Đẩy mạnh Xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam đến năm 2010

Mục lục Danh mục các biểu ---cựd--- Hình 1: Tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu qua các năm.40 Hình 2: kim ngạch xuất khẩu hàng dệt kim Việt Nam vào thị trường Nhật Bản...............................................................................52 Danh mục các bảng số liệu ---cựd--- Bảng 1: Năng lực sản xuất của một số sản phẩm dệt may Việt Nam ...................................................................................................................32 Bảng 2: Tình hình cơ s

doc88 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1501 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Đẩy mạnh Xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam đến năm 2010, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ở sản xuất của ngành dệt may trong nước.....33 Bảng 3: Tình hình sản xuất một số sản phẩm chủ yếu của ngành dệt may...........................................................................................................36 Bảng 4: Tốc độ tăng sản xuất của ngành dệt may..............................39 Bảng 5: Xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam 1991 - 2002.............40 Bảng 6: Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may......................................44 Bảng 7: Cơ cấu xuất khẩu hàng dệt may----------------------------------.46 Bảng 8: KNXK Hàng dệt may của Việt nam trên một số thị trường.47 Bảng 9: Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may vào thị trường EU.......49 Bảng 9: Chỉ tiêu sản xuất đến năm 2010..............................................63 Bảng 10: Đánh giá tiềm năng Xuất khẩu.............................................64 Bảng 11: Bảng so sánh giá hàng dệt may xuất khẩu sang thị trường......................................................................................................71 Lời mở đầu ---cựd--- T rong qúa trình phát triển của lịch sử xã hội loài người đến thời điểm này, toàn cầu hoá kinh tế và tự do hoá thương mại là một xu thế khách quan bởi sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất do tác động của khoa học và công nghệ đã làm cho sự phân công lao động quốc tế vượt ra khỏi biên giới của từng quốc gia, trở thành vấn đề của toàn cầu. Với một nước đang phát triển như Việt Nam cần có những chính sách nhằm xúc tiến quan hệ kinh tế đối ngoại để tham gia vào xu hướng toàn cầu hoá và mang lại hiệu quả cao nhất. Văn kiện của Đảng đã chỉ ra chiến lược Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá đất nước - hướng mạnh vào xuất khẩu và coi đây là một định hướng chiến lược phát triển kinh tế. Vấn đề đặt ra là chúng ta phải khai thác và tận dụng được các lợi thế của mình một cách tốt nhất. Ngành may mặc của Việt Nam càng ngày càng khẳng định được vai trò của mình trong nền kinh tế thị trường. Hiện nay, ngành may mặc Việt Nam đã có quan hệ với hơn 250 công ty thuộc 60 quốc gia trên thế giới. Ngành may mặc Việt Nam là ngành xuất khẩu chủ lực của Việt Nam (chỉ sau dầu thô). Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam chiếm tỷ trọng lớn trong tổng kim ngạch xuất khẩu và không ngừng tăng nhanh. Nếu như năm 1991, kim ngạch xuất khẩu của ngành đạt 158 triệu USD thì đến năm 2002, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may đã tăng lên 2751 triệu USD. Hàng năm, ngành dệt may Việt Nam đã đóng góp rất lớn vào ngân sách Nhà nước góp phần phát triển nền kinh tế của Việt Nam. Nhận thức rõ vai trò của công nghiệp dệt may trong quá trình phát triển nền kinh tế Việt Nam, đặc biệt là ý nghĩa to lớn và sự cần thiết phải đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam. Vì vậy, em đã chọn đề tài “Những biện pháp đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam đến năm 2010” làm đề tài nghiên cứu cho Luận văn tốt nghiệp của mình. Mục tiêu của chuyên đề là nghiên cứu thực trạng hoạt động xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam trong sự phát triển chung của thị trường hàng dệt may thế giới, cũng như dự báo các biến động trong tương lai của thị trường hàng dệt may. Trên cơ sở đó đề ra các giải pháp thích hợp nhằm thúc đẩy xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường thế giới. Kết cấu luận văn gồm 3 chương: Chương I: Lý luận chung về hoạt động xuất khẩu. Chương II: Thực trạng xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam trong những năm gần đây. Chương III: Phương hướng và biện pháp đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may đến năm 2010 Do thời gian đi thực tế và những hiểu biết về sản xuất kinh doanh trong một ngành kinh tế còn hạn chế nên bài nghiên cứu này không thể tránh khỏi thiếu sót. Em rất mong nhận được những ý kiến đóng góp của các thầy cô giáo và các bạn để đề tài phát huy được tính hiệu quả trong thực tiễn. Chương I Lý luận chung về hoạt động xuất khẩu ---dựd--- I. Khái niệm và các hình thức xuất khẩu chủ yếu 1.1 Khái niệm Khái niệm hoạt động xuất khẩu có thể hiểu trên nhiều góc độ khác nhau, nhưng xét theo bản chất của nó thì xuất khẩu chính là một hoạt động tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp thương mại. Trong đó khách hàng của doanh nghiệp có thể là một cá nhân, một tổ chức nước ngoài hay một quốc gia khác. Như vậy: Xuất khẩu là hoạt động trao đổi hàng hoá và dịch vụ cho đối tác nước ngoài dưới hình thức mua bán thông qua quan hệ hàng hoá tiền tệ nhằm mục đích lợi nhuận. Mọi công ty với nghiệp vụ kinh doanh xuất khẩu luôn cố gắng hướng tới xuất khẩu những sản phẩm dịch vụ của mình ra thị trường nước ngoài. Do vậy, xuất khẩu được xem như là một chiến lược kinh doanh quốc tế quan trọng, cơ bản của các công ty hoạt động kinh doanh quốc tế. Có nhiều nguyên nhân khuyến khích các công ty thực hiện xuất khẩu như: Sử dụng, khai thác khả năng vượt trội (những lợi thế) của công ty . Giảm được chi phí cho một đơn vị sản phẩm do nâng cao khối lượng sản xuất. Nâng cao được lợi nhuận của công ty. Giảm được rủi ro do tối thiểu hóa sự giao động của nhu cầu. 1.2 Các hình thức xuất khẩu chủ yếu 1.2.1 Xuất khẩu trực tiếp Là hình thức nhà xuất khẩu trực tiếp tiến hành các giao dịch với khách hàng nước ngoài thông qua các tổ chức của riêng mình. Hình thức này thường được áp dụng khi nhà sản xuất có đủ điều kiện về vốn để thành lập tổ chức bán hàng, nhờ đó có thể kiểm soát được trực tiếp thị trường xuất khẩu. Công ty tổ chức sản xuất sản phẩm sau đó trực tiếp giao dịch đàm phán ký kết hợp đồng, xuất khẩu hàng hoá ra thị trường quốc tế là thể hiện nghiệp vụ kinh doanh của mình đã phát triển. Các tổ chức bán hàng trực tiếp của nhà sản xuất gồm các loại sau: Cơ sở bán hàng trong nước, để điều hành hay phối hợp các tổ chức phụ thuộc khác đặt tại thị trường nước ngoài. Đại diện bán hàng xuất khẩu ở nước ngoài có nhiệm vụ thu thập các đơn đặt hàng của khách hàng. Chi nhánh bán hàng tại nước ngoài: có trách nhiệm quản lý cả công việc xúc tiến và phân phối hàng hoá trên toàn bộ khu vực thị trường đã định ở nước ngoài. Tổ chức trợ giúp ở nước ngoài: là một công ty riêng rẽ được thành lập và đăng ký ở nước ngoài song hầu hết vốn cổ phần của nó lại do nhà xuất khẩu nắm quyền sở hữu. Tổ chức này có nhiệm vụ qiải quyết vấn đề xuất khẩu như khi có hạn chế về xuất khẩu, có yêu cầu về sản phẩm phải phù hợp ở một thị trường. Hình thức này có ưu điểm là lợi nhuận thu được của các doanh nghiệp thường cao hơn các hình thức xuất khẩu khác nhờ giảm bớt các chi phí trung gian. Với vai trò là người bán hàng trực tiếp, doanh nghiệp có thể liên hệ trực tiếp và đều đặn với khách hàng, tiếp cận thị trường, nắm bắt được thị hiếu người tiêu dùng nước ngoài và phản ứng của khách hàng một cách nhanh chóng. Tuy vậy, hình thức này đòi hỏi doanh nghiệp phải có một lượng vốn khá lớn để sản xuất hoặc thu mua, không những thế, như một quy luật tất yếu, các doanh nghiệp có thể đối mặt với rủi ro không xuất được hàng, rủi ro do thay đổi tỷ giá hối đoái... Bởi vậy, với hình thức xuất khẩu này đòi hỏi nhà xuất khẩu phải có uy tín trên thị trường trong nước cũng như trên thị trường quốc tế và họ phải là những doanh nghiệp có trình độ chuyên môn cao. 1.2.2 Xuất khẩu gián tiếp Xuất khẩu gián tiếp là việc sản xuất thông qua dịch vụ độc lập đặt ngay nước sản xuất để tiến hành xuất khẩu các sản phẩm của mình ra thị trường nước ngoài. Hình thức này thường được các doanh nghiệp mới tham gia vào thị trường quốc tế áp dụng. Ưu điểm của hình thức này là các doanh nghiệp xuất khẩu không phải đầu tư nhiều vốn cũng như không phải triển khai lực lượng bán hàng và các hoạt động xúc tiến khuyếch trương sản phẩm ở nước ngoài. Như vậy, rủi ro đã được hạn chế vì trách nhiệm bán hàng thuộc về các tổ chức trung gian. Do đó, ưu điểm của hình thức này có thể khắc phục được nhược điểm của hình thức xuất khẩu trực tiếp. Song nhược điểm của nó chính là lợi nhuận của doanh nghiệp xuất khẩu bị giảm do phải chia sẻ lợi nhuận với tổ chức trung gian tiêu thụ; chính là do không có sự liên hệ trực tiếp với thị trường tiêu thụ nên chậm thích ứng thay đổi sản phẩm của mình với những biến động của thị trường và không thu được thông tin trực tiếp; vì phải thông qua trung gian nên buộc các doanh nghiệp phải mượn nhãn hiệu của họ cho nên phụ thuộc nhiều vào hoạt động của trung gian đó. 1.2.3 Xuất khẩu tại chỗ Xuất khẩu tại chỗ là hình thức kinh doanh có xu hướng phát triển và phổ biến rộng rãi. Hàng hoá được sản xuất và trực tiếp tiêu thụ ngay tại nước sở tại bởi đối tượng khách hàng là người nước ngoài. Đặc điểm của hình thức xuất khẩu này là không có sự dịch chuyển ra khỏi biên giới quốc gia của hàng hoá dịch vụ. Đó là việc cung cấp hàng hoá, dịch vụ cho các ngoại giao đoàn, cho khách du lịch quốc tế. Hoạt động xuất khẩu tại chỗ có thể đạt hiệu quả cao do giảm bớt chi phí đóng gói, chi phí bảo quản, chi phí vận tải, tránh được các thủ tục phức tạp về hải quan, thu hồi vốn nhanh. Tuy nhiên, hình thức này manh mún, lợi nhuận thấp, hạn chế doanh nghiệp phát triển sản xuất kinh doanh do quy mô khách hàng bị thu hẹp. 1.2.4 Gia công quốc tế Gia công quốc tế là hoạt động kinh doanh thương mại trong đó một bên (bên nhận gia công) nhập khẩu nguyên liệu sau đó thực hiện quá trình sản xuất rồi bán thành phẩm cho một bên khác (bên phái gia công). Vì vậy, trong gia công quốc tế, hoạt động xuất khẩu cũng gắn liền với hoạt động sản xuất. Hình thức xuất khẩu này ngày nay đang được thực hiện khá phổ biến trong buôn bán thương mại của nhiều nước nhất là đối với các nước đang phát triển. Bởi đối với bên đặt gia công, phương thức này giúp họ tận dụng giá rẻ về nguyên liệu phụ, nhân công của bên nhận gia công. Đối với bên nhận gia công, phương thức này giúp họ giải quyết được công ăn việc làm cho người lao động trong nước, tiếp nhận công nghệ mới để thay thế công nghệ cũ lạc hậu. 1.2.5 Buôn bán đối lưu Buôn bán đối lưu là một phương thức trao đổi hàng hoá, trong đó xuất khẩu kết hợp chặt chẽ với nhập khẩu, người bán đồng thời là người mua, lượng hàng giao đi tương ứng với lượng hàng nhận về. ở đây mục đích xuất khẩu phải nhằm thu về một khoản ngoại tệ, nhằm thu về một hàng hoá khác có giá trị tương đương. Nói tóm lại, phương thức này là lấy cái mình có đổi cái mình không có (hoặc ít). Ưu điểm của hình thức này là không cần sử dụng ngoại tệ. Các nước có thể khai thác tiềm năng của mình (lao động, nguyên liệu, công nghệ ...) tránh được sự quản lý chặt chẽ về ngoại hối của Chính phủ. Buôn bán đối lưu có nhiều hình thức như: Hàng đổi hàng Trao đổi bù trừ Mua đối lưu Chuyển nợ Mua lại sản phẩm ... 1.2.6 Xuất khẩu theo nghị định thư (xuất khẩu trả nợ) Đây là hình thức doanh nghiệp tiến hành xuất khẩu theo chỉ định của Nhà nước giao cho về một số hàng hoá nhất định cho hàng hoá nước ngoài trên cơ sở nghị định thư đã ký kết giữa hai Chính phủ. Hình thức này cho phép doanh nghiệp tiết kiệm các khoản chi phí tìm kiếm bạn hàng, tránh được rủi ro thanh toán. Tuy nhiên, không phải lúc nào doanh nghiệp cũng có thể xuất khẩu được theo hình thức này, mà nó chỉ là trường hợp hãn hữu. Hình thức xuất khẩu này thường dùng để gán nợ được ký theo nghị định thư giữa hai Chính phủ. Thực tế hình thức xuất khẩu này xuất hiện rất ít, thường trong một số nước Xã hội chủ nghĩa trước đây và chỉ trong một số doanh nghiệp Nhà nước. II. Vai trò của hoạt động xuất khẩu đối với nền kinh tế quốc dân 2.1 Xuất khẩu tạo nguồn ngoại tệ cho nền kinh tế quốc dân. Đất nước ta đang trên con đường công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước nhằm xoá đói giảm nghèo dần dần tiến lên là nước công nghiệp phát triển. Để thực hiện được mục tiêu này trong thời gian ngắn nhất đòi hỏi phải có một số lượng vốn và ngoại tệ lớn để nhập khẩu máy móc, thiết bị, công nghệ hiện đại. Nguồn vốn này được thu từ các nguồn như: đầu tư nước ngoài, vay, viện trợ của nước ngoài, nguồn thu từ hoạt động du lịch, dịch vụ thu ngoại tệ, xuất khẩu hàng hoá và sức lao động... Thông qua quá trình xuất khẩu, chúng ta có thể thu về nguồn vốn, ngoại tệ lớn góp phần quan trọng vào việc cải thiện cán cân thương mại, cán cân thanh toán, tăng dự trữ ngoại tệ. Nhờ vậy mà tăng khả năng nhập khẩu máy móc, thiết bị, công nghệ, nguyên vật liệu... phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. 2.2 Xuất khẩu góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển và chuyển dịch cơ cấu kinh tế Thông qua hình thức xuất khẩu, các doanh nghiệp có thể trực tiếp tiếp xúc với khách hàng nước ngoài, hiểu được giá cả, sở thích, thói quen, tập quán, truyền thống văn hoá của người tiêu dùng và các đối thủ cạnh tranh. Trên cơ sở hoạt động ở thị trường này, các doanh nghiệp có thể mở rộng phạm vi sang các thị trường khác. Xuất khẩu ra nước ngoài sẽ làm cho các doanh nghiệp năng động hơn, nhạy bén hơn với sự biến động của thị trường, khách hàng, những rào cản và những thay đổi về chiến lược của đối thủ cạnh tranh. Đồng thời xuất khẩu còn giúp cho doanh nghiệp khai thác được lợi thế so sánh của mình và các biện pháp khuyến khích của Chính phủ. Xuất khẩu giúp cho doanh nghiệp nâng cao lợi nhuận, điều chỉnh cơ cấu vốn và công nghệ, thay đổi mặt hàng, mẫu mã sản phẩm và tiếp thu được kinh nghiệm quản lý của nước ngoài... Xuất khẩu giúp các ngành khác có cơ hội phát triển thuận lợi, tạo khả năng mở rộng thị trường tiêu thụ, đẩy mạnh sản xuất phát triển, ổn định lâu dài. Thông qua hoạt động xuất khẩu, hàng hoá nước ta sẽ tham gia cạnh tranh trên thị trường thế giới về các mặt như giá cả, mẫu mã, chất lượng... Do đó để cạnh tranh được với các doanh nghiệp nước ngoài thì các doanh nghiệp của Việt Nam phải tổ chức lại sản xuất, hình thành cơ cấu sản xuất mới thích nghi với thị trường quốc tế đồng thời các doanh nghiệp cũng phải luôn đổi mới và hoàn thiện công tác quản lý và sản xuất kinh doanh phù hợp với xu thế mới của thế giới. Xuất khẩu cũng góp phần phát triển các dịch vụ đi kèm như: dịch vụ thương mại, bảo hiểm hàng hoá, thông tin liên lạc quốc tế, dịch vụ tài chính tiền tệ, dịch vụ giao thông vận tải... giúp cho quan hệ ngoại giao giữa các quốc gia tốt hơn. Xuất khẩu cũng giúp cho phát triển các ngành cung cấp đầu vào cho sản xuất, nâng cao năng lực sản xuất trong nước. 2.3 Xuất khẩu góp phần giải quyết công ăn việc làm, cải thiện đời sống của nhân dân Các ngành sản xuất hàng xuất khẩu tạo ra hàng triệu công ăn việc làm, tạo một phần không nhỏ vào việc tạo công ăn việc làm cho người lao động và giảm tỷ lệ thất nghiệp. Nâng cao tay nghề cho người lao động, làm cho họ quen với tác phong công nghiệp. Xuất khẩu còn tạo ra nguồn vốn để nhập khẩu những mặt hàng thiết yếu phục vụ đời sống của nhân dân và tăng thu nhập cho nhân dân, đóng góp vào việc cải thiện đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân ngày càng tốt hơn. III. Nội dung chính của hoạt động xuất khẩu 3.1 Điều tra, nghiên cứu thị trường xuất khẩu: 3.1.1 Điều tra tìm hiểu thông tin Thị trường quốc tế chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố khác nhau, thường là phong phú đa dạng hơn nhiều so với thị trường nội địa. Nhưng dù ở trong nước hay quốc tế thì việc điều tra cũng cần phải có thông tin. Hiện nay chúng ta có hai nguồn thông tin chính đó là thông tin thứ cấp và thông tin sơ cấp. a. Các nguồn thông tin thứ cấp Là tất cả những thông tin đã được công bố như tin tức và tài liệu thương mại, tạp chí... có thể phân loại thành các nguồn chủ yếu sau: thông tin của các tổ chức quốc tế như các tổ chức chuyên ngành của liên hợp quốc (WTO, ITC, ESCAP), các tổ chức theo ngành hàng, sách báo thương mại, nguồn tin của các tổ chức chuyên ngành về thông tin... Ưu điểm cơ bản của các nguồn thông tin thứ cấp là chi phí thu thập rất rẻ, thông tin thu được rất đa dạng. Tuy nhiên, chúng có nhược điểm là kém tính cập nhật, độ tin cậy không cao và không phản ánh được nhiều khía cạnh quan trọng của thị trường như tập tính, thị hiếu, sở thích tiêu dùng. b. Các nguồn thông tin sơ cấp Là thông tin do bản thân doanh nghiệp tự thu thập trên thị trường thông qua trao đổi trực tiếp với thương nhân và khách hàng nước ngoài. Có 3 phương pháp chính để thu thập thông tin sơ cấp: phỏng vấn, quan sát, thử nghiệm thị trường. Các nguồn thông tin sơ cấp có ưu điểm là cập nhật, có độ chính xác cao và bao quát được nhiều khía cạnh của thị trường không được phản ánh trong các nguồn thông tin thứ cấp song chi phí cho loại thông tin này rất cao. 3.1.2 Việc nghiên cứu thị trường quốc tế được tiến hành theo các nhóm nhân tố ảnh hưởng sau Nghiên cứu các nhân tố mang tính toàn cầu Nhân tố mang tính toàn cầu là nhóm nhân tố thuộc về hệ thống thương mại quốc tế. Mặc dù xu hướng hiện nay trên thế giới là tự do mậu dịch, các quốc gia đang nỗ lực để giảm bớt hàng rào ngăn cản đối với hoạt động kinh doanh quốc tế song các nhà kinh doanh quốc tế vẫn phải đối diện với các hạn chế thương mại khác nhau như: thuế quan, hàng rào phi thuế quan (hạn ngạch, cấm vận, sự kiểm soát ngoại hối chặt chẽ của Chính phủ các nước, giấy phép nhập khẩu...). Các nhà xuất khẩu phải nghiên cứu kỹ các hạn chế thương mại này và tính toán thật cẩn thận trước khi đưa ra quyết định kinh doanh. Nghiên cứu các nhân tố thuộc môi trường kinh tế Khi xem xét, phân tích thị trường nước ngoài, nhà kinh doanh phải nghiên cứu nền kinh tế của từng nước. Có 3 đặc tính kinh tế phản ánh sự hấp dẫn của một nước xét như một thị trường cho doanh nghiệp nước ngoài: Thứ nhất là cấu trúc công nghiệp của nước đó: Cấu trúc công nghiệp của một nước định hình các yêu cầu về sản phẩm và dịch vụ, mức lợi tức và mức độ sử dụng nhân lực. Có thể phân biệt các nước thành 4 loại cấu trúc công nghiệp như sau: các nền kinh tế tự cấp tự túc, các nền kinh tế xuất khẩu nguyên liệu thô, các nền kinh tế đang công nghiệp hoá, các nền kinh tế công nghiệp hoá. Thứ hai là phân phối thu nhập: Sự phân phối thu nhập của một nước bị chi phối bởi cấu trúc công nghiệp, song còn chịu chi phối của nhân tố chính trị. Thứ ba là động thái của nền kinh tế: Các nước trên thế giới đang trải qua những giai đoạn phát triển khác nhau được đặc trưng bằng tốc độ tăng trưởng như: các nước có tốc độ tăng trưởng kinh tế rất cao, các nước công nghiệp phát triển đã đi vào thế ổn định với tốc độ tăng trưởng thấp, các nước phát triển có tốc độ tăng trưởng thấp, các nước kém phát triển có nền kinh tế trì trệ thậm chí suy thoái triền miên. Nghiên cứu các nhân tố thuộc môi trường chính trị - pháp luật: Các quốc gia rất khác nhau về môi trường chính trị - pháp luật. Do đó khi xem xét khả năng mở rộng hoạt động sang một thị trường nước ngoài cần chú ý đến một số nhân tố cơ bản sau: Sự ổn định chính trị Sự điều tiết về tiền tệ Tính hiệu lực của bộ máy chính quyền Các quy định mang tính bắt buộc về pháp luật và quản lý Thái độ đối với nhà kinh doanh nước ngoài. Nghiên cứu các nhân tố thuộc môi trường văn hoá Mỗi nước đều có nền văn hoá, tập tục, quy tắc, thói quen, phong cách riêng. Chúng được hình thành theo truyền thống văn hoá của mỗi nước và có ảnh hưởng to lớn đến tập tính tiêu dùng của dân cư nước đó. Tuy sự giao lưu văn hoá giữa các nước đã làm xuất hiện rất nhiều tập tính tiêu dùng chung cho mọi dân tộc, song cũng có nhiều văn hoá truyền thống vẫn còn rất bền vững, có ảnh hưởng rất mạnh đến thói quen và tâm lý tiêu dùng. Sự khác biệt về văn hoá ảnh hưởng đến cách thức giao dịch được tiến hành, loại sản phẩm mà khách hàng sẽ mua và những hình thức khuyếch trương có thể được chấp nhận. Đặc điểm văn hoá thể hiện ở những nội dung sau: Thời gian, không gian, ngôn ngữ, sự quen thuộc, kỹ thuật đàm phán, hệ thống pháp lý, cách tiêu thụ. Nghiên cứu các nhân tố thuộc môi trường cạnh tranh Sự hấp dẫn của thị trường nước ngoài còn chịu ảnh hưởng quan trọng của mức độ của cạnh tranh trên thị trường đó. Trước hết các nhà kinh doanh nước ngoài phải đối mặt với các đối thủ cạnh tranh nội địa. Loại đối thủ thứ hai là các doanh nghiệp nước ngoài cũng đang hoạt động trên thị trường đó. Các phương pháp cạnh tranh cũng rất đa dạng và phong phú. Tất cả các thành phần Marketing hỗn hợp đều có thể được sử dụng trong cạnh tranh. Với những sản phẩm đồng nhất hoặc được xem như đồng nhất thì các đối thủ cạnh tranh luôn làm cho sản phẩm của người khác theo cách mà khách hàng cho là có ý nghĩa. Những nỗ lực như thế không chỉ bao gồm sự thay đổi về sản phẩm mà còn thay đổi về bao gói, chủng loại sản phẩm, kênh tiêu thụ... Một biện pháp cạnh tranh có hiệu quả khác là tìm ra các khoảng trống trên thị trường để chiếm lĩnh. Trong trường hợp này, doanh nghiệp nước ngoài không thể xác định vị trí độc quyền của mình trong một khoảng thời gian nhất trước khi phải đối đầu với các đối thủ cạnh tranh trực tiếp. Nghiên cứu nhu cầu thị trường Hiển nhiên một trong những chỉ tiêu quan trọng nhất đặc trưng cho nhu cầu thị trường là tổng sản phẩm có thể tiêu thụ, doanh số và lợi nhuận mà doanh nghiệp có thể hi vọng thu được trên thị trường đó. Một khía cạnh khác của nhu cầu thị trường cần được nghiên cứu là sự biến động theo thời gian của nó được biểu hiện qua lượng tăng (giảm) của tổng mức nhu cầu của doanh số hay tốc độ tăng (giảm) của các chỉ tiêu đó. Nó sẽ phản ánh triển vọng của nhu cầu thị trường trong tương lai để doanh nghiệp có thể xác định sự thích ứng trong lượng cung cấp và các chính sách thương mại. Nghiên cứu cơ cấu của thị trường Mỗi thị trường nước ngoài không bao giờ là một thị trường thuần nhất. Nó bao gồm những nhóm khách hàng rất khác nhau về mọi đặc trưng kinh tế, dân số, xã hội và văn hoá. Vì thế, nhà kinh doanh nước ngoài cần phân tích tỷ mỉ cơ cấu của tập hợp khách hàng tiềm năng theo độ tuổi, giới tính, nơi cư trú, nghề nghiệp, trình độ văn hoá, giai cấp và tầng lớp xã hội, tôn giáo, các mức thu nhập, theo chủng loại sản phẩm tiêu dùng... 3.2 Lựa chọn thị trường đối tác Các công ty dự định tham gia thị trường quốc tế cần phải xác định được các nhóm kinh tế khu vực, các quốc gia riêng biệt và các đoạn thị trường cụ thể mà họ có dự định kinh doanh. Về nguyên tắc mỗi nước trên thế giới đều là một ứng cử viên cho quyết định thâm nhập thị trường. Vì vậy các doanh nghiệp cần phải lựa chọn thị trường thuận lợi, phù hợp nhất cho mình. Tìm kiếm thị trường xuất khẩu cũng khó như thăm dò khoáng sản địa chất. Ta ít có khả năng quan sát trực tiếp, nhưng có khả năng phán đoán về sự tồn tại các khoáng chất nhờ xác định các đặc điểm của môi trường xung quanh. Có hai phương pháp tiếp cận để xác định các quốc gia thích hợp hoặc các khu vực thị trường trong từng quốc gia. Đó là: Xác định cẩn thận các đặc tính của khách hàng nước ngoài dường như chắc chắn mua sản phẩm của hãng và sau đó kiểm tra các quốc gia đó. Xác định các thị trường mà ở đó sản phẩm của hãng dễ được tiêu thụ nhất và thận trọng điều chỉnh thích ứng sản phẩm và các thông điệp quảng cáo của hãng để chúng phù hợp với các thị trường này. Khi lựa chọn thị trường đối tác ta cần thiết lập các tiêu chuẩn nhất định phụ thuộc vào mục tiêu và tiêu chuẩn của công ty. Các tiêu chuẩn đó là: ự Quy mô thị trường: Nói chung, dân số càng nhiều thì càng tốt vì sẽ có nhiều khách hàng tiềm năng. Tuy nhiên cần cần chú ý đến một phần dân số không mấy quan tâm đến hàng hoá của doanh nghiệp mình hoặc không có tiền để mua. Một đặc điểm quan trọng khác là cơ cấu tuổi tác của dân số và tỷ lệ phát triển... ự Cơ cấu dân số: Những nhóm dân số có độ tuổi khác nhau sẽ có nhu cầu, thu nhập, triển vọng, thói quen mua hàng khác nhau. Do vậy tuổi tác của các nhóm dân chúng trở thành một yếu tố đáng kể khi chúng ta cung cấp hàng hoá. Sự phân bố dân cư về mặt địa lý cũng có thể trở thành một yếu tố quan trọng. ự Sự phát triển kinh tế: Có thể đánh giá mức độ phát triển của các quốc gia thông qua nhu cầu về hàng hoá của người tiêu dùng. Một quốc gia có mức độ phát triển kinh tế cao thì nhu cầu về hàng hoá của người dân cũng sẽ cao hơn so với một nước có mức độ phát triển kinh tế thấp hơn. ự Thu nhập và sự giàu có: Các giá trị này có thể đo bằng tổng sản phẩm quốc dân GDP và GNP tính theo bình quân đầu người, bằng mức tiêu thụ cá nhân, bằng tỷ lệ người có xe hơi và hàng tiêu dùng lâu bền. Nếu đại bộ phận dân số có thói quen mua hàng như nhau, tuy nhiên có rất nhiều người còn ở xa mức trung bình và điều này chứng tỏ sự khác biệt khá lớn về mức sống của một thiểu số cực giàu có với số đông đang còn nghèo. Nhiệm vụ của nhà nghiên cứu thị trường là phải có các phương thức tiếp cận riêng. ự Môi trường kinh doanh: Các chuẩn mực về văn hoá tín ngưỡng của địa phương có thể ảnh hưởng tới sự tiêu thụ hàng hoá. Luật pháp của một quốc gia có thể đòi hỏi sự đảm bảo đặc biệt, dịch vụ sau bán hàng, các tiêu chuẩn bán hàng... những điều này có thể không cần thiết tại quốc gia có công ty xuất khẩu số mặt hàng đó. Chính sách của các quốc gia nhập khẩu cũng đóng một vai trò vô cùng quan trọng như thúc đẩy hay kìm hãm hoạt động xuất nhập khẩu. ự Các phương tiện kho bãi và vận chuyển: Các điều kiện khí hậu ở một số quốc gia có thể là yếu tố quan trọng quyết định mức độ bảo đảm của hệ thống kho bãi và loại phương tiện vận chuyển hàng hoá. Bên cạnh đó bản thân hệ thống các loại hình vận chuyển cũng có thể đáp ứng nhu cầu vận chuyển hàng hoá ở mức độ khác nhau. ự Về tình hình chính trị: Sự bất ổn về chính trị sẽ làm tổn hạn đến độ tin cậy trong kinh doanh vì các nhà xuất khẩu sợ rằng họ sẽ không được thanh toán, Chính phủ nước ngoài có thể định giá cao. 3.3 Đàm phán và ký kết hợp đồng xuất khẩu 3.3.1 Đàm phán Trong giao dịch ngoại thương các bên thường có sự khác biệt nhau về kiến thức, về pháp luật, về tập quán ngôn ngữ tư duy truyền thống và quyền lợi. Những sự khác biệt đó dẫn đến sự xung đột. Muốn giải quyết xung đột đó, người ta phải trao đổi ý kiến với nhau. Trong hoạt động xuất khẩu những vấn đề thường trở thành nội dung của các cuộc đàm phán là: ự Phẩm chất ự Số lượng ự Bao bì đóng gói ự Giao hàng ự Giá cả gia công ự Thanh toán ự Phạt và bồi thường thiệt hại 3.3.1.1 Các nguyên tắc cơ bản trong đàm phán Nguyên tắc tập trung vào quyền lợi chứ không phải lập trường quan điểm: Khi đàm phán nếu chỉ tập trung vào lập trường quan điểm để bảo vệ quyền lợi thì rất khó đạt được thoả thuận vì ai cũng muốn giữ lập trường của mình, làm cho cuộc đàm phán đi vào bế tắc. Nếu tập trung vào quyền lợi thì thường có nhiều lập trường để bảo đảm được quyền lợi đó. Đưa ra phương án đôi bên cùng có lợi: Việc đưa ra phương án đôi bên cùng có lợi sẽ góp phần phát hiện ra những quyền lợi chung, những thoả thuận trong đàm phán từ đó bảo đảm được thành công của quá trình đàm phán cũng như giữ được mối quan hệ kinh doanh lâu dài. Kiên quyết bảo vệ các tiêu chuẩn khách quan. Trong đàm phán cần phải đảm bảo được những tiêu chuẩn khách quan công bằng. Khi đàm phán với một người không khoan nhượng và luôn giữ lập trường của mình thì tốt nhất là kiên quyết đảm bảo thoả thuận phải phản ánh những tiêu chuẩn công bằng khách quan không phụ thuộc vào lập trường bên nào. 3.3.1.2 Các giai đoạn của tiến trình đàm phán Giai đoạn chuẩn bị, giai đoạn thảo luận, giai đoạn đề xuất, giai đoạn thoả thuận. Trong đó giai đoạn chuẩn bị là giai đoạn quan trọng nhất, nó chiếm đến 80% kết quả của cuộc đàm phán. 3.3.2 Ký kết hợp đồng Hợp đồng xuất khẩu là một cam kết bằng văn bản quy định quyền lợi và trách nhiệm của các bên về các hoạt động kinh doanh quốc tế. Hợp đồng xuất khẩu là một dạng của hợp đồng kinh doanh quốc tế, nó mang những nét đặc trưng cho tính chất và loại đối tượng mà loại hợp đồng này điều chỉnh. *Hợp đồng có những đặc điểm sau ≫Hợp đồng là một cam kết giữa các bên có quốc tịch khác nhau trong lĩnh vực kinh doanh quốc tế. Hợp đồng quy định quyền hạn và trách nhiệm của các bên trong các quan hệ về sản xuất, mua bán... ≫ Hợp đồng xuất khẩu thường chịu sự điều chỉnh của hệ thống pháp luật, cả hệ thống pháp luật trong nước lẫn pháp luật quốc tế. ≫ Hợp đồng thường được trình bày theo cấu trúc điều khoản. Cấu trúc điều khoản của hợp đồng giống như cấu trúc điều khoản của văn bản pháp luật. ≫ Hợp đồng xuất khẩu có tính chất phức tạp vì nó liên quan đến nhiều hệ thống pháp luật khác nhau, phong tục tập quán kinh doanh quốc tế, sắc thái văn hoá, điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội, bối cảnh quốc tế... *Nội dung của hợp đồng Các điều khoản của hợp đồng trình bày các vấn đề khác nhau liên quan đến hoạt động kinh doanh quốc tế mà các bên đàm phán. Bao gồm các vấn đề sau: Vấn đề thứ nhất là giải thích các từ ngữ, khái niệm, định nghĩa được sử dụng trong hợp đồng. Nội dung của việc trình bày này giống như việc trình bày các khái niệm trong các văn bản pháp luật khác. Lý do của việc giải thích khái niệm là do các bên có thể có cách hiểu khác nhau về cùng một khái niệm. Trong nhiều lĩnh vực kinh doanh có tính chất chuyên ngành, nhiều thuật ngữ thường gây tranh cãi hoặc hiểu nhầm có thể làm sai lệch nội dung của giao dịch, đặc biệt đối với các chủ thể có quốc tịch khác nhau và được đào tạo ở nhiều môi trường khác nhau và làm việc trong các hoạt động kinh doanh khác nhau. Vấn đề thứ hai là các nội dung kinh doanh: các lĩnh vực kinh doanh được cụ thể hoá thành các điều khoản chi tiết như điều khoản giá cả, số lượng, chất lượng, nhãn hiệu, điều khoản bất khả kháng, điều khoản về tranh chấp, điều khoản bổ sung... Vấn đề thứ ba là phương thức thực hiện hợp đồng như phương thức vận chuyển, xây dựng, bảo quản, lắp đặt, bảo dưỡng... Vấn đề thứ tư là các điều kiện bất khả kháng như bão lụt, hạn hán, chiến tranh, khủng hoảng chính trị, kinh tế, xã hội...Các yếu tố này tác động đến việc thực hiện nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng ngoài ý muốn. Các yếu tố bất khả kháng là căn cứ quan trọng để các bên miễn giảm trách nhiệm như đã cam kết. Vấn đề thứ năm liên quan đến khiếu nại hợp đồng và trọng tài xử lý tranh chấp. Đây là điều khoản bảo đảm cho tính pháp lý và tính quy phạm của hợp đồng cao hơn. Không phải hợp đồng nào cũng được thực hiện nghiêm túc bởi các bên do đó những tranh chấp, khiếu nại xảy ra phải được xử lý thích hợp và rõ ràng, nghiêm minh. Vấn đề thứ sáu là thời hạn có hiệu lực của hợp đồng. Điều khoản này quy định thời điểm bắt đầu và kết thúc của hợp đồng về mặt pháp lý, nghĩa là khi nào thì phát sinh quyền lợi và nghĩa vụ của các bên cũng như khi nào thì chấm dứt. Ngoài thời hạn quy định trong hợp đồng, các bên không có trách nhiệm, nghĩa vụ với nhau. Vấn đề thứ bảy là các vấn đề bổ sung. Đây là các vấn đề cần dự kiến phát sinh của hợp đồng trong quá trình th._.ực hiện như các vấn đề liên quan đến việc tăng, giảm quyền và nghĩa vụ của các bên, vấn đề thời gian có hiệu lực của hợp đồng hay các vấn đề liên quan đến các quy định của Nhà nước đối với các quan hệ trong hợp đồng. 3.4 Tổ chức và thực hiện hợp đồng xuất khẩu 3.4.1 Chuẩn bị hàng xuất khẩu. Chuẩn bị hàng xuất khẩu là chuẩn bị theo đúng tên hàng, chất lượng, số lượng, bao bì, ký mã hiệu có thể giao hàng đúng thời gian quy định trong hợp đồng thương mại quốc tế. Vậy quá trình chuẩn bị hàng hoá bao gồm những công việc sau: tập trung hàng hoá, đóng gói bao bì, kẻ ký mã hiệu cho hàng hoá. 3.4.2 Kiểm tra hàng hoá xuất khẩu. Bao gồm những công việc sau: kiểm tra về chất lượng, số lượng, trọng lượng, sự phù hợp của bao bì của hàng hoá xuất khẩu. Kiểm tra hàng hoá xuất khẩu có tác dụng là: Thực hiện trách nhiệm của người xuất khẩu trong thực hiện hợp đồng thương mại quốc tế từ đó đảm bảo uy tín của nhà xuất khẩu đối với bạn hàng trong nước và trên thế giới. Ngăn chặn kịp thời các hậu quả xấu dẫn đến tranh chấp khiếu nại, sửa chữa các khuyết tật. 3.4.3 Thuê phương tiện vận tải Tuỳ thuộc vào hợp đồng xuất khẩu mà nhà xuất khẩu có hoặc không có trách nhiệm trong việc thanh toán chi phí thuê tàu. Ví dụ nếu công ty xuất khẩu ký hợp đồng bán hàng theo giá FOB thì họ sẽ không phải bỏ chi phí thuê tàu còn ngược lại nếu bán hàng hóa theo giá CIF thì bên xuất khẩu sẽ phải tự thanh toán tiền thuê tàu cho vận chuyển hàng đến địa điểm ký kết trong hợp đồng. Các căn cứ để thuê phương tiện vận tải Căn cứ vào điều kiện cơ sở giao hàng Căn cứ vào khối lượng hàng hoá và đặc điểm hàng hoá. Căn cứ vào điều kiện vận tải. Căn cứ vào các điều kiện khác trong hợp đồng. 3.4.4 Mua bảo hiểm cho hàng hoá Trong kinh doanh thương mại quốc tế, hàng hoá thường phải vận chuyển đi xa và trong những điều kiện vận tải phức tạp. Do đó hàng hoá rất dễ bị tổn thất, mất mát dẫn đến đòi hỏi các nhà xuất khẩu thường phải mua bảo hiểm để có thể giảm bớt tổn thất nếu có cho chủ hàng. Khi mua bảo hiểm cho hàng hoá cần dựa vào các căn cứ sau O Căn cứ vào điều kiện cơ sở giao hàng trong hợp đồng thương mại quốc tế. O Căn cứ vào hàng hoá vận chuyển. O Căn cứ vào điều kiện vận chuyển. 3.4.5 Làm thủ tục hải quan Trước tiên chủ hàng phải khai báo cho Hải quan về tên hàng, số hiệu của hàng hoá, phẩm chất, chất lượng, số lượng, đơn giá, tổng trị giá và xuất xứ hàng hoá cùng các chứng từ có liên quan khác. 3.4.6 Giao nhận hàng hoá với phương tiện vận tải Giao hàng khi hàng hoá chuyên chở bằng Container Căn cứ vào số lượng hàng giao đăng ký mượn hoặc thuê Container phù hợp với hàng hoá. Làm thủ tục Hải quan, mời hải quan kiểm hoá đến địa điểm đóng hàng (có thể là tại công ty hoặc ở một nơi nào đó ngoài công ty) để kiểm tra hàng hoá, xếp hàng vào Container rồi niêm phong kẹp chì. Giao hàng cho bãi hoặc trạm container để nhận biên lai xếp hàng. Đổi biên lai xếp hàng lấy vận đơn. 3.4.7 Làm thủ tục thanh toán Trong hoạt động thương mại quốc tế có rất nhiều phương thức thanh toán nhưng việc lựa chọn phương thức thanh toán không phải là đơn giản. Dù là phương thức thanh toán nào thì mục đích của quá trình thanh toán đối với người xuất khẩu là khi giao hàng phải đảm bảo chắc chắn sẽ thu được đầy đủ tiền hàng. Một số phương thức thang toán là: Thanh toán bằng phương thức tín dụng chứng từ, thanh toán bằng phương thức nhờ thu, thanh toán bằng phương thức giao chứng từ trả tiền, thanh toán bằng phương thức chuyển tiền. IV. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu Doanh nghiệp kinh doanh nhằm mục đích chủ yếu là thu được nhiều lợi nhuận vì vậy các doanh nghiệp luôn phải phụ thuộc vào thị trường và các hợp đồng theo qui luật của thị trường. Chính vì thế sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp phụ thuộc rất nhiều vào các yếu tố chủ quan cũng như khách quan. 4.1 Các nhân tố bên ngoài doanh nghiệp: 4.1.1 Luật pháp và thông lệ trong kinh doanh Là chỗ dựa cho các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu. Các doanh nghiệp phải tuân thủ các quy định của luật pháp. Ai vi phạm các thông lệ trong kinh doanh sẽ bị toà án hoặc trọng tài kinh tế xử lý. ở mỗi quốc gia đều có một hệ thống pháp luật riêng vì vậy khi muốn kinh doanh ở thị trường nào đó thì người kinh doanh phải nắm bắt được pháp luật của nước đó. 4.1.2 Giá cả Giá cả hàng hoá trong cơ chế thị trường luôn biến động dựa trên quy luật cung cầu hàng hoá, ở các thị trường khác nhau thì giá cả khác nhau. Vì vậy doanh nghiệp cần phải nắm vững được thị trường, dự đoán được thị trường xem xét mức cung và cầu của thị trường đó để qua đó xác định mức giá xuất khẩu hàng hoá. Giá mua vào: có vai trò quan trọng ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh. Giá mua vào càng thấp thì doanh nghiệp càng có ưu thế trong cạnh tranh. Doanh nghiệp cần phải tìm kiếm thị trường và đưa ra phương án cho mỗi thị trường với giá mua vào và cước phí vận chuyển để lựa chọn sao cho có phương án tối ưu nhất. Giá bán ra: Nó ảnh hưởng trực tiếp đến lợi nhuận của kinh doanh. Nó được xác định trên cơ sở thoả thuận giữa người mua và người bán thông qua quan hệ cung cầu. Để đạt được hiệu quả thì giá bán phải cao hơn giá mua cộng với chi phí lưu thông. 4.1.1. Sự cạnh tranh Cạnh tranh trên thị trường có ảnh hưởng lớn đến hoạt động kinh doanh của một doanh nghiệp. Cạnh tranh gay gắt phải làm cho doanh nghiệp giảm giá bán và giảm thị trường cho nên ảnh hưởng trực tiếp đến lợi nhuận của doanh nghiệp. 4.1.2. Điều kiện tự nhiên Thời tiết, địa hình ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình sản xuất, thu gom, vận chuyển, bảo quản và bốc xếp hàng hoá. Vì vậy tuỳ thuộc vào từng quốc gia, từng loại hàng hoá mà người ta có cách bảo quản, vận chuyển riêng. 4.1.3. Tác động của tỷ giá hối đoái tới xuất khẩu: Tỷ giá hối đoái là vấn đề kinh tế hết sức nhạy cảm và phức tạp, nó phản ánh sức mua, mối quan hệ so sánh về mặt giá trị, trao đổi...vv giữa đồng tiền của quốc gia này và quốc gia khác thông qua quan hệ thương mại quốc tế, nó tùy thuộc vào kim ngạch xuất nhập khẩu, cán cân vãng lai, thâm hụt ngân sách, và ngay cả tình hình ổn định chính trị và thiên tai của mỗi nước. Yếu tố tỷ giá đóng một vai trò rất quan trọng. Việc tỷ giá lên xuống ảnh hưởng trực tiếp đến kim ngạch, tình hình kinh doanh của các doanh nghiệp xuất nhập khẩu. Khi đồng tiền của một nước tăng giá sẽ làm cho việc xuất khẩu bị hạn chế vì khi đó giá của một đơn vị sản phẩm sẽ tăng lên. Chính vì lý do đó mà một số nước đang phát triển tự phá giá đồng tiền của mình (trong phạm vi có thể khống chế được) để tăng khả năng xuất khẩu. 4.2 Các yếu tố chủ quan (thuộc bản thân doanh nghiệp): 4.2.1 Bộ máy quản lý hay tổ chức hành chính: Là sự tác động trực tiếp của các cấp lãnh đạo xuống các cá nhân dưới hình thức chỉ đạo, hướng dẫn... nhằm mục đích sinh lợi cho doanh nghiệp. Để thực hiện công tác này một cách hiệu quả, hệ thống quản lý cần phải có một chương trình quản lý cụ thể và thống nhất. Trong hoạt động quản lý thì yếu tố con người đóng vai trò vô cùng quan trọng vì vậy các cấp lãnh đạo phải là người có kiến thức chuyên môn tốt, có kinh nghiệm trong cuộc sống và năng động biết đưa ra những quyết định đúng lúc. Các cán bộ quản lý phải tổ chức công tác sản xuất sao cho đem lại hiệu quả cao nhất, phân công lao động phải đúng người đúng việc, phát huy hết khả năng sáng tạo của từng cá nhân cho lợi ích chung của tập thể, hiểu được tâm lý của người lao động. 4.2.2. Cơ sở vật chất kỹ thuật và vốn kinh doanh Đó là yếu tố vật chất được phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, nó tác động lớn đến hiệu quả kinh doanh của mỗi doanh nghiệp. Một doanh nghiệp không thể tồn tại và phát triển nếu không có cơ sở vật chất cũng như nguồn vốn đầy đủ. Hiện nay, yếu tố công nghệ đang được đánh giá cao nhất là tại các nước công nghiệp phát triển, nó đã dần thay thế con người trong một số lĩnh vực như lắp ráp ô tô, đồ điện tử... 4.2.3 áp dụng hình thức trách nhiệm vật chất Sử dụng các đòn bẩy kinh tế như thưởng phạt phân minh sẽ tạo ra một động lực trong sản xuất, người lao động sẽ nhìn thấy kết quả mà mình đạt được tuỳ thuộc vào họ sản xuất thế nào. Điều này làm tăng khả năng sản xuất của doanh nghiệp dẫn đến việc tăng khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường. Một nhà doanh nghiệp đã nói: “hãy trả lương cho tốt và ra lệnh cho tốt ”. Phương pháp này đánh vào tâm lý của người lao động nhằm khuyến khích họ lao động hết khả năng của mình. 4.2.4 Các biện pháp Marketing Các biện pháp này nhằm nâng cao khả năng tiêu thụ hàng hoá của một doanh nghiệp cũng như tăng vị thế của doanh nghiệp trên thị trường. Các biện pháp này chủ yếu là các biện pháp quảng cáo, tiếp thị, khuyến mãi, nâng cao chất lượng, thay đổi mẫu mã... Các biện pháp này được các công ty lớn khai thác một cách triệt để, nhất là các công ty xuyên quốc gia, công ty đa quốc gia, các tập đoàn lớn... 4.2.5 Mạng lưới kinh doanh và môi trường kinh doanh Kinh tế thị trường mở cửa hiện nay rất đa dạng và phức tạp, mỗi doanh nghiệp cần phải mở rộng mạng lưới kinh doanh của mình để mở rộng qui mô kinh doanh, tăng doanh số bán và lợi nhuận. Các doanh nghiệp phải luôn tìm kiếm và mở rộng thị trường để nâng cao chất lượng hàng hoá. Do đó, để có hiệu quả thì các doanh nghiệp xuất khẩu phải xác định rõ thị trường mục tiêu và thị trường tiềm năng. Từ đó, các chính sách, hiệu quả tổ chức quản lý, phân bố nguồn lực, bố trí kênh phân phối sao cho phù hợp. Mạng lưới kinh doanh phù hợp sẽ cho phép nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. V. Vai trò của hàng dệt may đối với hoạt động xuất khẩu Việt Nam Công nghiệp dệt may thường là ngành khởi đầu, đóng vai trò chủ đạo trong quá trình công nghiệp hoá nền kinh tế đất nước nhờ công nghệ đơn giản và tương đối ít vốn. Việt Nam đã biết tận dụng lợi thế so sánh của mặt hàng dệt may để xuất khẩu ra thị trường nước ngoài. Ngành công nghiệp dệt may có khả năng tạo nhiều công việc làm cho người lao động, tăng thu lợi nhuận để tích lợi nhuận để tích luỹ là tiền đề phát triển các ngành công nghiệp khác. Ngành dệt may của Việt Nam đóng vai trò vô cùng quan trọng trong quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Ngành dệt may có liên quan chặt chẽ tới sự phát triển của các ngành công nghiệp khác. Ngành dệt may cần một khối lượng nguyên liệu lớn là sản phẩm của các lĩnh vực khác và vì thế tạo điều kiện để thúc đẩy các ngành khác, tiêu thụ sản phẩm cho các ngành khác. Công nghiệp dệt lớn mạnh sẽ thúc đẩy công nghiệp may và các ngành khác sử dụng sản phẩm của mình làm nguyên liệu để phát triển. Vai trò của ngành dệt may đặc biệt to lớn đối với kinh tế của Việt Nam trong điều kiện buôn bán hàng hoá quốc tế. Xuất khẩu hàng dệt may mang lại nguồn thu ngoại tệ lớn để mua máy móc thiết bị hiện đại. Việt Nam hiện nay, công nghiệp dệt may đang góp phần phát triển nông nghiệp và nông thôn thông qua tăng trưởng sản xuất bông, đay, tơ tằm và là phương tiện dịch chuyển cơ cấu kinh tế từ kinh tế nông nghiệp sang kinh tế công nghiệp. Chương II Thực trạng xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam trong những năm gần đây ---dựd--- I. Khái quát tình hình ngành dệt may của Việt Nam 1.1 Năng lực sản xuất Theo số liệu của Tổng Công ty Dệt May Việt Nam, tổng năng lực sản xuất của ngành dệt may Việt Nam hiện nay được đánh giá như sau: Bảng 1: Năng lực sản xuất của một số sản phẩm dệt may Việt Nam Chỉ tiêu Đơn vị DN trong nước DN có vốn ĐT nước ngoài Cộng Sợi dệt Tấn 72.000 90.000 162.000 Vải lụa Triệu m2 380 420 800 Dệt kim Triệu SP 31 8 39 Hàng may mặc sẵn (may CN) Triệu SP 280 120 400 (Nguồn: Tổng Công ty Dệt May Việt Nam) Các cơ sở may tập trung chủ yếu ở Vùng đồng bằng sông Cửu Long và Đông Nam Bộ, chiếm khoảng 50 - 60% sản lượng trong đó Vùng đồng bằng sông Hồng và các tỉnh phụ cận chiếm 30 - 40% sản lượng. Vùng duyên hải miền Trung chỉ chiếm khoảng 10% sản lượng của toàn ngành dệt may. 1.1.1 Tình hình cơ sở sản xuất của ngành dệt may cụ thể như sau 1.1.1.1 Đối với các cơ sở sản xuất trong nước *Tình hình cơ sở sản xuất của ngành dệt may cụ thể như sau Bảng 2: Tình hình cơ sở sản xuất của ngành dệt may trong nước Khu vực Xí nghiệp QD XN đoàn thể DN ngoài QD Hộ tư nhân TW ĐF Cộng Dệt I II III Tổng 13 12 3 28 4 15 5 24 17 27 8 52 - - - 0 173 47 7 227 ~ 10.000 May I II III Tổng 16 21 1 38 21 48 15 84 37 69 16 122 3 5 - 8 287 81 16 384 ~ 30.000 Khu vực I: Thành phố Hồ Chí Minh và các vùng phụ cận. Khu vực II: Thành phố Hà Nội và các vùng phụ cận Khu vực III: Thành phố Đà Nẵng và các tỉnh Quảng Nam, Thừa Thiên Huế, Khánh Hoà. * Về trang thiết bị Ngành dệt hiện có 868.000 sợi cọc, cả sợi bông và sợi pha (bông pha với sơ PE) với chỉ số Nm (chỉ số quốc tế) từ sợi Nm10 đến Nm 102 bao gồm cả sợi chải kỹ; 43.200 máy dệt, trong đó các xí nghiệp QDTW quản lý 11000 máy, xí nghiệp QDĐP - 3200 máy và các hợp tác xã và tư nhân - 29000 máy; các thiết bị nhuộm hoàn tất có thể nhuộm 450 triệu mét/ năm với các loại từ các nguyên liệu dệt khác nhau và các công nghệ nhuộm màu cũng như công nghệ in hoa khác nhau; các thiết bị dệt kim có thể sản xuất 20.900 tấn sản phẩm/năm, bao gồm 19500 tấn dệt kim tròn/năm và 1400 tấn dệt kim dọc/năm. Tuy nhiên, phần lớn số thiết bị ngành dệt hầu hết đã cũ và sự thiếu đồng bộ giữa các khâu. Thiết bị dệt còn quá ít so với thiết bị kéo sợi, phần lớn là máy dệt thoi khổ hẹp, chủng loại nghèo nàn, vải làm ra không đáp ứng được nhu cầu thị trường... Về thiết bị kéo sợi cũng có tới hơn 60% là cọc sợi chải thô, chỉ số thiết bị bình quân thấp, chỉ có khoảng 26-30% là cọc sợi chải kỹ, chỉ số cao dùng cho dệt kim và vải cao cấp. Dây chuyền nhuộm hoàn tất cũng đã lạc hậu, phần lớn là thiết bị khổ hẹp, tiêu hao nhiều hoá chất, thuốc nhuộm, dẫn đến chi phí cao. Trong khi đó, trang thiết bị ngành may đã tăng nhanh cả về số lượng và chất lượng, nhất là về tính năng công dụng, từ máy đạp chân C22 của Liên Xô cũ, máy 8322 của Đức đến JUKI của Nhật và FFAP của CHLB Đức. Số máy chuyên dùng đã tăng lên đáng kể để đáp ứng với yêu cầu của sản xuất và chủng loại mặt hàng như máy vắt 5 chỉ, máy thùa đính, trần giầy pasant, may cạp 4 kim, bàn là treo, bàn là hơi có đệm hút chân không ...Trong từng công đoạn sản xuất may cũng được trang bị thêm máy móc mới với tính năng công dụng mới nhằm tăng năng suất lao động và nâng cao chất lượng sản phẩm trên mỗi công đoạn của chu trình sản xuất. *Về công nghệ Trong những năm gần đây đã có một số dây chuyền kéo sợi mới, sử dụng công nghệ bông chải liên hợp tự động cao, các máy ghép tự động khống chế chất lượng, ứng dụng các kỹ thuật vi mạch điện tử vào hệ thống điều khiển tự động và kiểm tra chất lượng sợi; trong khâu dệt vải bông, nhờ sử dụng các thiết bị xe, hấp, giảm trọng lượng... nhiều sản phẩm giả tơ, giả len, sản phẩm từ microfiber là bắt đầu được sản xuất và tạo được uy tín trên thị trường; trong khâu dệt kim, do phần lớn máy móc được nhập khẩu chủ yếu từ Nhật Bản, Đài Loan, Đức... thuộc thế hệ mới, nhiều chủng loại đã được trang bị computer đạt năng suất chất lượng cao, tính năng sử dụng rộng, song công nghệ và đào tạo chưa được nâng cao tương xứng nên mặt hàng còn đơn điệu, chưa đáp ứng được yêu cầu của thị trường. Trong lĩnh vực may, công nghệ cũng đã có những chuyển biến khá kịp thời. Các dây chuyền may được bố trí vừa và nhỏ (25 - 26 máy), sử dụng 34 -38 lao động cơ động nhanh và có nhân viên kiểm tra thường xuyên, có khả năng chấn chỉnh sai sót ngay cũng như thay đổi mã hàng nhanh. Khâu hoàn tất được trang bị các thiết bị là hết diện tích, đóng túi, súng bắn nhãn, máy dò kim... Công nghệ tin học cũng đã được đưa vào một số khâu thiết kế ở một số công ty lớn. 1.1.1.2 Đối với các cơ sở sản xuất có vốn đầu tư nước ngoài Kể từ khi chuyển mình theo cơ chế thị trường, có sự quản lý và điều tiết vĩ mô của Đảng, Nhà nước, đặc biệt khi Mỹ chính thức tháo bỏ cấm vận đối với Việt Nam vào năm 1995, hoạt động đầu tư của nước ngoài ngày càng trở nên quan trọng và dần dần được gia tăng. Lĩnh vực sản xuất hàng dệt, may mặc là một lợi thế vốn có của Việt Nam cho nên đã có không ít quốc gia mạnh dạn đầu tư vào thị trường còn bỏ ngỏ này. Đối với ngành dệt, tổng số vốn nhận được từ đầu tư nước ngoài đã lên đến hơn 2 tỷ USD, chủ yếu từ các quốc gia như Hàn Quốc, Đài Loan và Malaixia. Những nước đầu tư vào Việt Nam chủ yếu dưới hình thức 100% vốn nước ngoài, hình thức hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng kinh tế dần dần được thay thế bởi những phương thức linh hoạt hơn. Trong lĩnh vực sản xuất hàng may mặc, Việt Nam đã nhận được không ít những hỗ trợ cũng như vốn đầu tư từ các nước như Đài Loan, Hàn Quốc, Nhật Bản. Tổng vốn đầu tư nước ngoài trong vòng 15 năm trở lại đây đã tăng lên hơn 250 triệu USD. Hình thức đầu tư của nước ngoài vào Việt Nam chủ yếu là góp vốn liên doanh và đầu tư 100% vốn nước ngoài. Những doanh nghiệp, cơ sở có vốn đầu tư nước ngoài hoạt động trong lĩnh vực sản xuất hàng dệt, may mặc có nhiều lợi thế hơn rất nhiều so với các doanh nghiệp trong nước do bởi được trang bị những máy móc kỹ thuật hiện đại, được ứng dụng những thành tựu mới nhất của công nghệ. Chính những thay đổi, áp dụng công nghệ mới này đã tạo thuận lợi cho họ có thể nâng cao được năng lực sản xuất, đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng trong hoạt động xuất khẩu, phát triển đa dạng hoá mẫu mã của hàng hoá... 1.1.2 Thực trạng sản xuất của ngành dệt may 1.1.2.1 Sản xuất một số sản phẩm chủ yếu: Trong những năm qua, tình hình sản xuất của ngành dệt may, đặc biệt là ngành may công nghiệp phục vụ xuất khẩu đã có những tiến bộ đáng kể. So với năm 1991, sản lượng sợi dệt năm 1997 tăng 73,7% và sản lượng hàng may mặc tăng tới 101,1%. Tuy không tăng nhanh như sản xuất sợi và hàng may mặc, sản lượng vải lụa các loại cũng tăng lên 7,1% với sự đóng góp đáng kể của các xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Trong khi đó, có tiềm năng tiêu thụ nội địa cũng như xuất khẩu cao, sản xuất các sản phẩm dệt kim không mấy phát triển do không kịp đổi mới về thiết bị và công nghệ phù hợp với yêu cầu đa dạng hoá và nâng cao chất lượng sản phẩm. Bảng 3: Tình hình sản xuất một số sản phẩm chủ yếu của ngành dệt may Đơn vị 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1. Sợi dệt 1000 tấn 40 44 38 44,4 59,2 65,4 69,5 Trong nước Nt 40 44 38 44,4 51,3 57,2 61,4 Đầu tư nước ngoài Nt 7,9 8,2 8,1 2. Vải lụa Triệu mét 280 272 215 228 263 285 300 Trong nước Nt 280 272 215 228 222 215 225 Đầu tư nước ngoài Nt 41 70 75 3. Hàng may sẵn Triệu SP 106 104 81 138 171,9 207 213,2 Trong nước Nt 106 104 81 138 145,2 185,3 191 Đầu tư nước ngoài Nt 26,7 21,7 22,2 4.Quần áo dệt kim Triệu SP 29 18 31,4 29 30,2 25,3 25,5 Trong nước Nt 29 18 31,4 29 29,9 24,8 25,1 Đầu tư nước ngoài Nt 0,3 0,5 0,4 (Nguồn: Niên giám thống kê 1996, 1997 - Tổng cục thống kê) 1.1.2.2 Tình hình tăng trưởng giá trị sản xuất: Từ năm 1993, sau khi ngành dệt may chuyển hướng và mở rộng thị trường xuất khẩu, giá trị sản lượng của hàng dệt may tăng vọt so với những năm trước đó. Tuy nhiên, tốc độ tăng trưởng giá trị sản lượng ngành dệt may thấp đã làm cho giá trị tổng sản lượng ngành dệt may thấp hơn tốc độ tăng giá trị tổng sản lượng toàn ngành công nghiệp. Trong lĩnh vực dệt, các doanh nghiệp quốc doanh vẫn chiếm vị trí quan trọng với năng lực sản xuất tập trung trong khu vực này và tốc độ tăng trưởng giá trị tổng sản lượng khá ổn định. Còn trong lĩnh vực may, khu vực kinh tế ngoài quốc doanh tỏ ra ngày càng có ưu thế với tốc độ tăng trưởng giá trị tổng sản lượng cao hơn hẳn và chiếm tỷ trọng ngày càng lớn, điều này cho thấy một xu hướng trong ngành dệt may là phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ thuộc mọi thành phần kinh tế. Chính vì thế nhà nước có chủ trương nới lỏng quản lý, cho phép các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế tham gia hoạt động xuất khẩu, chủ trương này đã có tác dụng to lớn đến khả năng xuất khẩu của ngành dệt may. 1.1.2.3 Cơ cấu sản xuất Trong những năm gần đây, sản phẩm dệt may đã dần được đa dạng hoá. Trong khâu sản xuất sợi, tỷ trọng các mặt hàng polyeste pha bông với tỷ lệ 50/50, 65/35, 83/17, ... đã tăng nhanh do nhu cầu thị trường tăng nhanh, thị hiếu tiêu dùng của người dân đang chuộng mặt hàng này với các loại áo sơ mi. Các loại sợi 100% polyeste cũng bắt đầu được sản xuất; các loại sản phẩm cotton/visco, cotton/acrylic, wool/acrylic đã bắt đầu được đưa ra thị trường với tính năng mát, nhẹ rất phù hợp với khí hậu mùa hè ở Việt Nam, mặt hàng này được bán rất chạy vào mùa hè. Vải này cũng có nhiều tỷ lệ pha khác nhau. Trong khâu dệt vải, nhiều mặt hàng dệt thoi mới, chất lượng cao đã bắt đầu được sản xuất, đối với mặt hàng 100% sợi bông, các mặt hàng sợi đơn chải kỹ chỉ số cao phục vụ cho may xuất khẩu, mặt hàng sợi bông dày được tăng cường công nghệ làm bóng, phòng co cơ học... đã xuất khẩu được sang các nước EU, Nhật Bản; đối với một số mặt hàng sợi pha, các loại vải dày như gabadin, kaki, simili, hàng tissus pha len, pha cotton và petex... tuy sản lượng chưa cao nhưng đã bắt đầu được đưa vào sản xuất rộng rãi; đối với mặt hàng 100% sợi tổng hợp, nhờ được trang bị thêm các hệ thống xe săn sợi với độ săn cao, thiết bị comfit, thiết bị giảm trọng lượng đã tạo ra nhiều thiết bị hàng giả tơ tằm, giả len ... thích hợp với khí hậu nhiệt đới, bước đầu đã có được uy tín trên thị trường kể cả trong nước và quốc tế. Cơ cấu các sản phẩm may công nghiệp đã có những bước biến đổi đáng kể, từ chỗ chỉ may được những loại quần áo bảo hộ lao động, quần áo thường dùng ở nhà thì nay ngành may đã có những sản phẩm chất lượng cao, mẫu mã đẹp. Mẫu mã quần áo cũng luôn được thay đổi để có thể đáp ứng được nhu cầu thị trường như quần áo thể thao, quần jean, quần ống đứng... Tuy nhiên do công nghệ chuyên dụng còn lạc hậu, vẫn phải dùng những thao tác thủ công nên năng suất ngành dệt may còn khá thấp so với nhiều nước, tay nghề của lao động Việt Nam chưa cao, mẫu mã sản phẩm còn nhiều hạn chế. Thêm vào đó, hệ số sử dụng năng lực thiết bị trong ngành dệt may còn thấp chỉ đạt 40 - 60% năng lực thiết bị hiện có. Cuộc khủng hoảng tài chính ở Châu á đã ảnh hưởng rất lớn tới khả năng tiêu thụ hàng dệt may của Việt Nam, ví dụ như tốc độ tăng trưởng của ngành sợi dệt vào năm 1995 là 133,3% thì đến năm 1997 chỉ là 106,3%, ngành vải lụa năm 1995 là 115% đến năm 1997 chỉ còn 105,5%... chính khủng hoảng đã làm cho tốc độ tăng trưởng ngành dệt may của Việt Nam bị giảm sút. Bảng 4: Tốc độ tăng sản xuất của ngành dệt may (năm trước = 100%) (Đơn vị tính: %) Năm 1994 1995 1996 1997 1998 Sợi dệt 116,8 133,3 110,5 106,3 107,7 Vải lụa 106,0 115,3 108,4 105,3 111,7 Hàng may sẵn 170,4 124,6 120,4 102,9 103,2 Hàng dệt kim 92,3 104,1 93,8 100,8 117,2 (Nguồn: Bộ thương mại) 1.2 Tình hình xuất khẩu hàng dệt may từ năm 1991 đến nay Từ bảng 5 ta thấy, tốc độ tăng trưởng hàng dệt may của Việt Nam là khá cao từ năm 1991 đến 1996 với tốc độ tăng trung bình là 49,11%/ năm. Đó là một con số khá cao đối với một nước đang phát triển như Việt Nam. Xuất khẩu tăng 992 triệu USD trong vòng 5 năm đã mang lại nguồn thu lớn cho doanh nghiệp và Nhà nước. Khủng hoảng kinh tế Châu á năm 1997 - 1998 đã làm cho tốc độ tăng của hàng may mặc giảm sút rõ rệt (năm 1997 chỉ là 17,39%, năm 1998 là 0,074%) năm 1998, xuất khẩu hàng may mặc của ta gần như giậm chân tại chỗ. Tuy Việt Nam không chịu ảnh hưởng trực tiếp của cuộc khủng hoảng tiền tệ nhưng do các nước láng giềng chịu ảnh hưởng nặng nề của cuộc khủng hoảng cho nên chúng ta cũng gián tiếp chịu ảnh hưởng( như giá nguyên vật liệu tăng, thị trường bị thu hẹp...). Nhưng đến năm 1999, cuộc khủng hoảng tiền tệ kết thúc cũng chính là lúc ngành dệt may của Việt Nam tăng kim ngạch xuất khẩu lên đến 1747 triệu USD và đến năm 2002 là 2751 triệu USD. Nếu so sánh năm 1991 so với năm 2002 thì chúng ta đã tăng 2593 triệu USD. Bảng 5: Xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam 1991 - 2002 Năm Triệu USD Tốc độ tăng trưởng 1991 158 1992 221 39,87% 1993 335 51,58% 1994 554 65,37% 1995 850 53,43% 1996 1150 35,3% 1997 1350 17,39% 1998 1351 0,074% 1999 1747 29,31% 2000 1892 8,3% 2001 1975 4,38% 2002 2751 39,29% (Nguồn: Bộ Thương Mại) Sau khi hiệp định về hợp tác sản xuất và xuất khẩu hàng dệt may giữa chính phủ Việt Nam và Liên Xô cũ đã được ký kết ngày 19/5/1987, ngành may công nghiệp của Việt Nam đã có một bước ngoặt đáng kể theo hướng sản xuất hàng xuất khẩu, nhưng chủ yếu là xuất khẩu sang các nước CMEA. Vì vậy, trong những năm 1990 - 1991, do tác động của những thay đổi về chính trị xã hội ở các nước này, xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam đã bị suy giảm nghiêm trọng. Hình 1: Tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu qua các năm (Nguồn: Bộ Thương Mại) Tuy nhiên, ngành dệt may đã có những lỗ lực đáng kể để bước vào giai đoạn phát triển mới bắt đầu từ năm 1992, mở rộng thị trường xuất khẩu sang các nước trong khu vực và trên thế giới. Sau hiệp định buôn bán hàng dệt may giữa Việt Nam và EU được ký kết ngày 15/12/1992 và có hiệu lực từ 1/1/1993, xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam đã tăng trưởng nhanh chóng, đưa hàng dệt may chở thành nhóm hàng có kim ngạch xuất khẩu đứng thứ hai chỉ sau dầu thô. Với tốc độ tăng trưởng bình quân 43,5%/năm trong những năm 1991 - 1997 so với tốc độ tăng trưởng bình quân 27,5%/ năm của tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may chiếm tỷ trọng ngày càng lớn trong tổng kim ngạch xuất khẩu. Tuy nhiên với công nghệ lạc hậu, chủng loại hàng còn nghèo nàn, hàng dệt may Việt Nam chưa đủ sức cạnh tranh trên thị trường thế giới. Việt Nam mới chỉ xuất khẩu được một số loại vải thô, vải cotton, dệt kim... sang các thị trường như Nhật Bản, Canada và EU với kim ngạch không đáng kể. Sản phẩm dệt xuất khẩu của Việt Nam tỏ ra chưa có sự phát triển thích ứng với đòi hỏi về chất lượng, mẫu mã ngày càng cao của thị trường thế giới. Vì vậy hàng dệt may của ta chỉ có thể đáp ứng được các đối tượng trung lưu trở xuống nên lợi nhuận không được cao nhưng nó cũng đã thúc đẩy hoạt động xuất khẩu phát triển. Hàng dệt nội địa cung không đáp ứng được yêu cầu nguyên liệu cho may xuất khẩu, Việt Nam chủ yếu phải nhập vải may gia công cũng như may xuất khẩu. Chỉ tính riêng giá trị vải nhập để sản xuất gia công hàng may mặc đã lên tới trên dưới 50% kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may, chưa kể các loại phụ liệu may khác mà Việt Nam cũng phải nhập khẩu phần lớn từ các nước thuê gia công. Việc gia công cho nước ngoài không những chỉ có giá trị gia tăng thấp mà còn không ổn định. Các xí nghiệp gia công phụ thuộc hoàn toàn vào các đơn đặt hàng từ bên thuê gia công, giá gia công. Chính vì vậy cuộc khủng hoảng kinh tế khu vực vào năm 1997 đã ảnh hưởng nghiêm trọng tới hoạt động xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam bởi các lý do sau: Đồng nội tệ ở nhiều nước trong khu vực mất giá khiến Việt Nam mất lợi thế về giá nhân công (mà chi phí nhân công rẻ là một lợi thế của Việt Nam). Khách hàng thuê gia công đã chuyển hợp đồng sang các nước khác để được hưởng giá thấp hơn. Các doanh nghiệp Việt Nam phải giảm giá gia công cũng như giá xuất khẩu 20-30% để cạnh tranh nên hiệu quả thực tế giảm mạnh. 75-80% nguyên phụ liệu hàng may mặc cũng như nguyên liệu hàng dệt Việt Nam phải nhập khẩu. Những bất ổn của nền kinh tế đã làm nguồn cung cấp nguyên liệu từ các nước trong khu vực như Hồng Kông, Đài Loan... không ổn định. Trị giá nguyên phụ liệu lại cao hơn do sự biến động tỷ giá giữa đồng Việt Nam và đồng USD. Nhập khẩu từ các nước Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan... những thị trường xuất khẩu chính của Việt Nam giảm mạnh. Nhiều khách hàng Nhật đã cắt hợp đồng nhập khẩu của Việt Nam do tiêu thụ nội địa gặp khó khăn. Do vậy, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam năm 1998 chỉ đạt 1,35 tỷ USD so với kế hoạch 1,6 -1,7 tỷ USD đặt ra đầu năm và có thể còn tiếp tục gặp khó khăn. Nhưng đến năm 1999, cuộc khủng hoảng tiền tệ kết thúc cũng chính là lúc ngành dệt may của Việt Nam tăng kim ngạch xuất khẩu lên đến 1747 triệu USD và đến năm 2002 là 2751 triệu USD. Nếu so sánh năm 1991 so với năm 2002 thì chúng ta đã tăng 2593 triệu USD. Đây là những thành công của ngành dệt may Việt Nam cần được cổ vũ và khích lệ. II. Thực trạng xuất khẩu dệt may của Việt Nam Trong thời gian qua, hoạt động xuất khẩu đã có tác động tích cực tới sự phát triển chung của toàn xã hội, góp phần không nhỏ tạo nguồn ngoại tệ phục vụ tiến trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Không những thế, hoạt động xuất khẩu ngày càng tạo ra nhiều việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp cho xã hội, thực hiện tốt chính sách vĩ mô của Đảng và Nhà nước. Mặc dù tốc độ tăng trưởng tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam có nhiều biến động, song xét về giá trị tuyệt đối thì kim ngạch xuất khẩu của nước ta năm sau đều cao hơn năm trước. Điều này phản ánh những nỗ lực rất đáng trân trọng của các ban lãnh đạo, các cấp Uỷ Đảng trong việc hoạch định những chiến lược phát triển kinh tế, tạo đà cho hoạt động xuất khẩu của Việt Nam ngày càng thuận lợi, vươn xa ra thị trường quốc tế; những nỗ lực của các công ty hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực xuất khẩu; không những vậy, điều này còn khẳng định sản phẩm của Việt Nam ngày càng có thể phát huy ưu thế, tiếp cận được với thị trường nước ngoài, một thị trường rất giàu tiềm năng cần phát triển. Đóng góp không nhỏ trong những thành công đó phải kể đến hoạt động tích cực của ngành dệt may Việt Nam, một ngành công nghiệp lâu đời mà Việt Nam có rất nhiều lợi thế. 2.1 Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam qua 3 năm 2000, 2001, 2002. Hoạt động kinh doanh xuất khẩu hàng hoá là một nghiệp vụ kinh doanh chịu nhiều tác động của môi trường bên ngoài, đặc biệt là những thay đổi trong chính sách kinh tế, tiền tệ của các quốc gia tiêu thụ hàng hoá. Trong thời gian 3 năm qua, cùng với những biến động của hoạt động xuất khẩu hàng hoá nói chung, ngành dệt may Việt Nam cũng chịu nhiều ảnh hưởng đáng kể theo sát với những diễn biến của thị trường quốc tế. Kết quả hoạt động kinh doanh xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam thời kỳ qua được thể hiện trong bảng sau: Bảng 6: Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may Đơn vị: Triệu USD Chỉ tiêu 2000 2001 2002 Số tuyệt đối Tỷ trọng % +/- % Số tuyệ._.am trên thị trường thế giới nhưng hàng dệt kim của không phải là mặt hàng chính của ngành dệt may Việt Nam. Mặt hàng xuất khẩu chính của ngành dệt may Việt Nam là hàng dệt thoi, theo bảng trên ta thấy giá hàng dệt thoi của Việt Nam vào loại trung bình trong khu vực Châu á với 1185,2 Yên/sản phẩm rẻ hơn so với Thái Lan và Hàn Quốc nhưng lại đắt hơn đối thủ cạnh tranh chính của ta là Trung Quốc (867 Yên/sản phẩm) làm cho sức cạnh tranh của hàng dệt thoi của Việt Nam bị hạn chế. Vì vậy, các doanh nghiệp cần phải có biện pháp giảm tối đa chi phí nhưng chất lượng không đổi. Về cơ cấu sản phẩm: Sản phẩm dệt may Việt Nam còn đơn giản. Khả năng đa dạng hoá mặt hàng không theo kịp với sự thay đổi của yêu cầu thị trường, đặc biệt với trang phục cao cấp. Về thị trường: Việt Nam tham gia vào thị trường thế giới khi thị trường đã khá định hình, phải cạnh tranh với cùng loại sản phẩm xuất khẩu nhưng có trình độ phát triển cao hơn, có tên tuổi và uy tín trên thị trường, lại được ưu đãi hơn trong các Hiệp định song biên hay đa biên về hàng dệt may với các nước nhập khẩu. Về môi trường kinh doanh: Theo đánh giá của các nhà đầu tư nước ngoài, Việt Nam kém hấp dẫn hơn nhiều nước trong khu vực do các thủ tục quản lý hành chính trong đầu tư nước ngoài. Thời gian chờ cấp giấy phép đầu tư thường bị phụ thuộc vào nhiều cấp quản lý. Khó khăn trong việc chuyển đổi ngoại tệ để mua nguyên vật liệu từ nước thứ ba trong khi nguồn cung cấp trong nước hạn chế và chất lượng không bảo đảm. Ngoài ra, điều kiện cơ sở hạ tầng là một trong những yếu tố quan trọng để thu hút các nhà đầu tư nước ngoài. So với nhiều nước trong khu vực, cơ sở hạ tầng của Việt Nam kém cạnh tranh hơn về nhiều phương diện: dịch vụ tài chính, ngân hàng kém phát triển, điều kiện giao thông vận tải, kho tàng, bến bãi vừa thiếu vừa yếu, chi phí điện, nước, viễn thông cao (do độc quyền)... III. Những biện pháp đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt - may 3.1 Những biện pháp từ phía Nhà nước 3.1.1 Một số giải pháp về mở rộng thị trường. 3.1.1.1 Hỗ trợ các doanh nghiệp trong tìm hiểu thị trường, nâng cao hiệu quả hoạt động của các tổ chức xúc tiến thị trường. Marketing thị trường đặc biệt quan trọng đối với thị trường dệt may do đặc điểm của nhóm hàng này là yêu cầu cao về sự phù hợp với các tiêu chuẩn xã hội, truyền thống văn hoá, xu hướng thời trang... đã có nhiều doanh nghiệp quan tâm đến vấn đề này nhưng các hoạt động tìm hiểu thị trường thường vượt quá khả năng tài chính của các doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ như hầu hết các doanh nghiệp may. Hoạt động của các tổ chức xúc tiến thương mại như: tổ chức các đoàn đi khảo sát thị trường, tổ chức giới thiệu sản phẩm Việt Nam ở nước ngoài qua các hội chợ, triển lãm... cung cấp thông tin về thị trường cũng như các đặc điểm kinh tế xã hội, qui định, pháp luật, chính sách thương mại, chế độ ưu đãi thuế quan,... cho các doanh nghiệp là hết sức cần thiết. Trong các hoạt động này, các đại diện thương vụ tại các nước nhập khẩu đóng vai trò quan trọng. Việt Nam đã có thương vụ tại hầu hết các nước có quan hệ thương mại song phương. Các đại diện thương mại có thể nắm bắt nhanh nhạy các nhu cầu diễn biến thị trường để thông tin kịp thời cho các doanh nghiệp. Tuy nhiên, đại diện thương mại chung khó có thể bao quát các vấn đề của từng ngành. Vì vậy, để nâng cao hoạt động của thương vụ, có thể cử một đại diện của ngành tại thương vụ ở các thị trường xuất khẩu quan trọng nhất như: EU, Nhật Bản, và các thị trường có tiềm năng lớn như: Bắc Mỹ, Đông Âu, và các nước Liên Xô cũ.... - Tiếp cận kịp thời các biến động thị trường, các thay đổi về quy định, pháp luật, xu hướng thương mại, thuế quan ..., của các thị trường nhập khẩu, từ đó định hướng cho hoạt động xuất khẩu. - Thúc đẩy xuất khẩu mẫu mốt, các mẫu hàng sẽ phong phú và sát thực tế thị trường. - Giới thiệu nguyên liệu, phụ liệu: vải chất lượng cao do ta sản xuất được chưa nhiều nhưng cần thông tin, quảng cáo, tiếp cận và giới thiệu được với khách hàng. Các phụ liệu may Việt Nam đã đủ sản xuất gần đủ với chất lượng cao: chỉ may, tấm bông hoá học làm lót áo lạnh, cúc, khoá... cần được trưng bày tại phòng đại diện của ngành dệt may Việt Nam. - Tìm hiểu và tiếp cận các hệ thống phân phối sản phẩm dệt may của từng nước và giúp doanh nghiệp tiếp cận với các nhà nhập khẩu trực tiếp. - Với thị trường EU, Việt Nam sẽ có điều kiện sử dụng tốt hơn số hạn ngạch công nghiệp (30% tổng kim ngạch) bằng cách tiếp cận trực tiếp với khách hàng, tránh bị “khê” hạn ngạch công nghiệp vào cuối năm cũng như sử dụng tốt hơn số hạn ngạch được tính thêm khi thực hiện gia công thuần tuý (TPP) mà hiện chưa được sử dụng tốt. - Các đại diện thương mại, bên cạnh việc nghiên cứu thị trường nước ngoài, còn có nhiệm vụ giúp các doanh nghiệp trong nước tìm hiểu, tiếp cận các đối tác nước ngoài, nâng cao hiểu quả của việc tham gia triển lãm hội trợ. Khi đưa sản phẩm sang giới thiệu ở các hội chợ triển lãm, các doanh nghiệp cần có sẵn danh mục các đối tác đã được nghiên cứu, chọn lọc từ trước để giới thiệu sản phẩm, ký kết hợp đồng. 3.1.1.2 Một kinh nghiệm của các doanh nghiệp vừa và nhỏ của Trung Quốc hay Thái Lan là cử nhận viên tiếp thị mang sản phẩm mẫu đi chào hàng trực tiếp với các Công ty nhập khẩu hàng dệt may mặc. Để có bước đi này cần có sự chuẩn bị kỹ lưỡng, tìm hiểu kỹ hệ thống phân phối của các nước nhập khẩu thông qua các phòng thương mại, các đại diện thương mại và có một đội ngũ nhân viên tiếp thị giàu kinh nghiệm. Phương pháp tiếp thị thứ hai cũng được nhiều doanh nghiệp sử dụng là thuê nhân viên tiếp thị của các thị trường xuất khẩu dưới hình thức trả hoa hồng theo hợp đồng mà họ ký được. 3.1.1.3 Thành lập trung tâm thông tin ngành dệt may với các chức năng: Thu thập, phân tích và thông tin cho các doanh nghiệp thành viên về xu thế mới, kiểu dáng, chất liệu vải, thời trang, tư liệu kỹ thuật mới và dự báo tình hình thị trường thế giới, tổ chức dự thảo hội nghị định kỳ, xuất bản các ấn bản chuyên môn và các dịch vụ tư vấn khác. 3.1.1.4 Khẩn trương tiến hành các bước cần thiết để tham gia vào “Hệ thống thông tin ngành dệt may khu vực Châu á - Thái Bình Dương” theo thoả thuận tại hội nghị hàng dệt may của các nước trong khu vực tháng 10/1997 và tháng 4/1998. Theo thoả thuận này, hiện đã có 7 nước và khu vực là: Trung Quốc, ấn Độ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Philippin, Đài Loan và Mỹ đã tham gia vào hệ thống thông tin để hoà nhập vào mạng thông tin khu vực. Hệ thống này tạo khả năng truy cập nhanh, kịp thời, đầy đủ thông tin về tình hình sản xuất, buôn bán, tiêu thụ, đầu tư trong nước và nước ngoài của các nước trong khu vực, trong đó có các thị trường xuất khẩu tiềm năng của Việt Nam là Mỹ, Nhật Bản, Niuzilân... và các thị trường trung chuyển như Đài Loan, Hàn Quốc, Hồng Kông... và các thị trường cạnh tranh chủ yếu như Trung Quốc, Philipin, ấn Độ... sẽ rất hữu ích và tiết kiệm nhiều chi phí cho doanh nghiệp trong công tác tìm hiểu thị trường xuất khẩu. 3.1.1.5 Sau năm 2005, sản phẩm dệt may sẽ phải hoà nhập trở lại theo các nguyên tắc chung của WTO, một mặt tạo ra những thuận lợi mới cho các nước xuất khẩu, mặt khác đặt ra những thử thách lớn đối với các nước mà sức cạnh tranh của sản phẩm còn thấp. Vì vậy, chiến lược đầu tư đúng đắn, có hiệu quả, một là theo hướng đầu tư thêm thiết bị hiện đại để nâng cao chất lượng sản phẩm đủ sức cạnh tranh, hai là tăng cường đầu tư chiều sâu, chỉ giữ lại những sản phẩm truyền thống có khả năng hoà nhập là những hướng đầu tư cần quan tâm trong điều kiện vốn đầu tư hạn hẹp. Để tạo nguồn vốn và tăng hiệu quả vốn đầu tư. 3.1.1.6 Phát huy vai trò của Tổng công ty và Công ty Tài chính dệt Tăng cường vai trò của Tổng Công ty dệt may và Hiệp hội dệt may trong các hoạt động hỗ trợ tài chính, làm đầu mối xuất nhập khẩu cho các doanh nghiệp nhỏ và giải quyết các vấn đề mà từng doanh nghiệp riêng lẻ không giải quyết được: tìm kiếm, mở rộng thị trường, tổ chức triển lãm, hội trợ, giới thiệu sản phẩm trong và ngoài nước, giao dịch buôn bán chuyển giao công nghệ, mẫu mốt sản phẩm, nhãn hiệu hàng hoá, cung cấp thông tin thị trường... Công ty tài chính dệt may cần trở thành đầu mối thu hút vốn và cân đối nhu cầu vốn của các đơn vị dệt may. 3.1.1.7 Tạo nguồn vốn trong nước - Cổ phần hoá doanh nghiệp, trước hết là các doanh nghiệp may, là giải pháp cơ bản nhằm thu hút nguồn vốn đầu tư trong nước. Một giải pháp để tháo gỡ những vướng mắc hiện đang cản trở quá trình cổ phần hoá ngành dệt may là tiến hành ngay từ đầu các doanh nghiệp thành lập mới ở các địa phương theo hình thức hợp tác giữa Tổng công ty dệt may và địa phương. - Trong hoàn cảnh thị trường xuất khẩu hàng dệt may đang gặp khó khăn, đề nghị tạm thời đưa hàng dệt may vào danh mục các mặt hàng được hỗ trợ lãi suất vay vốn ngân hàng theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ số 178/1998/TTg ngày 19/9/1998 về hỗ trợ lãi xuất vay vốn ngân hàng đối với một số mặt hàng xuất khẩu, đặc biệt là các doanh nghiệp vay vốn đầu tư thiết bị sản xuất hàng xuất khẩu sang thị trường không hạn ngạch hoặc các “cat lạnh” sang các thị trường hạn ngạch, trước hết là các mặt hàng mà Việt Nam chưa tận dụng được như cat 75, cat 48, cat 50 hoặc những mặt hàng đã được bỏ hạn ngạch mà Việt Nam có khả năng cạnh tranh cao như cat 40, cat 72, cat 77, cat 91, cat 96, cat 130, cat 136... 3.1.1.8 Chính sách thu hút vốn đầu tư nước ngoài Đối với ngành dệt đòi hỏi có nguồn vốn đầu tư lớn, cần có những chính sách khuyến khích đầu tư nước ngoài dưới mọi hình thức - các xí nghiệp liên doanh, cổ phần hay 100% vốn nước ngoài. Với ngành may, hiện đang có hai quan điểm trái ngược. Thứ nhất, cho rằng hiện năng lực ngành may đã dư thừa trong khi thị trường tiêu thụ đang gặp khó khăn, bên cạnh đó, các doanh nghiệp may không cần vốn lớn, có thể thu hút từ vốn cổ phần trong nước. Vì vậy, nên hạn chế đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực này, giảm sức ép cạnh tranh của các doanh nghiệp may có vốn đầu tư nước ngoài có vốn và công nghệ cũng như khả năng tiếp cận thị trường lớn mạnh hơn so với các doanh nghiệp nội địa. Thứ hai, cho rằng thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực may vẫn cần thiết nếu như chúng ta muốn có một ngành công nghiệp may thực sự hướng tới xuất khẩu. Các sản phẩm may của các doanh nghiệp này, với các ưu thế công nghệ, nguyên liệu, mẫu mã sẽ “mở đường” cho sản phẩm may với nhãn hiệu hàng hoá của Việt Nam trên thị trường thế giới. Tuy nhiên, nên tập trung vào các mặt hàng mới, phức tạp, mà các doanh nghiệp hiện có chưa sản xuất được cũng như ưu tiên phân bổ hạn ngạch xuất khẩu sang EU cho các doanh nghiệp trong nước, khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài tìm thị trường phi hạn ngạch. Thu hút sự trợ giúp của các tổ chức phi chính phủ, các tổ chức môi trường trên thế giới cho “sản phẩm công nghiệp xanh và sạch”. Hiện các doanh nghiệp dệt đang rất khó khăn trong tìm nguồn vốn để thay đổi công nghệ dệt - nhuộm theo các quy định ISO 9000 và ISO 14000. Kinh nghiệm tranh thủ sự giúp đỡ của các tổ chức môi trường của các nước quan tâm nhiều đến vấn đề này như Hà Lan, Đức, Canada, Niuzilan... mà các nước xuất khẩu sản phẩm dệt trong khu vực như ấn Độ, Nêpan... đã áp dụng có thể là một kinh nghiệm cho Việt Nam trong giải quyết vấn đề này. 3.1.1.9 Về quy mô đầu tư Phát triển ngành may dưới hình thức các doanh nghiệp vừa và nhỏ như hiện nay là một xu hướng hợp lý. Chỉ các doanh nghiệp kéo sợi, dệt, nhuộm hoàn tất là nên tổ chức sản xuất theo quy mô lớn. Các nhà máy dệt có quy mô lớn, trang bị đồng bộ mới đủ khả năng cung cấp nguyên liệu cho những lô hàng lớn (nhu cầu thường tăng lên rất cao trong “vụ” sản xuất) đủ tiêu chuẩn kỹ thuật, tiêu chuẩn chất lượng cho may xuất khẩu. Các doanh nghiệp may xuất khẩu với quy mô 350 - 500 đơn vị thiết bị được đánh giá là có hiệu quả sản xuất cao. Các doanh nghiệp có quy mô dưới 350 đơn vị thiết bị thì khó đáp ứng yêu cầu của đơn đặt hàng lớn cũng như khó có khả năng chịu những chi phí về giao nhận, vận tải cũng như tiếp cận thị trường, cần có sự “ đỡ đầu” về kỹ thuật, thị trường hoặc bao tiêu sản phẩm. Trong khi các doanh nghiệp may có quy mô quá lớn thường không áp dụng được hết năng lực thiết bị. Đồng thời khó chuyển đổi công nghệ sản xuất các sản phẩm mới. 3.1.2 Hoàn thiện cơ chế quản lý xuất nhập khẩu 3.1.2.1. Cải tiến thủ tục xuất khẩu - Cần đơn giản hoá thủ tục nhập khẩu nguyên phụ liệu, nhập hàng mẫu, nhập bản vẽ để thực hiện các hợp đồng gia công xuất khẩu hiện vẫn còn rườm rà, mất nhiều thời gian, gây nhiều khó khăn cho doanh nghiệp đặc biệt là với các hợp đồng gia công xuất khẩu có thời hạn ngắn. - Đơn giản thủ tục hoàn thuế nhập khẩu và xây dựng mức thuế chi tiết cho các loại nguyên liệu nhập khẩu. Tình trạng một loại nguyên liệu nhưng có các thông số kỹ thuật khác nhau với định mức tiêu hao và chức năng khác nhau vẫn được áp dụng cùng một mức thuế đem lại nhiều thiệt hại cho doanh nghiệp. - Cải tiến thủ tục hoàn thuế cho các doanh nghiệp sản xuất hàng nguyên phụ liệu cho các doanh nghiệp khác may xuất khẩu. Đồng thời tính phần “ xuất khẩu tại chỗ” này vào tỷ lệ sản phẩm xuất khẩu qui định tại giấy phép đầu tư, giảm khó khăn của doang nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trong việc thực hiện quy định này, đặc biệt là những năm đầu tiên sản xuất chưa ổn định. - Cho phép doanh nghiệp xuất khẩu nộp thuế giá trị gia tăng đôí với nguyên liệu đầu tư vào sau khi xuất khẩu, thay vì phải nộp ngay sau khi hàng về. 3.1.2.2. Các cơ chế quản lý xuất nhập khẩu khác - Cải tiến cơ chế phân bổ hạn ngạch theo hướng khuyến khích doanh nghiệp tìm thị trường không hạn ngạch và khuyến khích sử dụng nguyên liệu trong nước: nâng tỷ lệ hạn ngạch phân bổ theo hình thức thưởng lên 30%, ưu tiên cấp đủ hạn ngạch cho các doanh nghiệp xuất khẩu sử dụng nguyên liệu sản xuất trong nước (tương ứng với phần nguyên liệu được sử dụng). - Sử dụng quỹ thưởng xuất khẩu để khuyến khích các doanh nghiệp tăng tỷ lệ sản phẩm xuất khẩu và tìm thị trường xuất khẩu mới. 3.1.3 Các giải pháp tài chính, tín dụng để thúc đẩy xuất khẩu Vốn là một yếu tố quan trọng và đang là vấn đề được các nhà sản xuất kinh doanh hết sức quan tâm. Đó cũng là nguyên nhân khiến các nhà sản xuất và xuất khẩu dệt may vẫn chủ yêú đi theo phương thức gia công, xuất khẩu trực tiếp chiếm tỷ trọng chưa lớn, chưa tương xứng với khả năng sản xuất của ngành. Bên cạnh sự nỗ lực, chủ động của ngành, Nhà nước cũng có các định hướng trong công tác tài chính, tín dụng nhằm hỗ trợ vốn cho các doanh nghiệp dệt may Việt Nam. 3.1.3.1 Chính sách tín dụng Phần lớn các doanh nghiệp dệt may Việt Nam đều có quy mô vừa và nhỏ, nên khả năng và hiệu quả xuất khẩu chưa cao. Để đẩy mạnh, mở rộng xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam cần có sự hỗ trợ của Nhà nước với các doanh nghiệp thông qua một số biện pháp sau: - Sử dụng hiệu quả quỹ hỗ trợ xuất khẩu để các doanh nghiệp được vay vốn với lãi suất thấp, giải quyết những khó khăn về vốn lưu động và vốn đầu tư đổi mới trang thiết bị. - Đảm bảo quan hệ tín dụng thực sự bình đẳng trên cơ sở pháp luật giữa các thành phần kinh tế. Đơn giản hoá thủ tục vay vốn và yêu cầu thế chấp tài sản của ngân hàng và các tổ chức tín dụng. - Mở rộng khả năng tiếp cận các nguồn vốn cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Thành lập quỹ bảo lãnh tín dụng. Mục đích của quỹ này là giúp đỡ các doanh nghiệp có khả năng phát triển, cần vay vốn nhưng không có đủ tài sản thế chấp. Quỹ bảo lãnh tín dụng được hình thành dưới hình thức một tổ chức tài chính của Nhà nước, hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận, cho phép các doanh nghiệp vừa và nhỏ sản xuất kinh doanh hiệu quả. - Thực hiện lãi suất ưu đãi với các doang nghiệp vừa và nhỏ có tham gia hoạt động xuất khẩu. - Mở rộng hình thức tín dụng thuê mua nhằm giúp các doanh nghiệp giải quyết các vấn đề khó khăn về vốn trung và dài hạn, phát triển mạnh hình thức thuê mua tài chính với các thiết bị dây chuyền sản xuất. - Thông qua ngân hàng, linh hoạt hạ mức lãi suất chiết khấu để đẩy mạnh xuất khẩu. Ngân hàng thực hiện chiết khấu các kỳ phiếu, hối phiếu chưa đến hạn thanh toán trong trường hợp doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu mà thiếu vốn. Hạ lãi suất triết khấu sẽ kéo theo giá hàng hoá hạ, khả năng cạnh tranh và khả năng mở rộng thị trường xuất khẩu do đó tăng lên. - Chính phủ nên bảo lãnh cho các doanh nghiệp Nhà nước được mua trả chậm, vay thương mại của các nhà cung cấp hoặc các tổ chức tài chính nước ngoài. Như vậy, mục tiêu cơ bản của chính sách tín dụng là giúp đỡ cho các doanh nghiệp dệt may Việt Nam có vốn cần thiết để đầu tư cho sản xuất, nâng cao chất lượng và đa dạng hoá sản phẩm, từ đó đạt được mục đích và đẩy mạnh xuất khẩu sang thị trường EU. 3.2 Những biện pháp từ phía doanh nghiệp: 3.2.1 Nâng cao hiệu quả gia công xuất khẩu, từng bước tạo tiền đề để chuyển sang xuất khẩu trực tiếp Cần khẳng định rằng, trong vài năm tới, Việt Nam vẫn gia công hàng may xuất khẩu là chủ yếu, một mặt xuất phát từ xu hướng chuyển dịch sản xuất tất yếu của ngành dệt may thế giới, mặt khác do ngành dệt may Việt Nam chưa đủ “Nội lực” để xuất khẩu trực tiếp. Trong điều kiện hiện nay, khi mà khâu tiếp thị, cung cấp nguyên liệu, thiết kế... và đặc biệt là phối hợp các “công đoạn” này để cho ra đời một sản phẩm có sức cạnh tranh của ngành dệt may Việt Nam còn yếu kém thì gia công vẫn là hình thức cần thiết và hiệu quả. Gia công là bước đi quan trọng để tạo lập uy tín của sản phẩm Việt Nam trên thị trường thế giới bằng những ưu thế riêng biệt như: giá rẻ, chất lượng tốt, giao hàng đúng hạn... Đồng thời, thông qua gia công xuất khẩu để học hỏi kinh nghiệm, tiếp thu công nghệ của các nước khác và tích luỹ đổi mới trang thiết bị, tạo cơ sở vật chất để chuyển dần sang xuất khẩu trực tiếp. Tuy nhiên, cuộc khủng hoảng tài chính khu vực năm 1997 đã làm giảm lợi thế tương đối của ngành dệt may Việt Nam về giá gia công rẻ và theo dự toán, lợi thế này chỉ được khôi phục sau năm 2000 - 2001. Vì vậy, để giữ được bạn hàng, thị trường... các doanh nghiệp dệt may cần có những biện pháp nâng cao chất lượng, giảm giá thành, tiết kiệm chi phí nhằm duy trì sức cạnh tranh của sản phẩm. 3.2.2 Nâng cao tính cạnh tranh của sản phẩm 3.2.2.1 Cải thiện chất lượng sản phẩm Ưu điểm của sản phẩm may xuất khẩu của Việt Nam là chất lượng cao và thời hạn giao hàng đúng. Trong điều kiện cạnh tranh ngày càng gay gắt, nhất là sau năm 2005, khi đó hạn ngạch và các hàng rào phi thuế quan khác được bãi bỏ, thị phần của mỗi nước xuất khẩu phụ thuộc phần lớn vào khả năng cạnh tranh của sản phẩm. Đối với hàng may mặc, các biện pháp cạnh tranh “Phi giá cả ”, trước hết là cạnh tranh về chất lượng hàng hoá, trong rất nhiều trường hợp, trở thành yếu tố quyết định trong cạnh tranh. Các thị trường xuất khẩu chính của Việt Nam - EU, Nhật Bản ...và triển vọng là thị trường Mỹ đều là những thị trường rất “khó tính”, đòi hỏi cao về chất lượng. Người tiêu dùng ở các thị trường này có khả năng thanh toán cao, nên yếu tố chất lượng và nhãn mác sản phẩm đuợc chú ý hơn là giá cả. Các biện pháp nâng cao chất lượng sản phẩm bao gồm: - Kiểm tra chặt chẽ chất lượng nguyên phụ liệu, tạo bạn hàng cung cấp nguyên phụ liệu ổn định, đúng thời hạn, bảo quản tốt nguyên phụ liệu, tránh xuống phẩm cấp. Khi bảo quản chú ý rằng nguyên liệu sợi vải là những hàng hút ẩm mạnh, dễ hư hỏng. - Tuân thủ nghiêm ngặt yêu cầu của bên đặt hàng về nguyên phụ liệu, công nghệ, quy trình sản xuất theo đúng mẫu hàng và tài liệu kỹ thuật bên đặt hàng, quy cách kỹ thuật, nhãn mác, đóng gói bao bì... - Tuân thủ đúng quy định kiểm tra chất lượng trước khi xuất khẩu. - Để đảm bảo chất lượng hàng xuất khẩu, giữ uy tín trên thị trường thế giới, một hệ thống kiểm tra chất lượng bắt buộc là một biện pháp cần thiết. Hệ thống quản lý chất lượng hàng xuất khẩu của Đài Loan là: phân các doanh nghiệp theo các nhóm phải kiểm tra đột xuất (nhóm A), kiểm tra định ký (Nhóm B) và kiểm tra bắt buộc (nhóm C), có sự điều chỉnh giữa các nhóm theo kết quả kiểm tra thực tế từng giai đoạn - có thể là một kinh nghiệm tốt để giải quyết vấn đề này. - Trong tương lai, các doanh nghiệp xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam cần phấn đấu xuất CIF, chủ động trong thuê tàu vận chuyển và bảo hiểm, tránh rủi ro, tổn thất và suy giảm chất lượng thàng phẩm. Đây là biện pháp để đảm bảo thời hạn giao hàng. 3.2.2.2 Đảm bảo yêu cầu về giao hàng: Giao hàng đúng hạn là yêu câù rất quan trọng với sản phẩm dệt may do yếu tố thời vụ và phù hợp thời trang là một trong những yếu tố quyết định về tính cạnh tranh của nhóm hàng này. Vì vậy cần: - Chủ động trong vận chuyển, bốc dỡ hàng hoá. - Ưu tiên cho công nghiệp dệt may xuất khẩu ở các khu vực thuận tiện cho giao hàng xuất khẩu. - Đơn giản hoá khâu làm thủ tục xuất nhập khẩu. Một trong những yếu tố cơ bản làm hàng dệt may Việt Nam được đánh giá cao trên thị trường Mỹ là uy tín về giao hàng đúng hạn. Thị trường Mỹ đòi hỏi rất khắt khe về điều khoản NAFTA, những nước có ưu thế về địa lý, điều kiện vận tải,giao hàng cũng như các ưu đãi về thủ tục nhập cảnh, giữ được ưu thế về giao hàng là nhiệm vụ khó khăn nhưng rất cần thiết. 3.2.3 Giải phát nhằm giảm giá thành sản phẩm Trong điều kiện hàng dệt may Việt Nam đang giảm ưu thế về giá nhân công, cần có các biện pháp hỗ trợ để tăng sức cạnh tranh về giá sản phẩm. Như kéo dài thời gian hoàn vốn đầu tư, khấu hao trang thiết bị lên 5-7 năm nhằm giảm giá thành sản phẩm. Do đặc thù của các doanh nghiệp dệt may phần lớn là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, tổ chức sản xuất có hiệu quả cao nhưng có thể gặp khó khăn trong tìm kiếm thị trường và giao dịch xuất khẩu. Giải pháp cho vấn đề này có thể là hình thức tổ chức sản xuất liên kết dọc theo kiểu vệ tinh: một công ty mẹ có nhiều công ty vệ tinh cùng sản xuất một loại sản phẩm. Công ty mẹ sẽ chịu trách nhiệm đặt hàng và cung ứng nguyên phụ liệu cho các công ty con, sau đó thu gom và xuất khẩu dưới nhãn hiệu của một công ty lớn, bảm bảo về thị trường tiêu thụ ổn định. Hình thức tổ chức này cũng có thể là giải pháp cho vướng mắc hiện nay của các doanh nghiệp nhỏ khi chế độ đấu thầu hạn ngạch được áp dụng. Công ty mẹ sẽ đứng ra đấu thầu và phân bổ hạn ngạch cho các vệ tinh của mình. Quan hệ mật thiết hơn giữa Công ty mẹ và các vệ tinh có thể là hình thức thay thế tốt hơn cho hình thức xuất khẩu uỷ thác hiện đang được áp dụng ở một số doanh nghiệp may xuất khẩu. Nó cũng cho phép gom những lô hàng lớn, thuận tiện hơn cho người nhập khẩu như hiện nay, đặc biệt là các nhà nhập khẩu Đức thường xuyên yêu cầu, đồng thời giảm được chi phí về thủ tục xuất khẩu. 3.2.4 Tăng dần tỷ trọng xuất FOB, tiến tới xuất CIF, giảm tỷ trọng gia công và xuất khẩu qua nước thứ ba: Xuất khẩu trực tiếp là biện pháp rất quan trọng để nâng cao hiệu quả xuất khẩu. Để nâng cao tỷ trọng xuất khẩu trực tiếp cần phải: 3.2.4.1 Đảm bảo cung cấp nguyên phụ liệu: - Sản phẩm ngành dệt may phải đáp ứng được yêu cầu của ngành may. Tạo lập mối quan hệ qua lại mật thiết giữa dệt và may. Thành lập bộ phận chuyên trách nắm nhu cầu của ngành may để đặt hàng cho ngành dệt để ngành dệt có hướng đầu tư và tổ chức sản xuất hợp lý. - Phát triển hệ thống công ty sản xuất phụ liệu may trong nước. Ngay từ đầu phải đầu tư cho công nghệ hiện đại, sản xuất ra các sản phẩm phù hợp với yêu cầu may xuất khẩu. - Có những chính sách khuyên khích sử dụng nguyên phụ liệu sản xuất trong nước. Quỹ thưởng xuất khẩu có 5% dành cho các doanh nghiệp sử dụng nguyên phụ liệu sản xuất trong nước là một biện pháp tốt cho vấn đề này. - Có chiến lược đồng bộ về phát triển vùng nguyên liệu cho công nghiệp dệt, chương trình phát triển cây bông, dâu, tằm tơ, tận dụng phế liệu dệt để sản xuất sợi không dệt, giảm giá thành, nâng cao hiệu quả sản xuất, tạo sức cạnh tranh về giá cả cho sản phẩm dệt. - Ngay từ bây giờ, phải chú ý đến vấn đề nhãn môi trường cho sản phẩm dệt. Thị trường EU hiện đã có quy định về cấm nhập sản phẩm dệt có thuốc nhuộm Ajo và sắp tới thị trường Nhật, Mỹ, Australia, Niuzilan... cũng sẽ áp dụng qui định này. Chỉ có các sản phẩm dệt theo tiêu chuẩn ISO 9000 và ISO14000 mới có thể xuất khẩu và làm nguyên phụ liệu cho may xuất khẩu. - Kết hợp phát triển xuất phụ liệu trong nước với việc tranh thủ đàm phán để giành quyền chủ động chọn nhà cung cấp phụ liệu cho sản phẩm may. Ước tính, phụ liệu chiếm 10 - 15%, có khi đến 25 - 35% giá thành sản phẩm may nên chủ động và hạ chi phí về phụ liệu có thể đem lại hiệu quả đáng kẻe trong việc giảm giá thành sản phẩm may. 3.2.4.2 Tạo lập tên tuổi và khẳng định uy tín trên thị trường quốc tế Để xuất khẩu trực tiếp, sản phẩm Việt Nam phải được kinh doanh bằng nhãn mác của mình trên thị trường quốc tế. Để làm được những việc trên ta cần: - Cần tập trung đầu tư cho công nghệ tiên tiến trong khâu thiết kế mẫu mã vải cũng như sản phẩm may. - Tổ chức tốt công tác tiếp thị và đăng ký nhãn hiệu hàng hoá. - Trước mắt, có kế hoạch hợp tác với các Viện mốt, hoặc thuê chuyên gia thiết kế mốt của nước ngoài để đẩy nhanh quá trình hoà nhập vào thị trường thế giới. - Khắc phục khó khăn về thiếu nguồn tài chính và nhân lực trong khâu thiết kế mẫu mã, phát triển sản phẩm mới thông qua việc trao đổi bản quyền giữa các Công ty và tranh thủ sự hỗ trợ của các nhà nhập khẩu cũng như đại diện của các mạng lưới phân phối tại nước nhập khẩu. - Khi chưa có tên tuổi trên thị trường thế giới thì cách tốt nhất để xâm nhập thị trường trong giai đoạn đầu là mua bằng sáng chế, nhãn hiệu của các Công ty nước ngoài đê làm ra các sản phẩm của họ với giá rẻ hơn, qua đó thâm nhập vào thị trường thế giới bằng sản phẩm “ sản xuất tại Việt Nam “, đồng thời học tập kinh nghiệm, tiếp thu công nghệ để tiến tới tự thiết kế mẫu mã. - Khai thác lợi thế của việc tham gia Chương trình hợp tác công nghiệp ASEAN (AICO) nhằm thu hút công nghệ cao của các nước ASEAN, hợp tác trong phát triển sản phẩm mới, đăng ký nhãn hiệu hàng hoá và khai thác lợi thế về thuế suất thuế quan ưu đãi bằng mức thuế suất CEPT của sản phẩm tại thời điểm năm 2006 theo quy định của AICO cũng như các ưu đãi phi thuế quan khác. Để đẩy nhanh tiến trình triển khai AICO, các tổ chức, cơ quan chức năng - Bộ Thương mại, Bộ Công nghiệp, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam... cần tổ chức tuyên truyền rộng rãi cho các doanh nghiệp về AICO cũng như các hoạt động hỗ trợ các doanh nghiệp dệt may như tìm đối tác ở các nước ASEAN khác hoặc khuyến khích tăng hàm lượng nội địa của sản phẩm, tăng tỷ lệ sản phẩm xuất khẩu... để đáp ứng các tiêu chuẩn tham gia AICO... 3.2.4.3 Tăng cường công tác đăng ký nhãn hiệu hàng hoá: ở nhiều nước trên thế giới, đăng ký nhãn hiệu hàng hoá của doanh nghiệp là điều kiện bắt buộc. Hiện nay, các doanh nghiệp dệt may của Việt Nam chủ yếu xuất khẩu qua các nước trung gian hoặc gia công cho các nước khác. Để xuất khẩu trực tiếp, sản phẩm dệt may Việt Nam cần khẳng định vị trí trên thị trường thế giới bằng nhãn hiệu của mình. Tuy nhiên đăng ký nhãn hiệu hàng hoá phải chịu chi phí bởi có khi lên tới vài nghìn USD. Vì vậy, để tiết kiệm chi phí, các doanh nghiệp có thể kết hợp với nhau để đăng ký một nhãn hiệu xuất khẩu chung cho từng loại sản phẩm. Kết luận t heo xu hướng phát triển chung của ngành dệt may toàn cầu, đầu tư vào sản xuất hàng dệt may đã và vẫn tiếp tục chuyển dịch sang các nước đang phát triển. Các nước đang phát triển nói chung và Việt Nam nói riêng đang trong giai đoạn đầu của công nghiệp hoá có lợi thế trong sản xuất hàng dệt may do giá thành nhân công rất rẻ. Trong tương lai, nếu biết khai thác hiệu quả lợi thế này, kết hợp với việc không ngừng đẩy mạnh cải tiến công nghệ, về mẫu mã sản phẩm Việt Nam sẽ trở thành một trong những trung tâm xuất khẩu hàng dệt may của thế giới. Tuy nhiên, để đạt được mục tiêu phát triển từ nay đến năm 2010, ngành dệt may còn phải đối mặt với không ít khó khăn thách thức, từ những vấn đề tồn tại trong sản xuất, trong việc thu hút và sử dụng hiệu quả vốn đầu tư, những tồn tại trong hoạt động xuất khẩu đến những biến động, những hạn chế của mội trường pháp lý, môi trường kinh doanh cũng như của thị trường thế giới. Các doanh nghiệp dệt may tuy đứng trước nhiều cơ hội thuận lợi nhưng cũng gặp không ít trở ngại. Ngoài những khó khăn chung của ngành còn có những hạn chế riêng của từng doanh nghiệp. Đó là khó khăn trong tổ chức sản xuất kinh doanh, trong việc nâng cao chất lượng sản phẩm, trong các hoạt động marketing hỗn hợp và không thể không kể đến những tồn tại trong thực hiện quy trình xuất khẩu. Để vượt qua tất cả khó khăn thách thức đó đòi hỏi rất nhiều nỗ lực nghiên cứu, phân tích để đề ra các giải pháp cũng như triển khai thực hiện một cách thật hiệu quả và kịp thời. Đây là nhiệm vụ chung của Chính phủ và các cơ quan hữu quan như các cơ quan hải quan, cơ quan thuế, Bộ Kế hoạch và đầu tư, Bộ Thương mại, Bộ Công nghiệp, các cơ quan nghiên cứu cũng như từng doanh nghiệp dệt may Việt Nam. Tài liệu tham khảo ---dựd--- B Báo cáo kim ngạnh xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam từ 1991 - 2002 - Bộ Thương mại. D PGS.TS. Tô Xuân Dân - Đàm phán và ký kết hợp đồng ngoại thương - Nhà xuât bản thống kê - Hà Nội - 1998. D Dệt may sẽ tăng tốc - (VnExpress.vn /VnExpress.vn - Det, may se tang toc.htm) H PGS.TS. Nguyễn Thị Hường (chủ biên) - Giáo trình kinh doanh quốc tế - Nhà xuất bản thống kê - Hà Nội - 2001. J GS. Jan Ramberg - Hướng dẫn sử dụng Incoterms 2000 của ICC - Nhà xuất bản VCCI & FTU - Hà Nội - 2000. K Kinh tế và dự báo số /2002 - Cạnh tranh quốc tế và bài toán phát triển. K Kinh nghiệm làm hàng dệt may xuất sang Mỹ - (Vnexpress.vn/VnExpress - Kinh nghiem lam hang det may xuat sang My.htm S SA 8000 là gì? - WWW.vpc.org.vn T PGS. Vũ Hữu Tửu - Kỹ thuật nghiệp vụ ngoại thương - Nhà xuất bản giáo dục - Hà Nội - 1998. T Thời báo kinh tế Việt Nam(số đặc biệt năm 2001) – Kinh tế 2000, 2001 Việt Nam và thế giới. T Thông tin kinh tế xã hội số 4 - Tình hình giá cả thị trường trong tháng 1/2003. T Tạp chí CLCSCN số 2/2003 – Chiến lược phát triển tăng tốc ngành dệt may Việt Nam trong xu thế mới. T Tạp chí CLCSCN số 1/2003 – Chiến lược phát triển ngành công nghiệp dệt may của Trung Quốc. T 80% hàng dệt may xuất sang EU là hàng gia công - VnExpress.vn - 80% hang det may xuat sang EU la hang gia cong.htm V TS. Nguyễn Cao Văn - Giáo trình marketing quốc tế - Nhà xuất bản giáo dục - Hà Nội - 1999. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docA0401.doc
Tài liệu liên quan