Đẩy mạnh hoạt động trợ giúp khởi sự doanh nghiệp của Phòng Thương Mại & Công Nghiệp Việt Nam

phần Mở đầu 1. Sự cần thiết phải nghiên cứu đề tài. Doanh nghiệp là tế bào của nền kinh tế, số lượng, chất lượng của các doanh nghiệp có ý nghĩa quyết định tới sự phát triển của nền kinh tế quốc dân. Cũng như những cơ thể sống, các doanh nghiệp cũng phải trải qua thời kỳ hình thành, phát triển và suy tàn. Những doanh nghiệp đó có tồn tại và phát triển được hay không lại phụ thuộc vào tổng thể nhiều nhân tố, từ khách quan thuộc môi trường vĩ mô, các yếu tố thuộc về kỹ năng của chủ doanh nghiệp

doc94 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1350 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Đẩy mạnh hoạt động trợ giúp khởi sự doanh nghiệp của Phòng Thương Mại & Công Nghiệp Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đến cả các yếu tốt may rủi. Tục ngữ Phương Đông có câu chặng đường dài bắt đầu bằng những bước đi đầu tiên, sự phát triển của các doanh nghiệp cũng vậy. Để có thể tồn tại và phát triển bền vững, ngay từ đầu, người chủ doanh nghiệp phải hội tụ cho doanh nghiệp của mình những nhân tố cần thiết, trong đó có những nhân tố mà bản thân chủ doanh nghiệp đã có, những nhân tố mà hiện chưa có nhưng có thể có được thông qua nỗ lực của bản thân, nhưng cũng có cả những nhân tố mà không thể tự có được và khi đó phải cần đến sự trợ giúp từ bên ngoài. Người ta có thể có được trợ giúp từ người thân, từ các cơ quan nhà nước, các đơn vị kinh doanh khác thông qua quan hệ kinh doanh, nhưng ngày nay các Nghiệp chủ tương lai không thể không quan tâm đến những trợ giúp từ các hiệp hội, hay các tổ chức mang tính chất hiệp hội ngành nghề trong đó Phòng Thương Mại là một kiểu hiệp hội như vậy. Ngày nay, hàng năm có hàng nghìn thậm chí chục nghìn doanh nghiệp ra đời nhưng trong số đó cũng có không ít bị biến mất ngay năm hoạt động. Điều tra về thực trạng này người ta đã kết luận được rằng nếu không tính đế những trường hợp thành lập doanh nghiệp vì các mục đích phi pháp thì nguyên nhân hàng đầu dẫn đến sự thất bại của doanh nghiệp ngay từ khi khởi sự chính là yếu tố năng lực cá nhân của người chủ rồi mới đến các yếu tố khác. Với vai trò to lớn của các doanh nghiệp và những khó khăn gặp phải của doanh nghiệp thì vấn đề trợ giúp cho hoạt động khởi sự là hết sức cần thiết. Là một tổ chức Phi chính phủ, đại diện và bảo vệ quyền lợi của cộng đồng doanh nghiệp, Phòng Thương Mại và Công Nghiệp Việt Nam (VCCI), ngày nay còn có thêm chức năng là xúc tiến và hỗ trợ doanh nghiệp, đã ngày càng chứng tỏ được vai trò to lớn của mình trong giới doanh nghiệp. Hoạt động hiệu quả, tạo dựng được uy tín không chỉ trong nước mà cả trên trường quốc tế. VCCI bên cạnh những hoạt động thuộc về chức năng còn được Tổ chức lao động quốc tế (ILO) kết hợp với SIDA chọn làm đối tác để triển khai chương trình “Khởi sự và nâng cao khả năng kinh doanh của doanh nghiệp”, qua đó đã càng khẳng định thêm vai trò to lớn của mình đối với các hoạt động khởi sự doanh nghiệp ở Việt Nam. Với ý nghĩa to lớn của các hoạt động hỗ trợ khởi sự doanh nghiệp và vai trò của VCCI thì nghiên cứu về hoạt động trợ giúp của VCCI là rất cần thiết. Với mong muốn được hiểu biết sâu sắc hơn về vai trò, thực trạng các hoạt động hỗ trợ của VCCI để qua đó có thể đưa ra được những kiến nghị với VCCI về hoạt động này. Được sự chấp thuận của VCCI và ĐH KTQD tôi quyết định chọn nghiên cứu đề tài “Đẩy mạnh hoạt động trợ giúp khởi sự doanh nghiệp của Phòng Thương Mại và Công Nghiệp Việt Nam”. 2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu. Đối tượng nghiên cứu của đề tài là “hoạt động hỗ trợ khởi sự doanh nghiệp”. Trong tổng thể cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam có nhiều hình thức pháp lý khác nhau: Doanh nghiệp nhà nước, Doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp liên doanh... tuy nhiên đối tượng mà đề tài hướng vào là các doanh nghiệp được thành lập và hoạt động theo Luật doanh nghiệp. Do đặc thù của các loại hình doanh nghiệp khác nhau nên khởi sự doanh nghiệp tương ứng cũng khác nhau, trong phạm vi đề tài này xin đặt trọng tâm vào hoạt động trợ giúp khởi sự cho các doanh nghiệp “dân doanh”: bao gồm Doanh nghiệp tư nhân, Công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần và các hộ kinh doanh cá thể. Người ta có thể bắt đầu khởi sự kinh doanh bằng cách mua đứt một doanh nghiệp – hiếm thấy ở Việt Nam – hay là thành lập một doanh nghiệp mới. Trong phạm vi đề tài này chỉ đề cập đế việc khởi sự thông qua lập mới một doanh nghiệp. Đề tài được nghiên cứu tại Văn phòng Thương Mại và Công Nghiệp Việt Nam. Trong hệ thống các tổ chức có thể hỗ trợ khởi sự doanh nghiệp khác nhau, Phòng Thương Mại và Công Nghiệp Việt Nam có thể nói là tổ chức uy tín nhất trong hoạt động này. 3. Phương pháp nghiên cứu: Đề tài được nghiên cứu bằng tổng hợp các phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, biện pháp quan sát thực nghiệm, thống kê... 4. Kết cấu đề tài: Gồm 3 chương. Chương I: Lý luận chung về trợ giúp khởi sự doanh nghiệp. Chương này nhằm làm rõ quá trình khởi sự, vai trò, sự cần thiết, nội dung của hoạt động hỗ trợ khởi sự, phân tích ưu nhược điểm của Văn Phòng Thương Mại so với các tổ chức khác trong hoạt động khởi sự doanh nghiệp. Chương II: Phân tích hoạt động trợ giúp khởi sự doanh nghiệp của VCCI. Phần này nhằm làm rõ thực trạng hoạt động hỗ trợ khởi sự doanh nghiệp, phân tích ưu nhược điểm, những thành tựu đã đạt được và tồn tại cần khắc phục. Trên cơ sở những phân tích đó, những phương hướng, giải pháp cho các hoạt động trợ giúp khởi sự sẽ được làm rõ. Đó chính là nội dung của Chương III: Phương hướng và giải pháp đẩy mạnh hoạt động trợ giúp khởi sự doanh nghiệp của VCCI. Lời cảm ơn: Tôi chân thành cảm PGS.TS. Nguyễn Thừa Lộc, Phó trưởng khoa Thương Mại - Đại Học KTQD, người đã trực tiếp hướng dẫn tôi thực hiện đề tài này. Chân thành cảm ơn ThS. Phan Hồng Giang, Phó chánh văn phòng Phòng Thương Mại và Công Nghiệp Việt Nam, đã chỉ dẫn và giúp đỡ tôi trong nghiên cứu đề tài tại VCCI. Cảm ơn các thầy cô Khoa Thương Mại - Đại Học KTQD đã trang bị cho tôi những kiến thức cơ bản của đề tài. SV: Phạm Quốc Công. Chương I. Lý luận về trợ giúp Khởi sự doanh nghiệp Bắt đầu bằng hoạt động khởi sự doanh nghiệp, đó là một quá trình đi từ những nhận thức đến các hành động thiết lập, tổ chức và điều hành hoạt động kinh doanh. Trên cơ sở phân tích quá trình này người ta sẽ thấy doanh nghiệp cần được hỗ trợ những gì. Câu hỏi đặt ra là tại sao phải thực hiện hoạt động trợ giúp? Để trả lời câu hỏi này cần làm rõ hai vấn đề: Thứ nhất: Vai trò, thực trạng của hệ thống các doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp Việt Nam nói riêng để thấy được sự cần thiết phải trợ giúp doanh nghiệp. Thứ hai: Trong quá trình khởi sự các doanh nghiệp gặp phải vướng mắc gì cần phải giải quyết. Trong hệ thống hỗ trợ doanh nghiệp Thì Phòng Thương Mại cho thấy ưu điểm vượt trội, và vì vậy việc phân tích ưu thế của Phòng thương mại cũng sẽ giải quyết vấn đề tại sao phải cần tiến hành và đẩy mạnh hơn nữa hoạt động trợ giúp khởi sự của VCCI. I. Quá trình khởi sự doanh nghiệp. Quá trình khởi sự bắt đầu từ nhận thức của chủ doanh nghiệp. Sau khi đã thống nhất được rằng nên khởi sự doanh nghiệp cho mình, nghiệp chủ phải tiến hành việc lập kế hoạch kinh doanh và thực hiện kinh doanh thường nhật. Hình 1 dưới đây sẽ thể hiện quá trình khởi sự: Đánh giá bản thân. Thách thức khi khởi sự. Phân tích điều kiện bản thân. Tăng cường kỹ năng kinh doanh. Đánh giá tài chính bản thân. Lựa chọn ý tưởng kinh doanh. Chọn lựa chọn loại hình kinh doanh. Chọn ý tưởng kinh doanh tốt. Thử nghiệm ý tưởng kinh doanh. Phát triển ý tưởng kinh doanh thành kế hoạch. Nhận thức cá nhân. Chủ doanh nghiệp Kế hoặch kinh doanh. Lựa chọn hình thức pháp lý. Đánh giá thị trường Tổ chức nhân sự. Những thách thức và nghĩa vụ. Lập kế hoạch kinh doanh Đánh giá sự tồn tại lâu dài của doanh nghiệp. Tiến hành kinh doanh Hình 1: Quá trình khởi sự 1. Nhận thức kinh doanh của bản thân. Trước hết người chủ doanh nghiệp cần nhận thức về bản thân xem mình sẽ có được lợi ích gì khi quyết định khởi sự và nếu so với đi làm thuê cho người khác thì có tốt hơn không. Tuy nhiên không phải ai cũng thích hợp cho việc khởi sự doanh nghiệp cho chính mình. Họ cần phải có những phẩm chất nhất định hoặc nếu không có thì họ cũng phải có khả năng thay đổi bản thân thông qua đào tạo và tự đào tạo cũng như có đủ khả năng tài chính. 1.1. Những đánh giá bản thân. a) Thách thức của khởi sự. Cần xem xét những cái được và cái mất của tự kinh doanh trên cơ sở so sánh giữa việc làm thuê cho người khác với việc “làm thuê cho chính mình”. Làm thuê cho tổ chức thành đạt. Có những người phù hợp trong vai trò là người làm thuê nhưng cũng có người lại đặc biệt phù hợp với vai trò là người chủ. Khi quyết định trở thành một người làm công chắc chắn là người ta sẽ được an toàn, thu nhập đều đặn, có số giờ làm việc thấp hơn, được trả thêm tiền cho giờ làm ngoài, những kỳ nghỉ theo quy định nếu họ không muốn làm thêm, được bảo hiểm thất nghiệp, và nhiều quyền lợi theo quy định của pháp luật dành riêng cho người lao động làm thuê. Những người lao động sẽ chỉ phải có trách nhiệm hữu hạn trên phần công việc được giao, họ không phải lo lắng nhiều về việc làm của mình. Và lợi thế to lớn nhất là họ không phải chịu những rủi ro đối với những khoản tiền mà họ tích góp được. Tuy nhiên, để có được mức lương ổn định và ngày càng cao thì những người làm công phải tham gia vào “cuộc tranh đua ác liệt”. Trên thực tế người làm công ngày nay đã hiểu ra rằng để có thể tiến thân trong các tổ chức thành đạt thì không chỉ có những khả năng mà họ còn cần những đường “đi tắt” và với rất nhiều người thì họ không thể chấp nhận được “sự bất công” này. Những sáng kiến của họ trị giá hàng triệu USD thì họ chỉ nhận được những chiếc giấy khen và khoản tiền ít ỏi. Những bản hợp đồng lao động phụ bắt người ta phải làm thêm nhiều giờ mặc dù họ không muốn và rất nhiều những bó buộc mà họ phải tuân theo. Khởi sự kinh doanh cho bản thân. Người ta bắt tay vào khởi sự vì nhiều lý do, nhưng dù lý do đó là gì cũng trở nên vô nghĩa khi công việc tự kinh doanh của họ không đem lại cho họ những lợi ích nhất định. Là chủ của chính mình, họ không phải tuân thủ mệnh lệnh của người khác ngoại trừ mệnh lệnh của khách hàng – người chủ duy nhất của họ; Tự do làm việc với cường độ của chính mình quy định; Được đánh giá đúng mức, tạo được uy tín cho bản thân mình và thu được lợi nhuận tương xứng với công sức mà họ bỏ ra; Họ có khả năng tự kiểm soát cuộc sống của mình và được hưởng cảm giác sáng tạo, đóng góp của mình cho cộng đồng, cho xã hội. Cũng chính người chủ doanh nghiệp phải đối mặt với những thách thức: Phải làm việc suốt ngày đêm nếu họ muốn doanh nghiệp của mình tồn tại và phát triển. Bất lợi cơ bản nhất là những rủi ro với khoản tiền của mình, của gia đình và khoản vay tín dụng. Nếu là người làm công anh ta có quyền được hưởng lương đều đặn, những khoản phụ cấp định kỳ, thay vào đó người chủ doanh nghiệp không những phải tự quyết định mức lương của mình - thậm chí anh ta còn không có lương khi doanh nghiệp gặp khó khăn - mà còn phải lo lắng cho khoản lương cho công nhân. Với công việc bù đầu, người khởi sự còn phải đối mặt với những khả năng bất ổn trong quan hệ gia đình, quan hệ bạn bè. b) Các điều kiện của bản thân. Nhiều người lấy làm thích thú với những lợi ích của khởi sự doanh nghiệp cho chính mình mà quên rằng không phải ai cũng có thể khởi sự doanh nghiệp của mình một cách thành công. Rất nhiều công trình nghiên cứu cũng như thực tiễn đã chỉ ra những đặc tính chung cần có đối với một nghiệp chủ thành công, những đặc tính đó được khái quát như sau: Tình thân ái: Hầu hết các lý thuyết về quản lý nhân sự hiện đại đã chỉ ra mối quan hệ thân thiện giữa lãnh đạo và công nhân viên sẽ tạo cho doanh nghiệp không khí làm việc tốt, gần gũi, công nhân thoải mái trao đổi ý kiến với người chủ là yếu tố thành công hàng đầu của doanh nghiệp, vì thế chủ doanh nghiệp tương lai cần phải hoà nhập với mọi người, phải kiên nhẫn... Sự nhiệt tình: Sự nhiệt tình có sức lôi cuốn, và phong thái truyền cảm sẽ khích lệ niềm tin và tinh thần tận tuỵ. Sự chân thành: Thẳng thắn, thật thà, lương thiện. Tác phong công nghiệp: Làm việc sớm và muộn khi cần thiết để giữ cho doanh nghiệp đạt mức hiệu quả nhất; là người làm việc nỗ lực hết mình và có lương tâm. Cường tráng: Sức khoẻ tốt, có nghị lực phi thường. Bền bỉ: Người khởi sự phải kiên định về mục đích; không dễ dàng bị nản chí đặc biệt là trong giai đoạn khó khăn, làm ăn kéo dài, công việc có vẻ chậm trễ. Tích cực: Người khởi sự cần hoan nghênh mọi sự giúp đỡ có tính chất xây dựng; khát khao học tập từ mọi nguồn có thể; lạc quan, tự tin sẵn sàng chấp nhận rủi ro. Có sáng kiến: Chủ động; tháo vát, sáng tạo, và tự giác; có thể tự tháo gỡ những khó khăn không cần sự giúp đỡ của người khác; thu được những ý tưởng tốt mà vận dụng ý tưởng đó vào thực tế kinh doanh. Có trách nhiệm: Khi thất bại thì biết chấp nhận, khi thành công thì không khoe khoang, khoác lác. Kiên quyết: Nhanh nhạy, không lưỡng lự, can đảm nhưng không khinh suất. Trên đây chỉ khái quát những đặc tính và cũng là những yêu cầu với một chủ khởi sự để có thể thành công. Tuỳ thuộc vào ngành hàng kinh doanh, quy mô doanh nghiệp, khả năng tài chính... mà những yêu cầu cụ thể sẽ khác nhau cho các doanh nghiệp khác nhau. Hộp 1 dưới đây sẽ chỉ ra yêu cầu với người khởi sự doanh nghiệp nhỏ và rất nhỏ. Chủ doanh nghiệp nhỏ không thể có được những khoản tài chính lớn để có thể thêu từng chuyên gia tư vấn cho từng lĩnh vực cụ thể vì vậy họ cần phải có tổng hợp kiến thức và những đặc tính cá nhân: Tay nghề kỹ thuật. Kỹ năng quản lý kinh doanh. Kiến thức về ngành hàng kinh doanh. Khả năng ra quyết định sáng tạo. Điều kiện gia đình thuận lợi: người thân thông cảm ủng hộ. Chấp nhận rủi ro. Giữ được chữ tín. Sức khoẻ. Có động cơ kinh doanh rõ ràng. Hộp 1: Yêu cầu với một chủ nghiệp nhỏ. c) Nâng cao năng lực làm chủ. Nhiều người khởi sự doanh nghiệp của mình thành công trong khi ngay từ đầu họ chưa có đủ các năng lực cần thiết. Những thiếu sót của họ có khả năng khắc phục được thông qua việc trau dồi thêm. Nhiều người lý luận về một hiện thực là có những chủ doanh nghiệp thành công với trình độ đào tạo kém và họ cho rằng chẳng cần thiết phải học cũng có khả năng thành công. Đó là một quan điểm sai trái. Vấn đề học hỏi phải được hiểu theo nghĩa rộng, nó bao gồm đào tạo và tự đào tạo. Những chủ doanh nghiệp vì một lý do nào đó – hoàn cảnh lịch sử, hoàn cảnh gia đình – mà không được đào tạo chính quy, nhưng trong quá trình kinh doanh họ có khả năng thích ứng cao, có khả năng điều chỉnh kịp thời, có khả năng học hỏi nhanh chóng thông qua hoạt động thực tiễn mà không thông qua sách vở. Khoa học là tinh tuý của cuộc sống hiện thực, được đúc kết từ thực tiễn, đến lượt nó khi được phát triển lên một trình độ nhất định nó lại quay lại chi phối thực tiễn. Khoa học kinh tế, khoa học quản lý cũng vậy, việc được đào tạo của người khởi sự cũng cần thực hiện theo hai kênh là bản thân nghiệp chủ phải đào tạo thông qua tự học và đi học. Và sự hỗ trợ đào tạo từ bên ngoài của các tổ chức đào tạo hay xúc tiến cũng là một nhân tố quan trọng. Nếu một người có khả năng về vấn đề kỹ thuật, anh ta có một bằng sáng chế phát minh và anh ta thấy rằng thật phí khi bán nó cho một doanh nghiệp khác với cái giá mà anh cho là không xứng đáng, anh ta có thể khởi sự cho bản thân mình. Trong tình huống này anh ta nên học hỏi thêm những kiến thức về quản trị kinh doanh. Một người khác có khả năng quản lý rất tốt nhưng chưa có kiến thức kỹ thuật thì có thể trau dồi kiến thức kỹ thuật. Tuy nhiên với những người còn thiếu kiến thức kỹ thuật thì con đường nên làm là liên kết với người có kiến thức kỹ thuật và học hỏi họ. d) Đánh giá tài chính của bản thân. Sau khi chuẩn bị tư tưởng và kiến thức, giờ đây chủ khởi sự phải tính toán nguồn tài chính của bản thân và nguồn tài chính mà anh ta có thể huy động. Trước hết là tài chính của bản thân: chủ nghiệp phải tính toán mức chi tiêu của bản thân và gia đình, tính toán thu nhập có thể đưa vào kinh doanh. Quy mô của vốn tự có của bản thân càng lớn thì quyền chủ động dành cho người khởi sự càng lớn và nguy cơ thất bại do vỡ nợ càng được giảm nhẹ. Ngày nay người ta vẫn thường nói “kiếm tiền bằng sức lực là việc làm bần cùng, kiếm tiền bằng tiền của mình là việc làm bình thường, còn kiếm tiền bằng tiền của người khác và qua đó mang lại tiền cho cả người khác mới là việc nên làm”. Việc có được vốn của người khác có thể thông qua liên kết, liên doanh, đây là việc làm an toàn nhưng cũng đồng nghĩa là chia sẻ lợi ích. Chủ khởi sự cũng có thể thực hiện vay vốn của các tổ chức tín dụng. Trong tình huống này, ý tưởng kinh doanh và bản kế hoạch kinh doanh trở thành một tài sản có ích giúp có được vốn vay. Sau khi dự tính các nguồn vốn có thể huy động chủ nghiệp phải tính tổng số vốn mình có để lựa chọn quy mô, loại hình doanh nghiệp. Các chủ nghiệp nhỏ và rất nhỏ có thể tham khảo tính toán tài chính khởi sự trong hộp 2 sau: STT Chỉ tiêu Số lượng tiền 1 Tiền hiện có của chủ nghiệp ----------- 2 Thu nhập của nghiệp chủ (/tháng). ----------- 3 Thu nhập gia đình(/tháng). ----------- 4 Chi tiêu bản thân và gia đình (/tháng) ----------- 5 Tiền dư cho kinh doanh trong năm 12 x {(2)+(3)-(4)} 6 Tổng vốn kinh doanh năm đầu khởi sự của nghiệp chủ (1)+(5) 7 Vốn huy động của đối tác(bạn bè, người thân...) ----------- 8 Vốn mà doanh nghiệp có thể vay. ---------- 9 Tổng số vốn ban đầu kinh doanh (6)+(7)+(8) Hộp 2: Tính toán khả năng tài chính cho khởi sự. 1.2. Lựa chọn ý tưởng kinh doanh. Sau khi đã nhận thức về bản thân như ở phần trước người khởi sự đã biết có nên kinh doanh hay không. Nếu như câu trả lời là có thì phải tiến hành tìm kiếm và lựa chọn cơ hội kinh doanh cho mình. Và bước đầu tiên là xác định loại hình kinh doanh phù hợp. a) Lựa chọn loại hình kinh doanh. Có nhiều loại hình kinh doanh khác nhau nhưng có thể phân vào 4 loại: Kinh doanh thương mại: Nói đến kinh doanh thương mại người khởi sự có thể hiểu một cách giản đơn là dùng “vốn” của mình để mua hàng hoá từ người bán buôn hoặc người sản xuất để đem bán cho khách hàng khác, khách hàng lại có thể là người bán khác hay là người tiêu dùng cuối cùng. Thực ra, kinh doanh thương mại được hiểu rộng rãi hơn nhiều nó bao gồm cả kinh doanh nhiều loại hàng hoá vô hình khác – dịch vụ, nhưng trong phạm vi mà người khởi sự cần quan tâm thì kinh doanh thương mại được xem là thương mại hàng hoá, tức là đối tượng mua bán ở đây là hàng hoá hữu hình. Còn kinh doanh các hàng hoá chủ yếu là vô hình khác thì lại được xếp vào kinh doanh dịch vụ. Kinh doanh sản xuất: Là sử dụng trình độ, máy móc hay tay nghề để tạo ra sản phẩm. Tất nhiên sản xuất nông lâm nghiệp hay ngư nghiệp cũng là kinh doanh sản xuất nhưng những loại hình này có những đặc thù riêng nên được xét riêng thành kinh doanh nông lâm ngư nghiệp. Vậy nên lựa chọn loại hình kinh doanh nào? Nhìn chung, cần căn cứ vào điểm yếu, điểm mạnh của bản thân nghiệp chủ, căn cứ vào yêu cầu của từng loại hình kinh doanh. Hình 2 dưới đây sẽ thể hiện khái quát yêu cầu của từng loại hình kinh doanh. Trên cơ sở đó người khởi sự phải so sánh, đối chiếu với những gì mình có, những gì thuộc về thế mạnh, điểm yếu để lựa chọn một loại hình phù hợp. Định hướng tới khách hàng và người lao động. Quan tâm đến lợi ích khách hàng để thu được lợi nhuận. Quan tâm đến lợi ích công nhân để khuyến khích lao động tích cực. Thương mại: Địa điểm và hình thức đẹp. Trình độ bán hàng phải tốt. Hàng hoá bán phải thoả mãn nhu cầu khách hàng nhắm tới. Giá bán phải hợp lý. Lưu kho phải hợp lý. Các yêu cầu khác. Nông lâm ngư nghiệp. Phải sử dụng hiệu quả đất đai và nguồn nước. Việc bán sản phẩm phải kịp thời vụ. Chi phí cho sản xuất thì không cao. Vấn đề vận chuyển phải kịp thời.. Cần phải bảo tồn đất đai và nguồn nước. Sản xuất: Hiệu quả sản xuất phải cao. Bố trì nhà xưởng phải hợp lý. Cung cấp nguyên vật liệu, tồn kho nguyên vật liệu phải hợp lý. Năng xuất lao động cao. Chất lượng sản phẩm phải cao. ít thất thoát, hao phí. Dịch vụ: Cung cấp dịch vụ đúng lúc, đúng địa điểm. Chất lượng dịch vụ phải cao. Giá dịch vụ hợp lý. Dịch vụ hỗ trợ khách hàng. Các yêu cầu khác Hình 2: Yêu cầu đối với từng loại hình kinh doanh. b) Tìm kiếm ý tưởng kinh doanh tốt. ý tưởng kinh doanh là vấn đề cốt lõi. Sẽ không thể tiến hành kinh doanh nếu không có được ý tưởng kinh doanh tốt. Một ý tưởng kinh doanh tồi được thực thi sẽ chỉ mang lại thất bại. Có 2 cách để có thể tìm được một ý tưởng kinh doanh tốt, hai cách đó dựa trên 2 quan điểm chủ đạo: Quan điểm định hướng sản xuất: Theo quan điểm này, người khởi sự sẽ tìm ra được ý tưởng kinh doanh dựa trên những thứ mình có, như nhà máy của cha mẹ để lại, khả năng giải quyết vấn đề của bản thân... để tiến hành kinh doanh. Có thể diễn đạt một cách đơn giản quan điểm này như sau: Tôi có khả năng về tin học, tôi đã được đào tạo về phần cứng nên tôi sẽ kinh doanh sửa chữa máy vi tính. Hay như: cha mẹ tôi cho tôi một căn hộ mặt phố rất tiện lợi vì thế tôi quyết định kinh doanh thương mại, tôi sẽ bán hàng... Quan điểm định hướng khách hàng: Theo quan điểm này người khởi sự có thể tìm kiếm ý tưởng kinh doanh dựa trên những nhận thức của anh ta về nhu cầu thị trường về loại sản phẩm dịch vụ mà anh ta muốn cung cấp. Ví như: Khi thấy như cầu về thị trường đối với loại máy điện thoại di động rất cao, khả năng kinh doanh thành công là rất lớn vì thế tôi quyết định buôn điện thoại di động. Hay như, nhận thấy nhu cầu về một loại sản phẩm có khả năng xử lý rác cho các gia đình tại khu chung cư cao tầng là rất cần thiết tôi đã nẩy ra ý tưởng là tạo ra một loại thùng chứa rác thải sinh học có khả năng phân huỷ rác thải tạm thời, không gây mùi hôi. Một ý tưởng tốt là ý tưởng kết hợp được 2 quan điểm trên. Nếu người khởi sự đã có những thứ mình có để tiến hành kinh doanh thì những ý tưởng kinh doanh của anh ta phải làm sao phù hợp với nhu cầu khách hàng và xu hướng biến động nhu cầu tiêu dùng khách hàng hiện nay. Ngược lại, khi phát hiện ra nhu cầu thị trường nào đó người khởi sự nên tận dụng những nguồn lực sẵn có của mình tiến hành kinh doanh tránh lãng phí. Ví dụ: khi có được mảnh đất mặt đường thuận tiện người khởi sự quyết định kinh doanh thương mại nhưng anh ta sẽ buôn bán loại hàng gì? anh ta thấy nhu cầu ô tô ngày càng cao anh ta định làm đại lý ô tô cho Toyota nhưng vì yêu cầu vốn quá lớn nên anh ta phải chuyển sang kinh doanh điện thoại di động cũng là sản phẩm có nhu cầu cao hiện nay. c) Thử nghiệm và phát triển ý tưởng kinh doanh. Khi người khởi sự đã hình thành được ý tưởng kinh doanh của mình thì cần phải tiến hành phân tích xem ý tưởng đó có thực thi hay không. Có nhiều cách thức để phân tích, thử nghiệm ý tưởng nhưng cách tốt nhất và phổ biến nhất là mô hình SWOT (Mô hình phân tích điểm mạnh - điểm yếu, cơ hội - nguy cơ) Trên cơ sở phân tích điểm mạnh điểm yếu, cơ hội và nguy cơ người chủ khởi sự có thể nhận ra có nên khởi sự theo ý tưởng kinh doanh này hay không. Kết quả phân tích có thể dẫn tới: Tiếp tục ý tưởng kinh doanh và làm một bản luận chứng khả thi đầy đủ. Thay đổi ý tưởng kinh doanh này. Bỏ qua hoàn toàn ý tưởng kinh doanh này, tiến hành tìm kiếm ý tưởng kinh doanh mới. Nếu quyết định phát triển ý tưởng kinh doanh này, người khởi sự cần phát triển nó thành một kế hoạch kinh doanh hoàn chỉnh. ở giai đoạn này người khởi sự cần nhiều thông tin và những thông tin cần đến phải chính xác. Những thông tin cơ bản cần đến có thể khái quát gồm: Thông tin về chính sách, xu hướng biến động môi trường vĩ mô như: Công nghệ, kinh tế, xã hội, nhân khẩu, chính trị..., những thông tin về thị trường bao gồm khách hàng và đối thủ cạnh tranh... 2. Lập kế hoạch kinh doanh. 2.1. Phân tích thị trường. Dù cho người ta dự định thành lập loại hình doanh nghiệp nào và việc thành lập đó là nhắm vào một thị trường mới hay là thị trường đã có sự cạnh tranh gay gắt, thì mỗi nghiệp chủ tương lai cũng cần phải phải dựa trên số liệu thị trường được nghiên cứu kỹ làm cơ sở cho các quyết định của mình. Tìm hiểu khách hàng. Khách hàng có ý nghĩa sống còn với công việc kinh doanh. Có được lợi nhuận thì phải cung cấp cho khách hàng những gì mà họ cần đó là sản phẩm – dịch vụ với tổng thể các nhân tố tạo thành cái được gọi là “sản phẩm đồng bộ”, tức là sản phẩm dịch vụ có khả năng đáp ứng các cấp độ nhu cầu khác nhau. Nhưng như thế vẫn chưa đủ, sự thoả mãn của khách hàng phải trên cơ sở lợi ích mà khách hàng có được và chi phí cho sản phẩm dịch vụ phải chi ra cho việc tiêu dùng đó. Một sản phẩm dịch vụ tốt phải là sản phẩm dịch vụ có khả năng thoả mãn tối đa nhu cầu khách hàng hay ít nhất cũng phải thoả mãn tốt hơn sản phẩm dịch vụ của đối thủ cạnh tranh, vì thế mà vấn đề giá cả của sản phẩm dịch vụ, các dịch vụ hỗ trợ khách hàng cũng là nhân tố tham gia trực tiếp vào việc làm thoả mãn khách hàng. Vậy vấn đề cốt lõi ở đây là thông tin về khách hàng. Chủ doanh nghiệp tương lai phải trả lời được những câu hỏi cơ bản sau: Doanh nghiệp sẽ hướng vào những loại khách hàng nào? những thông tin về loại này càng cụ thể càng tốt. Khách hàng là nam – nữ, làm những nghề nghiệp gì, ở khoảng độ tuổi nào, thuộc tầng lớp xã hội nào, họ là người dân tộc nào, sống ở đâu, mua hàng ở đâu, thích mua vào khi nào... Khách hàng cần hàng hoá và dịch vụ gì? Đâu là đặc tính cốt lõi của sản phẩm dịch vụ, điểm mạnh cốt yếu của sản phẩm cung ứng là gì? Về màu sắc, kích thước, chất lượng, hay giá cả?... Khách hàng sẽ chấp nhận mức giá bao nhiêu cho sản phẩm dịch vụ cung ứng? Khách hàng có mua hàng thường xuyên không? Họ mua với số lượng nhiều hay ít? Tại sao họ lại mua sản phẩm này, có những khả năng nào mà khách hàng có thể chuyển sang sử dụng sản phẩm khác. v.v... Nhìn chung, người khởi sự có khả năng điều tra được các thông tin loại này càng cụ thể càng tốt. Nắm được thông tin về đối thủ cạnh tranh. Như đã đề cập, để có thể thành công sản phẩm dịch vụ phải thoả mãn tốt nhất nhu cầu khách hàng hay ít ra cũng phải thoả mãn tốt hơn đối thủ cạnh tranh. Trên thị trường, dù là người đi tiên phong trong một lĩnh vực mới thì chủ khởi sự vẫn chắc chắn phải gặp đối thủ cạnh tranh, không chỉ có cạnh tranh trực tiếp mà còn phải đối mặt với nhiều cấp độ cạnh tranh khác nhau như cạnh tranh loại sản phẩm dịch vụ, cạnh tranh ngành... Vì những lý do đó, để thoả mãn tốt hơn nhu cầu khách hàng so với đối thủ cạnh tranh thì người khởi sự cần phải lắm rõ thông tin cạnh tranh gồm: Mức độ cạnh tranh theo ngành. Cạnh tranh sản phẩm. Cạnh tranh nhãn hiệu. Đối thủ cạnh tranh trực tiếp: Họ bán với giá bao nhiêu? Chất lượng hàng hoá và dịch vụ của họ như thế nào? Họ cung cấp thêm những dịch vụ gì? Giá thuê địa điểm kinh doanh của họ là cao hay thấp? Trang thiết bị có hiện đại hay không? Nhân viên của họ có được đào tạo chu đáo hay không? trả lương cao hay thấp? Họ có quảng cáo hay không? Quy mô, mức độ quảng cáo có cao không? Họ phân phối dịch vụ như thế nào? Chiến lược kinh doanh của họ là như thế nào? và v.v... Kết luận cuối cùng của việc phân tích đối thủ cạnh tranh là chỉ ra được những điểm mạnh, điểm yếu của đối thủ cạnh tranh và có thể so sánh vơi bản thân. Vậy làm thế nào để biết được thông tin về khách hàng và đối thủ cạnh tranh?. Nếu như những nghiệp chủ lớn thường sử dụng hệ thống thông tin hai cấp là: Hệ thống thông tin tình báo và Hệ thống nghiên cứu thông tin – tiến hành điều tra, thí nghiệm. Thông thường người khởi sự không có đủ điều kiện để thực hiện điều đó, khi đó họ có thể thực hiện thu thập thông tin như trong Hộp 3 dưới đây. Dự đoán dựa trên sự hiểu biết sẵn có: Bằng kinh nghiệm hiểu biết của mình, người khởi sự có thể ước tính mức độ cạnh tranh, tính toán được mức độ tiêu dùng hiện tại và dự đoán biến động nhu cầu tiêu dùng tương lai. Cách này dựa trên sự hiểu biết chủ quan nên thường ít chính xác, tuy nhiên nó cũng mang lại nhiều hữu ích. Sử dụng thông tin trong ngành: Chủ khởi nghiệp có thể tham khảo thông tin thứ cấp từ các phương tiện thông tin đại chúng, thông tin từ các tổ chức độc lập, thông tin từ cơ quan nhà nước, thông tin từ các nhà tư vấn. Các thông tin thứ cấp thường là không cập nhật và ít hữu ích, các thông tin tư vấn thường phải chi phí nhiều. Tham khảo ý kiến:Người ta có thể tham khảo ý kiến của bạn bè, người thân, đặc biệt có thể tham khảo ý kiến trực tiếp của khách hàng thông qua phiếu điều tra. Hộp 3: Cách thức thu thập thông tin thị trường. 2.2. Lập kế hoạch Marketing. Với thông tin đã thu thập được người khởi sự sẽ lập được cho mình kế hoạch Marketing theo nguyên tắc 4P. a) Sản phẩm (Product). ở đây nghiệp chủ phải quyết định bán sản phẩm hàng hoá dịch vụ nào với những đặc tính phù hợp với nhu cầu khách hàng ra sao? Quyết định về sản phẩm cần phải được hiểu là gồm cả việc quyết định các nhân tố cấu thành sản phẩm dịch vụ: Chất lượng hàng hoá. Bao bì sản phẩm. Thương hiệu. Dịch vụ hỗ trợ sản phẩm như bảo hành, tư vấn, vận chuyển, xếp dỡ... Giá cả (Price). Là chi phí mà khách hàng phải bỏ ra để có được sự thoả mãn. Việc định giá cũng là một vấn đề phức tạp, nó phụ thuộc vào nhiều nhân tố, như chiến lược kinh doanh, các chiến lược giá, mục tiêu của doanh nghiệp. Nhưng dù sản phẩm hàng hoá dịch vụ được định giá giá như thế nào nó vẫn phải gồm các thành phần: Chi phí sản xuất cho sản phẩm dịch vụ. Chi phí xúc tiến và chi phí ngoài sản xuất khác. Lợi nhuận dự kiến. Các cấu thành giá cả sản phẩm dịch vụ này yêu cầu phải có tính linh hoạt cao. Nó không thể cứng nhắc trên cơ sở những chi phí sản xuất mà còn phải căn cứ vào sự sẵn sàng chấp nhận của khách hàng, vào mức giá bán ra của đối thủ cạnh tranh. Với tổng thể các nhân tố này, nghiệp chủ thậm chí phải chấp nhận mức lãi suất âm. Địa điểm (Place). Địa điểm cũng góp phần vào việc thoả mãn khách hàng. Địa điểm thuận lợi cũng có nghĩa là chi phí cung cấp của doanh nghiệp thấp, chi phí mua hàng của khách hàng thấp, người mua hàng không phải mất nhiều thời gian tìm kiếm... tất cả làm tăng giá trị sản phẩm dịch vụ mà doanh nghiệp cung ứng cho khách hàng. Những yêu cầu cơ bản với một địa điểm tốt: Tiện lợi cho giao thông. Tiện lợi cho quan sát. Tại nơi tập trung đông khách hàng mục tiêu của doanh nghiệp. Không gây ra những xung đột với các quy định pháp luật như: giao thông vận tải... Xúc tiến bán (Promotion). Xúc tiến bán là tổng thể các hoạt động không trực tiếp nhằm thúc đẩy việc bán được sản phẩm, nó bao gồm các hoạt động cơ bản như: Quảng cáo. Khuyến mại. Hội chợ triển lãm. Bán hàng trực tiếp. Quan hệ công chúng và các hoạt động khuếch trương khác. Nhìn chung, việc xúc tiến bán cần phải chi phí nhiều và vấn đề đặt ra với doanh nghiệp mới là lựa chọn và sử dụng các phương thức, phương tiện xúc tiến nào một cách hợp lý nhất. 2.3. Lựa chọn hình thức pháp lý phù hợp. Chủ khởi sự có thể chọn nhiều hình thức pháp lý khác nhau. Hình thức pháp lý ảnh hưởng đến chủ nghiệp trên nhiều phương diện: Thủ tục đăng ký kinh doanh. Rủi ro về mặt tài chính. Khả năng tăng vốn._. kinh doanh. Việc ra quyết định trong kinh doanh. Thuế và các trách nhiệm pháp lý khác. Tính năng động trong vận hành doanh nghiệp. ở Việt Nam tồn tại các hình thức pháp lý sau đây: Doanh nghiệp nhà nước do Luật Doanh nghiệp nhà nước điều chỉnh. Hợp tác xã do Luật Hợp tác xã điều chỉnh. Công ty Cổ phần, Công ty Trách nhiệm hữu hạn, Công ty Hợp danh, Doanh nghiệp tư nhân, Hộ kinh doanh cá thể do Luật Doanh nghiệp điều chỉnh. Doanh nghiệp có vốn 100% nước ngoài, Doanh nghiệp liên doanh, Hợp đồng hợp tác kinh do Luật Đầu tư nước ngoài điều chỉnh. Khi lựa chọn loại hình kinh doanh phù hợp cho mình, chủ khởi sự phải nghĩ tới nhiều vấn đề: Tự bản thân hay là nhờ ai khác giúp đỡ trong lựa chọn, đăng ký kinh doanh? Lựa chọn như thế nào cho phù hợp? Nếu người khởi sự có ý khởi sự một doanh nghiệp lớn thì cần phải tham khảo ý kiến của nhiều người đặc biệt là các chuyên gia tư vấn. Người khởi sự chỉ nên tham gia ý kiến, không nên để bất cứ ai thuyết phục mình một hình thức pháp lý mà chưa hiểu được những điểm yếu, điểm mạnh của loại hình doanh nghiệp này. Trong trường hợp doanh nghiệp không cần góp vốn thì lựa chọn các hình thức kinh doanh đơn giản. Nếu có khả năng chịu trách nhiệm hoàn toàn với các khoản nợ thì hình thức doanh nghiệp tư nhân, công ty hợp danh, hộ kinh doanh cá thể là phù hợp hơn cả. Trường hợp việc kinh doanh cần nhiều vốn thì sẽ thuận lợi hơn nếu như trách nhiệm với khoản nợ của công ty được chia sẻ cho nhiều người mà trách nhiệm đó độc lập với tài sản cá nhân của người khởi sự thì Công ty TNHH, Công ty Cổ phần là hợp lý nhất. 2.4. Tổ chức nhân sự. Chủ khởi nghiệp có quyền và phải thực hiện hoạt động tổ chức hệ thống nhân sự của doanh nghiệp, những công việc chủ yếu của người chủ gồm: Phát triển ý tưởng kinh doanh, xác định mục tiêu và kế hoạch hành động để đạt được mục tiêu đó. Tổ chức và động viên mọi người thực hiện kế hoạch hành động. Bảo đảm thực hiện kế hoạch để đạt được mục tiêu kinh doanh. Vấn đề cơ bản trong hoạt động điều hành nhân sự là sự thống nhất lợi ích của bản thân chủ nghiệp, của các đồng sở hữu, của công nhân viên, của các chuyên gia tư vấn. Thông thường ở các doanh nghiệp nhỏ, đặc biệt ở các quốc gia Phương đông vấn đề tách biệt quan hệ kinh doanh với quan hệ huyết thống là rất cần thiết. Sản xuất hàng hoá ra đời trên cơ sở sự phân công lao động xã hội và sự tách biệt trong quan hệ sở hữu. Nếu quan hệ huyết thống chi phối đến hoạt động công ty nó sẽ ngăn cản các quan hệ kinh doanh. Biểu hiện của vấn đề này là người thân quen của nghiệp chủ được nhận vào làm với trình độ không tương xứng với vị trí và yêu cầu công việc trong khi vẫn phải tốn khoản chi phí tiền lương thậm chí còn cao hơn những công nhân khác. Với những người làm công, chủ doanh nghiệp phải tiến hành thiết lập một bản mô tả công việc trong đó nêu nên những hoạt động cần làm, các yêu cầu về trình độ tay nghề và các yêu cầu khác để thực hiện được công việc đó. Trên cơ sở bản mô tả công việc tiến hành tuyển dụng nhân sự vào từng vị trí phù hợp. Với những người đồng sở hữu, việc thống nhất mục tiêu, tư tưởng, hành động là yêu cầu lớn. Sự đồng lòng như thể là tổng hợp lực của nhiều lực cùng đẩy con thuyền doanh nghiệp đi xa. Giữa các chủ sở hữu nhất thiết cần phải có sự trao đổi thông tin, thống nhất việc ra quyết định. 2.5. Nhận biết trách nhiệm pháp lý. Kinh doanh ở đâu, dưới hình thức nào đều có sự điều chỉnh của pháp luật. Trước khi bắt đầu kinh doanh chủ khởi sự phải biết những trách nhiệm pháp lý nào phải tuân theo. Những trách nhiệm cơ bản gồm: Đăng ký kinh doanh: Đây là việc làm bắt buộc, tuy nhiên để khuyến khích hoạt động kinh doanh những quy định về đăng ký kinh doanh ngày càng thuận lợi. Các doanh nghiệp ngày nay rất dễ dàng trong việc đăng ký kinh doanh. Hình 3 dưới đây là quá trình đăng ký kinh doanh. Quá trình này đã được đơn giản hoá rất nhiều so với trước đây. Đó là điểm nổi bật trong Luật Doanh Nghiệp và được các nghiệp chủ ủng hộ mạnh mẽ. Tương lai việc đăng ký sẽ còn giản đơn hơn nữa. Trách nhiệm Thuế: Là hình thức kinh doanh nào thì chủ khởi sự cũng phải tính đến nghĩa vụ thuế với nhà nước. Các loại thuế chính phải tính đến là: Thuế môn bài, Thuế giá trị gia tăng – VAT, Thuế tiêu thụ đặc biệt, Thuế thu nhập doanh nghiệp, Thuế xuất nhập khẩu. Những thông tin về trách nhiệm thuế chủ khởi sự có thể được cung cấp tại cục thuế và được quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật và có thể tìm thấy tại trang web: www.vietlaw.com.vn. Trách nhiệm pháp lý theo quy định của luật lao động: Đó là những quy định phải theo khi sử dụng lao động, như nội dung, quy định về hợp đồng lao động, quy định tiền lương, thời gian làm việc – thời gian nghỉ ngơi, kỷ luật lao động – trách nhiệm vật chất, an toàn vệ sinh lao động, bảo hiểm xã hội. Hồ sơ không hợp lệ. Người chủ đầu tư. Chuẩn bị hồ sơ đăng ký kinh doanh Phòng đăng ký kinh doanh cấp tỉnh, Sở kế hoạch đầu tư. Trao giấy biên nhận. Thông báo bằng văn bản trong 7 ngày. Cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh trong 15 ngày Hình 3: Quá trình đăng ký kinh doanh. 2.6. Ước tính vốn kinh doanh và huy động vốn kinh doanh. Để có thể tiến hành sản xuất kinh doanh, chủ khởi sự phải tính đến vốn sử dụng để tiến hành mua máy móc, trang thiết bị cần thiết, vốn dùng để duy trì hoạt động kinh doanh, và rất nhiều thứ khác phải dùng. Vốn mà chủ doanh nghiệp cần đến tại thời điểm khởi sự có thể phân làm hai loại: Vốn đầu tư ban đầu: Đó là số tiền cần thiết để chi trả cho đất đai, nhà xưởng, đồ dùng, trang thiết bị, quảng cáo – xúc tiến trước khi bắt đầu kinh doanh, phí đăng ký kinh doanh, hàng lưu kho, phí tư vấn, tiền điện và điện thoại. Vốn lưu động: Đây là số tiền cần thiết để chi tiêu hàng ngày, để duy trì hoạt động kinh doanh hàng ngày. Vốn lưu động được cần đến để sử dụng vào các khoản: Mua dự trữ nguyên vật liệu và thành phẩm. Xúc tiến bán hàng. Trả lương cho công nhân. Tiền thuê máy móc nhà xưởng, trang thiết bị... Phí bảo hiểm và các chi phí khác. Một doanh nghiệp cần có đủ vốn lưu động để trang trải cho các khoản chi tiêu trong một đơn vị thời gian nhất định, có thể là 3 tháng, 6 tháng, hay lâu hơn nữa. Việc xác định thời gian tính toán vốn lưu động cần thiết phải dựa trên nhiều yếu tố, nhưng yếu tố cơ bản nhất chính là ước tình khoảng thời gian nguồn vốn quay vòng, tức là thời gian từ khi tiến hành sản xuất kinh doanh cho đến khi lượt hàng hoá dịch vụ đầu tiên thu được tiền từ khách hàng. Hộp 4 dưới đây sẽ mô tả ước tình vốn cần thiết cho khởi sự doanh nghiệp. STT Khoản mục Số tiền 1 Mua nhà xưởng Chi phí sửa chữa, nâng cấp nhà xưởng. ........... ........... 2 Hệ thống máy tính, máy văn phòng. Hệ thống máy điện thoại. Những đồ dùng khác. .............. .............. ............. 3 Máy móc và công cụ sản xuất. ............. 4 Chi phí đăng ký, Phí tư vấn và phí tiền khởi sự khác ............ 5 Tổng vốn đầu tư ban đầu. (1)+(2)+(3)+(4) 6 Nguyên vật liệu và bao bì. ......... 7 Lương trả cho công nhân (/tháng). ......... 8 Chi phí điện, điện thoại, nước...(/tháng) ......... 9 Marketing và xúc tiến bán (/quý) ......... 10 Các khoản bảo hiểm (/quý) .......... 11 Bảo dưỡng máy móc, trang thiết bị (/quý) .......... 12 Các khoản thuế dự tính phải nộp ......... 13 Tổng vốn lưu đồng cho quý đầu. (6)+(7)x3+(8)x3+(9)+(10)+(11)+(12) 14 Tổng vốn cần thiết cho khởi sự. (5)+(13) Hộp 4: Tổng vốn cần thiết để khởi sự. Khi việc dự tính vốn cần thiết đã hoàn tất, chủ khởi sự lại phải nghĩ tới việc vốn đầu tư cho kinh doanh có thể lấy được ở đâu. Thông thường có thể huy động tư 3 nguồn: Bản thân người khởi sự, Nhà cung cấp, Ngân hàng và các tổ chức tài chính. Trước đây, người khởi sự đã tính toán nguồn vốn có khả năng huy động được, bây giờ anh ta còn phải cân đối giữa tính toán ban đầu đó với nhu cầu vốn thực tế để có những điều chỉnh hợp lý, có giải pháp kịp thời cho nguồn vốn tăng thêm. Một tỷ lệ vốn huy động và sử dụng vào kinh doanh như thế nào cũng là cả một vấn đề lớn, nó liên quan đến chi phí vốn – lãi suất. Một cơ cấu vốn không phù hợp sẽ làm giảm sức mạnh kinh doanh, ảnh hưởng tới lợi nhuận, thậm chí là phá sản. Việc vay vốn của các tổ chức tín dụng bao giờ cũng phải kèm theo những điều kiện nhất định, hãy tìm hiểu và có ứng phó thích hợp. 2.7. Đánh giá khả năng tồn tại lâu dài của doanh nghiệp. Tất cả những điều nghiên cứu ở trên đến đây có thể cho phép người khởi sự thiết lập riêng cho bản thân mình một kế hoạch kinh doanh cuối cùng với những phần cơ bản sau: Tóm tắt tổng hợp: Phần này nêu một cách tóm tắt về doanh nghiệp. Những thông tin gạn lọc nhất của các phần khác. Phần này phải thật khúc chiết và thuyết phục ý tưởng kinh doanh: Phần này mô tả chi tiết những gì doanh nghiệp sẽ làm. Đánh giá thị trường. Tổ chức doanh nghiệp. Tài chính doanh nghiệp. Phụ lục cần thiết: là những văn bản cần thiết, đó có thể gồm cả những văn bản pháp qui cần thiết. Bản kế hoạch kinh doanh đã có vấn đề có khởi sự hay không còn cần phải cân nhắc 3 vấn đề: Có thời giờ và quyết tâm quản lý doanh nghiệp không? Doanh nghiệp sẽ có lãi hay không? Có đủ tiền để kinh doanh hay không? Nếu các câu hỏi trên đều có câu trả lời là có thì người khởi sự có thể xây dựng một chương trình hành động theo thứ tự thời gian, theo mức độ bức thiết của công việc. Nhiều công việc cần thiết phải tận tay người chủ thực hiện, có những công việc có thể phân công cho người thân hay đồng sở hữu thậm chí là các nhà tư vấn của mình. Tuỳ thuộc vào loại hình, quy mô doanh nghiệp... những công việc khởi sự có thể khác nhau nhưng cơ bản thì gồm: Tìm và làm thế nào có được địa điểm phù hợp – Tìm và có được vốn kinh doanh - Đăng ký kinh doanh - Đặt điện nước và điện thoại – Mua hoặc thuê thiết bị máy móc – Mua hàng, các yếu tố đầu vào khác – Tuyển chọn, tuyển dụng nhân viên – Tuyên truyền quảng cáo hay tiến hành triển khai hoạt động quảng cáo với đơn vị quảng cáo độc lập. 2.8. Tiến hành kinh doanh. Mọi việc đã sẵn sàng, vấn đề chỉ còn là thực thi, đây là công việc hết sức quan trọng. Doanh nghiệp có tồn tại và phát triển được hay không phụ thuộc vào việc người ta thực thi nó như thế nào. Sản phẩm dịch vụ tạo ra có đúng như yêu cầu trong kế hoạch kinh doanh, có đúng với nhu cầu của khách hàng hay không? Các chương trình quảng cáo, xúc tiến thực hiện có tốt hay không và... Tất cả những điều đó phụ thuộc vào chính bản thân những hoạt động dưới sự kiểm soát, lãnh đạo của người khởi sự. Lúc này thì kiến thức, tài năng của người khởi sự sẽ quyết định anh ta có là ông chủ đáng kính trong tương lai hay không. Kết luận: Nghiên cứu quá trình khởi sự doanh nghiệp ở trên không phải là trọng tâm của đề tài nhưng lại là cần thiết. Điều cần làm sáng tỏ trong phần này sẽ phục vụ cho việc nghiên cứu vấn đề “Trợ giúp khởi sự”. Thông qua quá trình khởi sự sẽ thấy rõ những vấn đề cần thiết mà chủ khởi sự phải có nếu muốn doanh nghiệp tương lai của mình tồn tại và phát triển. Những nội dung đó là: Những kiến thức về kỹ thuật, quản lý mà chủ doanh nghiệp phải có kể cả việc anh ta sẽ có bằng việc đào tạo bản thân. Thông tin cần đến để thực hiện hoạt động khởi sự và tiến hành kinh doanh. Đó là tổng hợp các thông tin từ vĩ mô đến thông tin cụ thể. Sự tư vấn trực tiếp hay gián tiếp của cá nhân hay tổ chức. Vấn đề tài chính, bao gồm cả công việc cung cấp tài chính và cả quy chế hợp lý, thuận lợi cho hoạt động có được nguồn tài chính cho doanh nghiệp. Vấn đề xúc tiến bao gồm triển lãm, tiếp xúc với đối tác kinh doanh. II. Sự cần thiết phải trợ giúp khởi sự doanh nghiệp. Bắt đầu từ đây nội dung trọng tâm của đề tài sẽ được bàn đến. Điều đầu tiên người ta nghĩ đến là Tại sao phải trợ giúp cho khởi sự doanh nghiệp? Câu trả lời một phần nằm ngay ở vai trò của bản thân doanh nghiệp, mặt kia nằm ở sự khó khăn của việc khởi sự mà người khởi sự và doanh nghiệp của họ gặp phải. Như đã được thống nhất ngay từ đầu về đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài, ở đây chỉ xin lại được nhắc lại: Việc thành lập – khởi sự một doanh nghiệp nhà nước (quốc doanh) không hề giản đơn, có khác nhau giữa các quốc gia, được thành lập để thực hiện các hoạt động, mục tiêu khác nhau. Hơn nữa việc thành lập thường thông qua những văn bản có tính pháp lý, do một cơ quan tiến hành chứ không phải riêng cá nhân nào, nên nó không thuộc đối tượng trợ giúp khởi sự được nghiên cứu ở đây. Các hợp tác xã, các công ty có yếu tố nước ngoài, thủ tục pháp lý, điều lệ... cũng phức tạp và được điều chỉnh bởi hai văn bản luật riêng. Đối tượng trợ giúp trong đề tài này chỉ xin tập trung vào những doanh nghiệp được thành lập theo Luật doanh nghiệp. 1. Vai trò của doanh nghiệp và tự kinh doanh. Vai trò của doanh nghiệp trong nền kinh tế quốc dân. Lý do chính để hỗ trợ các doanh nghiệp trong việc khởi sự cũng như trong hoạt động kinh doanh trước hết là vai trò to lớn của nó. a) Tạo thêm công ăn việc làm mới. Hiện nay nước ta hàng năm có thêm khoảng 1,2 – 1,4 triệu lao động; ngoài ra số lao động nông nghiệp có nhu cầu chuyển sang làm những ngành phi nông nghiệp cũng không nhỏ. Việc tạo thêm công ăn việc làm không chỉ giải quyết vấn đề xã hội mà còn là giải quyết vấn đề cơ bản của sự phát triển đất nước trong giai đoạn hiện nay. Chính việc tạo thêm công ăn việc làm trong ngành phi nông nghiệp tạo cơ hội cho nông nghiệp phát triển, mở rộng thị trường, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao năng suất lao động và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế... Một nghiên cứu cho thấy 1 ha trồng lúa chỉ giải quyết được 5 lao động (trong đó chỉ có 2 lao động thường xuyên còn 3 lao động là mùa vụ), tạo được 20 – 25 triệu đồng/1năm. 1 ha trồng cây ăn quả tạo được 40 – 45 triệu đồng/năm. Trong khi đó 1 ha đất sử dụng vào công nghiệp hàng năm tạo ra hàng chục tới hàng trăm lao động với thu nhập trung bình mỗi lao động 10 triệu đồng/năm. Vậy có thể thấy, việc phát triển công nghiệp – doanh nghiệp có hiệu quả cao gấp nhiều lần so với lĩnh vực khác. Trong mấy năm qua, các Doanh nghiệp nghiệp theo luật doanh nghiệp (từ nay gọi tắt là Doanh nghiệp) cứ 70 – 100 triệu đồng là tạo thêm được 1 việc làm mới trong khi đó doanh nghiệp nhà nước là 210 – 280 triệu đồng (cao hơn 3 lần). Trong 4 năm 2000 – 2003 các Doanh nghiệp tạo thêm khoảng 1,6 đến 2 triệu việc làm đưa tổng số lao động trong các Doanh nghiệp xấp xỉ bằng số lao động trong các Doanh nghiệp nhà nước. Tổng số lao động trong khu vực tư nhân và kinh doanh cá thể khoảng 6 triệu, chiếm khoảng 16% lực lượng lao động xã hội. Ngoài việc tạo công ăn việc làm, phần lớn các doanh nghiệp phải tự đào tạo hoặc bồi dưỡng nâng cao tay nghề cho người lao động với nhiều hình thức khác nhau. Nói cách khác chính các Doanh nghiệp đã trực tiếp đào tạo cho lực lượng lao động. Rất nhiều doanh nghiệp xuất thân từ nông nghiệp, tác phong công nghiệp còn mới mẻ. Chính các Doanh nghiệp đã tạo cho họ một phong cách lao động mới, hiện đại đáp ứng nhu cầu của thời đại. Nhiều Doanh nghiệp trở thành những “lò” đào tạo những tài năng kinh doanh. Nhiều người trở nên nổi tiếng cũng từ các Doanh nghiệp mà ra. b) Đóng góp lớn vào ngân sách. Đóng góp của các Doanh nghiệp vào ngân sách nhà nước hiện nay tuy chưa cao, nhưng hiện đang có xu hướng tăng lên nhanh chóng: năm 2001 đóng góp 6,4%, năm 2002 là 7%. Tỷ lệ tương ứng của doanh nghiệp FDI là 5,2% và 6%, của Doanh nghiệp nhà nước (DNNN) là 21,6% và 23,4%. So với ngân sách trung ương, thì đóng góp của các Doanh nghiệp trong nguồn thu ngân sách địa phương còn cao hơn nhiều. Ví dụ ở một số địa phương: tại Thành Phồ HCM các Doanh nghiệp đóng góp 15% tổng thu ngân sách, Tiền Giang là 24%, Đồng Tháp là 16%, Gia Lai là 22%, Ninh Bình 19%, Yên Bái 16%, Thái Nguyên 17%, Quảng Nam 22%, Bình Định 33%, v.v... Ngoài đóng góp trực tiếp vào ngân sách, một phần các doanh nghiệp, hiệp hội doanh nghiệp đã đóng góp không nhỏ vào việc xây dựng các công trình văn hoá, trường học, đường giao thông nông thôn, nhà tình nghĩa và vào các công trình phúc lợi khác trên toàn quốc. Nhiều doanh nghiệp còn trực tiếp xây dựng các công trình văn hoá như nhà tình nghĩa, xây dựng quỹ khuyến học... c) Phục hồi và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Các Doanh nghiệp đã đóng góp không nhỏ vào phục hồi và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế những đóng góp này được chuyển tải thông qua tăng thêm vốn đầu tư, thu hút thêm lao động, phát huy được trí tuệ và sức sáng tạo của nhân dân, tăng kim ngạch xuất khẩu tăng cầu thị trường nội địa, tăng hiệu quả nền kinh tế thông qua làm tăng cạnh tranh trên thị trường... Chỉ tính riêng sản xuất công nghiệp, giá trị sản xuất công nghiệp của các Doanh nghiệp tăng đột biến, năm 1999 là 11% thì đến năm 2000 là 18,3% và duy trì ở mức cao: 2001 là 20,3%, năm 2002 là 19,3% và năm 2003 là trên 18,4%. Các Doanh nghiệp cũng đóng góp không nhỏ vào hầu hết các ngành công nghiệp chủ yếu như năm 2003: chiếm 50% giá trị công nghiệp chế biến thuỷ sản, công nghiệp giấy bìa, 30% công nghiệp may mặc.v.v... Cho đến nay các Doanh nghiệp chiếm 26,5% tổng giá trị công nghiệp của cả nước. Vai trò của tự kinh doanh với người chủ khởi sự. Việc thành lập doanh nghiệp để tạo ra một đội ngũ doanh nghiệp không chỉ đem lại những lợi ích to lớn cho nền kinh tế quốc dân (như trên) mà trước hết nó đem lại lợi ích cho bản thân người khởi sự. Đối với nhiều người, việc khởi sự kinh doanh cho chính bản thân họ có rất nhiều lợi điểm hơn là những bất lợi. Những cái được, cái mất mà người khởi sự gặp đã được nêu rõ trong Phần I. Trong mục này, để thuyết phục thêm cho lý do phải trợ giúp khởi sự, xin trình bầy vai trò của việc tự khởi sự kinh doanh với nhiều trường hợp điển hình. a) Những người quá tuổi lao động. Những người đàn ông, đàn bà vượt quá tuổi trung niên, khi mà sức khoẻ, năng lực của họ bị giảm sút, họ không muốn phụ thuộc vào con cái, phụ thuộc vào sự trợ giúp của nhà nước và họ muốn tự mình kinh doanh. Những người trước đây đã nắm giữ những cương vị tốt trong các tổ chức lớn, họ tích luỹ vốn và kinh nghiệm và khi không còn được trọng dụng nữa thì thật là phí khi họ không sử dụng những kinh nghiệm và tích luỹ của mình. Cách tốt nhất là họ tự thành lập doanh nghiệp để tự kinh doanh cho bản thân. b) Vấn đề nữ chủ doanh nghiệp. Thông thường trong rất nhiều tổ chức nữ giới không có được vị trí, mức lương, hay các khoản phụ cấp xứng đáng với những gì họ đã cống hiến. Nhiều người trong số họ đã không chấp nhận thực tế phân biệt đối xử đó và họ đã tìm đến con đường tự kinh doanh. Người phụ nữ bắt tay vào kinh doanh nhưng thực tế thì họ vẫn là “nữ” bị hạn chế nhiều mặt như sức khoẻ, thiên chức làm mẹ, thời gian cho chồng con... Bất chấp những khó khăn đó các doanh nghiệp do họ thành lập vẫn ngày càng phát triển. Vai trò của họ trong giới doanh nghiệp ngày càng cao. Vai trò càng cao, những khó khăn họ gặp phải là những lý do cho sự ra đời của nhiều chương trình trợ giúp phát triển doanh nhân nữ ở Việt Nam, tiêu biểu như của VCCI với câu lạc bộ doanh nghiệp nữ trong thời gian qua. c) Thành viên của những nhóm dân tộc thiểu số. Những nhóm người thiểu số cũng xem tự khởi nghiệp là một cơ hội cho công ăn việc làm của mình. Với thực tế trình độ nghề nghiệp của những người thiểu số cộng với cái nhìn thiếu thiện cảm của giới chủ lớn thì con đường đến với các doanh nghiệp lớn với họ đã trở nên mờ mịt. Bất chấp sự đồng hoá giữa các nền văn hoá, những người thiểu số vẫn bị tách khỏi cộng đồng kinh doanh. Con đường tìm kiếm công ăn việc làm của họ có thể giao cắt với con đường tự khởi sự. Người thiểu số có thể tự mình kinh doanh. Những gì họ có là sự ưu đãi của tự nhiên với cánh đồng nho bát ngát ở Ninh Thuận, những rừng cafe ở Gia Lai, những bờ biển dài ở Miền Trung... rất có thể mở ra cơ hội cho những người thiểu số địa phương. Trên thực tế, những khó khăn mà họ gặp phải vẫn là thiếu kiến thức, cái nhìn không đúng mức của cộng đồng. Vấn đề đặt ra ở đây vẫn là việc trợ giúp họ nếu như nhà nước, cộng đồng không muốn họ ngày càng “thiểu số”. Với đối tượng người thiểu số thì kiến thức về khởi sự, thông tin về thị trường, khoa học kỹ thuật, trợ giúp về vốn và xúc tiến là những vấn đề hàng đầu. 2. Những khó khăn cần trợ giúp khi khởi sự. Không còn nghi ngờ gì nữa, vai trò quan trọng của Doanh nghiệp và tự khởi sự kinh doanh đã được làm rõ và thừa nhận và vì thế cần phải đẩy mạnh hoạt động tự khởi sự kinh doanh và phát triển Doanh nghiệp là hết sức cần thiết. Tất nhiên là bản thân các nghiệp chủ phải tự mình nỗ lực để thiết lập và phát triển doanh nghiệp của mình, tuy nhiên có những thứ mà bản thân doanh nghiệp không thể thay đổi, không thể tự mình có được và họ cần được trợ giúp. Mặt khác, tất cả chúng ta đều muốn cho hoạt động khởi sự thực sự phát triển để tạo ra những doanh nghiệp hùng mạnh. Vậy thì tại sao không thực hiện hoạt động hỗ trợ họ ngay cả khi họ có thể tự mình thực hiện được. Phần này sẽ phân tích những khó khăn cần trợ giúp khi khởi sự trên cả mặt nguyên lý và thực tế khởi sự doanh nghiệp tại Việt Nam. Trước hết là khó khăn về nguyên lý khi khởi sự. Trong phần 3 sau đây sẽ đề cập đến thực tế khởi sự ở Việt Nam. Hàng năm số lượng các doanh nghiệp ra đời không ít, chỉ tiếng riêng ở Việt Nam con số này lên tới hàng nghìn thậm chí trục nghìn doanh nghiệp. Nhưng số doanh nghiệp còn tồn tại ngay sau năm đầu kinh doanh cũng không đạt được tỷ lệ mong muốn. Tìm đến nguyên nhân của sự ra đi của các doanh nghiệp không chỉ ở Việt Nam mà chung cho các doanh nghiệp ở khắp thế giới người ta thấy có nhiều vấn đề cần giải quyết. Trước hết là vướng mắc của bản thân của người khởi sự. 2.1. Kỹ năng quản lý. Nguyên nhân hàng đầu dẫn đến khởi nghiệp bị thất bại là sự quản lý yếu kém, người chủ doanh nghiệp thiếu kinh nghiệm quản lý trong kinh doanh. Họ không được đào tạo đầy đủ hoặc đào tạo bất tương xứng. Sự bất tương xứng có thể mô tả như trường hợp một kỹ sư có được bí quyết kỹ thuật, anh ta quyết định kinh doanh trong khi anh ta không hề có kiến thức gì về thị trường và kết quả là sản phẩm do anh ta làm ra chỉ thích hợp cho riêng anh ta. Hay như trường hợp ngược lại có kiến thức kinh doanh nhưng người khởi sự không am hiểu về lĩnh vực kinh doanh của mình. Trên trường cạnh tranh cao, trong đó tất cả các doanh nghiệp phải chiến đấu với nhau, việc không đủ nhu cầu cho doanh nghiệp trong lĩnh vực đã lựa chọn, việc quá mở rộng tín dụng, sự mất cân đối hàng hoá dự trữ, việc có quá nhiều tài sản cố định, thiếu những biện pháp quản lý giám sát chi tiêu, và nghìn lẻ một biểu hiện khác là bằng chứng của sự quản lý yếu kém. Điều đáng nói là khi nói đến sự thất bại của mình người khởi sự thường không chấp nhận nguyên nhân cơ bản là sự yếu kém trong quản lý của mình, họ thường có xu hướng đổ lỗi cho những nguyên nhân khách quan. Cái mà người ta mô tả cho sự thất bại là “Cạnh tranh quá mức” thì thực tế lại có thể là nỗ lực bán hàng kém hiệu quả. Cái được gọi là “những món nợ khó đòi” thực tế là sự mở rộng tín dụng thiếu thận trọng trong tình cảnh vốn khởi sự còn hạn chế. Việc “thiếu vốn” cho kinh doanh thực ra vấn đề là ở chỗ những tài sản mua sắm đắt tiền. Nhiều chủ doanh nghiệp hoặc được chuẩn bị quá ít hoặc không hề được chuẩn bị cho việc trở thành ông chủ doanh nghiệp. Giải thích cho sự vội vàng thành lập doanh nghiệp có hai lý do: thứ nhất, đó là sự thiếu các cơ hội làm ăn, và thứ hai là xuất hiện một cơ hội kinh doanh ngoài dự kiến mà nếu không thực hiện thì cơ hội sẽ trôi qua tầm tay. Và kết quả của sự vội vàng đó thường là đã quá muộn để nhận ra rằng “ta chưa đủ kỹ năng cần thiết”. Việc khởi sự một doanh nghiệp về bản chất là đầy khó khăn. Để cho doanh nghiệp của mình tồn tại và phát triển, ông chủ cần phải có nhiều kiến thức đa dạng về nhiều mặt của hoạt động kinh doanh hoặc là ông ta phải có đội ngũ “lính” hùng hậu. Với hầu hết chủ khởi nghiệp vấn đề tài chính là hết sức khó khăn, ông ta không thể bỏ nhiều tiền ra để chiêu mộ những chuyên gia cho từng lĩnh vực, thậm chí có đủ tiền ông ta vẫn có những khó khăn để có được những chuyên gia này – sẽ được phân tích sau đây. Trong khi đó ông ta phải thực hiện nhiều hoạt động nghiệp vụ kinh doanh đầy phức tạp. Thực vậy, để tồn tại người khởi nghiệp phải như là một thành viên duy nhất của ban nhạc một người: Chân anh ta phải biết gõ chiếc trống đệm, tay phải chơi chiếc ghi ta đeo trên cổ, mồm phải thổi chiếc đàn acmonica. Và nếu người khởi sự không có đủ tiền, không có đội ngũ giúp đỡ “không công”, và lại không có khả năng của người nghệ sĩ trong “ban nhạc một người” thì việc khởi sự bị thất bại là khó tránh. 2.2. Khó khăn trong tuyển dụng nhân lực cần thiết. Ngay cả trong tình trạng công việc tuyển dụng lao động dễ dàng nhất thì các doanh nghiệp mới ra đời cũng rất khó khăn trong việc có được những “nhân viên tốt”. Trên thị trường lao động diễn ra cuộc cạnh tranh giữa các doanh nghiệp mới và các đại gia có tiếng tăm để có những tài năng kinh doanh, và phần thất bại thường thuộc về các doanh nghiệp mới. Những sinh viên tốt nghiệp xuất sắc, những người có kinh nghiệm, kỹ năng thường mong muốn khẳng định mình trong các tổ chức danh tiếng. Có những người chấp nhận dời bỏ doanh nghiệp mới với vị trí cao để đến với doanh nghiệp danh tiếng ở vị trí thấp hơn. Vấn đề ở đây là họ cần một lợi ích tổng thể chứ không phải là những lợi ích riêng lẻ, doanh nghiệp mới thậm chí “ngậm đắng nuốt cay” chi trả những khoản tiền lớn cho nhân viên trong khi đó lại không đem lại cho họ cảm giác “cao ngạo” khi nhân viên đó gặp bạn bè của mình những lúc được hỏi “anh đang làm việc ở đâu?”. Khi mới khởi sự, doanh nghiệp khó có khả năng chi trả khoản lương thích đáng cho nhân viên như ở hầu hết các doanh nghiệp lớn thành danh, và bên cạnh đó nó không thể đảm bảo chắc chắn việc làm ổn định thường xuyên như các tập đoàn lớn. Nhiều doanh nghiệp đã đưa ra những biện pháp khắc phục như việc chia sẻ lợi nhuận thông qua kêu gọi góp vốn cổ phần. Tuy nhiên những điều mà họ đưa ra lại chỉ hấp dẫn những người mong muốn có mức thu nhập ổn định và những người có khoản tiết kiệm. Thật không may những người này thường là những người già cả, năng lực không còn thực tốt. Các doanh nghiệp lớn hàng năm bỏ ra rất nhiều tiền để chi cho khoản liên kết đào tạo với các trường đại học, các tổ chức đào tạo có uy tín. Họ bỏ tiền để “đỡ đầu” cho các sinh viên xuất sắc với điều kiện những sinh viên này sẽ làm việc cho họ khi tốt nghiệp. Những việc làm như vậy thì các doanh nghiệp mới thành lập không thể thực hiện được. 2.3. Tình trạng thiếu vốn. Những người đang tìm cách khởi sự thực sự gặp khó khăn với vấn đề tài chính. Người chủ khởi nghiệp thường là người không thực sự có nhiều vốn cho hoạt động của doanh nghiệp. Vẫn biết là điều quan trọng khi khởi sự doanh nghiệp cũng như là trong hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp phải biết sử dụng vốn của người khác nhưng việc vay tín dụng cũng rất khó khăn. Những khó khăn tài chính khi khởi sự ít nhất cũng thể hiện trên 3 phương diện: Khó khăn trong việc vay được một khoản ngân quỹ nhỏ với lãi suất ngang với lãi suất mà các công ty thành danh phải trả. Tạo dựng và duy trì được khoản tài chính dự trữ thích hợp. Đảm bảo có được vốn cổ phần. Khi khởi sự, khoản tiền vay của các nghiệp chủ không cần thiết phải thật lớn, và điều đó gây khó khăn cho họ. Việc chi phí, trang trải cho các khoản tài chính nhỏ luôn cao tương đối hơn so với khoản vay tài chính lớn. Người cho vay – chủ yếu là ngân hàng – phải chi một khoản tiền như nhau cho thủ tục, giấy tờ, chi phí như nhau cho việc điều tra thân thế và khả năng tín dụng của người chủ đi vay 500.000.000 VNĐ hay là 5 tỷ đồng. Thực tế thất bại cao của các doanh nghiệp mới buộc họ phải chi trả khoản lãi suất cao hơn nhiều cho sự chấp nhận rủi ro của nhà tài chính. Tình hình còn khó khăn hơn nhiều trong điều kiện nền kinh tế có lạm phát. Lạm phát tác động đến doanh nghiệp mới này theo 3 cách chủ yếu: Nó làm tăng nhu cầu vay tiền vì các khoản dự trữ càng cần nhiều tiền hơn. Nó làm cho lãi suất tăng cao hơn nhiều nên chi phí cho khoản vay cũng trở nên tốn kém hơn. Khi lạm phát xảy ra, chính phủ thường đưa ra những quy định chặt chẽ hơn trong vay mượn, và thông thường các điều kiện chính phủ đưa ra các doanh nghiệp mới khó có thể đáp ứng. Khó khăn trong việc gây dựng và duy trì nguồn quỹ tài chính thích hợp đặt ra cho chủ khởi nghiệp nhiều vấn đề khi các hoạt động kinh tế thay đổi theo chiều hướng tích cực hay tiêu cực. Số vốn hạn chế không chỉ gây cho họ khó khăn trong việc đối phó với sự giảm sút trong hoạt động kinh doanh, mà còn hạn chế khả năng mở rộng kinh doanh một cách nhanh chóng khi cơ hội kinh doanh rộng mở. Các doanh nghiệp mới khởi sự cũng thường không có đủ vốn cổ phần. Bên cạnh những điều kiện quy định chặt chẽ của chính phủ về vốn cổ phần, sự không chắc chắn trong kinh doanh khi khởi sự cũng không tạo được sự tin tưởng của các cổ đông. Với những doanh nghiệp có được vốn cổ phần cần thiết cũng gặp khó khăn, các cổ đông yêu cầu mức độ kiểm soát công ty lớn dẫn đến những cản trở trong hoạt động kinh doanh. 2.4. Vấn đề thiếu thông tin hữu ích. Ngày nay, thông tin tràn ngập nhưng các doanh nghiệp vẫn thiếu thông tin. Mặc dù thông tin được đưa ra trên tất cả các phương tiện thì rất nhiều nhưng chẳng ai có thể kiểm soát được thông tin đó. Trước hết là vấn đề chất lượng thông tin. Thông tin thị trường là một mớ hỗn độn, để sử sử dụng được cần phải thực hiện phân loại, xử lý để phục vụ cho những mục tiêu cụ thể. Để làm việc này riêng một chủ khởi nghiệp khó mà làm được, trước hết là vì chi phí thời gian và tiền bạc cũng không nhỏ, tiếp nữa là hệ thống thông tin của doanh nghiệp còn cực kỳ yếu kém ngay cả những công ty tương đối lâu đời. Hệ thống thông tin không hoàn chỉnh không chỉ thể hiện ở việc nó có thực hiện các hoạt động thông tin hướng ngoại hay không mà còn thể hiện ở hiệu quả hoạt động của hệ thống thông tin nội bộ trong doanh nghiệp: Thói quen làm việc trong môi trường cũ ngăn cản doanh nghiệp trong hoạt động ghi chép, theo dõi, cập nhật thông tin. Hoạt động kinh doanh yêu cần hệ thống ghi chép, cập nhật thông tin được thực hiện bởi hệ thống kế toán của doanh nghiệp. Trong khi đó khi bắt đầu khởi sự hệ thống kế toán và hệ thống thông tin nội bộ của doanh nghiệp thông thường là cực kỳ yếu kém. 3. Thực trạng khởi sự doanh nghiệp ở Việt Nam. Con đường để có được sự dễ dàng trong ._.ức hữu quan để triển khai có hiệu quả việc bảo vệ lợi ích hợp pháp, chính đáng của doanh nghiệp ở trong và ngoài nước. 3.2. Hình thành mạng trực tuyến giữa VCCI và cộng đồng doanh nghiệp. Thực hiện được những giải pháp lớn ở trên đây, VCCI cần nỗ lực nhiều mặt, cần sự thống nhất đồng lòng của toàn thể cán bộ công nhân viên Phòng. Đặc biệt trước thực tiễn yếu kém của Phòng trong tham gia xây dựng chính sách pháp luật... thì cần triển khai kênh thông tin trực tuyến như phân tích dưới đây. 3.2.1. Sự cần thiết của kênh thông tin trực tuyến. Việc đưa vào hoạt động kênh thông tin trực tuyến là hết sức cần thiết và có nhiều ý nghĩa trong việc hoàn thiện hơn nữa hoạt động hỗ trợ tạo môi trường, cơ chế chính sách thuận lợi cho khởi sự kinh doanh. Sự cần thiết này xuất phát từ thực tiễn ban hành pháp luật của nhà nước ta, từ thực tiễn những yếu kém của VCCI trong hoạt động này: Các văn bản pháp qui, cơ chế chính sách (sau đây gọi chung là Văn Bản) là để áp dụng cho doanh nghiệp nên nó cần có sự tham gia đóng góp của cộng đồng doanh nghiệp để đảm bảo tính thực tiễn. Tuy vậy việc tham khảo ý kiến của người khởi sự và doanh nghiệp khởi sự, của cộng đồng doanh nghiệp còn nhiều tồn tại: Việc soạn thảo nhiều khi chỉ là vòng khép kín giữa các cơ quan nhà nước với nhau, chưa thu hút ý kiến của đông đảo doanh nghiệp. Việc lấy ý kiến nhiều khi chỉ mang tính hình thức. Trình tự, thủ tục tham gia vào xây dựng Văn Bản chưa được quy định, điều kiện về vật chất kỹ thuật chưa đáp ứng được. Những ý kiến đóng góp không phải lúc nào cũng được cân nhắc xem xét và phản hồi công khai, đầy đủ. Do chưa tham khảo của cộng đồng nên nhiều Văn Bản không phù hợp với thực tiễn, mang tính chủ quan, áp đặt. Sự thay đổi liên tục bất ngờ của nhiều Văn Bản đã gây ra cú xốc cho cộng đồng doanh nghiệp. Về phía VCCI, mặc dù có những thành công nhất định, nhưng vẫn chưa có vai trò chủ động, thường xuyên trong việc thu thập ý kiến nhằm đóng góp xây dựng Văn Bản: Các hội thảo, diễn đàn lấy ý kiến do VCCI tổ chức trong thời gian qua có những thành công. Tuy nhiên, hầu như là các diễn đàn, hội thảo mới chỉ thu hút được số ít doanh nghiệp tham gia. Hơn nữa lại chủ yếu là các doanh nghiệp ở thành thị lớn vì vậy mà không có những ý kiến các khu vực tỉnh lẻ. Người tham dự chưa có thời gian cần thiết để nghiên cứu và đưa ý kiến. Nhiều văn bản được lấy thông qua đường công văn, mặc dù VCCI đã có những phúc đáp, nhưng ý kiến phúc đáp đó phần lớn là những ý kiến của cán bộ công nhân viên của Phòng chứ chưa phải là ý kiến tổng hợp rộng rãi của toàn thể cộng đồng doanh nghiệp. Các công văn phúc đáp của doanh nghiệp được chuyển tới để tổng kết ý kiến chậm chạp gây nhiều khó khăn. với yêu cầu về số lượng văn bản lấy ý kiến ngày càng nhiều và ngày càng phức tạp thì việc thu thập ý kiến qua công văn có nhiều rủi ro và bất cập. 3.2.2. Hoạt động của kênh trực tuyến. Trong mạng trực tuyến này VCCI là trung tâm, kết lối giữa cơ quan soạn thảo và cộng đồng doanh nghiệp. Hình 17 dưới đây là mô hình cụ thể: Bắt đầu với nguồn thông tin từ cơ quan soạn thảo. VCCI sẽ nhận nguồn thông tin từ cơ quan soạn thảo, đó là dự thảo các văn bản pháp qui, cơ chế, chính sách, chiến lược phát triển... Ban quản trị mạng sẽ đưa dự thảo văn bản cần lấy ý kiến lên mạng (là các Web site), kèm theo các văn bản hiện hành của dự thảo đó (nếu có). đồng thời đưa cả bảng trưng cầu, trong đó nêu những điều khoản cần lấy ý kiến. Tuỳ theo từng lĩnh vực, loại hình doanh nghiệp sẽ lấy ý kiến của họ ở những vấn đề khác nhau phù hợp với khả năng của họ. Các doanh nghiệp trên cơ sở tiếp nhận dự thảo trên mạng, bàn bạc, nghiên cứu để đề đạt ý kiến của mình thông qua mạng bằng E-mail gửi đến ban quản trị mạng. Ban quản trị mạng sẽ chọn lọc, tổng kết ý kiến, đề đạt của cộng đồng doanh nghiệp thành một mục sau đó được đưa lên mạng để cho các doanh nghiệp khác cùng biết và cùng thảo luận. Với những vấn đề lớn thì VCCI sẽ thực hiện hội thảo, diễn đàn qua kênh trực tuyến. Từ những ý kiến được soạn thảo, tập hợp thành ý kiến chính thức đề đạt tới ban soạn thảo. Đóng góp ý kiến Bình luận, trao đổi. Bình luận, trao đổi. Gửi dự thảo văn bản. Tổng hợp ý kiến đóng góp Cơ quan soạn thảo. Cộng đồng doanh nghiệp, người khởi sự. Phòng Thương Mại và Công Nghiệp Việt Nam. Kênh thông tin trực tuyến. Các chuyên gia. Hình 17: Mô hình kênh thông tin trực tuyến 3.2.3. Những lợi ích của mạng thông tin trực tuyến này: Nếu thực hiện tốt kênh trực tuyến này sẽ đem lại những lợi ích cơ bản sau: Minh bạch hoá thông tin về chính sách, pháp luật: Kênh trực tuyến sẽ đăng tải công khai các dự thảo văn bản quy phạm pháp luật là nguồn thông tin về chính sách pháp luật của nhà nước dành cho doanh nghiệp, góp phần tích cực vào quá trình minh bạch hoá và dự đoán trước những thay đổi trong các văn bản này, giúp tránh tình trạng thay đổi đột ngột trong chính sách và pháp luật. Mở rộng được diện doanh nghiệp được đóng góp ý kiến: Qua kênh thông tin trực tuyến sẽ góp phần tăng số lượng các doanh nghiệp được tham gia đóng góp ý kiến, không còn bị giới hạn về địa lý và quy mô, thành phần doanh nghiệp. Cách thức đóng góp có hiệu quả: Việc đăng tải dự thảo văn bản giúp cho doanh nghiệp có điều kiện nghiên cứu, so sánh văn bản cũ với văn bản mới. Qua đó có thể đưa ra ý kiến chính xác, có tính thực thi cao. ý kiến đóng góp được đăng tải công khai: Chính sự công khai trong đóng góp ý kiến nên có thể nâng cao chất lượng tiếp thu ý kiến doanh nghiệp của ban soạn thảo. Vấn đề chi phí thì lại không lớn: Ưu thế chung của công nghệ thông tin giúp cho chi phí thu thập ý kiến không lớn trong khi có thể đem lại hiệu quả cao, thậm chí là so với hình thức lấy ý kiến bằng công văn vẫn có thể rẻ hơn nhiều. 4. Giải pháp đẩy mạnh hoạt động đào tạo khởi sự doanh nghiệp. Phương hướng của công tác đào tạo khởi sự doanh nghiệp là tạo ra một đội ngũ doanh nhân đông đảo, có chất lượng cao trên khắp cả nước thì VCCI cần thực hiện những biện pháp, nhiệm vụ cụ thể như sau: 4.1. Đẩy mạnh tuyên truyền, nâng cao nhận thức về vai trò của khởi sự doanh doanh nghiệp và kiến thức để khởi sự thành công. Không phải ở tất cả mọi địa bàn, mọi đối tượng đều nhận thức được vai trò của khởi sự, và những gì cần có để khởi nghiệp thành công. Tại các khu vực có nhiều hạn chế về thông tin, phương tiện và điều kiện cơ sở vật chất khác để phục vụ cho khởi sự thành công, vấn đề nhận thức cũng đặt ra nhiều thách thức. Việc tuyên truyền nhận thức phải phối kết hợp với các lực lượng, các tổ chức địa phương, chính quyền cơ sở. 4.2. Mở rộng hơn nữa quan hệ với các đối tác cả theo chiều xuôi và chiều ngược. Quan hệ đối tác theo chiều xuôi là quan hệ giữa Phòng với các tổ chức, lực lượng trực tiếp, hay thông qua đối tác khác thực hiện hoạt động đào tạo. Hiện nay VCCI mới thực hiện những hoạt động đào tạo khởi sự, trợ giúp khởi sự và kinh doanh trên 40 tỉnh thành/ tổng số 64 tỉnh thành thực sự chưa phải là mức đạt yêu cầu, hơn nữa quan hệ hợp tác chưa chặt chẽ. VCCI cần phải thực hiện những hoạt động cần thiết để thiết lập quan hệ chặt chẽ giữa Phòng và chính quyền, tổ chức đối tác. Ví dụ: thực hiện liên kết đào tạo với các trường đại học, cao đẳng, trường chuyên nghiệp khác; Hợp tác với hội phụ nữ, thanh niên địa phương để tổ chức đào tạo doanh nhân. Việc thực hiện liên kết đào tạo với lực lượng bộ đội biên phòng cũng là một giải pháp hay cần nhân rộng. Quan hệ chiều ngược là quan hệ giữa VCCI với các tổ chức tài trợ không chỉ cho đào tạo mà tài trợ cho toàn bộ chương trình khởi sự và phát triển kinh doanh, các cơ quan hữu quan trực thuộc chính phủ, trực tiếp chỉ đạo thực hiện. Để hoạt động trợ giúp nói chung và đào tạo khởi sự nói riêng được duy trì thì cần thu hút nhiều nguồn lực tài chính, chuyên gia,... Sự liên kết chặt chẽ với các tổ chức là cần thiết để có được nguồn lực cần thiết. Trong thời gian vừa qua VCCI đã nhận được sự hỗ trợ lớn của ILO, SIDA về vốn và kỹ thuật với 1,2 triệu UDS trong giai đoạn 1997-2001 và 0,99 triệu cho giai đoạn 2003-2005 để phục công tác đào tạo và trợ giúp khởi sự, phát triển kinh doanh là kết quả của những nỗ lực lớn của VCCI trong việc thiết lập quan hệ chặt chẽ với các đối tác. 4.3. Nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên cao cấp, giảng viên giảng dạy, chất lượng giáo trình giảng dạy và trang thiết bị giảng dạy và phương pháp đào tạo. Tổng số 30 giảng viên cao cấp (15 nữ, 15 nam); 550 (36,5% nữ, 63,5 nam) giảng viên giảng dạy, là một kết quả tốt. Tuy nhiên để thực hiện đào tạo khởi sự rộng khắp trên cả nước, cho nhiều đối tượng thì số lượng giảng viên chuyên biệt cộng với những giảng viên của trường đào tạo cán bộ quản lý như hiện nay là chưa đáp ứng được. Cần tiến hành đào tạo cho đội ngũ cán bộ cao cấp của Phòng sao cho đảm bảo được cả về trình độ lý luận và thực tiễn. Ví như: tăng cường đào tạo ở nước ngoài để tiếp thu kinh nghiệm và kiến thức của những nước tiên tiến. Việc tuyển chọn cán bộ để đào tạo giảng viên cao cấp cũng như giảng viên cần tiến hành nghiêm túc và kỹ càng. Hơn thế nữa, cán bộ giảng dạy trực tiếp – cán bộ đào tạo cấp 2 trở lên – cần phải có kiến thức văn hoá, khả năng thuyết phục phù hợp với đặc tính văn hoá vùng nhằm nâng cao chất lượng đào tạo ở địa phương. Việc đào tạo khởi sự được tiến hành ở nhiều khu vực, với sự hợp tác của nhiều tổ chức. Về trình độ, năng lực cơ sở vật chất của họ là khác nhau, vì vậy VCCI sẽ gặp nhiều khó khăn về cơ sở vật chất đào tạo. Thông thường, việc đào tạo khởi sự ở địa phương được thực hiện ở địa phương nên cơ sở vật chất thường là tận dụng những gì sẵn có. Điều đó dẫn đến chất lượng đào tạo không thể cao được. VCCI có một trường đào tạo cán bộ tuy hoạt động hiệu quả nhưng chủ yếu để thực hiện đào tạo theo dịch vụ nhằm đảm bảo vật chất cho hoạt động của Phòng nên sự tham gia của nó vào công tác đào tạo khởi sự trên thực tế là còn rất hạn chế. Để có chất lượng đào tạo hơn thì cần phải có hệ thống cơ sở vật chất, như trường lớp, hệ thống thông tin, hệ thống giảng bài, hệ thống thực hành theo mô hình là yêu cầu cấp thiết. Hệ thống tài liệu đào tạo, như giáo trình, các sách chuyên ngành do VCCI phát hành cần phải được điều chỉnh, cải tiến, nâng cao chất lượng cho phù hợp với đối tượng, với vùng địa lý. Giáo trình khởi sự kinh doanh được đánh giá là cao, trên thực tế còn sơ sài, quá giản đơn không khái quát được thực tế kinh doanh ngày càng phức tạp. Các giáo trình, sách chuyên cho từng lĩnh vực khác thì chủ yếu là được biên dịch từ tài liệu nước ngoài, còn khó hiểu, khó áp dụng ở Việt Nam. VCCI cần thực hiện điều chỉnh một cách phù hợp hơn. Việc biên soạn tài liệu cần có sự trợ giúp của những giáo sư, tiến sĩ, các chuyên gia trong nước để đảm bảo chất lượng, khai thác được tiềm năng trí tuệ trong nước. Giáo trình cần biên soạn cho từng đối tượng riêng. Ví như: giáo trình dành cho sinh viên cần có tính thực hành cao vì đội ngũ sinh viên đã được đào tạo về cơ bản. Giáo trình cho khu vực nông thôn thì cần giản đơn, ngôn ngữ dễ hiểu.... 4.4. Tiến hành tổ chức công tác nghiên cứu, tư vấn áp dụng các giải pháp đổi mới quản lý doanh nghiệp. Hoạt động quản lý doanh nghiệp liên tục thay đổi đòi hỏi mỗi nhà quản lý phải không ngừng cập nhật những kiến thức mới về quản lý. Trong những năm qua, VCCI cũng đã tổ chức nhiều hoạt động đưa các công cụ quản lý mới vào Việt Nam thông qua các chương trình hợp tác mời các chuyên gia trong nước và quốc tế đến giảng bài và tư vấn cho doanh nghiệp Việt nam. Tuy nhiên, VCCI cũng cần có một đội ngũ chuyên gia giỏi, nắm vững thực tiễn doanh nghiệp để cung cấp các dịch vụ như tư vấn và đào tạo về các giải pháp quản lý. 5. Giải pháp cho hoạt động xúc tiến thương mại. Thứ nhất, triển khai đồng bộ, nâng cao chất lượng và tính chuyên nghiệp của các hoạt động xúc tiến thương mại, đầu tư, bao gồm đào tạo, cung cấp thông tin về thị trường và lộ trình hội nhập, chắp mối bạn hàng, tổ chức nghiên cứu, khảo sát thị trường, hội chợ triển lãm, cấp giấy chứng nhận xuất xứ và hướng dẫn doanh nghiệp tận dụng hệ thống ưu đãi thuế quan chung – GSP để đẩy mạnh xuất khẩu, đại diện bảo hộ sở hữu công nghiệp cho doanh nghiệp .v.v.... Thứ hai, kiến nghị với Nhà nước, phối hợp với các hiệp hội thúc đẩy phát triển thị trường dịch vụ hỗ trợ kinh doanh, phát triển các tổ chức cung ứng dịch vụ chuyên nghiệp. Phòng chú trọng thực hiện các hoạt động xúc tiến lớn ở tầm quốc gia, hỗ trợ phát triển thương hiệu và quảng bá hình ảnh hàng hoá, dịch vụ Việt Nam; kiến nghị với Nhà nước để Phòng triển khai dịch vụ cấp sổ tạm nhập (ATA-Carnet) nhằm thúc đẩy công tác xúc tiến thương mại của các doanh nghiệp. Thứ ba, tăng cường hợp tác với các tổ chức xúc tiến thương mại đầu tư ngoài nước, chủ động tham gia vào các hoạt động của các tổ chức, diễn đàn kinh tế quốc tế của giới doanh nghiệp, của các Phòng Thương mại và các hiệp hội doanh nghiệp ở các nước, nêu cao tiếng nói của cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam và phản ứng kịp thời với những diễn biến của tình hình trong và ngoài nước, có những hình thức thích hợp đấu tranh và bảo vệ quyền lợi của cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam, bảo vệ lợi ích thương mại của các doanh nghiệp đối với các vụ tranh chấp thương mại, các vụ kiện bán phá giá, vi phạm bản quyền v.v..., kiện toàn và đẩy mạnh hoạt động giải quyết tranh chấp thông qua hoà giải, thương lượng và trọng tài, nâng cao chất lượng tư vấn pháp luật quốc tế cho doanh nghiệp. Thứ tư, cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, ngày càng nhiều các nhu cầu mới của doanh nghiệp xuất hiện. Do vậy, bên cạnh việc chuyển giao các dịch vụ truyền thống (như tổ chức hội chợ triển lãm, quảng cáo, tư vấn sở hữu công nghiệp và chuyển giao công nghệ) cho các công ty trực thuộc, VCCI cũng cần nắm bắt nhanh các nhu cầu mới của doanh nghiệp để hình thành các loại hình dịch vụ xúc tiến mới. Đây là việc làm khó, đòi hỏi sự sáng tạo cao nhưng rất cần được quan tâm. Thứ năm, một hoạt động xúc tiến quan trọng khác ở tầm quốc gia cũng cần được quan tâm là việc phát triển, bảo vệ thương hiệu Việt Nam và hình ảnh hàng hoá, dịch vụ Việt Nam. Để có một thương hiệu và hình ảnh tốt đối với hàng hoá và dịch vụ của Việt Nam đòi hỏi phải có một thời gian tương đối dài kiểm nghiệm trên thị trường, nhưng nếu không bắt tay ngay từ bây giờ thì rất khó có thể có được trong tương lai. Vì vậy, phương hướng của VCCI là đẩy mạnh tuyên truyền về tầm quan trọng của việc xây dựng thương hiệu và hình ảnh hàng hoá của Việt Nam và hướng dẫn, hỗ trợ doanh nghiệp trên cả ba phương diện quan trọng nhất của quá trình này là nâng cao chất lượng sản phẩm và dịch vụ, xây dựng phong cách kinh doanh trọng chữ tín, biết chấp nhận rủi ro và nâng cao khả năng hợp tác giữa các doanh nghiệp. Mặt khác, VCCI cũng cần vận động, thuyết phục các công ty lớn của Việt Nam đi đầu trong thực hiện nhiệm vụ xây dựng hình ảnh hàng hoá và dịch vụ Việt Nam. Thứ sáu, vận động các nước công nhận Việt Nam là nước có nền kinh tế thị trường cũng là một trong những hoạt động XTTMĐT quan trọng ở tầm quốc gia mà các cơ quan Chính phủ, VCCI và các tổ chức hỗ trợ doanh nghiệp cần tích cực tiến hành trong thời gian tới. Việc làm này có ý nghĩa quan trọng trong việc tạo lập một môi trường kinh doanh quốc tế thuận lợi hơn cho các doanh nghiệp Việt Nam. Thực tế hiện nay, công tác XTTMĐT ở Việt Nam đang được rất nhiều cơ quan thực hiện như Bộ Thương mại, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Ngoại giao, Tổng cục Du lịch, VCCI và các hiệp hội .v.v... Tuy nhiên một sự hợp tác, kết nối để vận động, đàm phán về vấn đề này vẫn chưa được đặt ra một cách bài bản, chuyên nghiệp. Vai trò của VCCI chủ yếu là khuyến nghị với Chính phủ quan tâm vận động cộng đồng doanh nghiệp các nước ủng hộ thúc đẩy quá trình công nhận Việt Nam là nước có nền kinh tế thị trường. Thứ bẩy, đánh giá xu hướng thị trường cho thấy doanh nghiệp có rất nhiều nhu cầu về dịch vụ xúc tiến mới. Tuy nhiên, khác với doanh nghiệp kinh doanh, không phải với bất cứ nhu cầu nào của doanh nghiệp VCCI cũng tổ chức trực tiếp đáp ứng. Căn cứ vào yêu cầu của nền kinh tế và của cộng đồng doanh nghiệp, VCCI cần chọn lựa các dịch vụ xúc tiến đem lại lợi ích chung cho các doanh nghiệp và ở qui mô đủ lớn để thực hiện. Ví dụ, VCCI có thể lựa chọn triển khai các chương trình marketing chung cho các ngành nghề và cho nhóm doanh nghiệp, tiến hành dịch vụ chắp mối kinh doanh thông qua việc tham gia tích cực vào quá trình hợp tác của mạng lưới các PTM thế giới. 6. Giải pháp để đẩy mạnh cung cấp thông tin kinh doanh. Như trong phần “Phương hướng” đã đề cập, thì Phòng cần phải đẩy mạnh hoạt động cung cấp thông tin cho khởi sự và kinh doanh. Trong thời gian tới VCCI cần tiến hành những giải pháp cơ bản sau: Thứ nhất, phối hợp với các cơ quan liên quan xây dựng một cơ sở dữ liệu đầy đủ và cập nhật về doanh nghiệp trước hết là các doanh nghiệp hội viên. Ngoài cơ sở dữ liệu về thông tin thương mại, thị trường… như đã đề cập ở phần trên, cơ sở dữ liệu doanh nghiệp phải có đủ những thông tin cần thiết để phân tích hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp. Cơ sở dữ liệu này sẽ cho phép phân tích tác động của các hoạt động hỗ trợ của VCCI đối với sự tăng trưởng và hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. Đây cũng chính là cơ sở để duy trì mối quan hệ với “khách hàng" của VCCI. Chẳng hạn, có thể thấy được tần suất của một doanh nghiệp tham dự các hoạt động của VCCI hoặc phân tích chỉ số tài chính... Từ đó giúp VCCI có thể đánh giá, điều chỉnh và triển khai các hoạt động một cách tối ưu. Thứ hai, thúc đẩy hoạt động hỗ trợ trực tuyến qua trang web của VCCI hướng dẫn, trợ giúp doanh nghiệp ứng dụng thương mại điện tử. Như đã trình bày ở phần trên, sự phát triển nhanh chóng của công nghệ thông tin, Internet và thương mại điện tử làm thay đổi cách thức hoạt động của doanh nghiệp. Các doanh nghiệp tiếp cận với các dịch vụ trực tuyến ngày càng nhiều hơn, do đó, nhu cầu về truy cập và sử dụng thông tin trực tuyến sẽ tăng rất cao. Hiện VCCI đã duy trì trang web tại địa chỉ www.vcci.com.vn nhưng dung lượng thông tin còn rất khiêm tốn. Cần thiết lập một cơ chế để thông tin phong phú và liên tục được cập nhật. Qua hoạt động của trang web, của Trung tâm Thông tin Kinh tế, Trung tâm xúc tiến phát triển phần mềm doanh nghiệp, từng bước hỗ trợ doanh nghiệp Việt Nam tham gia vào mạng lưới Thương mại điện tử toàn cầu, phối hợp với các hiệp hội doanh nghiệp hình thành các sàn giao dịch điện tử cho các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam. Bên cạnh việc tạo cơ sở vật chất cho hoạt động thương mại điện tử, VCCI cũng cần tích cực thúc đẩy việc hình thành môi trường thể chế cho hoạt động thương mại điện tử. Thứ ba, VCCI cũng cần áp dụng các giải pháp cần thiết nhằm để tăng số lượng doanh nghiệp tham gia truy cập và sử dụng trang web của VCCI. Một trong những hình thức hiệu quả là tạo một góc dành riêng cho hội viên. Muốn truy cập vào góc này phải có tên truy nhập (username) và mật khẩu (password). Hội viên có quyền truy cập vào góc này và khai thác được nhiều thông tin hơn, chẳng hạn những tài liệu đào tạo, các thông tin thị trường, pháp luật và doanh nghiệp cập nhật nhất… từng bước cung ứng dịch vụ văn phòng ảo cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Đây cũng là một hình thức thu hút các doanh nghiệp gia nhập VCCI. Thứ tư, thông tin phải được đẩy mạnh phong phú và có chất lượng. Thông tin mà VCCI cần phải thật cụ thể chính xác, cố gắng chi tiết cho từng ngành nghề. Cụ thể: Thông tin về hàng hoá. Thông thường các nhà kinh doanh nhập khẩu của các nước khi muốn tìm kiếm bạn hàng, điều họ muốn biết trước hết là họ có thể mua những hàng hoá gì ở những thị trường nào. Vì vậy các tổ chức thành công đều xây dựng một cơ sở dữ liệu mạnh về các sản phẩm và dịch vụ xuất khẩu của nước mình. Nội dung thông tin về sản phẩm và dịch vụ bao gồm các loại sản phẩm và dịch vụ hiện đang có tại thị trường với đầy đủ các thông tin cơ bản về qui cách, phẩm chất, giá cả, điều kiện bán hàng. Đồng thời các sản phẩm và dịch vụ đều được gắn với một hoặc một số nhà cung cấp. Một cơ sở thông tin như vậy cho phép tổ chức XTTMĐT nhanh chóng trả lời các thư hỏi, yêu cầu về việc tìm kiếm người bán của khách hàng các nước. Đây thường là cách tạo ra khả năng hấp dẫn cao về cung cách làm ăn ngay từ đầu cho đối tác nước ngoài. Thông tin về thị trường. Trái với các nhà nhập khẩu, những nhà sản xuất và xuất khẩu của Việt Nam lại cần các thông tin về thị trường các nước để đánh giá qui mô và dung lượng thị trường trước khi hình thành chiến lược thâm nhập thị trường. Thường thì thông tin về thị trường được phân "tầng" theo tính chất. ở mức thấp, đó là các thông tin căn bản về thương mại của một nước như dung lượng thị trường (dân số và thu nhập đầu người, kim ngạch buôn bán, các đối tác thương mại chính), tính chất thị trường (như lịch sử hình thành, tôn giáo, các ngày lễ hội, cơ sở hạ tầng, thế mạnh và các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu, khái quát về hệ thống pháp luật...) và các điều kiện tự nhiên ảnh hưởng đến khuynh hướng tiêu dùng (như khí hậu, thời tiết...). ở tầng sâu hơn, là phân tích một dòng hàng cụ thể (chẳng hạn đối với mặt hàng giày dép thì bao gồm kim ngạch nhập khẩu mặt hàng giày dép, các loại giày dép và thị phần của từng nước xuất khẩu, mô hình tổ chức các kênh phân phối...). Vì vậy, để tổ chức thông tin thị trường rất cần hình thành một hệ thống chỉ tiêu thống nhất. Trên cơ sở đó mới tiến hành xây dựng cơ sở dữ liệu giúp doanh nghiệp có thể so sánh lựa chọn nước bạn hàng thích hợp. Có thể thấy hiện nay ở nước ta về mặt kỹ thuật xử lý số liệu không còn nhiều vấn đề khó khăn mà khó khăn chủ yếu là việc xây dựng một qui trình tập hợp và cập nhật thông tin. Vì vậy, một mặt, VCCI cần nhanh chóng nâng cao cơ sở hạ tầng kỹ thuật thông tin, phát triển các phần mềm tiện ích để kết hợp các qui trình xây dựng thông tin của cơ quan. Mặt khác, VCCI sẽ phải tăng cường hợp tác với Bộ Ngoại giao, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Thương mại và các cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài, cơ quan đại diện nước ngoài ở Việt Nam và các hiệp hội doanh nghiệp để phối hợp cơ sở dữ liệu phục vụ doanh nghiệp tiến tới phát triển một cơ sở dữ liệu thống nhất về thông tin thị trường. Thông tin về doanh nghiệp, thông tin doanh nghiệp là cơ sở để tìm hiểu đối tác kinh doanh, đảm bảo sự tin tưởng trong quan hệ hợp tác, buôn bán. Cơ sở thông tin doanh nghiệp cho phép tránh những đối tác “ma" vì nó chứa đựng đầy đủ những thông tin “nhân thân" cập nhật của doanh nghiệp. 7. Đẩy mạnh hoạt động trợ giúp tài chính cho khởi sự doanh nghiệp. Trợ giúp tài chính là một hoạt động có thể nói là còn nhiều yếu kém nhất của Phòng. Điều này xuất phát từ vai trò vị trí của Văn Phòng là một đơn vị độc lập, do đó phải tự túc về kinh phí hoạt động. Những hoạt động trợ giúp của Phòng chủ yếu là trợ giúp cộng đồng không mang tính kinh doanh vì thế tài chính cho trợ giúp cần phải có hướng đi mới phù hợp. Để có trợ giúp tài chính cho khởi sự doanh nghiệp thời gian tới cần phải tiến hành các hoạt động: Thứ nhất, tiếp tục đẩy mạnh phát triển các hoạt động trợ giúp khởi sự như là một luận cứ để kêu gọi sự hợp tác trợ giúp tài chính cho khởi sự. Thứ hai, tăng cường mối liên kết, củng cố và phát triển mối quan hệ với các tổ chức tín dụng nhằm hình thành nguồn quỹ lớn hơn có thể đảm bảo việc bảo lãnh tín dụng cho người khởi sự. Thứ ba, tăng cường tuyên truyền giáo dục về vai trò và vị trí của việc tự khởi sự nhằm huy động nguồn vốn nhàn rỗi trong cộng đồng vào việc hình thành doanh nghiệp. Đây là một hướng đi cần phải đẩy mạnh vì hiện nay nguồn tài chính nhàn rỗi trong dân chúng là rất lớn Phòng cần có sự khuyến khích người dân liên kết cùng tiến hành khởi nghiệp. Thứ tư, cùng với các tổ chức tài chính, các cơ quan nhà nước tích cực xây dựng quy chế cho vay ưu đãi đối với người khởi sự đặc biệt là người khởi sự tại các khu vực khó khăn. 8. Hoàn thiện hệ thống đánh giá kết quả trợ giúp khởi sự doanh nghiệp của VCCI. Bất kể là một công ty, một hiệp hội hay một tổ chức nào khác, để thực hiện tốt các hoạt động của mình cũng cần phải có hệ thống thông tin nội bộ thật hoàn thiện để có thể phản hồi một cách chính xác về tình hình hoạt động của mình. VCCI cũng không phải là một ngoại lệ. Về hệ thống thông tin nội bộ của VCCI, có thể nói là được đánh giá vào diện hoàn thiện bậc nhất ở Việt Nam. Nhưng dù có hiện đại đến mấy cũng có những điểm yếu. Với VCCI thì một hệ thống đánh giá hiệu quả hoạt động trợ giúp khởi sự doanh nghiệp chính là một chính là vấn đề cần hoàn thiện. Mặc dù hệ thống đánh giá hiệu quả cũng la một nhân tố của hệ thống tổ chức quản lý nhưng chính vai trò quan trọng của nó mà trong đề tài này xin được đề cập riêng trong mục này (xem thêm phần giải pháp 1). Hiện nay VCCI, đang hoàn thiện và sử dụng phần mềm đánh giá hiệu quả hoạt động trợ giúp mang tên là MIS. Nó là một phần mềm quản trị thông tin đã được sử dụng tích cực. MIS cung cấp các thông tin về các tổ chức đối tác, cán bộ đào tạo, các lớp đào tạo giảng viên, doanh nghiêp, cũng như các hoạt động khác trên thực địa như giới thiệu chương trình, giới thiệu tài liệu mới, họp mạng... Sử dụng hệ thống quản trị thông tin này, người truy cập có thể rút ra báo cáo nhanh theo các tiêu chí thực hiện khác nhau từ đó giúp ích cho các bên tham gia trong việc hoạch định chiến lược của chương trình trong tương lai. Nhưng cũng dễ dàng nhận ra được rằng hệ thống này được xây dựng chủ yếu (gần như là hoàn toàn) đáp áp dụng riêng cho hoạt động đào tạo khởi sự, trong khi đó lại chưa có một hệ thống các chỉ tiêu phân tích đánh giá các hoạt động khác. Với mục tiêu thực hiện tốt hơn những hoạt động trợ giúp thì Phòng cần phải có một hệ thống đánh giá chung cho các hoạt động và hoạt động trợ giúp khởi sự nói riêng. Kết luận Khởi sự doanh nghiệp là bước khởi đầu để đưa doanh nghiệp đến thành công. Trong điều kiện kinh doanh ngày nay, khởi sự kinh doanh có nhiều ý nghĩa. Sự thành công hay thất bại trong kinh doanh về sau phụ thuộc phần nhiều vào sự khởi đầu đó. Nhiều doanh nghiệp vì lý do này hay lý do khác được thành lập khi chưa hội tụ đủ những điều kiện cần thiết và nó như thể những đứa con “đẻ non” ốm yếu rồi dần mất đi trong môi trường cạnh tranh ác liệt. Để có thể thành công, để doanh nghiệp phát triển dài lâu, người chủ của nó cần có đủ những điều kiện cần thiết. Họ cần có kỹ năng quản lý, sự hiểu biết về ngành hàng, lĩnh vực kinh doanh, có nguồn vốn lớn, cần thông tin tốt, cần tư vấn và nhiều vấn đề khác nữa. Nhiều người đã nỗ lực để phá bỏ những rào cản ngay từ đầu nhưng họ cảm thấy thật khó, thậm chí có những điều bản thân họ không thể thực hiện được như một quy định pháp luật thuận lợi cho việc khởi sự, một môi trường cạnh tranh bình đẳng, một mối quan hệ giao thương với nước ngoài trên cơ sở hiểu biết và làm ăn lâu dài... Những thứ mà bản thân người khởi sự không thể có được buộc họ phải tìm đến với những người, những tổ chức sẵn sàng và có đủ năng lực cũng như uy tín có thể trợ giúp cho họ. Phòng Thương Mại và Công Nghiệp Việt Nam ra đời và trưởng thành như ngày nay đã từng trải qua nhưng thời kỳ khó khăn nhất. Những khó khăn thách thức đã vượt qua cũng đã chứng tỏ cho sức mạnh, uy tín của một tổ chức phi chính phủ và cũng chính những uy tín đó đã đưa VCCI đến với những nhiệm vụ mới cao cả hơn, khó khăn hơn. Bên cạnh việc đóng vai trò là tổ chức kết lối giới doanh nghiệp với Chính phủ, nay Phòng còn có chức năng nữa là thực hiện trợ giúp cho cộng đồng doanh nghiệp. Trợ giúp khởi sự doanh nghiệp là một nội dung hoạt động cũng chưa phải là lâu nhưng với cố gắng của tập thể cán bộ Phòng, những kết quả đạt được cũng là một thành tựu mới được cộng đồng doanh nghiệp đánh giá cao. Các hoạt động trợ giúp khởi sự doanh nghiệp chung cho cộng đồng là mảng quan trọng trong các hoạt động trợ giúp của Phòng. Nhiều năm liên tục kết quả hoạt động luôn đạt mức tăng trưởng cao, chất lượng hoạt động không ngừng được nâng cao. Phòng đã tích cực tham mưu, tư vấn cho Đảng và Nhà nước trong ban hành cơ chế chính sách, pháp luật nhằm tạo dựng môi trường ổn định, bình đẳng, thuận lợi cho người khởi sự. Những hoạt động xúc tiến thương mại vĩ mô được thực hiện tương đối tốt góp phần xây dựng và phát triển hình ảnh Việt Nam trên trường quốc tế, những cuộc tiếp xúc, tìm hiểu thị trường của các đối tác nước ngoài mở ra nhiều cơ hội kinh doanh mới cho người khởi sự nói riêng và những doanh nghiệp đang hoạt động nói chung. Công tác đào tạo khởi sự trên cơ sở liên kết, tiếp thu công nghệ đào tạo tiên tiến nước ngoài đã bước đầu đã tạo dựng được một đội ngũ cán bộ giảng dạy, đào tạo được nhiều khoá với sự tham gia đông đảo của cộng đồng. Kết quả đào tạo khởi sự đó là nền tảng cho việc hình thành và phát triển đội ngũ doanh nhân mới, tiên tiến đáp ứng được sự nghiệp phát triển và hội nhập của đất nước. Và rất nhiều hoạt động trợ giúp khác đều nhắm vào mục tiêu tạo dựng một môi trường thuận lợi cho hoạt động kinh doanh nói chung và khởi sự doanh nghiệp nói riêng. Mảng thứ hai trong số các hoạt động trợ giúp khởi sự đó là những hoạt động mang tính chất dịch vụ nghiệp vụ nhằm đáp ứng từng nhu cầu cụ thể của từng người khởi sự, của từng doanh nghiệp. Đó là hoạt động tư vấn khởi sự, tư vấn đăng ký kinh doanh, cung cấp thông tin thị trường, những dịch vụ xúc tiến thương mại như hội chợ triển lãm trong và ngoài nước, các hoạt động trợ giúp về mặt tài chính cho người khởi sự. Bên cạnh những thành tự đã đạt được Phòng cũng phải đối mặt với nhiều thách thức trong thời gian tới. Vấn đề quản lý hoạt động trợ giúp, vấn đề kinh phí hoạt động, vấn đề chất lượng của hoạt động trợ giúp còn nhiều hạn chế... đó là những vấn đề cần phải giải quyết trong thời gian tới nhằm ngày càng hoàn thiện các hoạt động trợ giúp khởi sự góp phần xây dựng đội ngũ doanh nhân mạnh, mang đậm chất văn hoá Việt Nam. Tài liệu tham khảo: Tài liệu khởi sự của Phòng Thương Mại và Công Nghiệp Việt Nam. Marketing for the self-employed – Martin Edic - Prima Publishing, 1997. Báo cáo tổng kết các năm của VCCI, 2000 – 2003. Báo cáo thành tích đề nghị tặng thưởng huân chương lao động hạng nhất. Báo cáo của các phòng ban chuyên môn trực thuộc VCCI các năm 2000 -2003. Đổi mới hoạt động tổ chức quản lý của VCCI – Vũ Tiến Lộc, 2002. Khởi sự kinh doanh - ĐH. KTQD, 1999. Giải pháp cho hoạt động xúc tiến thương mại – Cục Xúc tiến thương mại Bộ Thương Mại, 2003. Mục Lục ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docV0103.doc
Tài liệu liên quan