LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Giải quyết thất nghiệp, tạo việc làm, tăng thu nhập và nâng cao dần đời sống của nhân dân luôn là vấn đề nóng bỏng, là mối quan tâm hàng đầu của Đảng, Nhà nước và mọi thành viên trong xã hội ta.
Nước ta có dân số trẻ, số lượng người trong độ tuổi lao động năm 2000 là gần 40 triệu mà đa số ở nông thôn, trong khi bình quân ruộng đất đầu người thấp, ngành nghề chưa phát triển, tỷ lệ tăng dân số cao... Do vậy, số người lao động chưa đủ hoặc chưa có việc làm
78 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2236 | Lượt tải: 3
Tóm tắt tài liệu Đẩy mạnh xuất khẩu lao động của nước ta trong giai đoạn hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ngày càng nhiều.
Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế quốc dân, việc sử dụng máy móc và ứng dụng những thành tựu của cách mạng khoa học công nghệ, cải tiến tổ chức sản xuất tuy có tạo thêm nhiều chỗ làm việc nhưng cầu về lao động vẫn nhỏ hơn cung, đồng thời xuất hiện tình trạng thừa lao động giản đơn, lao động lành nghề sử dụng chưa phù hợp.
Để tạo việc làm, nước ta đã có nhiều giải pháp tích cực, trong đó xuất khẩu lao động là một trong những giải pháp quan trọng. Tuy nhiên, quá trình hợp tác quốc tế về lao động (cách gọi trước đây) hay xuất khẩu lao động (cách gọi hiện nay) đang còn nhiều nhược điểm, thiếu sót như: việc quản lý xuất khẩu lao động chưa tốt; quyền lợi của người lao động của ta ở nước ngoài chưa được quan tâm đầy đủ (cả về vật chất và tinh thần), chất lượng lao động kém, trình độ ngoại ngữ thấp, ý thức kỷ luật lao động của người Việt Nam ở nước ngoài chưa cao...
Chính vì vậy, chỉnh đốn và đẩy mạnh công tác xuất khẩu lao động, mở rộng thị trường lao động, đặc biệt là ở những thị trường có điều kiện lao động tốt, thu nhập cao, là một trong những vấn đề có tình thời sự nhằm giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập, thúc đẩy sự hội nhập của Việt Nam vào nền kinh tế thế giới trong điều kiện phân công lao động quốc tế và quá trình toàn cầu hóa đang diễn ra ngày càng sâu rộng. Vì thế, "Đẩy mạnh xuất khẩu lao động của nước ta trong giai đoạn hiện nay" được chọn làm đề tài luận văn thạc sĩ.
2. Nhiệm vụ của luận văn
2.1. Làm rõ sự cần thiết phải đẩy mạnh xuất khẩu lao động ở nước ta.
2.2. Tìm hiểu tình hình xuất khẩu lao động của một số nước như Philipin, Thái Lan, Bănglađét.
2.3. Phân tích tình hình xuất khẩu lao động ở nước ta qua hai giai đoạn 1980 - 1989 và 1990 đến nay.
2.4. Đề xuất một số giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu lao động của Việt Nam trong thời gian tới.
3. Tình hình nghiên cứu
Vấn đề này đã có nhiều tác giả nghiên cứu, như:
Phạm Nhật Tân: Sự Hội nhập khu vực về xuất khẩu lao động của Việt Nam.
Trương Quang Oánh: Tạo vị thế để mở rộng xuất khẩu lao động.
Trần Đình Chính: Mở rộng xuất khẩu lao động - một hướng tích cực giải quyết việc làm.
Nguyễn Quang Hiển: Xu hướng vận động thị trường lao động của nước ta.
Nguyễn Lương Trào: Một số vấn đề về xuất khẩu lao động ở nước ta trong giai đoạn mới.
Trần Văn Hằng: Thị trường lao động Việt Nam và cơ chế giải quyết việc làm ngoài nước.
Minh Đức: Đánh giá hợp tác lao động 10 năm 1985 - 1995 và phương hướng 1996 - 2000.
Tuy nhiên, phần lớn các công trình trên chỉ là những bài báo về từng mặt của xuất khẩu lao động:
- Đánh giá hiệu quả kinh tế của chương trình hợp tác lao động quốc tế và XKLĐ.
- Phân tích một số thị trường lao động trên thế giới và trong khu vực.
- Đưa ra một số giải pháp nhằm đẩy mạnh XKLĐ ở nước ta.
Còn có ít công trình phân tích một cách tương đối toàn diện công tác XKLĐ của ta.
4. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Hiện nay, ở nước ta còn có những cách hiểu khác nhau về nội dung của phạm trù XKLĐ. Luận văn này chỉ sử dụng phạm trù "xuất khẩu lao động" theo nghĩa hẹp, nghĩa là chỉ xét những người lao động Việt Nam được đưa đi làm việc tại các nước và các vùng ngoài lãnh thổ Việt Nam.
5. Những đóng góp của luận văn
Tìm hiểu tình hình XKLĐ của một số nước từ đó rút ra những kinh nghiệm có thể vận dụng vào hoàn cảnh cụ thể của nước ta.
Khái quát được những thành tựu, những thiếu sót chủ yếu và nguyên nhân trong công tác XKLĐ ở nước ta những năm qua.
Đề xuất một số giải pháp khả thi đẩy mạnh XKLĐ trong thời gian tới.
6. Ý nghĩa thực tiễn của luận văn
Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho các nhà nghiên cứu, các giảng viên, các nhà hoạch định chính sách kinh tế - xã hội trong lĩnh vực hợp tác lao động quốc tế và những độc giả quan tâm đến lĩnh vực này.
7. Kết cấu của luận văn
Luận văn gồm có lời mở đầu, 3 chương và kết luận.
Chương 1: Sự cần thiết phải xuất khẩu lao động của nước ta hiện nay và kinh nghiệm XKLĐ của một số nước.
Chương 2: Tình hình XKLĐ của nước ta những thập kỷ qua.
Chương 3: Những phương hướng và giải pháp chủ yếu để đẩy mạnh XKLĐ của nước ta trong thời gian tới.
Chương 1
SỰ CẦN THIẾT XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG CỦA NƯỚC TA VÀ KINH NGHIỆM XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG CỦA MỘT SỐ NƯỚC
1.1. XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG VÀ THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG
1.1.1. Xuất khẩu lao động
Bằng Quyết định 46CP ngày 01/02/1980 của Hội đồng Chính phủ, nước ta bắt đầu thực hiện XKLĐ vào những năm 80. Tuy nhiên, trong giai đoạn đó, một mặt chưa thừa nhận sự tồn tại của kinh tế thị trường và hàng hóa sức lao động trong CNXH, mặt khác, do đề cao quan hệ thân thiện giúp đỡ lẫn nhau giữa nước ta với các nước XHCN nên gọi là Hợp tác quốc tế về lao động.
Sau khi CNXH sụp đổ ở Liên Xô và các nước XHCN ở Đông Âu, nền kinh tế nước ta chuyển từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung bao cấp sang cơ chế thị trường thì thuật ngữ XKLĐ được sử dụng thay cho thuật ngữ Hợp tác quốc tế về lao động.
Trước khi có Luật Doanh nghiệp thì XKLĐ được hiểu là XKLĐ tại chỗ và XKLĐ trực tiếp. XKLĐ tại chỗ là người lao động bán sức lao động cho các công ty nước ngoài và làm việc cho họ ở ngay trên lãnh thổ của mình. Chẳng hạn, người lao động Việt Nam làm cho các công ty nước ngoài trong các khu chế xuất ngay trên lãnh thổ Việt Nam. Còn XKLĐ trực tiếp là người lao động được đưa sang các nước khác làm thuê.
Từ ngày 4/5 đến ngày 12/6 năm 1999, kỳ họp thứ 5 Quốc hội khóa X Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thông qua Luật Doanh nghiệp. Điều 2 Luật Doanh nghiệp xác định: "Việc thành lập, tổ chức quản lý và hoạt động của doanh nghiệp trên lãnh thổ Việt Nam áp dụng theo quy định của luật này và các quy định luật pháp khác có liên quan.
Trường hợp có sự khác nhau giữa quy định của luật này và quy định của luật chuyên ngành về cùng một vấn đề, thì áp dụng theo quy định của luật chuyên ngành" [21, tr. 7].
Căn cứ vào luật này đã xuất hiện ý kiến cho rằng mọi doanh nghiệp nằm trên lãnh thổ Việt Nam đều chịu sự điều chỉnh của Luật Doanh nghiệp Việt Nam. Do vậy, quan niệm như trên về XKLĐ không còn phù hợp.
XKLĐ hiện nay được hiểu là việc đưa người lao động từ nước xuất khẩu đến làm việc ở các nước có nhu cầu nhập khẩu lao động. Theo cách hiểu này thì XKLĐ chỉ bao gồm trường hợp thứ hai của quan niệm trước, và đây cũng là cách hiểu được sử dụng trong luận văn này.
Theo lý luận trừu tượng thì những người lao động đi làm việc ở nước ngoài có thể dưới hình thức bán hàng hóa sức lao động hoặc dưới hình thức làm dịch vụ (như làm việc nội trợ). Luận văn này không tách biệt mà gộp chung lại khi tính cung cầu trên thị trường lao động.
1.1.2. Thị trường lao động
Thị trường lao động theo đúng nghĩa chỉ là mua bán hàng hóa sức lao động. Ở đây tính cả việc thuê người làm dịch vụ. Thị trường lao động cũng bị chi phối bởi các quy luật của kinh tế hàng hóa, nhất là quy luật cung cầu. Việc hình thành thị trường lao động quốc tế do các nguyên nhân chủ yếu sau:
- Do sự mất cân đối về cung cầu lao động nói chung trên thị trường lao động các nước. Nhiều nước có nhu cầu lớn về lao động như Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, các nước thuộc khu vực Trung Đông... mà cung về lao động trong nước không đáp ứng đủ, trong khi nhiều nước lại thừa lao động như Philipin, Ấn Độ, Trung Quốc, Việt Nam, Bănglađét... Từ đó dẫn đến sự XKLĐ từ các nước thừa sang các nước có nhu cầu sử dụng lao động ngoài nước.
- Do sự mất cân đối trong từng loại lao động khác nhau: nhiều nước thiếu lao động có trình độ cao, đặc biệt là những nước đang phát triển, nhưng thừa lao động giản đơn, trong khi đó, ở các nước phát triển thì những lao động 3D (nặng nhọc, độc hại, bẩn) người dân bản xứ không thích làm... nên phải nhập khẩu lao động.
- Do giá cả lao động ở các nước có sự chênh lệch nhau. Thái Lan là một điển hình: vào những năm 90, quá trình công nghiệp hóa đất nước đã mở rộng nhiều ngành nghề sản xuất thu hút nhiều lao động, cả lao động có trình độ cao và lao động giản đơn. Lao động của nhiều nước láng giềng với Thái Lan đã đổ xô vào các nhà máy, xí nghiệp mà chính phủ Thái Lan đã cho di chuyển đến sát biên giới để tìm nguồn lao động rẻ. Nhưng đồng thời Thái Lan vẫn khuyến khích XKLĐ vì giá của sức lao động trong nước thấp hơn giá của sức lao động ở nước ngoài và giá nhân công nước ngoài làm việc ở Thái Lan tương đối rẻ, chỉ bằng một nửa so với lương của công nhân ở địa phương [1, tr. 8]. Bằng chính sách này, chính phủ Thái Lan đã đem lại những nguồn lợi to lớn cho người lao động và cho đất nước.
Ở nước ta, mức cung lao động lớn nhưng khả năng giải quyết việc làm trong nước còn hạn chế, đồng thời giá cả của sức lao động trong nước thấp (do nền kinh tế kém phát triển và thu nhập bình quân đầu người thấp) do vậy XKLĐ là cấp thiết, phù hợp với quy luật hình thành thị trường lao động quốc tế. Tuy nhiên, lao động của ta chỉ có thể hội nhập vào thị trường lao động quốc tế khi chất lượng của nó đáp ứng được đòi hỏi của thị trường.
1.2. SỰ CẦN THIẾT PHẢI ĐẨY MẠNH XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG Ở NƯỚC TA
Ngày nay, di chuyển lao động trên phạm vi toàn cầu là một hiện tượng kinh tế - xã hội phổ biến. Do vậy, thuật ngữ "xuất khẩu lao động" cũng được sử dụng một cách rộng rãi hơn và được coi như một phương thức thực hiện phân công lao động quốc tế.
Hiện nay, với sự phát triển mạnh mẽ như vũ bão của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ, lực lượng sản xuất đã phát triển tới một trình độ cao chưa từng có. Sự phát triển của nó đã vượt ra khỏi phạm vi của mỗi quốc gia. Mỗi một quốc gia đã trở thành một khâu gắn kết chặt chẽ và không thể tách rời khỏi nền kinh tế thế giới. Muốn phát triển và đạt hiệu quả về kinh tế phải có sự mở rộng quan hệ và tham gia vào sự phân công lao động quốc tế.
Mặt khác, cùng với sự phát triển chung là sự phát triển không đều về kinh tế - chính trị - xã hội cũng như sự phân bố không đồng đều về tài nguyên và các nguồn lực khác. Điều đó dẫn đến tình trạng không có quốc gia nào có lợi thế so sánh tuyệt đối và tương đối trên mọi lĩnh vực, nên tất yếu phải tham gia thị trường quốc tế, trong đó có thị trường lao động. XKLĐ đã trở thành một hoạt động kinh tế quan trọng trong nhiều thập kỷ qua và còn có vai trò lớn trong hiện tại cũng như trong tương lai.
1.2.1. Cung về lao động của nước ta hiện nay lớn hơn cầu và việc làm trở thành vấn đề cấp bách
Nghiên cứu về cộng đồng dân cư tùy theo mục đích nghiên cứu mà các nhà xã hội học có thể phân chia cộng đồng theo những tiêu thức khác khau (lứa tuổi, giới tính, tôn giáo, tín ngưỡng...). Dưới góc độ kinh tế và xã hội học lao động thì việc làm là một tiêu chuẩn quan trọng. Pierre Naville - một trong những chuyên gia xuất sắc về xã hội học lao động đã nhận định "sự phân biệt đầu tiên trong mọi sự mô tả về dân cư hoạt động là sự phân biệt giữa những người có việc làm và những người không có việc làm" [36, tr. 8].
Trải qua các giai đoạn của lịch sử xã hội đã xuất hiện nhiều lý thuyết khác nhau về thất nghiệp - việc làm. Các nhà kinh tế cổ điển, sống trong thời kỳ khoa học - công nghệ chưa phát triển, lao động thủ công là chính, mức cầu về lao động rất lớn, nên họ cho rằng thất nghiệp chỉ là hiện tượng tạm thời, có thất nghiệp là do lười biếng, không chăm chỉ... các nhà kinh tế thời kỳ này cho rằng thất nghiệp (tức sự lười biếng) tỷ lệ thuận với mức tiền công. Nếu tiền lương cao sẽ khiến công nhân thích ăn chơi, nhậu nhẹt, không muốn lao động.
Khi khoa học - kỹ thuật phát triển, sự ra đời của máy móc đã dẫn tới nạn "nhân khẩu thừa" thì lý thuyết của Thomas Robert Malthus cho rằng thất nghiệp trong xã hội chỉ do con người sinh đẻ quá nhiều.
Karl Marx (1818 - 1883) không phân tích việc làm nói chung mà tìm hiểu nó trong phương thức sản xuất TBCN. Trong tác phẩm "Tư bản" (1867), K.Marx đã phát hiện ra quy luật nhân khẩu thừa tương đối trong CNTB. Marx cho rằng cầu về lao động xã hội không quan hệ trực tiếp với tổng số tư bản mà nó chỉ liên quan trực tiếp đến bộ phận tư bản khả biến. Do sự phát triển của khoa học công nghệ và do quy luật tích lũy TBCN đã làm cho cấu tạo hữu cơ tư bản ngày càng tăng, bộ phận tư bản khả biến có xu hướng giảm tương đối trong tổng số tư bản là nguyên nhân gây ra hiện tượng thất nghiệp.
Ở nước ta, dân số - lao động - việc làm đang trở thành vấn đề nhức nhối. Giải quyết sự mất cân đối về cung cầu lao động, tạo việc làm không chỉ đơn thuần là vấn đề kinh tế hay xã hội mà còn là vấn đề chính trị. Trên diện tích 330.991 km2 trải dài theo mảnh đất hình chữ S là một lượng dân cư 76,3 triệu người. Về dân số, nước ta đứng thứ 13 trên thế giới. Mật độ dân số cao, năm 1930 là 30 người/km2 năm 1960 là 91 người/km2, đến năm 1975 là 144 người/km2, năm 1997 là 232 người/km2, và năm 1999 là 236 người/km2. Mặt khác, nước ta là một quốc gia dân số trẻ, tỷ lệ tăng dân số cao, vì vậy số dân trong độ tuổi lao động lớn.
Bảng 1: Tỷ lệ tăng dân số và mức sinh ở Việt Nam
Năm
1960
1989
1996
1999
Tỷ lệ tăng dân số
3,4%
2,29%
1,87%
1,7%
Tỷ lệ sinh con của một phụ nữ trong tuổi đẻ
6,3 con
3,8 con
2,7 con
2,3 con
Những năm gần đây tỷ lệ gia tăng dân số và mức sinh con đã giảm dần nhưng số người đến độ tuổi lao động vẫn tăng nhanh do hậu quả của tỷ lệ sinh cao trong mấy thập niên trước. Số lượng dân cư mỗi năm tăng lên khoảng 1,5 triệu người, tương đương với dân số của một tỉnh như Hà Nam hay Vĩnh Phúc. Do vậy, số người trong độ tuổi lao động vẫn tăng cả về tuyệt đối và tương đối (so với tổng dân số).
Bảng 2: Cơ cấu lực lượng lao động Việt Nam năm 1999
(Chia theo nhóm tuổi)
Đơn vị: ngàn người
Lứa tuổi
Số lượng lao động
Tỷ lệ % trọng lực lượng
15 - 24
8.577,6
22,70
25 - 34
10.600,8
28,06
35 - 44
10.393,9
27,51
45 - 54
5.565,2
14,73
55 - 59
1.267,1
3,35
60 tuổi trở lên
1.379,1
3,65
Tổng cộng
37.783,7
100%
[37, tr. 26]
Năm 2000, ước tính dân số Việt Nam trong độ tuổi lao động đạt gần 40 triệu và dự báo đến năm 2015 con số này sẽ lên đến 62 triệu. So với năm 1990, năm 2015 sẽ có thêm 26 triệu người, bổ sung vào lực lượng lao động [5, tr. 43].
Tỷ lệ tăng dân số trong độ tuổi lao động cao vượt quá khả năng tạo ra việc làm hàng năm.
Thời kỳ 1976 - 1980 tỷ lệ tăng nguồn lao động bình quân hàng năm là 3,25%, nhưng tỷ lệ tăng việc làm chỉ là 2,80%. Con số tương ứng của thời kỳ 1981 - 1985 là 2,87% và 2,67%. Thời kỳ 1986 - 1990 là 3,06% và 2,54%. Trong giai đoạn 1991 - 1996 ta đã giải quyết được trên 6 triệu việc làm. Năm 1997 tạo được 1,2 triệu chỗ làm. Năm 1998 là 1,4 triệu. Tuy nhiên, tốc độ tăng việc làm luôn thấp hơn tốc độ tăng của nguồn lao động, do vậy tỷ lệ thất nghiệp của ta vẫn cao [11, tr. 43].
Ngày 22-9-1999 Ban chỉ đạo điều tra lao động, việc làm trung ương đã tổ chức công bố kết quả điều tra lao động, việc làm ở khu vực thành thị. Theo ông Nguyễn Lương Trào - Thứ trưởng Bộ Lao động Thương binh và Xã hội, trưởng ban chỉ đạo thì tính chung cả nước tỷ lệ thất nghiệp của lực lượng lao động là 7,4% (nữ là 8,2%) tăng 0,55% và vẫn đang tiếp tục tăng, đã dẫn đến tình trạng thừa cung thiếu cầu trên thị trường lao động, và đang gây sức ép lớn cho chính sách kinh tế - xã hội của quốc gia về giải quyết việc làm. Cung lớn hơn cầu trên thị trường lao động là do những nhân tố sau:
Một là: Lực lượng lao động tăng nhanh do tốc độ tăng dân số cao từ mấy thập kỷ trước để lại. Mỗi năm dân số của ta tăng khoảng 1,5 triệu và cung cấp vào thị trường một lực lượng lao động vào khoảng 1,3 triệu người.
Hai là: Do việc áp dụng những thành tựu khoa học công nghệ tiên tiến trong lĩnh vực sản xuất, nhất là trong nông nghiệp, mà "máy móc chèn lấn người" làm cho nhân lực trong các ngành sản xuất nói chung và ở trong nông nghiệp nói riêng dôi ra đáng kể (thời gian nhàn rỗi ở nông thôn trung bình khoảng 28%). Lực lượng lao động dôi ra này chủ yếu là lao động giản đơn.
Ba là: Do cải cách các DNNN, năm 1990 ta có khoảng 12.000 doanh nghiệp nhà nước thì đầu năm 1996 còn khoảng 6.000 [10, tr. 41] và đến năm 2000 dự kiến sẽ chỉ còn 4.066 DNNN [5, tr. 37]. Theo ông Nguyễn Văn Khang - chuyên viên Vụ Lao động văn hóa - xã hội - Bộ Kế hoạch và đầu tư thì số lao động không bố trí được việc làm tại các DNNN đang tăng cao ở hầu hết các ngành xây dựng, giao thông vận tải, công nghiệp, nông nghiệp...
Theo báo cáo gần đây của 3.639 DNNN cho thấy: có 1.546 DNNN có số lao động không bố trí được việc làm là 92.274 người chiếm khoảng 9% tổng số lao động. Tuy nhiên, con số trên sẽ không dừng lại ở đó bởi theo dự kiến số DNNN sẽ tiếp tục giảm xuống còn 2.756 và số người cần sắp xếp lại việc làm là 200.000. Số lượng lao động dôi dư ở đây hầu hết là lao động trẻ và có nghề. Kết quả điều tra cho thấy số lao động dôi ra do sắp xếp lại doanh nghiệp có độ tuổi dưới 40 và có trình độ chuyên môn kỹ thuật chiếm tới 2/3 tổng số lao động dôi dư [27, tr. 10].
Bảng 3: Tỷ lệ thất nghiệp của lực lượng lao động trong độ tuổi lao động (Khu vực thành thị)
Đơn vị tính: %
Năm
Vùng
1996
1997
1998
1999
Đồng Bằng
7,57
7,56
8,25
9,34
Đông Bắc
6,42
6,34
6,60
8,72
Tây Bắc
4,51
4,73
5,92
6,58
Bắc Trung Bộ
6,96
6,68
7,26
8,62
Duyên Hải Nam
Trung Bộ
5,57
5,42
6,67
7,07
Tây Nguyên
4,24
4,99
5,88
5,95
Đông Nam Bộ
5,43
5,89
6,44
6,52
Đồng bằng sông Cửu Long
4,73
4,72
6,35
6,53
Theo tính toán để giải quyết số lao động dôi ra ở các DNNN do sắp xếp lại đòi hỏi phải tốn kém khoảng 2.000 tỷ đồng, trong đó Nhà nước phải chịu 1.000 tỷ, 1.000 tỷ còn lại do các doanh nghiệp trang trải.
Như vậy nước ta không những dôi dư về lao động giản đơn mà trong một chừng mực cụ thể còn dư thừa cả lao động kỹ thuật, lao động có nghề.
Tìm lời giải bài toán tạo việc làm cho những người lao động nói trên là việc làm vô cùng khó khăn đối với những nhà hoạch định chính sách. Đây là điểm nút quan trọng gỡ những khó khăn của tình hình kinh tế - xã hội trong giai đoạn hiện nay. Tuy nhiên, để tạo được một việc làm tốt trong các ngành công nghiệp nặng đòi hỏi phải đầu tư khoảng 100 triệu đồng. Một việc làm trung bình ở đó phải tốn 30 - 50 triệu, còn trong các ngành tiểu thủ công nghiệp thì số tiền phải đầu tư từ 10 - 15 triệu [4, tr. 21]. Với lực lượng lao động hàng năm gia tăng trên 1 triệu người, lượng kinh phí chi cho tạo việc làm là rất lớn (khoảng 20 - 30 ngàn tỷ). Điều này là một khó khăn lớn trong điều kiện nền kinh tế còn yếu kém và ngân sách Nhà nước còn eo hẹp.
1.2.2. Vai trò của xuất khẩu lao động trong việc giải quyết việc làm, tăng thu nhập và cải thiện đời sống của người lao động
Những năm gần đây, bằng sự nỗ lực vượt bậc của Đảng, Nhà nước cũng như các cơ quan chức năng ở mọi cấp, mọi ngành, nền kinh tế nước ta đã thoát khỏi tình trạng "khủng hoảng trầm trọng kéo dài" và thu được những thắng lợi bước đầu hết sức quan trọng.
Cùng với phát triển kinh tế, Chính phủ đã đề ra nhiều chương trình về xã hội như: chương trình xóa đói giảm nghèo, chương trình quốc gia về giải quyết việc làm... Cho đến nay, những chương trình này đã đưa lại những kết quả rất đáng khích lệ. Tuy nhiên, nước ta về cơ bản vẫn là nước nông nghiệp, đại bộ phận nhân dân sống ở nông thôn, nông nghiệp chiếm tỉ trọng lớn. Tốc độ tăng dân số nhanh trong khi diện tích đất nông nghiệp tăng không đáng kể, nên bình quân ruộng đất trên đầu người thấp. Diện tích đất nông nghiệp từ 1943 đến 1997 tăng từ 5,6 triệu ha lên 7,7 triệu ha (gấp 1,36 lần) [28, tr. 34], trong khi đó dân số nước ta tăng từ 22 triệu người lên 76,3 triệu người (gấp 3,5 lần). Tỷ lệ thất nghiệp và thiếu việc làm cao, hàng năm lại có thêm trên 1 triệu người bước vào độ tuổi lao động. Bên cạnh đó, quá trình đổi mới đòi hỏi phải sắp xếp lại sản xuất dẫn đến nhiều lao động bị dôi dư. Vì vậy sức ép về giải quyết việc làm rất gay gắt, Đảng và Nhà nước đã xác định cùng với các giải pháp giải quyết việc làm trong nước là chính, XKLĐ và chuyên gia là một chiến lược quan trọng trước mắt và lâu dài. Quan điểm này đã được thể hiện rõ trong chỉ thị số 41 CT/TW ngày 22/9/1998 của Bộ Chính trị về XKLĐ và chuyên gia, trong đó nêu rõ: "xuất khẩu lao động và chuyên gia là một hoạt động kinh tế - xã hội góp phần phát triển nguồn nhân lực, giải quyết việc làm, tạo thu nhập và nâng cao trình độ tay nghề cho người lao động, tăng nguồn thu ngoại tệ cho đất nước và tăng cường quan hệ hợp tác quốc tế giữa nước ta với các nước". Chủ trương này được cụ thể hóa trong Nghị định số 152/1999/NĐ-CP ngày 20/9/1999 của Chính phủ quy định việc đưa người lao động và chuyên gia Việt Nam đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài.
Ở nước ta, những năm qua xuất khẩu lao động đã có vai trò quan trọng thể hiện cụ thể trên một số mặt chính như sau:
Xuất khẩu lao động góp phần đắc lực vào giải quyết việc làm, qua đó nâng cao chất lượng nhân lực, tạo nhân tố quan trọng bền vững cho công cuộc phát triển đất nước.
Thời kỳ bùng nổ dân số đã qua đi. Tốc độ tăng dân số đã chững lại và được kiểm soát nhưng tốc độ gia tăng nguồn lao động vẫn ở mức độ cao, trung bình từ năm 1981 đến năm 2000 là 2,75%. Dự kiến từ năm 2005 trở đi tốc độ tăng lao động sẽ là 2,2%. Cầu lao động trong nước thấp hơn cung, không sử dụng hết lao động trong nước là một khả năng thực tế. Theo thống kê và dự báo trong 15 năm từ năm 1991 đến 2005, dân số trong độ tuổi lao động sẽ tăng thêm 15,9 triệu, mỗi năm bình quân tăng thêm trên 1 triệu thanh niên bước vào tuổi lao động. Đến năm 2005 nước ta có thêm 23,5 triệu lao động cần được giải quyết việc làm. Số lao động trẻ (từ 16-35 tuổi) tăng từ 25 triệu vào năm 1990 lên 26,8 triệu vào năm 1995 và 30,4 triệu vào năm 2005. Do khả năng tạo thêm việc làm có hạn nên bộ phận người lao động chưa có việc làm, hoặc có việc làm không đầy đủ, không những không giảm mà lại tăng lên. Điều đó đòi hỏi phải có một chương trình quốc gia về việc làm hoàn chỉnh bao gồm cả tạo việc làm trong nước và đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài.
Trong 10 năm thực hiện các hiệp định về hợp tác lao động (1980 - 1989) Việt Nam đã đưa đi làm việc ở 9 nước được 277.183 lao động, trong đó có 92.000 nữ (chiếm 33%). Ngoài lợi ích kinh tế thì việc tạo ra một khối lượng lớn việc làm là lợi ích xã hội quan trọng. Bằng XKLĐ, hàng năm ta đã tạo ra việc làm tạm thời cho 3% số lao động đến tuổi. Trong đó có 60% lao động chưa có nghề, 4 vạn lao động khi hết nghĩa vụ quân sự...
Từ năm 1990 đến nay XKLĐ của ta được chuyển sang cơ chế thị trường. Thị trường lao động được mở rộng sang những khu vực mới. Lao động của ta hiện có mặt ở hơn 30 nước và lãnh thổ khác nhau trên thế giới, theo đánh giá của Bộ Lao động thương binh và xã hội tính đến năm 1999 đã đưa đi được 89.140 người với nhiều ngành nghề, trong đó có gần 15.000 sĩ quan thủy thủ và lao động đánh bắt hải sản, 1500 chuyên gia các lĩnh vực, số còn lại là lao động kỹ thuật và lao động phổ thông, năm 1992: 810 người; 1993: 3.960 người; 1994: 9230 người; 1995: 10.050 người; 1996: 12.661; 1997: 18.470; 1998: 12.240; 1999: 20.700 người. Trong đó lao động có nghề từ 25% năm 1993 tăng lên 40% năm 1995 và hiện nay đạt 70%.
Khi hết hạn lao động ở nước ngoài hầu hết người lao động Việt Nam có nghề nghiệp, thông thạo ngoại ngữ và có tác phong sản xuất công nghiệp. Đây là một kết quả, một thành tựu không nhỏ của công tác XKLĐ, góp phần vào sự phát triển nguồn nhân lực, một nhân tố quan trọng cho sự phát triển lâu dài của đất nước.
Xuất khẩu lao động góp phần tăng thu nhập, cải thiện đời sống của người lao động. Theo báo cáo của Bộ Lao động Thương binh và Xã hội, gần đây hàng năm người lao động Việt Nam đang làm việc ở nước ngoài gửi về nước hơn 1 tỷ USD. Đây là một nguồn thu lớn vì hiện nay nền kinh tế nước ta mới có một số ít ngành sản xuất đạt trên 1 tỷ USD.
Về thu nhập cá nhân: người lao động đi làm việc ở nước ngoài có thu nhập cao, mức thu nhập cầm tay bình quân hàng tháng cao hơn từ 4-6 lần thu nhập của người có việc làm trong nước. Hiện thực cho thấy hầu như gia đình nào có người đi XKLĐ thì mức sống và điều kiện sinh hoạt của gia đình đó được nâng lên rõ rệt. Vì vậy XKLĐ đang trở thành một phong trào rộ lên ở khắp mọi nơi. Bình quân một người lao động ở nước ngoài có mức thu nhập không ít hơn 300 USD/tháng, sau khi đã trừ đi các khoản chi phí. So với thu nhập của Việt Nam (GDP bình quân đầu người) khoảng hơn 300 USD một năm thì mức thu nhập của người lao động xuất khẩu quả là không nhỏ. Ước tính mỗi năm người lao động sẽ dành dụm được 3.600 USD, sau ba năm lao động trở về nước họ sẽ có một lưng vốn khoảng 11.000 USD. Quy đổi tỷ giá hối đoái hiện hành thì khi về nước họ có không ít hơn 160 triệu. Đó là chưa kể tiền làm thêm giờ và tiền thưởng, có khi bằng số lương của họ. Với những khoản thu nhập trên họ có điều kiện tích lũy vốn, cải thiện đời sống của gia đình và mua sắm phương tiện sản xuất để tự tạo việc làm.
1.3. TÌNH HÌNH XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG CỦA MỘT SỐ NƯỚC TRONG KHU VỰC
1.3.1. Philipin
Vượt lên cả những nước có dân số đông gấp hơn 10 lần là Ấn Độ và Trung Quốc, Philipin nổi lên là một trong những nước cung ứng lao động lớn nhất trên thị trường quốc tế. Chỉ với dân số 72,9 triệu người, Philipin đã có 980 doanh nghiệp được cấp giấy phép XKLĐ. Lao động Philipin ở nước ngoài nói chung và XKLĐ nói riêng đã trở thành trụ cột chống đỡ cho nền kinh tế trong nước. Thành tựu ấy có thể khái quát trên một số mặt chính như sau:
- Lao động ở nước ngoài của Philipin đã giải quyết được phần lớn lao động dư thừa trong nước, góp phần quan trọng thực hiện chiến lược giải quyết việc làm của chính phủ Philipin.
Vào những năm 80, thế giới đã ghi nhận một sự gia tăng lao động mạnh mẽ trên thị trường lao động quốc tế từ phía Philipin. Năm 1984, Nhà nước Philipin đã chính thức chuẩn y chương trình xuất khẩu lao động. Sau một số năm hoạt động có tính thử nghiệm, Philipin đã vươn lên trở thành nước XKLĐ lớn nhất trong khu vực và trên thế giới. Mỗi năm trong thập kỷ này, Philipin đã đưa đi XKLĐ hơn 40 vạn lao động.
Bảng 4: Tình hình xuất khẩu lao động của Philipin từ năm 1986 đến năm 1989
Năm
1986
1987
1988
1989
Số lao động được đưa đi (người)
378.214
449.271
417.030
500.000
Số ngoại tệ lao động gửi về (triệu USD)
640
791,9
856,8
1.000
[35, tr.19]
Bước sang thập kỷ 90, Philipin đã có bước chuyển mạnh mẽ trong công tác XKLĐ. Theo POEA (Cục lao động nước ngoài Philipin) trong những năm gần đây mỗi năm Philipin đưa đi XKLĐ khoảng 700.000 người bao gồm cả lao động trên đất liền và trên biển. Hiện nay, Philipin có gần 7 triệu lao động làm việc ở 181 nước và các điểm trên thế giới, chiếm 10% số dân cả nước và 20% dân số trong độ tuổi lao động. Trong số đó có 4,2 triệu người lao động hợp đồng có thời hạn từ 6 tháng đến 2 năm.
Bảng 5: Xuất khẩu lao động của Philipin 1990 - 1998
(Đơn vị tính: người)
Năm
1990
1991
1998
Số lao động được đưa đi
446.095
615.019
756.000
[8, tr.3]
Cũng theo đánh giá của POEA năm 1995, tỷ lệ thiếu việc làm ở Philipin khoảng 69%, đến năm 1998 tỷ lệ này là 75%. Tình hình đó đã làm cho Philipin có tỷ lệ thất nghiệp tăng từ 3% ở những năm trước lên 5%. Nền kinh tế của Philipin đang phải đối đầu với 4,2 triệu người cần việc làm. Đây là nguyên nhân thôi thúc chính phủ và người lao động đi tìm việc ở thị trường lao động quốc tế. Thực tế công tác XKLĐ của Philipin đã góp phần đắc lực thực hiện chính sách giải quyết việc làm của chính phủ.
- Việc làm ngoài nước cứu vãn nền tài chính Philipin
Chỉ tính riêng năm 1997 lao động ở nước ngoài của Philipin đã chuyển về nước 5 tỷ USD. Nếu tính cả lượng tiền được gửi về qua các kênh không chính thức, không qua hệ thống ngân hàng thì con số này sẽ lên tới 10 tỷ USD. Lao động ở nước ngoài của Philipin đã trở thành một ngành kinh tế mũi nhọn. Thu nhập từ lĩnh vực này đứng thứ 3 trong nền kinh tế quốc dân - chỉ sau sản phẩm của cây dừa và ngành điện tử. Con số này chiếm 18% sản phẩm quốc nội và gần bằng toàn bộ sự đóng góp của khu vực nông nghiệp...
Tuy nhiên bên cạnh những thành tựu to lớn thì chiến lược XKLĐ của Philipin cũng để lại những hậu quả nghiêm trọng cho nền kinh tế - xã hội. Sau 20 năm lao vào chương trình XKLĐ, Philipin đã phải đầu tư vào đây một khoản ngân sách khá lớn. Mặt khác, do XKLĐ ồ ạt, không quản lý và kiểm soát hết nên điều kiện việc làm không đảm bảo, người lao động bị lạm dụng và bóc lột, an toàn lao động không tốt, an ninh cho người lao động bị đe dọa đã làm cho cuộc sống của một bộ phận lớn lao động ở nước ngoài của Philipin cực kỳ khó khăn, gian khổ. Sức ép về tâm lý, giá trị con người đang biến đổi, sự li tán kéo dài đã làm cho nhiều gia đình ở Philipin tan vỡ. Tội phạm trong thanh thiếu niên tăng nhanh. Chính phủ không kiểm soát hết tình hình mà "chỉ còn cách là cung cấp dịch vụ và bảo đảm làm nhẹ chi phí xã hội của di cư và làm thuận lợi cho việc tái hòa nhập của lao động di cư trở về" [20, tr. 24].
Sự ra đi ồ ạt và đột ngột của một lực lượng lớn lao động Philipin cho thấy tình hình kinh tế của đất nước không bền vững. Đặc biệt ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính châu Á và tốc độ phát triển chậm lại của nền kinh tế toàn cầu đã làm cho người lao động của Philipin ở nước ngoài thất nghiệp tăng đáng kể. Lực lượng này trở về đã và đang gây nên những trở ngại không nhỏ cho nền kinh tế vốn đã không mấy bền vững của Philipin.
1.3.2. Thái Lan
Với hơn 60 triệu dân, Vương quốc Thái Lan có hơn 300 doanh nghiệp được phép XKLĐ.
Trong thập niên 70, Thái Lan bắt đầu thực hiện chính sách XKLĐ sang các nước, đầu tiên là sang Anh và lao động Thái Lan làm việc tại các ngành dịch vụ. Khi thế giới bùng nổ sự thiếu hụt về dầu mỏ thì khu vực Trung đông - nơi sản xuất dầu mỏ lớn nhất thế giới đã đầu tư khai thác và thu hút nhiều lao động từ khắp các châu lục. XKLĐ của Thái Lan cũng tập trung phần lớn lực lượng của mình vào thị trường này.
Bảng 6: Tình hình XKLĐ của Thái Lan qua một số năm trước đây
Năm
1976
1978
1980
1982
1984
1986
Số lao động được đưa đi
15.000
10.000
30.000
112.000
78.000
85.000
[35, tr.19]
Bước vào thập kỷ 90, là một nước có nền kinh tế mạnh trong ASEAN, Thái Lan đã phát triển nhiều ngành công nghiệp và các ngành dịch vụ kỹ thuật cao cần sử dụng nhiều lao động lành nghề nhưng Thái Lan không đào tạo kịp. Các ngành lao động cần sử dụng lao động giản đơn vẫn gia tăng và thu hút nhiều lao động. Thái Lan đã phải nhập khẩu lao động có trình độ và thực hiện việc di chuyển nhà máy tới biên giới để thu hút lực lượng lao động giản đơn từ các nước láng giềng như Miama, Lào, Campuchia... Tuy nhiên, trong điều kiện thiếu lao động đó Chính phủ Thái Lan vẫn khuyến khí._.ch và duy trì chính sách XKLĐ bởi chính sách này đã đem lại cho cả Nhà nước và người lao động Thái Lan nhiều lợi ích kinh tế.
Năm 1995, Thái Lan có khoảng 450.000 người lao động đang làm việc ở nước ngoài. Từ đó đến năm 1997 lực lượng lao động xuất khẩu của Thái Lan có xu hướng giảm do tình hình kinh tế thế giới, tuy nhiên thu nhập của người lao động từ nước ngoài gửi về Thái Lan không ngừng gia tăng.
Bảng 7: Tình hình XKLĐ của Thái Lan qua một số năm của thập kỷ 90
Năm
1995
1996
1997
Số lao động được đưa đi
202.00
185.000
152.000
[9, tr.39]
Năm 1998, số lao động xuất khẩu đã tăng nhanh do tình hình khủng hoảng kinh tế. Chỉ riêng thị trường Mỹ, Nhật, Ixraen - Thái Lan đã xuất khẩu sang 200.000 lao động.
Bảng 8: Thu nhập do lao động của Thái Lan ở ngoài nước gửi về
Năm
1994
1995
1996
Tiền gửi về (tỷ USD)
1,00
1,15
1,30
[9, tr.39]
Với nhận thức XKLĐ sẽ góp phần làm giảm tình hình thất nghiệp trong nước, tháo gỡ những khó khăn của nền kinh tế - xã hội, Chính phủ Thái Lan đã có chính sách khuyết khích XKLĐ:
- Bộ lao động xã hội Thái Lan đã thành lập các trung tâm tư vấn về pháp lý và thu xếp việc vay nợ cho những người Thái Lan đi lao động ở nước ngoài.
- Nhà nước đào tạo nghề và ngoại ngữ cho người lao động trước khi đi làm việc ở các nước.
- Việc tuyển người được đặt dưới sự quản lý chặt chẽ của Bộ lao động xã hội. Mặc dù có tới hơn 300 doanh nghiệp tham gia XKLĐ song Bộ lao động luôn giữ quyền can thiệp vào hoạt động của các doanh nghiệp để giúp các tổ chức này luôn đi đúng hướng.
1.3.3. Bănglađét
Ở Bănglađét, XKLĐ được xác định là một chiến lược và là một lĩnh vực kinh tế mũi nhọn trong nền kinh tế quốc dân. Với dân số 136,8 triệu, Chính phủ Bănglađét đã cho phép khoảng 250 doanh nghiệp được phép tham gia XKLĐ.
Theo tin từ "Thị trường lao động ngoài nước", số lượng XKLĐ của Bănglađét trong những năm gần đây đã đạt kỷ lục trên 1 triệu lao động/năm. Mỗi năm Bănglađét thu được khoảng 1,34 tỷ USD.
Thị trường lao động mà Bănglađét xuất khẩu sang chủ yếu là các nước Malaixia, Arậpxêut và Hàn Quốc. Hiện nay, chỉ riêng ở Arậpxêut đã có khoảng 1 triệu lao động và công nhân của Bănglađét đang làm việc trong nhiều ngành và trên nhiều cương vị khác nhau. Phần lớn tiền từ nước ngoài gửi về Banglađet là tiền của công nhân nước này làm việc ở Arậpxêut.
1.3.4. Một số vấn đề rút ra qua công tác xuất khẩu lao động của các nước Philippin, Thái Lan và Banglađet
Nghiên cứu chính sách XKLĐ của một số nước trong khu vực có điều kiện hoàn cảnh tương đối giống và gần gũi với hoàn cảnh Việt Nam, có thể rút ra một số điểm chính sau:
- Các nước này đều coi XKLĐ là một chiến lược kinh tế - xã hội, và khai thác có hiệu quả nguồn nhân lực dồi dào của mình bằng XKLĐ.
- XKLĐ đã đem lại những thành quả đáng kể cả về kinh tế và xã hội.
+ Về kinh tế: Thu nhập từ XKLĐ của các nước này đều đạt trên 1 tỷ USD/năm, trong những năm cuối của thế kỷ. Đây là khoản tiền mà chỉ có một số ít ngành của họ đạt được.
+ Về xã hội: Bằng chiến lược XKLĐ các nước này đã giải quyết được một số lượng lớn việc làm, đồng thời tạo ra một số ngành dịch vụ mới phục vụ công tác XKLĐ.
Để khuyến khích và thúc đẩy XKLĐ, chính phủ các nước ấy đã đề ra những chính sách đúng đắn: Đầu tư thích đáng; Cho phép nhiều doanh nghiệp tham gia khai thác thị trường và XKLĐ; Có chính sách tài chính phù hợp tạo điều kiện cho người lao động vay vốn tham gia XKLĐ.
Bảng 9: Số lượng doanh nghiệp tham gia XKLĐ ở một số nước
Nước
Dân số (triệu)
Số DN được cấp phép XKLĐ
Thái Lan
61,4
300
Philipin
72,9
980
Inđonexia
210,4
70
Bănglađet
136,8
250
Srilanca
18,9
155
Ấn Độ
978
120
Pakistan
145,6
285
[30, tr.10]
- Hoạt động XKLĐ được đặt dưới sự quản lý về mặt nhà nước của Bộ lao động. Bộ lao động có quyền chi phối, điều chỉnh để các doanh nghiệp hoạt động đúng hướng, có hiệu quả.
- Có các tổ chức đại diện của chính phủ ở những nước có lao động của nước mình làm việc để bảo vệ quyền lợi cho người lao động và can thiệp kịp thời khi có mâu thuẫn xảy ra.
Tuy nhiên việc xuất khẩu lao động ồ ạt không kiểm soát chu đáo cũng phát sinh nhiều tiêu cực và đem lại những hậu quả xấu. XKLĐ cũng phụ thuộc vào tình hình kinh tế nước ngoài. Nếu đặt nhiều kỳ vọng vào XKLĐ thì khi nền kinh tế có biến động, việc nhập lao động của các nước bị chững lại hoặc có sự sa thải hàng loạt lao động nước ngoài sẽ là một hiểm họa. Do vậy việc nắm chắc thị trường lao động đề ra các giải pháp phù hợp cho từng giai đoạn khác nhau trong quá trình XKLĐ sẽ là những yếu tố quan trọng trong việc thực hiện tốt công tácXKLĐ trong hiện tại và tương lai.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
Nước ta có gần 40 triệu lao động, đó là một tiềm năng to lớn. Tuy nhiên nguồn lao động phân bố không đều và tập trung ở nông thôn là chủ yếu, trong khi diện tích đất nông nghiệp ngày một giảm... Đất chật người đông, ngành nghề kém phát triển đã làm nảy sinh mâu thuẫn gay gắt giữa cung và cầu lao động, đồng thời việc áp dụng những thành tựu khoa học công nghệ và tổ chức sắp xếp lại sản xuất càng làm cho lực lượng lao động dôi ra đáng kể. Thất nghiệp, thiếu việc làm đã và đang gây áp lực mạnh mẽ cho chương trình quốc gia về việc làm và thực hiện các chính sách kinh tế xã hội khác. Thực tiễn nước ta những năm qua cũng như kinh nghiệm của các nước trong khu vực và trên thế giới cho thấy đẩy mạnh xuất khẩu lao động là một chính sách kinh tế đối ngoại hoàn toàn đúng đắn phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất, quá trình toàn cầu hóa và sự phân công lao động quốc tế diễn ra ngày càng sâu sắc. Xuất khẩu lao động là một trong những giải pháp hữu hiệu góp phần giải quyết tình trạng thất nghiệp, tạo việc làm, tăng thu nhập, cải thiện đời sống của nhân dân. Hoạt động này cũng góp phần quan trọng vào quá trình đào tạo nguồn nhân lực cho công cuộc công nghiệp hóa đất nước, và tăng cường tính đoàn kết hữu nghị, giúp đỡ lẫn nhau giữa nước ta với các nước khác. Chính vì vậy việc nghiên cứu, đẩy mạnh công tác xuất khẩu lao động trong những năm tới là việc làm cấp thiết góp phần quan trọng thúc đẩy sự phát triển chung của nền kinh tế..
Chương 2TÌNH HÌNH XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG CỦA NƯỚC TA NHỮNG THẬP KỶ QUA
2.1. TÌNH HÌNH XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG CỦA NƯỚC TA THỜI KỲ 1980 - 1990
Sau năm 1975, nước ta hoàn toàn độc lập bước sang một kỷ nguyên mới - Kỷ nguyên khôi phục và phát triển kinh tế, xây dựng CNXH và bảo vệ vững chắc thành quả cách mạng.
Mặc dù đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng trên lĩnh vực kinh tế, xã hội nhưng chúng ta cũng vấp phải không ít khó khăn mà một trong những khó khăn gay gắt nhất là sự mất cân đối về cung cầu lao động, lực lượng lao động dư thừa lớn, số người chưa đủ việc làm hoặc chưa có việc làm rất đông. Để giải quyết vấn đề trên "đưa công nhân và cán bộ đi bồi dưỡng nâng cao trình độ và làm việc ở các nước XHCN" lúc này được coi là một trong những giải pháp quan trọng và có tính thời sự. Quyết định của Hội đồng Chính phủ số 46CP ngày 01/02/1980 chỉ rõ: "Trước yêu cầu nhiệm vụ mới của cách mạng nước ta, đòi hỏi phải nhanh chóng xây dựng một đội ngũ công nhân lành nghề và cán bộ kỹ thuật, nghiệp vụ, quản lý giỏi phù hợp với nhiệm vụ xây dựng và phát triển kinh tế, văn hóa của đất nước. Để thực hiện nhiệm vụ quan trọng này đi đôi với việc tăng cường công tác đào tạo và bồi dưỡng trong nước, Hội đồng Chính phủ chủ trương đưa một bộ phận công nhân và cán bộ đang công tác ở các xí nghiệp, cơ quan nhà nước sang các nước XHCN nhằm mục đích bồi dưỡng, nâng cao tay nghề, nâng cao trình độ kỹ thuật, nghiệp vụ quản lý đồng thời làm việc có thời hạn trong các cơ sở kinh tế của các nước đó nhằm đáp ứng tốt yêu cầu đào tạo lao động của nước ta, vừa giúp các nước anh em khắc phục một phần khó khăn về lao động, trên tinh thần hợp tác XHCN giữa các thành viên trong Hội đồng tương trợ kinh tế".
Việc mở rộng hợp tác sử dụng lao động với Liên Xô và các nước anh em khác dựa trên nguyên tắc hai bên cùng có lợi, với nhiều hình thức và nhằm mục đích sau:
"...1. Giải quyết công ăn việc làm cho một bộ phận thanh niên nước ta.
2. Thông qua hợp tác sử dụng lao động, nhờ các nước anh em đào tạo giúp ta một đội ngũ lao động có tay nghề vững, đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế nước ta sau này" [19, tr.8].
Thực hiện quyết định 46-CT ngày 01/02/1980 nước ta đã tiến hành đàm phán ký kết hiệp định về hợp tác lao động với các nước: Cộng hòa dân chủ Đức (ngày 14/4/1980), Bungari (ngày 3/10/1980), Tiệp Khắc (ngày 7/11/1980) và Liên Xô (ngày 2/4/1981). Sau các hiệp định này, hàng năm nước ta đều có nghị định thư bổ sung để giải quyết có hiệu quả các hiệp định đã ký kết.
2.1.1. Những thành tựu của công tác XKLĐ thời kỳ 1980-1990
Sau 10 năm thực hiện quyết định 46-CP ngày 01/02/1980, hợp tác quốc tế về lao động của ta đã thu được những kết quả đáng kể, thể hiện trên những điểm sau:
a) Số lao động và chuyên gia đi làm việc ở nước ngoài thời kỳ 1980 - 1990
Bảng 10: Số lao động và chuyên gia đi làm việc ở nước ngoài thời kỳ 1980-1990
Lao động phân chia theo khu vực và ngành nghề
Số lượng (người)
Tổng số
288.106
Bao gồm: - Chuyên gia
7.200
- Lao động
280.906
Chia theo khu vực: - Đi các nước XHCN
261.605
- Đi các nước ngoài XHCN
19.301
Chia theo ngành nghề: - Cơ khí
71.077
- Công nghiệp nhẹ
117.432
- Hóa chất
8.329
- Công nghiệp thực phẩm
3.542
- Xây dựng và sản xuất vật liệu xây dựng
64.247
- Nông, lâm nghiệp
6.160
- Các ngành khác
10.119
[6, tr.6]
Thời kỳ này, nước ta chủ yếu đưa người đi hợp tác lao động ở 4 nước đã kể trên.
Bảng 11: Số người đi hợp tác lao động tại Liên Xô, Bungari, CHDC Đức, Tiệp Khắc từ 1980 đến 1989 (chưa kể số học nghề chuyển sang hợp tác lao động)
Nước
Tổng số
Nữ
Liên Xô
103.610
52.916
Tiệp Khắc
37.028
9.472
Bungari
27.239
3.595
CHDC Đức
69.016
25.613
[6, tr. 7-13].
Giai đoạn 1980 - 1984 số lượng còn ít: khoảng hơn 6 vạn, nhưng đến giai doạn 1985 - 1990: Số lượng lên tới 20 vạn, trong đó 4 nước XHCN cũ là hơn 18 vạn. ở các nước khác khoảng 2 vạn, chủ yếu là ở I-Rắc và Angiêri, còn lại là ở Angola, Cônggô, Li-bi, Madagascar, Campuchia và Lào.
Trong tổng số trên lao động nữ chiếm 33%, tuổi từ 18-40.
b) Số ngoại tệ và hàng hóa mà người lao động và Nhà nước thu được
Theo đánh giá của Bộ Lao động thương binh và xã hội, sau 10 năm XKLĐ, Nhà nước và người lao động đã có một nguồn thu không nhỏ. Về phía Nhà nước đã thu được khoảng 800 tỷ đồng (theo tỷ giá năm 1990) và trên 330 triệu USD đưa vào ngân sách để cân đổi thanh toán chung. Khoảng 30 vạn người lao động ở nước ngoài đã gửi về nước một lượng hàng hóa và tiền tiết kiệm trị giá hàng ngàn tỷ đồng. Khoản thu nhập này đã góp phần tích cực vào việc cải thiện đời sống và tạo nguồn vốn để phát triển sản xuất.
Bảng 12: Thu nhập do lao động nước ngoài gửi về so với thu nhập quốc dân
Đơn vị tính: Triệu đồng
Năm
TNQD
TN do LĐ gửi về
% so với TNQD
80
2.577
%
81
6.040
0,955
0,01
82
13.379
8,5
0,06
83
18.053
25,1
0,13
84
28.304
32,1
0,11
85
75.538
76,9
0,10
86
394.883
433,5
0,10
87
1.899.260
1.426,18
0,07
88
9.751.321
23.027,9
0,23
89
17.413.921
108.432
0,62
[32, tr. 2]
c) Cơ cấu ngành nghề trước và sau khi đi XKLĐ
Theo đánh giá chung, số lao động đi hợp tác có 42% là lao động có nghề và tập trung chủ yếu vào các ngành: Công nghiệp nhẹ 45%; xây dựng 26%; cơ khí 20%. Lực lượng lao động phổ thông tập trung phần lớn ở Liên Xô và CHDC Đức (chiếm 60%)
Bảng 13: Cơ cấu ngành nghề lao động Việt Nam ở các nước XHCN từ 1980 - 1989
(Không kể số học nghề chuyển sang hợp tác lao động)
Đơn vị tính: Người
Nước
Tổng số lao động
Số lao động có nghề
Số lao động không nghề
CHDC Đức
69.016
26,795
42.221
Bungari
27.239
24.590
2.649
Tiệp Khắc
37.028
28.157
8.871
Liên Xô
103.610
20.311
83.299
Tổng số
236.893
99.853
137.040
[6, tr. 7-13].
Sau khi hết thời hạn làm việc theo hợp đồng, đội ngũ lao động Việt Nam đều có nghề nghiệp, rèn luyện được tác phong sản xuất công nghiệp, trình độ tay nghề được nâng cao. Đặc biệt, sau khi trở về họ có vốn đầu tư cho sản xuất, nhiều người đã thành lập các doanh nghiệp. Theo điều tra của Bộ Lao động thương binh và xã hội số người lao động ở Tiệp Khắc khi về đã có 482/5000 đối tượng điều tra, chiếm 9,6%, trở thành chủ doanh nghiệp.
Những thành tựu mà chúng ta đạt được trong quá trình hợp tác quốc tế về lao động là to lớn. Trong thời kỳ này, bình quân mỗi năm nước ta đưa đi lao động khoảng 30.000 người - bằng 3% số lao động gia tăng hàng năm. Nếu lấy thời giá năm 1990, để tạo ra một chỗ làm trung bình phải đầu tư 5 triệu đồng thì chỉ trên lĩnh vực tạo việc làm, nhờ XKLĐ ta đã tiết kiệm được hàng ngàn tỷ để đầu tư cho các chương trình phát triển kinh tế - xã hội khác. Đối với người lao động và gia đình họ, đi XKLĐ là điều kiện tốt cho việc nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống. Người lao động ở nước ngoài còn góp phần tăng cường tình đoàn kết hữu nghị giữa nước ta với các nước anh em, làm cho các dân tộc vốn đã hiểu Việt Nam trong chiến tranh càng biết thêm về con người và dân tộc Việt Nam trong hòa bình xây dựng kinh tế, góp phần quan trọng mở rộng quan hệ đối ngoại của nước ta trong suốt thập kỷ 1980 - 1990.
2.1.2. Những hạn chế thiếu sót của công tác XKLĐ thời kỳ 1980 - 1990 và nguyên nhân của nó
Đi cùng với những thành tựu đã đạt được, XKLĐ trong thập niên này còn bộc lộ nhiều hạn chế - thiếu sót. Những hạn chế thiếu sót chủ yếu là:
a) Chưa coi trọng hiệu quả kinh tế của Hợp tác lao động quốc tế Chúng ta còn nặng về hợp tác hữu nghị, tương trợ lẫn nhau với các nước XHCN (cho rằng ta giúp bạn giải quyết vấn đề thiếu lao động, bạn giúp ta về đào tạo tay nghề, kỹ thuật...).
Chính vì vậy mục tiêu đặt ra chưa thật xác đáng, việc ký kết các điều khoản trong hiệp định còn nhiều sơ hở; lợi ích của Nhà nước và người lao động chưa tương xứng với lực lượng lao động xuất khẩu của ta; hiệu quả kinh tế còn thấp; số hàng hóa và ngoại tệ thu được ít; trong khi lao động của ta gửi đi đông, thời hạn làm việc kéo dài... Khoảng 30 vạn người lao động trong 10 năm tiết kiệm được khoảng 720 tỷ đồng và 7 triệu USD, Nhà nước thu được 482 triệu rúp phi mậu dịch và 330 triệu USD (tính cả 300 triệu USD mà CHLB Đức trả cho người lao động về trước thời hạn khi thống nhất nước Đức).
b) Việc quản lý đội ngũ lao động còn lỏng lẻo, đội ngũ lao động chưa được chuẩn bị tốt, nhiều người vi phạm kỷ luật:
Công tác quản lý giữ vai trò hết sức quan trọng đối với kết quả của hoạt động xuất khẩu lao động. Ở giai đoạn đầu (1980 - 1984). Công tác quản lý hoạt động này của ta tương đối tốt, nhưng sang giai đoạn 1985 - 1990 do có sự biến động lớn về tình hình kinh tế, chính trị xã hội ở các nước XHCN Đông Âu và số lượng lao động ở những nước này của ta quá lớn nên công tác quản lý chưa kiểm soát hết. Nhiều người lao động Việt Nam bỏ việc, đi buôn bán, tham gia vào các băng đảng thực hiện các hành vi phạm pháp... Các cơ quan quản lý chưa tìm ra được những giải pháp thiết thực để giải quyết sống "trôi nổi" không có tổ chức làm ảnh hưởng lớn tới đời sống của người lao động và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế.
Công tác tuyển chọn lao động còn nặng về chính sách và phân bổ chỉ tiêu, không đảm bảo chất lượng. Đối tượng đưa đi XKLĐ được ưu tiên nhiều cho con thương binh liệt sĩ, những gia đình có công với cách mạng, bộ đội xuất ngũ, phục viên... mà ít chú ý đến những tiêu chuẩn khác về người lao động như: trình độ học vấn, nghề nghiệp, sức khỏe... Do vậy sau năm 1984 lao động của ta đưa đi một cách ồ ạt, không có sự tuyển lựa kỹ càng, chất lượng kém. Đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý chưa đáp ứng được yêu cầu cả về năng lực chuyên môn và trình độ ngoại ngữ.
"XKLĐ" thời kỳ này được thực hiện trong cơ chế tập trung quan liêu nên chưa có sự phân định chức năng quản lý Nhà nước với chức năng kinh doanh của hoạt động cung ứng lao động do vậy hoạt động XKLĐ thiếu tính linh hoạt kém hiệu quả...
Những hạn chế - thiếu sót trên một mặt do nguyên nhân khách quan là bối cảnh lịch sử lúc đó chi phối. Sau khi thống nhất, Việt Nam trở thành một nước XHCN. Thế giới có sự phân chia, các nước có cùng một chế độ chính trị liên kết với nhau, tương trợ giúp đỡ lẫn nhau... Nước ta là một thành viên trong Hội đồng tương trợ kinh tế (SEV), do vậy việc giúp đỡ nhau trên tinh thần hữu nghị hợp tác giữa các nước anh em là quan điểm xuyên suốt trong đường lối đối ngoại của nước ta cũng như các nước thành viên, hơn nữa sự giúp đỡ của các nước XHCN với nước ta là to lớn, do vậy nó cũng là nhân tố tác động đến tư duy kinh tế của ta.
Ngoài ra, việc không chấp nhận một nền kinh tế hàng hóa trong thời kỳ quá độ và đặc biệt là sự không thừa nhận sức lao động là hàng hóa đã ảnh hưởng lớn tới chủ trương chính sách và nội dung ký kết các hiệp định về hợp tác lao động. Đây là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến hiệu quả kinh tế của chương trình Hợp tác lao động không cao.
Mặt khác là do nguyên nhân chủ quan, vì hợp tác quốc tế về lao động là một công việc mới mẻ đối với nước ta, chúng ta còn thiếu kinh nghiệm về tổ chức quản lý, bộ máy tổ chức quản lý chưa chặt chẽ, chưa phát huy được tính năng động của các tổ chức trong việc tìm kiếm việc làm và ký kết hợp đồng. Sự phân bố chỉ tiêu của ủy ban kế hoạch Nhà nước cho các bộ, ngành, các cơ quan Trung ương và địa phương có tính chủ quan, do vậy quá trình hoạt động không thể tránh khỏi những hạn chế thiếu sót.
2.2. TÌNH HÌNH XKLĐ CỦA NƯỚC TA TỪ 1991 ĐẾN NAY
Bước sang thập kỷ 90 tình hình kinh tế - chính trị - xã hội trên thế giới có nhiều biến động phức tạp. Hệ thống XHCN ở Liên Xô, Đông Âu sụp đổ, thị trường truyền thống, trong đó có thị trường lao động, của ta hoặc không còn hoặc bị thu hẹp. Lực lượng lao động Việt Nam ở các nước này phải trở về đông, khiến cho vấn đề giải quyết việc làm càng trở nên phức tạp. Bên cạnh đó chiến tranh vùng Vịnh xảy ra đã làm giảm số người lao động của nước ta đến làm việc ở các nước trong vùng này (năm 1991: 1020 người; năm 1992: 810 người). Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng đã có chỉ thị 73CT ngày 13/03/1990 về việc tạm ngừng đưa người lao động đi để củng cố, chấn chỉnh hoạt động XKLĐ.
Năm 1991, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Nghị định 370/HĐBT ngày 9/11/1991 về quy chế đưa lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài và Bộ Lao động thương binh và xã hội đã ra thông tư hướng dẫn số 08/LĐTB-XH-TT. Theo cơ chế mới này các tổ chức dịch vụ Hợp tác lao động được thành lập. Tuy nhiên do còn nhiều bỡ ngỡ nên số lượng lao động xuất khẩu thời kỳ đầu của ta rất thấp (tính đến năm 1995 số lượng lao động xuất khẩu của ta mới đạt 23.230 người). Để thúc đẩy phát triển xuất khẩu lao động, ngày 20/01/1995 Chính phủ ra nghị định số 07-CP quy định chi tiết một số điều của Bộ luật lao động về đưa người lao động Việt Nam đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài. Trong nghị định nêu rõ: "Đưa người lao động Việt Nam đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài là một hướng giải quyết việc làm, tạo thu nhập cho người lao động, góp phần tăng nguồn thu ngoại tệ cho đất nước và tăng cường quan hệ hợp tác kinh tế, văn hóa - khoa học kỹ thuật giữa Việt Nam với nước ngoài theo nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi, tôn trọng pháp luật và phong tục tập quán của nhau". Những chủ trương này được tiếp tục hoàn thiện trong chỉ thị 41-CT/TW ngày 22/09/1998 của Bộ chính trị và Nghị định số 152/1999/NĐ-CP ngày 20/09/1999 của Chính phủ.
Bằng các chỉ thị và nghị định này, cơ chế XKLĐ của nước ta đã được đổi mới một cách cơ bản. Chính phủ chỉ thực hiện chức năng quản lý Nhà nước, các doanh nghiệp đủ điều kiện quy định hoạt động trong lĩnh vực XKLĐ được phép trực tiếp ký kết các hợp đồng cung ứng lao động. Các doanh nghiệp cũng được phép tuyển chọn, tổ chức XKLĐ và bảo đảm quyền lợi cho người lao động và cho doanh nghiệp theo quy định của Pháp luật Việt Nam.
Đến nay, theo tổng kết của bộ Lao động thương binh và xã hội, cả nước đã có 127 doanh nghiệp được phép XKLĐ. Bước đầu chưa quen, hoạt động của các doanh nghiệp còn nhiều thiếu sót, hạn chế, nhưng thông qua quá trình vừa hoạt động, vừa tìm hiểu nghiên cứu thị trường, học tập kinh nghiệm các nước và học tập lẫn nhau, các doanh nghiệp đã từng bước tiếp cận những thị trường mới và mở ra khả năng to lớn cho việc đưa người lao động đi làm việc ở nhiều vùng lãnh thổ khác nhau trên toàn thế giới.
2.2.1. Những thành tựu của công tác XKLĐ từ 1991 đến nay
a) Về số lượng lao động
Từ năm 1991 đến hết năm 1999 ta đã có 89.140 lao động và chuyên gia đi làm việc tại hơn 30 nước và vùng lãnh thổ.
Theo số liệu của Cục quản lý lao động với nước ngoài và theo Tạp chí việc làm ngoài nước số 6/1999 số lượng của ta đi xuất khẩu hàng năm như sau:
Bảng 14: Số lượng lao động xuất khẩu từ năm 1991 - 1999
Năm
Số lao động xuất khẩu (người)
Tổng số lao động
Lao động nữ
1991
1.020
1992
810
100 (chiếm 12,34%)
1993
3.960
358 (chiếm 9,04%)
1994
9.230
986 (chiếm 10,68%)
1995
10.050
1.723 (chiếm 17,14%)
1996
12.660
2.065 (chiếm 16,31%)
1997
18.470
1.974 (chiếm 10,69%)
1998
12.240
1999
20.700
[6, tr. 13]
Trong những năm qua, năm 1997 và năm 1999 là 2 năm ta có số lượng lao động đi làm việc ở nước ngoài đông nhất. Năm 1998: 12.240 người bằng 69% năm 1997 và bằng 59% năm 1999. Tuy nhiên, trong điều kiện cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ diễn ra ở châu Á, các nước vốn nhận nhiều lao động, trong đó có Hàn Quốc, đã hạn chế hoặc cấm nhập khẩu lao động để giảm bớt khó khăn cho nền kinh tế - thì số lượng XKLĐ của ta như vậy là một sự nỗ lực lớn.
b) Về ngành nghề lao động: Từ năm 1991 đến nay, ngành nghề của người lao động của ta đi làm việc ở nước ngoài đã phong phú đa dạng hơn. Nhiều nghề đòi hỏi trình độ chuyên môn cao và có mức thu nhập cao đã được ta tiếp cận, như thuyền viên tàu cá và tàu vận tải. Từ tháng 11/1999 chúng ta đã đưa người sang làm giúp việc gia đình tại Đài Loan. Đây là một lĩnh vực mới mẻ, hiện đang còn có những ý kiến khác nhau trên cả các phương tiện thông tin và dư luận xã hội, nhưng đã mở ra một thị trường mới cho công tác XKLĐ của ta. Tuy nhiên việc thực hiện đòi hỏi Nhà nước và các cơ quan chức năng phải có sự chỉ đạo cụ thể sát sao, vừa làm vừa rút kinh nghiệm để vừa có thể tăng số lượng lao động xuất khẩu trên lĩnh vực này đồng thời bảo vệ được quyền lợi của người phụ nữ Việt Nam.
Bảng 15: Số lượng lao động chia theo ngành nghề tiếp nhận làm việc ở các nước
Ngành nghề
Số lượng (người)
Xây dựng
23.000
Cơ khí
8.000
Mộc
1.500
Dệt may
11.000
Thuyền viên vận tải
5.500
Thuyền viên tàu cá
9.000
Chuyên gia giáo dục, y tế Nhà nước
1.500
Các ngành nghề lao động phổ thông
29.640
[6, tr.13]
c) Thị trường XKLĐ: Trước đây thị trường lao động của ta chỉ bó hẹp trong 4 nước XHCN và một vài nước ở châu Phi, Irắc. Bước sang giai đoạn 1991 - 2000, thị trường lao động của ta đã được mở rộng đáng kể. Theo báo cáo của Bộ Lao động Thương binh - xã hội đầu tháng 6/2000, lao động Việt Nam đang làm việc ở 33 nước trên thế giới. Thị trường lao động của ta lúc này tập trung chủ yếu ở các nước mà giai đoạn trước đây họ chưa từng nhận lao động Việt Nam.
- Khu vực Đông Bắc Á: được tập trung chủ yếu ở 3 nước: Hàn Quốc, Nhật Bản và Đài Loan.
- Khu vực Đông Nam Á: tập trung chủ yếu ở Lào.
- Ở Trung Đông và Bắc Phi: lao động của ta tập trung ở Kuwait, các Tiểu vương quốc Ả Rập thống nhất và ở Libya.
- Châu Phi: Lao động Việt Nam ở đó chủ yếu là các chuyên gia giáo dục, y tế, nông nghiệp được tập trung ở Mozambique, Benanh và Senegal.
Thuyền viên Việt Nam làm việc ở nhiều hãng tàu thuộc nhiều quốc tịch khác nhau.
Ở một số thị trường khác, lao động Việt Nam đã thâm nhập vào nhưng với số lượng nhỏ, như một số khu vực thuộc Hoa Kỳ: Saipan Samoa và Cộng hòa Palau. Đây là thị trường đang hứa hẹn nhiều triển vọng cho lao động Việt Nam với số lượng ngày một lớn hơn.
Một số thị trường chính đang nhận lao động Việt Nam
- Nhật Bản: Nước được coi là có chính sách đóng cửa đối với lao động nước ngoài. Tuy nhiên đến năm 1990, Nhật Bản đã cho phép tiếp nhận lao động từ các nước đang phát triển. Việt Nam bắt đầu đưa người sang tu nghiệp tại Nhật Bản vào năm 1992. Từ đó đến nay, số lượng tu nghiệp sinh tại Nhật có quy mô ngày một lớn.
Bảng 16: Quy mô lao động Việt Nam ở Nhật (Riêng năm 1999, chỉ tính số lao động đi theo giấy phép của Cục quản lý lao động Nhà nước)
Năm
1992
1993
1994
1995
1996
1997
1998
1999
Lao động
17
292
266
1.007
1.313
2.009
2.136
2.004
[29, tr.6]
- Hàn Quốc: Giống như Nhật, Hàn Quốc chỉ nhận lao động nước ngoài là tu nghiệp sinh từ năm 1992. Trong giai đoạn đầu, Hàn Quốc quy định mức lương cho tu nghiệp sinh nước ngoài theo quốc tịch. Về sau, do có nhiều vấn đề phát sinh nên Hàn Quốc quy định cho tu nghiệp sinh hưởng mức lương tối thiểu.
Bảng 17: Quy mô lao động Việt Nam ở Hàn Quốc(Tính cả thuyền viên tàu đánh cá)
Năm
1992
1993
1994
1995
1996
1997
1998
1999
Lao động
56
1.352
4.378
5.674
6.275
4.880
1.322
4.600
[29, tr. 7]
- Đài Loan: Đây là thị trường có nhu cầu lao động nước ngoài cao (300.000). Từ đầu những năm 90, Đài Loan nhận lao động từ Thái Lan, Philipin, Malaysia, Indonexia. Cuối năm 1999, Đài Loan bắt đầu nhận lao động Việt Nam.
Hiện nay lao động Thái Lan và Philipin chiếm phần lớn trong thị trường này. (Thái Lan có 133.000 lao động chiếm 49,28%; Philipin có 114.000 lao động chiếm 42,22%).
- CHDCND Lào: là một nước có dân số ít, lại ở bên cạnh Việt Nam và có tình hữu nghị đặc biệt giữa hai dân tộc, Lào được xác định là một thị trường lao động trọng điểm của Việt Nam. Vì Lào là một nước kinh tế chưa phát triển, việc cung ứng lao động cho nước này chiếm tỷ trọng không lớn. Hình thức chủ yếu là đưa lao động Việt Nam sang nhận thầu khoán công trình hoặc thực hiện liên doanh liên kết giữa Chính phủ 2 nước hoặc các bộ ngành địa phương của hai bên. Thời kỳ 1991 - 1999, ta đưa sang Lào 28.000 lao động.
- Các nước Trung đông: Do sự phát triển của các ngành công nghiệp dẫn đến nhu cầu về dầu mỏ trên thế giới tăng cao. Là nơi tập trung phần lớn trữ lượng dầu mỏ của thế giới, khu vực Trung Đông đã tiếp nhận nhiều lao động từ các nước phục vụ cho công nghiệp dầu và các ngành kinh tế khác.
Trước đây ta đã đưa lao động sang Irắc, Libya,... Khi cuộc chiến tranh vùng Vịnh nổ ra, hầu hết lao động của ta ở Irắc đã về nước. Ở Lybya, ta đã đưa sang được 10.000 lao động. Gần đây ta mở thêm một số thị trường lao động mới ở Kuwait, các Tiểu vương quốc Ả Rập thống nhất (UAE). Tuy nhiên do đặc điểm khí hậu - thời tiết, phong tục tập quán và tôn giáo của các nước Trung Đông có sự khác biệt tương đối lớn so với nước ta, hơn nữa nhu cầu chủ yếu của các nước này là lao động có nghề, mức lương lại thấp không bằng các nước Đông Bắc Á nên việc thâm nhập các thị trường ở khu vực Trung Đông rất khó khăn.
d) Hiệu quả kinh tế - xã hội của công tác XKLĐ thời kỳ 1991 - 1999
Mặc dù còn tồn tại một số hạn chế, thiếu sót, XKLĐ đã đóng góp một phần không nhỏ vào những thành tựu chung của nền kinh tế, đặc biệt là trong việc thực hiện chương trình quốc gia về việc làm, tăng thu nhập, nâng cao đời sống và tháo gỡ nhiều khó khăn cho cả gia đình người lao động và cho nền kinh tế đất nước. Hiệu quả của công tác XKLĐ trong những năm qua có thể xem xét trên hai phương diện sau:
Về kinh tế: Trong 9 năm 1991 - 1999 chúng ta đã đưa đi xuất khẩu 89.140 người lao động và chuyên gia so với 10 năm 1980 - 1990 thì số lao động này chỉ bằng 30%. Tuy nhiên hiệu quả kinh tế trong giai đoạn này lớn hơn: Chỉ riêng 4 năm 1991 - 1994 với số lượng 14 nghìn lao động được các tổ chức dịch vụ hợp tác lao động đưa đi đã thu về cho Nhà nước khoảng 300 triệu USD. Hai năm 1996 - 1997, Việt Nam có khoảng 50.000 lao động làm việc ở nước ngoài đã gửi về nước 350 triệu USD. Nếu tính cả số lao động của ta đi theo các hình thức khác nhau đang làm việc ở nước ngoài thì con số lao động vào khoảng 250.000 và thu nhập hàng năm lên tới khoảng 1 tỷ USD [11, tr. 3]. Đây là doanh số mà chỉ một số ít ngành sản xuất trong nước đạt được.
Mặt khác, nhờ XKLĐ thời gian qua đã giảm được đáng kể khoản đầu tư trong nước cho việc đào tạo nghề và tạo chỗ làm việc. Theo báo cáo của Bộ lao động thương binh và xã hội, để có một chỗ làm việc cho người có tay nghề cao trong ngành công nghiệp nặng Nhà nước phải tốn khoảng 100 triệu đồng, với người có tay nghề trung bình, con số đó là 30 - 35 triệu còn trong tiểu thủ công nghiệp phải đầu tư từ 10 - 15 triệu đồng [4, tr. 21].
Ngoài ra với chương trình hợp tác lao động, chúng ta đã tranh thủ được nguồn tài trợ của nhiều nước để tạo việc làm cho số người lao động của ta về nước sau khi hợp đồng hết hạn góp phần ổn địnhh và phát triển nền kinh tế quốc dân.
Người lao động đi làm việc ở nước ngoài có mức thu nhập cao hơn từ 4 - 6 lần thu nhập của người có việc làm trong nước [4, tr. 21]. Chẳng hạn lao động giúp việc gia đình ở Đài Loan có mức thu nhập khoảng 300 USD/tháng [31, tr. 16] đã bằng thu nhập bình quân đầu người của ta trong cả năm. Với các loại hình lao động có nghề như cơ khí, mộc, may mặc đặc biệt là những lao động có trình độ cao như kỹ sư, chuyên gia, thợ lành nghề... mức lương của họ cao hơn gấp nhiều lần. Ngoài ra với bản chất cần cù chịu khó, người lao động Việt Nam ở nước ngoài luôn tìm được việc làm thêm ngoài giờ nên còn được thêm tiền thưởng và các thu nhập khác. Do vậy XKLĐ là một cơ hội tốt để người lao động tích lũy vốn, cải thiện đời sống và điều kiện làm việc của bản thân và gia đình họ.
Mặc dù số lượng lao động xuất khẩu chưa đáp ứng được yêu cầu và tiềm năng của đất nước, nhưng có xu hướng tăng: Năm 1991 là 1020 người; năm 1992 là 810 người; năm 1993 là 3.960 người; năm 1994 là 9.230 người; năm 1995 là 10.050 người; năm 1996 là 12.660 người; năm 1997 là 18.420 người; năm 1998 là 12.240 và năm 1999 là 20.700 người.
"Đến hết năm 2000, chúng ta đang phấn đấu đưa đi khoảng 150.000 lao động và sau năm 2000 con số này là 200.000 hoặc 250.000 hàng năm, để chúng ta có thường xuyên khoảng 400.000 đến 500.000 lao động Việt Nam làm việc ở nước ngoài" [4, tr. 4].
Như vậy, XKLĐ là một trong những giải pháp quan trọng để thực hiện chương trình Quốc gia về việc làm trong những năm qua và trong thời gian tới.
Thông qua làm việc ở nước ngoài, người lao động thực sự đã nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ thuật, ngoại ngữ, tiếp thu và mang về nước tác phong sản xuất công nghiệp ti._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LVTS3.DOC