Đẩy mạnh xuất khẩu của Công ty cổ phần May 10 sang thị trường Mỹ

LỜI CAM ĐOAN Trong quá trình thực tập tại Công ty may 10, được khảo sát và nghiên cứu tại phòng kế hoạch của công ty cổ phần May 10 Trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn tình hình sản xuất, xuất khẩu hàng may mặc của công ty sang thị trường Hoa kỳ em đã hoàn thành chuyên đề này. Em xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của em, không sao chép ở bất kì luận văn, chuyên đề nào. Các số liệu, kết quả nêu trong chuyên đề là trung thực xuất phát từ tình hình thực tế của đơn vị thực tập. Tác giả chu

doc75 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1651 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Đẩy mạnh xuất khẩu của Công ty cổ phần May 10 sang thị trường Mỹ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
yên đề NGUYỄN QUANG HUY A MỤC LỤC DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU, SƠ ĐỒ Sơ đồ 1: Tổ chức bộ máy của Công ty May 10 29 Bảng số 2.1: Kết quả sản xuất - kinh doanh (1959 - 2008) 32 Bảng số 2.2: Cơ cấu vốn của công ty 34 Bảng số 2.3: Tổng hợp thiết bị 37 Bảng số 2.4: một số chỉ tiêu hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty 39 Bảng số 2.5: Số lượng các mặt hàng xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ 40 Bảng số 2.6: Doanh thu các sản phẩm của công ty trên thị trường Hoa Kỳ: 40 Bảng số 2.7: Tỷ trọng KNXK hàng may mặc của Công ty trên thị trường Hoa Kỳ 41 Bảng số 2.8: Thị Phần xuất khẩu hàng may mặc của Công Ty cổ phần May 10 trên thị trường Hoa Kỳ qua các năm 2004 - 2008: 42 Bảng số 3.1: Chỉ Tiêu Kế Hoạch Sản Xuất Kinh Doanh Của Công Ty Cổ Phần May 10 Năm 2009 52 Báng số 3.2: Đặc điểm nhu cầu may mặc đối với từng thị trường: 57 LỜI MỞ ĐẦU Ngày nay quốc tế hóa, toàn cầu hoá đang là xu thế chung của nhân loại, không một Quốc gia nào có thể thực hiện một chính sách đóng cửa mà vẫn có thể phồn vinh được. Trong bối cảnh đó hoạt động xuất nhập khẩu là một hoạt động đóng vai trò mũi nhọn thúc đẩy nền kinh tế trong nước hội nhập với nền kinh tế thế giới, phát huy những lợi thế so sánh của đất nước, tận dụng tiềm năng về vốn, khoa học kỹ thuật, công nghệ, kỹ năng quản lý tiên tiến,.…từ bên ngoài, duy trì và phát triển văn hoá dân tộc, tiếp thu những tinh hoa của nhân loại. Từ những năm 1980, Việt Nam bắt đầu bước vào công cuộc đổi mới nền kinh tế theo định hướng của Đáng và Nhà nước. Công cuộc đổi mới và chính sách mở cửa đã khiến nền kinh tế có những bước chuyển mình lớn sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo hướng đa phương hoá, đa dạng hoá, mở rộng các lĩnh vực kinh doanh và các thành phần kinh tế để hội nhập với nền kinh tế khu vực và thế giới. Các luồng đầu tư nước ngoài chảy vào Việt Nam rất mạnh kết hợp với nguồn lực tiềm năng trong nước đã thúc đẩy sự tăng trưởng của nền kinh tế. Ở tất cả các thành phần kinh tế chúng ta đều có thể tìm được những mô hình sản xuất kinh doanh năng động có hiệu quả cao. Đặc biệt là ngay trong thành phần kinh tế nhà nước vốn gắn bó lâu năm với cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp thì nay cũng đã có nhiều biến đổi mạnh mẽ thích nghi và trụ vững trong cơ chế hoạt động của nền kinh tế thị trường. Chiến lược phát triển kinh tế của Đảng và Nhà nước ta đã lựa chọn là hướng mạnh về xuất khẩu, từng bước thay thế nhập khẩu. Với chiến lược đó các Doanh nghiệp đã có nhiều cơ hội để tăng trưởng và phat triển mạnh mẽ. Công ty cổ phần May 10 - với chức năng chính là sản xuất và kinh doanh xuất nhập khẩu hàng may mặc đã có cố gắng nắm bắt những cơ hội và vượt qua những khó khăn mà xu thế chung của nền kinh tế mang lại để phát triển và vươn lên. Công ty đã đạt được những thành tựu đáng kể góp phần đưa May 10 trở thành một trong những công ty may hàng đầu của Việt Nam và khu vực. Trong quá trình thực tập tại Công ty may 10, được khảo sát và nghiên cứu tại phòng kế hoạch của công ty cổ phần May 10 Trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn tình hình sản xuất, xuất khẩu hàng may mặc của công ty sang thị trường Hoa kỳ, thực trạng của thị trường Hoa kỳ và yêu cầu bức thiết cần đẩy nhanh tốc độ và kim nghạch xuất khẩu may mặc sang thị trường Hoa kỳ. Vì vậy, em đã lựa chọn đề tài “Đẩy mạnh xuất khẩu của Công Ty cổ phần May 10 sang thị trường Hoa kỳ”. Từ đó đề ra một số giải pháp nhằm đẩy mạnh xuất khẩu sang thị trường Hoa kỳ trong thời gian tới. Do còn nhiều hạn chế về kiến thức và thời gian cũng như nguồn tài liệu nên chuyên đề chắc hẳn còn nhiều thiếu sót. Em rất mong nhận được sự đóng ý kiến để em có thể hoàn thiện đề tài tốt hơn. Em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ tận tình của PGS.TS Phạm Văn Vận và các cô, chú, anh, chị trong ban lãnh đạo Công ty, các phòng ban đã hướng dẫn chỉ bảo, góp ý, giúp đỡ và tạo điều kiện thuận lợi để em hoàn thành tốt đề tài này./. CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ NỀN KINH TẾ HOA KỲ VÀ THỊ TRƯỜNG MAY MẶC HOA KỲ 1.1 Tổng quan về nền kinh tế Hoa Kỳ 1.1.1 Vài nét về Hoa kỳ: * Vị trí địa lý: Hoa Kỳ là một quốc gia ở Tây Bán cầu. Hoa Kỳ gồm 48 bang tiếp giáp nhau trên lục địa Bắc Mỹ; Alaska, một bán đảo tạo thành phần cực tây bắc của Bắc Mỹ và đảo Hawaii, một quần đảo ở Thái Bình Dương. Quốc gia này cũng có nhiều lãnh thổ thuộc Mỹ ở Thái Bình Dương và vùng Caribbean. Hoa Kỳ có chung biên giới với Canada và Mexico và một vùng nước giáp với Nga. * Diện tích: Theo tổng diện tích bao gồm cả diện tích mặt nước, Hoa Kỳ hơi lớn hơn hoặc nhỏ hơn Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, khiến Hoa Kỳ là quốc gia có diện tích lớn thứ ba thế giới. Tuy nhiên vị trí này còn tùy thuộc vào việc hai vùng lãnh thổ do Ấn Độ tuyên bố chủ quyền nhưng do Trung Quốc quản lý và được tính vào diện tích của Trung Quốc. Cả Trung Quốc và Hoa Kỳ đều xếp sau Canada và Nga về tổng diện tích. Tính theo diện tích đất, Hoa Kỳ là quốc gia lớn thứ ba thế giới, sau Nga và Trung Quốc. Tính theo tổng diện tích, Hoa Kỳ: 3/10 kích thước châu Phi 1/2 kích thước Nam Mỹ 1/2 kích thước của Nga Gần như bằng Trung Quốc Hơi nhỉnh hơn Brazil Hơi hơn 1 và ¼ kích thước Australia 2 và ½ kích thước của Tây Âu Xấp xỉ hơn 14 lần kích thước Pháp Xấp xỉ 39 lần kích thước Anh quốc Dân số: Trên 300 triệu dân. Hoa Kỳ là một trong những quốc gia đa dạng chủng tộc nhất trên thế giới, do kết quả của những cuộc di dân đến từ nhiều quốc gia khác trên thế giới. * Ngôn ngữ: Hoa Kỳ không có một ngôn ngữ chính thức, nhưng tiếng Anh được khoảng 82% dân số nói như tiếng mẹ đẻ. Tiếng Tây Ban Nha là ngôn ngữ thông dụng thứ nhì tại Hoa Kỳ, được khoảng 30 triệu người nói (hay 12% dân số). * Đơn vị tiền tệ: Dollar Hoa Kỳ (USD) * Nhà lãnh đạo kinh tế: Tổng thống Obama 1.1.2 Nền kinh tế Hoa kỳ: Gần đây đã có nhiều ưu tư về kinh tế Hoa kỳ và nhiều người cho là kinh tế Hoa kỳ xuống dốc. Ở đầu năm 2009, ta nêu đánh giá sức mạnh và thế yếu của kinh tế Hoa Kỳ và so sánh với nhiều các kinh tế khác trên toàn cầu. * Chỗ đứng của kinh tế Hoa Kỳ trên thế giới GDP: Hạng 1 trên thế giới. GDP theo đầu người: Hạng 16. Chi tiêu y tế theo đầu người: Hạng 1. Sản xuất năng lượng theo đầu người: Hạng 6. Chi tiêu về nghiên cứu và phát triển (R&D) theo đầu người: Hạng 1. Tỷ lệ tăng gia dân số so với các nước phát triển G8 : Hạng 1. Tỷ lệ học đại học: Hạng 7. Trong 2008: Nếu dựa trên các con số thì GDP của Hoa Kỳ khoảng 14,000 tỷ USD nghĩa là gấp ba lần GDP kinh tế Nhật đứng thứ hai trên thế giới và gấp 4 lần GDP của Trung Quốc và của Ðức được ước lượng khoảng 3,500 tỷ USD. Nhìn chung thì GDP Hoa Kỳ không những đứng số 1 về phương diện tổng quát nhưng cũng đứng số 1 về công nghiệp và dịch vụ. Năm 2005, trị giá về công nghiệp là 1,700 tỷ USD trong khi đó sản xuất công nghiệp của Nhật trị giá 950 tỷ USD trong khi đó Trung Quốc ở mức 750 tỷ USD. Trong thời kỳ kinh tế suy giảm, trị giá công nghiệp sẽ sút nhưng các nước khác cùng tình trạng. Mặc dù GDP/đầu người thì Hoa Kỳ đứng thứ 16 nhưng nếu nhìn sâu hơn và kỹ càng hơn thì Hoa Kỳ còn giữ hàng đầu. Về nhà đất trung bình nhà của Mỹ rộng hơn gấp hai nhà tại Âu Châu như tại Ðức, Pháp, Anh trong khi trung bình nhà tại Hoa Kỳ còn rộng hơn Âu Châu nhiều. Về mức sống và đắt đỏ thì Hoa Kỳ còn nằm trong các nước hàng đầu. Một gia đình tại Mỹ chỉ xài 5.7% về ăn uống trong khi đó các nước Âu Châu hay Canada phải xài 9 đến 14% về ăn uống và một gia đình Nhật phải xài đến 15% lợi tức để trang trải phần ăn uống. Hoa Kỳ có hệ thống hạ tầng cơ sở rất tốt: xa lộ, đường, đường rầy xe lửa, cầu, hệ thống cảng, điện, nước, v.v. Hạ tầng cơ sở của Hoa Kỳ đường sắp vào hạng thứ 9 trên thế giới sau hệ thống hạ tầng của Ðức, Pháp, và 4 nước Âu Châu khác và Singapore và Hong Kong. * Dự đoán kinh tế Hoa Kỳ năm 2009 như sau: GDP: Xuống còn 1-1.8%. Lãi suất: Xuống còn khoảng 3-3.5%. Lạm phát: Xuống. Tỷ lệ thất nghiệp: Lên 7-9%. Dầu khí: Xuống khoảng 45-70 USD/thùng. Tỷ lệ bán lẻ: Xuống. Thâm hụt cán cân thương mại: Xuống còn 400-500 USD tỷ hay 3% GDP. Kinh tế Mỹ tiếp tục mất đi hàng trăm ngàn việc làm, nâng tỷ lệ thất nghiệp lên mức cao nhất từ năm 1983. Theo số liệu do Bộ Lao Động Mỹ công bố trong tháng ba vừa qua, đã có thêm 663 ngàn việc làm bị cắt giảm, nâng tỷ lệ thất nghiệp lên 8,5%. Như vậy là từ khi tình trạng suy thoái kinh tế bắt đầu tháng 12 năm 2007, Hoa Kỳ đã mất 5,1 triệu chỗ làm, trong số này có  3,3 triệu đã bị dẹp bỏ chỉ trong vòng năm tháng gần đây nhất. Ngành công nghiệp, vốn bị khó khăn từ hơn hai năm qua, đã mất thêm 305 000 chỗ làm trong tháng ba, trong khi đó lĩnh vực dịch vụ, nơi làm việc của khoảng 85 % người lao động ngoài nông nghiệp ở Hoa Kỳ đã dẹp thêm 358 000 chỗ làm trong tháng ba. Lĩnh vực duy nhất tạo việc làm là ngành giáo dục và dịch vụ y tế với 8000 chỗ làm. Tình hình đen tối trong lĩnh vực công ăn việc làm phần nào làm giảm nhẹ cảm tưởng lạc quan gần đây là cuộc khủng hoảng ở Hoa Kỳ đã xuống đến tận cùng và không thể trở nên trầm trọng hơn. Nhất là tháng hai vừa qua các đơn đặt hàng trong ngành công nghiệp đã bất ngờ tăng lên lần đầu tiên từ sáu tháng qua. Cùng lúc có những dấu hiệu cho thấy là niềm tin của người tiều dùng bắt đầu được hồi phục. Tuy nhiên trong mấy dự báo sau cùng công bố hồi tháng hai, Ngân hàng Trung ương Mỹ đã dự đoán là tỷ lệ thất nghiệp sẽ là từ 8,5 % đến 8,8 % trong năm 2009. Nhưng với nhịp độ phát triển hiện nay của thất nghiệp, nhiều nhà phân tích cho rằng tỷ lệ thất nghiệp sẽ là hai số trong năm 2010 và chắc chắn sẽ là trên 9 % trong năm nay. 1.2 Thị trường hàng may mặc Hoa kỳ Xuất khẩu hàng may mặc dệt kim của nhiều nước ASEAN như Việt Nam, Thái Lan, Campuchia, Inđônêxia, Philippin và Lào tăng lên, trong khi xuất khẩu của Brunei và Singapore giảm đi. Hiện Việt Nam là nước đứng thứ 7 về xuất khẩu hàng may mặc dệt kim vào thị trường Hoa Kỳ. Sau khi hạn ngạch hàng dệt may được bãi bỏ, nhập khẩu từ các nước xuất khẩu hàng dệt may có chi phí thấp như Trung Quốc và Ấn Độ tăng mạnh. Bên cạnh hàng nhập khẩu từ Trung Quốc, hàng may mặc dệt kim nhập khẩu từ Ấn Độ cũng tăng 37,91%, lên 937 triệu USD. Năm 2005, nhập khẩu hàng may mặc dệt thoi vào thị trường Hoa Kỳ đạt 37,514 tỉ USD, tăng 6,3% so với năm 2004. Trung Quốc cũng là nước đứng đầu về xuất khẩu hàng may mặc dệt thoi vào thị trường Hoa Kỳ với kim ngạch xuất khẩu đạt 10,231 tỉ USD, tăng 54,57% so với năm 2004, chiếm 27,27% tổng kim ngạch nhập khẩu hàng may mặc dệt thoi của Hoa Kỳ. Tiếp theo là Mêhicô và Ấn Độ với kim ngạch xuất khẩu tương ứng đạt 3,841 tỉ USD và 2,121 tỉ USD. Trong khi xuất khẩu của Mêhicô giảm 7,13%, thì xuất khẩu của Ấn Độ lại tăng tới 32,75% so với năm 2004. Do xuất khẩu của Trung Quốc sang Hoa Kỳ tăng quá nhanh, ngày 8/11/2005, Hoa Kỳ và Trung Quốc đã ký hiệp định hạn chế xuất khẩu 34 mặt hàng dệt may của Trung Quốc sang Hoa Kỳ trong thời hạn 3 năm. Hiệp định này có hiệu lực từ 1/1/2006, quy định hạn ngạch đối với một số mặt hàng dệt-may của Trung Quốc xuất khẩu sang Hoa Kỳ trong 3 năm từ năm 2006 đến năm 2008. Trong số các mặt hàng may mặc có sơ mi cotton dệt kim, tất, sơ mi nam và bé trai dệt thoi, áo dệt kim, quần cotton, áo bơi, bộ complê len, sơ mi dệt kim từ sợi nhân tạo, quần từ sợi nhân tạo và quần từ tơ tằm/sợi thực vật. Hiệp định này đã đáp ứng các yêu cầu từ phía các nhà sản xuất hàng dệt-may Hoa Kỳ, nhưng cũng gặp không ít ý kiến phản đối từ phía Hiệp hội Nhập khẩu hàng dệt-may cũng như Hiệp hội các nhà bán lẻ Hoa Kỳ, do những biện pháp hạn chế nhập khẩu từ Trung Quốc, sẽ làm tăng giá sản phẩm dệt-may trên thị trường Hoa Kỳ, khi các nhà nhập khẩu buộc phải tìm kiếm các nhà xuất khẩu có mức giá cao hơn từ các nước xuất khẩu châu Á và Trung Mỹ. Dung lượng thị trường Doanh thu bán lẻ hàng may mặc trên thị trường Hoa tăng khoảng 2,1%/năm trong giai đoạn 2004 – 2008, lên 121,2 tỉ USD. Mặc dù mức tăng tiêu thụ ít nhiều bị ảnh hưởng của xu hướng suy giảm thu nhập, nhưng giá sản phẩm dệt-may cũng có xu hướng giảm do nhiều nhà sản xuất Hoa Kỳ đã chuyển cơ sở sản xuất ra nước ngoài, để giảm chi phí cũng như do tỉ trọng hàng may mặc giá rẻ nhập khẩu từ các nước có chi phí sản xuất thấp gia tăng. Các sản phẩm mang nhãn mác riêng của nhà sản xuất cũng như của các tập đoàn bán lẻ nổi tiếng vẫn là lựa chọn ưu tiên của người tiêu dùng Mỹ. Kênh phân phối Kênh bán lẻ hàng may mặc lớn nhất trên thị trường Hoa Kỳ là các chuỗi cửa hàng bán lẻ. Các chuỗi cửa hàng chuyên doanh như “Gap” đã tăng doanh thu nhờ chiến lược tập trung vào các mặt hàng thời trang thông dụng cho các đối tượng tiêu dùng từ 20 – 30 tuổi. Nhiều nhà bán lẻ cũng áp dụng chiến lược tập trung cho một số nhóm đối tượng tiêu dùng riêng biệt như hàng thời trang “cấp tiến” hay các đối tượng tiêu dùng trẻ. Hiện chi tiêu cho hàng may mặc của nhóm trẻ vị thành niên chiếm tới 20% tổng mức chi tiêu cho hàng may mặc của Hoa Kỳ. Thị trường bán lẻ hàng may mặc của Hoa Kỳ có xu hướng “phân mảng” khá rõ nét. 5 nhà bán lẻ lớn nhất chiếm tới 28,1% tổng dung lượng thị trường, trong đó Gap chiếm 12,1%; TJX (Marshall’s, TJ Max, A.J.Wright) chiếm 7,4%; Limited Brands (Limited, Express, Victoria’s Secret) chiếm 4,2%; Burlington chiếm 2,7% và Charming Shoppes (Lane Bryant, Fashion Bug, Catherine’s), chiếm 2%. Bên cạnh các kênh phân phối truyền thống, bán hàng qua mạng Internet đang có xu hướng tăng nhanh trong những năm gần đây. Năm 2008, khoảng 10% hàng may mặc sẽ được tiêu thụ qua mạng. 1.2.1 Tiềm năng của thị trường Hoa Kỳ Hoa Kỳ đã cung cấp một thông tin thú vị, đó là các nhà nhập khẩu Hoa Kỳ đánh giá rất tốt về sản phẩm Việt Nam và sẵn sàng mua hàng Việt Nam. Các nhà nhập khẩu Hoa Kỳ luôn muốn tìm kiếm các nguồn cung cấp mới và hơn lúc nào hết, khi đã trở thành thành viên của WTO, các nhà xuất khẩu Việt Nam cần chủ động tìm đến các nhà nhập khẩu Hoa Kỳ để tìm cơ hội. Các nhóm hàng được các nhà nhập khẩu Hoa Kỳ quan tâm và kỳ vọng ở các nhà xuất khẩu Việt Nam là đồ gỗ gia dụng, giày da, thực phẩm, hàng may mặc, hàng thủ công mỹ nghệ và quà tặng lưu niệm. Ngoài ra, hàng dệt gia đình (các loại màn cửa, bao gối, chăn, ga…) cũng có thể xuất khẩu và tiêu thụ tốt tại Hoa Kỳ. Hàng thủ công của các dân tộc thiểu số, có tính chất đặc biệt… cũng có thể là một mặt hàng xuất khẩu thế mạnh, nếu các nhà xuất khẩu Việt Nam nắm bắt tốt thị hiếu. Hoa Kỳ là một thị trường hỗn hợp, đa dạng nhu cầu về chủng loại, chất lượng và giá cả hàng hóa. Vì thế các nhà xuất khẩu chỉ cần nắm bắt được nhu cầu và phân khúc thị trường là không sợ thất bại. Là một quốc gia công nghiệp, người Mỹ thích sự sẵn sàng, thuận tiện, nhanh chóng. Chẳng hạn, với mặt hàng quà tặng, người Mỹ chuộng những sản phẩm có sẵn bao bì đóng gói, đến mua là có ngay, chứ không cần phải mất thời gian chờ đợi và đó là điều các nhà xuất khẩu cần phải nắm bắt. Khi hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ đã có hiệu lực, Việt Nam được hưởng ưu đãi MFN đối với hàng nhập khẩu vào thị trường Hoa Kỳ. như vậy triển vọng tăng mạnh khối lượng xuất khẩu hàng hoá sẽ rất lớn. Điều đó ngành may mặc sẽ có điều kiện thu được ngoại tệ lớn, góp phần không nhỏ trong việc phục vụ các mục tiêu tăng trưởng kinh tế của đất nước. Xuất khẩu hàng dệt may những tháng đầu năm xuất khẩu vào thị trường Hoa Kỳ dù sụt giảm chút ít so với một số thị trường khác, song đây vẫn tiếp tục là số 1 của hàng dệt may Việt Nam với kim ngạch chiếm 57% tổng giá trị xuất khẩu mặt hàng này. Tiếp theo Hoa Kỳ là các thị trường EU chiếm 18%, Nhật Bản với 9%. Sự đánh giá cao từ các khách hàng nhập khẩu dành cho chất lượng sản phẩm và việc bảo đảm thời gian giao hàng của các nhà xuất khẩu Việt Nam đã đẩy lượng đơn đặt hàng tăng nhiều trong năm nay. Trong đó, lượng đơn hàng giá trị cao cũng tăng, doanh nghiệp sản xuất giảm bớt một phần khó khăn do nhiều doanh nghiệp đặt hàng tăng giá gia công và giá xuất khẩu khoảng 10-15%. Theo Tổng cục Thống kê, 8 tháng đầu năm 2008, hàng dệt may đạt kim ngạch xuất khẩu đạt trên 6,04 tỷ USD, tăng 20% so với cùng kỳ năm ngoái. Dệt may vẫn duy trì ngôi vị thứ hai trong số các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam, sau dầu thô. Các Nhà Nhập Khẩu Hoa Kỳ Hạn Chế Mua Hàng Trung Quốc: Đây là một tiềm năng rất lớn cho xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam vào thị trường này. Xuất khẩu hàng may mặc Trung Quốc sang Hoa Kỳ giảm sút nghiêm trọng trong năm 2008 do chi phí sản xuất cao hơn, đồng NDT tăng giá nhanh và cạnh tranh tăng lên từ Việt nam trong khi quota đối với phần lớn các cat nhậy cảm vẫn được duy trì cho tới cuối năm. Nhập khẩu hàng may mặc của Hoa Kỳ từ Trung Quốc đã giảm 15% trong tháng 12/07, có thể cho thấy khả năng chuyển các đơn hàng sang các nước khác trong thời gian tới. Và Việt Nam chúng ta sẽ co cơ hội rất lớn để kí kết các đơn hàng này. 1.2.2 Nhiều nhà xuất khẩu trên thế giới xuất khẩu vào Hoa kỳ Giá nhập khẩu đối với mặt hàng dệt may đang có xu hướng tăng lên. Các nước xuất khẩu hàng dệt may chính sang Hoa Kỳ là Trung Quốc, Mexico, Ấn Độ, Việt Nam, Indonesia… Trung Quốc là nước cung cấp nhóm hàng này lớn nhất cho Hoa Kỳ cả về số lượng lẫn kim ngạch. Nhập khẩu dệt may từ Mexico, nước cung cấp lớn thứ hai của Hoa Kỳ, năm 2007 giảm cả về số lượng và kim ngạch. Trong khi đó, mặc dù mới chỉ chiếm 13,6% về kim ngạch và 14,9% về số lượng của thị trường nhập khẩu dệt may của Hoa Kỳ, song sản phẩm dệt may đến từ các nước Đông Nam Á, Ấn Độ, Pakistan đang tăng mạnh. 1.2.3 Xu hướng tiêu dùng hàng may mặc trên thị trường Hoa kỳ Trong xu thế toàn cầu hoá, sản phẩm chỉ có thể khẳng định vị trí và năng lực cạnh tranh của mình bằng chính chất lượng. Những đặc tính cơ bản ảnh hưởng đến chất lượng hàng dệt may bao gồm: nhãn mác, kiểu dáng, kích cỡ, độ bền và sự tiện lợi khi sử dụng. Người tiêu dùng Mỹ rất thực tế, họ luôn cân nhắc và tính toán sao cho công việc mình làm đem lại hiệu quả cao nhất. Về thị trường tiêu thụ hàng dệt may, cho dù người tiêu dùng Mỹ coi trọng vấn đề nhãn mác, giới trẻ đặc biệt thích tiêu dùng đồ hiệu nhưng họ cũng rất nhạy cảm với giá cả, tuy nhiên họ vẫn có thể trả nhiều tiên cho những sản phẩm có chất lượng tốt mang tính sang tạo. Về chất lượng sản phẩm: Theo thói quen mua hàng truyền thống, người tiêu dùng thường đánh giá chất lượng sản phẩm thông qua thương hiệu, nhãn mác sản phẩm. Thương hiệu nổi tiếng mang ý nghĩa quan trọng để tạo nên sức hấp dẫn của sản phẩm, song ngày nay người tiêu dùng Mỹ không quá coi trọng thương hiệu nữa, chỉ có khoảng 32% hách hàng luôn chú ý vào nhãn mác sản phẩm trước khi họ quyết định mua hàng. Người tiêu dùng Mỹ quan tâm tới chất lượng nhiều hơn, 60% người tiêu dùng tìm hiểu kỹ chất lượng sợi trước khi quyết định mua hàng, chỉ 17% khách hàng sử dụng những sản phẩm may mặc của một hãng sản xuất duy hất mà họ cho là nổi tiếng thế giới, tỷ lệ này rơi vào các ngôi sao điện ảnh, ca sĩ, người mẫu hoặc những người nổi tiếng. Thời trang và thị hiếu về màu sắc: Tính cách người dân Mỹ phóng khoáng, điều này cũng có ảnh hưởng lớn tới sự lựa chọn sản phẩm của họ. Họ mua hàng phần nhiều theo cảm hứng, thế nên nếu không tìm thấy loại sản phẩm mà mình ưa chuộng thì có thể mua một loại sản phẩm khác để thay thế. Tuy nhiên khả năng thích ứng với các loại sản phẩm khác nhau cũng tuỳ thuộc vào lứa tuổi, khi tuổi càng cao thì khả năng thích ứng này càng giảm. Người tiêu dùng Mỹ rất phong phú: Trong xu hướng tiêu dùng người Mỹ có sở thích mua những sản phẩm mang phong các cổ điển hơn những sản phẩm mốt thời thượng, mặc dù tỷ lệ khách hàng thích dùng sản phẩm mốt thời thượng khá cao, chiếm khoảng 20% tổng số người tiêu dùng hàng dệt may, đứng thứ nhì thế giới chỉ sau Đức (30%), hơn hẳn các trung tâm thời trang lớn như Anh và Italia (tỷ lệ này là khoảng 15%), Pháp (17%). Quần áo mang phong cách cổ điển chiếm giữ thị phần đáng kể tại thị trường Mỹ - khoảng 79%, chứng tỏ thị trường tiềm năng này có nhu cầu rất phong phú, đối tượng phục vụ khá rộng: giới sành điệu và cả những ngưòi bình dân. Người Mỹ rất nhạy cảm với những thay đổi theo mùa vụ: Người tiêu dùng có thói quen là họ quyết định mua hàng theo thời vụ. Bắt đầu mỗi mùa tiêu thụ, họ sẽ đi mua hàng ngay chứ không chờ đến cuối mùa mới mua với giá rẻ hơn. Cho nên, yếu tố giao hàng đúng thời hạn, bắt kịp thời vụ cũng rất quan trọng trong việc sản xuất và xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường Mỹ. Do nhiều nền văn hoá khác nhau cùng tồn tại với nhiều sắc tộc, nhiều tôn giáo, tín ngưỡng vì vậy thị hiếu người dân Mỹ rất đa dạng. Với hàng hoá là những đồ dùng cá nhân như dày dép, quần áo người Mỹ thích sự đơn giản, thoải mái. Thị trường mỹ khá dễ tính về sản phẩm may song lại rất khó tính về sản phẩm dệt và chất lịệu sản phẩm dệt. Người Mỹ thích vải sợi bông cotton không nhàu, khổ rộng. Ngưòi Mỹ đang có xu hướng thay đổi tiêu dùng từ các loại sản phẩm dệt thoi sang các sản phẩm dệt kim vì những ưu điểm mới của sản phẩm này 1.3 Sự cần thiết đẩy mạnh xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ Hoa kỳ_ nước có nền khoa học công nghệ rất phát triển và nguồn vốn dồi dào vào bậc nhất trên thế giới, một thị trường đầy tiềm năng. Việc xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường này là một cơ hội tốt cho các doanh nghiệp làm ăn với các đối tác Hoa Kỳ. Giải quyết thị trường đầu ra rất lớn cho doanh nghiệp. Việt Nam đang cố gắng mở rộng và xâm nhập vào thị trường thế giới. Với lợi thế về nguồn nhân công giá rẻ và những kinh nghiệm lâu năm với các thị trường lớn như EU, Canada, Nhật Bản….vậy nên Hoa kỳ - một thị trường đầy tiềm năng này hoàn toàn chúng ta có thể xâm nhập và mở rộng được. Các sản phẩm dệt may được sản xuất tại Hoa Kỳ chủ yếu tập trung ở một số nhóm hàng chính như thêu ren, đồ dùng trong nhà như thảm, rèm cửa và vải bọc cho các sản phẩm nội thất. Các công ty lớn của Hoa Kỳ chủ yếu chuyên sâu vào các dòng sản phẩm chất lượng cao, trong khi đó các công ty vừa và nhỏ lại thành công với những sản phẩm dệt may hàng loạt. Mặc dù ngày càng “tự động hoá” trong sản xuất nhưng số lượng lao động sử dụng trong ngành dệt may của Hoa Kỳ vẫn rất lớn với thu nhập hàng năm khoảng gần 170.000 USD. Các nguyên liệu chính được sử dụng trong ngành sản xuất vải sợi của Hoa Kỳ là len, bông (cotton) và sợi nhựa tổng hợp. Vải chiếm 40% doanh thu của ngành sản xuất dệt may Hoa Kỳ, chỉ sợi chiếm 20%, các loại thảm chiếm 20%, và chăn màn, rèm cửa chiếm 20%. Nhu cầu nhập khẩu: Với những mặt hàng chính như quần áo may sẵn, hàng thêu ren, trang trí và vải sợi, nhập khẩu dệt may của Hoa Kỳ chỉ tăng 1,8% trong năm 2007. Trong đó các sản phẩm dệt tăng 4,5%, hàng thêu ren tăng 3,5%, tuy nhiên nhập khẩu vải giảm 2,9% và sợi giảm 9,8%. Hàng thêu ren vẫn tiếp tục chiếm thị phần lớn nhất trong tổng sản lượng nhập khẩu hàng dệt may với 43,9%. Mặc dù vậy, các sản phẩm từ vải dệt đang ngày càng trở nên quan trọng trong những năm qua với thị phần tăng đều theo các năm từ 16,8% năm 1997 lên đến 33,7% năm 2007. Về chất liệu, cotton hiện vẫn rất được ưa chuộng tại Hoa Kỳ. Năm 2007, số lượng nhập khẩu mặt hàng quần áo chất liệu cotton chiếm 60,2% tổng số lượng hàng dệt may của Hoa Kỳ. Theo thống kê của Bộ thương mại Hoa Kỳ, xuất khẩu dệt may của Trung Quốc sang Hoa Kỳ đang giảm xuống, thị phần của Trung Quốc đang thu hẹp lại, tạo cơ hội cho các sản phẩm dệt may đến từ Ấn Độ, Indonesia và Việt Nam. Trong 6 tháng đầu năm 2008, xuất khẩu dệt may của Việt Nam sang Hoa Kỳ tăng hơn 20%, Ấn Độ tăng 8,2%, trong khi đó Trung Quốc chỉ tăng 0,2%, thấp hơn rất nhiều so với tốc độ tăng trưởng 14,8% năm 2007. 1.4 Các hoạt động xuất khẩu dệt may của Việt Nam vào thị trường Hoa kỳ Mặc dù giá nguyên liệu tăng cao trong những tháng đầu năm 2008, Việt Nam vẫn xuất khẩu được 2,4 tỉ USD kim ngạch sản phẩm dệt may sang thị trường Hoa Kỳ trong 6 tháng đầu năm, tăng 20% so với cùng kỳ năm ngoái. Hoa Kỳ hiện là nước xuất khẩu hàng dệt may lớn nhất của Việt Nam, tiếp đó là EU (780 triệu USD) và Nhật Bản (360 triệu USD). Hiện nay, Hội đồng Thương mại Quốc tế Hoa Kỳ (ITC) đang xếp Việt Nam nằm trong top 5 nhà xuất khẩu dệt may lớn nhất vào Hoa Kỳ. Theo Bộ Công Thương Việt Nam, mặc dù trong thời gian gần đây thị trường dệt may trên thế giới có nhiều biến động, song ngành dệt may của Việt Nam vẫn đặt ra chỉ tiêu doanh thu xuất khẩu năm 2008 đạt 9,5 tỉ USD, trong đó xuất khẩu sang Hoa Kỳ đạt 5,4 tỉ USD. Kim ngạch này sẽ đưa Việt Nam trở thành nhà xuất khẩu dệt may lớn thứ 2 vào Hoa Kỳ, chỉ sau Trung Quốc (6,1 tỉ USD). Theo Hiệp hội Dệt may Việt Nam, các doanh nghiệp Việt Nam đang tăng cường xuất khẩu những mặt hàng có giá trị cao và các loại sản phẩm mới nhằm tăng thêm lợi nhuận và giảm thiểu những tác động xấu của hệ thống giám sát hàng dệt may của Hoa Kỳ. Với tốc độ tăng trưởng xuất khẩu hàng dệt may khoảng 40%, ngành dệt may của Việt Nam có nhiều triển vọng tốt trong hoạt động xuất khẩu trong tương lai. Các doanh nghiệp Việt Nam phải tập trung hơn nữa vào việc đổi mới cơ cấu, mẫu mã sản phẩm, phát triển các sản phẩm có hàm lượng giá trị gia tăng cao. Ngoài ra, các doanh nghiệp cần phối hợp chặt chẽ với Hiệp hội Dệt may Việt Nam và Bộ Công Thương theo dõi sát diễn biến, cũng hư chấp hành nghiêm túc các yêu cầu của phía Hoa Kỳ, để tránh tình hình bất lợi đối với hàng dệt may xuất khẩu sang Hoa Kỳ. Thời điểm đầu năm 2007 lo ngại Hoa Kỳ áp dụng cơ chế giám sát đối với hàng dệt may Việt Nam sẽ dẫn đến nguy cơ hàng dệt may Xuất Khẩu của Việt Nam bị áp thuế chống bán phá giá, các nhà Nhập Khẩu Hoa Kỳ đã rút hợp đồng làm các Doanh Nghiệp dệt may Việt Nam rất khó khăn. Việc trở lại của những khách hàng lớn từ Hoa Kỳ đó là biểu hiện có dấu hiệu tốt, bởi các cơ quan quản lý của Việt Nam cùng các Doanh Nghiệp dệt may đã chủ động áp dụng các biện pháp và hạn chế được tác động của cơ chế giám sát của phía Hoa Kỳ. Tốc độ tăng trưởng hàng dệt may Xuất Khẩu của Việt Nam cũng ở mức độ vừa phải mà phía Hoa Kỳ chấp nhận được. Do đó, khả năng hàng dệt may Việt Nam bị áp thuế chống bán phá giá ít xảy ra. Nhận thức được mối nguy hại nếu để phía Hoa Kỳ áp dụng biện pháp chống bán phá giá, các Doanh Nghiệp đã chấp hành tốt những yêu cầu từ phía cơ quan quản lý, do đó không để xảy ra trường hợp gian lận. Các đơn hàng dệt may từ các nhà NK Hoa Kỳ đã tạo việc làm cho nhiều DN, nhiều hợp đồng đã được ký kết và điều đáng quan tâm là trong những đơn hàng quay trở lại với ngành dệt may, có rất nhiều hợp đồng không thuộc nhóm mặt hàng nằm trong diện bị giám sát từ phía Hoa Kỳ. Điều đó cho thấy các DN đã chủ động tìm được những mặt hàng mới để XK vào thị trường này chứ không phụ thuộc vào những Cat "nóng" vốn được coi là những mặt hàng XK chủ lực của ngành dệt may VN đối với thị trường Hoa Kỳ. Năm 2008, xuất khẩu dệt may Việt Nam tiếp tục đà tăng trưởng mạnh. Dệt may Việt Nam đặt mục tiêu xuất khẩu 9,5 tỷ USD, tăng 21,8% so với năm 2007. Đặc biệt, vấn đề khó khăn nhất vẫn là những rào cản đến từ thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam là Mỹ. Năm 2008 là một năm “căng thẳng” đối với ngành dệt may với những “rào cản” đến từ thị trường chủ lực Hoa Kỳ. 1.5 Các chính sách thương mại của Hoa kỳ * Quy định về nhãn hiệu thương mại ở Mỹ. Luật về nhãn hiệu ở Mỹ khác của ta ba điểm: - Luật ở đó xuất phát từ ba nguồn: (I) những bản án do các toà án tuyên, gọi là thông luật, (II) luật cho các tiểu bang ban bố, (III) luật do Quốc hội liên bang ban hành. Ở nước ta chỉ có một nguồn là Bộ luật dân sự. - Luật của liên bang tiếp nối truyền thống của thông luật nên nó duy trì một số quy định của thông luật. Điều này làm cho điều kiện để cho nhãn hiệu được bảo hộ ở bên Mỹ khác với của ta. Ở Việt Nam, chủ nhãn hiệu đặt ra một nhãn hiệu, xin đăng ký bảo hộ, nếu không có ai đăng ký trước thì nhãn hiệu được bảo hộ. Điều này được gọi là bảo hộ theo ngày ưu tiên. ở Mỹ phải sử dụng nhãn hiệu trong giao thương (đã dùng hay dự định sẽ dùng) thì mới xin bảo hộ được và nếu không dùng là mất, dù thời gian bảo hộ vẫn còn. - Người vi phạm nhãn hiệu ở Mỹ chịu nhiều hình phạt hơn. Ngoài sự khác biệt này thì việc đăng ký sử dụng và bảo vệ không khác nhau lắm. * Quy định về chống bán phá giá, trợ giá của Mỹ. Vấn đề bán phá giá, trợ giá và các biện pháp chống trợ giá của Mỹ được điều chỉnh bởi Luật thuế 1930 và năm 1995, được sửa đổi thành Luật Hiệp định vòng đàm phán Urugoay khi kết thúc vòng đàm phán Urugoay /GATT. Trợ giá là trường hợp các nhà sản xuất được Chính phủ trợ cấp trực tiếp hoặc gián tiếp và việc nhập khẩu hàng hoá được trợ cấp đó gây ảnh hưởng hoặc đe doạ gây ảnh hưởng tới nền công nghiệp sản xuất sản phẩm tương tự của Mỹ. Bán phá giá là việc hàng hoá nhập khẩu được bán với giá thập hơn với giá công bằng, gây ảnh hưởng hoặc đe doạ gây ảnh hưởng đến ngành công nghiệp trong nước của nước nhập khẩu sản xuất mặt hàng tương tự. Mỹ có quyền áp đặt thuế chống phá giá lên hàng nhập khẩu để bù lại mức phá giá. Luật thuế chống phá giá được sử dụng rộng rãi hơn luật thuế chống trợ giá. Thuế chống phá giá được áp dụng đối với hàng nhập khẩu khi nó được xác định là hàng nước ngoài được bán “phá giá” vào Hoa Kỳ, hoặc sẽ bán phá giá ở Hoa Kỳ với giá “thấp hơn giá trị thông thường”. Thấp hơn giá trị thông thường có nghĩa là giá xuất khẩu vào Hoa Kỳ thấp hơn giá bán của hàng hóa đó ở nước xuất xứ hoặc ở nước thứ 3 thay thế thích hợp. Thuế chống phá giá được áp dụng khi có đủ hai điều kiện (1) DOC phải xác định hàng nước ngoài đang được bán phá giá hoặc có thể sẽ được bán phá giá ở thị trường Hoa Kỳ, và (2) USITC phải xác định hàng nhập khẩu được bán phá giá đang gây thiệt hại vật chất hoặc đe dọa gây thiệt hại vật chất hoặc ngăn cản hình thành ngành công nghiệp tương tự tại Hoa Kỳ. Cũng giống như trường hợp luật thuế chống trợ giá, các thủ tục điều tra về bán phá giá được tiến hành khi có đơn khiếu kiện của một ngành công nghiệp hoặc do DOC tự khởi xướng. Thuế chống bán phá giá sẽ được ấn định bằng mức chênh lệch giữa “giá trị thông thường” và mức giá xuất khẩu vào Hoa Kỳ. DOC sẽ xác định giá trị thông thường của hàng nhập khẩu bằng một trong ba cách. Theo thứ tự ưu tiên là: (1) Giá bán của hàng hóa tại thị trường nội địa, (2) Giá bán hàng hóa sang thị trường thứ ba, (3) “Giá trị tính toán” của hàng hóa bằng tổng chi phí sản xuất cộng với các khoản lợi nhuận, tiền hoa hồng bán hàng, và các chi phí hành chính khác như đóng gói. Hiện nay, vấn đề khó khăn nhất vẫn là những rào cản đến từ thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam là Hoa kỳ. Thị trường Hoa kỳ chiếm tới 55% tổng kim ngạ._.ch xuất khẩu dệt may. Tuy nhiên, đến nay Hoa kỳ vẫn tiếp tục duy trì chương trình giám sát. Quyết định mới đây cho thấy, Hoa kỳ không giảm bớt số mặt hàng nằm trong diện giám sát và cũng không nêu các tiêu chí, điều kiện cụ thể làm cơ sở tự khởi kiện điều tra chống bán phá giá hàng dệt may Việt Nam Một cơ chế tự giám sát vẫn sẽ tiếp tục được duy trì. Thay cho chế độ giấy phép xuất khẩu là việc kết nối dữ liệu thông tin giữa các cơ quan quản lý như Hải quan, Bộ Công thương, Doanh Nghiệp; duy trì chế độ báo cáo... và sử dụng công cụ Tổ cơ động giám sát dệt may một cách có hiệu quả. Trong hoàn cảnh này, cách duy nhất mà Việt Nam có thể chủ động đối phó là Doanh Nghiệp và các cơ quan Chính phủ Việt Nam phải hợp tác trong một cơ chế tự điều tiết xuất khẩu. Việt Nam nên quan tâm đến các đơn hàng giá cao, tránh những đơn hàng giá thấp gây chú ý cho các cơ quan kiểm soát Hoa Kỳ. Luật chống bán phá giá của Hoa Kỳ cho phép sử dụng các phương pháp kinh tế thị trường để xác định giá trị bình thường trong các trường hợp kinh tế phi thị trường nếu như ngành công nghiệp liên quan ở nước bị kiện chứng minh được là ngành công nghiệp hoạt động theo cơ chế thị trường. Các tiêu chí để xác định ngành công nghiệp hoạt động theo cơ chế thị trường gồm: · Hoàn toàn không có sự can thiệp của chính phủ vào việc định giá và số lượng sản xuất; · Ngành công nghiệp không phải do nhà nước sở hữu; · Tất cả các chi phí đầu vào kể cả vật chất và phi vật chất (trừ một phần không đáng kể) tạo thành tổng giá trị hàng hóa phải được thanh toán theo giá thị trường. CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU HÀNG MAY MẶC CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN MAY 10 SANG THỊ TRƯỜNG HOA KỲ 2.1 Khái quát chung về Công ty cổ phần may 10 2.1.1 Quá trình hình thành và phát triển của công ty May 10 Công ty cổ phần May 10 tiền thân là các xưởng may quân trang đặt tại chiến khu Việt Bắc. Các xưởng may ra đời năm 1946 trong những ngày sục sôi không khí toàn quốc kháng chiến. Vào thời điểm đó, các xưởng may này có nhiệm vụ sản xuất quân trang bộ đội trong công cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, giải phóng dân tộc. Từ những xưởng may nhỏ bé, với nhà xưởng, thiết bị thô sơ, trình độ quản lý lạc hậu, sản xuất theo kế hoạch nhà nước giao, đến nay May 10 đã trở thành một trong những doanh nghiệp may mặc hàng đầu Việt Nam. Hiện tại May 10 có 14 xí nghiệp thành viên đặt tại Hà Nội, Hải Phòng, Thái Bình, Nam Định, Thanh Hoá,Quảng Bình…. Với hơn 8000 lao động, nhà xưởng khang trang, máy móc thiết bị hiện đại. Cho đến ngày nay Công ty đã trải qua các giai đoạn phat triển: * Giai đoạn kháng chiến chống Pháp (1946-1954) : Sau cách mạng tháng 8/1945 do nhu cầu quần áo, mũ… phục vụ bộ đội hình thành nên các tổ may. Ngày 19/12/1946 sau lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của chủ tịch Hồ Chí Minh các xưởng, các nhà máy ở thủ đô Hà Nội nhất loạt rời lên núi rừng Việt Bắc tổ chức thành hai hệ xưởng sản xuất quân trang: hệ chủ lực và hệ bán công xưởng. Gọi là hệ chủ lực vì trong các xưởng này thợ may hầu hết là bộ đội và công nhân quốc phòng. Còn hệ bán công xưởng là loại xưởng chỉ có một số ít thợ thuộc diện công nhân quốc phòng làm nòng CSE cốt cho sản xuất, còn lại là thợ thuê từ ngoài vào làm. Trong thời gian từ năm 1947 đến năm 1949, miền Tây tỉnh Thanh Hoá thuộc liên khu IV có xưởng chủ lực Yên Sinh đóng ở Cầu Vàng, huyện Quỳnh Côi (Thái Bình) thuộc Liên khu 3 có cơ sở kéo sợi, dệt vải, may quần áo… Năm 1947, nghành Quân nhu Liên khu V đã tổ chức 2 xưởng may: Xưởng May tháng 8 ở Quảng Ngãi có 105 công nhân do đồng chí Nguyễn Duy Triên phụ trách, một tổ sửa chữa may khâu và máy dệt do đồng chí Nguyễn Đương phụ trách. Năm 1948, Bình trị Thiên tổ chức 2 xưởng may quân trang ở Đại Lược (Bắc Thừa Thiên) và Mỹ (Nam Thừa Thiên). Trong những năm 1951 – 1952, Nha Quân nhu đã tiến hành giải thể các bán công xưởng may ở Nghệ An, Thanh Hoá, Ninh Bình. X30 – nguyên là xưởng may của Liên khu III đóng ở Cầu Vàng (Yên Định – Thanh Hoá) và một số cơ sở may khác được sát nhập vào xưởng may chủ lực X40 (đến năm 1956 xưởng X40 sát nhập với xưởng X10). Tại chiến khu Việt Bắc, ba xưởng May nhỏ AK1, BK1, CK1 Sáp nhập lại thành xưởng May Hoàng Văn Thụ, sau đó ít lâu lại đổi tên thành xưởng May 1 mang bí số là X1. Trong số công nhân may của xưởng X1 ở Việt Bắc có một số thợ thuê ở làng Cổ Nhuế (ngoại thành Hà Nội) tình nguyện bỏ làng theo kháng chiến. Họ được Nha Quân Nhu tuyển mộ, tập hợp rồi tổ chức thành nòng cốt của X1. Đến năm 1952, Xưởng X1 ở Việt Bắc được đổi thành Xưởng May 10 với bí số là X10. Đây chính là tiền thân của Công ty cổ phần May 10 ngày nay. * Giai đoạn 1954 – 1960: Năm 1954 kháng chiến chống thực dân Pháp kết thúc, Xưởng May 10 được lệnh trở về Hà Nội để có điều kiện sản xuất tập trng hơn. Đồng thời, Cục Quân nhu cũng quyết định ghép Xưởng May 40 ở Thanh Hoá vào Xưởng May 10. Với việc ghép hai đơn vị và trở về Thủ Đô, May 10 đã bước vào một giai đoạn phát triển mới cao hơn. Sau một thời gian tìm hiểu, xã Hội Xá thuộc tỉnh Bắc Ninh cũ, nay là Phường Sài Đồng, quận Long Biên, thành phố Hà Nội được chọn làm cơ sở mới của May 10, vì nơi đây đáp ứng được 2 điều kiện cơ bản: Thứ nhất, Hội Xá là cửa ngõ Thủ Đô, thuận tiện về giao thông (sát đường quốc lộ số 5 và đường sắt Hà Nội - Hải Phòng, gần sân bay Gia Lâm). Thứ hai, Hội Xá có khu đất hoang (trước là bãi pháo của quân đội Pháp và Nhật) rộng gần 20 ha, đủ để xây dựng xí nghiệp lớn, lại không ảnh hưởngđến sản xuất của bà con nông dân quanh vùng. Tháng 10/1955, Tổng cục hậu cần tiến hành biên chế cho Xưởng May 10 số lượng 564 cán bộ, công nhân viên. Ngày 26/7/1956, Xưởng May 10 và Xưởng May 40 được hợp nhất. Cuối quý IV năm 1956, một bộ phận của May 10 được tách ra để thành lập Xưởng May 20 chuyên may đo quần áo cán bộ trung, cao cấp của quân đội đóng ở khu vực Hà Nội. Riêng Xưởng May 10 được Tổng cục hậu cần giao nhiệm vụ may sẵn quần áo cấp phát từ cấp uý trở xuống. Đến cuối năm 1956 đầu năm 1957, quy mô Xưởng May 10 được mở rộng, máy móc được trang bị nhiều hơn với 253 chiếc máy bay, trong đó có 236 chiếc chạy bằng điện . Nhiệm vụ chủ yếu của Xưởng May 10 vẫn là may quân trang cho quân đội. Yêu cầu về số lượng mặt hàng tuy có nhiều và phức tạp hơn so với thời kỳ kháng chiến, nhưng với sự cố gắng của toàn bộ cán bộ công nhân, Xưởng May 10 đã hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, sản xuất thêm được nhiều loại hàng quân trang đáp ứng nhu cầu của các binh chủng trong quân đội. * Giai đoạn từ bao cấp đến làm quen với hạch toán kinh tế (1961 -1964): Nhằm góp phần thực hiện nhiệm vụ xây dựng miền Bắc xã hội chủ nghĩa, tháng 2/1961, xưởng May 10 được chuyển về bộ Công nghiệp nhẹ. Toàn bộ nhà Xưởng, máy móc thiết bị và 1092 cán bộ công nhân Xưởng May 10 được Tổng cục hậu cần, Cục Quân nhu bàn giao về đơn vị quản lý mới. Ngày 20/2/1961, đồng chí Trần Quí Hai (Chủ nhiệm Tổng Cục Hậu Cần) thay mặt Quân uỷ Trung ương Bộ Quốc phòng tặng “cờ thi đua khá nhất ” cho tập thể chiến sĩ Xưởng May 10. Từ thời điểm này, nhiệm vụ của Xí nghiệp là sản xuất theo kế hoạch của Bộ Công nghiệp nhẹ giao. Tuy chuyển đổi cơ quan chủ quản, nhưng hàng năm, Xí nghiệp May 10 vẫn dành từ 90 – 95% năng lực sản xuất quan trang phục vụ quan đội, 5 – 10% năng lực sản xuất còn lại cho mặt hàng phục vụ cho xuất khẩu và dân dụng. Trong thời kỳ thuộc quân đội quản lý, May 10 sản xuất theo chế độ cung cấp, ít tính toán chi ly, thiếu thì xin thêm, thừa thì để lại, vốn hết bao nhiêu cũng được, có cấp trên lo, miễn đảm bảo kế hoạch và thời gian giao hàng cho quân đội. Sau khi chuyển sang Bộ Công nghiệp nhẹ, chế độ bao cấp dần được thay thế bằng cơ chế sản xuất kinh doanh có tính toán đến hiệu quả kinh tế, phải thực hiện hạch toán lỗ, lãi rõ ràng. Đây là sự chuyển đổi không hề dễ dàng, vì nhiều cán bộ, công nhân May 10 đã quen với nếp sản xuất theo cơ chế bao cấp trong nhiều năm liền. Như vậy là chỉ sau ba năm (từ tháng 2/1961 đến tháng 1/1964), kể từ khi chuyển sang bộ Công nghiệp nhẹ quản lý, May 10 từ một đơn vị sản xuất theo chế độ bao cấp, cách làm ăn vốn theo nếp cũ, đã kịp thích ứng với cơ chế quản lý mới, sản xuất đã tính đến hiệu quả kinh tế: giá thành sản phẩm phải rẻ, chất lượng phải tốt. Thời gian đầu Xí nghiệp gặp không ít khó khăn về tổ chức, nhất là về mặt tư tưởng. nhưng chính truyền thống xây dựng và trưởng thành trong kháng chiến của tập thể cán bộ công nhân May 10 đã giúp Xí nghiệp từng bước vượt qua các kho khăn, luôn hoàn thành vượt mức chỉ tiêu kế hoạch sản xuất Nhà Nước giao và xứng đáng là một trong những lá cờ đầu nghành may mặc trong xây dựng miền Bắc xã hội chủ nghĩa. * Giai đoạn 1965 – 1975 : Năm 1965, giặc Mỹ thua đau ở chiến trường Miền Nam và đã liều lĩnh đem không quân ồ ạt đánh phá Miền Bắc hòng ngăn chặn sự chi viện của Miền Bắc cho Miền Nam. Không quân Mỹ tập trung đánh bom vào những tuyến đường giao thông huyết mạch của Miền Bắc, các cơ sở kinh tế, cơ quan xí nghiệp hòng làm tê liệt nền kinh tế, đưa Miền Băc” trở lại thời kỳ đồ đá”. May 10 nằm trong khu vực kinh tế - quân sự quan trọng, sát quốc lộ 5 nối Hà Nội với Thành Phố cảng Hải Phòng, gần Tổng kho 205 của Tổng cục Hậu cần, Tổng kho xăng dầu, Sân bay Gia Lâm…. Khu vực này chính là mục tiêu đánh phá hang đầu của Không quân Mỹ. Thực hiện phong trào do Bộ Công nghiệp nhẹ phát động, May 10 đã cử một bộ phận cán bộ lãnh đạo và công nhân viên lành nghề lên Hà Bắc, xây dựng Xí nghiệp May X200 tại Đáp cầu - Bắc Ninh để tăng them năng lực sản xuất cho quốc phòng. Sau này Xí nghiệp May X200 tách ra hạch toán độc lập và nay là Công ty Cổ phần may Đáp Cầu. Ngoài việc chiến đấu bảo vệ sản xuất, May 10 hàng năm đều thực hiện đúng nghĩa vụ quân sự đối với Tổ quốc. Thời gian này, Xí nghiệp hoàn thành tốt hai đợt tuyển quân: đợt một gồm 8 công nhân viên chức, đợt hai gồm 9 cháu là con em cán bộ của Xí nghiệp. Trong trời gian 1973 – 1975, Xí nghiệp May 10 được cấp trên giao nhiệm vụ sản xuất quân trang số lượng lớn phục vụ quân giải phóng và bộ đội Miền Bắc. Cả Xí nghiệp sống lại không khí tưng bừng, náo nhiệt như thời gian chuẩn bị chiến dịch Điện Biên Phủ 20 năm về trước. Cả xí nghiệp hăng say sản xuất vì tiền tuyến lớn, làm việc không biết mỏi, không quản ngày đêm. Các tổ, các phân xưởng thực hiện để động viên mình: “ Ngày không giờ, tuần không thứ”. “Hễ bộ đội cần đến quân trang là May 10 có ngay.” * Giai đoạn từ 1975 đến 1986: Sau khi Miền Nam được hoàn toàn giải phóng, đất nước thống nhất, xí nghiệp May 10 chuyển sang bước ngoặt mới trong nhiệm vụ sản xuất kinh doanh. Đó là chuyển từ may quân trang phục vụ quân đội sang làm hàng xuất khẩu. Thị trường chủ yếu là Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu. Quy trình và tiêu chuẩn chất lượng làm hàng xuất khẩu rất phức tạp, khắt khe. Từ kiểu dáng, màu mắc, đường kim, mũi chỉ đến bao gói sản phẩm đều được quy định chặt chẽ trong hợp đồng và buộc Xí nghiệp phải thực hiện chuẩn xác. Nhiều khó khăn mới nảy sinh: tay nghề của người lao động chưa cao, thiết bị máy móc của Xí nghiệp so với các nước có kỹ thuật tiên tiến trên thế giới còn lạc hậu. Công tác quản lý kinh doanh còn non yếu dẫn đến năng suất thấp. chất lượng sản phẩm chưa thoả mãn được thị hiếu của khách hàng. Mặt khác trong những năm này, nền kinh tế non trẻ Việt Nam bị tàn phá nặng nề của chiến tranh, chế độ quan liêu bao cấp kìm hãm sự phát triển, xuất hiện nhiều tư tưởng chủ quan duy ý chí, đời sống của nhân dân lao động chưa được cải thiện…. Thực tế này đã ít nhiều ảnh hưởng đến lòng tin và nhiệt tình lao động của công nhân, viên chức. Nhằm tháo gỡ khó khăn, Đảng ủy cùng Ban giám đốc Công ty đã chủ động đề ra định hướng hoạt động và cùng lúc phải thực hiện đồng bộ nhiều biện pháp: Khơi dậy phong trào thi đua ái quốc mà Bác Hồ phát động Đổi mới thiết bị và công nghệ hiện đại Tiếp cận thị trường may mặc thế giới để tìm bạn hàng mới. Bồi dưỡng nâng cao nghiệp vụ và trình độ quản lý cho đội nhũ cán bộ công nhân. Vay vốn ngân hàng, tận dụng vốn tự có , tranh thủ sự giúp đỡ của khách hàng để trang bị thiết bị mới. Mở nhiều lớp đào tạo công nhân mới, bồi dưỡng tay nghề cho công nhân cũ nhằm nâng cao trình độ kỹ thuật, cử cán bộ đi học tập trung hoặc tại chức để nâng cao trình độ quản lý. Kết quả là sản lượng , chất lượng sản phẩm cứ tăng dần hàng năm. Đặc biệt, năm 1984, hai mặt hàng xuất khẩu sang Công hoà dân chủ Đức và Bungari được đặt gia công tăng gấp đôi so với năm 1983. Xí nghiệp được Tổng Công ty Xuất nhập khẩu hàng Dệt May gửi công văn khen ngợi vì đã đảm bảo tốt các yêu cầu, quy định về tiêu chuẩn, quy cách chất lượng sản phẩm, thời hạn giao hàng. Từ năm 1975 đến năm 1985, mỗi năm xí nghiệp May 10 đã xuất ra thị trường các nước xã hội chủ nghĩa từ 4 đến 5 triệu áo sơ mi. Mức tăng trưởng bình quân hàng năm 30%, nộp ngân sách tăng từ 10 – 15%/ năm, thu nhập bình quân tăng từ 5 – 10%/ năm. * Giai đoạn từ 1986 đến nay : Năm 1986 được xem là một mốc son lịch sử đôi với nền kinh tế Việt Nam. Từ sự tổng kết tình hình thực tiễn, phân tích những bài học thành công và những tồn tại của giai đoạn 1976 – 1985, những nhận thức mới về xu thế và con đường quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, Đại hội lần thứ VI của Đảng đã đề ra đường lối đổi mới mà trước hết là sự đổi mới tư duy kinh tế. Là một doanh nghiệp Nhà nước gắn bó chặt chẽ với thực tiễn phát triển của đất nước, Xí nghiệp May 10 quán triệt tinh thần đổi mới trong tư duy kinh tế và đường hướng hoạt động sản xuất kinh doanh. Chú trọng sản xuất và kinh doanh hàng may mặc xuất khẩu, những năm 1986 – 1990 May 10 đẩy mạnh xuất khẩu vào thị trường Liên Xô và Đông Âu theo nội dung các Nghị định thư hàng hoá ký kết giữa Việt Nam và các nước trong hội đồng tương trợ kinh tế SEV. Những năm 1990 – 1991, hệ thống các nước XHCN sụp đổ trên phạm vi toàn thế giới. Thị trường hàng xuất khẩu của Việt Nam sang Liên Xô và Đông Âu bị thu hẹp nhanh chóng. Sản xuất ngừng trệ, thiếu nguyên phụ liệu đầu vào, người lao động không đủ việc làm… là tình trạng chung ở các đơn vị sản xuất trong đó có May 10. Giá cả đắt đỏ, đời sống người lao động vốn đã khó khăn lại càng khó khăn hơn. Thực hiện nghị định 176/HĐBT về việc sắp xếp lại lao động trong các đơn vị kinh tế quốc doanh, năm 1991 Xí nghiệp May 10 đã giải quyết chế độ về nghỉ hưu, mất sức cho hơn 300 cán bộ, công nhân. Trước tình hình đó, để tồn tại và phát triển, Đảng ủy và ban Giám đốc Xí nghiệp đã khanửg định : “ không có con đường nào khác, Xí nghiệp May 10 phải chuyển hướng xuất khẩu sang thị trường Khu vực 2 - thị trường các nước Tư bản chủ nghĩa. Đây là thị trường khó tính, yêu cầu khắt khe về chất lượng sản phẩm cũng như mẫu mã, và đặc biệt là thời gian giao hàng phải chính xác”. Để đáp ứng được những yêu cầu đó, một mặt xí nghiệp phải đổi mới trang thiết bị tiên tiến hơn, mặt khác phải cải tiến hệ thống quản lý, tiếp tục nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho phù hợp yêu cầu phát triển của thời kỳ mới. Sau một thời gian nghiên cứu thị trường và củng cố bộ máy nhân sự, chất lượng sản phẩm của May 10 đã có nhiều bước chuyển biến tích cực. Xí nghiệp đã ký kết được hợp đồng may xuất khẩu với hai khách hàng Hàn Quốc, Hà Lan và họ trở thành hai bạn hàng mới của May 10. Tiếng lành đồn xa, bắt đầu từ các đơn hàng đạt tiêu chuẩn chất lượng cho phía Hàn Quốc và Hà Lan, May 10 có được nhiều đối tác lớn như CHLB Đức, Nhật Bản, Bỉ, Đài Loan, Hồng Kông…. Cũng từ đây sản phẩm áo sơ mi, áo Jackét và nhiều sản phẩm may mặc khác của May 10 được biết đến nhiều hơn trên thị trường quốc tế. Để đáp ứng được yêu cầu của thị trường may mặc trong nước và thế giới, tháng 11/1992, Xí nghiệp May 10 chuyển đổi hình thức tổ chức, phát triển thành Công ty cổ phần May 10 với tên giao dịch quốc tế la “ GRACO 10”. Năm 1992 – 1993, trong cuộc đua cạnh tranh với các đơn vị kinh doanh trong nước, Công ty đầu tư, đổi mới trang thiết bị và dây chuyền công nghệ tiên tiến hơn. Thiết bị máy móc hiện đại chưa đủ mà điểm mấu chốt là phương pháp và cách thức quản lý để tăng năng suất lao động . Một lần nữa May 10 tìm cách khắc phục để đi lên bằng chính nội lực của mình. Công ty đã vận dụng linh hoạt, sang tạo, đồng bộ các biện pháp: Mạnh dạn đầu tư chiều sâu. Bồi dưỡng nâng cao tay nghề cho công nhân và nghiệp vụ quản lý cho cán bộ. Trang bị thêm thiết bị kỹ thuật và công nghệ mới. Chăm lo đời sống và cải thiện điều kiện làm việc cho công nhân viên chức. Mở rộng thị trường quốc tế và coi trọng thị trường trong nước, đồng thời tranh thủ sự giúp đỡ của anh em bạn bè. Vừa đẩy mạnh xuất khẩu, Công ty May 10 vừa coi trọng thị trường trong nước. Công ty đã mở các cửa hàng, các đại lý, các chi nhánh ở nhiều địa phương trong cả nước như: Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh, Thái Bình, Thành Phố Hồ Chí Minh….để giới thiệu sản phẩm, bán hàng, dạy nghề may, chuyển giao công nghệ, luân chuyển trang thiết bị. Kết quả là năm 1993 Công ty đã bắt đầu chiếm lĩnh được thị trường trong nước và được người tiêu dùng ưa chuộng. Cũng bắt đầu từ thời kỳ này, Công ty May 10 không ngừng phát huy những thành tích đã đạt được và liên tục phấn đấu tăng trưởng hàng năm từ 20 – 30% xứng đáng là một trong những cánh chim đầu đàn trong nghành may mặc cả nước, đồng thời là một trong những trung tâm đào tạo, kinh tế, kỹ thuật của nghành. 2.1.2 Chức năng nhiệm vụ và tổ chức bộ máy của Công ty May 10 * Sơ đồ 1: Tổ chức bộ máy của Công ty May 10 Phòng TCKT Tổng GĐ CT HĐQT ĐDLĐ về ATSK Phó tổng GĐ GĐ điều hành ĐDLĐ về MT ĐDLĐ về CL GĐ điều hành GĐ điều hành P. Kinh doanh Phòng QA Tổ kiểm hoá Tổ quản trị Trưởng ca A Phòng kế hoạch 5 xí nghiệp may Tổ hòm hộp Trưởng ca B Văn phòng Ban đầu tư Các PX phụ trợ XN địa phương Phòng kho vận Trường đào tạo Tổ cắt A Tổ là A Các tổ cắtmay Các tổ may Tổ cắt B Tổ là B Nguồn: Ban tổ chức hành chính công ty May 10 Phòng kĩ thuật Sơ đồ: Cơ cấu tổ chức công ty may 10 Đứng đầu bộ máy lãnh đạo của Công ty là Tổng Giám Đốc (TGĐ) do cấp trên bổ nhiệm sau khi đã tham khảo ý kiến của Đảng bộ và phiếu tín nhiệm của cán bộ, công nhân viên trong toàn công ty. Tổng giám đốc là đại diện toàn quyền của công ty trong mọi hoạt động kinh doanh. * Phòng Kế Hoạch: Hiện nay, số lượng cán bộ công nhân viên là 116 người. Với chức năng nhiệm vụ: nghiên cứu, xây dựng mục tiêu và kế hoạch sản xuất kinh doanh chung của toàn công ty. Quản lý các hoạt động kinh doanh quốc tế, cân đối kế hoạch và điều độ sản xuất. Quản lý các kho nguyên phụ liệu, thiết bị, bao bì, thành phẩm phế liệu. Quản lý các hoạt động xuất, nhập khẩu. * Phòng tài chính kế toán: Chức năng, nhiệm vụ là : nghiên cứu, quản lý, kinh doanh tài chính, tài sản. Tổng hợp, phân tích kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty trên từng lĩnh vực. * Phòng kinh doanh: Chức năng nhiệm vụ: Nghiên cứu thị trường, tổ chức, quản lý các hoạt động kinh doanh trong nước. Doanh thu nội địa Năm 1998 đạt là: 20,4 tỷ đồng, Năm 2008 đạt là: 110 tỷ đồng. * Phòng chất lượng QA: Chức năng nhiệm vụ: Nghiên cứu, xây dựng hệ thống quản lý, quản lý chất lượng sản phẩm trong toàn Công ty và các hoạt động đánh giá của khách hàng. * Ban Marketing: nghiên cứu và mở rộng thị trường trong nước và quốc tế. Xây dựng và phát triển thương hiệu May 10. 2.1.3 Thực Trạng Sản Xuất Kinh Doanh Trong bối cảnh May 10 cũng như các doanh nghiệp may trong nghành hầu như phải phụ thuộc vào nguồn nguyên liệu chủ yếu từ nhập khẩu, bị động về giá cả. Còn về đầu ra, May 10 cũng chưa có nhiều kinh nghiệm về phát triển thị trường và xây dựng chiến lược sản phẩm. trước đó các sản phẩm may được xuất khẩu sang Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu với mẫu mã đơn giản, khách hàng dễ tính, có số lượng hạn chế theo hiệp định giữa các nước thuộc khối SEV. Bảng số 2.1: Kết quả sản xuất - kinh doanh (1959 - 2008) TT Chỉ Tiêu ĐVT 1959 1979 1992 2005 Ước TH 2008 1 Sản Lượng 1000SP 200 4.022 3.500 11.473 15.000 2 Giá trị tổng sản lượng Tr.đ 6,87 17,59 132.724 228.350 3 Tổng DT Tr.đ 30,67 20.771 552.954 607.000 DT gia công XK Tr.đ 22,62 19.547 136.470 .250.000 DT FOB Tr.đ 343.423 250.000 DT KD nội địa và DT khác Tr.đ 8,05 1.224 73.061 107.000 4 Lợi nhuận Tr.đ 0,7 3,46 2.113 13.874 16.700 5 Nộp ngân sách Tr.đ 0,5 4.01 996 2.520 7.179 ( Nguồn: Phòng Kinh Doanh) * Về lao động: Hiện nay, Công ty có khoảng 8000 cán bộ công nhân viên. May 10 đã tiến hành xây dựng và ban hành Quy chế đào tạo cán bô, công nhân viên. Công ty đã cử nhiều cán bộ, công nhân viên đi học Đại học và Cao đẳng, học các chương trình lý luận chung - cao cấp, tham gia các lớp đào tạo bồi dưỡng kiến thức nghiệp vụ kỹ thuật. Song song với việc bồi dưỡng đào tạo Cán bộ công nhân viên, công tác tuyển chọn nhân lực cũng được công ty chú ý hơn. May 10 đã ban hành quy chế tuyển dụng và ký hợp đồng lao động. Hầu hết lao động được tuyển dụng trong giai đoạn này đều tốt nghiệp phổ thông trung học và qua đào tạo nghề may từ 6 tháng đến 3 năm. 100% nhân viên của các phòng nghiệp vụ khi tuyển vào đều có trình độ Cao đẳng và Đại học trở lên. Kết quả là May 10 đã bổ sung thêm hàng trăm cán bộ quản lý có trình độ Đại học và Cao đẳng. Hàng nghìn công nhân có tay nghề vững vẫn tiếp tục đượ đào tạo để nâng cao kỹ năng chuyên môn. Năm 1995, bằng nguồn vốn và kinh nghiệm của mình cũng như được sự giúp đỡ nhiệt tình của các đơn vị bạn, May 10 đã được Nhà Nước cho phép thành lập “ Trường Công Nhân Kỹ Thuật May và Thời Trang”. Mô hình đào tạo “Doanh nghiệp – Nhà Trường” rất có hiệu quả vì nội dung đào tạo gắn liền với yêu cầu thiết thực của sản xuất, học viên được tiếp cận trực tiếp với trang thiết bị hiện đại, được thực tập phương pháp kỹ thuật ngay tại xưởng may của Công ty và kết quả học tập cao thì được nhận vào sản xuất. Trong 9 năm (1995 - 2004), trường công nhân Kỹ Thuật May và Thời trang của Công ty May 10 đã đào tạo được khoảng 5000 công nhân kỹ thuật may công nghiệp, tổ chức đào tạo lại và bồi dưỡng nâng bậc cho khoang 5.500 công nhân may, cơ khí, sửa chữa máy, công nhân thêu, in… Đồng thời cũng kết hợp với các trường Đại Học Bách Khoa Hà Nội, Trường Mỹ thuật Công nghiệp, Trường Cao Đẳng Kinh tế Kỹ thuật Công nghiệp, Trương Cao Đẳng Sư phạm dạy nghề để đào tạo kỹ sư, cử nhân trong lĩnh vực công nghệ may, quản trị doanh nghiệp và thiết kế thời trang. Ngoài việc đào tạo tại chỗ, học tập các đơn vị trong ngành, hàng năm May 10 còn cử nhiều đoàn cán bộ đi học kinh nghiệm bạn trong và ngoài nước. Điển hình là Nhật Bản còn giúp May 10 đưa công nhân đi tu nghiệp nâng cao tay nghề, tạo nền móng cho sự hợp tác lâu dài. Măt khác may 10 kết hợp mời chuyên gia giỏi về đào tạo nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho CBCVN trong toàn Công ty. Cách làm này đã tạo cho may 10 một đội ngũ công nhân có tay nghề cao ở các khâu sản xuất và quản lý kinh doanh. Những khách hàng khó tính đều đánh giá cao trình độ sản xuất và quản lý của Công ty. Việc tăng cường cả về chất lượng và số lượng lao động đã giữ vai trò quan trọng trong quản lý và vận hành tốt doanh nghiệp. * Về nguồn vốn: Cơ cấu nguồn vốn của công ty duy trì với tỉ lệ không chênh lệch đáng kể giữa các năm. Nguồn huy động nhiều nhất là nguồn vốn vay ngắn hạn. Điều này cho thấy, sự chung chuyển vốn trong công ty rất linh hoạt, không có vốn bị ứ đọng nhiều. Cơ cấu vốn được thể hiện qua bảng sau: Bảng số 2.2: Cơ cấu vốn của công ty (Số vốn: tỉ VND Tỉ lệ: % ) Nguồn vốn Năm 2004 Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 Số vốn Tỉ lệ Số vốn Tỉ lệ Số vốn Tỉ lệ Số vốn Tỉ lệ Nợ ngắn hạn 116,263 57,17 145,319 59,04 122,618 53,59 125,659 53,95 Nợ dài hạn 28,405 13,96 35,874 14,57 34,249 14,96 33,896 14,55 Vốn chủ sở hữu 54,011 26,55 61,5998 25,02 68,886 30,10 70,125 30,11 Nguồn kinh phí và các quỹ khác 4,679 2,32 3,3316 1,37 3,041 1,35 3,203 1,39 Tổng nguồn vốn 203,358 100 246,107 100 228,794 100 232,883 100 (Nguồn: phòng tài chính – kế hoạch, công ty cổ phần may 10 ) Công ty luôn duy trì được lượng vốn cao qua các năm, điều này không chỉ đảm bảo cho khả năng huy động nguồn tài chính mà còn cho thấy khả năng quản lí vốn tốt của ban lãnh đạo. Tỉ lệ vốn chủ sở hữu từ 25%-30% là một mức vốn khá hợp lí. * Về công nghệ, trang thiết bị: Để sản phẩm của May 10 đứng vững trên thị trường nội địa và mở rộng ở thị trường thế giới, không có con đường nào khác, lãnh đạo May 10 quyết định đầu tư chiều sâu đổi mới công nghệ, tận dụng tối đa cơ sở vật chất và năng lực hiện có để phát triển sản xuất. Trên cơ sở đã xác định rõ sản phẩm chiến lược là sơ mi nam và thị trường chiến lược là các nước phát triển, việc đầu tư đã được triển khai đúng hướng, tập trung và phát huy ngay hiệu quả. Giai đoạn từ năm 1992 đến năm 1999, May 10 đã đầu tư hơn 50 tỷ đồng trong đó có gần 30 tỷ đồng là vốn tự bổ sung. Phần lớn những thiết bị này đều là những thiết bị hiện đại và công nghệ tiên tiến ngang tầm quốc tế. Công ty đã thực hiện đầu tư mở rộng thêm 6 xí nghiệp may tại các tỉnh Thái Bình, Hải Phòng, Nam Định, Hà Nội….góp phần thu hút lao động và kinh tế địa phương. Đầu tư 2,4 tỷ đồng mua thiết bị, cải tạo nhà xưởng Năm 1994 lắp đặt và đưa vào sử dụng một xí nghiệp chuyên sản xuất áo sơ mi cho CHLB Đức trị giá 5 tỷ đồng. Năm 1995 đã nhập hàng trăm thiết bị hiện đại của CHLB Đức, Nhật Bản và Hoa Kỳ như: Máy may 1 kim có bộ phận điều khiển bằng mạch IC, dây chuyền gấp áo tự động, dây chuyền giặt hoàn thiện đồng bộ với năng lực giặt bình quân 2500 áo sơ mi/ca sản xuất, hệ thống là áo bằng hơi nước gồm 300 bộ bàn là, hai máy thêu tự động TAJIMA 12 đầu và 20 đầu…. Từ năm 1998 đến năm 2001, May 10 đã đầu tư gần 60 tỷ đồng xây dựng và mua sắm trang thiết bị sản xuất hiện đại cho 2 xưởng sản xuất chất lượng cao, góp phần cải thiện điều kiện làm việc cho người lao động. 100% công nhân lao động các xí nghiệp trong Công ty tại Hà Nội được làm việc trong nhà xưởng có điều hoà không khí. Năm 2003 – 2004 May 10 đã sắp xếp lại mặt bằng sản xuất của 5 xí nghiệp thành viêntheo hương sản xuất chuyên môn hoá, tập trung sản xuất các sản phẩm áo sơ mi tại nhà sản xuất 3 tầng, dành toàn bộ nhà sản xuất 2 tầng để đầu tư lắp đặt 02 dây chuyền với trang thiết bị hiện đại may veston phục vụ xuất khẩu vào thị trường Hoa Kỳ, Châu Âu và Nhật Bản. Dự án đầu tư lắp đặt daay chuyền sản xuẩt Veston 1 và Veston 2 đã được lãnh đạo Tổng công ty Dệt – May Việt Nam phê duyệt có tổng mức đầu tư là 50,7 tỷ đồng trong đó tài sản đang sử dụng chuyển sang và vốn tự có bổ sung là 16,7 tỷ đồng. Xí nghiệp Veston 1 có công suất 250.000 bộ veston/ năm được sản xuất theo công nghệ Châu Âu và Mỹ, sản phẩm xuất đi Hoa Kỳ và Châu Âu, được đưa vào hoật động từ ngay 01/01/2004. Xí nghiệp Veston 2 có công suất 200.000 bộ veston/ năm được sản xuất theo công nghệ Nhật Bản, sản phẩm được xuất khẩu vào thị trường Nhât Bản, được đưa vào hoạt động từ ngay 01/12/2004. Hai xí nghiệp may Veston được triển khai và đi vào hoạt động là nhờ sự định hướng của tập đoàn Dệt – May Việt Nam về việc phát triển Veston cao cấp mà trực tiếp là sự chỉ đạo của đồng chí Vũ Đức Thịnh - Tổng giám đốc Công ty may nhà bè, Phó Tổng giám đốc Tổng Công ty May Việt Nam sau này là Tổng Giám Đốc Tập đoàn Dệt – May Việt Nam, cộng với sự giúp đỡ của lãnh đạo và CBCNV Công ty May Nhà Bè. Chính nhờ sự giúp đỡ tận tình trong đào tạo tay nghề, chuyển giao công nghệ cũng như giúp May 10 các đơn hàng Veston đầu tiên xuất khẩu đi thị trường Hoa Kỳ và Nhật Bản, đến nay May 10 không chỉ khẳng định được đẳng cấp về sản phẩm sơ mi mà còn khăng định đẳng cấp về sản phẩm Veston nam nữ trên thị trường Việt Nam, Nhật Bản, Hoa Kỳ và Châu Âu. Ngoài ra, trong năm 2004, may 10 tiếp tục đầu tư xây dựng Xí nghiệp May Hà Quảng tại Đồng Hới - Quảng Bình với tổng mức đầu tư là 34 tỷ đồng, giai đoạn I thu hút 600 lao động, giai đoạn II dự kiến là 1000 lao động. Đồng thời mở rộng quy mô sản xuất của xí nghiệp Thái Hà, Hưng Hà, Vị Hoàng, Bỉm Sơn tạo thêm chỗ làm việc mới cho gần 1200 lao động với mức thu nhập ổn định. Đổi mới thiết bị và công nghệ đi đôi với việc áp dụng hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn Quốc tế và đã được tổ chức AFAQ( Pháp) cấp chứng chỉ phù hợp với tiêu chuẩn ISO – 9002. Áp dụng hệ thống quản lý môi trường và đã được tổ chức BVQI (Anh) cấp chứng chỉ phù hợp tiêu chuẩn ISO – 14001. Xây dựng và áp dụng hệ thống quản lý trách nhiệm xã hội theo SA-8000. Bảng số 2.3: Tổng hợp thiết bị Nhóm Máy móc thiết bị ĐVT 2005 2006 2007 2008 1 Một kim, chuyên dùng Cái 3.461 3.789 4.482 4.848 2 Lò hơi, khí nén Chiếc 17 19 23 26 3 Các thiểt bị còn lại Cái 644 755 799 861 * Tình hình hoạt động kinh doanh chủ yếu của công ty: Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thế giới, Việt Nam đã và đang từng bước hôi nhập sâu với nền kinh tế khu vực và thế giới. Bắt đầu từ khi Mỹ chính thức bãi bỏ cấm vận đối với Việt Nam 1999, Hiệp định thương mại Việt Mỹ kí kết 2001, gia nhập AFTA năm 2003 cho đến khi Việt Nam gia nhập tổ chức thương mại quốc tế WTO 2006, đồng thời hạn nghạch dệt Mỹ chính thức được bãi bỏ…. Kể từ đó hàng loạt các chính sách mở cửa, hợp tác thu hút vốn đầu tư nước ngoài của Nhà nước đã tạo đã cho nghành Dệt May nói chung và Công ty cổ phần May 10 nói riêng có những bước phát triển vượt bậc. Trong hai năm 2005 và 2006, May 10 đã đầu tư có trọng điểm theo chiến lược phát triển và yêu cầu của thị trường, điển hình như: Mở rộng sản xuất Xí nghiệp may Hưng Hà, tăng năng lực sản xuất cho Xí nghiệp May 1, May 2, May 5. tập trung xây dựng dự án mới Xí nghiệp may Veston Vĩnh Bảo - Hải Phòng. Đầu tư các máy móc thiết bị chuyên dụng mới nhằm tăng năng suất lao động, giảm thao tác của người công nhân vận hành đặc biệt tại các dây chuyền sản xuất Veston cao cấp. nghiên cứu phát triển hệ thống quản lý thao tác chuẩn và tổ chức sản xuất trên dây chuyền sản xuất tại 3 Xí nghiệp Sơ mi, bước đầu nhân rộng sang các dây chuyền sản xuất Veston. Đồng thời triển khai xây dựng và cải tạo sửa chữa một số công trình nhà xưởng sản xuất, cửa hàng…. Đầu tư phần mềm quản lý năng suất G.PRO thử nghiệm đầu tiên tại Xí nghiệp May 2. Tìm các bất hợp lý trong bố trí chuyền, luyện thao tác chuẩn, sử dụng các thiết bị tự động, áp dụng cữ gá lắp…. để tăng năng suất lao động, tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh. Bước sang năm 2007, may 10 tiếp tục hoàn thiện các dự án đầu tư trước đó và triển khai các dự án đầu tư mới n._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc22167.doc
Tài liệu liên quan