu công nghiệp là một hình thức tổ chức không gian lãnh thổ công nghiệp luôn gắn liền phát triển công nghiệp với xây dựng kết cấu hạ tầng và hình thành mạng lưới đô thị, phân bố dân cư hợp lý. Khu công nghiệp là công cụ của chính sách công nghiệp nhằm thúc đẩy công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu,đồng thời cũng là địa bàn để thực hiện chiến lược công nghiềp hoá hiện đại hoá trên phạm vi lãnh thổ nhất định 2. Đặc điểm khu công nghiệp: Cho đến nay,các khu công nghiệp đã được phát triển mạnh mẽ ở hầu hết các quốc gia, đặc biệt là ở các quốc gia đang phát triển. Mặc dù có sự khác nhau về quy mô, địa điểm và phương thức xây dựng cơ sở hạ tầng, nhưng nói chung các khu công nghiệp có những đặc điểm chủ yếu sau: *Về tính chất hoạt động: Là nơi tập trung các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp và các doanh nghiệp cung cấp các dịch vụ mà không có dân cư ( gọi chung là doanh nghiệp khu công nghiệp ) khu công nghiệp là nơi xây dựng để thu hút các đơn vị sản xuất sản phẩm công nghiệp hoặc các đơn vị kinh doanh dịch vụ gắn liền với sản xuất công nghiệp. Khu công nghiệp được mở ra cho tất cả các ngành công nghiệp, kể cả sản xuất hàng xuất khẩu và tiêu thụ trong nước. Các công ty sản xuất kinh doanh trong khu công nghiệp sẽ được hưởng một số ưu đãi nhất định.Trong đó đặc biệt ưu đãi đối với những hàng sản xuất hàng xuát khẩu. Theo điều 6 quy chế khu công nghiệp khu chế xuất ban hành kèm nghị đinh 36/CP thì doanh nghiệp khu công nghiệp có thể là các doanh nghiệp Việt Nam thuộc mọi thành phần kinh tế, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hoặc các bên tham gia hợp đồng hợp tác kinh doanh. Các doanh nghiệp này được quyền kinh doanh trong các lĩnh vực sau: -Xây dựng và kinh doanh các công trình kết cấu hạ tầng. -Sản xuất gia công lắp ráp các sản phẩm công nghệ để xuất khẩu và tiêu dùng ở trong nước;phát triển và kinh doanh bằng sáng chế,bí quyết kỹ thuật, quy trình công nghệ. -Nghiên cứu, triển khai khoa học công nghệ để nâng cao chất lượng sản phẩm và tạo ra sản phẩm mới. -Dịch vụ hỗ trợ sản xuất công nghiệp. *Về cơ sở hạ tầng kỹ thuật: Các khu công nghiệp đều xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt đông sản xuất kinh doanh như: đường xá, hệ thống điện nước, điện thoại… Thông thường, việc phát triển cơ sở hạ tầng trong khu công nghiệp do một công ty xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng đảm nhiệm. ở Việt Nam, những công ty này do các doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài hoặc doanh nghiệp trong nước thực hiện. Các công ty phát triển cở sở hạ tầng khu công nghiệp sẽ xây dựng các kết cấu hạ tầng sau đó được phép cho các doanh nghiệp khác thuê lại. *Về tổ chức quản lý: Trên thực tế, mỗi khu công nghiệp đều thành lập hệ thống Ban quản lý cấp tỉnh tại các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương để trực tiếp thực hiện các chức năng quản lý nhà nước đối với các hoạt động sản xuất kinh doanh trong khu công nghiệp. ở Việt Nam, Chính phủ đã thống nhất quản lý nhà nước về khu công nghiệp bằng các công cụ quản lý vĩ mô và quyết định những vấn đề chung. Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo và trực tiếp quyết định những vấn đề thuộc chức trách và thẩm quyền đối với khu công nghiệp. Giúp chính phủ, Thủ tướng chính phủ tổ chức phát triển và quản lý nhà nước khu công nghiệp có các cơ quan quản lý Nhà nước về khu công nghiệp ở cấp tỉnh và Trung ương. Các bộ cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về khu công nghiệp theo chức năng và thẩm quyền và sự phân công trực tiếp của thủ tướng. UBND cấp tỉnh thực hiện chức năng quản lý nhà nước về khu công nghiệp trên địa bàn và lãnh thổ. Ban quản lý khu công nghiệp cấp tỉnh là cơ quan quản lý trực tiếp các khu công nghiệp trong phạm vi địa lý hành chính của một tỉnh do Thủ tướng Chính phủ thành lập thực hiện cơ chế quản lý một cửa tại chỗ. 3. Vai trò của các khu công nghiệp: ở Việt Nam, phần lớn các khu công nghiệp tập trung vào hai vùng kinh tế quốc gia trọng điểm TP Hồ Chí Minh - Bình Dương - Đồng Nai - Bà Rịa Vũng Tàu và Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh. Các khu công nghiệp được xây dựng gần các mạng lưới giao thông quốc gia, gần các nguồn tài nguyên của đất nước, phát huy được thế mạnh của từng vùng .Việc phát triển khu công nghiệp ở Việt nam có các vai trò sau : *Tăng cường khả năng thu hút đầu tư, góp phần thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế : Hầu hết, các nước đang ở thời kì đầu của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, đều gặp phải một bài toán nan giải là tình trạng thiếu vốn. Trong cuộc đua tranh phát triển kinh tế hiện nay, vấn đề tăng trưởng nhanh và lâu bền đang đặt ra gay gắt với các quốc gia, đặc biệt là đối với nước ta. Nếu không thực hiện được mục tiêu này, thì nước ta sẽ bị tụt hậu xa so với các nước phát triển. Trong chiến lược phát triển, Việt Nam đề ra mục tiêu phấn đấu duy trì mức tăng trưởng từ nay đến năm 2005 là 8-10% với số vốn rất lớn. Theo ước tính của các chuyên gia kinh tế, trong những năm tới lượng vốn đầu tư trong nước chỉ đạt khoảng 50-60% số vốn đầu tư cần thiết. Như vậy, số vốn còn lại phải tạo ra từ đầu tư nước ngoài. Sử dụng vốn nước ngoài để phát triển là cần thiết, là cách thông minh để rút ngắn thời gian tích luỹ. Để thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Việt Nam cần nâng cấp cơ sở hạ tầng, xoá bỏ những cản trở tự do thương mại ,tạo ra môi trường vĩ mô ổn định . Trong điều kiện hiện nay, những điều kiện đó chưa thể làm ngay được, vì vậy phát triển khu công nghiệp là con đường thích hợp để thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Thông qua những ưu đãi đặc biệt so với sản xuất ở trong nước, các khu công nghiệp có được môi trường đầu tư hấp dẫn. Vì vậy, nó có khả năng thu hút được nhiều vốn đầu tư đặc biệt là nguồn vốn FDI. Theo ngân hàng thế giới, cho đến năm 1993, các dự án thực hiện trong khu công nghiệp do các nhà đầu tư nước ngoài thực hiện chiếm tỷ lệ khá cao ( khoảng 43% số dự án do doanh nghiệp trong nước thực hiện, 24% do liên doanh với nước ngoài và 33% do các nhà đầu tư trong nước thực hiện). Do vậy, khu công nghiệp đã đóng góp đáng kể trong việc thu hút FDI. Chẳng hạn như : Đài Loan và Malayxia trong những năm đầu phát triển khu công nghiệp đã thu hút được 60% số vốn FDI. Đồng thời, các doanh nghiệp hoạt động trong các khu công nghiệp phần lớn là các doanh nghiệp có tiềm năng, do đó, hoạt động có hiệu quả sẽ góp phần vào các mục tiêu phát triển kinh tế của đất nước. Trong đó, đáng kể nhất là việc góp phần đẩy mạnh xuất khẩu, tăng thu ngoại tệ do việc phát triển sản xuất hàng hoá xuất khẩu thay thế hàng nhập khẩu. ở một số nước, khu công nghiệp đã góp phần đáng kể cho việc đẩy mạnh xuất khẩu :  như Malayxia hiện nay giá trị xuất khẩu của các khu công chiếm 30% trong tổng số giá trị xuất khẩu chế biến, ở Mêhico là 50%, ở nhiều nước Châu á Thái Bình Dương các khu công nghiệp đã đóng góp vai trò tích cực vào việc tăng vốn đầu tư. Để đạt được tốc độ tăng trưởng cao, các khu công nghiệp được ví như một thế giới thu nhỏ, phản ánh tiềm năng phát triển công nghiệp của mỗi nước. Với mục tiêu thu hút vốn đầu tư nên các nước đã kêu gọi mọi nhà đầu tư, không kể nhà đầu tư trong nước hay ngoài nước. Qua hơn 10 năm phát triển mạnh mẽ, kết quả hoạt động của các khu công nghịêp đã góp phần thúc đẩy phát triển công nghiệp, đẩy mạnh xuất khẩu, tăng GDP, hình thành các trung tâm công nghiệp gắn liền với phát triển đô thị, tạo bước chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp, phục vụ xuất khẩu và tiêu thụ tại thị trường trong nước.Tại các khu công nghiệp, ngoài công nghiệp nhẹ, điện tử và sản xuất hàng tiêu dùng còn thu hút cả các dự án công nghiệp nặng, bước đầu xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật thực hiện chiến lược công nghiệp hoá hiện đại hoá. *Tạo ra mối liên kết giữa các ngành nghề : Hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trong khu công nghiệp đòi hỏi nguồn cung cấp thường xuyên nguyên vật liệu và dịch vụ đầu vào, điều này tạo ra mối liên hệ giữa các doanh nghiệp khu công nghiệp và các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh khác. Việc đáp ứng nguyên vật liệu và dịch vụ đầu vào với chất lượng cao và thường xuyên sẽ là động lực thúc đẩy sự phát triển các doanh nghiệp ngoài khu công nghiệp. Tại một số nước, tỷ lệ cung cấp một số nguyên vật liệu đầu vào khá cao như : Hàn Quốc tỷ lệ sử dụng nguyên vật liệu tăng từ 3% năm 1971 lên 34% năm 1976 và duy trì tỷ lệ đó đến nay. Các nhà đầu tư nước ngoài trong các khu công nghiệp, cùng phát biểu khi đầu tư vào Việt Nam là nhằm tranh thủ nguồn nguyên vật liệu tại chỗ, để giảm giá thành sản phẩm. *Khu công nghiệp là cơ sở để tiếp cận với kỹ thuật và công nghệ hiện đại, học hỏi phương thức quản lý mới, nâng cao trình độ tay nghề của người lao động. Các khu công nghiệp khi thành lập đều đặt ra mục tiêu tiếp cận các công nghệ hiện đại, theo một nhà kinh tế học phương tây nhận định: việc thành lập các khu công nghiệp còn có ý nghĩa là một sự thay đổi chính sách, bởi sự thay đổi chính sách từ bóp nghẹt sang cởi mở thông thoáng chỉ có ý nghĩa tối đa khi chuyển từ nền kinh tế chỉ huy sang kinh tế thị trường. Còn sự thực hiện nền kinh tế đã hạn chế bớt đi các trói buộc phong kiến, hành chính thì điều đó có ý nghĩa hơn lại là một chính sách kỹ thuật và công nghệ khả dĩ đủ hấp dẫn để thu hút được các kỹ thuật và công nghệ mới của nước ngoài vào sự tái thiết nền kinh tế nội địa. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp cũng phải chú trọng đến công tác đào tạo cán bộ, công nhân cho phù hợp với trình độ của máy móc cũng như phương thức kinh doanh mới. Do vậy, trình độ của người lao động sẽ được nâng lên phù hợp với tác phong lao động công nghiệp. Các doanh nghiệp tại các khu công nghiệp cũng không đứng ngoài với nhu cầu quản lý trao đổi kỹ thuật, tiếp cận với khoa học kỹ thuật. Việc tiếp thu công nghệ và kỹ năng là mục đích rất quan trọng mà các nước đang phát tiển quan tâm. Tình trạng lạc hậu về kỹ thuật của họ làm cho các nước này hy vọng vào con đường tổ chức khu công nghiệp để tiếp thu được công nghệ hiện đại. Tuỳ hoàn cảnh cụ thể từng nước mà mục tiêu hội nhập và quãng bá kỹ thuật công nghệ mới của khu công nghiệp được nhấn mạnh nhiều hay ít. *Khu công nghiệp tạo thêm việc làm cho người lao động : Việt nam là một nước đông dân, đến nay dân số nước ta đã gần 80 triệu người và tốc độ tăng dân số là khá cao so với các nước trong khu vực.,Về thực chất, Việt Nam vẫn là một nền kinh tế nông nghiệp, có tỷ lệ nửa thất nghiệp cao. Thêm vào đó, số người thất nghiệp tại các đô thị ngày càng tăng và chủ yếu vẫn là những người vừa đến độ tuổi lao động do dân số tăng nhanh trong các thập kỷ trước. Vậy vấn đề tạo thêm công ăn việc làm cũng là một mục tiêu quan trọng trong những năm tới và phát triển khu công nghiệp chính là một biện pháp để tăng công ăn việc làm. Hầu hết các nước đang phát triển , trong quá trình phát triển kinh tế đều gặp phải tình huống khó xử nếu theo đuổi mục tiêu toàn dụng nhân lực thì khó thực hiện mục tiêu chống lạm phát, đồng thời ước muốn nền sản xuất xã hội đạt hiệu quả cao bằng cách doanh nghiệp nhập các công nghệ tinh vi tức là doangh nghiệp sử dụng ít lao động sống thì sẽ làm tăng nạn thất nghiệp. Tuy chưa phải là giải pháp lý tưởng, nhưng việc thiết lập các khu công nghiệp chính là ở chỗ thông qua khu công nghiệp sẽ tạo ra một lối thoát góp phần để các chính phủ theo đuổi mục tiêu toàn dụng lao động một cách thực tế góp phần tạo khả năng để chính phủ hiệu lực hoá các công cụ quản lý vĩ mô nền tài chính tiền tệ của mình. Tạo việc làm là một trong những mục tiêu quan trọng của các nước đang phát triển. Trong bối cảnh kinh tế kém phát triển và lại vào giai đoạn bùng nổ dân số nên tình trạng thất nghiệp ở các nước đang phát triển là vấn đề rất căng thẳng. Trong bối cảnh đó, các nước đang phát triển muốn sử dụng khu công nghiệp để giải quyết việc làm, tạo thu nhập cho người lao động. Theo ngân hàng thế giới đến nay số việc làm chỉ tính riêng trong khu công nghiệp đã lên tới 4-5 triệu chỗ trong đó Châu á là nơi tạo ra nhiều việc làm nhất chiếm 76.59% tổng số chỗ làm (số liệu 1998) *Tăng cường các mối liên hệ và tác động tới các bộ phận còn lại của nền kinh tế. Về bản chất, khu công nghiệp là bộ phận cấu thành của chính sách phát triển toàn diện, tổng thể khu vực, vùng, lãnh địa của một quốc gia trên cơ sở những tiền đề sẵn có về địa lý tự nhiên, kinh tế và nhân văn mà kết hợp với các lợi thế của nước ngoài, của các công ty xuyên quốc gia, của các nhà đầu tư nhằm nhân lên sức mạnh kinh tế - xã hội - văn hoá của một quốc gia. Có hai loại cách tiếp cận về vị thế khu công nghiệp: Loại thứ nhất cho rằng: chỉ đặt khu công nghiệp ở những nơi mà nội năng kinh tế địa phương sở tại ít có điều kiện vực dậy tiềm năng, tất nhiên là những nơi có lợi thế địa lý tự nhiên, ít nhiều hấp dẫn các nhà đầu tư. Cách tiếp cận này thường gắn liền với các vị thế địa lý hiện tại, ít có ảnh hưởng tích cực tới tiến trình hiện đại hoá đất nước về kinh tế và ít có ảnh hưởng sâu rộng tới chính trị, xã hội chung. Về chính sách thiết chế, cách tiếp cận này chủ trương ưu đãi tuyệt đối, gần như đáp ứng mọi yêu cầu kinh tế tài chính của các nhà đầu tư và đôi khi có nới lỏng ít nhiều về chính trị cho nhà đương cục khu công nghiệp. Loại thứ hai: chủ trương đặt khu công nghiệp ở những vị trí đã tuỵêt đối thuận lợi về kinh tế - xã hội so với các vùng khác trong nước. Các thiết chế về khu công nghịêp đối với cách tiếp cận này là có điều kiện ràng buộc chứ không phải thả lỏng hoàn toàn .Các khu công nghiệp đặt ở các vị trí này, từ nguyên trạng đã có nhiều thuận lợi về kết cấu hạ tầng, về kinh tế tài chính xã hội, vốn đã có ý nghĩa chính trị tuyệt đối với cả quốc gia. Thế mạnh của việc thiết lập các khu công nghiệp của cách tiếp cận này là tốc độ vận hành của khu công nghiệp nhanh đi tới mục tiêu và do đó ảnh hưởng của nó đối với các vùng phụ cận nhanh phát huy tác dụng, thúc đẩy tích cực. Cách tiếp cận ở góc độ này hay góc độ khác là do hoàn cảnh lịch sử cụ thể chi phối, tuyệt nhiên không vì cách tiếp cận mà làm giảm ý nghĩa "sợi dây nối" giữa nền kinh tế thế giới với các vùng hay khu vực kinh tế khác trong nước của các khu công nghiệp. 4. Điều kiện để phát huy vai trò khu công nghiệp: ở tầm vĩ mô, chúng ta thấy rằng, ở Việt nam, vào thập kỷ 90 của thế kỷ XX và những năm đầu của thế kỷ XXI, đã hội tụ đủ những điều kiện cần thiết cho sự thiết lập các khu công nghiệp, qua đó tạo nên sự đột phá cho sự thu hút đầu tư trong nước, nước ngoài và mở cửa hơn nữa trong việc giao lưu với thị trường quốc tế, tạo nên sức hút mạnh hơn các nguồn lực bên ngoài để phát triển nền kinh tế Việt Nam * Điều kiện chính trị: ở Việt nam, tình hình chính trị đạt được sự ổn định cao qua thời gian dài, với sự thống nhất cao về tư tưởng và tổ chức, với chính sách ngày càng cởi mở và nhất quán. Vị trí chính trị hiện nay của Việt Nam tạo nên sự ủng hộ của nhiều chính phủ và các tổ chức quốc tế, mối quan hệ ngoại giao thân thiện và hợp tác với các quốc gia trên thế giới ngày càng mở rộng. Thủ đô Hà Nội của chúng ta vừa mới được tặng danh hiệu: Thành phố hoà bình, càng góp phần khẳng định thêm điều kiện chính trị ổn định. *Điều kiện tự nhiên: Nước ta nằm ở vị trí địa lý thuận lợi trong khu vục Đông Nam á, có nhiều đường giao thông quốc tế về hàng không và hàng hải chạy qua, đồng thời có các nguồn khoáng sản phong phú và đa dạng, đủ sức đáp ứng cho việc xây dựng một nền kinh tế với cơ cấu đa ngành, có khả năng tham gia ngày càng rộng vào phân công lao động quốc tế. Lợi thế về các nguồn tài nguyên và khoảng sản, bao gồm cả tài nguyên hữu hình và tài nguyên vô hình, trong đó các tài nguyên vô hình ngày càng có ý nghĩa quan trọng đối với việc phát triển các hoạt động dịch vụ thu ngoại tệ . *Điều kiện kinh tế - xã hội: Đây là một thị trường rộng lớn với gần 80 triệu dân. Sức mua của dân cư ngày càng tăng. Nền kinh tế Việt Nam đã vượt qua thời kỳ khó khăn nhất, đang đi vào thế ổn định và có khả năng tăng trưởng nhanh. Các điều kiện xã hội ở Việt Nam càng có nhiều thuận lợi: Giáo dục và y tế đã đạt được kết quả đáng khích lệ, trình độ dân trí được nâng lên, hiện nay người dân biết chữ ở việt nam chiếm hơn 80%, tâm lý xã hội ngày càng trở nên lành mạnh, người dân có ý chí vươn lên và có khả năng thích ứng nhanh với hoàn cảnh mới. Lợi thế về nguồn nhân lực nhân công dồi dào, tay nghề tương đối cao, có khả năng tiếp thu nhanh chóng khoa học công nghệ mới mà giá nhân công còn quá rẻ, ở mức 1/10-1/5 so với giá nhân công ở nhiều nước trong khu vực . Với lợi thế nằm trong khu vực kinh tế năng động nhất trên thế giới, có khả năng mở rộng các giao lưu kinh tế quốc tế với nhiều đường giao thông hàng không và hàng hải thuận tiện, làm cho việc giao lưu nhanh chóngvới bên ngoài, với giá thành tương đối thấp. Phần II: Những vấn đề về xúc tiến đầu tư 1. Khái niệm xúc tiến đầu tư phát triển khu công nghiệp: * Khái niệm đầu tư: Thuật ngữ đầu tư nói chung, có thể được hiểu đồng nghĩa với sự bỏ ra, sự hy sinh. Từ đó, có thể coi đầu tư là sự bỏ ra, sự hy sinh những gì đó ở hiện tại (tiền, sức lao động, của cải vật chất trí tuệ) nhằm đạt được những kết quả có lợi cho nhà đầu tư trong lai. Theo định nghĩa này, tất cả các hoạt động bỏ tiền ra để tiến hành các hoạt động như xây dựng nhà cửa, phân xưởng, về cơ sơ vật chất, về nâng cao trình độ …trong tương lai lớn hơn chi phí bỏ ra. Vì vậy, tất cả những các hoạt động đó được coi là đầu tư . Xét trên góc độ tài chính: đầu tư là một chuỗi hoạt động chi tiêu để chủ đầu tư nhận về một chuỗi dòng thu nhập nhằm hoàn vốn và sinh lời. Trên góc độ tiêu dùng: đầu tư là hình thức hạn chế tiêu dùng hiện tại để thu được các mức tiêu dùng nhiều hơn trong tương lai . Trên góc độ kinh tế: đầu tư là sự bỏ vốn (chi tiêu vốn) cùng các nguồn lực khác trong hiện tại để tiến hành một hoạt động nào đó (tạo ra hoặc khai thác một tài sản ) nhằm thu về các kết quả có lợi cho tương lai. Theo định nghĩa này, các hoạt động gửi tiền tiết kiệm, mua cổ phiếu, mua hàng tích trữ không hề làm tăng tài sản cho nền kinh tế mà thực chất chỉ là việc chuyển giao quyền sử dụng tiền và quyền sử hữu cổ phần hàng hoá từ người này sang người khác. Giá trị tăng thêm của người đầu tư ở đây chính là giá trị mất đi của quỹ tiết kiệm , của cổ đông bán cổ phần và người mua hàng. Tài sản của nền kinh tế trong trường hợp này không có sự thay đổi một cách trực tiếp * Khái niềm xúc tiến: Trong marketing xúc tiến là hoạt động thông tin tới khách hàng tiềm năng. Đó là các hoạt động trao, truyền, chuyển tải tới khách hàng những thông tin cần thiết về doanh nghiệp, sản phẩm của doanh nghiệp, phương thức phục vụ và những lợi ích khác mà khách hàng có thể thu được từ việc mua sản phẩm hay dịch vụ của doanh nghiệp cũng như những thông tin phản hồi lại từ phía khách hàng để từ đó doanh nghiệp tìm ra cách thức tốt nhất nhằm thoả mãn nhu cầu của khách hàng . Khái niệm xúc tiến đầu tư phát triển KCN: đó là những hoạt động cung cấp các thông tin tới các nhà đầu tư về những ưu thế và ưu đãi của KCN để kêu gọi các nhà đầu tư đầu tư vào các khu công nghiệp. Khi hoạt động đầu tư ở Việt Nam ở giai đoạn đầu các chủ đầu tư còn đang tiếp cận, thăm dò và lựa chọn thì hoạt động xúc tiến đầu tư như “chiếc cầu nối” lôi cuốn các công ty trong nước và nước ngoài đến đầu tư vào các khu công nghiệp ở Việt Nam, như “bà mối” giúp các chủ đầu tư trong nước và nước ngoài rút ngắn thời gian tìm hiểu, tạo điều kiện để họ nhanh chóng đi đến làm ăn với nhau. Khi mà hoạt động đầu tư đạt tới đỉnh cao và bão hoà thì khi đó, vai trò của hoạt động xúc tiến đầu tư sẽ giảm đi bởi vì, khi đó, môi trường đầu tư quá quen biết đối với các nhà đầu tư. Hoạt động xúc tiến đầu tư chuyển sang một trạng thái khác. Xúc tiến, vận động đầu tư vào khu công nghiệp giữ vai trò quyết định đến sự thành công của khu công nghiệp. Công tác vận động đầu tư là một trong những giải pháp quan trọng để tăng cường thu hút và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn đầu tư. Thời gian tới, nhất là từ nay đến năm 2005, để thực hiện mục tiêu mà chính phủ đề ra là thu hút khoảng 12 tỷ USD vốn đăng ký cấp mới và 11 tỷ USD vốn thực hiện, yêu cầu đặt ra là các bộ ngành liên quan và các địa phương cần đổi mới từ hình thức, nội dung đến phương thức vận động đầu tư nhằm tạo ra sự chuyển biến mạnh mẽ trong công tác này. 2. những lợi thế của các khu công nghiệp: *Chính phủ đã ban hành Nghị định 36CP về quy chế KCN. Quy chế KCN là văn bản pháp quy quan trọng quy định hoạt động đầu tư phát triển trong các KCN, khẳng định chính sách thu hút đầu tư, những lĩnh vực khuyến khích ưu đãi các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài đầu tư xây dựng, kinh doanh kết cấu hạ tầng và sản xuất kinh doanh trong KCN * ưu tiên về tài chính: Thông thường, các nhà đầu tư đầu tư vào KCN được khuyến khích ưu đãi về: thuế, thu nhập Công ty, thuế sở hữu tài sản, thuế thương mại, thuế nhập khẩu. Thời hạn được hưởng ưu đãi thường là 5 năm, tuỳ loại thuế và tuỳ điều kiện từng nước mà thời hạn có thể dài hơn 10 năm, 15 năm. Có chính sách ưu đãi các nhà đầu tư trong việc xây dựng cơ sở hạ tầng các khu công nghiệp :  giá thuê đất, thuế (thuế lợi nhuận đối với nhà đầu tư cơ sở hạ tầng trong nước là 15%, các nhà đầu tư nước ngoài là 10%), hỗ trợ vốn, lãi xuất ưu đãi . Các ưu đãi về tài chính nhằm bảo đảm cho dòng vận động của ngoại hối không bị kiểm soát, việc chuyển vốn đầu tư theo đúng điều lệ thành lập công ty, phù hợp tập quán tài chính của KCN, tự do di chuyển lợi nhuận và tiền thu từ bán bản quyền sáng chế quy định. * ưu tiên các tiện ích hạ tầng: Hầu hết, các KCN đều được hưởng một số lợi thế về kết cấu hạ tầng, địa điểm xây dựng,... như đường sá giao thông, phương tiện vận chuyển, kho bãi, cung ứng điện, nước, liên lạc thông tin viễn thông, chăm sóc y tế, bảo hiểm. Với việc đẩy mạnh xây dựng cơ sở hạ tầng, tập trung đầu tư hoàn thiện cơ sở hạ tầng kỹ thuật, dịch vụ và xã hội trong khu công nghiệp, bảo đảm tính đồng bộ, thuận tiện, thoã mãn khách hàng. Vì vậy, kết quả hoạt động và phát triển khu công nghiệp không gây hệ quả tiêu cực cho khu vực về giao thông, môi trường và tệ nạn xã hội. Môi trường đầu tư thuận lợi : Việc thực hiện cơ chế “một cửa, tại chỗ” và sự ra đời của Ban quản lý khu công nghiệp cấp Tỉnh đã góp phần tích cực vào tiến trình cải cách hành chính, bước đầu đã đáp ứng được đòi hỏi của công cuộc phát triển KCN và đã được chính các nhà đầu tư hoan nghênh. Thể chế quản lý hiện hành quy định trong Nghị Định 36CP năm 1997 ban hành quy chế khu công nghiệp, theo đó quyền tự chủ trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp được tôn trọng và nâng cao, giảm dần các thủ tục hành chính “xin, cho”,xét từng trường hợp cụ thể, đã uỷ quyền cho BQLKCN một số chức năng như: cấp giấy phép đầu tư, xuất nhập khẩu, lao động,… Cải thiện các khu công nghiệp, chỉ là điều cần, nhưng chưa đủ. Điều kiện nền tảng nhất là chính sách thu hút đầu tư, chính sách thu nguồn vốn FDI, giảm giá đầu vào nhiên liệu, nguyên liệu vật liệu, cước viễn thông quốc tế, giá thuê đất, chi phí lưu thông hàng hoá, chính sách thuế thu nhập của người nước ngoài. 3. cơ quan tiến hành hoạt động xúc tiến đầu tư phát triển kcn: Hiện nay, các Công ty đầu tư xây dựng và kinh doanh cơ sở hạ tầng khu công nghiệp có chức năng xúc tiến kêu gọi các nhà đầu tư vào khu công nghiệp. Cơ quan này cùng với các trung tâm xúc tiến thương mại và đầu tư của các Tỉnh và Thành phố và Cơ quan quản lý Nhà nước về đầu tư của Bộ Kế hoạch và Đầu tư thực hiện các chương trình, các hội nghị để tiến hành kêu gọi đầu tư vào khu công nghiệp . Hệ thống xúc tiến đầu tư gồm: Vụ Luật và xúc tiến đầu tư được thành lập trên cơ sở sát nhập ba bộ phận luật và xúc tiến đầu tư của Uỷ ban Nhà nước về hợp tác và đầu tư (cũ) từ tháng 4/1993. Ngoài ra còn một số tổ chức khác trong đó còn phải kể đến Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam và một số công ty tư vấn. Phần III: Một số vấn đề thực tế xúc tiến đầu tư phát triển khu công nghiệp 1. Tổng quan về tình hình phát triển khu công nghiệp ở Việt nam: 1.1. Tính tất yếu khách quan của việc hình thành khu công nghiệp ở Việt Nam: Mở rộng hợp tác kinh tế đối ngoại giữ vai trò quan trọng đối với các nứơc đang phát triển nói chung và Việt Nam nói riêng. Hiện nay, chúng ta đang ở giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hoá , hiện đại hoá đất nước, các nguồn lực cần thiết cho đầu tư phát triển là rất hạn chế. Chính vì vậy, mở rộng hợp tác với nước ngoài tạo cơ hội cho chúng ta thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là cần có môi trường đầu tư hấp dẫn để tạo ra động lực thu các nhà đầu tư. Trong điều kiện đất nước ta còn gặp nhiều khó khăn thì chúng ta không thể cùng một lúc tạo ra môi trường thuận lợi ở trên toàn quốc nên việc tạo lập ra những khu vực có diện tích nhỏ (khu công nghiệp) để có điều kiện tập trung tạo điều kiện tốt nhất cho các nhà đầu tư, tạo khả năng thu hút vốn đầu tư nước ngoài và trong nước. Bên cạnh đó, việc hình thành các khu công nghiệp cũng là cơ hội để phát huy cao nhất sức mạnh nội lực của đất nước trong quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá. Thực tế, những năm vừa qua cho chúng ta thấy vai trò quan trọng trong việc phát huy nội lực và tận dụng có hiệu quả các nguồn lực bên ngoài, phục vụ cho sự phát triển nền kinh tế . Chính sự phát triển chưa đồng đều về môi trường đầu tư, chính yêu cầu trong việc vừa phải tạo điều kiện thuận lợi về môi trường pháp lý nhưng lại phải bảo đảm sự kiểm soát cần thiết của nhà nước về mặt kinh tế - xã hội, chính những mục tiêu riêng có được đặt ra nên đã đưa đến tính tất yếu của việc thiết kế và xây dựng các khu công nghiệp tại Việt nam. Sự ra đời khu công nghiệp là một bước đi đung đắn của chúng ta trên con đường xây dựng và phát triển kinh tế của đất nước. 1.2. Quá trình hình thành và phát triển các khu công nghiệp ở việt nam. Mô hình KCN được tập trung nghiên cứu lần đầu tiên ở nước ta vào năm 1989 qua các tài liệu thu thập được cũng như khảo sát thực tế ở một số nước và khu vực như Đài Loan, Thái Lan,…Từ ngày 24/9/1991, khi uỷ ban hợp tác và đầu tư (nay Bộ kế hoạch và đầu tư) được thủ tướng chính phủ ủy nhiệm cấp giấy phép số 245 thành lập khu chế xuất đầu tiên với quy mô 300 ha đất tại xã Tân Thuận Đông, huyện Nhà Bè, Thành phố Hồ Chí Minh, đó là sự hợp tác với Đài Loan có tổng vốn đầu tư là 80 triệu USD, là cột mốc đầu tiên của quá trình hình thành và phát triển KCN tại việt nam. Từ đó đến nay, số lượng KCN phát triển nhanh chóng trên khắp các địa phương. Việc hình thành các khu công nghiệp được thông qua hai con đường: thành lập trên cơ sở quy hoạch lại các cụm công nghiệp đã có từ trước hoặc thành lập mới hoàn toàn. Bảng 1: Tình hình phát triển các KCN tại Việt Nam (Tính đến tháng 10/2003) Chỉ tiêu Năm Số lượng KCN Tổng diện tích (ha) Diện tích bình ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35551.doc