Đẩy mạnh xuất khẩu mặt hàng gạo của Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế

LỜI MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài. Trong thời gian qua nước ta đã đạt được nhiều thành tựu kinh tế quan trọng. Tăng trưởng cao đặc biệt trong lĩnh vực xuất khẩu nông sản đã có nhiều thành tựu nổi bật. Nhưng các mặt hàng nông sản của nước ta xuất khẩu chủ yếu là các sản phẩm thô chưa qua chế biến nên giá trị xuất khẩu còn thấp.Do đó trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay chúng ta phải đẩy mạnh xuất khẩu cả về chất và lượng, trong đó gạo là một trong những mặt hàng như vậy.

doc47 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1428 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Đẩy mạnh xuất khẩu mặt hàng gạo của Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Gạo là mặt hàng xuất khẩu quan trọng của nước ta, nó đã mang lại nguồn ngoại tệ to lớn cho việc phát triển kinh tế đất nước. Nó còn nâng cao vị thế của Việt nam trên thị trường thế giới là một trong những nước xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới mà trong tình hình hiện nay thế giới vừa trải qua cuộc khủng hoảng lương thực trầm trọng. Vì vậy mặt hàng gạo càng trở lên quan trọng hơn bao giờ hết bên cạnh những loại cây lương thực khác. Tuy vậy việc xuất khẩu gạo hiện nay của nước ta còn nhiều bất cập chưa được giải quyết, từ tình hinh xuất khẩu, nắm bắt thị trường, khai thác triệt để các lợi thế, đến khả năng cạnh tranh và dự đoán… Kết quả là tuy khối lượng xuất khẩu có tăng nhiều nhưng giá trị thì chỉ tăng ít nên chúng ta cần phải khai thác tốt lợi thế mà chúng ta có mà hiện nay Việt Nam đã là thành viên của WTO. Do vậy em chọn đề tài “đẩy mạnh xuất khẩu mặt hàng gạo của Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế” để làm đề án cho môn học kinh tế quốc tế. 2. Tình hình nghiên cứu của đề tài. Từ trước đến nay đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về gạo của Việt Nam vì đây là mặt hang chủ lực xuất khẩu của nông sản Việt Nam. Nhưng trong điều kiện hội nhập nên kinh tế quốc tế hiên nay và Việt Nam đã trở thành thành viên của WTO thì bài luận án này đã đề cập đến các vấn đề hiện nay trong việc xuất khẩu mặt hàng gạo của Việt Nam trong thời gian qua và những giải pháp nhằm thúc đẩy xuất khẩu mặt hàng này trong thời gian tới để hội nhập sâu rộng với nền kinh tế thế giới. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đề tài đi sâu vào phân tích đặc điểm, tình hình xuất khẩu gạo của Việt Nam nói chung và các doanh nghiệp nói riêng hiện nay, phân tích tình hình hoạt động của các doanh nghiệp và sự điều tiết của chính phủ. Đồng thời nêu lên các thuận lợi, khó khăn của gạo Việt Nam khi xuất khẩu ra thị trường thế giới. Qua thực tiễn hoạt động xuất khẩu gạo của Việt Nam, đề tài đưa ra giải pháp dưới góc độ vĩ mô và vi mô nhằm thúc đẩy việc xuất khẩu gạo, phù hợp với tiến trình phát triển kinh tế hội nhập kinh tế thế giới của nước ta. 4. Phương pháp nghiên cứu Đề tài sử dụng những kiến thức đã tích luỹ trong suốt quá trình học tập với những quan sát, thu thập trong thực tế, kết hợp giữa việc tổng hợp sách báo, tài liệu với việc đi sâu vào phân tích thực tiễn, tham khảo ý kiến nhằm tìm ra hướng đi hợp lý nhất cho việc xuất khẩu mặt hang gạo của Việt Nam trong điều kiên hội nhập. 5. Mục đích, nội dung nghiên cứu Trên cơ sở tập trung phân tích, đánh giá thực trạng xuất khẩu mặt hàng gạo, bản đề án đưa ra một số định huớng phát triển cho giai đoạn tiếp theo, đồng thời tìm một số giải pháp nhằm củng cố, đẩy mạnh và phát triển mặt hàng xuất khẩu chủ lực này. Để đạt được mục đích trên, về mặt lý luận, đề án đã tổng hợp, thống nhất, đúc kết và phát triển những vấn đề đã và đang được nghiên cứu, đồng thời xem xét trên cơ sở thực tiễn hoạt động xuất khẩu gạo của Việt Nam để tìm ra hướng đi đúng đắn trong thời gian tới. Kết cấu của đề án. Phần 1. Lý luận chung về xuất khẩu hàng hóa và sự cần thiết phải đẩy mạnh xuất khẩu mặt hàng gạo của Viêt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. Phần 2. Thực tiễn xuất khẩu mặt hàng gạo của Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. Phần 3. Định hướng và giải pháp nhằm đẩy mạnh xuất khẩu mặt hàng gạo của Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. Phần 1. Lý luận chung về xuất khẩu hàng hoá và sự cần thiết phải đẩy mạnh xuất khẩu mặt hàng gạo của Viêt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. 1.1 Lý luận chung về xuất khẩu. 1.1.1 Khái niệm về xuất khẩu hàng hóa Ngay từ buổi bình minh của loài người hàng hóa đã ra đời, Trước đây hàng hoá chỉ thực hiện chức năng đáp ứng nhu cầu cơ bản cho tiêu dùng của con người trong gia đình. Khi xã hội càng phát triển, tích luỹ ngày một tăng lên, cuộc sống con người ngày càng đầy đủ thì nhu cầu về các loại hàng hoá cũng tăng theo, hàng hoá ngày càng phát triển thì phát huy được những chức năng ưu việt khác của con người. Vì vậy, có một quá trình phát triển trong tư duy của con người đó là từ “hàng hoá đơn thuần” thành “hàng hoá xuất khẩu ”. Xuất khẩu hàng hoá là việc buôn bán hàng hoá giua các chủ thể khác quốc tịch, không kể hàng hoá đó có ra khỏi phạm vi hành chính hay không ? Hiện nay trên thị trường có rất nhiều loại hàng hoá khác nhau, chất lượng khác nhau người mua có thể chọn mua hàng hoá đúng theo tiêu chuẩn của mình một cách rể dàng. Nhu cầu về hàng hoá gắn liền với sự phát triển của xã hội loài người. Khi xã hội ngày càng phát triển mạnh, nhất là trong thời kỳ hội nhập quốc tế và khu vực, nhu cầu về hàng hoá càng trở nên đa dạng và phong phú. Như vậy, hàng hoá là sản phẩm sáng tạo của con người được sản xuất và bán trên thị trường nhằm phục vụ nhu cầu đời sống của con người. Xuất khẩu hàng hóa: là những hàng hoá được sản xuất ra ở trong nước được bán ra nước ngoài (lượng tiền thu được do bán hàng hóa và dịch vụ ra nước ngoài – làm tăng GDP). 1.1.1 Các hình thức xuất khẩu - Hình thức xuất khẩu trực tiếp Xuất khẩu trực tiếp là hoạt động bán hàng hóa dịch vụ cho nước ngoài một cách trực tiếp không qua trung gian. Ưu điểm: giảm thiểu chi phí trung gian, lợi nhuận thu về cao, có thể tiếp cận khách hàng trực tiếp nên nắm vững nhu cầu thị trường. Nhược điểm: gặp rủi ro khi các nước biến động, phải tự tìm hiểu thị trường. -Hình thức xuất khẩu gián tiếp Là hình thức xuất khẩu thông qua trung gian Ưu điểm: giảm thiểu rủi ro, lợi nhuận thu về chắc chắn. Nhược điểm: lợi nhuận thấp do phải trả một phần cho trung gian, không tiếp cận trực tiếp thị trường. -Hình thức gia công quốc tế Là hoạt động bên đặt gia công giao hoặc bán toàn bộ nguyên vật liệu, bán thành phẩm cho bên nhận gia công. Sau một thời gian bên nhận gia công sẽ giao lại sản phẩm cho bên đặt gia công và nhận phí gia công. Ưu điểm: bên nhận gia công chỉ việc sản xuất mà không phải lo đầu ra, đầu vào, hơn nữa lại tận dụng được lao động dư thừa trong nước. Nhược điểm: không chủ động trong quá trình sản xuất, không phát triển được nhãn hiệu, thương hiệu sản phẩm. -Hình thức tái xuất khẩu Là xuất khẩu lại những hàng hóa đã nhập khẩu trước và không gia công chế biến. Ưu điểm: không mất chi phí sản xuất và có thể linh hoạt theo nhu cầu của thị trường. Nhược điểm: chí phí vận chuyển khá lớn và tùy điều kiện tự nhiên của từng nước mới thực hiện được hình thức này. Rủi ro của hình thức này khá cao. -Xuất khẩu tại chỗ Là việc bán hàng hóa cho người nước ngoài ngay trên lãnh thổ của nước mình. Ưu điểm: không mất chi phí vận chuyển, rủi ro thấp. Nhược điểm: lượng hàng hóa bán được ít nên lợi nhuận thu về không lớn như các hình thức xuất khẩu khác 1.1.2 Vai trò của xuất khẩu hàng hoá 1.1.2.1 Xuất khẩu làm tăng ngân sách, tăng thu ngoại tệ cho chính phủ, tạo nguồn vốn cho nhập khẩu. Việc trao đổi hàng hóa và dịch vụ giữa hai nước khác nhau bắt buộc phải sử dụng đến một đồng tiền có khả năng thanh toán cao với tỷ giá ổn định. Đồng tiền này thường là ngoại tệ đối với ít nhất một nước có chủ thể tham gia vào hoạt động xuất khẩu vì thế khi hoạt động này diễn ra đã đemvề cho nước xuất khẩu một khoản ngoại tệ mạnh. Và với tốc độ phát triển của hoạt động xuất khẩu như hiện nay những khoản ngoại tệ này thường có giá trị lớn, làm tăng ngân sách nhà nước vốn dựa vào các hoạt động như: vay nợ nước ngoài, việc trợ, và xuất khẩu. Không những thế nguồn thu từ xuất khẩu tạo nguồn vốn cho hoạt động nhập khẩu, hai hoạt động này luôn song hành và có quan hệ mật thiết không thể tách rời đặc biệt là trong thời kì hội nhập kinh tế quốc tế như hiện nay. Xuất khẩu tạo nguồn vốn cho nhập khẩu, còn nhập khẩu lại hỗ trợ hoạt động sản xuất hàng xuất khẩu, chúng vừa là tiền đề cho hoạt động kia nhưng cũng lại là một phần kết quả của hoạt động kia. Xuất khẩu tạo điều kiện cho các nước khai thác tối đa lợi thế so sánh của mình Theo lí thuyết thương mại, các nước trên thế giới nên chuyên môn hóa sản xuất mặt hàng mà mình có lợi thế cạnh tranh, điều này đã kích thích hoạt động xuất khẩu phát triển, và xuất khẩu cũng có tác động ngược lại tức là làm tăng sức cạnh tranh của mặt hàng nước đó sản xuất. Mỗi nước trên thế giới đều có điều kiện khác nhau nên có lợi thế cạnh tranh về một mặt hàng riêng nào đó, để tận dụng triệt để lợi thế này mỗi nước đều ưu tiên sản xuất mặt hàng nhất định và xuất khẩu mặt hàng đó sang các nước khác không có lợi thế cạnh tranh. Nếu không có hoạt động xuất khẩu lợi thế của mỗi nước sẽ không được khai thác tối đa, việc duy trì và mở rộng thị trường để tiêu thụ sản phẩm sẽ gặp khó khăn. Xuất khẩu góp phần chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế, kích thích sự tăng trưởng kinh tế. Nhờ phần vốn mà hoạt động xuất khẩu mang lại, các quốc gia có thể nhập khẩu những công nghệ cao, những phát minh sáng chế … để hiện đại hóa nền kinh tế đất nước, nâng cao chất lượng cũng như số lượng sản phẩm với giá thành không đổi nhờ đó kinh tế có thể chuyển dịch cơ cấu từ chủ yếu là nông nghiệp lạc hậu sang một nền nông nghiệp cơ giới hóa cao, sử dụng ít nhân lực, đồng thời phát triển công nghiệp, dịch vụ. Đặc biệt là đối với những nước phát triển như Việt Nam việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế đang là một mục tiêu cấp bách cần đạt tới để phát triển kinh tế . Sự phát triển của hoạt động xuất khẩu đã tạo nhu cầu gia tăng sản xuất kinh doanh ở các ngành khác như công nghiệp khai thác và chế biến, các ngành dịch vụ liên quan… Đẩy mạnh xuất khẩu cũng góp phần làm tăng quy mô sản xuất, cùng với sự xuất hiện và phát triển của nhiều ngành nghề khác nhau sẽ làm tăng tổng sản phẩm xã hội tạo điều kiện cho nền kinh tế phát triển nhanh và ổn định do xuất khẩu tạo khả năng mở rộng thị trường giúp cho sản xuất ổn định và kinh tế phát triển. Trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế như hiện nay, các doanh nghiệp xuất khẩu phải cạnh tranh gay gắt mới có thể đứng vững trên thương trường vì thế việc đổi mới và cải tiến công nghệ nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm chi phí sản xuất để hạ giá thành sản phẩm, nâng cao chất lượng lao động là điều tất yếu với mỗi doanh nghiệp đồng thời xuất khẩu còn làm tăng GDP, làm gia tăng nguồn thu nhập quốc dân làm tăng tiêu dùng nội địa, tăng đầu tư cho các ngành sản xuất hàng xuất khẩu, quá trình này đã ảnh hưởng một cách tích cực sự tăng trưởng nền kinh tế của mỗi quốc gia cũng như sự thay đổi trong cơ cấu nền kinh tế. 1.1.2.4 Xuất khẩu góp phần giải quyết công ăn việc làm và cải thiện đời sống cho người dân. Khi xuất khẩu phát triển tất yếu dẫn đến quy mô sản xuất ngày càng được mở rộng. Điều này giúp các quốc gia sẽ giải quyết được việc làm cho người lao động, làm tăng thu nhập đồng thời nâng cao chất lượng cuộc sống cả về vật chất lẫn tinh thần cho người dân. Xuất khẩu còn kéo theo nhập khẩu phát triển tạo điều kiện cho người dân có cơ hội tiếp cận với những hàng hóa có chất lượng tốt hơn cũng như giá thành hợp lí hơn. Không những thế do xuất khẩu phát triển nền sản xuất cũng phải mở rộng về số lượng và chất lượng đã đòi hỏi doanh nghiệp phải có nguồn lao động chất lượng cao với mức lương tương xứng , đây chính là yếu tố kích thích người lao động tự nâng cao trình độ tay nghề của mình , chất lượng lao động của quốc gia sẽ được cải thiện. 1.1.2.5 Xuất khẩu còn tạo điều kiện mở rộng và thúc đẩy quan hệ với các nước trên thế giới Hoạt động kinh tế giữa các quốc gia luôn là cầu nối, là tiền đề cho quan hệ giữa các quốc gia đó, xuất khẩu cũng không ngoại lệ. Đây là một hoạt động quan trọng để góp phần thiết lập, mở rộng quan hệ với các nước trên thế giới. Đồng thời quan hệ ngoại giao cũng mở đường cho hoạt động kinh tế trong đó có hoạt động xuất khẩu. Không những mở rộng quan hệ ngoại giao, xuất khẩu còn có khả năng nâng cao vị trí của quốc gia trên trường quốc tế. Các sản phẩm khi xuất khẩu luôn gắn với xuất xứ của chúng, trong điều kiện hiện nay các nước trên thế giới hầu hết đều quy định hàng xuất khẩu đều phải có giấy chứng nhận xuất xứ, nếu mặt hàng xuất khẩu có chất lượng cao được ưa chuộng trên thế giới tức là đất nước sản xuất ra mặt hàng đó ngày càng được nhiều người biết đến, địa vị của đất nước đó trên thị trường quốc tế ngày càng được nâng cao. Hoạt động xuất khẩu đã tạo ra những lợi ích to lớn đối với nền kinh tế của các quốc gia nói riêng và thế giới nói chung chính vì thế việc thúc đẩy hoạt động xuất khẩu phải luôn được các nước chú trọng. 1.1.3 Nội dung của xuất khẩu hàng hóa. Xuất khẩu, trong lý luận thương mại quốc tế là việc bán hang hoá và dịch vụ cho nước ngoài, trong cách tính toán cán cân thanh toán quốc tế  theo IMF là việc bán hàng hóa cho nước ngoài. (theo điều 28, mục 1, chương 2 luật thương mại việt nam 2005) xuất khẩu hàng hóa là việc hàng hóa được đưa ra khỏi lãnh thổ Việt Nam hoặc đưa vào khu vực đặc biệt nằm trên lãnh thổ việt nam được coi là khu vực hải quan riêng theo quy định của pháp luật 1.2 Sự cần thiết phải đẩy mạnh xuất khẩu mặt hàng gạo của Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. 1.2.1 Vai trò to lớn của xuất khẩu gạo với nền kinh tế Việt Nam. (1) Nguồn: - Với một nước đang phát triển và đang thực hiện sự nghiệp công nghiệp hoá hiên đại hoá, xuất khẩu gạo tạo nguồn thu ngoại tệ hằng năm cho chính phủ như năm 2006 đạt 1.26tỷ USD, năm 2007 đạt 1,45tỷ USD và dự kiến năm 2008 đạt 1,7 tỷ USD(1), đảm bảo cán cân thanh toán tạo điều kiện cho sự phát triển kinh tế nói chung của đất nước. - Xuất khẩu gạo đòi hỏi việc đầu tư vào sản xuất lúa theo hướng chuyên môn hoá, thúc đẩy các ngành phục vụ cho sản xuất nông nghiệp phát triển như cơ khí hoá, điện khí hoá trong nông nghiệp…và các ngành công nghệ chế biến sau thu hoạch như vậy xuất khẩu gạo mới mang lại giá trị cao hơn. - Xuất khẩu gạo một mặt đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế, còn giải quyết một số vấn đề về xã hội như tạo công ăn việc làm cho người lao động, tăng thu nhập cải thiệ đời sống cho người dân. Xuất khẩu gạo là hình thức giải quyết công ăn việc làm cho 60% lực lượng lao động nông nghiệp. Nó còn tạo điều kiện giảm nghèo cho nông dân mà còn mở rộng các quan hệ đối ngoại, đầu tư, tín dụng quốc tế… - Không những bảo đảm an ninh lương thực trong nước mà việc tăng mạnh xuất khẩu gạo của Việt Nam trong những năm gần đây là:2006 là 4,38 triệu tấn, 2007 là 4,5 triệu tấn, dự kiến 2008 đạt 4,7 triệu tấn.(1) vào việc bảo đảm an ninh lương thực cho thế giới trong tình hình khủng hoảng lương thực trên thế giới ngày càng nghiêm trọng. - Xuất khẩu gạo trong điều kiện hội nhập nền kinh tế quốc tế không những chúng ta cần đảm bảo các yêu cầu khắt khe và số lượng, chất lượng và các điều kiện khác mà chúng ta còn phải đảm bảo các yêu cầu về bảo vệ môi trường sinh thái. Bảo đảm cho sự phát triển bền vững của nền kinh tế qua đó còn thể hiện cam kết của Việt Nam về bảo vệ môi trường như nghị định thư Tokyo mà Việt Nam đã phê duyêt. Không những vậy nó còn phục vụ cho nhu cầu tái sản xuất, không gây cạn kiệt nguồn tài nguyên có hạn. 1.2.2 Khai thác những lợi thế cạnh tranh của Việt Nam Các lợi thế so sánh hiện đang có của Việt Nam chứa đựng những lợi thế cạnh tranh trong điều kiên hội nhập kinh tế quốc tế được phân tích dựa vào các điều kiện sản xuất quan trọng, vốn có của đất nước như lao động, tài nguyên thiên nhiên và vị trí địa lý… 1.2.2.1. Lực lượng lao động dồi dào (1),(2) Nguồn: - Việt Nam có lợi thế về lao động không chỉ về mặt số lượng mà còn về mặt chất lượng. Lực lượng lao động ở nông thôn Việt Nam rất đông đảo, năm 2007 có 24,259 triệu người, chiếm tới 56,8% lực lượng lao động cả nước. Hàng năm có thêm khoảng 1-1,2(2) triệu người bước vào tuổi lao động. Con người Việt Nam có mặt mạnh là cần cù lao động, thông minh, sáng tạo, có khả năng nắm bắt nhanh chóng và ứng dụng khoa học - công nghệ mới và thích ứng với những tình huống phức tạp trong sản xuất nông nghiệp. Giá công lao động Việt Nam lại rẻ hơn so với các nước khác trong khu vực. - Do đặc thù của ngành nông nghiệp là sử dụng nhiều lao động vào quá trình sản xuất-kinh doanh nên chi phí sản xuất nông nghiệp lại càng thấp. Tuy nhiên, lao động Việt Nam nói chung, trong ngành nông nghiệp nói riêng còn một số hạn chế về năng suất lao động, trình độ kỹ thuật thấp, ý thức tổ chức kỷ luật còn yếu, đòi hỏi cần phải có giải pháp khắc phục mới đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế-xã hội của đất nước trong điều kiện hội nhập KTQT. 1.2.2.2. Tài nguyên thiên nhiên phong phú a. Về điều kiện đất nông nghiệp Đất đai là tư liệu sản xuất rất quan trọng trong sản xuất nông nghiệp. Độ màu mỡ, phì nhiêu của đất chi phối sâu sắc đến khả năng thâm canh tăng năng suất, chất lượng và giá thành của sản phẩm. Nước ta có tổng diện tích đất tự nhiên là 33,1 triệu ha, trong đó đất dành cho sản xuất nông nghiệp là 8,1 triệu ha (chiếm 24,47% tổng diện tích đất của cả nước)(1). Phần lớn đất nông nghiệp Việt Nam màu mỡ, có độ phì nhiêu cao, đáp ứng yêu cầu thâm canh tăng năng suất và phát triển sinh học đa dạng. Chủ yếu được sử dụng để trồng các loại cây nông nghiệp truyền thống như lúa, cà phê, chè, hạt điều… nhưng diện tích trồng lúa nước vẫn là lớn nhất. Tuy bình quân đất nông nghiệp, đặc biệt là đất canh tác trên đầu người của ta thấp chỉ 0,11 ha/người, nhưng quỹ đất chưa sử dụng đang còn rất lớn. Hiện nay chúng ta có hàng triệu ha đất trống đồi trọc còn chưa sử dụng, trong đó đất có khả năng nông nghiệp còn khoảng 3 triệu ha. (1) Nguồn: b. Tài nguyên khí hậu Điều kiện khí hậu và sinh thái nước ta khá phong phú và có tính đa dạng. Nước ta có số giờ nắng cao, cường độ bức xạ lớn, tài nguyên nhiệt của ta được xếp vào loại giàu, có thể khai thác được qua con đường tích lũy sinh học. Nguồn ẩm của nước ta cũng khá dồi dào với độ ẩm tương đối cao 80%-90%, lượng mưa lớn, trung bình ở hầu hết các vùng đạt từ 1.800 mm-2.000 mm/năm. Với sự hình thành của 7 vùng sinh thái khác nhau, phân biệt rõ rệt từ Bắc vào Nam, cùng với sự đa dạng của địa hình nên rất thuận lợi cho việc đa dạng hóa cây trồng. Đặc biệt nhiều vùng, tiểu vùng có điều kiện sinh thái khí hậu đặc thù, hội tụ được nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển một số cây đặc sản có giá trị xuất khẩu cao, mang tính đặc sản, mà ít nơi trên thế giới có được mà lúa là một trong những loại cây trồng như vậy như vùng đồng bằng Sông Cửu Long và đồng bằng Sông Hồng cho phép sản xuất lúa quanh năm trên diện rộng, thích nghi với nhiều giống lúa cao sản, đặc chủng cho năng suất cao. 1.2.2.3. Vị trí địa lý, hải cảng Việt Nam nằm ở trung tâm Đông Nam Á trong khu vực Châu Á - Thái Bình Dương. Đây là một khu vực có nền kinh tế phát triển năng động với tốc độ cao trong những năm qua và theo nhiều dự báo trong những năm tới, khu vực này có vai trò ngày càng tăng trên thế giới, đã tạo động lực cho quá trình tạo thế và đà cho sự phát triển của Việt Nam. Việt Nam nằm trên tuyến đường giao thông hàng hải, hàng không từ Đông sang Tây với những vịnh, cảng quan trọng. Đường bộ, đường sông đã nối ba nước Đông Dương thành thế chiến lược kinh tế thuận lợi trong giao lưu với khu vực và thế giới. Ưu thế vị trí địa lý thuận lợi rõ ràng là một lợi thế để tạo ra một môi trường kinh tế năng động, linh hoạt, giảm được chi phí vận chuyển và có khả năng phát triển dịch vụ vận tải và các hoạt động dịch vụ mà chúng ta cần phải biết tận dụng và khai thác triệt để. Không những vậy trải qua hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước cây lúa nước luôn đồng hành với sự phát triển của đất nước. Qua đó những kinh nghiệm mà ông cha ta đã đúc kết được về cây lúa là rất quan trọng cho thế hệ sau học hỏi và áp dụng vào những thời điểm thích hợp. 1.2.3 Thích ứng với nhũng tác động của hội nhập kinh tế quốc tế 1.2.3.4 Những tác động tích cực của hội nhập đến mặt hàng gạo xuất khẩu của Việt Nam - Thúc đẩy quá trình cải cách và cấu trúc lại nền kinh tế hoạt động có hiệu quả hơn nói chung và việc xuất khẩu gạo nói riêng. Để đạt được hiệu quả cao thì chúng ta phải đầu tư cả tài chính, lao động, và công nghệ để phát huy những lợi thế nhất định cho mặt hàng này. - Khả năng mở rộng thị trường xuất khẩu mặt hang gạo do nước ta đã tham gia và là thành viên của các tổ chức như: AFTA, BTA, ACFTA, WTO, Việt Nam có nhiều cơ hội hơn trong việc thúc đẩy xuất khẩu gạo do các rào cản đã từng bước được bãi bỏ và được đối xử bình đẳng hơn. - Thu hút đầu tư vào lĩnh vực sản xuất và chế biến gạo xuất khẩu. Do quá trình thu gom, chế biến, đóng gói, marketing, phân tích và dự đoán thị trường của các doanh nghiệp trong nước còn yếu. Và trình độ công nghệ của ta còn lạc hậu nên cần các cách quản lý tiên tiến, công nghệ hiên đại từ nước ngoài. - Tiếp nhận chuyển giao, phát triển khoa học và công nghệ từ nước ngoài. Hoạt động hợp tác khoa học kỹ thuật, công nghệ và xây dựng năng lực là nội dung bao trùm tất cả các lĩnh vực của WTO dưới nhiều hình thức khác nhau. Khi gia nhập WTO, cũng như các nước đang phát triển là thành viên khác, Việt Nam có cơ hội được tham gia nhiều hơn các chương trình hợp tác về khoa học công nghệ cũng như được tăng thêm các nguồn hỗ trợ kỹ thuật, tăng cường năng lực khoa học công nghệ để khai thác tiềm năng to lớn của nền nông nghiệp. - Việt Nam cũng sẽ có cơ hội tiếp nhận nhiều nguồn công nghệ mới, học hỏi nhiều kỹ năng quản lý tiên tiến qua trao đổi chuyên gia, tham dự các khóa đào tạo, hội thảo góp phần nâng cao năng suất, chất lượng và tăng sức cạnh tranh của hàng nông sản nói chung và mặt hàng gạo nói riêng. Hơn nữa, với môi trường đầu tư ngày càng thông thoáng, dòng vốn nước ngoài đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp sẽ tăng lên cùng với sự chuyển giao một số lượng lớn hơn kỹ thuật, công nghệ hiện đại và kinh nghiệm quản lý tiên tiến vào Việt Nam. Đó là những biện pháp tốt nhất để đẩy mạnh sản xuất kinh doanh nông nghiệp với năng suất, chất lượng và hiệu quả cao. - Tạo sức ép nâng cao sức cạnh tranh của các doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh gạo. Thực thi các Hiệp định thương mại, Việt Nam không những được hưởng những quyền lợi mà các nước thành viên dành cho nhau, ngược lại Việt Nam cũng phải thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ dành ưu đãi cho các thành viên khác. Có nghĩa là, quá trình hội nhập kinh tế quốc tế yêu cầu Việt Nam cũng phải mở cửa thị trường gạo nhiều hơn, chính sách thương mại quốc tế hàng nông sản phải minh bạch và bình đẳng hơn để doanh nghiệp có thể linh hoạt hơn trong môi trường cạnh tranh ngày càng được quốc tế hóa. Các chính sách trợ cấp hoặc hỗ trợ cho nông nghiệp không phù hợp với WTO cũng dần phải loại bỏ. Như vậy các doanh nghiệp Việt Nam, nhất là các doanh nghiệp Nhà nước không còn trông chờ và ỷ lại vào sự hỗ trợ của Nhà nước được nữa. Doanh nghiệp có trụ vững và phát triển được hay không chủ yếu phụ thuộc vào sức cạnh tranh của doanh nghiệp và công tác xúc tiến thương mại ở cả thị trường trong và ngoài nước. Điều đó có nghĩa là, doanh nghiệp nào muốn tồn tại và phát triển thì phải chấp nhận cạnh tranh. áp lực này gây ra cho doanh nghiệp lúc đầu gặp khó khăn, nhưng buộc các doanh nghiệp Việt Nam phải năng động hơn, phải điều chỉnh chiến lược hoạt động, kiện toàn bộ máy gọn nhẹ, tiết kiệm chi phí sản xuất, hạ giá thành sản phẩm để nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm gạo trên thị trường. 1.2.3.4 Những tác động tiêu cực của hội nhập kinh tế quốc tế đến mặt hàng gạo của Việt Nam - Sự biến động cung cầu của mặt hàng gạo trên thị trường thế giới rất khó dự đoán do chịu sự chi phối của rất nhiều các yếu tố như thời tiết khí hậu, diện tích, năng suất… Những năm gần đây, một số nước sản xuất gạo khối lượng lớn như Thái Lan, Trung Quốc, Ấn Độ, Mỹ đã từng bước chủ động kiểm soát việc mở rộng diện tích trồng, góp phần kiểm soát sản lượng và tác động đến giá sản phẩm gạo trên thị trường thế giới. Trong khi đó, công nghệ giống, quy trình chăm sóc, kỹ thuật và công nghệ chế biến là các yếu tố quan trọng được các nước này rất quan tâm nhằm đảm bảo chất lượng và sử dụng làm công cụ chiếm lĩnh và mở rộng thị phần của mình. Những biến động của cung cầu mặt hàng gạo trên thị trường thế giới có ảnh hưởng không nhỏ đến sức cạnh tranh của mặt hang gạo xuất khẩu của Việt Nam do chất lượng hàng xuất khẩu còn thấp, chưa đảm bảo yêu cầu về chất lượng và vệ sinh an toàn thực phẩm. Trong khi đó, công tác tiếp thị, tổ chức sản xuất, thu mua và xuất khẩu còn yếu kém. Mặt hàng gạo của Việt Nam sẽ phải đối mặt với khó khăn trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và các hiệp định về nông nghiệp của WTO và còn đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt của các nước khác như Thái Lan, Trung Quốc, Ấn Độ… do hội nhập cũng như trong khối ASEAN vì họ có điều kiện khá tương đồng với ta. Gạo của Việt Nam sẽ gặp khó khăn trong việc vượt qua các rào cản thuế quan và phi thuế quan cao do các nước nhập khẩu đặt ra để bảo vệ sản phẩm gạo trong nước của họ như các quy định về tiêu chuẩn kỹ thuật, an toàn vệ sinh thực phẩm… Sự biến động của giá gạo trên thị trường thế giới gây khó khăn cho quá trình tiêu thụ gạo của Việt Nam. Đó là sự lên xuống thất thường của giá gạo đã, đang, và sẽ diễn ra trong thời gian tới. Cuộc khủng hoảng lương thực thế giới vừa qua đã cho chúng ta bài học sâu sắc về sự biến động của giá gạo. Tuy Việt Nam là nước xuất khẩu gạo thứ hai thế giới nhưng vẫn chưa có vai trò chi phối, điều tiết giá gạo trên thị trường thế giới. Phần 2. Thực tiễn xuất khẩu mặt hàng gạo của Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế 2.1 Tình hình xuất khẩu gạo của Việt Nam trong những năm qua 2.1.1 Sản lượng và doanh thu gạo xuất khẩu Trong những năm qua, sản lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam đã tăng mạnh ( bảng 2.1). Trước năm 1989, Việt Nam đã từng là nước thiếu lương thực triền miên, mỗi năm phải nhập bình quân trên 1 triệu tấn lương thực. Đến nay Việt Nam là nước xuất khẩu gạo đứng thứ hai thế giới. Bảng 2.1: Khối lượng và kim ngạch xuất khẩu gạo Năm Khối lượng Kim ngạch Giá (nghìn tấn) (triệu USD) (USD/tấn) 1996 3.058 686,42 224 1997 3.681 891,34 242 1998 3.972 1.005,48 253 1999 4.555 1.008,96 221 2000 3.37 615,82 182 2001 3.528 544,11 154 2002 3.245 608,12 187 2003 3.82 734,00 192 2004 4 941,00 235 2005 5.2 1.394,00 268 2006 4.749 1.300,00 273 2007 4.38 1.450,00 331 2008(dự kiến) 4.5 1.700,00 340 Nguồn: Tổng cục thống kê Năm 1999 là năm Việt Nam có lượng gạo xuất khẩu đạt mức kỷ lục 4,5 triệu tấn, thu về 1.008,9 triệu USD, chủ yếu do lượng gạo xuất khẩu của Ấn Độ giảm đáng kể, giảm gần 59% so với năm 1998 (4,66 triệu tấn). Năm 2000, xuất khẩu gạo của Việt Nam lại giảm khoảng 1,18 triệu tấn, còn 3,37 triệu tấn do nhu cầu gạo nhập khẩu trên thế giới giảm mạnh so với cung, giá gạo đã giảm mạnh. Xu hướng này tiếp tục giảm trong các năm 2001, 2002. Năm 2001, mặc dù xuất khẩu với số lượng lớn hơn năm 2000 (hơn 158 ngàn tấn), nhưng giá trị kim ngạch lại thấp hơn năm 2000 là 71,1 triệu USD do giá gạo Việt Nam giảm 27 USD/tấn (từ 192 xuống còn 165 USD/tấn) so với năm 2000. Từ giữa những năm 2003 cho đến nay, thị trựờng gạo trên thế giới biến động mạnh do cung gạo thế giới thiếu hụt và lượng gạo dự trữ giảm đột ngột đã đẩy giá lên cao. Năm 2004, xuất khẩu của cả nước đạt 4,0 triệu tấn, tăng 4,7% so với năm 2003. Song, do giá xuất khẩu gạo bình quân năm 2004 đã tăng tới 22% (43,16USD/tấn) so với năm 2003, đạt 232,06 USD/tấn, nên kim ngạch xuất khẩu gạo năm 2004 đã tăng 28,2% so với năm 2003, đạt 941 triệu USD. Năm 2005, gạo xuất khẩu của Việt Nam đạt mức cao nhất từ trước đến nay, đã tăng gần 30% về lượng và 48% về giá trị so với năm 2004, giá xuất khẩu tăng 14,4% so với năm 2004. Năm 2006, gạo xuất khẩu 4,8 triệu tấn, đạt 1,3 tỷ USD, so với 2005 giảm 9% về lượng nhưng giá lại tăng 2,6% nên kim ngạch chỉ giảm 6,7%. Xét giai đoạn 1996-2007, cả sản lượng và kim ngạch xuất khẩu gạo của Việt Nam đều tăng lên. Nhưng do giá xuất khẩu gạo trên thị trường thế giới tăng trong những năm gần đây, nên tốc độ tăng bình quân của kim ngạch gạo xuất khẩu (6,5%) có mức tăng nhanh hơn mức tăng của sản lượng (4,5%). So với các đối thủ cạnh tranh mạnh thì tốc độ tăng sản lượng gạo xuất khẩu của họ thấp hơn tốc độ tăng sản lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam, nhưng tốc độ tăng kim ngạch lại cao hơn. Sản lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam lớn thứ 2 trên thế giới nhưng chỉ xếp thứ 3, thứ 4 xét về giá trị xuất khẩu. Chẳng hạn năm 2005, trong khi sản lượng gạo xuất khẩu của Thái Lan chỉ gấp 1,39 lần của Việt Nam (7.240 nghìn tấn so với 5.200 nghìn tấn) thì kim ngạch xuất khẩu lại gấp những 1,61 lần (2.246 triệu USD so với 1.390 triệu USD). Và ước tính năm 2008 lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam là 4,5 triệu tấn với giá bán 340$/tấn thì kim ngạch đạt 1,7 tỷ USD một con số kỷ lục trong xuất khẩu gạo của nước ta từ trước đến nay. 2.1.2 Chủng loại, giá cả và chất lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam Từ năm 2004 giá chào gạo xuất khẩu của Việt Nam tiếp tục tăng 2-5 USD/tấn. Giá gạo đã tăng tới 23% so với 2003. Giá gạo xuất khẩu của Việt Nam dao động ở mức: 5% tấm là 235 USD/tấn, 25% tấm là 222 USD/tấn. Tuy nhiên, với mức giá này, giá chào gạo xuất khẩu của VN vẫn thấp hơn của Thái Lan 32-38 USD/tấn cùng loại. Năm 2005, xuất khẩu gạo của Việt Nam tăng kỷ lục cả về khối lượng lẫn kim ngạch, nhưng cho đến nay, trên thương trường quốc tế chưa có thương hiệu hoặc nhãn hiệu gạo nổi tiếng đặc trưng cho gạo Việt Nam. Năm 2005 doanh nghiệp Việt Nam đã tham gia đấu thầu tại Philippines và một số nước khác với nhiều hợp đồng có giá xuất khẩu cao, bình quân 279 USD/tấn, mở rộng thị trường mới sang Iran, gia tăng xuất khẩu sang châu Phi, Cu-ba. Theo tổng cục thống kê, tính đến hết tháng 11/2005 Việt Nam đã xuất khẩu được 4,9 triệu tấn gạo, đạt giá trị gần 1,3 tỷ USD, tăng 430 triệu USD so với năm 2004, vượt mức kỷ lục xuất khẩu 4,4 triệu tấn gạo và 1,037 tỷ USD năm 1999. Điều đáng lưu ý, trong đó tăng do giá tăng đến 168 triệu USD. Xu hướng tiêu thụ gạo nhập khẩu từ Việt Nam chuyển biến rõ trong 2006, gạo cấp trung bình 15 % tấm chiếm mới 28 %, trong tháng 2 vừa qua, chủng loại gạo 15% chiếm đến 80%. Trong những ngày qua giá gạo 15% tấm Việt Nam lên tới 310 USD/tấn, tăng 64 % so với năm 2006... Năm 2007, xuất khẩu gạo 15% tấm đạt 1,512 triệu tấn với kim ngạch 501,5 triệu USD, tăng 15,04% về lượng và tăng 37,96% về trị giá so với năm 2006; tăng 21,84% về lượng và tăng 44,67% về trị giá so với năm 2005. Năm 2007, loại gạo này được xuất khẩu chủ yếu sa._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc22690.doc
Tài liệu liên quan