MỞ ĐẦU
Tính cấp thiết của đề tài
Cây chè có lịch sử phát triển lâu đời trên địa bàn tỉnh Phú Thọ. Nhiều năm qua, cây chè luôn được xác định là cây kinh tế mũi nhọn đối với các huyện trong vùng sản xuất chè nói riêng và tỉnh Phú Thọ nói chung. Chính vì vậy phát triển cây chè là một trong những chương trình kinh tế trọng điểm của tỉnh Phú Thọ. Ngành sản xuất và xuất khẩu chè đang ngày càng đóng vai trò quan trọng và trở thành một trong những ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh, với 80% sản lượng chè
85 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1691 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Đẩy mạnh xuất khẩu chè của tỉnh Phú Thọ trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
của tỉnh được dành cho xuất khẩu. Lợi nhuận từ xuất khẩu chè đã góp phần không nhỏ trong việc phát triển kinh tế- xã hội của tỉnh. Không những thế, xuất khẩu chè và tạo thói quen uống chè cho người nước ngoài là một trong những biện pháp hữu hiệu trong việc xây dựng và quảng bá hình ảnh về đất nước và con người Việt Nam nói chung và quê hương Đất tổ nói riêng.
Tuy nhiên một thực tế cho thấy chè xuất khẩu của tỉnh chưa thực sự có uy tín, chưa có chất lượng cao so với các nước trong khu vực và thế giới, thậm chí ngay cả trong nước. Nguyên nhân cơ bản của vấn đề này nằm ngay trong những khâu đầu của quy trình sản xuất, từ xây dựng vùng nguyên liệu, chọn giống, công nghệ chế biến,… Hầu hết các doanh nghiệp chế biến và xuất khẩu chè đều gặp khó khăn về nguồn nguyên liệu đầu vào, giá cả biến động, sản xuất manh mún, thậm chí phải đối mặt với nguy cơ mất thị trường. Mặc dù phần lớn sản lượng chè của tỉnh sản xuất ra dành cho xuất khẩu song chủ yếu dưới dạng nguyên liệu, chưa định vị được thương hiệu, giá thành thấp, dẫn đến thu nhập của người trồng và sản xuất chè còn chưa cao. Ngành sản xuất và xuất khẩu chè chưa phát huy được tiềm năng thế mạnh, khẳng định là ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh.
Trong tiến trình hôi nhập kinh tế quốc tế đang diễn ra mạnh mẽ hiện nay, với tư cách là ngành sản xuất và xuất khẩu mũi nhọn của tỉnh Phú Thọ, ngành chè cũng không thể đứng ngoài cuộc. Tham gia vào thị trường chè thế giới đòi hỏi chè của tỉnh Phú Thọ phải chủ động tìm biện pháp đẩy mạnh xuất khẩu.
Xuất phát từ những lý do trên, việc thực hiện đề tài: “ Một số giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu chè của tỉnh Phú Thọ trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế” là hết sức cần thiết.
Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu chung: Đưa ra một số các giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu chè của tỉnh Phú Thọ trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay.
Mục tiêu cụ thể:
Hệ thống hoá cơ sở lý luận về hoạt động xuất khẩu.
Đánh giá thực trạng xuất khẩu chè của tỉnh Phú Thọ hiện nay.
Thông qua những nghiên cứu đề ra những giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu chè của tỉnh Phú Thọ trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế.
Đối tượng nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu hoạt động sản xuất, chế biến và xuất khẩu sản phẩm chè của tỉnh Phú Thọ.
Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng phương pháp thống kê số liệu, đánh giá thực trạng xuất khẩu chè của tỉnh Phú Thọ, kết hợp với biện pháp tổng hợp dữ liệu, phân tích thị trường và dự báo từ đó đưa ra một số giải pháp cơ bản đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu chè của tỉnh Phú Thọ.
Phạm vi nghiên cứu
Về mặt nội dung: Đề tài tập trung nghiên cứu hoạt động xuất khẩu
Về mặt không gian: Đề tài tập trung nghiên cứu trên địa bàn tỉnh Phú Thọ và tham khảo một số tỉnh lân cận.
Về mặt thời gian: Đề tài tập trung nghiên cứu trong giai đoạn từ năm 2002 đến nay và đưa ra một số giải pháp cho giai đoạn tới.
Kết quả dự kiến đạt được
Về mặt lý luận: Đề tài làm rõ các vấn đề về xuất khẩu, hoạt động xuất khẩu sản phẩm. Phân tích một cách tổng quát tình hình hoạt động sản xuất, chế biến và xuất khẩu chè của Phú Thọ hiện nay và những cam kết và yêu cầu của các thị trường chính đối với sản phẩm chè trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay.
Về mặt thực tiễn: Đề tài đi phân tích, đánh giá thực trạng xuất khẩu sản phẩm chè của tỉnh Phú Thọ
Về mặt giải pháp: Từ đó đưa ra một số giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu chè của tỉnh Phú Thọ.
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG
XUẨT KHẨU HÀNG HOÁ
1.1. LÝ THUYẾT CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU
1. Khái niệm về xuất khẩu và xuất khẩu hàng hoá
Xuất khẩu được hiểu là hoạt động bán hàng hoá, dịch vụ sản xuất trong nước cho người nước ngoài. Nếu hiểu theo nghĩa rộng nhất, xuất khẩu bao gồm việc bán hàng hoá, dịch vụ cho người nước ngoài (một mặt là thương mại hàng hoá) và xuất khẩu các yếu tố sản xuất.
Xuất khẩu hàng hoá là hoạt động đưa hàng hoá ra khỏi một nước ( từ nước này sang nước khác) để bán, trên cơ sở dùng tiền làm phương tiện thanh toán ( tiền có thể là ngoại tệ đối với một quốc gia hoặc đối với cả hai quốc gia) hoặc trao đổi láy một hàng hoá khác có giá trị tương đương.
Theo điều 2, Nghị định số 57/1998 NĐ-CP của Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam: Hoạt động xuất khẩu hàng hoá là hoạt động bán hàng hoá của thương nhân Việt Nam với thương nhân nước ngoài theo các hợp đồng mua bán hàng hoá, bao gồm cả hoạt động tạm nhập tái xuất và chuyển khẩu hàng hoá.
Theo khoản 1 điều 28 Luật Thương mại Việt Nam năm 2005: Xuất khẩu hàng hoá là việc hàng hoá được đưa ra ra khỏi lãnh thổ Việt Nam hoặc đưa vào khu vực đặc biệt nằm trên lãnh thổ Việt Nam được coi là khu vực hải quan riêng theo quy định của pháp luật.
Dù hiểu theo nghĩa nào thì hoạt động xuất khẩu nói chung và xuất khẩu hàng hoá nói riêng đều có những tác động to lớn đối với sự phát triển kinh tế- xã hội của mỗi quốc gia.
Các hình thức xuất khẩu hàng hoá
Hiện nay trên thế giới có rất nhiều hình thức xuất khẩu khác nhau nhưng nhìn chung có các hình thức chủ yếu sau:
Một là, xuất khẩu trực tiếp, Đây là hoạt động xuất khẩu các hàng hoá dịch vụ do chính doanh nghiệp sản xuất ra hoặc đặt mua từ các doanh nghiệp sản xuất trong nước, sau đó xuất khẩu những sản phẩm này sang các quốc gia khác với danh nghĩa là hàng của mình. Ưu điểm của hình thức này là giúp các doanh nghiệp hay quốc gia khẳng định được uy tín trên thị trường quốc tế bởi sự gắn kết giữa hàng hoá đó và thương hiệu của doanh nghiệp, quốc gia. Đồng thời thu được lợi nhuận cao, giảm các chi phí trung gian tạo điều kiện thâm nhập thị trường, chủ động trong sản xuất và xuất khẩu. Tuy vậy, hình thức này đòi hỏi một lượng vốn khá lớn và tiền ẩn nhiều rủi ro khó có thể báo trước.
Hai là, xuất khẩu gia công uỷ thác. Đây là hình thức các doanh nghiệp đứng ra nhập nguyên vật liệu hoặc bán thành phẩm cho các doanh nghiệp gia công, sau đó thu hồi thành phẩm để xuất cho bên nước ngoài. Doanh nghiệp đóng vai trò trung gian, là cầu nối giữa đơn vị gia công và đơn vị uỷ thác. Kết thúc hợp đồng doanh nghiệp được hưởng tỷ lệ phần trăm nhất định theo giá của lô hàng. Hình thức này không đòi hỏi doanh nghiệp phải bỏ vốn đầu tư nhưng phần trăm thu được không nhiều.
Ba là, xuất khẩu uỷ thác. Đây là hình thức doanh nghiệp đóng vai trò trung gian xuất khẩu, làm thay cho các doanh nghiệp có hàng những thủ tục cần thiết để xuất khẩu hàng và hưởng phần trăn theo giá trị hàng xuất khẩu đã được thoả thuận. Hình thức này có ưu điểm là mức độ rủi ro thấp, không cần vốn mua hàng nhưng lợi nhuận bị phân chia, mất sự liên hệ trực tiếp với thị trường đồng thời đòi hỏi doanh nghiệp phải có cán bộ kinh doanh có kinh nghiệm về nghiệp vụ xuất nhập khẩu.
Bốn là, buôn bán đối lưu. Đây là phương thức giao dịch trao đổi hàng hoá trong đó xuất khẩu kết hợp chặt chẽ với nhập khẩu, người bán đồng thời là người mua, lượng hàng giao dịch đi có giá trị tương ứng với lượng hàng nhận về. Thực chất của hình thức này là sự mở rộng của phương thức giao dịch hàng đổi hàng.
Năm là, xuất khẩu theo nghị định thư. Hình thức xuất khẩu này nhằm mục đích thực hiện những thoả thuận đã được ký kết giữa chính phủ của các quốc gia với nhau. Hình thức xuất khẩu nầy đảm bảo được khả năng thanh toán là rất cao nhưng đi kèm với nó là liên quan đến uy tín, lợi ích của quốc gia trên thị trường quốc tế mà không phải doanh nghiệp nào cũng có thể đáp ứng được.
Sáu là, xuất khẩu tại chỗ. Đây là hình thức mà hàng hoá và dịch vụ có thể chưa vượt ra khỏi biên giới quốc gia nhưng ý nghĩa kinh tế của nó cũng giống như hoạt động xuất khẩu. Đó là việc cung cấp hàng hoá, dịch vụ cho các đoàn ngoại giao, khách du lịch quốc tế,…Hoạt động xuất khẩu này đang được phổ biến có nhiều ưu điểm như giảm được chi phí vận chuyển, độ rủi ro thấp.
Bảy là, gia công xuất khẩu. Đây là một hình thức kinh doanh theo đó một bên nhập nguyên vật liệu hoặc bán thành phẩm từ bên đặt gia công sau đó chế biến thành thành phẩm theo yêu cầu của bên đặt gia công.Hình thức này giúp bên nhận gia công tạo công ăn việc làm cho người lao động, nhận được các thiết bị công nghệ tiên tiến để phát triển sản xuất. tuy nhiên doanh nghiệp sẽ bị động, chất lượng sản phẩm không đều.
Tám là, tạm nhập tái xuất. Đây là việc xuất khẩu những hàng hoa trước đây đi nhập khẩu về nhưng vẫn chưa tiến hành các hoạt động chế biến. Mục đích của việc tái xuất khẩu là mua rẻ hàng hoá ở nước này sau đó bán đắt ở nước khác và thu số ngoại tệ lớn hơn số vốn bỏ ra. Hàng hoá có thể đi từ nước xuất khẩu đến nước tái xuất rồi sang nước thứ ba hoặc có thế đi thẳng từ nước xuất khẩu sang nước nhập khẩu.
1.1.3. Nội dung của hoạt động xuất khẩu:
a. Quy mô xuất khẩu
Xác định quy mô xuất khẩu một mặt hàng bao gồm việc xác định sản lượng cũng như doanh thu của mặt hàng đó. Về mặt logic, sản phẩm có sức cạnh tranh cao, dễ bán trên thị trường thì sẽ có doanh thu cao. Ngược lại, sức cạnh tranh của sản phẩm thấp thì doanh thu thu được từ hoạt động thương mại cũng nhỏ hơn. Việc xác định quy mô, tốc độ xuất khẩu nói chung phụ thuộc vào quy mô, tốc độ tăng trưởng kinh tế và sự biến động trên thị trường quốc tế. Khi nhu cầu thị trường tăng lên, doanh thu xuất khẩu cao và tốc độ xuất khẩu cũng tăng trưởng đều đặn với cùng xu hướng phản ánh khả năng thỏa mãn nhu cầu và thị hiếu thị trường cũng như sức cạnh tranh của hàng hóa so với các đối thủ khác.
b. Chi phí sản xuất và giá sản phẩm xuất khẩu
Chi phí để tạo ra một hàng hóa là chi phí tính trên một đơn vị sản phẩm có xem xét tương quan với chất lượng sản phẩm đó. Chi phí sản xuất hàng hóa, đặc biệt là nông sản dựa trên lợi thế so sánh của mỗi quốc gia, khu vực. Các nước có lợi thế so sánh trong hoạt động sản xuất nông sản, nhờ tích lũy kinh nghiệm qua nhiều thế hệ, cũng như điều kiện tự nhiên thuận lợi cho các giống cây phát triển Tuy nhiên, hiện nay cạnh tranh nhằm giảm chi phí sản xuất nông sản xuất khẩu không chỉ dựa vào điều kiện tự nhiên thuận lợi và kinh nghiệm trong sản xuất, mà phải dựa trên hiệu quả của tất cả các khâu: sản xuất, thu mua, vận chuyển, chế biến, kho bãi, cầu cảng… Bên cạnh đó, chi phí sản xuất chỉ là điều kiện cần chứ chưa đủ để nâng cao sức cạnh tranh cho hàng hóa xuất khẩu, vì nông sản xuất khẩu muốn cạnh tranh với các đối thủ khác còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố như chiến lược kinh doanh, marketing, quản trị xuất khẩu, khả năng dự báo và đối phó với những thay đổi bất thường của thị trường quốc tế…
Giá cả của bất kỳ loại hàng hóa xuất khẩu nào cũng phục thuộc vào các yếu tố như: chi phí, nhu cầu, mức độ cạnh tranh, các quy định về luật và thuế xuất – nhập khẩu, khả năng thống trị thị trường của mặt hàng… Thông thường, cùng một mặt hàng với cùng chất lượng, kiểu dáng bao bì… người tiêu dùng sẽ chọn lựa dựa trên tiêu chuẩn về giá. Giá hàng hóa của hãng càng rẻ càng có lượng tiêu thụ lớn. Tuy nhiên, giá cao cũng có tác dụng kích thích người mua, vì nó hàm ý giá trị của hàng hóa cao hơn. Giá cả của nông sản đặc biệt phụ thuộc vào công đoạn chế biến. Càng gia tăng công đoạn chế biến với kỹ thuật hiện đại, giá trị nông sản càng cao dẫn đến giá bán cũng sẽ gia tăng.
c. Cơ cấu và chất lượng hàng xuất khẩu
Chủng loại nông sản trên thế giới rất đa dạng, với nhiều kiểu, tên gọi và chất lượng khác nhau. Hơn thế, nông sản mà mỗi vùng miền với đặc điểm khí hậu, đất đai, nguồn nước, chế độ canh tác và giống lâu đời đã tạo nên rất nhiều loại đặc sản của từng địa phương.
Việc xác định loại nông sản xuất khẩu chính phải dựa trên lợi thế so sánh của mỗi quốc gia (lợi thế về điều kiện tự nhiên, nguồn lực, về kinh nghiệm…) cũng như yêu cầu của các thị trường tiềm năng.
d. Thị trường và thương hiệu nông sản xuất khẩu trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế
Việc xác định chỉ tiêu cho từng thị trường xuất khẩu nằm trong định hướng xuất khẩu của các quốc gia dưới áp lực cạnh tranh toàn cầu. Định hướng thị trường xuất khẩu không những giúp các quốc gia xác định lợi thế so sánh và yêu cầu từ thị trường từ đó tăng khả năng cạnh tranh của hàng hóa mà còn hỗ trợ các nhà quản lý xác định và dự báo được quy mô và chủng loại nông sản xuất khẩu làm cơ sở để đề xuất kế hoạch sản xuất cho kỳ tiếp theo. Do đó, định hướng thị trường xuất khẩu có tính quyết định tính khả thi của chiến lược.
Xác định chỉ tiêu thị trường xuất khẩu bao gồm: dự báo nhu cầu gạo trên thị trường quốc tế (các thị trường truyền thống và các thị trường tiềm năng), xác định các yêu cầu về đảm bảo an toàn vệ sinh, các quy định kiểm tra, các yêu cầu về thời gian số lượng.
1.1.3. Các yếu tố tác động đến hoạt động xuất khẩu
Quan hệ chính trị ngoại giao
Một quốc gia muốn phát triển thị trường hàng hoá xuất khẩu phải có đường lối chính trị mở cửa hội nhập với thế giới một cách nhất quán và ổn định lâu dài, có quan hệ ngoại giao cởi mở được thể hiện cụ thể cụ thể bằng các hiệp định được ký kết và triển khai cụ thể cho từng thời kỳ. Việc thiết lập quan hệ ngoại giao giữa các nước là điều kiện tiên quyết thúc đẩy hoạt động xuất khẩu và tìm thị trường đối tác.
Chính sách thương mại của Nhà nước
Chính sách mậu dịch tự do: một nước theo đuổi chính sách mậu dịch tự do thì ở đó Nhà nước sẽ không can thiệp trực tiếp và quá trình điều tiết ngoại thương, Nhà nước sẽ mở cửa hoàn toàn thị trường nội địa để cho hàng hoá và vốn đầu tư tự do lưu thông và tạo điều kiện cho hoạt động thương mại quốc tế tự do phát triển.
Chính sách bảo hộ mậu dịch: khi sử dụng chính sách này Nhà nước thường áp dụng các công cụ, biện pháp thuế quan và phi thuế quan để tránh cho hàng hoá và doanh nghiệp trong nước khỏi cạnh tranh trực tiếp với hàng hoá và doanh nghiệp nước ngoài.
Thuế quan
Thuế quan được hiểu là loại thuế đánh vào mỗi đơn vị hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu hoặc quá cảnh.
Thuế xuất khẩu sẽ tác động đến giá cả của hàng hoá bán ra nước ngoài. Nếu Nhà nước đánh thuế vào hàng xuất khẩu sẽ làm cho giá cả của mỗi đơn vị hàng hoá xuất khẩu cao hơn so với khi không có thuế và sẽ làm giảm khả năng cạnh tranh của hàng hoá trên trường quốc tế. Do vậy, để khuyến khích hoạt động xuất khẩu, Nhà nước cần có những chính sách linh hoạt, miễn giảm thuế xuất khẩu cho các loại hàng hoá để mở rộng thị trường, tăng GDP cho nền kinh tế.
Hạn ngạch xuất khẩu
Hạn ngạch là quy định của Nhà nước về số lượng và giá trị của một loại hàng hoá hoặc một nhóm hàng hoá được phép xuất khẩu. Đây là công cụ quan trọng thứ hai sau thuế tác động trực tiếp đến hoạt động xuất khẩu hàng hoá. Trên thực tế thì để khuyến khích xuất khẩu, cách tốt nhất là Nhà nước không nên áp dụng hạn ngạch xuất khẩu trừ những trường hợp các mặt hàng có liên quan đến an ninh quốc gia như lúa gạo hoặc các hàng hoá xuất khẩu sang những thị trường mà tại đó có quy định hạn ngạch nhập khẩu.
Tỷ giá hối đoái
Tỷ giá hối đoái là một công cụ tác động tới hoạt động xuất nhập khẩu một cách gián tiếp, Các nước theo đuổi chính sách hướng về xuất khẩu thường sử dụng chính sách hạ giá đồng nội tệ, Khi ấy hàng hoá xuất khẩu sẽ rẻ hơn tương đói so với hàng hoá của các quốc gia khác. Điều này khuyến khích các doanh nghiệp xuất khẩu hàng hoá nhiều hơn, làm tăng thêm GDP cho nền kinh tế.
Quy định hải quan
Hàng hoá xuất khẩu phải được thông qua nhanh chóng. Nếu hoạt động hải quan phức tạp gây nhiều phiền hà cho người xuất khẩu thì sẽ làm mất cơ hội kinh doanh cho các doanh nghiệp. Do đó cần phải hoàn thiện quy trình nghiệp vụ hải quan, áp dụng các phương tiện kỹ thuật hiện đại phân loại hàng hoá theo mức độ quan trọng để từ đó thông quan nhanh chóng cho những hàng hoá thông thường.
Hỗ trợ xúc tiến thương mại
Nhà nước đầu tư tài chính và cơ sở vật chất kỹ thuật trang thiết bị cho việc thu thập thông tin thị trường thế giới hỗ trợ các doanh nghiệp xuất khẩu, giúp các doanh nghiệp giao lưu với các đối tác nước ngoài để tìm kiếm thị trường và cơ hội kinh doanh, đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu hàng hoá như tham gia hội chợ quốc tế, gặp gỡ trao đổi thông tin thương mại với các doanh nghiệp nước ngoài.
Hạn chế xuất khẩu tự nguyện
Đây là hình thức của hàng rào mậu dịch phi thuế quan theo đó quốc gia nhập khẩu đòi hỏi quốc gia xuất khẩu phải hạn chế bớt lượng hàng xuất khẩu sang nước mình một cách tự nguyện nếu không nước nhập khẩu sẽ áp dụng các biện pháp kiên quyết
1.1.4. Vai trò của hoạt động xuất khẩu đối với sự phát triển kinh tế xã hội
Đối với quốc gia xuất khẩu
Xuất khẩu tạo điều kiện cho quốc gia tận dụng lợi thế so sánh của mình, thúc đẩy phân công lao động xã hội
Chỉ có những hàng hoá có sức cạnh tranh cao thì mới có thể đứng vững trên thị trường thế giới. Do đó xuất khẩu giúp cho quốc gia có thể nhận biết thế mạnh của mình. Từ đó quốc gia tập trung nguồn lực để sản xuất và cung ứng những sản phẩm thuộc thế mạnh của mình, phân công lao động quốc tế được hình thành. Nguồn lực sẽ được phân bổ hiệu quả hơn trên cơ sở các quốc gia đều nhận thấy được lợi thế so sánh của mình.
Xuất khẩu tạo ra cơ hội cho tất cả các quốc gia nhất là các quốc gia đang phát triển có thể tận dụng được thời cơ, đẩy mạnh công nghiệp hoá trên cơ sở ứng dụng thành quả cách mạng khoa học công nghệ vào sản xuất.
Xuất khẩu tạo nguồn vốn chủ yếu cho nhập khẩu công nghệ, máy móc và những nguyên vật liệu cần thiết phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá
Xuất khẩu là động lực kích thích các ngành sản xuất phát triển, tăng thu nhập cho nền kinh tế và cải thiện đời sống nhân dân.
Mặc dù không phải là nguồn thu ngoại tệ duy nhất nhưng có thể khẳng định rằng đây là nguồn thu ngoại tệ chủ yếu nhất và bền vững nhất. Nguồn thu quan trọng nhất để nhập khẩu máy móc, công nghệ để phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước là từ xuất khẩu. Xuất khẩu vừa là tiền đề, là động lực của nhập khẩu. Thúc đẩy xuất khẩu để tăng khả năng nhập khẩu mở rộng sản xuất và tăng trưởng kinh tế. Đây chính là sự kết hợp giữa nội lực và ngoại lực trong tăng trưởng kinh tế. Ngoại tệ thu được từ xuất khẩu còn là nguồn tăng dự trữ ngoại tệ quốc gia để ổn định và điều tiết nền kinh tế.
Xuất khẩu đóng góp vào chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất sản phẩm
Xuất khẩu cho phép mở rộng quy mô sản xuất, tạo ra khả năng mở rộng thị trường tiêu thụ nhờ vậy mà sản xuất có thể phát triển và ổn định.
Sự phát triển của hoạt động sản xuất hàng xuất khẩu tạo điều kiện cho các ngành sản xuất phụ trợ phát triển theo. Nếu quốc gia phát huy được thế mạnh nhờ hàng xuất khẩu sẽ là động lực để chuyển dịch cơ cấu sản xuất.
Do phải cạnh tranh với hàng hoá của các quốc gia khác nhau trên thị trường thế giới nên nhà sản xuất hàng xuất khẩu sẽ phải chú ý nhiều hơn đến chất lượng, mẫu mã sản phẩm xuất khẩu cho phù hợp với nhu cầu thị trường. Sự cạnh tranh này đòi hỏi doanh nghiệp phải tổ chức lại sản xuất, hoàn thiện công việc quản trị sản xuất và kinh doanh, hình thành cơ cấu sản xuất luôn thích ứng được với những thay đổi của thị trường. Do đó xuất khẩu tạo tiền đề kinh tế, kỹ thuật nhằm cải tạo và nâng cao năng lực sản xuất.
Xuất khẩu có tác động tích cực đến việc giải quyết công việc làm và cải thiện đời sống nhân dân
Sản xuất hàng xuất khẩu là nơi thu hút hàng triệu lao động vào làm việc và tăng thu nhập cho người lao động không chỉ ở những doanh nghiệp, những địa phương sản xuất hàng xuất khẩu mà cả ở những địa phương khác do sự di chuyển của mọt bộ phận lao động vào sản xuất hàng xuất khẩu sẽ tạo cơ hội cho những người khác có khả năng kiếm được việc làm. Nhờ vậy mà đời sống của người dân được nâng cao, thất nghiệp giảm và tệ nạn xã hội cũng có xu hướng giảm theo
Xuất khẩu tạo nguồn vốn nhập khẩu vật phẩm tiêu dùng thiết yếu, phục vụ trực tiếp đời sống và đáp ứng ngày càng cao nhu cầu tiêu dùng phong phú của người dân.
Đồng thời sự phân công lao động mới đòi hỏi lao động được sử dụng nhiều hơn, năng suất lao động cao. Rõ ràng xuất khẩu tác động tích cực tới tay nghề và thay đổi thói quen của những người sản xuất hàng xuất khẩu.
Xuất khẩu là cơ sở để thúc đẩy và mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại, tăng cường địa vị kinh tế của mỗi quốc gia trên thị trường thế giới.
Nhờ có hoạt động xuất khẩu mà phân công lao động quốc tế ra đời. Từ đó làm các quốc gia phụ thuộc vào nhau nhiều hơn. Các quốc gia sẽ đặt mục tiêu kinh tế lên hàng đầu thúc đẩy quan hệ ngoại giao phát triển. Đến lượt nó, quan hệ ngoại giao là điều kiện tiền đề thúc đẩy hoạt động thương mại quốc tế, đẩy mạnh xuất khẩu.
Đới với quốc gia nhập khẩu
Không chỉ có vai trò to lớn đối với quốc gia xuất khẩu, hoạt động xuất khẩu còn đóng vai trò tích cực trong đời sống kinh tế, đời sống xã hội của quốc gia tiếp nhận nhập khẩu. Cụ thể như:
- Tiếp nhận nhập khẩu từ quốc gia khác tạo điều kiện cho người tiêu dùng tại quốc gia đó được tiêu dùng những sản phẩm hàng hoá đa dang, phong phú hơn. Vì trên thực tế không một quốc gia nào có đủ điều kiện nguồn lực để tự sản xuất ra tất cả các loại hàng hoá, dịch vụ phục vụ nhu cầu tiêu dùng trong nước. Nếu có thì chi phí sản xuất rất cao. Nhờ có thương mại quốc tế và hoạt động xuất nhập khẩu mà các quốc gia có thể giảm được chi phí sản xuất đồng thời có được nhiều loại hàng hoá phục vụ tiêu dùng trong nước.
- Tiếp nhận xuất khẩu từ quốc gia khác tạo điều kiện cho quốc gia đó tập trung nguồn lực vào việc sản xuất các hàng hoá thế mạnh. Do chuyên môn hoá sản xuất mà vai trò của quốc gia sẽ được nâng cao trên trường quốc tế.
TỔNG QUAN NGÀNH CHÈ VÀ HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU CHÈ CỦA TỈNH PHÚ THỌ
1.2.1. Lịch sử hình thành ngành chè của tỉnh Phú Thọ
Nói đến chè Phú Thọ là người ta liên tưởng tới một sản phẩm có truyền thống lịch sử lâu đời, gắn liền với truyền thuyết Vua Hùng và lịch sử ngành chè Việt Nam. Phú Thọ được xem như cái nôi của ngành chè Việt Nam. Năm 1885 Pháp đã tiến hành khảo sát về cây chè trên đất Phú Thọ và về sản xuất chè ở Việt Nam. Đến giai đoạn 1890 - 1891 tại vùng giữa sông Đà và sông Hồng một đồn điền kinh doanh chè đầu tiên đã được xây dựng tại xã Tình Cương (Cẩm Khê) với diện tích 60ha. Sau khi nghiên cứu về nông học, để khai thác hết các tài nguyên thế mạnh của vùng trung du miền núi, năm 1918 toàn quyền Đông Dương đã ký quyết định thành lập Trại nghiên cứu nông lâm nghiệp Phú Thọ, tiền thân của Viện nghiên cứu chè ngày nay…
Với ưu thế về đất đai, khí hậu tập quán và truyền thống lâu đời của người dân làm chè Phú Thọ có một lợi thế lớn về sản xuất và chế biến chè, lại có hệ thống đường xá giao thông cả ba tuyến rất thuận lợi: chính vì những thế mạnh đó mà ngay từ sau năm 1956 khu công nghiệp chế biến chè đầu tiên của cả nước do Liên Xô giúp đỡ xây dựng tại Đào Giã (Thanh Ba) và Hương Xạ (Hạ Hòa) tiếp theo đó đến những năm 1970 các nhà máy Đoan Hùng, Thanh Sơn....
Hương chè Phú Thọ đã được xuất sang Châu Âu và các nước trên thế giới. Với những thế mạnh và vị thế cây chè Phú Thọ mà từ những năm đầu của thập kỷ 90, các công ty tập đoàn kinh tế nước ngoài đã tìm đến Phú Thọ tạo dựng cơ hội làm ăn. Cho đến nay có thể nói chưa có một địa phương nào, tỉnh nào có một hệ thống chế biến chè đa dạng tinh xảo và lớn như Phú Thọ…Vì vậy, Chè trở thành biểu tượng văn hoá của mảnh đất Phú Thọ, gắn bó chặt chẽ với đời sống của người dân Phú Thọ. Nói đến Phú Thọ, người ta nghĩ ngay đến “Rừng cọ, đồi chè, đồng xanh ngào ngạt”…
1.2.2. Những đặc trưng cơ bản của chè của tỉnh Phú Thọ
- Về hương vị
Với các thành phần hoá học của lá chè tại Phú Thọ đã làm cho các sản phẩm chế biến chè Phú Thọ có hương vị đặc biệt khác hẳn cây chè ở những vùng đất khác là “Chè ngọt mát, thơm mùi ngô tươi non, phảng phất mùi hoa bưởi. Người thưởng thức có cảm giác như trong chất chè có cả sự mát rượi của dòng sông, hương thơm của cánh bãi. Hương hoa bưởi thoảng như hương của khu vườn, có cả tiếng ong bay”.
Đối với chè xanh: Hình dáng màu xanh tự nhiên, cánh chè dài, xoăn đều non, có tuyết. Màu nước xanh và trong sáng. Hương thơm mạnh tư nhiên, thoáng cốm. Vị đậm, dịu, có hậu ngọt.
Đối với chè đen thì có: Hình xoăn, tương đối đều, đen tự nhiên, thoáng tuyết. Mầu nước đỏ nâu sáng, rõ viền vàng. Mùi thơm đượm. Vị đậm, dịu, có hậu ngọt. Nhà bác học Lê Quý Đôn đã từng mô tả: “Mỗi lần bỏ vào miệng thì tận trong răng lưỡi đã nảy ra vị thơm tựa như nước thánh trời cho”. “Cùi chè trong như hổ phách, hạt nhỏ, nước ngọt mát và thơm lạ lùng”. Đó là thứ chè nước, loại chè đại chè của xứ chè; chưa nói đến Chè, Chè Đường Phèn của Phú Thọ mới thực quý, hương vị càng đậm đà, thơm ngon hơn. Chè có vị ngọt, tính mát, có tác dụng an thần, nhuận tràng, bổ thần kinh, tăng cường thể lực, sức khoẻ đối với người mới ốm dậy, người già, trẻ nhỏ.
Ngoài chè tươi, long chè (cùi chè xấy khô gồm long xoáy,…), mật ong chè, phấn hoa cũng là những sản phẩm quí, vừa là món ăn bổ dưỡng, vừa là vị thuốc bồi bổ sức khoẻ; hạt chè được sử dụng trong các bài thuốc đông y.
- Về giá trị văn hoá - xã hội:
Cây chè, không biết tự bao giờ đã gắn bó với người dân Phú Thọ, nhiều gia đình đã hết đói nghèo, khấm khá lên từ trồng chè và chế biến chè thành nhiều loại sản phẩm đa dạng, phong phú hơn như Long chè, nước chè đóng hộp, mật ong chè, phấn hoa chè, chè sen long chè…
Do giá trị của cây chè, thời phong kiến, nhiều gia đình lấy vườn chè làm của hồi môn cho con cái đi ở riêng. Đặc biệt, thời phong kiến, các quan lại địa phương đã đem những sản vật quí cống nạp; trong đó có Chè được đem đi“Tiến Vua”. Hiện nay vẫn còn di tích cây “Chè Tiến”, hay còn gọi là cây chè Tổ ở trước cửa Đình Hiến, phường Hồng Châu, Thị xã Phú Thọ.
Vì vậy, Chè trở thành biểu tượng văn hoá của mảnh đất Phú Thọ, gắn bó chặt chẽ với đời sống của người dân Phú Thọ. Nói đến Phú Thọ, người ta nghĩ ngay đến “Chè bổ ngập dao phay”. Trong dân gian, nhiều thứ được gắn với Chè như: Con gái xứ Chè, Mắt đen hạt Chè, Mùi thơm hương Chè, Giọng nói ngọt như vị Chè…
- Về tính kinh tế nhờ quy mô lớn:
Phú Thọ với địa hình chủ yếu là hệ thống đồi bát úp, đất có độ phì nhiêu cao độ PH rất thích hợp cho cây chè sinh trưởng và phát triển. Đặc biệt người dân ở Phú Thọ đã có truyền thống trồng chè và chế biến chè từ rất lâu đời, cơ sở chế biến chè xanh, chè đen (Orthordox, CTC) đã được xây dựng ở đây từ những năm đầu thập kỷ 60 của thế kỷ 20. Tỉnh Phú Thọ có 13 huyện, thành, thị thì có tới 10 huyện, thị có diện tích chè. Cũng vì những lý do đó mà nhiều công ty nước ngoài vào tìm hiểu và đầu tư để sản xuất chè. Hiện tại có 2 công ty có vốn đầu tư nước ngoài là Công ty chè Phú Đa là liên doanh giữa Tổng Công ty chè Việt Nam và tập đoàn Foodsuff của Irắc, Công ty chè Phú Bền 100% vốn đầu tư nước ngoài của tập đoàn Sipel của Vương quốc Bỉ và trên 45 doanh nghiệp, cơ sở chế biến chè trong nước (chưa kể các cơ sở sao chế quy mô hộ gia đình) với công suất thiết kế 600 tấn chè búp tươi/ngày. Diện tích chè không ngừng tăng lên. Đến nay diện tích chè trên toàn tỉnh đạt trên 12 nghìn ha, tăng trên 4 nghìn ha so với năm 2000. Huyện có diện tích chè lớn nhất là Thanh Sơn, là huyện có Công ty chè Phú Đa hoạt động trong nhiều năm đạt hiệu quả. Xã Văn Miếu và Võ Miếu (huyện Thanh Sơn) được nhiều người biết đến bởi có diện tích chè khá lớn, mỗi xã có trên 200 ha. Các huyện Thanh Ba, Hạ Hòa, Đoan Hùng cũng là những huyện có diện tích chè lớn của tỉnh do có Công ty chè Phú Bền. Để đáp ứng nhu cầu xuất khẩu diện tích chè trồng mới chủ yếu bằng các giống LDP1, LDP2 có năng suất chất lượng cao phù hợp với cả chế biến chè xanh và chè đen. Song song với trồng mới mở rộng diện tích, các địa phương tăng cường đầu tư cải tạo diện tích chè cằn xấu, thâm canh diện tích chè kinh doanh. Do vậy năng suất sản lượng chè búp tươi tăng liên tục. Đến nay năng suất chè búp tươi bình quân trên diện tích cho sản phẩm đạt trên 65 tạ/ha, sản lượng trên 60 nghìn tấn, so với năm 2000 năng suất tăng hơn 18 tạ/ha, sản lượng tăng trên 30 nghìn tấn.
Chính nhờ yếu tố quy mô lớn mà Phú Thọ đã đáp ứng được nhu cầu của khách hàng quốc tế về chè nguyên liệu /chè bán thành phẩm với số lượng đặt mua lớn thường xuyên mà vẫn đảm bảo được chất lượng cao, với giá bán hợp lý. Điều này cũng lý giải tại sao các doanh nghiệp nước ngoài lại đầu tư xây dựng nhà máy chế biến chè tại Phú Thọ mà không phải là ở các địa phương khác (như Thái Nguyên chẳng hạn).
1.2.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến xuất khẩu chè của tỉnh Phú Thọ
Quan hệ chính trị ngoại giao
Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế ảnh hưởng mạnh mẽ tới xuất khẩu chè của Việt Nam nói chung và chè của Phú Thọ nói riêng. Việc hội nhập quốc tế thông qua các hiệp định thương mại song phương và đa phương, tham gia vào các định chế kinh tế khu vực và quốc tế sẽ tạo ra những cơ hội thuận lợi để đưa sản phẩm chè của chúng ta thâm nhập thị trường quốc tế.
Chính sách của Đảng, Nhà nước và của tỉnh Phú Thọ
Cũng như nhiều nước đang phát triển khác, ở Việt Nam đang hình thành nền kinh tế hướng ra xuất khẩu. Chính phủ Việt nam chủ trương đẩy mạnh xuất khẩu và hoan nghênh các nhà đầu tư nước ngoài vào Việt nam để khai thác những tiềm năng to lớn của Việt Nam như tài nguyên, sức lao động dồi dào để tổ chức sản xuất hàng xuất khẩu. Các công cụ chính sách thương mại được điều chỉnh, bổ sung, xây dựng mới cho phù hợp với cơ chế kinh tế thị trường và các cam kết quốc tế của Việt Nam.
Chủ trương đổi mới trong kinh tế của Đảng, cụ thể là các chính sách, cơ chế và giải pháp của các cấp, các ngành đã tạo môi trường đầu tư, sản xuất kinh doanh thông thoáng, kích thích các thành phần kinh tế tham gia sản xuất xuất khẩu( trong những năm qua, giá trị sản xuất các doanh nghiệp nhà nước đạt trung bình 29,5% kim ngạch, doanh nghiệp ngoài quốc doanh 6,25% kim ngạch, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đạt 64,22% kim ngạch). Cùng với chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước về phát triển kinh tế, tỉnh đã có nhiều chính sách, cơ chế nhằm phát huy tối đa các tiềm năng lợi thế của tỉnh trong công tác chỉ đạo đẩy mạnh xuất khẩu. Đó là các chính sách ưu đãi và kêu gọi đầu tư, chính sách hỗ trợ vốn, mặt bằng, nhân lực,… tạo điều kiện thuận lợi để các doanh nghiệp tham gia sản xuất xuất khẩu.
Thuế quan
Xuất khẩu chè đang phải đối mặt với nhiều khó khăn do những ràng buộc trong các hiệp định thương mại quốc tế mà Việt Nam đã và đang tham gia. Năm 2003, Việt Nam đưa vào danh mục cắt giảm tới 20% các mặt hàng có thuế suất cao trong đó có sản phẩm chè. Đồng thời cũng theo cam kết trong Hiệp định thương mại Việt Nam Hoa Kỳ, đến năm 2005, mức thuế trung bình của hàng hoá từ Mỹ nhập khẩu vào Việt Nam giảm từ 30-40% xuống còn 10-29%, trong đó riêng hàng nông sản đã cam kết giảm thuế đối với 195 dòng thu._.ế, chủ yếu là nông sản chế biến, mức thuế giảm từ 35,5% xuống 25,7%. Hiệp định Thương mại Việt Nam Hoa Kỳ sẽ tạo điều kiện cho hàng nông sản Việt Nam xâm nhập vào thị trường Mỹ do thuế MFN (theo quy chế tối huệ quốc) thấp hơn nhiều, nhưng cũng lại là thách thức lớn do khả năng cạnh tranh còn thấp. Đặc biệt, với việc tham gia gia nhập WTO thì việc giảm thiểu các biện pháp bảo hộ phi thuế quan trong sản xuất nông nghiệp trong nước cũng như xuất khẩu nông sản trong đó có sản chè là một yêu cầu khắt khe mà Việt Nam phải thực hiện.
Tỷ giá hối đoái
Một trong những yếu tố quan trọng khác là tỷ giá hối đoái. Do các nước xuất khẩu nông sản trong đó có xuất khẩu chè của Việt Nam chủ yếu giao dịch bằng đồng đô la nên khi đô la giảm giá sẽ kích thích cầu tăng, áp lực đẩy giá lên. Ngoài ra, đồng đô la giảm làm cho các nhà đầu cơ có xu hướng chuyển đầu tư từ nắm giữ đô la sang nắm giữ các hàng hóa trong đó có nông sản. Những áp lực này đã thúc đẩy tăng cầu, kích thích giá nông sản tăng lên. Tuy nhiên, bắt đầu từ tháng 6-2008 đồng đô la đã tăng giá mạnh so với đồng euro, dẫn đến một số tác động làm giảm giá hàng nông sản trong đó có sản phẩm chè.
Do đa số các nước xuất khẩu nông sản, trong đó có Việt Nam, đều thu bằng đô la nên giá nông sản tính theo đô la giảm đã ảnh hưởng xấu đến thu nhập xuất khẩu. Tuy nhiên, có một khía cạnh khác của vấn đề tỷ giá ít được nhắc tới, đó là tỷ giá của đồng tiền các nước này so với đô la. Nếu đồng nội tệ mà giảm so với đồng đô la sẽ thúc đẩy xuất khẩu và ngược lại, và tính trên bình diện chung, nước nào giảm giá đồng nội tệ càng nhiều thì càng có ưu thế hơn trong thúc đẩy xuất khẩu. Tất nhiên, việc điều chỉnh tỷ giá còn phụ thuộc vào các cán cân vĩ mô khác chứ không thể tùy ý phá giá chỉ để thúc đẩy xuất khẩu được.
Số liệu cho thấy các nước xuất khẩu nông sản lớn trên thị trường thế giới cạnh tranh trực tiếp với Việt Nam ở các mặt hàng nông sản mũi nhọn như gạo, cà phê, cao su, hồ tiêu, điều như Thái Lan, Malaysia, Ấn Độ, Brazil, Colombia…đều đã giảm giá mạnh đồng tiền so với đồng đô la từ mức 13-33%, trong khi đó con số này với Việt Nam chỉ ở mức 5%. Như vậy, sự giảm giá đồng tiền đã vô hình trung làm cho các nước này hạn chế thiệt hại gây ra bởi suy giảm giá của thị trường thế giới khiến hàng xuất khẩu nông sản của Việt Nam ở vào thế khó cạnh tranh hơn.
Hỗ trợ xúc tiến thương mại
Hoạt động của cơ quan quản lý nhà nước về thương mại, đặc biệt là cấp tỉnh, công tác nghiên cứu qui hoạch phát triển, xử lý và cung cấp thông tin, triển khai các hoạt động xúc tiến thương mại là hết sức quan trọng. Vai trò của việc thiết lập và kết nối các kênh thông tin về thị trường quốc tế và thị trường nội địa của các cơ quan quản lý nhà nước, các Hiệp hội chè Việt Nam, các tổng công ty chè Việt Nam nhằm tạo lập mạng thông tin rộng nhưng có sự tập trung đủ mạnh, hình thành nên trung tâm có khả năng phân tích, xử lý và cung cấp thông tin thị trường đến các doanh nghiệp và người sản xuất kinh doanh một cách nhanh chóng, hiệu quả. Đặc biệt thông tin phản ánh diễn biến thị trường - giá cả từ các địa phương, các hiệp hội, doanh nghiệp và các bộ, ngành có ảnh hưởng lớn tới giá trị sản xuất và xuất khẩu.
1.2.4. Các yếu tố tự nhiên ảnh hưởng đến diện tích, năng suất, sản lượng chè
Khí hậu
Phú Thọ nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, điểm nổi bật là mùa đông không lạnh lắm, nhiệt độ trung bình hàng năm khoảng 23oC, lượng mưa trung bình khoảng 1.600-1800mm. Độ ẩm trung bình khoảng 85-87%.
Nhiệt độ là điều kiện quan trọng đối với sinh trưởng và phát triển, ảnh hưởng mạnh mẽ tới quá trình ra búp cũng như chất lượng của chè. Chè thích hợp ở vùng có nhiệt độ bình quân năm 200c – 24oC, nhiệt độ thấp nhất tuyệt đối không được vượt quá - 10c (Phú Thọ 4,9oC).
Ngoài ra nhiệt độ còn ảnh hưởng tới phẩm chất của búp chè. Với biểu diễn biến nhiệt độ và các tiểu vùng khí hậu như trên của Phú Thọ hoàn toàn thích hợp cho cây chè sinh trưởng, phát triển thuận lợi và cho năng suất, chất lượng tốt.
Lượng mưa cả năm của Phú Thọ trung bình đạt 1710 mm, tuy nhiên phân bố không đều trong năm, tập trung tới gần 70% vào mùa mưa (từ tháng 5 – tháng 10); mùa khô (từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau) lạnh và thường có mưa phùn. Lượng mưa từ tháng 2 - 4 tuy không nhiều nhưng độ ẩm không khí cao 85 – 87%, giai đoạn này là thời gian ra búp, nếu gặp mưa nhiều cộng với cường độ chiếu sáng tốt, là những điều kiện rất tốt để chè có năng suất và chất lượng cao..
Nước
Chè thuộc nhóm cây sinh trưởng mạnh, sinh khối lớn nên cần một lượng nước khá lớn, đặc biệt là vào thời kỳ sinh trưởng mạnh và phát triển búp. Lượng nước mưa hàng năm cần thiết 1.300 - 1.600 mm/năm (PT:1700mm). Chè là cây ưa nước, đồng thời là cây chịu hạn nhờ có rễ nấm nên có thể trồng ở vùng gò đồi.
Với lượng mưa như đã đề cập ở trên, cây chè Phú Thọ sẽ được cung cấp một lượng nước dồi dào để có thể phát triển đạt năng suất cao.
Ánh sáng
Cũng như nhiều loại cây trồng khác, để sinh trưởng phát triển tốt, chè cần đầy đủ ánh sáng và độ thoáng để đảm bảo quá trình quang hợp, hình thành các hợp chất hữu cơ nuôi thân, cành, lá, chồi và hoa quả; chè không chịu được nơi quá khô và ánh sáng gay gắt. Cây chè cũng thích hợp nhất với ánh sáng ôn hoà, lúc đó cây cho hiệu suất quang hợp lá cao nhất. Điều kiện ánh sáng tại các đồi chè ở Phú Thọ cũng rất phù hợp cho sự phát triển của loại cây này.
Thiên tai
Đây cũng là yếu tố ảnh hưởng không nhỏ tới chè, nhất là vào thời gian chè chổ búp đến khi thu hoạch. Phú Thọ thường chịu ảnh hưởng bởi mưa đá và lũ ống, lũ quét, làm cản trở quá trình sinh trưởng và gây thiệt hại đến năng suất và chất lượng của chè, đặc biệt có thể dẫn đến mất mùa chè do thiên tai.
Đất đai, thổ nhưỡng
Theo các kết quả khảo sát nghiên cứu, phân tích của các nhà khoa học, nhằm giải thích về nguyên nhân cũng như các nhân tố tạo nên sự “đặc sắc về chất lượng” và sự quyến rũ của “hương vị chè đất Tổ Vua Hùng”, thì với đặc thù là tỉnh miền núi nên đất tỉnh Phú Thọ chủ yếu thuộc nhóm feralit phát triển trên đá trầm tích, một phần trên đá macma và phù sa cổ, tầng đất dày trên 70cm do đó rất phù hợp với việc trồng và phát triển cây chè. Với điều kiện thổ nhưỡng như vậy đã hình thành các yếu tố vi lượng, đa lượng quan trọng của chè Phú Thọ, góp phần làm cho hương vị chè Phú Thọ có hương vị thơm ngon đặc biệt. Thực tế các vùng chè nổi tiếng đều tập trung trên đất gò đồi như: Yên Lập, Thanh Sơn, Tân Sơn, Hạ Hòa, Thanh Ba, Phù Ninh... Các loại đất của Phú Thọ có độ phì khá, thích hợp để canh tác nhiều loại cây trồng hàng năm và cây trồng lâu năm, trong đó có cây chè.
Yếu tố kỹ thuật
- Bón phân và kỹ thuật chăm sóc: Phân bón có vai trò quan trọng trong thâm canh cây chè, là nguồn cung cấp dinh dưỡng cho cây sinh trưởng và phát triển, từ đó cho năng suất cao và chất lượng quả tốt.
Nông dân Phú Thọ với bề dày hàng trăm năm của mình đã tích luỹ được nhiều kinh nghiệm quý về chăm sóc, thâm canh chè; được sự quan tâm giúp đỡ của các nhà khoa học, cán bộ kỹ thuật, ngày nay việc sử dụng phân bón cho cây chè nói riêng và thâm canh cây chè nói chung ở một số địa phương là khá cao; cung cấp đầy đủ nhu cầu dinh dưỡng cho cây sinh trưởng phát triển. Vì vậy, cây chè sinh trưởng và phát triển nhanh, cho năng suất cao, chất lượng tốt.
Hiện nay việc áp dụng quy trình kỹ thuật và công nghệ mới trong sản xuất, chủ yếu mới được áp dụng ở các hộ trồng chè thuộc khu vực như Thanh Ba, Hạ Hòa, Phù Ninh, Thanh Sơn, Tân Sơn, Yên Lập; ở đây người trồng chè có trình độ thâm canh cây chè tương đối cao; các vùng trồng chè khác vẫn chưa, hoặc ít áp dụng được quy trình thâm canh tiến bộ trên cây chè. Công tác bảo vệ thực vật trên cây chè được chú trọng; công nghệ thu hoạch và bảo quản sau thu hoạch còn ít được áp dụng.
Những diện tích thâm canh cây chè, được sự giúp đỡ của các nhà khoa học, các cơ quan nghiên cứu của Trung ương, tỉnh đã chuyển giao, ứng dụng khoa học kỹ thuật đến với người sản xuất, cộng với việc cung ứng đủ các vật tư cần thiết; người nông dân trồng chè đã thành thạo kỹ thuật điều tiết sinh trưởng, chăm sóc, bón phân hợp lý và khoa học, đồng thời khống chế được sinh trưởng, cân đối giữa quá trình sinh trưởng sinh dưỡng và sinh trưởng sinh thực để điều khiển việc ra búp, tạo được nguyên liệu tốt cho chế biến chè.
- Về giống và chè vụ
+ Giống: Tập đoàn giống có năng suất chất lượng cao như LDP1, LDP2, chè shan do viên nghiên cứu chè Phú Hộ cung cấp đã từng bước cải tạo và thay thế giống chè trung du năng suất chất lượng thấp. Trên cơ sở tập đoàn giống mới, chọn giống thích hợp phục vụ chế biến chè đen, chè xanh xuất khẩu.
+ Chè vụ: Vụ đông xuân trồng từ tháng 12 đến tháng 2 năm sau. Vụ thu từ tháng 8-9 khi cây cao 1m thì cắt tỉa phủ vào tục cây sẽ phát triển nhanh
1.2.5. Các đối thủ cạnh tranh của chè Phú Thọ
Một số tỉnh như Thái Nguyên, Tuyên Quang, Hà Giang, Yên Bái, Sơn La,…phát triển mạnh việc trồng và tiêu thụ chè, trở thành các đối thủ trực tiếp, chia sẻ thị trường và cạnh tranh với chè Phú Thọ. Tuy nhiên, chè Phú Thọ vẫn chiếm thị phần lớn nhất, giá bán tương đương một số loại chè trong cả nước, chỉ thấp hơn so với chè Thái Nguyên; thực tế vẫn đóng vai trò dẫn đầu thị trường chè trong nước.
Sản phẩm chè của tỉnh Phú Thọ đã khá nổi tiếng, được người tiêu dùng biết đến từ lâu và vùng nguyên liệu dồi dào có chất lượng cao trong khi sản phẩm chè của các đối thủ cạnh tranh (Tuyên Quang, Yên Bái, Hà Giang…) chưa nổi tiếng và ít được biết đến.
Bảng 1: So sánh các đối thủ cạnh tranh ở thị trường
các tỉnh Phía Bắc
Tỉnh
Đánh giá chung
Chất lượng
Giá cả TB 2007 (đ/kg)
Quảng bá
Thị phần
ĐBBB(%)
Chè Thái Nguyên
Ngon
80.000
Tốt
30-32
Chè Phú Thọ
Ngon
30.000
Khá
15-20
Chè Tuyên Quang
Trung bình
20.000
Chưa tốt
8-12
Chè Yên Bái
Trung bình
21.000
Chưa tốt
5-10
Chè Hà Giang
BThường
25.000
Chưa tốt
7-10
Chè khác
BThường
23.000
Chưa tốt
10-15
Nguồn: VINATEA (2007). Báo cáo tổng kết năm 2007
và phương hướng năm 2008, Hà Nội 11/2007
Hiện nay chè Việt Nam nói chung và chè Phú Thọ nói riêng chưa thể theo kịp với các sản phẩm chè của Trung Quốc, Đài Loan, Nhật Bản, Sri Lanka, Ấn Độ, Kenya… Đặc biệt, một số nước nói trên đã đầu tư mạnh vào việc xây dựng và quảng bá thương hiệu nên đã bán được sản phẩm với thương hiệu riêng của họ với giá bán cao, trong khi chè Phú Thọ xuất khẩu chủ yếu dưới hình thức bán thành phẩm với giá thấp, sau đó nhà nhập khẩu sẽ sao tẩm, đóng gói, dán nhãn mác của họ và bán lại ra thị trường với giá cao.
Những năm gần đây, ở một số nơi trên thị trường Việt nam xuất hiện chè Trung Quốc. Tuy lượng chưa lớn, nhưng khi thực hiện lộ trình bỏ thuế quan, sản phẩm nông sản của Trung Quốc, Đài Loan…có chất lượng tốt, giá thành hạ sẽ cạnh tranh gay gắt ngay trên “sân nhà” Việt Nam. Mặt khác nếu chúng không nâng cao chất lượng sản phẩm, cải tiến mẫu mã hàng xuất khẩu thì khó có thể cạnh tranh được với các nước có nên công nghiệp chế biến chè hiện đại như Trung Quốc, Nhật Bản, Sri Lanka, Ấn Độ, Kenya...
Tình trạng mất thị trường cũng thể hiện các doanh nghiệp tỉnh Phú Thọ chưa có chiến lược tìm kiếm thị trường lâu dài mà chỉ mang tính chất “đánh quả”, chạy theo số lượng nhiều hơn là chất lượng. Trong khi đó, sự cạnh tranh trên thị trường quốc tế ngày càng gay gắt. Nhiều doanh nghiệp nước ngoài sau một số lô hàng mua thử của doanh nghiệp Phú Thọ đã chuyển sang mua hàng của nước khác có chất lượng và giá cả cạnh tranh hơn.
1.2.6. Vai trò của ngành chè đối với sự phát triển kinh tế xã hội của tỉnh Phú Thọ:
Đối với ngành nông nghiệp
Ngành chè đã góp phần tích cực thúc đẩy công nghiệp hoá, hiện hoá đại nông nghiệp và nông thôn của tỉnh. Trong những năm qua, cây chè đã được xác định là cây trồng mũi nhọn. Việc trồng, đầu tư, cải tạo chè cằn xấu, thâm canh cao trên diện tích chè kinh doanh đã được các cấp, ngành, bà con nông dân tích cực thưc hiện. Điều đó đã tạo cơ hội cho tỉnh tận dụng thời cơ, đẩy mạnh công nghiệp hoá trên cơ sở ứng dụng thành tựu khoa học công nghệ vào trồng, sản xuất và chế biến chè.
Sản xuất chè đã góp phần chuyển dịch cơ cấu sản phẩm ngành nông nghiệp của tỉnh Phú Thọ. Phú Thọ là một tỉnh miền núi còn nhiều khó khăn trong phát triển kinh tế. Tỉnh đã chú trọng đầu tư phát triển những cây nông sản có giá trị và lợi thế cạnh tranh như chè, bưởi Đoan Hùng,...
Góp phần gia tăng tổng sản lượng ngành nông nghiệp
Giá trị sản xuất và chế biến: Giá trị sản xuất và chế biến chè năm 2007 đạt 200,8 tỷ đồng, tăng 2,37 lần so với năm 2002, bình quân hàng năm tăng 19,3 tỷ đồng/năm. Tỷ trọng giá trị sản xuất và chế biến chè trong ngành trồng trọt năm 2007 chiếm 10%, tăng 3% so với năm 2002.
Bảng 2: Cơ cấu giá trị cây chè trong ngành trồng trọt năm 2002
Nguồn: Niên giám thống kê 2006 tỉnh Phú Thọ
Bảng 3: Cơ cấu giá trị cây chè trong ngành trồng trọt năm 2007
Nguồn: Niên giám thống kê 2007 tỉnh Phú Thọ
Đối với ngành công nghiệp chế biến
Thúc đẩy tăng trưởng ngành công nghiệp chế biến. Ngành chế biến nông –lâm sản, thực phẩm của tỉnh luôn chiếm tỷ trọng cao ( từ 45%- 50%) trong cơ cấu giá trị sản xuất ngành công nghiệp bao gồm các mặt hàng như: chè, bia, bột ngọt,…
Đổi mới công nghệ và thiết bị của ngành công nghiệp chế biến. Hiện tại có 2 công ty có vốn đầu tư nước ngoài là Công ty chè Phú Đa là liên doanh giữa Tổng Công ty chè Việt Nam và tập đoàn Foodsuff của Irắc, Công ty chè Phú Bền 100% vốn đầu tư nước ngoài của tập đoàn Sipel của Vương quốc Bỉ đã đầu tư những dây chuyền sản xuất chế biến chè hiện đại, tạo điều kiện đổi mới công nghệ ngành công nghiệp chế biến chè của tỉnh.
c. Đối với tăng trưởng xuất khẩu
Đóng góp vào tổng kim ngạch xuất khẩu
Giá trị xuất khẩu: Năm 2007, giá trị xuất khẩu chè trên địa bàn đạt 37.500 ngàn USD, tăng 2,78 lần so với năm 2002. Tỷ trọng giá trị xuất khẩu chiếm 25% so với tổng giá trị xuất khẩu trên địa bàn, tăng 6% so với năm 2002.
Bảng 4: Cơ cấu giá trị xuất khẩu chè tỉnh Phú Thọ năm 2002
Nguồn: Niên giám thống kê 2006 tỉnh Phú Thọ
Bảng 5: Cơ cấu giá trị xuất khẩu chè tỉnh Phú Thọ năm 2007
Nguồn: Niên giám thống kê 2007 tỉnh Phú Thọ
Ngành chè đã chiếm một tỷ trọng giá trị và diện tích dáng kể trong ngành nông lâm nghiệp của tỉnh.
Tạo dựng thương hiệu cho sản phẩm của Phú Thọ nói riêng và của Việt Nam nói chung trên thị trường thế giới. Sản phẩm chè của tỉnh đã khá nổi tiếng và được người tiêu dùng biết đến từ lâu và đã được xuất khẩu đi nhiều nước như Nga, Trung Quốc, Ấn Độ, Đức, Mỹ, Hà Lan,…
d. Đối với xã hội
Cây chè đã góp phần tích cực xoá đói giảm nghèo cho các huyện trong tỉnh, thậm chí còn giúp người nông dân ở vùng sâu, vùng xa làm giàu. Sản xuất và chế biến chè xuất khẩu đã góp phần giải quyết việc làm cho người lao động. Tính đến năm 2008, trên địa bàn tỉnh có 62 cơ sở chế biến chè, giải quyết việc làm cho 6439 người lao động.
Không chỉ vậy cây chè còn giúp phủ xanh đất trống, đồi trọc và bảo vệ môi trường.
ẢNH HƯỞNG CỦA HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ ĐẾN XUẤT KHẨU CHÈ:
1.3.1. Ảnh hưởng của hội hập kinh tế quốc tế đến xuất khẩu chè
Hội nhập kinh tế quốc tế với việc Việt Nam gia nhập WTO là một sự kiện trọng đại, nó đánh dấu một mốc lịch sử quan trọng của đất nước trong quá trình hội nhập với nền kinh tế thế giới. Sự kiện này vừa mở ra cơ hội đồng thời cũng chứa đựng nhiều thách thức đối với nền kinh tế nói chung và ngành hàng chè nói riêng.
- Các nước thành viên WTO sẽ phải giảm thuế nhập khẩu chè, chúng ta lại có được sự thuận lợi trong việc bán hàng, tiến hành các dịch vụ bán buôn, bán lẻ ở nước ngoài mà chè của chúng ta lại chủ yếu để xuất khẩu nên đây là lợi thế lớn nhất của ngành chè Việt Nam.
- Các doanh nghiệp chúng ta sẽ có cơ hội được tự do hơn trong việc mở rộng thị trường trong và ngoài nước, đặc biệt là thị trường ngoài nước bởi những ưu đãi về thuế suất cùng các luật lệ mà Chính phủ các nước nhập khẩu chè của chúng ta buộc phải cắt giảm theo quy định chung, đặc biệt là mức thuế về chè là sản phẩm cuối cùng, tạo có hội cho chúng ta xuất khẩu chè thành phẩm đóng gói dưới 3kg.
- Các ưu đãi của Chính phủ cho các doanh nghiệp nhất là các doanh nghiệp Nhà nước sẽ không còn hoặc ngày càng giảm theo Luật doanh nghiệp và lộ trình mà các Chính phủ các nước thành viên WTO đã cam kết với nhau, trước hết là các ưu đãi trực tiếp cho xuất khẩu chè như: vay vốn, thưởng xuất khẩu… các hỗ trợ đầu vào như: thuế sử dụng đất, vật tư, nhiên liệu, năng lượng, thu thập tối thiểu và bảo hiểm của người lao động… Mức thuế nhập khẩu chè của Việt Nam cũng giảm dần. Như vậy các doanh nghiệp nước ngoài sẽ có nhiều cơ hội vào chiếm lĩnh thị trường về đất đai, vùng nguyên liệu, thiết bị, công nghệ, lao động, nguồn nguyên liệu, sản phẩm, dịch vụ, bán buôn, bán lẻ… của chúng ta có nghĩa là mức độ cạnh tranh trong nội bộ ngành chè sẽ ngày càng gia tăng, không tránh khỏi sẽ có những doanh nghiệp bị phá sản.
- Các ngành nghề mới, các sản phẩm mới thay thế chè cũng sẽ xuất hiện nhiều hơn ở nước ta với giá cả và dịch vụ ngày càng tốt hơn, có nghĩa là mức độ cạnh tranh của ngành chè với các ngành nghề khác sẽ ngày càng gia tăng. Trong bối cảnh tỷ suất lợi nhuận ngành chè còn quá thấp thì đây là một nguy cơ thiệt hại chung cho toàn ngành.
- Các doanh nghiệp không có cơ sở sản xuất chè hoặc chưa có mối quan hệ gắn bó với các cơ sở sản xuất chè nên khó có lợi thế cạnh tranh với các doanh nghiệp nước ngoài.
1.3.2. Yêu cầu của các thị trường lớn đối với sản phẩm nông sản và chè xuất khẩu
Đối với thị trường Liên minh châu Âu (EU)
Theo các chuyên gia đánh giá, EU có hệ thống tiêu chuẩn kỹ thuật và an toàn vệ sinh thực phẩm vào loại nghiêm ngặt nhất thế giới. Hàng nông sản của các nước đang phát triển trong đó có sản phẩm chè đưa vào EU phải tuân thủ theo các quy định sau đây:
- Quy định về vệ sinh: Các nước đưa hàng nông sản vào thị trường EU phải nằm trong danh sách các nước được xuất khẩu vào thị trường này. Từng lô hàng phải kèm theo giấy chứng nhận đáp ứng các yêu cầu của EU do cơ quan chức năng của nước xuất khẩu cấp.
- Quy định về chất lượng và an toàn thực phẩm: Theo các quy định của EEC các sản phẩm phải đáp ứng các tiêu chuẩn cụ thể về vệ sinh gồm độ tươi, độ sạch, mức nhiễm vi sinh tối đa (bao gồm các vi sinh vật gây bệnh và các vi sinh vật chỉ thị), dư lượng hoá chất (kim loại nặng, kháng sinh và thuốc trừ sâu), chất độc, sinh học biển và ký sinh trùng.
- Quy định về giám sát: Quy định của Ủy ban Kinh tế châu Âu (EEC) yêu cầu nhà sản xuất, xuất khẩu sang EU phải tổ chức giám sát hoạt động sản xuất và chế biến của mình phù hợp với Tiêu chuẩn chất lượng quốc tế (HACCP). Tiêu chuẩn HACCP là điều kiện quan trọng của doanh nghiệp xuất khẩu vào EU.
Đối với thị trường Mỹ
Thị trường Mỹ đã áp dụng một số quy định kỹ thuật như theo Bộ Luật Liên bang Mỹ 21 (CFR), chỉ có các doanh nghiệp nước ngoài nào đã thực hiện sản xuất theo chương trình tiêu chuẩn chất lượng quốc tế (HACCP) có hiệu quả mới được xuất khẩu hàng hóa vào thị trường Mỹ. HACCP nhấn mạnh tính nhất thiết phải kiểm soát dây chuyền công nghệ sản xuất để đảm bảo an toàn, vệ sinh cho sản phẩm thay vì kiểm soát sản phẩm cuối cùng. Để được phép đưa hàng nông sản vào Mỹ, doanh nghiệp phải gửi kế hoạch, chương trình HACCP cho Cục Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ (FDA). FDA xem xét kế hoạch, chương trình HACCP, khi cần thì kiểm tra. Nếu FDA kết luận là đạt yêu cầu thì cấp phép cho doanh nghiệp đó. FDA kiểm tra từng lô hàng nhập khẩu và nếu phát hiện có lô hàng không đảm bảo an toàn, vệ sinh thực phẩm hoặc có các vi phạm khác, lô hàng sẽ bị FDA từ chối nhập khẩu, bị gửi trả về nước hoặc tiêu huỷ tại chỗ với chi phí do doanh nghiệp chịu, đồng thời, tên doanh nghiệp sẽ bị đưa lên mạng Internet ở chế độ “Cảnh báo nhanh” (Detention). Đối với doanh nghiệp này, 5 lô hàng tiếp theo sẽ bị tự động giữ ở cảng nhập để kiểm tra theo chế độ tự động. Chỉ sau khi cả 5 lô hàng đó đều đảm bảo an toàn, vệ sinh và doanh nghiệp làm đơn đề nghị, FDA mới xoá tên doanh nghiệp đó ra khỏi danh sách “Cảnh báo nhanh”
c. Đối với thị trường Nhật Bản
Hiện nay, ở Nhật Bản việc kiểm tra hàng nông sản nhập khẩu được thực hiện theo Luật Vệ sinh thực phẩm. Khi hàng hóa nông sản được nhập khẩu vào Nhật Bản phải thông báo cho Bộ Y tế và Phúc lợi xã hội. Trải qua hàng loạt các công đoạn kiểm tra theo luật định như khi được thông báo, các thanh tra viên của Bộ này sẽ có mặt tại cảng để kiểm tra sản phẩm. Việc quyết định xem có cần thiết kiểm tra chuyến hàng nhập khẩu hay không phụ thuộc vào sự đánh giá các yếu tố, đó là: đã từng vi phạm trước đó hay chưa, lịch sử nhập khẩu của một mặt hàng cụ thể, liệu đã có sự vi phạm được cơ quan hải quan báo cáo, thông tin về lĩnh vực vệ sinh của hàng hoá hay thông tin do nước xuất khẩu cấp có đầy đủ không. Các nội dung sẽ được kiểm tra gồm có: Nhãn hàng, kiểm tra cảm quan: màu sắc, độ tươi sáng, mùi, vị, kiểm tra tạp chất, kiểm tra nấm mốc, kiểm tra container, bao bì,… Nếu như trong quá trình kiểm tra, lô hàng được xem là đạt yêu cầu, giấy chứng nhận sẽ được chuyển đến cơ quan quản lý nhập khẩu và sau đó được thông quan. Nếu như lô hàng bị kết luận là không đạt yêu cầu thì sẽ bị giữ lại để gửi trả về nước hoặc tiêu huỷ.
d. Yêu cầu của các thị trường khác
Ngoài những quy định trên còn có một số quy định riêng của một số thị trường khác như: Trung Quốc, Hàn Quốc, Thái Lan... Nhìn chung, ở các thị trường khác như Trung Quốc, Hồng Kông, Hàn Quốc, Thái Lan,… hệ thống các tiêu chuẩn kỹ thuật, an toàn vệ sinh không nghiêm ngặt như ở Nhật, EU hay Mỹ nhưng các nước này vẫn đòi hỏi giấy chứng nhận chất lượng sản phẩm của cơ quan có thẩm quyền của nước xuất khẩu hoặc nước nhập khẩu. Tuy nhiên, theo xu hướng của thế giới các thị trường này cũng sẽ nâng cao yêu cầu về kỹ thuật, an toàn vệ sinh trong thời gian tới.
1.3.3. Sự cần thiết đẩy mạnh xuất khẩu chè của tỉnh Phú Thọ trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế
Trong xu thế hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế đang diễn ra sâu sắc, phân công lao động quốc tế được hình thành, các quốc gia phải dựa vào nhau để cùng phát triển. Với điều kiện là một tỉnh miền núi, Phú Thọ có diện tích hơn 10 ngàn ha trồng chè, chè đã trở thành mặt hàng xuất khẩu truyền thống của tỉnh từ khá lâu. Năm 2007, giá trị sản xuất và chế biến của cây chè chiếm 10% trong cơ cấu giá trị ngành trồng trọt, giá trị xuất khẩu chè trên địa bàn đạt 25% so với tổng giá trị xuất khẩu trên địa bàn tỉnh. Mặc dù giá trị xuất khẩu chè của tỉnh luôn có sự tăng trưởng nhưng còn ở mức độ thấp và thiếu tính bền vững, chưa tương xúng với tiềm năng phát triển của ngành chè địa phương. sản phẩm chè xuất khẩu mới chủ yếu tập trung ở 2 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là Công ty chè Phú Bền, Công ty chè Phú Đa.
Chương 2: THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU CHÈ
CỦA TỈNH PHÚ THỌ
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG SẢN XUẤT VÀ CHẾ BIẾN CHÈ CỦA TỈNH PHÚ THỌ
2.1.1. Thực trạng vùng nguyên liệu:
Diện tích trồng chè
Trong những năm gần đây cây chè đã được xác định là cây trồng mũi nhọn. Việc trồng mới, đẩu tư cải tạo chè cằn xấu, thâm canh cao trên diện tích chè kinh doanh đã được các cấp, các ngành, bà con nông dân tích cực thực hiện. Bên cạnh chính sách phát triển chè của tỉnh còn có các dự án phát triển chè đang được khiển khai trên địa bàn tỉnh( ADB, AFD) đã giúp bà con nông dân giải quyết nhu cầu về vốn đầu tư, tập huấn hướng dẫn kỹ thuật trồng, chăm sóc, thâm canh, sản xuất chè an toàn. Vì vậy đã thúc đẩy việc trồng và chế biến chè của tỉnh.
Diện tích trồng chè giai đoạn 2002-2007 tăng bình quân 666 ha/năm, nâng tổng diện tích chè toàn tỉnh đến năm 2007 lên 13.700 ha quy đổi. Theo qui hoạch, đến năm 2010, diện tích cây chè toàn tỉnh đạt 15.000 ha, tăng 1.300 ha so với hiện nay.
Bảng 6: Diễn biến diện tích trồng chè giai đoạn 2002 - 2007
Nguồn: Niêm giám thống kê 2006, 2007 tỉnh Phú Thọ.
Diện tích chè được mở rộng bằng cách tận dụng diện tích vườn đồi, cải tạo vườn tạp và phát triển mới trên các vùng đất đồi chưa khai thác. Vùng chè sẽ được quy hoạch phát triển ở các huyện Thanh Sơn, Hạ Hoà, Thanh Ba, Yên Lập, Tân Sơn, Phù Ninh..
Năng suất và sản lượng chè
Năng suất, chất lượng sản phẩm của cây chè phụ thuộc vào yếu tố giống tốt hay xấu, tình hình sinh trưởng phát triển, điều kiện tự nhiên và các biện pháp kỹ thuật tác động. Biện pháp kỹ thuật tác động đúng, đủ, sẽ có tác động rất lớn đối với cây trồng, phát huy được tiềm năng năng suất, thậm chí nâng cao chất lượng sản phẩm thu hoạch. Ngược lại nếu tác động không đúng sẽ gây thiệt hại không nhỏ tới sản xuất.Nếu để cây tự điều chỉnh khi gặp điều kiện bất thuận sẽ làm suy giảm đáng kể năng suất, chất lượng sản phẩm. Có thể điều chỉnh bằng các chất điều hoà sinh trưởng từ bên ngoài sẽ tăng cường sức chống chịu, đồng thời tác động mạnh mẽ tới hoạt động sinh lý của cây, cũng là biện pháp nâng cao năng suất, phẩm chất nông sản. Như vậy cần có biện pháp tác động khoa học điều chỉnh quá trình sinh trưởng phát triển của cây, đảm bảo ổn định năng suất và chất lượng sản phẩm; đồng thời kéo dài chu kỳ kinh doanh của cây chè.
Bảng 7: Diễn biến sản lượng chè giai đoạn 2002 - 2007
Nguồn: Niêm giám thống kê 2006.2007 tỉnh Phú Thọ.
Qua biểu đồ chúng ta có thể thấy sản lượng chè Phú Thọ luôn ổn định qua các năm, sản lượng tăng tương ứng với tốc độ tăng diện tích. Trong những năm qua tỉnh Phú Thọ đã thực hiện tốt dự án phát triển cây chè trên địa bàn tỉnh, nhờ đầu tư giống mới kết hợp với kỹ thuật thâm canh cao nên năng suất và sản lượng chè đã tăng đáng kế (tăng bình quân 8.379 tấn/năm), Dự kiến đến năm 2010 sản lượng chè tỉnh Phú Thọ đạt 100-110 nghìn tấn, tăng 10.680- 20.680 tấn so với hiện nay, trong đó 80% sản phẩm qua chế biến dành cho xuất khẩu. (Nguồn thống kê tỉnh Phú Thọ - 2007)
Hàng năm, các sở, ngành: Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, sở Khoa học và Công nghệ, Hội nông dân..., đều có các hoạt động đào tạo, tập huấn quy trình kỹ thuật trồng, chăm sóc, thâm canh chè cho hàng trăm lượt người trồng chè trong tỉnh; mỗi năm từ 10-15 lớp, mỗi lớp 20-25 người. Ngoài ra, các hộ trồng chè tự tìm tòi, học hỏi lẫn nhau, tìm kiếm các nguồn thông tin khoa học kỹ thuật, các kinh nghiệm thâm canh, chăm sóc chè trong và ngoài tỉnh để áp dụng vào sản xuất.
Cuộc vận động sản xuất chè an toàn được triển khai trong suốt những năm qua đã có được những kết quả đáng khích lệ: chất lượng chè tăng đồng đều, sản phẩm được đa dạng hóa và đặc biệt giúp người trồng chè nâng cao nhận thức sản xuất chè trong quy trình sản xuất nông nghiệp. Trong đó coi trọng việc sử dụng chất hữu cơ trong bón chè để đảm bảo năng suất cao, hoàn chỉnh nội chất của búp chè, tăng chất bổ trong chè. Đồng thời phải sử dụng thuốc có nguồn gốc sinh học với tiêu chí 4 đúng: đúng chủng loại, đúng liều lượng- nồng độ, đúng tuổi sâu, đúng thời gian cách ly. Sở nông nghiệp và phát triển nông thôn, Sở Khoa học và Công nghệ đã ban hành tiêu chuẩn chất lượng từng loại chè để quản lý chất lượng sản phẩm của các hội viên, đảm bảo uy tín chất lượng, độ đồng đều của chè.
Hoạt động sản xuất và chế biến chè
Tính đến năm 2007, toàn tỉnh có 63 cơ sở chế biến chè công suất đạt trên 1 tấn búp tươi/ngày. Tổng công suất thiết kế chế biến của các cơ sở này là 1.089 tấn búp tươi/ngày trong đó có 19/63 cơ sở sản xuất ra chè thành phẩm xuất khẩu ( 15 cơ sở chè đen và 7 cơ sở chè xanh), 44/63 cơ sở sản xuất ra bán thành phẩm.
Với sự phát triển của các cơ sở chế biến trên toàn tỉnh trong những năm gần đây, nguyên liệu chè của tỉnh đang ở trông tình trạng thiếu trầm trọng. chỉ tính riêng 63 cơ sở chế biến kể trên, nếu hoạt động 8 tháng/năm thì theo công suất thiết kế, lượng chè búp cần cung cấp là 260.000 tấn/năm. Thực tế các cơ sở này đang sử dụng công suất là 888 tấn búp tươi/ ngày (81% công suất thiết kế) nên lượng nguyên liệu chè búp cần cung cấp là 210.000 tấn/năm. Bên cạnh đó toàn tỉnh có trên 750 cơ sở chế biến chè xanh thủ công, các cơ sở này tiêu thụ hàng năm khoảng 20.000 tấn búp tươi.
Tuy nhiên, không chỉ thiếu nguyên liệu và quản lý chất lượng đầu vào kém, nhà xưởng của nhiều cơ sở chế biến chè tư nhân có vốn đầu tư thấp còn sơ sài, tạm bợ, chưa được thiết kế xây dựng phù hợp trình tự của công nghệ chế biến theo quy tắc kế tiếp để tránh ô nhiễm.Các biện pháp ngăn chặn sinh vật gây hại thâm nhập, trú ngụ còn chưa được chú ý. Tại những nơi có khu công nghiệp tập trung, ảnh hưởng của khói bụi hoá chất từ các cơ sở khác đến chè nguyên liệu, chè thành phẩm vẫn còn rất nặng nề. Bên cạnh đó, thiết bị, dụng cụ, phương tiện phục vụ sản xuất của nhiều cơ sở chế biến chè cũng thiếu tính đồng bộ và lạc hậu.
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU CHÈ CỦA TỈNH PHÚ THỌ
2.2.1. Quy mô xuất khẩu chè của tỉnh Phú Thọ
Bảng 8: Số liệu về kim ngạch xuất khẩu chè của tỉnh Phú Thọ
từ năm 2004-2007
Giá trị xuất khẩu
2004
2005
2006
2007
2008
Sản lượng
10103.1
7750
9534
6490
5100
Giá trị (1000 USD)
11851.0
9809
11690
7316
Tăng trưởng giá trị xuất khẩu chè (%)
82.77%
119.18%
62.58%
Nguồn: Niên giám thống kê 2007 tỉnh Phú Thọ
Từ số liệu trên cho thấy sản lượng chè xuất khẩu của tỉnh không ổn định, kim ngạch xuất khẩu chè không ổn định. Sản lượng chè xuất khẩu có xu hướng giảm trong 3 năm trở lại đây. Năm 2008, sản lượng chè khô xuất khẩu 5100 tấn ( trong khi kế hoạch năm là 16500 tấn), giảm 20% so với năm 2007.
Chi phí sản xuất chè và giá sản phẩm chè xuất khẩu của tỉnh Phú Thọ
Phú Thọ có điều kiện tự nhiên thuận lợi và kinh nghiệm trong sản xuất và chế biến chè, tuy nhiên chi phí sản xuất chè phải dựa trên hiệu quả của tất cả các khâu: sản xuất, thu mua, vận chuyển, chế biến, kho bãi, cầu cảng… Bên cạnh đó, chi phí sản xuất chỉ là điều kiện cần chứ chưa đủ để nâng cao sức cạnh tranh cho hàng hóa xuất khẩu, vì chè xuất khẩu muốn cạnh tranh với các đối thủ khác còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố như chiến lược kinh doanh, marketing, quản trị xuất khẩu, khả năng dự báo và đối phó với những thay đổi bất thường của thị trường quốc tế…
Bảng 9: Giá bán lẻ bình quân chè búp khô giai đoạn 2003 - 2007
Năm
2003
2004
2005
2006
2007
Giá BQ ( Đ/kg)
17523
18833
22833
25316
28347
Nguồn: Niên giám thống kê 2007 tỉnh Phú Thọ
Từ kết quả trên cho thấy giá chè búp khô có xu hướng tăng nhưng tăng chậm trung bình gần 12%. Mức giá chè nhập khẩu ra thị trương vẫn ở mức thấp so với sản phẩm chè của các doanh nghiệp nước ngoài
Cơ cấu và chất lượng chè xuất khẩu
Về cơ cấu chè xuất khẩu: Bên c._.c khỏe của người tiêu dùng. Đồng thời, có biện pháp xử lý nghiêm đối với các doanh nghiệp vi phạm những quy định về tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm chè.
3.3.2. Nhóm giải pháp về quy hoạch
- Quy hoạch vùng nguyên liệu phù hợp với kết quả khảo sát về thổ nhưỡng, nông học, quy hoạch số lượng và công suất các cơ sở chế biến chè phù hợp với vùng nguyên liệu theo hướng tránh lãng phí nguồn lực và thiếu hụt nguyên liệu do dư thừa công suất. Ngoài ra, tuyệt đối hạn chế việc mở rộng diện tích trồng chè để tập trung đầu tư chiều sâu nhằm nâng cao năng suất và chất lượng cho sản phẩm chè Phú Thọ. Từ nay đến năm 2015 tiếp tục đầu tư tập trung pháp triển sản xuất chè tại các huyện Hạ Hoà, Thanh Ba,Yên Lập, Phù Ninh, Tân Sơn, Thanh Sơn …
- Quy hoạch các cơ sở chế biến công nghiệp gắn chặt với vùng chè, khắc phục tình trạng thừa nhà máy, thiếu nguyên liệu.
- Quy hoạch các vùng sản xuất chè an toàn tập trung trong phạm vi toàn tỉnh, chỉ đạo các huyện xây dựng quy hoạch vùng sản xuất chè an toàn tại các địa phương. Phát triển vùng chè an toàn, chất lượng cao.Trên cơ sở quy hoạch vùng trồng chè được duyệt, xây dựng mô hình thâm canh áp dụng tiến bộ kỹ thuật trong trồng trọt, thu hoạch, bảo quản với qui mô 600 ha/năm. Các huyện, thành, thị tổ chức chỉ đạo triển khai quy hoạch chi tiết và kế hoạch cụ thể xây dựng vùng sản xuất chè an toàn, đảm bảo các nội dung, tiêu chuẩn quy định, đến năm 2015 vùng chè chất lượng cao có qui mô tập trung khoảng 18.000-20.000 ha.
- Triển khai kế hoạch trồng mới trên diện tích chuyển đổi từ vườn tạp, cải tạo vùng đồi hoang, đất sấu chưa canh tác sang trồng chè theo từng giai đoạn cụ thể; bố trí theo giống trồng, theo vùng, đồi.
- Đối với các vườn chè tập trung hiện có tại các huyện Thanh Sơn, Tân Sơn, Yên Lập, Hạ Hoà, Thanh Ba, Phù Ninh tập trung thâm canh cao, đảm bảo mật độ trồng dặm và mở rộng diện tích bằng các giống chè mới.
3.3.3. Nhóm giải pháp về đẩy mạnh nghiên cứu và ứng dụng khoa học công nghệ, tiến bộ kỹ thuật:
Về giống chè
Cần có cơ chế để chủ động cơ cấu giống, cải tạo giống để sản xuất đa dạng sản phẩm, nâng cao năng suất, chất lượng, thích ứng nhanh với biến động nhu cầu của thị trường cạnh tranh hội nhập.
Chuyển đổi cơ cấu giống chè: Mở rộng diện tích các giống chè mới có năng suất cao, chất lượng tốt phù hợp với điều kiện sinh thái của từng vùng, kể cả trồng mới và trồng thay thế giống cũ, theo phương thức cuốn chiếu. Để xây dựng vùng chè chất lượng cao và an toàn cần phát triển các giống chè mới LDP1, LDP2.
Lấy Viện nghiên cứu chè làm nòng cốt - xúc tiên việc khu vực hóa, nhân và đưa nhanh các giống có năng suất cao, chất lượng tốt vào các vườn chè. Tại các đơn vị sản xuất chè, khôi phục các vườn giống chè, sử dụng các giống mới có chất lượng cao nhằm cung cấp giống cho trồng dặm, trồng mới của dân, mục tiêu đến năm 2015 phải có được 90% diện tích chè bằng giống có chất lượng cao.
Xem xét lại hệ thống tổ chức của ngành chè từ khâu ươm giống - trồng trọt - chế biến đến khâu tiêu thụ trong nước, ngoài nước nhằm giảm chi phí, điều hòa lợi ích giữa các đối tượng tham gia sản xuất, kinh doanh chè. Ngoài ra, trên cơ sở đó để củng cố lại hệ thống kênh phân phối trong nước và ngoài nước theo hướng coi thị trường ngoài nước là chủ đạo trong khi vẫn hết sức khai thác tiềm năng to lớn của thị trường trong nước.
Áp dụng các biện pháp canh tác tiến bộ
Trong trồng chè nên trồng đúng mật độ đối với từng giống chè, trồng theo đường đồng mức, có cây che bóng lá nhỏ, họ đậu, tăng độ mùn của đất, chống nóng, giữ ẩm, chống xói mòn đất.
Đối với chè trồng mới và trồng thay thế: triệt để thực hiện quy trình thiết kế nương đồi, làm đất bằng cơ giới, trồng cây cải tạo đất, bón đủ phân hữu cơ, trước khi trồng chè phải trồng cây che bóng... Những nơi có độ dốc trên 25% phải thực hiện các biện pháp che ủ đất, chống xói mòn và thực hiện canh tác nông lâm kết hợp. Áp dụng quy trình trồng chè cành bằng bầu kích thước lớn, trồng tăng mật độ hợp lý.
Đối với chè kinh doanh: Áp dụng quy trình hái dãn lứa, sửa tán và bón thúc đủ, cân đối các loại phân sau mỗi lứa hái, kết hợp tưới giữ ẩm để tăng hiệu quả của phân bón. Những nương chè cằn cỗi phải tăng cường bón bổ sung phân hữu cơ, phân hữu cơ vi sinh, phân bón lá để chè nhanh phục hồi và sinh trưởng tốt. Những nơi sản xuất chè xanh chất lượng cao và có điều kiện tưới cần thực hiện phương thức đốn trái vụ (đốn vào cuối vụ chè xuân) để rải vụ và tăng hiệu quả kinh tế.
Cơ giới hoá khâu làm đất; kế hoạch cơ giới hoá, chú trọng các khâu làm đất, chăm sóc, đốn hái, phòng trừ sâu bệnh...; Xây dựng, cải tạo các công trình giữ nước và dẫn nước; Triệt để áp dụng biện pháp trồng cây che bóng, chắn gió, ủ gốc... Áp dụng các công nghệ tưới tiết kiệm nước để tăng năng suất và chất lượng chè.
Đưa máy đốn, máy hái và các dụng cụ làm đất vào canh tác. Tiến tới cơ giới hoá, tự động hoá các khâu: theo dõi điều kiện khí tượng, chế độ dinh dưỡng đất, chế độ chăm sóc, canh tác; cơ giới hoá thu hái, đốn, làm đất, bón phân, vận chuyển nguyên liệu…để nâng cao năng suất, chất lượng đồi chè.
- Sử dụng nguồn phân hóa học cho chè:
Trong chăm sóc tạo lượng phân bón dồi dào, có khối lượng lớn, bón nhiều phân hữu cơ, vi sinh, chuyển đổi phân vô cơ sang phân hữu cơ để cải tạo đất cơ bản giàu mùn, tầng canh tác tơi xốp và dày, cung cấp đủ chất dinh dưỡng cho cây chè.
Phân hóa học cho chè bao gồm nguyên tố đại lượng và vi lượng. Nguyên tố đại lượng gồm NPK (đạm, lân, kali) rất cần thiết và quyết định năng suất chè. Nếu N được bón cân đối với P và K, N sẽ làm búp phát triển nhanh và sớm đạt tiêu chuẩn hái, búp từ lúc phát động đến khi đủ tiêu chuẩn hái chỉ cần 28 ngày, trong khi không có bón đạm cần đến 60 ngày. Vì vậy N tăng năng suất chè bằng tổng số búp đạt tiêu chuẩn, do đó lứa hái sẽ ngắn hơn. Tuy nhiên cũng cần lưu ý là việc sử dụng N phải dưới 300kg/ha để đảm bảo chất lượng chè cho chế biến.
Nguyên tố vi lượng như Zn, Bo và Mg có tác dụng làm búp phát triển đồng đều, không bị nhỏ hay biến dạng và tăng chất lượng búp.
Phân hữu cơ cho chè đóng vai trò quan trọng trong việc tăng độ mùn, độ xốp và giữ ẩm cũng như cung cấp dưỡng liệu cho chè. Có hai nguồn phân hữu cơ: một là phân gia súc cung cấp cho chè lúc mới trồng và bón định kỳ 2-3 năm; nguồn thứ hai là các loại phân xanh và cây phân xanh họ đậu. Cây được trồng giữa hai hàng chè để vừa làm cây phân xanh vừa làm cây che bóng tạm thời cho cây chè con lúc mới trồng đến 2 năm sau và giúp cây con chống chịu qua mùa khô. Khi chè được 3 năm thì đốn bỏ cây che bóng tạm thời để làm phân xanh tủ gốc. Các loại đậu như đậu trắng, đậu nành cũng được trồng xen giữa hai hàng chè.
- Chăm sóc, phòng trừ sâu bệnh.
Ứng dụng kỹ thuật quản lý dịch hại tổng hợp (IPM) trên cây chè để đảm bảo có nguồn nguyên liệu chè an toàn. Tích cực bảo vệ thiên địch, hạn chế tối đa việc sử dụng thuốc hoá học cho chè, trường hợp phải sử dụng, hãy thực hiện nghiêm ngặt quy định; tăng cường sử dụng các loại thuốc thảo mộc và thuốc có nguồn gốc sinh học, sử dụng đúng loại thuốc đặc hiệu.
Trong vấn đề thuốc bảo vệ thực vật: Nên tìm dùng những loại thuốc hữu cơ, thuốc sinh học không gây độc hại, an toàn cho người sử dụng, phải giảm số lượng, giảm số lần phun trong năm, chủ động phòng chống sâu bệnh. Tìm và nuôi dưỡng các loài thiên địch trên vùng chè.
Nghiên cứu chủ động tưới tiêu ở những vùng khô hạn, tưới nhỏ giọt vào gốc chè, bón phân theo chế độ tưới nước.
3.3.4. Nhóm giải pháp phát triển ngành công nghiệp sản xuất và chế biến chè
- Thu hái búp chè đúng quy trình, đạt phẩm cấp, đủ độ chín kỹ thuật theo yêu cầu của sản xuất, phù hợp công suất nhà máy. Thu hái và vận chuyển không làm dập nát, luôn giữ cho búp chè non tươi.
- Đẩy mạnh khâu đào tạo, nâng cao ý thức trách nhiệm trong chế biến chè
- Chủ động sản xuất chế biến, có lịch sản xuất theo vụ mùa, thu mua nguyên liệu phù hợp với công suất thiết bị, thực hiện các thông số kỹ thuật phù hợp nguyên liệu và thời tiết vụ mùa.
- Cải tiến thiết bị, dây chuyền chế biến, giảm lao động nặng nhọc tạo chất lượng sản phẩm đồng đều.
- Đa dạng hoá sản phẩm đáp ứng nhu cầu phong phú của người tiêu dùng, đi sâu nghiên cứu các sản phẩm chè có tác dụng tốt tới bồi bổ sức khoẻ.
- Nâng cao chất lượng chè đen xuất khẩu, bằng cách chỉ sản xuất và xuất khẩu chè đen được chế biến từ các dây chuyền thiết bị hiện đại và bảo đảm vệ sinh công nghiệp và an toàn thực phẩm. Đối với chè xanh, tổ chức chế biến theo hộ gia đình bằng thiết bị nhỏ nhưng hiện đại để nâng cao giá trị hàng hóa.
- Chọn vùng, chọn giống chè để sản xuất sản phẩm chè có chất lượng cao, xuất khẩu vào thị trường Châu Âu, Châu Mỹ với giá trị cao.
- Thực hiện xây dựng quản lý theo hệ thống quản lý chất lượng ISO, HACCP, phòng ngừa khuyết tật, kiểm soát các thông số kỹ thuật trong tất cả các nhà máy chế biến chè.
3.3.5. Nhóm giải pháp về đào tạo nguồn nhân lực
Yếu tố con người có ảnh hưởng quyết định đến chất lượng sản phẩm và giảm được chi phí sản xuất một cách hợp lý. Ngành chè của tỉnh cần tổ chức đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ kỹ thuật tại cơ sở. Do hiện tại lực lượng cán bộ kỹ thuật còn thiếu, trình độ còn yếu kém, tay nghề chưa cao, trong sản xuất chưa kiên quyết uốn nắn theo quy trình, chưa phát hiện được kịp thời các khuyết tật và sự cố xảy ra. Ngoài ra, cần thường xuyên tổ chức thi thợ bậc giỏi, thi nâng bậc, ca sản xuất có chất lượng, nâng cao trình độ kỹ thuật, tay nghề thợ bậc cao trong lĩnh vực sản xuất, chế biến chè nhằm ổn định và nâng cao kỹ thuật sử dụng thiết bị và kỹ thuật chế biến chè tại cơ sở. Mặt khác tạo cơ hội cho cán bộ quản lý các doanh nghiệp được tiếp xúc nhiều hơn nữa với những kiến thức mới trong quản lý thị trường để họ có thể kết hợp giữa kiến thức chuyên môn với kinh nghiệm quản lý nhằm giải quyết tốt công việc.
3.3.6. Nhóm giải pháp về tăng cường công tác hợp tác quốc tế, xúc tiến thương mại, mở rộng thị trường tiêu thụ chè, tăng sức cạnh tranh của các doanh nghiệp chè.
- Hàng năm nhân ngày giỗ Tổ 10-3 Âm lịch, tổ chức hội chợ Hùng Vương nhằm giới thiệu sản phẩm của miền trung du đến khách thập phương hành hương về đất Tổ, trong đó đặc biệt chú trọng đến sản phẩm chè.
- Tích cực tham gia các hội chợ nông nghiệp, hội chợ thương mại quốc tế do Bộ NN-PTNT, Bộ Công Thương tổ chức và một số đoàn doanh nghiệp đi nước ngoài theo Chương trình Xúc tiến Thương mại trọng điểm quốc gia do Bộ Công thương chủ trì.
- Trong những năm gần đây, đa số doanh nghiệp xác định truyền thông là phương tiện hiệu quả nhất trong việc xây dựng và quảng bá hình ảnh của mình. Đó là các chương trình quảng cáo, tuyên truyền trên báo chí, tham gia hội chợ triển lãm, tài trợ, thông qua hoạt động giao tiếp cộng đồng... với quan điểm của một số chuyên gia trên thế giới khi sử dụng hình ảnh “bà đỡ” để nói về vai trò của truyền thông đối với các sản phẩm, kế hoạch kinh doanh, rộng hơn là hình ảnh của doanh nghiệp… Bởi khi đã đóng vai trò “bà đỡ”, truyền thông trở thành một lực lượng chính hậu thuẫn cho những thành công của doanh nghiệp. Chính vì vậy, công tác truyền thông phải được tiến hành thường xuyên, kiên trì, liên tục trong nhiều năm, khắc hoạ cho được hình ảnh về “Chè Phú Thọ”, là sự lựa chọn số 1 của khách hàng; sao cho Chè, cùng với hình ảnh của thành phố “ngã ba sông” Việt Trì, với những rừng cọ, đồi chè qua những làn điệu xoan, ghẹo... luôn trong trí nhớ người tiêu dùng và trở thành biểu tượng của Phú Thọ.
- Thiết kế một số chương trình phóng sự trên thông tin đại chúng, nhất là kênh VTV4 Đài truyền hình quốc gia (là kênh phát sóng cho đối tượng người xem ở nước ngoài), kể cả gắn với bộ phim về những miền quê Phú Thọ và các trang báo điện tử có nhiều độc giả từ nước ngoài như VnExpress, v.v. Thiết kế, in ấn đẹp, hấp dẫn và phát hành vào dịp mùa lễ hội, giỗ Tổ Hùng Vương các tờ tin (Brochure) về chè Phú Thọ.
- Tổ chức các hội thảo chuyên đề liên quan đến ngành chè, tiếp tục triển khai thực hiện kế hoạch xúc tiến, tham gia hội chợ, quảng bá thương hiệu.
+ Dự kiến tổ chức một số hội thảo chuyên đề về xúc tiến xuất khẩu chè, nghiên cứu các thị trường xuất khẩu trọng điểm của chè Phú Thọ, bàn về các biện pháp nâng cao chất lượng chè Phú Thọ.
+ Học tập trao đổi kinh nghiệm xúc tiến thương mại, mở rộng thị trường trong và ngoài nước (có sự tham gia của các chuyên gia tư vấn).
- Lập cổng Portal “Phu Tho Tea” thông qua Website của tỉnh www.phutho.gov.vn
Cần hợp đồng thuê các chuyên gia quảng cáo, tin học tư vấn và xây dựng trang “phuthotea” trong Website Phú Thọ do Hiệp hội chè Phú Thọ thực hiện, đồng thời cần có sự liên kết với các công ty chuyên quảng cáo để tạo ra những đường Link tới Website “phuthotea”, từ đó sớm cung cấp những thông tin về chè tới các đối tác quan tâm; vừa để xúc tiến thương mại, quảng bá sản phẩm, thương hiệu chè và hình ảnh Phú Thọ với bạn bè trong và ngoài nước; vừa bảo vệ người tiêu dùng, tránh cho người tiêu dùng khỏi mua nhầm sản phẩm.
- Khai thác tối ưu và đa dạng hoá phương pháp tiếp thị cho sản phẩm chè thông qua các kênh như:
Tiếp thị trực tuyến bằng các công cụ như: e-mail, hiển thị quảng cáo trong kết quả tìm kiếm trực tuyến…sẽ giúp các nhà marketing chè Phú Thọ tăng cường tiếp xúc của họ bằng cách truyền những nội dung được định sẵn mà các khách hàng mục tiêu của họ yêu thích hơn.
- Tổ chức các tour du lịch sinh thái thăm vườn chè và di tích danh thắng.
Qua thực tế cho thấy, những hoạt động này đã có, tuy nhiên chỉ mang tính hình thức, nhỏ lẻ, cần được đẩy mạnh và tổ chức có quy mô và tính chuyên nghiệp hơn.
Tỉnh cần giao cho Sở Thương mại - Du lịch chủ trì, phối hợp với các ngành, các tỉnh tổ chức lễ hội (du lịch về cội nguồn) lồng ghép với các tour du lịch sinh thái, đưa khách về thăm các vườn chè và mua chè Phú Thọ. Thông qua PR và quảng cáo truyền miệng giới thiệu về hình ảnh, con người Phú Thọ, đưa du khách thăm vườn quả sinh động trên địa bàn tỉnh, nhất là vào mùa thu hái để giới thiệu với du khách các danh thắng, đất và người Phú Thọ. Quảng bá với du khách trong và ngoài nước về truyền thống văn hoá, lịch sử, các danh thắng và sản vật trên đất Phú Thọ. Điều đó giúp khách hàng thư giãn với không khí trong lành, yên tĩnh, vừa quảng bá hình ảnh về Phú Thọ, chè Phú Thọ, vừa tiêu thụ chè cho người trồng chè
- Tổ chức “Hội chợ chè và bình tuyển sản phẩm chè Phú Thọ” hàng năm
Hội chợ sẽ được tổ chức vào dịp lễ hội hàng năm. Tổ chức hội chợ sẽ là dịp thu hút khách về với Phú Thọ và thực hiện quảng bá sản phẩm, quảng bá hình ảnh Phú Thọ một cách hữu hiệu nhất.
- Tổ chức một số hội thảo liên quan đến chè Phú Thọ. Ngay tại Hội chợ, kết hợp tổ chức một số cuộc hội thảo về chè và quảng bá chè Phú Thọ, như:
Bình tuyển chè thông qua cuộc thi nghệ thuật trong pha chè.
Các biện pháp chăm sóc, lựa chọn giống chè tốt cho năng suất cao.
Các giải pháp kỹ trong thu hái, chế biến, bảo quản, đóng gói đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm;
Xúc tiến thương mại chè Phú Thọ - thực trạng và giải pháp phát triển;
Thực trạng và giải pháp quảng bá thương hiệu chè Phú Thọ.
- Tiếp tục tăng cường tổ chức các tour du lịch sinh thái với tần suất lớn hơn, chuyên nghiệp hơn.
- Tổ chức Lễ hội văn hoá “Chương trình du lịch về cội nguồn”.
Chương trình "Du lịch về cội nguồn", sự hợp tác phát triển thương mại- du lịch của 3 tỉnh Lào Cai, Yên Bái, Phú Thọ. Đây là chương trình quy mô với các hoạt động có ý nghĩa thiết thực, hấp dẫn, đậm đà bản sắc văn hoá dân tộc. Đây sẽ là cơ hội để các tỉnh có dịp giới thiệu với bè bạn, du khách trong và ngoài nước về danh lam, thắng cảnh, con người, nhất là các sản vật của quê hương mình, mà trong đó chè Phú Thọ là điển hình.
- Tiến hành xúc tiến thương mại, tham dự các hội chợ quốc tế nhằm tìm kiếm và mở rộng thị trường ra các nước châu Âu và Mỹ.
Tiếp tục khai thác các thị trường truyền thống như: Ấn Độ, Trung Quốc, Đức, Anh, Pakixtan, từng bước đưa sản phẩm chè Phú Thọ bao gồm chè xanh, chè đen... xâm nhập vào một số thị trường khó tính như: Đức, Mỹ, Hà Lan, Nhật... thông qua các chương trình xúc tiến thương mại và hội chợ quốc tế ở Trung Quốc, Hàn Quốc, Đức, Mỹ....
- Xúc tiến phát triển thêm hệ thống kênh phân phối nhằm mở rộng phát triển các thị trường mục tiêu.
Tỉnh có thể hỗ trợ để Hiệp hội chè Phú Thọ tổ chức gặp mặt, động viên, chia sẻ, cổ vũ những người buôn bán, thu gom chè. Xác định rõ vai trò của họ, đồng thời xúc tiến thành lập “hội” hoặc “câu lạc bộ” “những người tiêu thụ - chế biến chè”; tạo ra một sự liên kết, hợp tác tiêu thụ chè trong khi phải cạnh tranh với các đối thủ trong và ngoài nước, giảm bớt sự cạnh tranh nội bộ dẫn đến bất lợi cho người sản xuất chè.
- Các cơ sở phân phối ở nước ngoài theo hướng: củng cố các cơ sở tiêu thụ chè ổn định tại Trung Quốc, Ấn Độ, Pakixtan thông qua thị trường Trung Quốc để sang Hồng Công, Ma Cao, Đài Loan, Hàn Quốc. Xây dựng kế hoạch nghiên cứu xâm nhập các thị trường mới như Đức, Nhật, Mỹ. Qua đó dần từng bước đặt chân vào những thị trường này thông qua các tổ chức, tập đoàn, công ty phân phối uy tín như hiệp hội nông sản, hiệp hội những người chế biến và sản xuất chè, cục quản lý thực phẩm và dược... vv.
- Tăng thị phần chè Phú Thọ trên các nước Mỹ, Nhật, EU bằng cách tìm hiểu thị hiếu, khẩu vị của người dùng chè, nghiên cứu và áp dụng khoa học và qui trình công nghệ chè tiên tiến từ khâu trồng trọt, thu hái, ủ sao, đóng gói, mẫu mã, bao bì, bảo quản, vận chuyển... phù hợp với thị hiếu, khẩu vị của người tiêu dùng.
- Tăng cường xúc tiến thương mại, quảng bá và từng bước khẳng định thương hiệu, nhãn hiệu chè Việt Nam nói chung và chè Phú Thọ riêng trên các trị trường Trung Quốc, Ấn Độ, Pakistan, Mỹ, EU.
- Sử dụng có hiệu quả kinh phí hỗ trợ từ ngân sách của chương trình xúc tiến thương mại trọng điểm và hỗ trợ xuất khẩu từ Quỹ hỗ trợ xuất khẩu để mở rộng thị trường đã có và tìm kiếm thị trường mới, nhất là thị trường có tỷ trọng xuất khẩu lớn.
- Tăng cường mối quan hệ với EU nhằm tranh thủ được sự hỗ trợ khoa học ở cấp Nhà nước (đầu tư giống, công nghệ trồng và chế biến...) đây là hình thức thâm nhập tốt nhất vào hệ thống phân phối phức tạp của nước này, đặc biệt là vệ sinh an toàn thực phẩm.
- Duy trì và nâng cao vai trò của Hiệp hội chè trong hoạt động kinh doanh và xúc tiến thương mại của các doanh nghiệp nhằm đảm bảo lợi ích chung cho cả ngành, tránh "mạnh ai nấy chạy", gây tình trạng bán phá giá, tranh mua nguyên liệu...
- Thành lập các liên doanh sản xuất - tiêu thụ hoặc liên doanh kinh doanh - phân phối chè Phú Thọ với các nước. Nghiên cứu mô hình hợp đồng giữa các nhà: Khoa học - Trồng trọt - Chế biến - Xuất khẩu - Nhập khẩu.
- Mục tiêu của tỉnh Phú Thọ nói chung và các doanh nghiệp chè Phú Thọ trong thời gian tới là phát triển một thương hiệu chè Phú Thọ an toàn trên cơ sở những vùng nguyên liệu sạch, đảm bảo các tiêu chuẩn nghiêm ngặt của châu Âu, Nhật Bản. Hiện nay, đã có khoảng 60% nguyên liệu chè đạt được các tiêu chuẩn an toàn của châu Âu, song cần phải tiếp tục nâng cao tỷ lệ này.
Về lâu dài, việc đầu tư mạnh vào hệ thống hạ tầng cơ sở, thủy lợi cho các vùng chè là yếu tố quan trọng giúp người dân vùng chè yên tâm phát triển sản xuất. Tiến hành rà soát, thay thế các giống chè chất lượng thấp bằng các loại chè có giá trị cao, phát triển các vùng chè đặc trưng cho điều kiện khí hậu từng địa phương thông qua chương trình hỗ trợ về cây giống, kỹ thuật chăm sóc, thu hoạch...
3.3.7. Nhóm giải pháp xây dựng và phát triển thương hiệu chè của tỉnh Phú Thọ
Trước tiên, để xây dựng thương hiệu chè Phú Thọ cần thực hiện đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa cho chè của tỉnh Phú Thọ cụ thể như sau:
Một là, nhãn hiệu hàng hóa.
Vừa qua Chủ tịch UBND tỉnh Phú Thọ đã có những kết luận chính liên quan đến việc xây dựng thương hiệu cho chè Phú Thọ như sau:
- Giao cho Sở Nông nghiệp & Phát triển nông thôn phối hợp cùng Sở Khoa học và Công nghệ nghiên cứu lập hồ sơ xin đăng ký nhãn hiệu hàng hoá cho sản phẩm chè Phú Thọ với Cục Sở hữu trí tuệ.
- Giao cho Sở Nông nghiệp & Phát triển nông thôn lập đề án thành lập Hiệp hội Chè Phú Thọ và chịu trách nhiệm về mặt quản lý Nhà nước như: xúc tiến thương mại, hội chợ, tổ chức hội nghị, hội thảo về cây chè, kế hoạch tài chính... vv.
- Cho phép Hiệp hội chè Phú Thọ được sử dụng địa danh “Phú Thọ” để đăng ký nhãn hiệu tập thể; Sở Khoa học và Công nghệ thông qua Hiệp hội tổ chức khai thác tên nhãn hiệu này khi đã được Cục Sở hữu trí tuệ cấp giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu hàng hóa cho sản phẩm Chè Phú Thọ. Các tổ hợp tác, các doanh nghiệp phải áp dụng nghiêm ngặt quy chế sử dụng nhãn hiệu tập thể chè Phú Thọ, bao gồm: chế biến chè từ nguyên liệu tại Phú Thọ; cơ sở sản xuất, chế biến đóng trên địa bàn tỉnh; sản lượng sản phẩm chè ổn định hàng năm đạt từ một tấn thành phẩm chè búp khô trở lên; thành phẩm chè xây dựng có chất lượng ổn định. Và tên nhãn hiệu được đăng ký bảo hộ là “Chè Phú Thọ”.
Hai là, kiểu dáng bao bì.
Sau khi được thành lập, Hiệp hội chè Phú Thọ sẽ tiến hành đăng ký nhãn hàng hoá, kiểu dáng bao bì cho một số sản phẩm chè Phú Thọ. Sau đây là một số mẫu giả định:
Tất cả các chè hàng hoá, bao bì đều ghi rõ xuất xứ hàng hoá, tên và địa chỉ cơ sở sản xuất, ngày sản xuất, định lượng hàng hoá, các thông số kỹ thuật và một số thông tin liên quan… giúp người tiêu dùng hiểu và lựa chọn mua chè Phú Thọ.
Ba là, thành lập Hiệp hội chè Phú Thọ.
Trên cơ sở chỉ đạo của lãnh đạo UBND tỉnh, Sở Nông nghiệp & Phát triển nông thôn cần nhanh chóng hoàn thiện đề án thành lập Hiệp hội chè Phú Thọ trình UBND tỉnh phê duyệt và ra quyết định. Ban đầu Hiệp hội ước có khoảng trên 50 hội viên gồm những doanh nghiệp sản xuất chế biến trong tỉnh, các hợp tác xã, các tổ hợp tác, người có kinh nghiệm và gắn bó với nghề trồng chè tham gia.
Tỉnh cần hỗ trợ xây dựng Hiệp hội chè và các Hiệp hội kiến thức, kinh nghiệm quản trị nội bộ, kỹ năng thu thập thông tin, kiến thức thị trường, xây dựng các tổ chức này thành hạt nhân, liên kết theo chuỗi ngành hàng, gắn kết người sản xuất – người chế biến – người kinh doanh nhằm đảm bảo vốn, thông tin, hàng hoá và chia sẻ rủi ro; nối mọi tác nhân thành khối thống nhất trên con đường xây dựng, phát triển thương hiệu chè Phú Thọ.
Bốn là, xây dựng Quy chế sử dụng nhãn hiệu tập thể
Quy chế cần được Ban chấp hành Hiệp hội thông qua và được UBND tỉnh đồng ý. Quy chế sử dụng nhãn hiệu tập thể cần xác định rõ:
- Hội viên là các tổ chức, doanh nghiệp, hợp tác xã, tổ hợp tác, cá nhân, hộ gia đình, sản xuất chế biến kinh doanh chè, đáp ứng các tiêu chuẩn do Hiệp hội đề ra, đồng ý với các quy định của điều lệ Hiệp hội và quy chế này, được Ban chấp hành kết nạp vào Hiệp hội.
- Chủ sở hữu nhãn hiệu tập thể đối với nhãn hiệu “Chè Phú Thọ” là tổ chức đứng tên trong đơn xin cấp giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu tập thể (Hiệp hội chè Phú Thọ) có quyền sở hữu đối với nhãn hiệu tập thể, có nghĩa vụ duy trì, bảo vệ nhãn hiệu tập thể.
- Đồng sử dụng nhãn hiệu là các cá nhân, hộ gia đình, tổ chức thành viên của Hiệp hội được quyền sử dụng nhãn hiệu tập thể.
- Sản phẩm mang nhãn hiệu là các sản phẩm được gắn nhãn hiệu “Chè Phú Thọ” bao gồm: Chè xanh, chè đen và các sản phẩm chế biến từ chè Phú Thọ.
- Hình thức sử dụng nhãn hiệu, có thể gắn trực tiếp lên sản phẩm, lên bao bì hàng hoá, phương tiện dịch vụ, giấy tờ giao dịch trong hoạt động kinh doanh; trong lưu thông, xuất khẩu hàng hoá mang nhãn hiệu, chào bán, quảng cáo,… nhằm để bán, tàng trữ, vận chuyển hàng hoá mang nhãn hiệu “chè Phú Thọ”.
- Sản phẩm mang nhãn hiệu phải đảm bảo các tiêu chuẩn về chất lượng, vệ sinh, an toàn thực phẩm theo các quy định của pháp luật.
Ngoài ra quy chế cũng quy định cụ thể trách nhiệm, quyền hạn của hội viên, những điều cấm trong sử dụng nhãn hiệu tập thể.
Năm là, quy định tiêu chuẩn chất lượng chè Phú Thọ
Theo Điều lệ Hiệp hội và Quy chế sử dụng nhãn hiệu tập thể được UBND tỉnh thông qua, tiêu chuẩn chất lượng chè Phú Thọ do Ban chấp hành Hội quy định, có tham khảo ý kiến của các nhà kỹ thuật, nhà quản lý. Vì vậy, mỗi giai đoạn, tuỳ theo yêu cầu của chất lượng chè để Hiệp hội đưa ra quy định chất lượng áp dụng phù hợp.
Sáu là, thiết kế logo.
Logo được thiết kế sao cho khắc hoạ được đặc tính tiêu biểu nhất của sản phẩm “Chè Phú Thọ”; nghĩa là, nhấn mạnh yếu tố chất lượng và yếu tố văn hoá, truyền thống của chè Phú Thọ.
Bảy là, thiết kế slogan:
Trong phạm vi hạn hẹp, đề tài đưa ra một số khẩu hiệu để nghiên cứu, hoàn thiện và lựa chọn:
“Hương vị đất Tổ Hùng Vương”
“Trà dâng vua Hùng”
“Vị trà trăm năm tuổi”
Tám là, thiết lập các văn bản đề nghị bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá
Hồ sơ đăng ký nhãn hiệu hàng hoá bao gồm một số văn bản chính sau:
- Đơn xin đăng ký nhãn hiệu hàng hoá của Hiệp hội chè Phú Thọ;
- Quy chế sử dụng nhãn hiệu tập thể;
- Quyết định thành lập Hiệp hội chè Phú Thọ;
- Quyết định phê duyệt Điều lệ Hiệp hội chè Phú Thọ của UBND tỉnh Phú Thọ.
- Biểu tượng, mẫu nhãn hiệu;
- Báo cáo kế hoạch, phương hướng hoạt động của Hiệp hội chè Phú Thọ.
Trên cơ sở các văn bản đề nghị của tỉnh Phú Thọ, Bộ Khoa học Công nghệ, mà trực tiếp là Cục sở hữu trí tuệ tiếp nhận văn bản, thông báo rộng rãi theo đúng các cam kết quốc tế về sở hữu trí tuệ tới các nước thành viên WTO, đăng tải trên website, sau 6 tháng nếu không có tranh chấp, kiện tụng về sở hữu nhãn hiệu, Cục sở hữu trí tuệ mới cấp Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu hàng hoá cho người/ tổ chức đứng đơn đăng ký. Khi đó nhãn hiệu hàng hoá mới chính thức được bảo hộ về mặt pháp lý.
3.3.8. Nhóm giải pháp về huy động nguồn vốn và khai thác có hiệu quả sử dụng vốn đầu tư:
- Tằng cường công tác xúc tiến đầu tư, chủ động nắm bắt và vận dụng phù hợp các chủ trương, chính sách của nhà nước để xây dựng các dự án, tranh thủ sự hỗ trợ về vốn đầu tư từ ngân sách Trung ương và các nhà tài trợ trong nước và quốc tế đối với các chương trình dự án phát triển cây chè của tỉnh. Nhất là vốn hỗ trợ có mục tiêu, vốn ODA, AFD...
- Chuẩn bị tốt các điều kiện để triển khai thực hiện dự án, tăng khả năng huy động các nguồn vốn cho công tác duy tu bảo dưỡng các công trình hạ tầng phục vụ ngành sản xuất và chế biến chè.
- Tiếp tục củng cố, nâng cao hiệu quả hoạt động của các ngân hàng thương mại, các quỹ tín dụng; tạo điều kiện cho các doanh nghiệp, hộ kinh doanh chè vay vốn tín dụng phát triển để đầu tư mở rộng sản xuất. Thu hút các ngân hàng, tổ chức tín dụng trong và ngoài nước mở chi nhánh hoạt động trên địa bàn tỉnh.
KẾT LUẬN
Hội nhập kinh tế quốc tế đang là xu thế tất yếu của nền kinh tế thế giới. Xu thế này đã diễn ra với tốc độ nhanh chóng trong những năm cuối của thế kỷ XX và sẽ sôi động hơn, quyết liệt hơn trong những năm đầu của thế kỷ này. Hội nhập quốc tế mang lại cho các quốc gia rất nhiều cơ hội nhưng cũng không ít thách thức. Để tận dụng được các cơ hội và vượt qua được các thách thức đó, các quốc gia cần phải xây dựng chính sách chủ động hội nhập nhằm phát huy một cách hiệu quả sức mạnh tổng hợp của nền kinh tế dân tộc, nâng cao năng lực cạnh tranh cho các doanh nghiệp, đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu. Đối với sản phẩm chè của tỉnh Phú Thọ, để làm được điều đó cần thực hiện các biện pháp tổng thể từ quy hoạch vùng nguyên liệu, chăm sóc, thu hoạch chè, sản xuất và chế biến cho tới xây dựng, phát triển thương hiệu, quảng bá, xúc tiến thương mại.
Chuyên đề được xây dựng trên cơ sở lý luận và thực tiễn ở Phú Thọ, kết hợp với những lý luận về hoạt động xuất khẩu đặc biệt là xuất khẩu nông sản. Chuyên đề đã hệ thống hoá các vấn đề lý luận chung nhất về xuất khẩu hàng hóa. Đánh giá thực trạng tình hình sản xuất, chế biến và xuất khẩu Chè của tỉnh Phú Thọ, từ đó đưa ra những nội dung và một số giải pháp cơ bản để đẩy mạnh xuất khẩu chè của tỉnh Phú Thọ hiện nay.
Thông qua nghiên cứu thực trạng tình hình phát triển chè ở Phú Thọ; đánh giá tiềm năng, xu hướng phát triển và dự báo các thị trường, các yếu tố tác động đến chất lượng chè và thị trường tiêu thụ, chuyên đề cũng đề xuất một số giải pháp chủ yếu để phát triển bền vững vùng Chè an toàn, chất lượng cao, nhằm nâng cao giá trị xuất khẩu cho Chè của tỉnh Phú Thọ. Giúp các nhà hoạch định chính sách, các nhà quản lý hoạch định chiến lược phát triển chè Phú Thọ cho phù hợp và có tính khoa học cao; nhằm phát triển sản xuất, nâng cao đời sống nhân dân, bảo tồn, phát huy bản sắc văn hoá một miền quê gắn liền với sản phẩm Chè Phú Thọ nổi tiếng từ lâu.
Tuy còn có những tồn tại, hạn chế; song có thể nói, về cơ bản chuyên đề đạt được các mục tiêu đã đề ra. Tác giả mong nhận được sự đóng góp ý kiến, bổ sung của các thầy, cô giáo và bạn đọc quan tâm đến lĩnh vực này để chuyên đề được hoàn thiện hơn.
Xin chân thành cảm ơn/
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Giáo trình Kinh tế quốc tế- Tập 1- NXB Thống kê (2003)
Giáo trình Kinh tế ngoại thương- NXB Lao động xã hội (2008)
Báo cáo quy hoạch phát triển ngành nghề nông thôn tỉnh Phú Thọ giai đoạn 2007- 2010, định hướng 2020- Sở Nông nghiệp và phát triển nông thôn Phú Thọ- Tháng 5/2007
Điều chỉnh quy hoạch phát triển công nghiệp trên địa bàn tỉnh giai đoạn 2006-2010, định hướng 2015- Sở Công nghiệp- Tháng 11/2005
Báo cáo tình hình sản xuất kinh doanh xuất khẩu chè năm 2008 và giải pháp thực hiện năm 2009- Phòng xuất nhập khẩu- Sở Công thương Phú Thọ.
Báo cáo đánh giá công tác xuất nhập khẩu tỉnh Phú Thọ từ năm 2005- 2007, 6 tháng năm 2008 và phương hướng đến nam 2010- Phòng Quản lý xuất nhập khẩu- Sở Công thương Phú Thọ.
Niên giám thống kê 2007 tỉnh Phú Thọ- NXB Thống kê- Tháng 8/2008
MỤC LỤC
DANH MỤC SƠ ĐỒ BẢNG BIỂU
Bảng 1: So sánh các đối thủ cạnh tranh ở thị trường 21
các tỉnh Phía Bắc 21
Bảng 2: Cơ cấu giá trị cây chè trong ngành trồng trọt năm 2002 21
Bảng 3: Cơ cấu giá trị cây chè trong ngành trồng trọt năm 2007 28
Bảng 4: Cơ cấu giá trị xuất khẩu chè tỉnh Phú Thọ năm 2002 21
Bảng 5: Cơ cấu giá trị xuất khẩu chè tỉnh Phú Thọ năm 2007 21
Bảng 6: Diễn biến diện tích trồng chè giai đoạn 2002 - 2007 21
Bảng 7: Diễn biến sản lượng chè giai đoạn 2002 - 2007 21
Bảng 8: Số liệu về kim ngạch xuất khẩu chè của tỉnh Phú Thọ 21
Bảng 9: Giá bán lẻ bình quân chè búp khô giai đoạn 2003 - 2007 21
Bảng 10: Tỷ trọng xuất khẩu của từng loại chè của Phú Thọ 21
giai đoạn (1990-2007) 21
Bảng 11:Thị trường tiêu thụ chè Phú Thọ năm 2007 21
Sơ đồ 1: kênh hàng cung ứng chè Phú Thọ ra thị trường 21
NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 1893.doc