Chương I
Lý luận chung về cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước
I. Vai trò và thực trạng hoạt động của các DNNN Việt Nam
Điều 1 Luật doanh nghiệp nhà nước năm 2003 đinh nghĩa: "Doanh nghiệp nhà nước năm 2003 định nghĩa: "Doanh nghiệp nhà nước là tổ chức kinh tế do Nhà nước sở hữu toàn bộ vốn điều lệ hoặc có cổ phần, vốn góp chi phối, được tổ chức dưới hình thức công ty nhà nước, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn".
ở Việt Nam, doanh nghiệp nhà nước trước đây được gọi là xí nghiệp quố
15 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1339 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Đẩy mạnh quá trình cổ phần hóa trong một bộ phận doanh nghiệp nhà nước ở nước ta trong giai đoạn hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
c doanh đã phát triển với quy mô và số lượng lớn trong thời kỳ kế hoạch hoá tập trung và được xác định là thành phần kinh tế chủ đạo. Doanh nghiệp nhà nước đã đóng vai trò quan trọng trong việc củng cố nền tảng kinh tế, xã hội của nước ta, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp đấu tranh thống nhất nước nhà, xây dựng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội.
Tuy thoát ra khỏi tư duy máy móc về một chủ nghĩa xã hội với hai hình thức sở hữu tư liệu sản xuất chủ yếu là sở hữu nhà nước và sở hữu tập thể và tuy đã khẳng định sự cần thiết của nền kinh tế đa thành phần, Đảng ta vẫn nhấn mạnh vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước với bộ phận chủ yếu là doanh nghiệp nhà nước. Kinh tế nhà nước được xác định là thành phần chủ đạo của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Doanh nghiệp nhà nước đã có những bước phát triển thể hiện qua các khía cạnh:
- Doanh nghiệp nhà nước vẫn chi phối được những ngành, lĩnh vực then chốt của nền kinh tế, góp phần để kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, giữ tỷ trọng lớn trong xuất khẩu, thu nộp ngân sách, hợp tác đầu tư với nước ngoài, đảm bảo được các dịch vụ công ích, phục vụ tốt cho an ninh và quốc phòng đất nước.
- Doanh nghiệp nhà nước đang dần dần thích ứng với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm được nâng cao, vốn được bảo toàn và phát triển.
- Nhiều doanh nghiệp nhà nước đã tăng được khả năng cạnh tranh và khả năng hội nhập quốc tế.
Tuy nhiên vẫn gặp phải một số hạn chế:
- Thứ nhất, hiệu quả sản xuất kinh doanh chưa cao, chưa tương xứng với vị trí và sự đầu tư của ngân sách.
- Thứ hai, doanh nghiệp nhà nước có quy mô nhỏ. Quy mô nhỏ bé của doanh nghiệp nhà nước thể hiện ở cả trong tiêu chí về sử dụng lao động. Số doanh nghiệp nhà nước có lao động dưới 500 người chiếm 80%. Do quy mô doanh nghiệp nhà nước rất nhỏ nên khả năng đầu tư mở rộng sản xuất, đổi mới công nghệ rất hạn chế. Nhìn chung, doanh nghiệp nhà nước chưa đủ sức tự mình đầu tư để vươn tới những công nghệ và kỹ thuật tiên tiến. Những hạn chế này dẫn đến tình trạng hàng hoá của doanh nghiệp nhà nước giá cao hơn hàng hoá cùng loại, cùng chất lượng của các doanh nghiệp khác, của hàng nhập tới 20-30%.
- Thứ ba, doanh nghiệp nhà nước lạc hậu về công nghệ sản xuất, về trình độ quản lý.
- Thứ tư, cơ cấu phân bố chưa hợp lý. Còn khá nhiều doanh nghiệp nhà nước hoạt động trong các lĩnh vực mà ở đó chúng khó có thể cạnh tranh được như trong những dịch vụ thông thường. Bên cạnh đó, có thể nhận thấy doanh nghiệp nhà nước được phân bố không hợp lý theo ngành, theo địa phương.
- Thứ năm, cơ chế quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp cũng như cơ chế quản lý trong bản thân doanh nghiệp cồng kềnh và thiếu hiệu quả.
- Thứ sáu, như là hệ quả của những điểm yếu trên, doanh nghiệp nhà nước ít có khả năng cạnh tranh trên thị trường. Trong bối cảnh đất nước ta đang chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, tham gia nhiều hơn vào các khu vực mậu dịch tự do hoặc các hiệp định thương mại song phương, đa phương, tính cạnh tranh thấp của doanh nghiệp nhà nước sẽ là một thách thức sống còn đối với nền kinh tế nước ta.
2. Một số lý luận chung về cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước
2.1. Khái niệm và bản chất của cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước
2.1.1. Khái niệm về cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước
Cổ phần hoá là một trong những giải pháp sắp xếp, đổi mới, nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước được thể hiện qua sơ đồ mô phỏng sau đây:
Cải cách DNNN
Cải cách Cho thuê DNNN
Cải cách DNNNBán
DNNN
Cải cách Cổ phần hoá DNNN
Cải cách Cải cách cơ chế quản lýDNNN
Cải cách DNNNBán toàn bộ
Cải cách DNNNBán một phần
Cải cách DNNNCho thuê toàn bộ
Cải cách DNNNCho thuê một phần
Việc cổ phần hoá được thực hiện thông qua việc chia vốn của một số doanh nghiệp nhà nước nhất định ra thành các công ty cổ phần. Một phần cổ phần phát hành được bán cho tư nhân hoặc phân phát cho người lao động, một phần Nhà nước sở hữu. Như vậy, với cổ phần hoá thì một số doanh nghiệp nhà nước được biến htành sở hữu chung của người lao động, của doanh nghiệp và của nhà nước. Thực tế này cũng cho thấy cổ phần hoá tư nhân hoá từng phần các doanh nghiệp nhà nước. Cũng chính vì lý do này nên nhiều quốc gia khi tiến hành cải cách thành phần kinh tế công đều coi cổ phần hoá chỉ là một trong những phương thức thực hiện tư nhân hoá.
Tuy nhiên, giữa cổ phần hoá và tư nhân hoá và tư nhân hoá ở các nước đã tiến hành cải cách đổi mới doanh nghiệp nhà nước theo mô hình tư nhân hoá vẫn có những điểm khác nhau cơ bản.
Cổ phần hoá có thể áp dụng đối với bất cứ loại hình doanh nghiệp nào thuộc sở hữu của một chủ duy nhất. Vì vậy, doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp 100% vốn của nhà đầu tư nước ngoài đều có thể trở thành đối tượng cổ phần hoá. Doanh nghiệp tư nhân hay doanh nghiệp 100% vốn của nhà đầu tư nước ngoài có thể chuyển thành công ty trách nhiệm hữu hạn thông qua cổ phần hoá.
2.2. Mục tiêu của cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước
- Cổ phần hoá tạo ra loại hình doanh nghiệp có nhiều chủ sở hữu trong đó có sự tham gia của đông đảo người lao động. Nhờ có sự tham gia của đông đảo các chủ sở hữu sẽ tăng cường được sự giám sát của các nhà đầu tư đối với nguồn vốn của doanh nghiệp nâng cao được hiệu quả sử dụng các nguồn vốn của doanh nghiệp, thay đổi được cung cách quản trị doanh nghiệp đảm bảo giải quyết được hài hoà lợi ích của nhà nước, của doanh nghiệp của các nhà đầu tư và của người lao động.
- Thông qua cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước sẽ huy động được nguồn vốn của cá nhân, của các tổ chức kinh tế - xã hội trong và ngoài nước để doanh nghiệp có thể tái đầu tư đổi mới công nghệ, phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh.
2.3. Tác động của cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước
- Thứ nhất: Phân tích của các nhà kinh tế cho thấy ở Trung Quốc giữa tốc độ tăng trưởng kinh tế và tốc độ cổ phần hoá tỷ lệ thuận với nhau rất rõ. Sở dĩ như vậy do là cổ phần hoá sàng lọc và đào thải những doanh nghiệp kém hiệu quả, tạo môi trường cạnh tranh giữa các doanh nghiệp và động lực phát triển. Những doanh nghiệp nhà nước kinh doanh không hiệu quả phần lớn là do khâu quản lý yếu kém, bộ máy điều hành thiếu năng động sáng tạo.
- Thứ hai, việc giảm số lượng doanh nghiệp 100% vốn nhà nước sẽ giảm bớt được một khoản bổ sung vốn từ ngân sách cho những doanh nghiệp này để dành đầu tư vào những nhu cầu phát triển khác.
- Thứ ba, thông qua cổ phần hoá, nhà nước thu được một phần giá trị tài sản nhà nước trước đây giao cho các doanh nghiệp quản lý nhưng sử dụng kém hiệu quả.
- Thứ tư, cùng với việc giảm đầu mối doanh nghiệp nhà nước làm giảm nhu cầu hỗ trợ và ưu đãi về tín dụng của nhà nước. Đặc biệt nó sẽ làm giảm áp lực vay vốn lên các ngân hàng thương mại quốc doanh và các quỹ tín dụng nhà nước.
- Thứ năm, cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước gắn liền với sự xuất hiện của hàng loạt các công ty cổ phần tạo ra quá trình luân chuyển vốn từ nơi không có hiệu quả hoặc hiệu quả thấp sang nơi có hiệu quả cao.
2.3.2. Cổ phần hoá với vấn đề dân chủ hoá đời sống kinh tế và chống tham nhũng
Sự bao cấp của nhà nước đối với nhiều doanh nghiệp, cơ chế xin cho là một trong những nguyên nhân gây ra tình trạng lãng phí, tham nhũng.
Cổ phần hoá sẽ là một giải pháp tích cực để hạn chế tình trạng tham những, nâng cao dân chủ và công bằng xã hội. Vì lợi ích của chính bản thân mình, cổ đông sẽ phát hiện và tự mình thông qua nền dân chủ cổ phần xử lý kịp thời các hành vi mờ ám, gian lận hay tham ô của những người quản lý và các cổ đông lớn trong công ty.
2.3.3. Tác động xã hội của cổ phần hoá
ảnh hưởng của cổ phần hoá có thể rất tích cực song cũng có thể chứa những yếu tố tiêu cực nếu không được xử lý đúng.
Thay đổi cơ cấu quản lý của doanh nghiệp khi tiến hành cổ phần hoá sẽ kéo theo sự thay đổi trong việc bố trí, sử dụng lao động. Thêm vào đó, khi công nghệ, quy trình sản xuất và cơ chế quản lý lao động mới được áp dụng sau cổ phần hoá, nhu cầu sử dụng lao động của doanh nghiệp sẽ giảm. Việc làm là vấn đề sống còn đối với người lao động. Vì vây, đây thực sự là một thách thức không nhỏ trong quá trình cổ phần hoá.
Tác động đáng lưu ý khác của cổ phần hoá là sự tiềm ẩn trong nó khả năng phân hoá xã hội và gia tăng khoảng cách giàu nghèo.
2.3.4. Cổ phần hoá với sự phát triển của thị trường chứng khoán
Cổ phần hoá có tác động rất lớn đối với thị trường chứng khoán thông qua việc làm xuất hiện thêm một số lượng công ty cổ phần có tiềm lực do thừa kế vốn, công nghệ, lao động từ các doanh nghiệp nhà nước cổ phần hoá. Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước được tiến hành tốt sẽ làm cho thị trường chứng khoán phát triển sôi động.
Ngoài ra, sự tham gia của các doanh nghiệp nhà nước cổ phần hoá vào thị trường chứng khoán buộc chúng phải thực hiện chế độ tài chính kế toán minh bạch, công khai, phải công bố với các cổ đông và công chúng về tình hình sản xuất - kinh doanh, lợi nhuận và kế hoạch phát triển công ty.
2.4. Sự cần thiết phải tiến hành cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam
- Việc thực hiện cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước đã cho phép các doanh nghiệp thu hút được một số lượng lớn nguồn vốn trong xã hội vào đầu tư phát triển sản xuất.
- Cổ phần hoá tạo cho doanh nghiệp cơ chế quản lý năng động, hiệu quả, thích nghi với nền kinh tế thị trường. Thông qua cổ phần hoá, bộ máy và phương pháp quản lý của các doanh nghiệp thích nghi, năng động và sát với thị trường hơn, phần nào làm tăng trách nhiệm của người lao động đối với doanh nghiệp, động lực lao động mới được tạo ra.
- Cổ phần hoá là con đường dẫn tới hiệu quả trong hoạt động của doanh nghiệp. Phần lớn các doanh nghiệp nhà nước sau khi thực hiện cổ phần hoá đều hoạt động có hiệu quả hơn trước xét tổng thể trên các mặt doanh thu, lợi nhuận, nộp ngân sách, tích luỹ vốn.
Tóm lại, cổ phần hoá đã đem lại lợi ích cho Nhà nước, cho doanh nghiệp, cho người lao động trong doanh nghiệp và cả trong các cổ đông khác của doanh nghiệp. Thực tế đó đã chứng minh rằng, chủ trương của Đảng và Nhà nước ta về cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước là hoàn toàn đúng đắn.
Chương II
Thực trạng cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam
I. Tiến trình thực hiện cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước trong những năm qua
Tiến trình cổ phần hoá trong thời gian qua có thể chia làm 4 giai đoạn. Đó là giai đoạn: thí điểm, giai đoạn mở rộng, giai đoạn chủ động và giai đoạn đẩy mạnh.
1.1. Giai đoạn thí điểm (từ năm 1992-1996)
Cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước được bắt đầu từ tháng 11/1991 khi hội nghị TW2 khoá 7 của Đảng đưa chủ trương cổ phần hoá. Giai đoạn này gắn với nghị định 28 của Chính phủ.
Giai đoạn thí điểm từ 1992-1996, nhà nước chỉ thí điểm thực hiện cổ phần hoá những doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ, mang tính tự nguyện, việc bán cổ phần cũng chỉ giới hạn trong những đối tượng là nhà đầu tư trong nước, trong đó ưu tiên bán bổ phần cho người lao động. Chính vì vậy, mới chỉ có 5 doanh nghiệp hoàn thành cổ phần hoá trên tổng số khoảng 16 doanh nghiệp được thí điểm trong giai đoạn này.
1.2. Giai đoạn mở rộng (1996-2002)
Giai đoạn này gắn với nghị định 44 của Chính phủ
Giai đoạn mở rộng từ năm 1996 đến năm 2002 với nhiều cơ chế chính sách về cổ phần hoá được hoàn thiện và ban hành đã đẩy nhanh tiến trình này.
Giai đoạn này mở rộng các hình thức cổ phần hoá như: bán cổ phần cho người Việt Nam định cư ở nước ngoài và người nước ngoài định cư lâu dài ở Việt Nam; mở rộng mức ưu đãi cho người lao động trong doanh nghiệp; có thể bán 100% vốn nhà nước tại doanh nghiệp… Kết quả là giai đoạn này đã tiến hành cổ phần hoá được 868 doanh nghiệp nhà nước, bộ phận doanh nghiệp nhà nước.
1.3. Giai đoạn chủ động (bắt đầu từ 6/2002 đến tháng 11/2004)
Giai đoạn này gắn với cơ sở pháp lý quan trọng là nghị định cố 64/2002/NĐ-CP của Chính phủ về việc chuyển doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần. Đây là giai đoạn Nhà nước chủ động giao cho các Bộ, ngành, địa phương trách nhiệm lựa chọn và triển khai cổ phần hoá đối với các doanh nghiệp thuộc phạm vi quản lý mà không trông chờ sự tự nguyện của các doanh nghiệp cấp dưới như trước đây.
Theo đánh giá các doanh nghiệp nhà nước được cổ phần hoá thực sự quy mô vẫn còn khá nhỏ bé chưa chiếm đến 5% tổng số vốn nhà nước trong các doanh nghiệp, quá trình cổ phần hoá còn khép kín, chưa thực sự gắn với thị trường nên vừa hạn chế công tác huy động vốn của doanh nghiệp vừa làm giảm sự giám sát của xã hội đối với hoạt động của doanh nghiệp; việc giải quyết lợi ích giữa các bên trong một doanh nghiệp được cổ phần hoá cũng chưa được hài hoà.
1.4. Giai đoạn đẩy mạnh (từ tháng 12/2004 đến nay)
Giai đoạn này cổ phần hoá được 1435 doanh nghiệp nhà nước. Giai đoạn này được đánh dấu bằng việc ban hành Nghị định số 187/2004/NĐ-CP của Chính phủ về việc chuyển công ty nhà nước thành công ty cổ phần. Trong giai đoạn này đã xuất hiện các công ty nhà nước có quy mô vốn lớn không thuộc diện nhà nước giữ 100% vốn được cổ phần hoá như: Bảo Minh, Vinamilk, Vĩnh Sơn… và được niêm yết làm tăng đáng kể quy mô của thị trường chứng khoán. Các giải pháp để nâng cao trách nhiệm của doanh nghiệp cổ phần hoá và các cơ quan trong xử lý nợ, tài sản tồn đọng, lao động dôi dư cũng được tiến hành song song với việc bổ sung các quy định để nâng cao tính khách quan, minh bạch, tính chuyên nghiệp trong quá trình cổ phần hoá như định giá qua các định chế trung gian, tính giá trị quyền sử dụng đất vào giá trị doanh nghiệp, thực hiện cổ phần lần đầu thông qua đấu giá công khai, theo nguyên tắc thị trường…
II. Những thành tựu đạt được từ việc cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước
2.1. Những thành tựu mang tính chất định lượng
Qua kết quả báo cáo của các địa phương, bộ, ngành, tổng công ty thì đến 30/6/2006 cả nước đã sắp xếp được 4760 doanh nghiệp và bộ phận doanh nghiệp. Trong đó, cổ phần hoá 3365 doanh nghiệp và bộ phận doanh nghiệp; giao bán, khoán kinh doanh và cho thuê 310 doanh nghiệp, sáp nhập hợp nhất 450 doanh nghiệp… Kết quả các doanh nghiệp thực hiện cổ phần hoá qua từng năm như sau:
Năm
Số doanh nghiệp được cổ phần hoá
1990-1992
không có
1993
2 đơn vị
1994
1 đơn vị
1995
3 đơn vị
1996
5 đơn vị
1997
7 đơn vị
1998
100 đơn vị
1999
250 đơn vị
2000
212 đơn vị
2001
204 đơn vị
2002
164 đơn vị
2003
532 đơn vị
2004
753 đơn vị
2005
754 đơn vị
1/2006-6/2006
378 đơn vị
Tổng cộng
3365 đơn vị
Qua những con số trên đây ta thấy rõ tiến trình cổ phần hoá đã trải qua những bước thăng trầm, nhưng nói chung là theo xu hướng mỗi ngày được đẩy mạnh. Từ chỗ thực hiện chậm chạp trong những năm đầu tiên (mỗi năm vài ba doanh nghiệp đến vài trăm doanh nghiệp) và cho đến những năm gần đây tiến trình cổ phần hoá được đẩy mạnh hơn, do đó số doanh nghiệp và bộ phận doanh nghiệp được cổ phần hoá tương đối nhiều.
Nhìn lại quá trình có thể nhận thấy chúng ta đã đạt được những kết quả đáng ghi nhận:
- Số doanh nghiệp nhà nước đã cổ phần hoá chiếm khoảng 24% tổng số doanh nghiệp khi chưa tiến hành sắp xếp lại và cổ phần hoá (khoảng 12000 doanh nghiệp vào thời điểm trước năm 1995).
- Có trên 10% vốn của nhà nước trong các doanh nghiệp nhà nước được cổ phần hoá (khoảng 30000 tỷ đồng).
- Hầu hết các doanh nghiệp thuộc loại nhỏ, yếu, hiệu quả kinh doanh thấp, sức cạnh tranh kém đã được đưa bớt ra khỏi hệ thống các doanh nghiệp nhà nước. Như vậy có thêm điều kiện để củng cố các doanh nghiệp nhà nước khác.
- Trong các doanh nghiệp đã cổ phần hoá, 30% số các doanh nghiệp (trên 800 doanh nghiệp) được hoàn toàn độc lập tự chủ trong kinh doanh mà không còn sự chi phối trực tiếp nào của nhà nước (nhà nước không nắm giữ một cổ phần nào, toàn bộ thuộc về tập thể người lao động).
- Việc sắp xếp lại và cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước đã hoàn thành trên 61 trong tổng số 64 tỉnh thành.
Đặc biệt, năm 2005 đã xuất hiện một điểm sáng mới cần được nhấn mạnh là trong số doanh nghiệp cổ phần hoá đã có nhiều doanh nghiệp làm ăn khấm khá, quy mô vốn lớn, hấp dẫn các nhà đầu tư. Có thể kể đến các công ty như: Công ty khoan và dịch vụ dầu khí, các nhà máy thủy điện sông Hinh (Vĩnh Sơn), Thác Bà, Phả Lại, Điện lực Khánh Hoà, Công ty giấy Tân Mai, Công ty Kinh Đô, Công ty vận tải xăng dầu đường thuỷ I, Vinamilk.
Theo kết quả điều tra của Viện quản lý kinh tế trung ương (CIEM) phối hợp với Ngân hàng thế giới (WB) tại 559 doanh nghiệp cổ phần hoá, kết quả cho thấy.
87,53% số doanh nghiệp khẳng định kết quả hoạt động kinh doanh tốt hơn nhiều so với trước khi cổ phần hoá.
2.2. Tác động của cổ phần hoá đối với hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp cổ phần hoá
Qua báo cáo của 500 doanh nghiệp cổ phần hoá, hiệu quả sản xuất kinh doanh chuyển biến tích cực. Xét trên tổng thể, các chỉ tiêu chủ yếu đều tăng. Cụ thể, vốn điều lệ tăng 5-100%, doanh thu tăng 60%, lợi nhuận trước thuế tăng 137%, thu nhập của người lao động tăng 63%, số lao động tăng 13%, cổ tức trung bình đạt 15,5%.
Phần lớn các doanh nghiệp nhà nước sau khi chuyển sang công ty cổ phần đều hoạt động có hiệu quả hơn trước xét tổng thể trên các mặt doanh thu, lợi nhuận, nộp ngân sách, tích luỹ vốn.
Theo điều tra trên gần 600 doanh nghiệp nhà nước cổ phần hoá của Viện nc quản lý kinh tế Trung ương năm 2005 cho thấy: 87,53% doanh nghiệp kết quả hoạt động kinh doanh tốt hơn hoặc tốt hơn nhiều so với trước cổ phần hoá, trung bình doanh thu tăng 13,4%, lợi nhuận trước thuế tăng 9,4% và đặc biệt lợi nhuận sau thuế tăng đến 54,3%, năng suất lao động tăng 18,3%. Từ đây, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp được cải thiện vững chắc, đây không chỉ là nhân tố tích cực để thúc đẩy nhanh tiến trình cổ phần hoá mà còn là nguồn hàng hoá tiềm năng cho các trung tâm giao dịch chứng khoán.
Một số chỉ tiêu phản ánh kết quả hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp sau cổ phần hoá đều tăng: năng suất lao động tăng bình quân 18,3%; mức nộp ngân sách bình quân của các doanh nghiệp tăng 24,9%; đầu tư tài sản cố định tăng 11,5%; lương bình quân doanh nghiệp tăng 11,4%. Điều đó khẳng định hiệu quả của việc chuyển đổi các doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần.
2.3. Cổ phần hoá tạo thêm công văn việc làm, thu hút thêm lao động
Hầu hết trong các doanh nghiệp nhà nước được cổ phần hoá, việc làm và thu nhập của người lao động đều được bảo đảm ổn định và có chiều hướng tăng lên.
Cụ thể như sau: năng suất lao động tăng 18,3%/năm; lương bình quân của người lao động tăng 11,4%/năm. Số lao động của doanh nghiệp trở thành cổ đông khá đông. Chế độ của người lao động được quan tâm giải quyết thoả đáng. Số lao động trong các doanh nghiệp cổ phần hoá tăng bình quân 6,6%. Cổ tức bình quân đạt 17,11%. Hầu hết các doanh nghiệp đều có mức cổ tức cao hơn lãi suất tiền gửi ngân hàng.
Với cơ chế quản lý mới, người lao động được coi là chủ nhân thực sự trong công ty cổ phần. Nhờ đó, họ đã nâng cao tính chủ động, ý thức kỷ luật, tinh thần tự giác, tiết kiệm trong lao động sản xuất, góp phần làm cho hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp ngày một nâng cao, mang lại lợi ích thiết thực cho bản thân, cho công ty, cho Nhà nước và cho xã hội.
2.4. Cổ phần hoá tạo ra loại hình doanh nghiệp có nhiều chủ sở hữu, giúp cơ cấu lại doanh nghiệp, huy động thêm vốn, tạo cho doanh nghiệp cơ chế quản lý năng động hiệu quả.
Khi doanh nghiệp tiến hành cổ phần hoá sẽ tăng cường được sự giám sát của các nhà đầu tư đối với nguồn vốn của doanh nghiệp nâng cao được hiệu quả sử dụng vốn, thay đổi cung cách quản trị nhằm đảm bảo giải quyết được hài hoà lợi ích của nhà nước, của doanh nghiệp của các nhà đầu tư và của người lao động.
Việc thực hiện cổ phần hoá nhà nước đã cho phép các doanh nghiệp thu hút được một lượng lớn nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội vào đầu tư phát triển sản xuất qua thị trường chứng khoán. Với 2242 doanh nghiệp nhà nước được cổ phần hoá nưam 2004, 12411 tỷ đồng cổ phiếu đã được bán, Nhà nước nhờ đó đã có 10169 tỷ đồng (chiếm 58% tổng số vốn nhà nước đã cổ phần hoá) để tái đầu tư kinh tế.
Việc tham gia của công chúng đầu tư trong các phiên đấu giá trên trung tâm giao dịch chứng khoán hn cho thấy không chỉ người lao động đang làm việc tại các công ty được đấu giá mà cả người dân đã khá quan tâm đến việc đầu tư, kinh doanh cổ phiếu, trái phiếu. Tính đến hết tháng 1/2006, trung tâm đã đấu giá 28 phiên lớn cho các doanh nghiệp nhà nước cổ phần hoá hoặc doanh nghiệp nhà nước đã cổ phần hoá bán bớt phần vốn nhà nước (chưa kể có 17 phiếu phối hợp thực hiện với trung tâm giao dịch chứng khoán TPHCM). Tổng giá trị cổ phiếu trúng giá đạt 2039,2 tỷ đồng, với 2880 nhà đầu tư trúng giá trên 4085 tổng số lượt nhà đầu tư đăng ký đấu giá.
Tiến trình cổ phần hoá đã tạo ra một số lượng khá lớn công ty cổ phần. Đến thời điểm hiên nay đã có hơn 1000 công ty cổ phần được hình thành trên nền của các doanh nghiệp nhà nước cổ phần hoá. Sự xuất hiện của các công ty cổ phần có tiềm lực kinh tế lớn sẽ làm thay đổi ảnh hưởng của thị trường chứng khoán đối với sự phát triển của nền kinh tế. Sự tăng trưởng nhanh các chứng khoán niêm yết tại Trung tâm giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh trong gần hai năm qua cho thấy tác động của cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước đối với sự phát triển của thị trường chứng khoán.
Việc cổ phần hoá có hiệu ứng khá rõ rệt đối với việc thành lập mới doanh nghiệp nhà nước. Tình trạng lập doanh nghiệp nhà nước tràn lan đã được chấm dứt. Trong 3 năm từ 2001-2003 cả nước chỉ thành lập 59 doanh nghiệp nhà nước, hầu hết tập trung vào lĩnh vực dầu khí, năng lượng nguyên tử, sản xuất cơ khí hoặc hoạt động công ích. Nợ xấu của doanh nghiệp nhà nước cũng cần được xử lý.
Nhiều doanh nghiệp nhà nước cổ phần hoá đã đổi mới được công nghệ, nâng cao được hiệu quả sản xuất, kinh doanh và tính cạnh tranh.
III. Những khó khăn của cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước
Bên cạnh những thành công như đã nêu trên, việc thực hiện chủ trương cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước ở nước ta cũng bộc lộ khá nhiều hạn chế.
- Thứ nhất, hạn chế rõ nhất trong việc thực hiện chủ trương cổ phần hoá là tiến độ cổ phần hoá còn chậm chạp, chưa nhiều, chúng ta mới cổ phần hoá được các doanh nghiệp nhỏ và rất nhỏ. Theo các số liệu đã được đề cập cho thấy việc thực hiện cổ phần hoá luôn thấp hơn chỉ tiêu đề ra. Kết quả thực hiện cổ phần hoá mới đạt khoảng 80%, trong đó nhiều Bộ, ngành, địa phương đạt dưới 50%. Theo kế hoạch (đã được điều chỉnh) cho tới cuối năm 2007, còn 1700 doanh nghiệp cần cổ phần hoá, bằng gần70% số đã thực hiện của cả giai đoạn 2000-2005, đây thực sự là bài toán cho các Bộ, ngành, và lời giải của bài toán này cũng chính là chìa khoá cho việc gia tăng hàng hoá trên thị trường chứng khoán. So với Đề án được Thủ tướng chính phủ phê duyệt thì số doanh nghiệp nhà nước được cổ phần hoá chưa đạt 80%. Số lượng doanh nghiệp được cổ phần hoá trong năm 2005 tuy đạt con số 754 đơn vị, nhưng nếu so với yêu cầu của Nghị quyết Hội nghị lần thứ 9 chấp hành Trung ương Đảng khoá IX là
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- ktct-54 (CPH DNNN).doc
- ktct-54.doc