Tài liệu Đẩy mạnh hoạt động Nhập khẩu tại Tổng Công ty Bao bì Việt Nam: LỜI MỞ ĐẦU
Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Đây là một quá trình vận động quan trọng mở ra cho Việt Nam nhiều cơ hội và buộc Việt Nam phải đối mặt với những áp lực điều chỉnh cơ cấu kinh tế và cơ chế quản lý với những thách thức to lớn và tất yếu.
Cả nền kinh tế, các ngành sản xuất, các doanh nghiệp và các loại hàng hoá và dịch vụ Việt Nam đều phải đương đầu với sức ép cạnh tranh cực kỳ gay gắt. Lĩnh vực kinh tế đối n... Ebook Đẩy mạnh hoạt động Nhập khẩu tại Tổng Công ty Bao bì Việt Nam
89 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1627 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Đẩy mạnh hoạt động Nhập khẩu tại Tổng Công ty Bao bì Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
goại Việt Nam, một lĩnh vực hết sức đa dạng, thường xuyên biến động và là động lực quan trọng hàng đầu thúc đẩy nền kinh tế Việt Nam phát triển theo hướng hội nhập hiện nay, đang chịu những tác động trực tiếp và hết sức to lớn của quá trình này. Sự phát triển lĩnh vực kinh tế đối ngoại thúc đẩy kinh tế trong nước phát triển và sự phát triển các quan hệ kinh tế trong nước tạo đà cho sự phát triển của lĩnh vực kinh tế đối ngoại. Việc phát triển mạnh của lĩnh vực kinh tế đối ngoại làm cho nền kinh tế đất nước trở thành một mắt khâu quan trọng trong chuỗi giá trị toàn cầu và do đó, sự tăng trưởng kinh tế toàn cầu làm tăng giá trị nền kinh tế. Động lực phát triển kinh tế toàn cầu, lúc đó, sẽ trở thành động lực tăng trưởng trực tiếp của nền kinh tế.
Tình hình phát triển kinh tế đối ngoại của nước ta trong thời gian qua đã đặt được một số thành tựu hết sức to lớn, đặc biệt là đối với hoạt động xuất nhập khẩu. Tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam năm 2007 đạt khoảng 48.38 tỷ USD và kim ngạch nhập khẩu đạt 60.83 tỷ USD, đạt mức kỷ lục từ trước tới nay. Kim ngạch nhập khẩu ngày càng tăng thể hiện Việt Nam là thị trường tiêu thụ lớn hàng hoá các nước, nhu cầu tiêu dùng của người dân ngày càng tăng cao, đặc biệt là những mặt hàng có mẫu mã và chất lượng tốt. Cùng với xu thế đó thì tình hình kinh doanh các mặt hàng nhập khẩu của Tổng công ty Bao bì Việt Nam cũng ngày càng được tăng cao và ngày càng phát triển mạnh hơn với những kết quả đáng khích lệ. Tuy nhiên, triển vọng kinh doanh các mặt hàng nhập khẩu của Công ty vẫn còn rất lớn, vì vậy Công ty cần phải hoàn thiện hơn nữa hoạt động nhập khẩu để đảy mạnh lĩnh vực kinh doanh của mình.
Xuất phát từ tinh thần và tính cấp thiết của những vấn đề nêu trên em đã quyết định chọn đề tài nghiên cứu: “ Đẩy mạnh hoạt động nhập khẩu tại Tổng công ty Bao bì Việt Nam” cho luận văn tốt nghiệp của mình.
Mục đích nghiên cứu luận văn
Mục đích chủ yếu của luận văn tốt nghiệp là trên cơ sở phân tích thực trạng hoạt động nhập khẩu của Tổng công ty Bao bì Việt Nam để đề xuất kiến nghị một số giải pháp nhằm thực hiện và hoàn thiện tốt hơn hoạt động nhập khẩu của Công ty trong thời gian tới.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Đối tượng nghiên cứu của luận văn: Nghiên cứu hoạt động nhập khẩu của Tổng công ty Bao bì Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu của luận văn: Luận văn tốt nghiệp chuyên ngành tập trung nghiên cứu hoạt động nhập khẩu của Tổng công ty Bao bì Việt Nam trong giai đoạn 2004 - 2007.
Phương pháp nghiên cứu của luận văn
Luận văn tốt nghiệp được viết bằng việc sử dụng tổng hợp các phương pháp và công cụ chủ yếu là thống kê, phân tích, so sánh và tổng hợp nhằm làm sáng tỏ các vấn đề có liên quan.
Kết cấu
Luận văn tốt nghiệp được chia làm ba phần chính như sau:
Chương 1: Cơ sở lý luận chung về nhập khẩu và sự cần thiết để đẩy mạnh hoạt động nhập khẩu của Tổng công ty Bao bì Việt Nam
Chương 2: Thực trạng hoạt động nhập khẩu của Tổng công ty Bao bì Việt Nam trong thời gian qua
Chương 3: Triển vọng và các giải pháp hoàn thiện hoạt động nhập khẩu để đẩy mạnh kinh doanh của Tổng công ty Bao bì Việt Nam
CHƯƠNG 1 - CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ NHẬP KHẨU
VÀ SỰ CẦN THIẾT ĐỂ ĐẨY MẠNH HOẠT ĐỘNG
NHẬP KHẨU CỦA TỔNG CÔNG TY BAO BÌ VIỆT NAM
1.1. Khái niệm, hình thức và vai trò nhập khẩu
1.1.1. Khái niệm
Trong điều kiện kinh tế mở, hội nhập và cạnh tranh quốc tê, vấn đề mở rộng và phát triển thương mại quốc tế giữa các quốc gia ngày càng trở nên tất yếu và cấp bách đối với các quốc gia. Hoạt động thương mại quốc tế giúp các quốc gia có thể đáp ứng một cách đầy đủ hơn những nhu cầu đa dạng của con người. Mặt khác, thương mại quốc tế còn giúp các quốc gia phát huy được tối đa khả năng, tận dụng một cách có hiệu quả nhất nguồn lực sẵn có của quốc gia mình.
Với ý nghĩa như vậy, nhập khẩu trong lý luận thương mại quốc tế, là việc quốc gia này mua hàng hóa và dịch vụ từ quốc gia khác. Nói cách khác, đây chính là việc nhà sản xuất nước ngoài cung cấp hàng hóa và dịch vụ cho người cư trú trong nước. Tuy nhiên, theo cách thức biên soạn cán cân thanh toán quốc tế của IMF, chỉ có việc mua các hàng hóa hữu hình mới được coi là nhập khẩu và đưa vào mục cán cân thương mại. Còn việc mua dịch vụ được tính vào mục cán cân phi thương mại.
Đơn vị tính khi thống kê về nhập khẩu thường là đơn vị tiền tệ (Dollar, triệu Dollar hay tỷ Dollar) và thường tính trong một khoảng thời gian nhất định. Đôi khi, nếu chỉ xét tới một mặt hàng cụ thể, đơn vị tính có thể là đơn vị số lượng hoặc trọng lượng (cái, tấn, v.v...)
Nhập khẩu phụ thuộc vào thu nhập của người cư trú trong nước, vào tỷ giá hối đoái. Thu nhập của người dân trong nước càng cao, thì nhu cầu của hàng đối với hàng hóa và dịch vụ nhập khẩu càng cao. Tỷ giá hối đoái tăng, thì giá hàng nhập khẩu tính bằng nội tệ trở nên cao hơn; do đó, nhu cầu nhập khẩu giảm đi.
1.1.2. Các hình thức nhập khẩu chủ yếu
Nhập khẩu có rất nhiều hình thức đa dạng mà từ đó các doanh nghiệp có thể tìm cho mình một hình thức nhập khẩu phù hợp nhất, có hiệu quả nhất trước sự thay đổi của các yếu tố liên quan đến môi trường kinh tế. Có thể nói đến một số hình thức nhập khẩu mà các doanh nghiệp thường lựa chọn sau:
1.1.2.1. Nhập khẩu trực tiếp
Nhập khẩu trực tiếp (hay còn gọi là nhập khẩu tự doanh) là hoạt động nhập khẩu độc lập của một doanh nghiệp. Từ việc nghiên cứu kỹ lưỡng thị trường trong và ngoài nước, tính toán đầy đủ các chi phí, thiết lập phương án kinh doanh hợp lý, đảm bảo kinh doanh có lãi, đúng phương hướng, chính sách luật pháp của quốc gia cũng như quốc tế, doanh nghiệp tiến hành hoạt động nhập khẩu trực tiếp với đối tác nước ngoài.
Đặc điểm của nhập khẩu trực tiếp: trong hoạt động nhập khẩu này, doanh nghiệp nhập khẩu phải tự chịu trách nhiệm tất cả mọi rủi ro, cho nên cần phải có sự xem xét kỹ lưỡng từ bước thu thập thông tin, nghiên cứu thị trường, rồi ký kết hợp đồng… Vì nhập khẩu tự doanh nghĩa là doanh nghiệp phải tự bỏ vốn để kinh doanh, phải chịu mọi chi phí giao dịch, chi phí nghiên cứu thị trường, chi phí giao nhận hàng hoà, chi phí lưu kho, chi phí tiêu thụ hàng hoá, thuế,… Do đó, doanh nghiệp phải tính toán rất thận trọng ngay từ việc chọn mặt hàng, nghiên cứu thị trường, marketing,…
Thông thường doanh nghiệp chỉ cần lập một hợp đồng ngoại thương với bên nước ngoài, còn hợp đồng bán trong nước sau khi hàng về sẽ lập sau hoặc không cần lập một hợp đồng nào khác khi bán với hình thức như: bán lẻ, trao tay.
1.1.2.2. Nhập khẩu uỷ thác
Hoạt động nhập khẩu uỷ thác là hoạt động nhập khẩu hình thành giữa một doanh nghiệp hoạt động trong nước có ngành hàng kinh doanh một số mặt hàng nhập khẩu nhưng không được phép xuất nhập khẩu trực tiếp, đã uỷ thác cho doanh nghiệp có chức năng trực tiếp giao dịch ngoại thương tiến hành nhập khẩu hàng hoá theo yêu cầu của mình. Bên nhận uỷ thác phải tiến hành đàm phán với nước ngoài để làm thủ tục nhập khẩu theo yêu cầu của bên uỷ thác và được hưởng hoa hồng gọi là phí uỷ thác. Quan hệ giữa doanh nghiệp uỷ thác và doanh nghiệp nhận uỷ thác được quy định đầy đủ trong hợp đồng uỷ thác.
Đặc điểm của nhập khẩu uỷ thác: trong hoạt động này, doanh nghiệp xuất nhập khẩu (doanh nghiệp nhận uỷ thác) không phải bỏ vốn, không phải xin hạn ngạch (nếu có) không phải nghiên cứu thị trường tiêu thụ vì không phải tiêu thụ hàng nhập khẩu mà chỉ đứng ra đại diện cho bên uỷ thác để giao dịch với bạn hàng nước ngoài, ký hợp đồng và làm thủ tục nhập khẩu hàng hoá cũng như thay mặt cho bên uỷ thác khiếu nại đòi bồi thường với nước ngoài khi có tổn thất.
Khi nhận uỷ thác, các doanh nghiệp xuất nhập khẩu này phải lập hai hợp đồng:
Một hợp đồng mua bán hàng hoá với nước ngoài.
Một hợp đồng nhận uỷ thác với bên uỷ thác.
1.1.2.3. Nhập khẩu liên doanh
Nhập khẩu liên doanh là hoạt động nhập khẩu hàng hoá trên cơ sở liên kết kinh tế một cách tự nguyện giữa các doanh nghiệp (trong đó ít nhất có một doanh nghiệp nhập khẩu trực tiếp) nhằm phối hợp kỹ năng, kỹ thuật để cùng giao dịch và đề ra các chủ trương biện pháp có liên quan đến hoạt động nhập khẩu, thúc đẩy hoạt động này phát triển theo hướng có lợi nhất cho cả hai bên, cùng chia lãi, lỗ thì cùng nhau chịu.
Đặc điểm của nhập khẩu liên doanh: ở hoạt động nhập khẩu này thì các doanh nghiệp nhập khẩu liên doanh sẽ phải chịu rủi ro ở mức thấp hơn so với nhập khẩu trực tiếp vì trường hợp này doanh nghiệp chỉ phải góp một số vốn nhất định, quyền hạn và trách nhiệm của các bên tham gia tăng theo vốn góp, việc phân chia chi phí, thuế doanh thu dựa theo tỷ lệ vốn góp, lãi lỗ hai bên phân chia tuỳ theo thoả thuận dựa trên vốn góp cộng với phần trách nhiệm mà mỗi bên gánh vác.
Doanh nghiệp nhập khẩu trực tiếp tham gia liên doanh phải lập hai hợp đồng:
Một hợp đồng mua hàng với nước ngoài.
Một hợp đồng liên doanh với doanh nghiệp khác (không nhất thiết phải là doanh nghiệp của Nhà nước).
1.1.2.4. Nhập khẩu hàng đổi hàng
Nhập khẩu đổi hàng cùng trao đổi bù trừ là hai loại nghiệp vụ chủ yếu của buôn bán đối lưu. Nó là hình thức nhập khẩu gắn liền với xuất khẩu, thanh toán trong hợp đồng này không phải dùng tiền mà chính bằng hàng hoá. Ở đây mục đích chính của hoạt động nhập khẩu hàng hoá không phải chỉ thu lãi từ hoạt động nhập khẩu mà còn nhằm để xuất được hàng, thu cả lãi từ hoạt động xuất.
Đặc điểm của nhập khẩu đổi hàng: hoạt động này có lợi vì cùng một hợp đồng có thể tiến hành cả hoạt động xuất và hoạt động nhập, do đó có thể thu lãi từ hai hoạt động. Hoạt động xuất phải tương đương về giá trị; bạn hàng bán cũng chính là bạn hàng mua; doanh nghiệp xuất nhập khẩu trực tiếp được tính cả kim ngạch nhập và xuất, doanh số tiêu thụ tính trên số hàng nhập và xuất.
1.1.2.5. Nhập khẩu tái xuất
Nhập khẩu tái xuất là hoạt động nhập khẩu hàng hoá vào trong nước nhưng không phải để tiêu thụ trong nước mà để xuất sang nước thứ ba nào đó nhằm thu lợi nhuận, tuy nhiên những hàng nhập khẩu này không được chế biến tại nước tái xuất. Như vậy, nhập khẩu tái xuất luôn thu hút ba nước tham gia: nước xuất khẩu, nước nhập khẩu và nước tái xuất.
Đặc điểm của nhập khẩu tái xuất: doanh nghiệp nước tái xuất phải tính toàn bộ chi phí tổ chức, gặp gỡ, bàn bạc mỗi bạn hàng xuất và bạn hàng nhập, đảm bảo sao cho số tiền thu được lớn hơn chi phí bỏ ra để tiến hành hoạt động. Doanh nghiệp nước tái xuất phải tiến hành hai hợp đồng: hợp đồng xuất khẩu và hợp đồng nhập khẩu nhưng không phải chịu thuế xuất nhập khẩu với mặt hàng kinh doanh. Doanh nghiệp xuất nhập khẩu trực tiếp được tính kim ngạch cả xuất, cả nhập, doanh số tính trên giá trị hàng xuất khẩu do đó vẫn phải chịu thuế doanh thu. Để đảm bảo thanh toán hợp đồng tái xuất thường sử dụng thư tín dụng giáp lừng; hàng hoá không nhất thiết phải chuyển về nước tái xuất, mà chuyển thẳng sang nước thứ ba nhưng tiền thanh toán phải do người tái xuất thu từ người nhập khẩu giao cho người xuất khẩu. Nhiều khi người tái xuất còn thu được lợi tức về tiền hàng do chênh lệch giữa thời điểm thu tiền từ người nhập khẩu và thời điểm trả tiền cho người xuất khẩu.
1.1.3. Vai trò của nhập khẩu
Nhập khẩu là một hoạt động quan trọng của hoạt động ngoại thương. Nhập khẩu tác động một cách trực tiếp và quyết định đến sản xuất và đời sống trong nước; nhập khẩu để bổ sung hàng hoá trong nước không sản xuất được, hoặc sản xuất không đáp ứng đủ nhu cầu; nhập khẩu còn để thay thế, nghĩa là nhập khẩu những hàng hoá mà nếu sản xuất trong nước sẽ không có lợi bằng nhập khẩu. Hai mặt nhập khẩu bổ sung và nhập khẩu thay thế nếu được thực hiện tốt sẽ tác động tích cực đến sự phát triển cân đối nền kinh tế quốc dân.
Nhập khẩu tạo điều kiện thúc đẩy nhanh quá trình xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng từng bước công nghiệp hoá đất nước, đuổi kịp các nước tiên tiến, bổ sung kịp thời những mặt mất cân đối của nền kinh tế, đảm bảo phát triển nền kinh tế cân đối ổn định.
Nhập khẩu góp phần cải thiện, nâng cao mức sống của nhân dân, vì nhập khẩu vừa thoả mãn nhu cầu trực tiếp của nhân dân về hàng tiêu dùng, vừa đảm bảo đầu vào cho sản xuất, tạo việc làm ổn định cho người lao động.
Nhập khẩu có vai trò tích cực trong việc thúc đẩy xuất khẩu. Sự tác động này thể hiện ở chỗ nhập khẩu tạo đầu vào cho sản xuất hàng xuất khẩu, tạo môi trường thuận lợi cho việc xuất khẩu hàng sản xuất được trong nước ra nước ngoài, đặc biệt là nước đối tác mà mình đã nhập hàng của họ.
Tóm lại, hoạt động nhập khẩu tạo cầu nối giữa nền kinh tế trong nước với nền kinh tế thế giới, biến nền kinh tế thế giới thành nơi cung cấp các “yếu tố đầu vào” và tiêu thụ các “yếu tố đầu ra” cho nền kinh tế quốc dân trong hệ thống kinh tế quốc tế.
1.2. Nội dung của hoạt động nhập khẩu
1.2.1. Nghiên cứu, lựa chọn thị trường, đối tác
Khi tiến hành hoạt động nhập khẩu, các doanh nghiệp luôn phải chú trọng đến thị trường của nước mà mình sẽ nhập khẩu. Có thể cùng một mặt hàng nhưng chất lượng cũng như giá cả của từng hãng (từng nước) sẽ khác nhau. Mặt khác, từ những yếu tố của thị trường, doanh nghiệp sẽ biết được lượng cung, lượng cầu ở từng thị trường, từ đó sẽ có kế hoạch nhập khẩu một cách có hiệu quả nhất. Bên cạnh đó, nếu doanh nghiệp nhập khẩu hàng hoá để kinh doanh thì còn phải nghiên cứu thị trường mà mình sắp kinh doanh mặt hàng đó. Doanh nghiệp nào có khả năng phản ứng một cách linh hoạt, nhanh nhạy với thị trường thì chắc chắn doanh nghiệp đó sẽ thành công. Chính vì vậy, việc nghiên cứu, lựa chọn thị trường, đối tác đối với các doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp nhập khẩu nói riêng là cực kỳ quan trọng. Việc nghiên cứu thị trường nhập khẩu đối với một doanh nghiệp bao gồm các bước sau:
+ Nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến dung lượng thị trường.
+ Xác định mức giá nhập khẩu đối với từng thị trường.
+ Nghiên cứu giá cả hàng hoá nhập khẩu, giá sẽ bán ra trên thị trường nội địa (nếu có).
+ Nghiên cứu mặt hàng nhập khẩu.
+ Nghiên cứu thị trường và các nhân tố ảnh hưởng đến thị trường ( cung, cầu hàng hoá trên thị trường, …).
Trên cơ sở phân tích những yếu tố ảnh hưởng đến giá cả của hàng hoá nhập khẩu, doanh nghiệp sẽ có thể nắm chắc xu hướng biến động về giá của loại hàng hoá mà doanh nghiệp sẽ nhập để từ đó có thể lên phương án nhập khẩu đối với từng mặt hàng cũng như từng thị trường. Thêm vào đó doanh nghiệp còn phải tính đến các chi phí như: cước vận tải, lãi suất ngân hàng,… để quyết định tăng hay giảm giá thành nhập khẩu hàng hoá.
1.2.2. Lựa chọn phương thức giao dịch nhập khẩu
* Phương thức giao dịch thông thường trực tiếp
Phương thức giao dịch thông thường trực tiếp là phương thức giao dịch trong đó mối quan hệ giữa người bán và người mua được liên hệ một cách trực tiếp với nhau bằng cách gặp gỡ hay qua thư tín để thoả thuận về các điều kiện giao dịch (phương thức vận tải, phương thức thanh toán,…). Phương thức giao dịch này có thể được thực hiện ở mọi nơi, vào bất kỳ thời điểm nào và việc thực hiện nội dung của lần giao dịch này là tự nguyện, không phụ thuộc vào lần giao dịch trước. Đối với phương thức giao dịch này thì cả người mua và người bán đều cùng tiết kiệm được thời gian, chi phí, hạn chế được những sai lệch giữa hai bên tuy nhiên thì phương thức giao dịch này không hiệu quả bằng việc sử dụng bên trung gian am hiểu thông tin rõ về thị trường.
* Phương thức giao dịch qua trung gian
Phương thức giao dịch qua trung gian là phương thức giao dịch trong đó mối quan hệ giữa người mua và người bán và các điều kiện liên quan được thực hiện qua một khâu trung gian, khâu trung gian này có thể là một cá nhân hay một tổ chức. Có hai hình thức trung gian chủ yếu là đại lý và môi giới.
Đại lý có thể là thể nhân hoặc pháp nhân tiến hành một hoặc nhiều công việc theo sự ủy thác của người ủy thác. Quan hệ giữa bên uỷ thác và đại lý (bên nhận uỷ thác) được xác định bằng một hợp đồng gọi là hợp đồng đại lý (thường là hợp đồng dài hạn).
Môi giới có thể là thể nhân hoặc pháp nhân làm trung gian liên hệ giữa người mua và người bán. Khi thực hiện các ngiệp vụ, người môi giới không đứng tên mình, họ không chiếm hữu hàng hoá và không chịu trách nhiệm trong việc các bên có thực hiện đúng hợp đồng hay không. Việc trung gian của người môi giới thường theo từng lần, từng hợp đồng chứ không dựa vào hợp đồng dài hạn.
Việc sử dụng phương thức giao dịch qua trung gian mang lại cho doanh nghiệp những thuận lợi nhất định vì người trung gian có những năng lực về nghiệp vụ, tận dụng được các mối quan hệ sẵn có, các kinh nghiệm, hiểu biết về thị trường, luật pháp, phong tục tập quán của địa phương,… chính vì vậy, doanh nghiệp sẽ giảm bớt được những chi phí, thời gian trong khâu nghiên cứu thị trường. Thế nhưng bên cạnh đó, doanh nghiệp sẽ không có được sự liên hệ trực tiếp với khách hàng, với thị trường cũng như việc phải chia sẻ lợi nhuận với bên trung gian.
* Phương thức giao dịch tại sở giao dịch
Sở giao dịch là một thị trường đặc biệt mà tại đó, người ta mua bán các loại hàng hoá có khối lượng lớn, có phẩm chất có thể thay thế được cho nhau. Việc mua bán tại sở giao dịch được thực hiện thông qua những người môi giới do sở giao dịch chỉ định, giá cả hàng hoá được công bố ở sở giao dịch có thể coi là giá tham khảo trong việc xác định giá quốc tế của loại hàng hoá đó.
* Phương thức giao dịch tại hội chợ, triển lãm
Hội chợ là hoạt động định kỳ được tổ chức vào một thời gian nhất định, tại đó người bán trưng bày và bán sản phẩm, hàng hoá của mình thông qua việc tiếp xúc trực tiếp với người mua tại hội chợ.
Triển lãm là hoạt động mang tính chất trưng bày thành tựu của một nền kinh tế hay của một tổ chức, một ngành nào đó. Nhưng đến nay, triển lãm còn là nơi mà các cá nhân hay tổ chức kinh doanh có thể tiếp xúc để tiến hành việc giao dịch , ký kết hợp đồng mua bán hàng hoá.
1.2.3. Đàm phán, ký kết hợp đồng nhập khẩu
1.2.3.1. Đàm phán trong kinh doanh quốc tế
Khi tham gia vào hoạt động kinh doanh quốc tế, các bên đối tác thường có quốc tịch khác nhau nên việc tiến hành đàm phán sẽ gặp những hạn chế nhất định về ngôn ngữ, văn hoá, luật pháp giữa các bên. Do đó, khi tiến hành đàm phán trong kinh doanh quốc tế phải rất chú trọng đến những vấn đề này để tránh việc hiểu nhầm, xâm phạm đến những nét văn hoá truyền thống cũng như luật pháp của bên đối tác. Có như vậy, doanh nghiệp mới có thể thành công trong quá trình đàm phán, đem lại lợi ích cho cả hai bên.
Để tránh việc hiểu nhầm ý do khác nhau về ngôn ngữ giữa các bên, nên chọn một loại ngôn ngữ để sử dụng trong quá trình đàm phán cũng như ký kết hợp đồng, điều này đòi hỏi phải có chuyên gia về ngôn ngữ trong quá trình đàm phán.
Đàm phán trong kinh doanh quốc tế là đàm phán trong lĩnh vực kinh doanh nên nó chịu sự chi phối của các quy luật kinh tế như quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh,…Vì thế, muốn thành công, doanh nghiệp cần phải nắm chắc, am hiểu các quy luật kinh tế và vận dụng nó một cách hợp lý.
Đàm phán trong kinh doanh quốc tế chịu sự ảnh hưởng của các quan hệ chính trị và ngoại giao giữa các quốc gia, nếu như quan hệ ngoại giao giữa các nước này tốt đẹp thì sẽ tạo thuận lợi cho việc đàm phán.
1.2.3.2. Ký kết hợp đồng nhập khẩu
Khi tiến hành ký kết hợp đồng nhập khẩu, các doanh nghiệp cần chú ý đến những điều khoản sau:
* Điều khoản về hàng hoá
Tên hàng: Cần ghi đầy đủ tên hàng ( tên thông dụng, tên thương mại, tên khoa học nếu có) để tránh nhầm lẫn.
Số lượng, chất lượng: quy định chất lượng hàng hoá một cách chính xác, tỉ mỉ. Ghi rõ số lượng hàng hoá theo từng đơn vị, không ghi bằng cách ước chừng số lượng.
Quy cách đóng gói, trọng lượng hàng hoá: ghi rõ hàng hoá được đóng gói theo phương thức nào, nếu theo bao thì trọng lượng mỗi bao là bao nhiêu.
* Điều khoản về thanh toán
Đồng tiền tính giá: quy định đồng tiền nào sẽ được sử dụng để tính giá hàng hoá, giá của mỗi đơn vị hàng hoá và giá của toàn bộ số hàng. Nếu có giảm giá thì phải ghi rõ giảm giá theo hình thức nào, số lượng giảm giá là bao nhiêu.
Đồng tiền thanh toán: có thể là đồng tiền tính giá hoặc cũng có thể là một đồng tiền khác nhưng phải được quy định trước (nếu là đồng tiền khác thì phải quy định tỷ giá quy đổi).
Phương thức thanh toán: ghi rõ thanh toán bằng phương thức nào (đổi hàng, bằng tiền mặt, thông qua tín dụng, hay thanh toán ứng trước); bằng hình thức nào (nhờ thu, bằng L/C, bằng séc, hối phiếu, …)
Thời hạn thanh toán: có thể trả ngay, trả trước, trả chậm nhưng phải ghi rõ trong hợp đồng.
Ngoài ra khi ký kết hợp đồng nhập khẩu, doanh nghiệp cần phải xem xét lại một cách cẩn thận những điều khoản đã ghi trong hợp đồng chính, đối chiếu lại với những thoả thuận trước để tránh những sai sót do bên đối tác vô ý hay cố tình đưa vào hoặc bỏ qua. Hợp đồng đã được ký kết thì việc sửa chữa lại là rất khó khăn nên văn phạm dùng trong hợp đồng phải có ý nghĩa trong sáng, từ ngữ phải được theo một ý thống nhất, tránh việc mập mờ, có thể hiểu theo nhiều cách.
Hợp đồng mà hai bên ký kết có thể là một văn bản, một hợp đồng do hai bên thoả thuận, đàm phán với nhau tạo nên, cũng có thể là văn bản xác nhận của người mua (người bán) đối với thư chào hàng tự do của người bán (đơn đặt hàng của người mua đã được thoả thuận giữa hai bên.
1.2.4. Tổ chức thực hiện hợp đồng nhập khẩu
Tổ chức thực hiện hợp đồng nhập khẩu là một trong những công việc đòi hỏi phải thực hiện theo trình tự một cách lần lượt để tránh xảy ra những sai sót dẫn tới việc khiếu nại của các bên. Tổ chức thực hiện hợp đồng một cách cẩn thận sẽ giảm bớt những chi phí phát sinh không đáng có, tiết kiệm thời gian cho cả hai bên. Việc thực hiện hợp đồng nhập khẩu gồm những bước sau:
Sơ đồ 1.1 - Các bước thực hiện hợp đồng nhập khẩu
Thuê phương tiện chuyên chở (thường là tàu)
Mua bảo hiểm hàng hoá
Xin giấy phép nhập khẩu
(nếu có)
Mở L/C
(nếu thanh toán bằng L/C)
Nhận hàng
Làm thủ tục hải quan
Khiếu nại và giải quyết khiếu nại (nếu có)
Làm thủ tục thanh toán
* Xin giấy phép nhập khẩu (nếu có)
Xin giấy phép nhập khẩu là một biện pháp quan trọng để nhà nước quản lý xuất nhập khẩu. Vì thế, sau khi ký hợp đồng nhập khẩu, doanh nghiệp phải xin giấy phép nhập khẩu để thực hiện hợp đồng đó. Ngày nay, do xu thế tự do hoá mậu dịch, Việt Nam đã giảm bớt số mặt hàng cần xin giấy phép xuất nhập khẩu xuống còn 9 mặt hàng, bao gồm: Hàng xuất - nhập khẩu mà nhà nước quản lý bằng hạn ngạch; Hàng tiêu dùng nhập khẩu theo kế hoạch được Thủ tướng Chính phủ duyệt; Máy móc thiết bị nhập khẩu bằng nguồn vốn ngân sách; Hàng của doanh nghiệp được thành lập theo Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam; Hàng phục vụ thăm dò, khai thác dầu khí; Hàng dự hội chợ, triển lãm; Hàng gia công; Hàng tạm nhập tái xuất; Hàng xuất - nhập khẩu thuộc diện cần điều hành để đảm bảo cân đối cung cầu trong nước.
* Mở thư tín dụng L/C
Khi hợp đồng nhập khẩu quy định tiền hàng thanh toán bằng L/C thì một trong những việc đầu tiên mà bên mua phải làm để thực hiện hợp đồng là mở L/C. Thời gian mở L/C, nếu hợp đồng không quy định gì thì sẽ phụ thuộc vào thời gian giao hàng. Thông thường L/C được mở khoảng 20 - 25 ngày trước khi đến thời gian giao hàng (nếu khách hàng ở Châu Âu). Căn cứ để mở L/C là các điều khoản của hợp đồng nhập khẩu.
* Thuê tàu lưu cước
Trong quá trình thực hiện hợp đồng, việc thuê tàu chở hàng được tiến hành dựa vào ba căn cứ sau: Những điều khoản của hợp đồng, đặc điểm hàng hoá, điều kiện vận tải. Việc thuê tàu lưu cước đòi hỏi có kinh nghiệm nghiệp vụ, có thông tin về tình hình thị trường thuê tàu và tinh thông các điều kiện thuê tàu. Vì vậy, trong nhiều trường hợp, chủ hàng xuất - nhập khẩu thường uỷ thác việc thuê tàu lưu cước cho một công ty hàng hải.
* Mua bảo hiểm
Hàng hoá chuyên chở trên biển thường gặp nhiều rủi ro, tổn thất, chính vì thế, bảo hiểm hàng hoá đường biển là loại bảo hiểm phổ biến nhất trong ngoại thương. Thường có hai loại hợp đồng bảo hiểm: Hợp đồng bảo hiểm bao và hợp đồng bảo hiểm chuyến. Để ký kết hợp đồng bảo hiểm, cần nắm vững các điều kiện bảo hiểm. Có ba điều kiện bảo hiểm chính: bảo hiểm mọi rủi ro (điều kiện A), bảo hiểm có tổn thất riêng (điều kiện B) và bảo hiểm miễn tổn thất riêng (điều kiện C); ngoài ra còn có một số điều kiện bảo hiểm phụ, bảo hiểm đặc biệt khác. Việc lựa chọn điều kiện bảo hiểm phải dựa trên bốn căn cứ sau: Điều khoản hợp đồng; Tính chất hàng hoá; Tính chất bao bì và phương thức xếp hàng; Loại tàu chuyên chở.
* Làm thủ tục hải quan
Tất cả xuất - nhập khẩu khi đi qua biên giới quốc gia đều phải làm thủ tục hải quan gồm 3 bước:
- Khai báo hải quan: Phải khai báo chi tiết về hàng hoá lên tờ khai để cơ quan hải quan kiểm tra các thủ tục giấy tờ, tờ khai hải quan phải được xuất trình kèm một số chứng từ khác.
- Xuất trình hàng hoá: Hàng hoá xuất - nhập khẩu phải được sắp xếp trật tự, thuận tiện cho việc kiểm soát. Chủ hàng phải chịu chi phí và nhân công về việc mở, đóng các kiện hàng. Yêu cầu của việc xuất trình hàng hoá là sự trung thực của chủ hàng. Để thực hiện thủ tục kiểm tra và giám sát, chủ hàng phải nộp thủ tục phí hải quan.
- Thực hiện các quyết định của hải quan: Sau khi kiểm tra giấy tờ và hàng hoá, hải quan sẽ đưa ra quyết định: cho hàng hoá được thông quan; cho hàng hoá đi qua một cách có điều kiện; cho hàng đi qua sau khi chủ hàng đã nộp thuế; lưu kho ngoại quan; không cho hàng hoá đi qua; … Chủ hàng buộc phải thực hiện nghiêm túc các quyết định đó.
* Nhận hàng
Doanh nghiệp nhập khẩu phải trực tiếp hoặc thông qua một đơn vị nhận uỷ thác giao nhận để tiến hành thủ tục nhận hàng, gồm các bước:
- Ký kết hợp đồng uỷ thác cho cơ quan vận tải về việc giao nhận hàng.
- Xác nhận với cơ quan vận tải kế hoạch tiếp nhận hàng nhập khẩu từng năm, từng quý, lịch tàu, cơ cấu mặt hàng, điều kiện kỹ thuật khi bốc dỡ, vận chuyển, giao nhận.
- Cung cấp các tài liệu cần thiết cho việc giao nhận hàng hoá (như vận đơn, lệnh giao hàng,…)nếu tàu biển không giao những tài liệu đó cho cơ quan vận tải.
- Thông báo cho các đơn vị trong nước đặt mua hàng nhập khẩu (nếu hàng nhập khẩu cho đơn vị trong nước) về dự kiến ngày hàng về, ngày thực tế tàu chở hàng về đến cảng.
- Thanh toán cho cơ quan vận tải các khoản phí tổn về giao nhận, bốc xếp, bảo quản và vận chuyển hàng nhập khẩu.
- Theo dõi việc giao nhận, đôn đốc cơ quan vận tải lập những biên bản (nếu cần) về hàng hoá và giải quyết trong phạm vi của mình những vấn đề xảy ra trong việc giao nhận.
* Làm thủ tục thanh toán
Việc thanh toán bằng hình thức nào được quy định rõ trong hợp đồng nên doanh nghiệp phải kiểm tra chứng từ một cách kỹ lưỡng, việc lập chứng từ đòi hỏi độ chính xác rất cao để tránh những tổn thất không đáng có cho các bên.
* Khiếu nại và giải quyết khiếu nại
Khi chủ hàng phát hiện thấy hàng nhập khẩu bị tổn thất, thiếu hụt,… thì cần lập hồ sơ khiếu nại ngay (trong thời hạn khiếu nại). Đối tượng khiếu nại là người bán nếu hàng kém phẩm chất, thiếu hụt về số lượng, bao bì không phù hợp, thanh toán nhầm lẫn, thanh toán chậm,… Đối tượng khiếu nại là người vận tải nếu hàng bị tổn thất trong quá trình chuyên chở hoặc tổn thất do lỗi của người vận tải. Đối tượng khiếu nại là công ty bảo hiểm nếu hàng hoá (đối tượng của bảo hiểm) bị tổn thất do thiên tai, tai nạn bất ngờ hoặc do lỗi của người thứ ba gây nên khi những rủi ro này đã được mua bảo hiểm.
Đơn khiếu nại phải kèm theo những bằng chứng về việc tổn thất (như biên bản giám định, COR, ROROC hay CSC, …), hoá đơn, vận đơn, đơn bảo hiểm (nếu khiếu nại công ty bảo hiểm) …
1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động nhập khẩu
1.3.1. Nhân tố thuộc về môi trường kinh doanh
Hoạt động nhập khẩu là hoạt động kinh tế có liên quan đến các quốc gia khác nhau nên sẽ chịu sự chi phối của luật pháp quốc tế, các điều ước và công ước quốc tế. Luật pháp quốc tế sẽ bảo vệ quyền lợi cho các bên tham gia vào hoạt động kinh tế quốc tế này một cách công bằng, không phân biệt đối xử. Bên cạnh đó, hoạt động nhập khẩu còn chịu ảnh hưởng của các yếu tố liên quan đến môi trường kinh tế quốc tế. Nếu doanh nghiệp nắm vững luật pháp quốc tế thì chắc chắn rằng hiệu quả kinh tế mà doanh nghiệp đạt được sẽ rất cao.
Ngoài ra, hoạt động nhập khẩu là một hoạt động kinh doanh quốc tế nhằm thu lợi nhuận vì vậy không thể không tránh khỏi sự cạnh tranh do môi trường kinh tế mang lại. Trong điều kiện hiện nay, sự cạnh tranh ngày càng khốc liệt do sự phát triển như vũ bão của khoa học kỹ thuật. Điều này là một trong những nguyên nhân quan trọng, là động lực thúc đẩy các doanh nghiệp phải tự hoàn thiện mình, nâng cao trình độ sản xuất cũng như trình độ quản lý. Chính vì lý do trên, các doanh nghiệp cần phải luôn luôn tìm cách thích nghi với thị trường, luôn cải tiến sản xuất, học hỏi kinh nghiệm, nâng cao trình độ quản lý cũng như nghiệp vụ để có thể tồn tại được trong môi trường cạnh tranh khốc liệt hiện nay.
Bên cạnh ảnh hưởng của môi trường kinh tế, chính trị, luật pháp quốc tế thì doanh nghiệp còn phải chịu sự tác động không nhỏ của môi trường kinh tế, chính trị, luật pháp của quốc gia mình. Điều này buộc các doanh nghiệp phải nắm chắc luật pháp cũng như những tập quán của quốc gia để đảm bảo quyền lợi của chính bản thân doanh nghiệp mình cũng như bên đối tác. Từ đó, doanh nghiệp có thể tránh khỏi những sai phạm không đáng có như: buôn bán hàng cấm mà luật pháp quốc gia không cho phép, …
1.3.2. Nhân tố thuộc về doanh nghiệp
Một nhân tố nữa cũng không kém phần quan trọng đó chính là năng lực (hay tiềm lực) của chính bản thân doanh nghiệp khi tham gia vào hoạt động kinh tế quốc tế. Năng lực của doanh nghiệp nói chung chính là vốn, tài sản, công nghệ, nhân sự,… của doanh nghiệp đó. Một doanh nghiệp có quy mô lớn, có lượng vốn lớn, có lực lượng nhân sự tốt cũng như những công nghệ hiện đại thì chắc chắn rằng doanh nghiệp đó sẽ rất phát triển, có khả năng cạnh tranh với các đối thủ khác trên thế giới. Điều này không có nghĩa là những doanh nghiệp nhỏ không thể tồn tại được trong môi trường cạnh tranh hiện nay. Những doanh nghiệp nhỏ cũng phải tìm cho mình những thế mạnh riêng, hoặc có thể tự tạo cho mình những thế mạnh đó để có thể cạnh tranh được với các doanh nghiệp khác. Điều này có thể hiểu được vì số lượng công ty lớn trên thế giới là không nhiều mà đa phần là những công ty vừa và nhỏ, những công ty này đều có những lợi thế nhất định về một lĩnh vực, họ tự tìm cho mình những lối đi riêng để tạo ra sự khác biệt với ._.các công ty khác để từ đó có thể kiếm được lợi nhuận kinh doanh một cách hợp pháp. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp cần phải nắm bắt lấy những cơ hội kinh doanh ở mọi nơi, mọi lúc do các yếu tố chủ quan hay khách quan mang lại.
Mỗi doanh nghiệp cần phải hiểu rõ năng lực của chính mình để có thể lượng sức mình trên thương trường, có kế hoạch đầu tư, xây dựng chiến lược kinh doanh dài hạn để ngày càng nâng cao tiềm lực bản thân, từ đó mới có thể mở rộng tầm hoạt động, kiếm được những lợi nhuận lớn do kinh doanh quy mô lớn mang lại.
1.4. Sự cần thiết phải đẩy mạnh hoạt động nhập khẩu để phát triển sản xuất kinh doanh ở Tổng công ty Bao bì Việt Nam (VPC)
Có thể nói rằng, việc phát triển cơ sở sản xuất, nâng cao nghiệp vụ, công nghệ, trình độ quản lý của các doanh nghiệp không những cần thiết mà còn phải được tiến hành một cách liên tục trong tất cả các doanh nghiệp. Các doanh nghiệp cần phải luôn tự đổi mới mình để thích nghi với môi trường kinh tế luôn thay đổi. Việt Nam là một nước đang phát triển nên nhu cầu nhập khẩu để phục vụ cho tiêu dùng trong nước rất lớn, chính vì vậy, việc hoàn thiện hoạt động nhập khẩu đối với các doanh nghiệp Việt Nam là rất cần thiết. Tổng công ty Bao Bì Việt Nam (VPC) là một trong những doanh nghiệp nhà nước hoạt động có hiệu quả trong lĩnh vực nhập khẩu, góp phần phục vụ tốt hơn cho nhu cầu sản xuất cũng như tiêu dùng trong nước. Do đó, việc hoàn thiện hoạt động nhập khẩu để đẩy mạnh kinh doanh đối với Tổng công ty Bao Bì Việt Nam (VPC) là một việc làm cần thiết, quan trọng để đưa Tổng công ty trở thành một trong những công ty đi đầu trong lĩnh vực nhập khẩu ở Việt Nam.
Tổng công ty chuyên nhập những nguyên vật liệu dùng cho sản xuất bao bì như giấy, màng, hạt nhựa … với chất lượng rất cao, đáp ứng một cách tương đối đầy đủ cho nhu cầu sản xuất của thị trường cũng như nhu cầu kinh doanh của Tổng công ty. Việt Nam là một nước đang phát triển với nhu cầu sản xuất cũng như tiêu dùng rất lớn. Hàng hoá ngày càng nhiều, chủng loại ngày càng phong phú đòi hỏi các doanh nghiệp sản xuất phải thay đổi sản phẩm về mẫu mã cũng như chất lượng một cách liên tục. Điều này đã làm cho nhu cầu về nguyên liệu sản xuất bao bì cũng tăng theo nhu cầu sản xuất của các doanh nghiệp. Chính vì vậy, mảng thị trường về nguyên vật liệu sản xuất bao bì ở Việt Nam là một mảng thị trường rất rộng lớn, một mảng thị trường vô cùng tiềm năng cho các doanh nghiệp kinh doanh nhập khẩu như Tổng Công ty Bao Bì Việt Nam (VPC). Việc đáp ứng được một cách đầy đủ nhu cầu của thị trường trong nước về nguyên liệu này là một việc làm tương đối khó khăn, chỉ có những doanh nghiệp lớn như Tổng Công ty Bao Bì Việt Nam (VPC) mới đủ tiềm lực về vốn cũng như con người để thực hiện tốt điều này.
Việt Nam đã là thành viên của tổ chức thương mại thế giới (WTO) và thuế nhập khẩu giảm là một tiến trình tất yếu. Với góc độ là một doanh nghiệp, VPC có thể tận dụng xu hướng này để đẩy mạnh các hoạt động nhập khẩu hơn nữa đáp ứng nhu cầu đa dạng trong nước. Với tiến trình tự do hóa thương mại, nền sản xuất trong nước vẫn còn nhiều yếu kém thì việc đẩy mạnh nhập khẩu sẽ mang đến những lợi thế nhất định cho VPC. Nhập khẩu với chi phí ngày càng thấp sẽ tạo lợi thế cạnh tranh cho VPC khi kinh doanh những sản phẩm nhập khẩu và sản xuất từ nguyên liệu nhập khẩu ở thị trong nước và mở rộng ra tầm quốc tế.
CHƯƠNG 2 - THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG NHẬP KHẨU
CỦA TỔNG CÔNG TY BAO BÌ VIỆT NAM
TRONG THỜI GIAN QUA
2.1. Sơ lược sự hình thành và phát triển của Tổng công ty Bao bì Việt Nam
2.1.1. Khái quát về sự hình thành và phát triển của Tổng công ty
Ngày 02/04/1976 Hội đồng chính phủ quyết định thành lập Công ty Bao bì xuất khẩu theo quyết định 1079/BNg - TCCB của Bộ ngoại thương (nay là Bộ Công Thương).
Tổng công ty Bao bì xuất khẩu là đơn vị Kinh doanh vật tư nhiên liệu cho sản xuất bao bì xuất khẩu và tổ chức sản xuất cung ứng bao bì, gia công các loại bao bì phục vụ xuất khẩu, hoạt động theo chế độ hạch toán kinh tế độc lập có tư cách pháp nhân, có tài khoản ngân hàng, có con dấu riêng, Tổng công ty đặt trụ sở tại Hà Nội. Tổng công ty có chi nhánh ở thành phố Hải Phòng, thành phố Đà Nẵng, thành phố Hồ Chí Minh, các xi nghiệp sản xuất bao bì và các phòng ban nghiệp vụ.
Năm 1989, một số đơn vị trực thuộc gồm: chi nhánh thành phố Hồ Chí Minh, Xí nghiệp bao bì xuất khẩu I, Xí nghiệp Bao bì xuất khẩu II tách ra trực thuộc Bộ Kinh tế Đối ngoại đổi tên thành Tổng công ty Xuất Nhập Khẩu và Kỹ thuật Bao bì, tên giao dịch quốc tế là: “ The VietNam National Packing Technology and Import- Export Corp”, viết tắt là Packexport” ( quyết định số 812/KTBN – TCCB ngày 13/12/1989).
Thực hiện chủ trương cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước, tháng 4 năm 2005 Tổng công ty Xuất Nhập Khẩu và Kỹ thuật Bao bì chuyển thành Công ty Cổ phần Bao bì Việt Nam - VPC. Tổng công ty đã tiến hành đạ hội cổ đông và chính thức hoạt động theo điều lệ Công ty Cổ phần từ 1/4/2005. Với khẩu hiệu “ Hợp tác - Phát triển cùng hội nhập”, Tổng công ty Bao bì Việt Nam - VPC luôn hướng tới mục tiêu phát triển dài hạn, ổn định, trên cơ sở tôn trọng quyền lợi của Doanh nghiệp, của Khách hàng và của cả Cộng đồng.
2.1.2. Cơ cấu tổ chức của Tổng công ty
Cơ cấu tổ chức có vai trò rất quan trọng đối với quá trình hoạt động của doanh nghiệp. Cơ cấu tổ chức là một hệ thống bao gồm nhiều bộ phận có quan hệ chặt chẽ với nhau và được phân thành các cấp quản lý với chức năng và quyền hạn nhất định nhằm thực hiện các nhiệm vụ, mục tiêu của Tổng công ty. Để đáp ứng ngày càng tốt hơn những yêu cầu của quá trình sản xuất kinh doanh, bộ máy của Tổng công ty không ngừng được hoàn thiện.
Cơ cấu tổ chức của Tổng công ty theo mô hình cơ cấu trực tuyến - chức năng. Tính tập trung của cấu trúc rất cao, thể hiện ở mọi quyền lực quản lý được tập trung vào người cao nhất. Tổng công ty có rất ít cấp quản trị trung gian với rất ít đầu mối quản lý. Mọi thông tin đều được tập trung cho người quản lý cao nhất và mọi quyết định được đưa ra từ đó nhằm phát huy tối đa những ưu điểm, hạn chế những nhược điểm để đảm bảo cho bộ máy quản lý vừa tinh giản, vừa gọn nhẹ lại có hiệu quả.
2.1.2.1. Sơ đồ tổ chức của Tổng công ty
Sơ đồ 2.1 - Cơ cấu tổ chức của Tổng công ty
ĐẠI HỘI ĐỒNG CỔ ĐÔNG
BAN KIỂM SOÁT
HỘI ĐỒNG QUẢN TRỊ
TỔNG GIÁM ĐỐC
Phó Tổng Giám Đốc
Phó Tổng Giám Đốc
P. Kinh doanh 1-2-3-4
P. Nhập khẩu
P.Tài chính kế toán
P. Xuất khẩu
P. Kế hoạch đầu tư
P. Tổ chức hành chính
CN. Đà Nẵng
CN. Hải Phòng
XN B.Bì Cổ Loa
TTV.Tư Nông nghiệp
Tổng kho Cổ Loa
XN. Hùng Vương
XN In và Bao bì HM
Các cửa hàng
(Nguồn: Phòng Tổ chức hành chính Tổng công ty Bao bì Việt Nam)
2.1.2.2. Chức năng nhiệm vụ của các phòng ban
* Đại hội đồng cổ đông
Là cơ quan quyền lực cao nhất trong Tổng công ty
Quyết định những vấn đề quan trọng nhất của Tổng công ty như: điều lệ Công ty, bầu các thành viên Hội đồng quản trị, quyết định phương hướng phát triển của Tổng công ty.
* Hội đồng quản trị
Là cơ quan quản lý của Tổng công ty
Toàn quyền nhân danh Tổng công ty quyết định đến mọi vấn đề liên quan đến mục đích, quyền lợi của Tổng công ty như: chiến lược kinh doanh, phương án đầu tư, bổ miễn nhiệm, cách chức Giám đốc, Phó giám đốc,...
* Tổng giám đốc: Là người trực tiếp điều hành toàn bộ hoạt động của Tổng công ty.
* Phó tổng giám đốc: Là người trợ giúp Tổng giám đốc và chịu trách nhiệm trước Tổng giám đốc những nhiệm vụ được giao.
* Ban kiểm soát: kiếm soát tính hợp lý, hợp pháp của mọi hoạt động kinh doanh trong Tổng công ty.
* Phòng tổ chức - Hành chính
Chức năng
Giúp Giám đốc Tổng công ty những công việc thuộc lĩnh vực tổ chức bộ máy, công tác cán bộ, lao động tiền lương, đào tạo, phong trào thi đua, bảo vệ kinh tế chính trị, an toàn lao động tại văn phòng Tổng công ty và giúp các chi nhánh thực hiện các mặt hoạt động này và đảm bảo các công việc thuộc lĩnh vực hành chính quản trị,đời sống, chăm sóc sức khoẻ CBCNV tại văn phòng Tổng công ty.
Nhiệm vụ
Nghiên cứu đề xuất việc tổ chức bộ máy, bố trí cán bộ của Tổng công ty theo hướng gọn nhẹ có hiệu lực.
Đề xuất thành lập đại diện của Tổng công ty ở những thị trường cần thiết trong ngoài nước.
Xây dựng tiêu chuẩn cán bộ cho hoạt động của các Tổng công ty theo chức năng, nhiệm vụ được giao từ đó có kế hoạch đào tạo bồi dưỡng cán bộ theo tiêu chuẩn đã định.
Giúp giám đốc Tổng công ty quản lý tốt số cán bộ hiện có, tuyển dụng số còn thiếu khi có nhu cầu.
Quản lý tốt hồ sơ cán bộ, bổ sung kịp thời những thay đổi của cán bộ vào hồ sơ gốc.
Xây dựng và thực hiện kế hoạch lao động tiền lương hàng năm, quí, tháng, gửi kế hoạch này để phòng kế hoạch tổng hợp thành kế hoạch chung của Tổng công ty và phòng Tài chính kế toán để phối hợp thực hiện.
Phổ biến, thực hiện và kiểm tra việc thực hiện các chế độ chính sách quy định của Nhà nước đối với cơ quan và CBCNV cơ quan.
Giúp giám đốc trong công tác thanh tra của chính quyền tham gia ban thanh tra nhân dân hoạt động dưới sự chỉ đạo của thanh tra cấp trên.
Xây dựng các quy chế về thi đua khen thưởng, kỷ luật, nội quy cơ quan, đôn đốc và theo dõi việc thực hiện các quy định này.
Thực hiện việc đăng ký nghĩa vụ quân sự cho thanh niên cơ quan theo luật định, là đầu mối chuyên trách về quân sự, dân quân tự vệ của cơ quan.
Thực hiện các công việc hành chính tiếp khách, văn thư, quản trị, sửa chữa nhỏ, bảo vệ an toàn cơ quan, kể cả bảo vệ nội bộ, bảo vệ tài sản, giữ gìn bí mật.
Theo dõi chương trình công tác tuần, tháng của các phòng là đầu mối xây dựng lịch sinh hoạt tuần của Tổng công ty.
Quản lý, phân phối diện tích sử dụng làm việc của Tổng công ty tại khu vực Hà nội. Thực hiện công việc trang trí khánh tiết, mua sắm cấp phát vật rẻ tiền mau hỏng, bảo hộ lao động, khám chữa bệnh, tổ chức tiếp khách, thường trực cơ quan.
* Phòng Kế hoạch đầu tư
Chức năng
Phòng kế hoạch đầu tư có chức năng xây dựng và tổng hợp các loại kế hoạch hàng năm và nhiều năm, về sản xuất kinh doanh, liên doanh liên kết, xuất nhập khẩu, nghiên cứu kế hoạch, tài chính, lao động tiền lương. XDCB, giúp Giám đốc theo dõi, kiểm tra đôn đốc việc thực hiện các loại kế hoạch này.
Nhiệm vụ
Phổ biến kịp thời kế hoạch được giao, nêu các yêu cầu cần xây dựng kế hoạch cho các chi nhánh, các phòng trên cơ sở kế hoạch của các phòng, các chi nhánh xây dựng kế hoạch cho từng lĩnh vực hoạt động của Tổng công ty, báo cáo các cơ quan quản lý về các kế hoạch này theo quy định. Theo dõi việc tông hợp việc báo cáo kết quả thực hiện các kế hoạch này hàng tháng, quí, sáu tháng và cả năm.
Kiểm tra đôn đốc việc thực hiện kế hoạch của các chi nhánh kịp thời phát hiện những mất cân đối không được đảm bảo để kiến nghị các biện pháp thực hiện kế hoạch được giao hoặc điều chỉnh lại kế hoạch.
Kết thúc năm kế hoạch, tập hợp kiểm tra để báo cáo Giám Đốc ra quyết định xác định mức độ hoàn thành kế hoạch của các phòng các chi nhánh trực thuộc và báo cáo kết quả hoàn thành kế hoạch của Tổng công ty theo quy định.
* Phòng Kinh Doanh 1 - 2 - 3 - 4
Chức năng
Thực hiện việc mua bán, liên doanh liên kết sản xuất các loại vật tư nguyên liệu, thiết bị, sản phẩm bao bì và hàng hoá khác với khách hàng trong nước trong phạm vi cho phép.
Nhiệm vụ
Giao dịch, ký kết và thực hiện các hợp đồng mua bán hàng hoá, vật tư, gia công, liên doanh liên kết, các hợp đồng vận chuyển hàng hoá phát sinh.
Mở sổ sách theo dõi việc mua bán hàng hoá, vật tư, sản phẩm bao bì.
Làm đầy đủ các thủ tục xuất nhập khẩu vật tư hàng hoá trong phạm vi trách nhiệm vụ của phòng.
Xây dựng kế hoạch kinh doanh của phòng, triển khai thực hiện khi được phê duyệt, gửi kế hoạch này để phòng kế hoạch tổng hợp thành kế hoạch chung của Tổng công ty.
Nêu nhu cầu mặt hàng cần nhập khẩu, tính hiệu quả của các lô hàng này sau đó lên đơn hàng gửi phòng xuất nhập khẩu của Tổng công ty hoặc uỷ thác cho đơn vị khác nếu thấy nhanh và có hiệu quả hơn.
Có trách nhiệm đóng góp vào việc khai thác nguồn hàng xuất khẩu của Tổng công ty, sau khi tìm được nguồn hàng có thể phối hợp cùng phòng xuất nhập khẩu hoặc bàn giao cho phòng xuất nhập khẩu thực hiện, có thể uỷ thác xuất khẩu qua đơn vị khác nếu đạt được hiệu quả cao hơn.
Định kỳ hạch toán lỗ lãi hoạt động kinh doanh của phòng, tổng kết mua vào bán ra phù hợp với chế độ hạch toán kinh tế.
Nghiên cứu và thông báo cho các phòng chi nhánh của Tổng công ty tình hình thị trường trong nước. Xây dựng, điều chỉnh và thông báo kịp thời mức giá mua bán vật tư, sản phẩm hàng hoá của Tổng công ty cho các chi nhánh và một số phòng liên quan để thực hiện hoặc làm căn cứ tính toán thực hiện.
Tổ chức hội nghị khách hàng để duy trì phát triển mối quan hệ và tranh thủ ý kiến của khách hàng nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh và giúp đỡ lẫn nhau.
* Các phòng Xuất Nhập Khẩu
Chức năng
Phòng thực hiện chức năng kinh tế đối ngoại theo bản điều lệ hoạt động của Tổng công ty và chính sách kinh tế đối ngoại của nhà nước.
Nhiệm vụ
Xây dựng kế hoạch xuất nhập khẩu của Tổng công ty, báo cáo cấp trên ngành dọc theo sự chỉ đạo của Giám Đốc, gửi kế hoạch này để phòng kế hoạch tổng hợp thành kế hoạch chung của Tổng công ty .
Nghiên cứu, thông báo trong phạm vi Tổng công ty tình hình thị trường thế giới bao gồm luật pháp, tập quán quốc tế, thương nhân,mặt hàng, giá cả, thuế tàu, bảo hiểm....cần thiết cho hoạt động của Tổng công ty.
Dự kiến và đăng ký danh mục mặt hàng và số lượng hàng hoá xuất nhập khẩu của Tổng công ty, làm thủ tục xuất nhập khẩu theo quy chế hiện thành của Bộ và nhà nước,
Lên phương án đàm phán, ký kết hợp đồng, tính toán hiệu quả của từng chuyến (lô) hàng xuất nhập khẩu dự kiến giao dịch.
Thực hiện hoạt động xuất nhập khẩu phục vụ nhiệm vụ của phòng cũng như hoạt động sản xuất kinh doanh của toàn Tổng công ty bao gồm cả xuất nhập khẩu uỷ thác, tái xuất, xuất nhập khẩu tại chỗ. Sau mỗi chuyến hàng xuất nhập khẩu kết thúc cần quyết toán xác định lỗ lãi, thanh lý hợp đồng.
Thực hiện các nghiệp vụ về đàm phán, ký kết và thực hiện hợp đồng vận tải, bảo hiểm, pháp chế...những hợp đồng do phòng ký kết hoặc được giao thực hiện.
* Phòng Tài chính kế toán
Chức năng
P.TCKT là công cụ quan trọng để điều hành, quản lý các hoạt động sản xuất, kinh doanh và chủ động tài chính của Tổng công ty.
Nhiệm vụ
Lập kế hoạch tài chính dài hạn và ngắn hạn, định kỳ va đột xuất phù hợp với các chỉ tiêu kinh tế và triển khai thực hiện kế hoạch đó khi được phê duyệt.
Mở rộng sổ sách theo dõi các số liệu về các hoạt động mua bán, lỗ lãi, các khoản thu chi, nộp ngân sách.
Lo đầy đủ, kịp thời vốn cho hoạt động sản xuất, kinh doanh, xuất nhập khẩu của Tổng công ty( kể cả ngoại tệ khi cần đến)
Quản lý, kiểm tra, giám sát việc thực hiện chế độ chính sách tài chính, việc sử dụng và hiệu quả sử dụng đồng tiền từ nguồn vốn, các tài khoản của Tổng công ty và chi nhánh. Phát hiện các sai sót làm thất thoát tiền vốn, vật tư tài sản, đề suất biện pháp ngăn ngừa và xử lý các sai phạm.
Hướng dẫn kịp thời các phòng, các chi nhánh về vấn đề liên quan đến nghiệp vụ tài chính kế toán.
Thực hiện các chế độ báo cáo quyết toán, kiểm kê theo quy định và hướng dẫn các chi nhánh thực hiện.
Thực hiện nghiệp vụ thanh toán trên cơ sở các hợp đồng mua bán và nhiệm vụ được giao theo quy định.
Sắp xếp hệ thống lại các tài liệu về chế độ chính sách tài chính của nhà nước, các chứng từ sổ sách theo quy định.
Thực hiện việc kiểm tra đối chiếu sổ sách chứng từ, mua bán, thu chi với các phòng nghiệp vụ liên quan để thanh toán gon, dứt điểm từng chuyến hàng mua bán.
* Tổng kho cổ loa
Chức năng
Tổng kho cổ loa có chức năng bảo quản, xuất nhập, tái chế hàng hoá của Tổng công ty để tại khu vực cổ loa và kinh doanh kho hàng khi điều kiện cho phép.
Nhiệm vụ
Xuất nhập hàng hoá kịp thời, đúng trình tự và phù hợp với yêu cầu từng loại hàng.
Sắp xếp hàng hoá hợp lý, thực hiện các biện pháp về quản lý, bảo vệ kho hàng hoá đúng qui định về nghiệp vụ kho hàng, đề phòng cháy nổ, lụt bão, đảm bảo chất lượng hàng hoá trong quá trình bảo quản.
Lập dự trù và thực hiện việc thực hiện việc sửa chữa và bảo dưỡng kho tàng, mua sắm các phương tiện, vật tư phục vụ cho việc xếp dỡ, bảo quản hàng hoá kể cả trang bị bảo hộ lao động.
Mở sổ sách theo dõi tình hình xuất nhập hàng hoá đối chiếu chứng từ, luân chuyển cho các phòng nghiệp vụ liên quan.
Tổ chức cảnh giác bảo vệ kho tàng hàng hoá, trang thiết bị. Định kỳ chủ trì hoặc tham gia kiểm kê thực trạng hàng hoá, đề xuất và tiến hành các biện pháp xử lý, ngăn chặn những tổn thất có thể xảy ra đối với hàng hoá.
Định kỳ tổ chức dọn dẹp vệ sinh trong ngoài kho để đảm bảo chất lượng, vệ sinh hàng hoá mỹ quan kho hàng.
Làm thêm các nghiệp vụ về giao dịch, vận tải, xếp dỡ hàng hoá tại khu vực cổ loa khi được yêu cầu.
Xây dựng quy chế ra vào xuất nhập và bảo vệ kho tàng, yêu cầu CBCNV tổng kho và khách hàng đến công tác phải tuân theo.
* Xí nghiệp in và bao bì Hoàng Mai: sản xuất, gia công các loại bao bì, in nhãn hiệu bao bì và các ấn phẩm; thiết kế mẫu mã, sản xuất, gia công các loại khuôn làm bao bì hộp phẳng, chế bản,...
* Xí nghiệp Bao bì Cổ Loa: tổ chức sản xuất, gia công các loại bao bì, các phụ liệu, phụ kiện, bao bì cho hàng hóa xuất khẩu và tiêu dùng nội địa. Khai thác để kinh doanh và phục vụ sản xuất các loại vật tư, các phụ liệu, phụ kiện bao bì.
* Xí nghiệp vật tư nông nghiệp: sản xuất gia công các loại thức ăn phục vụ chăn nuôi ở trong nước. Kinh doanh các loại thức ăn chăn nuôi do các nhà máy khác sản xuất.
* Chi nhánh bao bì Hải Phòng: giao nhận bảo quản hàng nhập khẩu, xuất khẩu của Tổng công ty qua cảng Hải Phòng. Kinh doanh vật tư hàng hóa ( hàng nhập khẩu và hàng tự khai thác) và dịch vụ khác.
* Xí nghiệp bao bì Hùng Vương: sản xuất gia công và kinh doanh các loại bao bì, các phụ liệu, phụ kiện bao bì cho hàng hóa xuất khẩu và tiêu dùng trong nước. Liên doanh, liên kết để sản xuất và kinh doanh các sản phẩm hàng hóa không thuộc danh mục Nhà nước cấm.
* Chi nhánh bao bì Đà Nẵng: kinh doanh vật tư hàng hóa (hàng nhập khẩu của Công ty, hàng tự khai thác) và dịch vụ khác.
* Các cửa hàng: thực hiện nhiệm vụ bán hàng, giới thiệu sản phẩm và thu thập thông tin phản hồi từ khách hàng.
2.1.3. Tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của Tổng công ty
2.1.3.1. Đặc điểm về nhân lực
Tổng công ty chủ trương tổ chức bộ máy theo nguyên tắc gọn nhẹ và có hiệu quả cao, với một lượng công nhân viên không nhiều làm giảm tính phức tạp của cấu trúc tổ chức. Các phòng ban, đơn vị thành viên được lựa chọn bố trí theo lĩnh vực chuyên môn được phân công, với điều kiện lao động đủ, có thể thực hiện tốt nhất những nhiệm vụ được giao.
Qua bảng kết cấu lao động (biểu 1 - phụ lục 1) ta thấy: lượng lao động hàng năm tăng lên theo sự phát triển và mở rộng Công ty. Để đáp ứng cho việc mở rộng thị trường, quy mô sản xuất, Công ty tuyển thêm nhiều lao động mà chủ yếu là lao động có năng lực và trình độ. Nguồn lao động có trình độ đại học và cao đẳng, trung cấp so với tổng số lao động toàn Công ty tăng lên đáng kể. Hiện nay, để đáp ứng nhu cầu đòi hỏi ngày càng cao của thị trường và đảm bảo quá trình kinh doanh giành thắng lợi, Công ty không chỉ đầu tư vào dây chuyền công nghệ mà còn vào chất lượng đội ngũ lao động. Công ty có nhiều kỹ sư giỏi chuyên môn, công nhân lành nghề cùng đội ngũ cán bộ quản lý dày dặn kinh nghiệm. Kết cấu nhân lực của công ty qua các năm tương đối ổn định, tuy có thay đổi nhưng không đáng kể. Số lượng về nhân lực có xu hướng tăng thể hiện sự phát triển về quy mô và mở rộng sản xuất. Sự tăng lên của lao động có tay nghề cao và có trình độ đại học đang dần thay thế lao động phổ thông và công nhân có tay nghề thấp. Đây sẽ là triển vọng giúp công ty ngày càng lớn mạnh.
2.1.3.2. Đặc điểm về vốn
Công ty là đơn vị hách toán độc lập nên việc sản xuất kinh doanh và sử dụng vốn mang tính tự chủ cao. Hơn nữa, trong bối cảnh kinh tế thị trường cạnh tranh gay gắt như hiện nay, việc sản xuất kinh doanh gặp rất nhiều khó khăn, việc tính toán bỏ vốn vào từng khâu trong sản xuất kinh doanh là rất quan trọng, tránh ứ đọng, chậm luân chuyển vốn và sử dụng vốn sao cho có hiệu quả thì mới đảm bảo cho sự phát triển và tồn tại của Công ty.
Nhìn vào bảng kết cấu vốn (biểu 2 - phụ lục 1), ta có thể cơ cấu các nguồn vốn được đầu tư và huy động vào sản xuất kinh doanh của công ty như sau: năm 2006 tăng 17,65% so với 2005, năm 2007 tăng 21,95% so với năm 2006. Do hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty có hiệu quả nên uy tín của Công ty trên thị trường không ngừng tăng lên. Vì vậy, Công ty dễ dàng huy động các nguồn vốn cho quá trình sản xuất kinh doanh. Cơ cấu vốn lưu động và vốn cố định đang tiến tới tỷ lệ gần bằng nhau, như vậy là phù hợp với nhu cầu sản xuất và kinh doanh của Công ty. Điều nay cho thấy, tình hình tài chính của Công ty ngày càng ổn định và đi lên.
Trong 3 năm (2005 - 2007), tổng vốn kinh doanh của công ty không ngừng tăng, cơ cấu vốn luôn được Công ty điều chỉnh phù hợp với tình hình sản xuất kinh doanh trong từng thời kỳ. Phương hướng của Công ty trong thời gian tới là mở rộng sản xuất đồng thời tiếp tục đầu tư theo chiều sâu bằng nguồn vốn huy động từ bên ngoài như: vay ngân hàng, phát hành cổ phiếu bằng cách tham gia thị trường chứng khoán...
2.1.3.3. Đặc điểm về sản phẩm
Bao bì là một loại sản phẩm công nghiệp đặc biệt có khả năng thỏa mãn nhu cầu bao gói và chứa đựng các loại sản phẩm khác nhằm bảo vệ giá trị cho sản phẩm, tạo điều kiện thuận lợi cho việc bảo quản sản phẩm, vận chuyển xếp sỡ và tiêu thụ sản phẩm. Bao bì còn được coi như một phương tiện vận chuyển đi theo hàng hóa để bảo vệ, bảo quản hàng hóa và giới thiệu hàng hóa từ khi sản xuất đến khi tiêu dùng.
Như vậy, sản phẩm bao bì tuy không giữ một vị trí thật sự quan trọng trong nền kinh tế nhưng không thể thiếu sản phẩm này trên thị trường. Nó là một bộ phận cấu thành nên sản phẩm hoàn chỉnh được cung cấp trên thị trường.
Cấu trúc của nó gồm có hai phần: phần vật chất ( phần cứng) và phần phi vật chất ( phần mềm). Phần vật chất là phần thực thể vật chất có tồn tại hình dạng, kích thước nhất định được chế tạo từ các vật liệu thích hợp để phù hợp với hoạt động sản xuất, vận động và tiêu thụ hàng hóa. Trong phần cứng gồm hai phần: vật liệu chế tạo và hình dáng kích thước, kết cấu bao bì. Phần phi vật chất là thành phần trừu tượng trong cấu trúc bao bì. Đó chính là kiểu dáng mẫu mã, những hình tượng chi tiết được in trên bao bì nhằm thông tin tới khách hàng, giúp khách hàng phân biệt giữa các loại hàng hóa khác nhau trên thị trường.
Dù là phần vật chất hay phi vật chất thì cũng cần đảm bảo đúng các tiêu chuẩn kỹ thuật về kích thước, kiểu dáng, kết cấu, nguyên liệu để chế tạo, độ bền phù hợp với đặc điểm, tính chất hàng hóa và yêu cầu của hoạt động sản xuất kinh doanh. Vì vậy, đa dạng hóa các loại hình sản phẩm là một cách để khai thác những khách hàng mới, thị trường mới.
2.1.3.4. Đặc điểm về thị trường
Thị trường Miền Bắc là thị trường chủ yếu của Công ty. Doanh thu tại khu vực này liên tục tăng lên, ổn định qua từng năm. Ở khu vực này, Công ty xây dựng cho mình thị trường trọng điểm đó là Hà Nội và Hải Phòng. Đây là hai khu vực phát triển nhất miền Bắc về kinh tế và ở đây tập trung nhiều nhà máy sản xuất sản phẩm của Công ty. Tại khu vực này, công ty xây dựng được vị thế nhất định nhờ vào những lợi thế riêng vốn là một doanh nghiệp kinh doanh khá lâu nên có nhiều kinh nghiệm hơn trong ngành. Tuy nhiên, hiện nay, với xu thế phát triển nhanh chóng thì ngàng càng có nhiều cơ sở bao bì mọc lên ở khu vực này với quy mô khác nhau và sự đa dạng trong chủng loại sản phẩm như: Công ty TNHH Bao bì Việt Thắng, Công ty TNHH TS - ARI ở Vĩnh Phúc... Điều này có nguy cơ làm mất dần thị trường của Công ty.
Thị trường thứ hai của Công ty là các tỉnh miền Trung trong đó tập trung chủ yếu ở Đà Nẵng và Nghệ An. Công ty đã đặt một xí nghiệp và chi nhánh ở khu vực này để tiện giao dịch với khách hàng. Tuy nhiên, mức đầu tư cho khai thác kinh doanh tại khu vực này là chưa lớn, công suất hoạt động của nhà máy sản xuất chưa cao nên doanh thu trên thị trường này chưa đáng kể. Trong những năm qua hoạt động của công ty tại thị trường này cũng chưa phát triển ổn định. Hiện nay, Công ty đang có kế hoạch đầu tư phát triển để mở rộng thị trường này.
Thị trường miền Nam là thị trường có tiềm năng lớn nhưng do khoảng cách địa lý đã hạn chế khâu vận chuyển cũng như việc nghiên cứu thâm nhập vào thị trường. Hơn nữa, khu vực này có nhiều đối thủ cạnh tranh mạnh như: Công ty Sản xuất và Nhập khẩu dịch vụ Bao bì ( Pakexim), Công ty Bao bì Thành phố Hồ Chí Minh,... Có thể nói rằng tại thị trường này Công ty vẫn chưa tạo dựng được một vị thế vững chắc để có thể đương đầu với các đối thủ cạnh tranh, xâm nhập và thị trường lớn này.
2.1.4. Lĩnh vực kinh doanh, phạm vi hoạt động và mục tiêu của Tổng công ty
2.1.4.1. Lĩnh vực kinh doanh của Công ty
Kinh doanh, xuất nhập khẩu, sản xuất, gia công các loại vật tư nguyên liệu, sản phẩm phụ kiện bao bì; trực tiếp đầu tư kinh doanh trong trong lĩnh vực xây dựng cơ bản như:nhà ở, văn phòng làm việc và văn phòng cho thuê, nhà xưởng, kho tàng, siêu thị, trung tâm thương mại...; kinh doanh các ngành hàng và dịch vụ khác phù hợp với quy định của pháp luật - cụ thể là:
Xuất nhập khẩu trực tiếp và nhận ủy thác xuất nhập khẩu các loại vật tư nguyên liệu, thiết bị máy móc thiết bị và các loại hàng hóa khác.
Sản xuất và gia công các loại bao bì hộp phẳng, các loại bao bì carton sóng, bao bì chất dẻo, in trên bao bì và các ấn phẩm khác, sản xuất các loại bao bì khác khi khách hàng có yêu cầu.
Lập và thực hiện các loại dự án đầu tư xây dựng cơ bản như: nhà xưởng, kho tàng, nhà ở, văn phòng làm việc và cho thuê, trung tâm thương mại và dịch vụ tổng hợp... Kinh doanh bất động sản, văn phòng, nhà ở, siêu thị, dịch vụ thương mại tổng hợp phù hợp với quy định của pháp luật. Tận dụng cơ sở vật chất hiện có để phát triển các hoạt động dịch vụ.
Liên doanh, liên kết với các doanh nghiệp trong và ngoài nước trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh, dịch vụ phù hợp với các quy định của pháp luật.
2.1.4.2. Phạm vi kinh doanh và hoạt động của Công ty
Công ty được quyền tiến hành tất cả các hoạt động kinh doanh như Quy định trong giấy chứng nhận đăng ký Kinh doanh và Bản điều lệ của Công ty, phù hợp với quy dịnh của pháp luật và thực hiện tất cả các biện pháp thích hợp nhằm đạt được các mục tiêu của công ty.
Công ty được quyền tiến hành những hoạt động kinh doanh khác mà pháp luật cho phép, nếu được Hội đồng quản trị xem xét thông qua.
2.1.4.3. Mục tiêu hoạt động của Công ty
Mục tiêu hoạt động của Công ty là không ngừng phát triển các hoạt động, sản xuất, thương mại, dịch vụ trong các lĩnh vực hoạt động kinh doanh của Công ty và các lĩnh vực khác pháp luật không cấm, nhằm tối đa hóa lợi nhuận cho các cổ đông, cả thiện điều kiện làm việc và nâng cao thu nhập chho người lao động, thực hiện đầy đủ nghĩa vụ với Ngân sách Nhà nước và phát triển Công ty ngày càng lớn mạnh, bền vững.
2.2. Thực trạng hoạt động nhập khẩu của Tổng công ty trong thời gian qua
2.2.1. Về kim ngạch nhập khẩu
Từ sau khi mở cửa nền kinh tế, các doanh nghiệp đã phải từ bỏ cách làm ăn thụ động với sự bao cấp của nhà nước từ đầu vào đến đầu ra. Thay vào đó, doanh nghiệp phải tự tính toán đến lợi nhuận, chi phí, phải tự tìm đầu vào phục vụ cho quá trình sản xuất, tự tìm cho mình những bạn hàng trong và ngoài nước. Chính điều này đã làm sụp đổ những doanh nghiệp không thích nghi được với sự cạnh tranh khốc liệt của thương trường Nhưng cũng chính vì lẽ đó, ta mới có thể thấy rằng đâu là những doanh nghiệp thực sự. Cho dù gặp nhiều khó khăn, thử thách nhưng vẫn có một số những doanh nghiệp vẫn vững vàng tiến lên, họ dám đương đầu, không lùi bước trước những khó khăn trở ngại đó để góp phần xây dựng nền kinh tế Việt Nam ngày một vững mạnh.
Tổng công ty Bao Bì Việt Nam (VPC) với đội ngũ cán bộ công nhân viên có trình độ là một trong những số đó. Với sự quyết tâm, nỗ lực, tin tưởng vào tương lai của ngành Thương mại Việt Nam, họ đã cùng nhau đưa Tổng công ty Bao Bì Việt Nam (VPC) trở thành một trong những doanh nghiệp nhà nước đi đầu trong sản xuất và kinh doanh hàng hoá phục vụ nhu cầu sản xuất trong nước. Đặc biệt là trong lĩnh vực nhập khẩu, có thể nói Tổng công ty Bao Bì Việt Nam (VPC) là một trong những doanh nghiệp nhập khẩu lớn mà chủ yếu là các mặt hàng phục vụ cho sản xuất như giấy, hạt nhựa,…
Chúng ta có thể thấy rõ điều này qua những kết quả mà Tổng công ty đã đạt được trong thời gian gần đây.
Bảng 2.1 - Kim ngạch xuất nhập khẩu của Tổng công ty
qua các năm 2004 - 2007
Đơn vị: USD
Chỉ tiêu
Năm
Tổng kim ngạch XNK
So với năm trước(%)
Tỷ lệ nhập khẩu (%)
Tỷ lệ tăng hàng năm (%)
2004
6 711 445
100
94.71
100
2005
5 886 693
87.71
91.29
84.55
2006
6 687 431
113.60
95.63
119.01
2007
12 303 965
183.99
97.68
187.92
(Nguồn: Bảng tổng hợp thực hiện kế hoạch qua các năm - Phòng kế hoạch Tổng Công ty Bao bì Việt Nam)
Qua bảng 2.1, ta có thể thấy tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của công ty luôn tăng nhanh qua các năm, cụ thể là theo báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh của công ty thì năm 2005 tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Tổng công ty là 5 886 693 USD (trong đó nhập khẩu chiếm 91.29 % ), đến năm 2006, kim ngạch xuất nhập khẩu tăng lên 6 687 431 USD (trong đó nhập khẩu chiếm95.63%), tăng hơn so với năm 2005 và đến năm 2007, kim ngạch xuất nhập khẩu của Tổng công ty tăng mạnh 12 303 965 USD ( trong đó nhập khẩu chiếm 97.68%). Đây là một tin hiệu hết sức đáng khích lệ cho hoạt động nhập khẩu của Tổng công ty trong thời kỳ cạnh tranh mạnh mẽ như hiện nay.
Biểu đồ 2. 1 - Kim ngạch nhập khẩu của Tổng Công ty
qua các năm 2000 - 2007
(Nguồn: Bảng tổng hợp thực hiện kế hoạch qua các năm - Phòng kế hoạch Tổng Công ty Bao bì Việt Nam)
Nhìn chung, có thể thấy rằng kim ngạch nhập khẩu của Tổng Công ty đều tăng qua các năm. Tuy nhiên, năm 2001 do chưa lường được sự biến động về giá cả nhập khẩu trên thị trường quốc tế và khu vực nên một số lô hàng khi nhập thì giá cao, khi hàng về thì giá thị trường quốc tế giảm dẫn đến ứ đọng, chậm tiêu thụ và gây ra lỗ. Năm 2005, kim ngạch Nhập khẩu cũng giảm sút là do Tổng Công ty vừa thực hiện cổ phần hóa doanh nghiệp, do còn nhiều mới mẻ và bỡ n._.ng được chiến lược cạnh tranh có hiệu quả, Tổng công ty cần xác định nhu cầu xác thực hơn. Tổng công ty cần tìm hiểu tình hình hoạt động của các đối thủ. Qua nghiên cứu các đối thủ cạnh tranh giúp công ty đánh giá được tình hình cung cầu mặt hàng nguyên vật liệu bao bì trên thị trường nội địa, tìm hiểu được điểm mạnh, điểm yếu của họ là gì. Có thể đưa ra những phương thức quảng cáo độc đáo và hiệu quả cho mình.
- Giá cả của mặt hàng nhập khẩu cũng là một yếu tố quan trọng để xác định nhu cầu nhập khẩu .Từ khi đưa ra quyết định nhập khẩu, công ty cần xác định, với mức giá nhập khẩu đó có thể đem bán trên thị trường nội địa được không và mức lợi nhuận công ty thu về sau khi đã trừ đi mọi khoản chi phí có thể chấp nhận được hay không .
Để có thể bán hết mọi hàng hoá nhập khẩu công ty cần có thêm các chính sách ưu đãi khách hàng lâu năm không nên thụ động chờ khách hàng tìm đến mà phải chủ động tiếp cận trực tiếp với khách hàng, mở rộng hệ thống các văn phòng đại diện sang các tỉnh, thành phố có khả năng tiêu thụ các mặt hàng nhập khẩu mà công ty kinh doanh trong những năm tới đây .
Để đảm bảo cung cấp đủ nguyên vật liệu, Tổng công ty cần phải lên kế hoạch mua hàng trước mỗi quý, mỗi năm, việc làm này hết sức cần thiết để tiến hành có hiệu quả các bước nghiệp vụ. Tổng công ty Bao bì Việt Nam cần phải quyết định về việc nhập khẩu trong kế hoạch và phải trả lời những nội dung chủ yếu sau :
* Mua cái gì ?
Là người mua hàng Tổng công ty mong muốn mua được những hàng hoá có chất lượng tốt và có khả năng tiêu thụ được trên thị trường nội địa. Do đó Tổng công ty cần phải nghiên cứu kỹ nhu cầu trong nước, xác định được thị trường trong nước đang cần và sẽ làm gì để có định hướng về mặt kinh doanh .
*Mua bao nhiêu ?
Khi trả lời câu hỏi mua bao nhiêu Tổng công ty cần phải dựa trên những cơ sở sau: Các đơn đặt hàng, chỉ tiêu, dự tính số lượng tiêu thụ trong thời gian tới, tỷ phần của công ty trên thị trường... Từ đó xác định đúng đắn số lượng từng chủng loại cần nhập.
*Mua khi nào ?
Trong hoạt động kinh doanh tính thời điểm là hết sức quan trọng. Để không bỏ lỡ thời cơ kinh doanh, cần phải biết lựa chọn thời điểm thích hợp có lợi để tham gia thị trường. Đối với Tổng công ty Bao bì Việt Nam, để tận dụng các cơ hội trên thị trường, cần phải nắm vững thời điểm kinh doanh. Tổng công ty cần phải tìm hiểu hoạt động kinh doanh của những công ty khác tránh tình trạng nhiều doanh nghiệp cùng tham gia nhập khẩu một mặt hàng đẩy giá nhập khẩu lên cao, giá bán trong nước hạ . Đồng thời xem xét mặt hàng mình kinh doanh đang ở giai đoạn nào của chu kỳ sống. Điều cần quan tâm nữa là tỷ giá của đồng Việt Nam so với đồng ngoại tệ , tỷ xuất ngoại tệ của các mặt hàng trong thời điểm nhập .
* Mua giá nào ?
Trên thị trường quốc tế không có giá chuẩn hay giá ổn định với nhiều mặt hàng. Quyết định mua không chỉ ở giá thấp nhất mà còn phải xem xét đến nhiều yếu tố khác nhau như chất lượng hàng hoá, phương thức thanh toán, độ tin cậy của bạn hàng... Do vậy Tổng công ty cần sử dụng các nguồn thông tin và các phương pháp khác nhau để xác định giá cả trong mối liên hệ đó. Có thể tìm hiểu qua đại diện thương mại của các nước tại Việt Nam, qua hội chợ triển lãm hoạc những bảng giá công bố trong từng thời điểm.
*Mua ở đâu ?
Những thống kê về sản xuất tiêu thụ có thể cung cấp những con số tổng quát về khả năng của một thị trường, về mặt hàng đáng quan tâm tuy nhiên còn rất nhiều yếu tố khác ảnh hưởng đến tiềm năng cung ứng của một thị trường như quan hệ thương mại giữa hai nước, điều kiện vận tải, cước phí vận chuyển... Nghiên cứu vấn đề này sẽ có lợi cho Tổng công ty ra quyết định mua ở đâu nếu thiếu hiểu biết về những yếu toó trên sẽ có thể gây ra những lãng phí rất lớn về chi phí mà không đạt được mục đích kinh doanh. Do vậy khi lập kế hoạch mua hàng cần phải xác định được từng mặt hàng thì nước nào sẽ xuất khẩu cho mình .
*Mua của ai ?
Khi đã chọn được bạn hàng công ty cần phải xem trong nước đó hãng nào có khả năng đáp ứng nhu cầu tốt nhất của công ty, Tổng Công ty cần chọn mua hàng ở những nhà cung cấp có nề nếp kinh doanh tốt. Cố gắng tìm hiểu trong quá khứ nhà cung cấp đã thực hiện những hợp đồng tương tự với những bạn hàng trong nước và ngoài nước ra sao. Tổng Công ty có thể dự đoán được những rủi ro có thể xảy ra.
3.3.1.2. Giải pháp hoàn thiện nghiên cứu thị trường nhập khẩu
Trên đây chỉ bàn đến nghiên cứu thị trường khía cạnh trong nước - thi trường đầu ra của hàng hoá nhập khẩu, một mảng nữa cũng rất quan trọng mà công ty muốn kinh doanh thành công thì không thể coi nhẹ đó là thị trường cung ứng - thị trường đầu vào của hàng nhập khẩu.
Nghiên cứu thị trường mua đòi hỏi phải nghiên cứu tỷ mỷ, chính xác và nhạy bén , nắm vững được các đặc điểm về tiềm lực tài chính, về uy tín của bạn hàng để đảm bảo cho hoạt động kinh doanh. Khi nhập khẩu một mặt hàng Tổng công ty cần thăm dò xem xét kỹ các thông tin từ các nguồn khác nhau về bạn hàng, nên thu nhập nhiều hơn các đơn vị chào hàng từ các hãng sản xuất các công ty thương mại khác nhau nhằm so sánh nguồn hàng có ưu thế nhất để đưa ra quyết định.
Hoạt động nghiên cứu nhu cầu trong nước và nguồn cung cấp ở nước ngoài phải đưa đến một kết luận chắc chắn là nên nhập khẩu mặt hàng nào, loại bỏ mặt hàng nào nếu nhập khẩu thì sẽ nhập ở thị trường nào là có ưu thế nhất (về giá cả, chất lượng mặt hàng, dịch vụ kèm theo ...). Trong từng thời điểm nhất định số lượng hàng hoá nhập khẩu sẽ được xác định hợp lý để đáp ứng vừa đủ nhu cầu nội địa, không gây thừa đọng hàng tồn kho.
3.3.1.3. Thực hiện công tác giao dịch, đàm phán, kí kết hợp đồng
Đây là một khâu rất quan trọng nếu không muốn nói là quan trọng nhất của thương vụ. Đàm phán giúp các bên tìm hiểu, thảo luận thấu đáo vấn đề nhằm đưa đến ký kết hợp đồng, tuy nhiên hình thức giao dịch này thường chiếm nhiều thời gian, chi phí tổ chức hội họp cao do nguồn hàng cung cấp từ nước ngoài với giá trị lớn nên nâng cao hiệu quả giao dịch đàm phán là cần thiết nhằm đẩy mạnh tiến trình hoạt động của công ty .
Đàm phán là phương thức các bên trực tiếp gặp nhau thảo luận về các điều khoản của hợp đồng, nó thường có tính chất quyết định đến việc chính thức lập hợp đồng do vậy thận trọng và khôn khéo là điều tối cần thiết. Để có thể đem lại hiệu quả trong hoạt động nhập khẩu công ty có thể tham khảo một số sách lược.
- Tạo ra sự cạnh tranh: Cần phải cho bạn hàng biết rằng họ không phải là khách hàng duy nhất .
- Từng bước tiến tới: Cần chia nhỏ mục tiêu của mình, nắm được tâm lý đối phương từng bước thực hiện mục tiêu nhỏ cho đến khi đạt được toàn bộ mục tiêu.
- Gây áp lực
- Nêu ra mục tiêu cao: Nêu ra yêu cầu đối với đối phương đối với mục đích cần đạt được để hai bên thoả hiệp.
- Không bộc lộ suy nghĩ của mình và cần quan sát diễn biến tâm lý của đối phương để tranh thủ quyền chủ động.
- Tuỳ cơ ứng biến.
- Tránh việc thoả thuận nhanh chóng: Việc thoả thuận đạt được quá sớm sẽ không đủ thời gian để nắm bắt vấn đề. Tuy nhiên trong trường hợp nhận thấy đối phương không có sự chuẩn bị thì việc thoả thuận nhanh chóng sẽ mang lại thành công cho ta.
- Phải làm cho đối phương nhượng bộ từng bước mà vẫn đảm bảo được thể diện của họ.
Sau khi thoả thuận công ty nên lập bảng ghi nhớ lại những điểm quan trọng mà hai bên đã đạt đựoc để tiếp tục bàn sâu hơn cho đến khi ký kết hợp đồng .
Đàm phán không chỉ được áp dụng với đối tác nước ngoài mà còn cần với cả các đơn vị trong nước nhằm giành được những đơn hàng có lợi cho công ty. Khi đàm phán thành công là có thể xem như hợp đồng đã được ký kết, nó mang tính hiệu lực và có thể mang lại hiệu quả kinh doanh cao.
3.3.1.4. Giải pháp hoàn thiện nghiệp vụ thực hiện hợp đồng nhập khẩu
Để hoạt động kinh doanh đạt hiệu quả cao, Tổng Công ty cần phải hoàn thiện các hoạt động nghiệp vụ nhập khẩu của mình. Muốn vậy, Tổng Công ty cần nâng cao hiệu quả của tất cả các hoạt động nghiệp vụ trong quá trình kinh doanh nhập khẩu. Cụ thể như sau:
* Tính toán giá:
Giá cả là một trong những nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến sức mạnh cạnh tranh cũng như hiệu quả kinh doanh, vì vậy Tổng công ty cần hết sức linh hoạt để đưa ra được những chính sách giá phù hợp.
Trong giai đoạn hiện nay, Tổng cô nên xây dựng chính sách giá hướng vào chiếm lĩnh thị trường, hướng vào thị trường mở, thu hút khách hàng bằng cách cung cấp hàng hoá dịch vụ với giá cả phải chăng không cao miễn là không quá thấp, mang lại lợi ích tối đa cho khách hàng, nhằm duy trì được mối quan hệ với những bạn hàng truyền thống đồng thời thu hút nhiều hơn các khách hàng của các đối thủ cạnh tranh.
*Ký kết hợp đồng:
Trong kinh doanh nhập khẩu hàng hoá, người tham gia kinh doanh phải là người có kiến thức tổng hợp về các lĩnh vực như kiến thức nghiệp vụ ngoại thương, kiến thức về kỹ thuật và cả kiến thức về văn hoá xã hội. Vì lý do trên đòi hỏi các cán bộ hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu của Tổng công ty bao bì Việt Nam phải không ngừng trau dồi bản thân thông qua việc rút kinh nghiệm từ các hoạt động đã thực hiện trước đó và từ các sai lầm cũng như các thành công của các đối thủ cạnh tranh. Việc đàm phán ký kết hợp đồng cần hết sức được chú trọng. Thận trọng và khôn khéo trong thương lượng là chìa khoá bảo đảm an toàn và thành công trong đàm phán. Thông thường, trên thực tiễn đều có sự giảm giá tuỳ thuộc vào tài thương lượng. Khi ký kết hợp đồng cần phải cân nhắc và xem xét kỹ lưỡng và các điều khoản để tránh rắc rối về sau.
* Tiếp nhận:
Tiếp nhận hàng hoá là một trong những khâu tương đối quan trọng của hoạt động nhập khẩu. Nếu thực hiện khâu này không tốt có thể gây lãng phí rất lớn về chi phí vận chuyển xếp dỡ, chi phí lưu kho lưu bãi, chi phí về hư hỏng hàng hoá. Vì thế, trong quá trình nhận hàng, nhân viên giao nhận phải thường xuyên bám sát hiện trường, kịp thời phát hiện những sai sót để có biện pháp xử lý thích hợp.
*Thanh toán ngoại thương.
Hiện nay phương thức thanh toán chủ yếu của Công ty là mở thư tín dụng không huỷ ngang hay điện chuyển tiền nhằm đảm bảo an toàn với các đối tác lần đầu quan hệ buôn bán với Công ty.
Tuy nhiên với uy tín lớn của Công ty trên thị trường trong và ngoài nước, bên cạnh hình thức L/C, Công ty cần linh hoạt áp dụng các hình thức thanh toán khác nhau để qua đó đạt được kết quả cao hơn trong khâu thanh toán. Đặc biệt là hình thức thanh toán trả chậm cần được Công ty áp dụng, với uy tín và quan hệ tốt đẹp với các bạn hàng, Công ty sẽ được nhiều bạn hàng chấp nhận hình thức trả chậm này, nâng cao hiệu quả kinh tế của hoạt động kinh doanh.
3.3.1.5. Nâng cao nhận thức và khả năng vận dụng Marketing thương mại quốc tế vào hoạt động nhập khẩu
Sự vận động của cơ chế thị trường đòi hỏi các doanh nghiệp tham gia phải có sự nhanh nhạy trong mọi hoạt động kinh doanh của mình. Tổng công ty Bao bì Việt Nam thiếu hẳn một bộ phận chức năng chuyên phụ trách về Marketing. Những vấn đề về thị trường đều do phòng kinh doanh nhập khẩu đảm nhiệm. Điều này tỏ ra không phù hợp vì các chuyên viên vừa phải thực hiện hoạt động kinh doanh vừa phải nghiên cứu thị trường.
Vì vậy, Tổng công ty nên thiết lập phòng Marketing để nhằm khuếch trương thương hiệu của Tổng công ty, đồng thời quảng bá thương hiệu đó ở nước ngoài để tìm những nguồn khách mới cũng như nguồn hàng mới. Việc thiết lập một phòng ban chuyên trách về hoạt động Marketing là cực kỳ cần thiết đối với Tổng công ty trong giai đoạn hiện nay. Chức năng chính của phòng Marketing sẽ là tổng hợp và xử lý các nguồn thông tin liên quan đến thị trường kinh doanh nhập khẩu của Tổng công ty.
Sau khi thành lập phòng Marketing cần phải nâng cao hiệu quả thu thập và xử lý thông tin:
* Thông tin từ nội bộ ngành.
Đây là kênh thông tin rất quan trọng và hữu hiệu bởi nhu cầu về nguyên vậ liệu bao bì chủ yếu là từ các công ty chuyên kinh doanh, sản xuất bao bì, nhãn mác. Vì vậy, cần có bộ phận chuyên trách thu thập thông tin từ nội bộ ngành nhằm phát hiện và nắm bắt được các nhu cầu này. Thêm vào đó là các thông tin từ chính Công ty thông qua các báo cáo về tình hình hoạt động kinh doanh của các chi nhánh, các thông tin về đối thủ cạnh tranh của mình trong hiện tại và tương lai, từ đó điều chỉnh và đề ra những biện pháp kinh doanh phù hợp.
* Thông tin từ khách hàng
Trong hoạt động kinh doanh, độ thoả mãn của khách hàng về các hàng hoá, dịch vụ là thước đo chính xác nhất phản ánh đầy đủ kết quả kinh doanh, khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Do vậy, Tổng công ty Bao bì Việt Nam nên sớm xây dựng và hoàn chỉnh thông tin này. Để làm được điều đó, Tổng công ty có thể thường xuyên liên lạc với các khách hàng mục tiêu cũng như khách hàng truyền thống nhằm thu hút sự chú ý từ phía họ và đặc biệt là thu thập những ý kiến phản hồi của khách hàng về giá cả, chất lượng và các dịch vụ khác.
* Các phương tiện thông tin đại chúng.
Đây cũng là một trong những nguồn tập trung khá nhiều thông tin cần thiết. Tổng công ty Bao bì nên thường xuyên theo dõi các tạp chí chuyên ngành, từ các phương tiện phát thanh truyền hình và từ Bộ Thương mại, ngân hàng, tổng cục thống kê cung cấp. Kênh thông tin này tuy không cung cấp một cách chính xác về nhu cầu nhưng lại giúp cho Tổng công ty có thể đánh giá tổng quát về tình hình thị trường.
* Thông tin từ các trung tâm tư vấn
Trong nhiều trường hợp để có được thông tin Công ty C có thể mua từ các trung tâm tư vấn. Mua thông tin từ nguồn này tuy phải mất chi phí cao nhưng ưu điểm rất lớn của nó là cung cấp các thông tin chính xác, đáng tin cậy và kịp thời.
Ngoài việc thu thập thông tin của phòng Marketing, Tổng Công ty cần nâng cao hoạt động quảng bá về hình ảnh của Tổng công ty. Trong môi trường kinh tế như hiện nay, việc tìm kiếm đầu vào và đầu ra cho sản phẩm không phải quá khó khăn, nhưng việc chọn lựa đầu vào tốt sẽ giúp cho doanh nghiệp có thể đảm bảo chất lượng cho sản phẩm của mình, điều này lại tương đối khó thực hiện. Việc quảng bá thương hiệu của Tổng công ty ra nhiều thị trường nước ngoài là một việc làm quan trọng, nó sẽ giúp Tổng công ty tiếp cận với nhiều nguồn hàng hơn, từ đó có thể tăng số lượng nguồn hàng cung ứng cho thị trường trong nước.
Bên cạnh đó, nhân viên Marketing cũng phải là những nhân viên thật sự năng động, nhiệt tình trong công việc. Chính vì vậy, việc tuyển chọn nhân viên phòng Marketing cần phải hết sức kỹ càng, thận trọng. Họ chính là những người sẽ làm cho Tổng công ty có một bộ mặt mới trên thị trường quốc tế, mở rộng thị trường nhập khẩu cho Tổng công ty. Nhân viên Marketing phải là những nhân viên trẻ, năng động, họ sẽ phát huy được sức trẻ của mình để đưa Tổng công ty lên một tầm cao mới.
3.3.1.6. Giải pháp để có chế độ đãi ngộ hợp lý để thu hút và tận dụng nguồn nhân lực trẻ dồi dào có chất lượng
Tổng công ty cần tuyển dụng những nhân viên mới, trẻ và có thực lực để có thể bù đắp cho sự thiếu hụt trong hàng ngũ cán bộ khi các cán bộ có kinh nghiệm đến tuổi về hưu. Bởi lẽ trong những năm sắp tới các cán bộ dày dặn kinh nghiệm của công ty hầu như đã đến tuổi về hưu, lớp trẻ sẽ mang lại sức sống mới cho Tổng công ty Bao Bì Việt Nam (VPC), lớp trẻ mới này phải là lớp trẻ cực kỳ có chất lượng mới có thể kế thừa những thành quả đã đạt được. Việc tuyển chọn nhân viên trẻ mới có năng lực đòi hỏi chính những người lãnh đạo công ty phải có con mắt nhìn người sáng suốt để chọn ra những người có đủ những điều kiện cần thiết để đảm đương được công việc hiện nay. Tuyển nhân viên mới không chỉ là nhu cầu của công ty mà còn là yêu cầu của việc kinh doanh trong thời đại mới. Chính vì vậy, Tổng công ty phải tìm được những người có tài, toàn tâm toàn ý với công ty, tâm huyết với nghề. Muốn đạt được diều này không dễ chút nào, vì ai cũng biết, quyền lợi sát sườn của mỗi người lao động chính là thu nhập mà họ được hưởng. Với một mức lương “nhà nước” thì Tổng công ty Bao Bì Việt Nam (VPC) khó có thể thu hút được người lao động về với mình một cách lâu dài. Những nhân viên trẻ hiện nay đều có xu hướng làm cho các công ty tư nhân hoặc công ty nước ngoài do lương cao hơn công ty nhà nước. Chính vì vậy, Tổng công ty Bao Bì Việt Nam (VPC) cần có chế độ đãi ngộ với nhân viên - những người làm nên thành công cho công ty - một cách hợp lý hơn nữa. Có thế thì Tổng công ty mới có thể giữ chân được những nhân viên giỏi bên mình, giúp cho Tổng công ty luôn đứng vững trong môi trường cạnh tranh khốc liệt như hiện nay.
3.3.1.7. Giải pháp đa dạng hoá hình thức nhập khẩu
Phương thức nhập khẩu ở Tổng công ty chưa đa dạng, chủ yếu là nhập khẩu tự doanh và uỷ thác. Để tăng kim ngạch nhập khẩu Tổng công ty nên kết hợp nhiều phương thức khác nhau, đặc biệt là phương thức nhập khẩu liên doanh nhằm tận dụng vốn góp của các bên liên doanh để không bỏ lỡ cơ hội nhất là các hợp đồng lớn trong điều kiện Tổng công ty đang thiếu vốn lưu động. Hoặc sử dụng phương thức hàng đổi hàng để vừa xuất được hàng trong nước ra nước ngoài vừa nhập được hàng mình cần để thu lãi kép. Kim ngạch cả xuất khẩu và nhập khẩu đều tăng lên. Việc đẩy mạnh các phương thức nhập khẩu sẽ tạo cho Công ty khai thác tốt nguồn hàng đồng thời tạo ra sự liên kết giữa các doanh nghiệp trong và ngoài nước với Công ty ngày càng được củng cố và phát triển vững mạnh.
Việc sử dụng nhiều hình thức nhập khẩu để phát huy tối đa năng lực, tiềm lực của Tổng công ty, cũng như đem lại lợi nhuận cao hơn nữa cho chính bản thân công ty mình. Hơn nữa khi sử dụng nhiều hình thức nhập khẩu sẽ làm cho Tổng công ty trở nên linh động hơn trong hoạt động kinh doanh của mình. Với nhiều hình thức nhập khẩu, Tổng công ty có thể hợp tác với nhiều bạn hàng ở trong và ngoài nước. Từ đó, Tổng công ty có thể nâng cao danh tiếng của mình trên thị trường trong nước và quốc tế.
3.1.2.8. Giải pháp để tăng cường hoạt động huy động nguồn vốn
Nguồn vốn kinh doanh luôn là vấn đề mà các doanh nghiệp quan tâm. Trong điều kiện nguồn vốn hạn hẹp mà việc nhập khẩu đòi hỏi một lượng vốn tương đối lớn thì Tổng công ty phải tìm ra các biện pháp nhằm thực hiện có hiệu quả hoạt động huy động nguồn vốn kinh doanh từ bên ngoài, nhất là nguồn ngoại tệ để phục vụ cho hoạt động nhập khẩu của Tổng công ty. Tổng công ty có thể huy động nguồn vốn bằng một trong các phương thức sau:
- Một là, huy động nguồn vốn bằng ngân sách Nhà nước: Tổng công ty chỉ có thể huy động nguồn vốn từ ngân sách Nhà nước khi thực hiện các dự án nhập khẩu vật tư thiết bị lớn cho các dự án phát triển ngành xi măng có tầm chiến lược với sự phát triển của đất nước. Tuy nhiên nguồn vốn này không phải lúc nào cũng sẵn có, thường bị “rót” một cách nhỏ giọt…
- Hai là, huy động vốn từ phía các Ngân hàng: Tổng công ty cần tăng cường thiết lập và củng cố mối quan hệ với các ngân hàng, tạo uy tín cho các Ngân hàng để họ nới lỏng các điều kiện cho vay đối với Tổng công ty.
3.1.2.9. Tổng Công ty cần chú trọng để phát hiện những khách hàng tiềm năng trong nước
Khi chú trọng những khách hàng trong nước, Tổng Công ty có thể lập những phương án kinh doanh có hiệu quả nhất. Những khách hàng trong nước có một ý nghĩa hết sức to lớn đối với việc kinh doanh nhập khẩu của công ty. Khách hàng trong nước mang lại cho công ty nguồn lợi nhuận đáng kể ngay từ khi thành lập đến nay vì chức năng của công ty là xuất nhập khẩu nhưng công ty chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực nhập khẩu. Khách hàng tiềm năng chính là những khách hàng mang lại nguồn thu chủ yếu cho công ty trong tương lai. Do đó, việc tìm kiếm những khách hàng tiềm năng cho công ty là một việc làm rất cần thiết đối với công ty trong giai đoạn hiện nay. Tìm kiếm được những khách hàng tiềm năng, Tổng công ty sẽ có thể định hướng cho tương lai phát triển của chính mình, từ đó có thể lập được chiến lược kinh doanh lâu dài cho Tổng công ty.
Có được chiến lược lâu dài, Tổng công ty mới có thể có những thay đổi phù hợp, có những phương án đối phó kịp thời với sự biến đổi của thị trường. Lượng khách hàng tiềm năng của mỗi doanh nghiệp đều phải do chính bản thân doanh nghiệp tìm được bằng thực lực của mình. Muốn tìm được những khách hàng tiềm năng, Tổng công ty phải có sự nắm bắt thông tin thị trường cực kỳ chính xác. Điều này đòi hỏi Tổng công ty có những nhân viên về thị trường có đôi mắt nhìn nhận sắc bén trong việc đánh giá khách hàng. Nhân viên chuyên trách về thị trường sẽ giúp Tổng công ty nhận thấy những khách hàng nào là cần thiết, quan trọng cũng như là khách hàng tiềm năng của Tổng công ty. Từ đó, Tổng công ty sẽ có kế hoạch giữ chân và làm tăng số lượng khách hàng tiềm năng lên. Có thể giữ chân khách hàng nói chung và khách hàng tiềm năng nói riêng bằng những dịch vụ sau bán hàng như bảo hành về chất lượng hàng hóa cho khách hàng, miễn phí vận chuyển, …
Một số các biện pháp khác như: Tổng Công ty cần tích cực trong việc nghiên cứu thị trường, tìm đối tác, nắm bắt kịp thời nhu cầu của khách hàng để có thể nhanh chóng đáp ứng tối đa, tránh mất khách. Tổng Công ty cần tăng cường đào tạo đội ngũ cán bộ có chuyên môn giỏi bằng các biện pháp như gửi đi học nước ngoài hay cung cấp kinh phí giúp nhân viên học cao học trong nước,… Từ đó có thể nâng cao trình độ chuyên môn của đội ngũ cán bộ, điều này giúp cho tiềm lực của Tổng công ty ngày càng mạnh hơn, giúp Tổng công ty có thể đứng vững trong điều kiện cạnh tranh như hiện nay. Ngoài ra, Tổng Công ty cũng cần mở rộng thị trường nhập khẩu để tránh bị lệ thuộc vào những thị trường cố định. Điều này sẽ giúp cho Tổng Công ty có thể chủ động hơn trong việc tìm kiếm nguồn hàng để phục vụ tối đa nhu cầu ngày càng cao trong nước.
3.3.2. Giải pháp từ phía Nhà nước
Nhà nước nên có những chính sách thông thoáng hơn trong vấn đề xuất nhập khẩu của các doanh nghiệp nói chung trong cả nước, đặc biệt là khâu cải cách hành chính và các quy định về thuế nhập khẩu. Cải cách thu tục hành chính luôn là vấn đề được quan tâm nhiều nhất hiện nay của người dân, nhất là các doanh nghiệp tham gia kinh doanh xuất nhập khẩu. Việt Nam đang cố gắng hoàn thiện thủ tục hành chính theo hướng đơn giản, hiệu quả. Tuy nhiên, trong quá trình cải cách vẫn còn vấp phải nhiều vướng mắc, đòi hỏi Nhà nước cần phải xem xét, nhất là thủ tục xuất nhập khẩu:
Một là, vấn đề xin giấy phép nhập khẩu. Khi tiến hành nhập khẩu, Công ty phải xin phép rất nhiều các bộ ngành và tuân thủ rất nhiều các quy định của các Bộ ngành có liên quan, gây lãng phí tiền bạc cũng như thời gian. Đỏi hỏi Nhà nước cần có chính sách xin giấy phép nhập khẩu thông thoáng hơn, ít thủ tục rườm rà hơn, nhằm tiết kiệm thời gian cho doanh nghiệp.
Hai là, Nhà nước cần có biện pháp nhanh chóng cải thiện hoạt động của cán bộ Hải quan tránh hạch sách gây phiền hà cho doanh nghiệp. Hoạt động của Hải quan cần sớm được thực hiện theo phương thức tự động hóa một số khâu nhằm giảm bớt thời gian chờ đợi cho người làm thủ tục.
Ba là, Nhà nước cần phải hoàn thiện hơn nữa các quy định về thuế nhập khẩu. Cần có những chính sách ưu đãi thuế đối với các doanh nghiệp chức năng như Công ty. Tùy tình hình cụ thể Nhà nước sẽ đưa ra các mức thuế suất kịp thời tránh gây khó khăn cho doanh nghiệp.
Bên cạnh đó, Nhà nước cũng cần phải có những chính sách tỷ giá hối đoái hợp lý. Tỷ giá hối đoái ảnh hưởng trực tiếp tới các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu, đồng Việt Nam mất giá so với các ngoại tệ mạnh sẽ khiến cho các doanh nghiệp kinh doanh nhập khẩu bị thiệt hại. Cho nên Nhà nước cần phải chú ý sử dụng các công cụ điều chỉnh tỷ giá một cách hợp lý để tạo điều kiện thuận lợi nhất cho các doanh nghiệp kinh doanh nhập khẩu.
Ngoài ra, Nhà nước cần phải tăng cường hợp tác với các quốc gia trên thế giới. Trong tiến trình hội nhập nền kinh tế thế giới, các quốc gia luôn chú ý tăng cường mối quan hệ hợp tác trên nhiều lĩnh vực, đặc biệt là lĩnh vực thương mại. Việt Nam đã và đang nỗ lực tham gia vào các liên kết kinh tế quốc tế cũng như tham gia vào sự hội nhập chung của toàn cầu. Tuy nhiên, Nhà nước cần phải có những chính sách thúc đẩy hơn nữa quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, hòa vào sân chơi thương mại chung của thế giới, nhất là khi Việt Nam đã là thành viên chính thức của WTO nhưng vẫn bị coi là nước có nên kinh tế phi thị trường. Bên cạnh đó Việt Nam cần phải xúc tiến ký nhiều Hiệp định thương mại song phương hơn nữa để thuận lợi trong quá trình xuất nhập khẩu hàng hoá. cũng như thu hút đầu tư, mục đích đưa đất nước tiến lên theo kịp các nền kinh tế lớn trên thế giới.
KẾT LUẬN
Trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu hàng hoá là một trong những hoạt động hết sức quan trọng giúp cho các công ty, các quốc gia lớn nhỏ trên thế giới ngày càng phát triển mạnh mẽ về qui mô sản xuất cũng như về lực lượng sản xuất. Chính từ hoạt động này, các mối liên hệ về kinh tế trên thế giới được hình thành và từ đó gắn kết các công ty cũng như các quốc gia với nhau để cùng nhau đẩy mạnh quá trình toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới. Việt Nam cũng là một trong những hạt nhân thúc góp phần đẩy nhanh tiến trình này, nhất là khi giờ đây Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức của WTO.
Nhập khẩu là một hoạt động quan trọng của hoạt động ngoại thương. Nhập khẩu tác động một cách trực tiếp và quyết định đến sản xuất và đời sống trong nước, tạo điều kiện đẩy nhanh quá trình xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, góp phần cải thiện và nâng cao mức sống của nhân dân, ngoài ra nhập khẩu còn có vai trò tích cực trong việc thúc đẩy xuất khẩu. Nắm được tầm quan trọng đó của nhập khẩu cũng như xu thế phát triển, nâng cao nhu cầu hiện nay của nền kinh tế, Tổng công ty Bao bì Việt Nam đã trở thành một doanh nghiệp hoạt động hết sức hiệu quả đối với công tác nhập khẩu.
Trong những năm vừa qua, tình hình hoạt động nhập khẩu của Tổng công ty rất đáng khích lệ, Tổng công ty đã trở thành một công ty nhập khẩu lớn đặc biệt là trong lĩnh vực bao bì. Tuy nhiên trong quá trình hoạt động, Tổng công ty vẫn còn có những hạn chế cần phải khắc phục để có thể hoàn thiện được hoạt động nhập khẩu của mình.
Có thể nói triển vọng kinh doanh các mặt hàng của Tổng công ty là rất lớn và để góp phần nâng cao hoạt động kinh doanh nhằm đạt những mục tiêu đề ra trong thời gian tới đòi hỏi Tổng công ty phải luôn nỗ lực và cố gắng thực hiện tốt các giải pháp như hoàn thiện nghiệp vụ nhập khẩu, nâng cao hoạt động quảng bá hình ảnh của Tổng công ty và tăng cường công tác đào tạo và bồi dưỡng cán bộ… để phát triển công tác nhập khẩu được tốt hơn trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế của đất nước.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Đỗ Đức Bình - Nguyễn Thường Lạng (2004), Giáo trình Kinh tế quốc tế, NXB Khoa học và kỹ thuật.
Tô Xuân Dân (1998), Giáo trình Đàm phán và ký kết hợp đồng kinh doanh quốc tế, NXB Thống kê.
Nguyễn Thị Thu Thảo (2006), Nghiệp vụ Thanh toán quốc tế, NXB Lao động - xã hội.
Nguyễn Thị Hường - Tạ Lợi (2007), Giáo trình Nghiệp vụ ngoại thương, NXB Đại học Kinh tế quốc dân.
Tổng công ty Bao bì Việt Nam (2004) - Báo cáo tổng kết thực hiện kế hoạch .
Tổng công ty Bao bì Việt Nam (2005) - Báo cáo tổng kết thực hiện kế hoạch .
Tổng công ty Bao bì Việt Nam (2006) - Báo cáo tổng kết thực hiện kế hoạch.
Tổng công ty Bao bì Việt Nam (2007) - Báo cáo tổng kết thực hiện kế hoạch .
Các trang web:
MỤC LỤC
DANH MỤC BẢNG BIỂU, SƠ ĐỒ
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
DANH MỤC BẢNG BIỂU, SƠ ĐỒ
Trang
Sơ đồ 1.1
Các bước thực hiện hợp đồng nhập khẩu
14
Sơ đồ 2.1
Cơ cấu tổ chức của Tổng công ty
23
Bảng 2.1
Kim ngạch xuất nhập khẩu của Tổng công ty qua các năm 2004 - 2007
37
Biểu đồ 2.1
Kim ngạch nhập khẩu của Tổng Công ty qua các năm
2000 - 2007
38
Bảng 2.2
Hình thức nhập khẩu của Tổng công ty
39
Bảng 2.3
Các mặt hàng nhập khẩu trực tiếp qua các năm 2004 - 2007
41
Bảng 2.4
Cơ cấu các mặt hàng nhập khẩu trực tiếp qua các năm 2004 - 2007
42
Biểu đồ 2.2
Cơ cấu hàng nhập khẩu năm 2006
43
Biểu đồ 2.3
Cơ cấu hàng nhập khẩu năm 2007
44
Biểu đồ 2.4
Cơ cấu nhập khẩu mặt hàng hạt nhựa các loại năm 2007
45
Biểu đồ 2.5
Cơ cấu nhập khẩu mặt hàng hóa chất và vật tư làm mút năm 2007
46
Biểu đồ 2.6
Cơ cấu nhập khẩu mặt hàng giấy các loại năm 2007
47
Biểu đồ 2.7
Các bạn hàng nhập khẩu của Tổng công ty năm 2007
48
Biểu đồ 2.8
Cơ cấu các bạn hàng nhập khẩu của Tổng công ty năm 2007
49
PHỤ LỤC
PHỤ LỤC 1
MỘT SỐ KẾT QUẢ TỔNG HỢP CỦA
TỔNG CÔNG TY BAO BÌ VIỆT NAM QUA CÁC NĂM 2005 - 2007
(Trang bên)
PHỤ LỤC 2
DANH SÁCH HIỆP HỘI BAO BÌ MIỀN BẮC
Công ty bao bì Việt Nam -Hà Nội
Công ty CP SX và XNK Bao bì - PACKEXIM - Hà Nội
Công ty CP Bao bì và in Nông nghiệp - Hà Nội
Công ty TNHH Hoàng Anh - Hà Nội
Công ty TNHH bao bì Việt Thắng - Hà Nội
Công ty TM và Bao bì Đề can - Hà Nội
Công ty Bao bì Đống Đa - Hà Nội
Công ty TNHH In Hà Việt - Hà Nội
Công ty CP giấy Tây Đô - Hà Nội
Công ty TM và Bao bì Anh Đức - Hà Nội
Công ty Bao bì Hoa Việt - Hà Nội
Công ty TNHH XNK Thiết bị vật tư in ấn Hải Đức Bảo - Hà Nội
Công ty CP công nghiệp giấy Ngọc Việt - Hà Nội
Công ty CP hoá chất Nhựa - Hà Nội
HTX Công nghiệp Long Biên - Hà Nội
Công ty TM và SX Bao bì Sông Lam - Hà Nội
Công ty TM và SX Bao bì Đoàn Kết - Hà Nội
Công ty SX Bao bì và hàng XK - Hà Nội
Công ty Bao bì và hàng XK Hà Nội - Hà Nội
Công ty Nhựa Hà Nội - Hà Nội
Công ty Bao bì Nam Hải - Hà Nội
Công ty CP Nhựa Khánh Trường - Hà Nội
Công ty Bao bì Ngọc Diệp - Hà Nội
Công ty Bao bì Mạnh Cường - Hà Nội
Công ty Bao bì Mỹ Anh - Hà Nội
Công ty CP giấy An Lạc - Hà Nội
Công ty CP Mặt Trời Vàng - Hà Nội
Công ty Bao bì Thanh Dũng - Hà Tây
Công ty giấy và sản xuất bao bì Bình Minh - Bắc Ninh
Xí nghiệp giấy Hồng Vương - Bắc Ninh
Công ty giấy và bao bì Phú Giang - Bắc Ninh
Công ty sản xuất Bao bì Nhựa Phú Lâm - Thái Bình
Công ty in bao bì Hải Phòng - Hải Phòng
Nhà máy bao bì PP Hải Phòng - Hải Phòng
Công ty Bao bì Hằng Hải - Hải Phòng
Công ty TNHH Đức Anh - Hải Phòng
Công ty TNHH An Thịnh - Hải Phòng
Công ty TNHH Thiên Triều - Hải Phòng
Công ty TNHH Tân Huy Hoàng - Hải Phòng
Công ty Bao bì Toàn Đạt - Hải Phòng
Công ty Bao bì Phương Anh - Hải Dương
Công ty Bao bì Việt Hưng - Hải Dương
Công ty Bao bì Tân Kim Cương - Hưng Yên
Công ty Nhựa Hưng Yên - Hưng Yên
Công ty Bao bì Hà Hưng - Hưng Yên
Công ty Bao bì Lâm Việt An - Hưng Yên
Công ty TNHH SXCN và TMDV Linh Sơn - Vĩnh Phúc
Công ty CP giấy và bao bì Thanh hoá - Thanh Hoá
Công ty CP giấy Lam Sơn -Thanh Hoá
Công ty CP bao bì Xi măng Bỉm Sơn - Thanh Hoá
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 10415.doc