Danh mục chữ viết tắt
- CBTD: Cán bộ tín dụng
- Cty CP: Công ty cổ phần
- Cty TNHH: Công ty trách nhiệm hữu hạn
- DNNN: Doanh nghiệp Nhà nước
- DNNQD: Doanh nghiệp ngoài quốc doanh
- DNCV: Dư nợ cho vay
- HTX: Hợp tác xã
- NHNo&PTNT: Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn
- NHNN: Ngân hàng Nhà nước
- NHTM: Ngân hàng thương mại
- SXKD: Sản xuất kinh doanh
- TSCĐ: Tài sản cố định
- TW: Trung ương
Lời mở đầu
Trong những năm gần đây, hoạt động cho vay của hệ thống N
64 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1190 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Đẩy mạnh hoạt động cho vay đối với Doanh nghiệp tại chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn (AgriBank) Hà Tây, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
HTM nước ta đã có nhiều đóng góp quan trọng cho sự phát triển kinh tế. Là một chi nhánh của NHNo&PTNT Việt Nam nằm trong hệ thống NHTM quốc doanh, NHNo&PTNT Hà Tây cũng có những đóng góp tích cực đối với nền kinh tế nói chung và kinh tế Hà Tây nói riêng. Với đối tượng phục vụ chủ yếu và truyền thống là cho vay là hộ sản xuất nông, lâm, ngư, diêm nghiệp, trong thời gian gần đây ngân hàng còn mở rộng cho vay đối với các doanh nghiệp. Qua tìm hiểu về thị trường khách hàng doanh nghiệp của NHNo&PTNT Hà Tây em thấy hiện tại số doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh Hà Tây có quan hệ giao dịch với ngân hàng rất ít, trong số 3282 doanh nghiệp trên địa bàn chỉ có 776 doanh nghiệp có quan hệ vay vốn của ngân hàng. Trong khi đó, ở Hà Tây ngày càng có nhiều doanh nghiệp được mọc lên và hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp ngày càng cao, vì thế doanh nghiệp đối với ngân hàng là một thị trường đầy tiềm năng, NHNo&PTNT Hà Tây cần phải đẩy mạnh hoạt động cho vay đối với thị trường khách hàng này. Thực tế trên đã khiến cho em quyết định chọn đề tài: “Đẩy mạnh hoạt động cho vay đối với doanh nghiệp tại chi nhánh NHNo&PTNT Hà Tây” cho chuyên đề tốt nghiệp của mình.
Mục tiêu nghiên cứu của chuyên đề là phân tích rõ thực trạng cho vay đối với doanh nghiệp của NHNo&PTNT Hà Tây từ đó đề xuất một số ý kiến nhằm đẩy mạnh hoạt động cho vay đối với doanh nghiệp tại ngân hàng. Phạm vi nghiên cứu của chuyên đề tập trung nghiên cứu ý luận cơ bản về cho vay đối với doanh nghiệp của NHTM, nghiên cứu doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh Hà Tây và thực trạng hoạt động cho vay của NHNo&PTNT Hà Tây đối với doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh. Chuyên đề sử dụng phương pháp duy vật biên chứng, phương pháp so sánh, phương pháp thống kê làm phương pháp nghiên cứu.
Ngoài phần mở đầu và kết luận, chuyên đề còn có các phần sau:
Chương I: Hoạt động cho vay đối với doanh nghiệp của NHTM
Chương II: Thực trạng hoạt động cho vay đối với doanh nghiệp tại chi nhánh NHNo&PTNT Hà Tây
Chương III: Ý kiến đề xuất nhằm đẩy mạnh hoạt động cho vay đối với doanh nghiệp tại chi nhánh NHNo&PTNT Hà Tây
Chuyên đề đã được hoàn thành với sự chỉ bảo và hướng dẫn tận tình, chu đáo của cô giáo, Ths. Hoàng Lan Hương, giảng viên khoa Ngân hàng – Tài chính, trường Đại học Kinh tế Quốc dân Hà Nội và các cô chú phòng tín dụng NHNo&PTNT Hà Tây. Tuy nhiên, do kinh nghiệm của bản thân còn hạn chế nên trong quá trình nghiên cứu không thể tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận được sự góp ý quý báu của các thầy cô giáo trong khoa Ngân hàng – Tài chính, trường Đại học Kinh Tế Quốc dân, cô giáo, Th.S Hoàng Lan Hương và các cô chú cán bộ trong ngân hàng để chuyên đề được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn những sự giúp đỡ quý báu đó!
Chương I: Hoạt động cho vay đối với doanh nghiệp của NHTM
1.1. Hoạt động cho vay của NHTM
1.1.1. Khái niệm hoạt động cho vay của NHTM
Cho vay là một quan hệ hệ kinh tế phát sinh giữa các chủ thể trong nền kinh tế với nhau, trong đó chủ thể này chuyển sang cho chủ thể khác quyền sử dụng một lượng giá trị (có thể dưới hình thức tiền tệ hoặc hiện vật) trong một thời gian nhất định, sau thời gian này chủ thể đi vay phải hoàn trả một lượng giá trị lớn hơn ban đầu gồm cả phần dôi dư mà người ta gọi là phần lãi cho chủ thể cho vay. Lãi cho vay tỷ lệ với số lượng giá trị vay và thời gian vay.
Một trong những chủ thể cho vay trong nền kinh tế là ngân hàng thương mại. Đây là một tổ chức tài chính quan trọng trong nền kinh tế, là mạch máu của nền kinh tế, giúp nền kinh tế vận hành một cách thông suốt, hoạt động chủ yếu của NHTM là đi vay để cho vay.
Cho vay của NHTM là một hình thức cấp tín dụng, theo đó NHTM giao cho khách hàng sử dụng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích và thời gian nhất định theo thoả thuận với nguyên tắc khách hàng phải có trách nhiệm hoàn trả gốc và lãi đầy đủ, đúng hạn cho ngân hàng.
1.1.2. Đặc điểm hoạt động cho vay của NHTM
Cho vay là tài sản lớn nhất của NHTM, hoạt động cho vay của NHTM là hoạt động có tính chuyên nghiệp nhất, phổ biến nhất, là nghiệp vụ cơ bản nhất đem lại thu nhập cho ngân hàng. Hoạt động cho vay là hoạt động kinh doanh chủ chốt của NHTM để tạo ra lợi nhuận, chỉ có lãi thu được từ hoạt động cho vay mới bù nổi chi phí tiền gửi, chi phí dự trữ, chi phí kinh doanh và quản lý, chi phí vốn trôi nổi, chi phí thuế và các chi phí rủi ro đầu tư. Hoạt động cho vay của NHTM có một số đặc điểm sau:
Thứ nhất: Cho vay là chức năng kinh tế hàng đầu của các ngân hàng để tài trợ cho chi tiêu của các doanh nghiệp, cá nhân và các cơ quan chính phủ. Do vậy, hoạt động cho vay của ngân hàng có mối quan hệ mật thiết với tình hình phát triển kinh tế tại khu vực ngân hàng phục vụ, bởi vì cho vay thúc đẩy sự tăng trưởng của các doanh nghiệp, tạo ra sức sống cho nền kinh tế. Kinh tế càng phát triển lượng cho vay của các NHTM càng tăng nhanh và loại hình cho vay cũng trở nên phong phú.
Thứ hai: Cho vay là việc chuyển nhượng quyền sử dụng vốn có thời hạn, việc xác định thời hạn dựa vào quá trình luân chuyển của đối tượng vay nghĩa là thời hạn cho vay phải phù hợp với chu kỳ luân chuyển vốn của đối tượng đi vay. Sự phù hợp giữa thời hạn vay và chu kỳ sản xuất kinh doanh tạo điều kiện để người vay có thể trả nợ cả gốc và lãi đúng hạn cho ngân hàng. Hơn nữa, nguồn vốn ngân hàng cho vay chủ yếu là nguồn vốn huy động của cá nhân, tổ chức trong nền kinh tế có vốn tạm thời nhàn rỗi, nên sau một thời gian nhất định ngân hàng phải hoàn trả lại số vốn đó cho người gửi. Vì vậy, hoạt động cho vay của ngân hàng đối với khách hàng chỉ diễn ra trong một thời gian nhất định theo thoả thuận giữa ngân hàng và khách hàng để đảm bảo nhu cầu chi trả và khả năng thanh toán của ngân hàng.
Thứ ba: Hoạt động cho vay của ngân hàng đối với khách hàng chỉ xảy ra khi khách hàng cam kết hoàn trả cả gốc là lãi đủ và đúng thời hạn cho ngân hàng vì cho vay chỉ là sự chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị, chỉ là sự cung cấp một lượng giá trị trên cơ sở lòng tin, tức là người cho vay tin tưởng người đi vay sẽ sử dụng vốn vay có hiệu quả, đúng mục đích và có khả năng hoàn trả cho mình. Khi một ngân hàng được thành lập và đi vào hoạt động, mối quan tâm chính và thường xuyên của ngân hàng là sẽ cho ai vay và sẽ đầu tư vào đâu, lợi tức cho vay có cao và an toàn không. Chính vì vậy, ngân hàng rất thận trọng trong hoạt động cho vay của mình và như vậy để được vay vốn của ngân hàng thì khách hàng phải có cam kết bảo đảm với ngân hàng về khả năng trả nợ và phải đưa ra được phương án sử dụng vốn hiệu quả, thuyết phục được ngân hàng và chỉ khi nào ngân hàng tin tưởng vào khách hàng thì hoạt động cho vay mới được thực hiện.
1.1.3. Vai trò của hoạt động cho vay đối với NHTM
* Đối với NHTM
Đối với hầu hết các ngân hàng, khoản mục cho vay chiếm quá nửa tổng giá trị tài sản và tạo ra từ 1/2 đến 2/3 nguồn thu của ngân hàng. Trong hoạt động cho vay mức độ và quy mô cho vay phải phù hợp với thực lực, khả năng của ngân hàng đồng thời đảm bảo đầy đủ nguyên tắc và điều kiện cho vay, đảm bảo khả năng thanh khoản và hạn chế đến mức thấp nhất những rủi ro trong quá trình hoạt động kinh doanh. Đặc biệt, trong điều kiện cạnh tranh ngày càng gay gắt giữa các NHTM trên thị trường việc mở rộng hoạt động cho vay là một yêu cầu bức xúc và đảm bảo được thắng lợi trong cạnh tranh vì việc mở rộng cho vay sẽ đem lại lợi nhuận cho ngân hàng nhiều hơn và đủ để bù đắp chi phí. Ngoài ra, việc đầu tư cho vay là hoạt động hết sức quan trọng cả trước mắt và lâu dài. Thực tế cho thấy, đầu tư cho vay đã làm cho ngân hàng mở rộng quy mô và phạm vi hoạt động, tăng thu nhập cho ngân hàng, đồng thời hoạt động cho vay của ngân hàng đã làm cho các cán bộ ngân hàng nắm bắt nhanh các thông tin kinh tế phục vụ cho hoạt động khác của ngân hàng mình ngày càng có hiệu quả hơn.
* Đối với khách hàng vay
Hoạt động cho vay của NHTM là cầu nối trung gian giữa người cung ứng vốn và người cần vốn cho sản xuất kinh doanh, sinh hoạt đời sống, đồng thời hoạt động cho vay của NHTM cũng góp phần điều hoà vốn giữa vốn nơi thừa và thiếu vốn. Vì vậy, thông qua hoạt động cho vay của NHTM mà nhu cầu về vốn của khách hàng vay được đáp ứng. Hơn nữa, nhờ có các khoản vay của ngân hàng mà khách hàng có thể nâng cao đời sống bản thân và gia đình, có thể hưởng các tiện ích khi mà khả năng tài chính hiện tại của họ chưa đủ khả năng. Quan trọng hơn các khoản vay này có thể giúp khách hàng trong những trường hợp chi tiêu cấp bách. Như vậy, nhờ các khoản vay này mà khách hàng có thể kết hợp được với khả năng tài chính hiện tại với tương lai từ đó tạo ra một động lực thúc đẩy họ phải cố gắng trong các hoạt động ở hiện tại.
* Đối với xã hội
Cho vay của NHTM là một hoạt động đầu tư đa dạng, có khả năng tham gia vào tất cả các khâu của quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nói chung. Hoạt động cho vay của ngân hàng có vai trò hết sức to lớn đối với xã hội vì thông qua hoạt động này vốn cho vay đã đáp ứng đầy đủ kịp thời nhu cầu vốn cho tiêu dùng, sản xuất, lưu thông hàng hoá. Từ đó góp phần giải quyết việc làm, hạn chế tệ nạn xã hội, khai thác khả năng tiềm tàng vốn, lao động, tài nguyên trong nền kinh tế, thúc đẩy quá trình tích tụ, tập trung vốn cho sản xuất hàng hoá, góp phần giữ vững an ninh trật tự, ổn định phát triển xã hội, tăng thu nhập cho nhân dân và tạo ra nguồn thu lớn cho ngân sách Nhà nước, là động lực kích thích nền kinh tế phát triển, góp phần nâng cao vị thế của Việt Nam trong khu vực và trên thế giới.
1.1.4. Phân loại hoạt động cho vay của NHTM
Có rất nhiều căn cứ để phân loại hoạt động cho vay, tương ứng với mỗi một căn cứ là một cách phân loại khác nhau. Dưới đây là một số cách phân loại phổ biến.
* Căn cứ vào phương pháp cho vay
Cho vay trực tiếp: Là loại cho vay mà người vay là người trực tiếp nhận vốn vay và trực tiếp trả nợ cho ngân hàng.
Cho vay gián tiếp: Là loại cho vay được thực hiện thông qua người thứ ba như cho vay qua tổ, nhóm, cho vay thông qua tổ chức tín dụng khác dưới hình thức đồng tài trợ.
* Căn cứ vào thời hạn cho vay
Thời hạn cho vay là khoảng thời gian được tính từ khi khách hàng nhận vốn vay cho đến thời điểm trả hết nợ gốc và lãi vốn vay đã được thoả thuận trong hợp đồng tín dụng giữa ngân hàng và khách hàng. Dựa vào thời hạn cho vay hoạt động cho vay được phân làm 3 loại:
Cho vay ngắn hạn: Là những khoản vay có thời hạn từ 12 tháng trở xuống, tài trợ cho tài sản lưu động và các nhu cầu chi tiêu ngắn hạn. Cho vay ngắn hạn thường chiếm tỷ trọng lớn nhất trong khoản mục cho vay của NHTM.
Cho vay trung hạn: Là những khoản vay có thời hạn từ trên 1 năm đến 5 năm, tài trợ cho tài sản cố định như: mua sắm, cải tiến thiết bị công nghệ, mở rộng kinh doanh, xây dựng các dự án có quy mô vừa và nhỏ phục vụ đời sống, sản xuất có thời hạn thu hồi vốn nhanh, mua sắm phương tiện vận tải.
Cho vay dài hạn: Là những khoản vay có thời hạn trên 5 năm, tài trợ cho công trình xây dựng như: nhà máy, xí nghiệp, sân bay, cầu, đường, máy móc thiết bị có giá trị lớn, thời gian sử dụng lâu.
Việc phân loại thời hạn như trên cũng chỉ có tính chất tương đối vì nhiều khoản cho vay không xác định được chính xác thời hạn. Các khoản cho vay ngắn hạn tại các NHTM thường có tỷ trọng cao hơn các khoản cho vay trung và dài hạn vì khách hàng tìm đến các ngân hàng chủ yếu là ở trong tình trạng thiếu vốn để đáp ứng nhu cầu về tài sản lưu động. Hơn nữa, các khoản cho vay trung và dài hạn thường có tỷ trọng thấp hơn do rủi ro cao hơn, nguồn vốn đắt và khan hiếm hơn.
* Căn cứ vào tài sản bảo đảm cho vốn vay
Về nguyên tắc, mọi khoản cho vay của ngân hàng đều có bảo đảm dưới hình thức có hoặc không có tài sản bảo đảm nhằm hạn chế rủi ro đến mức thấp nhất có thể trong hoạt động cho vay của ngân hàng. Căn cứ vào tài sản bảo đảm cho vốn vay, có thể phân loại hoạt động cho vay như sau:
Cho vay có tài sản bảo đảm: Trong hoạt động cho vay, ngân hàng thường yêu cầu khách hàng có tài sản bảo đảm. Tài sản bảo đảm của khách hàng phải thoả mãn những yêu cầu nhất định do ngân hàng đề ra. Hình thức bảo đảm bằng tài sản cho vốn vay có thể là thế chấp tài sản hoặc cầm cố tài sản. Khi khách hàng đem tài sản ra thế chấp cho ngân hàng thì khách hàng vẫn có quyền sử dụng để sinh lời đối với tài sản này, nhưng trong trường hợp tài sản đem ra để cầm cố thì không được quyền sử dụng tài sản cầm cố đó nữa. Trong cả hai hình thức này, khách hàng không được quyền nhượng, bán hay cho thuê tài sản đó và phải chịu sự giám sát của ngân hàng.
Cho vay không có tài sản bảo đảm: Là các khoản cho vay được bảo đảm trên cở sở lòng tin của ngân hàng đối với khách hàng, lòng tin này thể hiện ở khả năng và ý chỉ trả nợ của khách hàng. Đây còn được gọi là bảo đảm dưới hình thức tín chấp. Ngân hàng chỉ cho vay trong trường hợp khách hàng có uy tín với ngân hàng, khách hàng có uy tín là những khách hàng làm ăn thường xuyên có lãi, tình hình tài chính vững mạnh, ít xảy ra tình trạng nợ nần, dây dưa. Hoặc khách hàng vay với số vốn vay tương đối nhỏ so với vốn tự có của mình. Ngân hàng cũng cho vay trong trường hợp khách hàng được bảo lãnh bởi bên thứ ba, các khoản cho vay dựa trên sự bảo lãnh của bên thứ ba được bảo đảm bằng khả năng tài chính và uy tín của bên thứ ba đối với ngân hàng.
* Căn cứ theo mục đích sử dụng vốn vay
Cho vay tiêu dùng: Là các khoản cho vay để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng như mua sắm các vận dụng đắt tiền: ti vi, xe máy..., cho vay để trang trải các chi phí thông thường trong đời sống hàng ngày.
Cho vay bất động sản: Là các khoản cho vay liên quan đến việc mua sắm và xây dựng nhà ở, bất động sản, đất đai, bất động sản trong lĩnh vực công nghiệp, thương mại và dịch vụ.
Cho vay xuất nhập khẩu: Trong hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá, dịch vụ thường phải có sự can thiệp của ngân hàng không những về mặt kỹ thuật mà còn về mặt tài chính. Cho vay xuất nhập khẩu là các khoản cho vay để đáp ứng nhu cầu vốn cho hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá, dịch vụ.
* Căn cứ vào đối tượng vay vốn
Cho vay cá nhân: Là các khoản cho vay đáp ứng nhu cầu của cá nhân. Nhóm đối tượng khách hàng cá nhân của ngân hàng bao gồm: cá nhân, hộ gia đình, chủ trạng trại, tổ hợp tác.
Cho vay doanh nghiệp: Là các khoản cho vay nhằm đáp ứng nhu cầu vốn trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
1.1.5. Các phương thức cho vay của NHTM
Trên cơ sở nhu cầu sử dụng của từng khoản vay vốn của khách hàng và khả năng kiểm tra giám sát việc khách hàng sử dụng vốn vay của ngân hàng, ngân hàng cùng với khách hàng có thể lựa chọn một trong các phương thức cho vay sau đây:
* Cho vay từng lần
Đây là phương thức cho vay được áp dụng đối với khách hàng không có nhu cầu vay thường xuyên, không có điều kiện để được cấp hạn mức thấu chi. Mỗi lần vay khách hàng làm đơn và lập phương án sử dụng vốn vay nộp ngân hàng. Các khoản vay này riêng biệt nhau theo các hồ sơ vay vốn khác nhau. Ngân hàng tiến hành phân tích khách hàng và ký hợp đồng cho vay, xác định quy mô cho vay, thời hạn giải ngân, thời hạn trả nợ, lãi suất và yêu cầu đảm bảo nếu cần.
Mức cho vay
=
Tổng nhu cầu vốn của phương án, dự án
-
Vốn tự có của khách hàng tham gia
-
Vốn khác (nếu có)
Theo phương thức này việc cho vay và thu nợ được phân định ranh giới một cách rõ ràng, dễ nhận biết được khi nào là cho vay khi nào là thu nợ và lãi suất có thể cố định hoặc thả nổi theo thời điểm tính lãi. Nhưng đây lại là phương thức gây không ít phiền hà cho khách hàng và cho cán bộ tín dụng vì thực tế có nhiều khó khăn trong quá trình kiểm soát sử dụng vốn vay của cán bộ tín dụng.
* Cho vay theo hạn mức tín dụng
Đây là phương thức áp dụng đối với khách hàng vay mượn thường xuyên, vốn vay tham gia thường xuyên vào quá trình sản xuất kinh doanh. Ngân hàng cùng với khách hàng xác định và thoả thuận một hạn mức tín dụng duy trì trong một khoảng thời gian nhất định. Mỗi lần vay, khách hàng chỉ cần trình bày phương án sử dụng tiền vay, nộp các chứng từ chứng minh đã mua hàng hoặc dịch vụ và nêu yêu cầu vay. Sau khi kiểm tra chứng từ ngân hàng sẽ phát tiền cho khách hàng.
Hạn mức tín dụng
=
Nhu cầu vốn lưu động trong kỳ
-
Vốn tự có của khách hàng tham gia
-
Vốn khác (nếu có)
Nhu cầu vốn lưu động trong kỳ
=
Doanh thu hoặc chi phí SXKD
Vòng quay vốn lưu động trong kỳ
Số vòng quay của vốn lưu động
=
Tổng doanh thu thuần
Vốn lưu động bình quân
Theo phương thức này ngân hàng không ấn định trước ngày trả nợ, khi khách hàng có thu nhập thì ngân hàng sẽ thu nợ, do đó tạo chủ động quản lý ngân quỹ cho khách hàng. Nhưng các lần vay không tách biệt thành các kì hạn nợ cụ thể nên ngân hàng khó kiểm soát hiệu quả sử dụng từng lần vay và ngân hàng gặp khó khăn trong việc kiểm soát rủi ro vì chỉ có thể phát hiện vấn đề khi khách hàng nộp báo cáo tài chính hoặc dư nợ lâu không giảm sút.
* Cho vay theo dự án đầu tư
Theo phương thức này, ngân hàng cho khách hàng vay vốn để thực hiện các dự án đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh dịch vụ và các dự án đầu tư phục vụ đời sống. Ngân hàng và khách hàng ký hợp đồng tín dụng và thoả thuận mức vốn đầu tư duy trì cho cả thời gian đầu tư của dự án, phân định các kỳ hạn trả nợ. Ngân hàng thực hiện giải ngân theo tiến độ thi công của dự án.
Mức cho vay
=
Tổng nhu cầu vốn của dự án
-
Vốn tự có của chủ dự án tham gia
-
Vốn khác (nếu có)
Thời hạn cho vay
=
Thời gian XDCB
+
Thời hạn trả nợ
Thời hạn trả nợ
=
Mức cho vay
Khấu hao cơ bản dùng để trả nợ + Lợi nhuận + Nguồn khác
* Cho vay hợp vốn
Cho vay hợp vốn là việc nhiều tổ chức tín dụng cùng cho vay một dự án của khách hàng. Cho vay hợp vốn thường xảy ra trong các trường hợp sau: khi nhu cầu xin vay của khách hàng vượt giới hạn cho vay của ngân hàng (15% vốn tự có), hoặc khi khả năng tài chính và nguồn vốn của một ngân hàng không đáp ứng được nhu cầu cho vay của một dự án, hoặc khi ngân hàng có nhu cầu phân tán rủi ro, hoặc khi bên nhận tài trợ có nhu cầu huy động vốn từ nhiều tổ chức tín dụng khác nhau.
* Cho vay trả góp
Cho vay trả góp được áp dụng đối với các khoản vay trung và dài hạn, tài trợ cho TSCĐ hoặc hàng lâu bền. Khi vay vốn, ngân hàng cùng với khách hàng xác định và thoả thuận số lãi vốn vay phải trả cộng với số nợ gốc được chia ra để trả nợ theo nhiều kỳ hạn trong thời hạn cho vay. Ngân hàng sẽ thanh toán cho người bán lẻ về số tiền mà khách hàng còn phải trả. Các cửa hàng bán lẻ sau khi nhận tiền từ phía ngân hàng sẽ làm đại lý thu tiền cho ngân hàng hoặc khách hàng trả trực tiếp cho ngân hàng.
Đây là phương thức cho vay nhằm khuyến khích tiêu thụ hàng hoá, nhưng đối với ngân hàng đây là phương thức cho vay có rủi ro cao do khách hàng thường thế chấp bằng hàng hoá mua trả góp và khả năng trả nợ phụ thuộc vào thu nhập đều đặn của người vay. Vì vậy lãi suất cho vay trả góp thường là lãi suất cao nhất trong khung lãi suất cho vay của ngân hàng.
* Cho vay thông qua nghiệp vụ phát hành và sử dụng thẻ tín dụng
NHTM nơi cho vay chấp thuận cho khách hàng sử dụng số vốn vay trong phạm vị hạn mức tín dụng để thanh toán tiền mua hàng hoá, dịch vụ và rút tiền mặt tại máy rút tiền tự động hoặc điểm ứng tiền mặt là đại lý của ngân hàng. Khi cho vay thông qua việc phát hành và sử dụng thẻ tín dụng, ngân hàng nơi cho vay và khách hàng phải tuân theo các quy định của Chính phủ và NHNN về phát hành và sử dụng thẻ tín dụng.
* Cho vay theo hạn mức thấu chi
Phương thức này áp dụng đối với khách hàng có nhu cầu vay theo hạn mức thấu chi, có thu nhập ổn định, có tín nhiệm với ngân hàng. Theo phương thức này khách hàng phải mở tài khoản thấu chi tại ngân hàng, phải có cam kết chuyển thu nhập của mình vào tài khoản thấu chi và hoàn toàn chịu trách nhiệm về nội dung và tính hợp pháp của khoản chi của khách hàng trên tài khoản thấu chi.
1.1.6. Quy trình cho vay của NHTM
Quy trình cho vay được bắt đầu từ khi cán bộ tín dụng tiếp cận hồ sơ khách hàng và kết thúc khi kế toán viên tất toán thanh lý hợp đồng tín dụng. Quy trình cho vay của NHTM gồm các bước sau:
Bước1: Cán bộ tín dụng được phân công giao dịch với khách hàng có trách nhiệm hướng dẫn khách hàng lập và gửi hồ sơ vay vốn. Bao gồm: hồ sơ pháp lý, hồ sơ kinh tế và hồ sơ vay vốn.
Sau khi nhận được hồ sơ hợp pháp, hợp lệ do khách hàng gửi đến, cán bộ tín dụng tiến hành thẩm định các điều kiện vay vốn (thẩm định cho vay). Thẩm định cho vay là nội dung quan trọng nhất trong quy trình cho vay, đó chính là việc thẩm định các điều kiện vay vốn. Tuỳ theo loại hình khách hàng, loại cho vay, phương thức cho vay, quy mô dự án, đối tượng cho vay để có nội dung thẩm định thích hợp. Nội dung cơ bản của thẩm định gồm các nội dung sau:
Thẩm định năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự
Thẩm định khả năng tài chính ( Sức khỏe của khách hàng)
Thẩm định mục đích vay vốn
Thẩm định phương án, dự án vay vốn
Thẩm định tài sản là bảo đảm nợ
Bước 2: Trưởng phòng tín dụng hoặc tổ trưởng tín dụng có trách nhiệm kiểm tra tính hợp lệ, hợp pháp của hồ sơ và báo cáo thẩm định do cán bộ tín dụng lập, tiến hành xem xét, tái thẩm định (nếu cần thiết) hoặc trực tiếp thẩm định trong trường hợp kiêm làm cán bộ tín dụng, ghi ý kiến vào báo cáo thẩm định, tái thẩm định (nếu có) và trình giám đốc quyết định.
Bước 3: Giám đốc ngân hàng nơi cho vay căn cứ báo cáo thẩm định, tái thẩm định (nếu có) do phòng tín dụng trình, quyết định cho vay hoặc không cho vay.
Bước 4: Hồ sơ khoản vay được giám đốc ký duyệt cho vay được chuyển giao cho kế toán thực hiện nghiệp vụ hạch toán kế toán, thanh toán, chuyển thủ quỹ để giải ngân cho khách hàng (nếu cho vay bằng tiền mặt).
Bước 5: Sau khi cho vay, cán bộ tín dụng tiến hành kiểm tra sử dụng vốn vay như quy định.
1.1.7. Điều kiện vay vốn của NHTM
Theo quy định của thống đốc NHNN Việt Nam, khách hàng vay vốn ngân hàng phải có 5 điều kiện sau đây:
- Có năng lực pháp luật dân sự: Năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân được phát sinh từ thời điểm được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền thành lập hoặc cho phép thành lập. Nếu pháp nhân phải đăng ký hoạt động, thì năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân phát sinh ở thời điểm đăng ký.
- Mục đích sử dụng vốn vay hợp pháp
- Có khả năng tài chính đảm bảo trả nợ trong thời hạn cam kết
- Có dự án đầu tư, phương án sản xuất, kinh doanh, dịch vụ khả thi và có hiệu quả; hoặc có dự án đầu tư, phương án phục vụ đời sống khả thi.
- Thực hiện các quy định về bảo đảm tiền vay theo quy định của Chính phủ, NHNN Việt Nam.
1.1.7. Bảo đảm tiền vay
Khi thẩm định các điều kiện vay vốn có một điều kiện rất quan trọng là khách hàng phải thực hiện bảo đảm tiền vay theo quy định của Chính Phủ và NHNN. Theo quy định tại nghị định 178/1999/NĐ-CP và thông tư 06/2000/TT-NHNN1về bảo đảm tiền vay có các hình thức sau:
Thứ nhất: Bảo đảm tiền vay bằng tài sản có ba hình thức
- Cầm cố, thế chấp bằng tài sản của khách hàng vay: Tài sản thế chấp, cầm cố phải thuộc quyền sở hữu, quyền sử dụng của khách hàng, đối với doanh nghiệp Nhà nước phải xác định được quyền quản lý, sử dụng của doanh nghiệp, tài sản phải dễ phát mại.
- Bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ ba: Bên bảo lãnh phải có các điều kiện sau đây: (có năng lực pháp luật dân sự đối với các pháp nhân), có khả năng về vốn, tài sản để thực hiện được nghĩa vụ bảo lãnh.
Đối với các doanh nghiệp nhà nước có thể thực hiện bảo lãnh bằng tài sản nhưng không phải thực hiện thế chấp, cầm cố tài sản.
- Bảo đảm bằng tài sản hình thành từ vốn vay: Khách hàng phải có tín nhiệm với ngân hàng, có mức vốn tự có tham gia tối thiểu theo quy định, có dự án đầu tư hoặc phương án SXKD có hiệu quả, có khả năng trả nợ trong thời hạn cam kết.
Thứ hai: Bảo đảm tiền vay trong trường hợp không có bảo đảm bằng tài sản.
Khách hàng được vay vốn của ngân hàng mà không cần tài sản bảo đảm thì thường khách hàng phải có uy tín đối với ngân hàng, kinh doanh có lãi hai năm liền kề với thời điểm xem xét cho vay, có dự án hoặc phương án sản xuất kinh doanh có hiệu quả, có khả năng trả nợ trong thời hạn cam kết, có cam kết thực hiện biện pháp bảo đảm bằng tài sản nếu sử dụng vốn vay không đúng cam kết trong hợp đồng tín dụng.
1.2. Cho vay đối với doanh nghiệp của NHTM
1.2.1. Sự khác nhau trong hoạt động cho vay đối với khách hàng cá nhân và khách hàng doanh nghiệp của NHTM
Để phân biệt được hai nhóm khách hàng này ta cần khẳng định sự phân biệt rõ ràng giữa chúng là không thể thực hiện được. Sự phân biệt này chỉ mang tính tương đối và ranh giới giữa hai nhóm khách hàng này cũng không rõ ràng đối với ngân hàng. Tuy nhiên, giữa hai nhóm đối tượng này có một số điểm khác nhau cơ bản sau:
* Đặc trưng về khoản vay
Các khoản vay đối với khách hàng cá nhân thường là các khoản vay có giá trị nhỏ, nhưng số lượng khoản vay là rất lớn. Chính vì số lượng lớn khách hàng cũng như số lượng khoản vay là rất lớn nên tính nhạy cảm của nhóm khách hàng này là rất cao, đòi hỏi ngân hàng phải có những chiến lược marketing riêng biệt, cụ thể, mang lại sự gần gũi, tin tưởng và yên tâm cho khách hàng đến ngân hàng xin vay vốn.
Đối với các doanh nghiệp, do đặc thù riêng có của doanh nghiệp mà các NHTM phải tổ chức các phòng tín dụng chuyên trách phục vụ. Nhóm khách hàng này thường có nhu cầu vốn với số lượng lớn và có thể là rất lớn, tuy nhiên số lượng khách hàng loại này của mỗi NHTM thường không lớn. Vì vậy, các NHTM cần đặc biệt chú ý quan tâm đến từng khách hàng cụ thể, từ đó xây dựng tốt mối quan hệ tín dụng lâu dài đồng thời mở rộng các mối quan hệ với doanh nghiệp mới.
* Chất lượng khoản vay
Đối với khách hàng cá nhân, chất lượng khoản vay thường khá tốt. Cho vay đối với nhóm khách hàng cá nhân giúp ngân hàng phân tán được rủi ro thông qua việc cho vay được nhiều món vay đối với nhiều khách hàng. Tuy nhiên, các khoản vay đối với khách hàng cá nhân chỉ có chất lượng tốt khi không có những biến cố từ khách hàng. Đồng thời các khoản vay thường bị ngân hàng xem xét là có tính rủi ro cao nên nó được áp dụng mức lãi suất cao nhất trong bảng lãi suất cho vay áp dụng đối với khoản vay trong các NHTM.
Đối với khách hàng doanh nghiệp, mỗi khoản vay đều đòi hỏi một quy trìmh nghiêm ngặt vì giá trị của mỗi khoản vay này rất lớn. Bất kỳ một sự sai sót nào trong khâu thẩm định có thể dẫn đến hậu quả xấu cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Vì vậy, khoản vay sẽ có chất lượng tốt khi ngân hàng làm tốt công tác thẩm định trước khi cho vay. Ngoài ra, yếu tố kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp cũng ảnh hưởng tới chất lượng khoản vay.
* Thời hạn cho vay
Đối với khách hàng cá nhân thời hạn vay chủ yếu là ngắn hạn, một phần là trung hạn và rất nhỏ là dài hạn. Các cá nhân đến xin vay ngân hàng các khoản để đáp ứng tức thời các nhu cầu của họ mà hiện tại họ chưa đủ khả năng chi trả nhưng họ hoàn toàn đủ khả năng chi trả trong một khoảng thời gian ngắn hoặc trung hạn.
Thời hạn cho vay đối với doanh nghiệp thường ngắn hạn nhằm tài trợ cho nhu cầu về tài sản lưu động và thời hạn này thường có tính ổn định cao (thường là mỗi chu kỳ sản xuất kinh doanh).
1.2.2. Vai trò của hoạt động cho vay của NHTM đối với doanh nghiệp
Các nhu cầu vốn trong kinh doanh của doanh nghiệp chủ yếu là do sự chênh lệch thời gian giữa chi phí và thu nhập kinh doanh. Thật vậy, giữa thời điểm mua nguyên vật liệu và thời điểm bán sản phẩm có một thời hạn thay đổi tuỳ thuộc vào độ dài của hoạt động chế biến và lưu kho của doanh nghiệp. Ngoài ra, việc bán hàng thường kèm theo thời hạn thanh toán tiền hàng. Do vậy, các doanh nghiệp phải có nguồn ngân quỹ thoả đáng để đáp ứng đầy đủ kịp thời các nhu cầu kinh doanh. Thực tế các doanh nghiệp thường không đủ vốn để bù đắp mọi khoản sử dụng trong kinh doanh, mặc dù các doanh nghiệp cũng được người cung cấp của họ dành cho một thời hạn trả chậm khi mua hàng thì các doanh nghiệp vẫn không đủ ngân quỹ để đáp ứng mọi nhu cầu chi tiêu đó. Vì vậy, các doanh nghiệp thường phải xin vay vốn ngân hàng để đảm bảo cân bằng ngân quỹ, đáp ứng nhu cầu chi tiêu của mình. Do đó, có thể khẳng định nguồn vốn cho vay của NHTM góp phần hình thành thị trường tài chính đáp ứng nhu cầu vốn cơ bản cho sản xuất, chế biến lưu thông hàng hoá của doanh nghiệp. Vai trò này của NHTM đối với các doanh nghiệp thể hiện trên các mặt sau:
Thứ nhất, cho vay của NHTM góp phần hình thành cơ cấu vốn tối ưu cho doanh nghiệp: Để thực hiện các quyết định đầu tư, các chủ doanh nghiệp thường thích sử dụng vốn vay thông qua việc vay vốn chủ doanh nghiệp vẫn nắm chắc quyền kiểm soát doanh nghiệp, hơn nữa các doanh nghiệp có thể thu được lợi nhuận từ tiền vay lớn hơn lãi phải trả làm cho lợi nhuận của doanh nghiệp gia tăng đáng kể. Ngoài ra, doanh nghiệp lại được hưởng một khoản tiết kiệm nhờ lãi vì lãi tiền vay được tính vào chi phí hợp lý khi tính thuế thu nhập doanh nghiệp.
Thứ hai, cho vay của NHTM đáp ứng phần lớn nhu cầu vốn lưu động phục vụ sản xuất kinh doanh của doang nghiệp: Để tồn tại và phát triển trong cơ chế thị trường đặc biệt trong thời đại khoa học kỹ thuật phát triển, các doanh nghiệp phải đáp ứng được yêu cầu đổi mới, tức là phải thường xuyên nâng cao trình độ của mình kể cả kiến thức xã hội, khả năng áp dụng quy trình, công nghệ kỹ thuật mới trong quá trình sản xuất kinh doanh, chấp nhận sự cạnh tranh trong sản xuất kinh doanh để đem lại hiệu quả kinh tế cao. Đây là một đòi hỏi tất yếu đối với các doanh nghiêp, các doanh nghiệp cần phải có một nguồn vốn đủ để đáp ứng những đòi hỏi đó, mà nguồn vốn tự có của doanh nghiệp thường không đủ cho những đòi hỏi này, vì vậy các doanh nghiệp phải đi vay mà chủ yếu là vay của NHTM.
Thứ ba, hoạt động cho vay đối với doanh nghiệp của NHTM góp phần thúc đẩy doanh nghiệp sử dụng vốn hiệu quả hơn: Nguồn vốn cho vay của ngân hàng đối với doanh nghiệp tuân thủ một cơ chế cho vay chung là cho vay đảm bảo thu hồi cả gốc, lãi đầy đủ, đúng hạn, vốn vay phải đem lại hiệu quả kinh tế. Điểm này bắt buộc các doanh nghiệp phải suy nghĩ: Sản xuất kinh doanh cái gì? Như thế nào? Bán đi đâu? Hạch toán kinh tế ra sao? để tiết kiệm cho phí đầu vào, nâng cao chất lượng sản phẩm và thu được phần lãi cao nhất. Hơn nữa, trong quá trình cho vay NHTM vẫn có quyền kiểm tra, giám sát hoạt động sử dụng vốn của doanh nghiệp đồng thời đôn đốc các doanh nghiệp vay vốn trả nợ đúng hạn, do vậy đồng vốn của doanh nghiệp được sử dụng hiệu quả hơn. Như vậy, hoạt động cho vay của NHTM đã thúc đẩy doanh nghiệp sử dụng vốn hiệ._.u quả hơn.
1.2.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động cho vay đối với doanh nghiệp của NHTM
1.2.3.1. Các nhân tố thuộc về ngân hàng
* Chính sách tín dụng đối với doanh nghiệp của ngân hàng
Chính sách tín dụng của ngân hàng đối với doanh nghiệp là sự thể hiện việc cung cấp tiền vay của ngân hàng cho doanh nghiệp, chính sách tín dụng được đưa ra làm nền tảng chỉ đạo hoạt động cho vay đi đúng hướng, đảm bảo an và toàn lành mạnh. Chính sách tính dụng bao gồm các vấn đề về quy mô các khoản vay, hình thức cho vay, kỳ hạn vay, đảm bảo và lãi suất cho vay. Trong hoạt động cho vay đối với doanh nghiệp ngân hàng muốn mở rộng quy mô cho vay thì chính sách tín dụng của ngân hàng đối với doanh nghiệp không những phải đảm bảo đúng đường lối chính sách, tuân thủ pháp luật mà còn phải cởi mở, thông thoáng, đúng đắn, phù hợp với doanh nghiệp, phù hợp với thực tiễn. Bất cứ NHTM nào muốn đẩy mạnh hoạt động cho vay đối với doanh nghiêp đều phải có chính sách tín dụng thích hợp với ngân hàng mình và phù hợp với tình hình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
* Quy trình cho vay
Quy trình cho vay là quy trình bắt buộc thực hiện trọng quá trình thẩm định cho vay, giám sát các khoản vay, thu nợ nhằm đảm bảo an toàn vốn. Quy trình cho vay được cụ thể hoá thành các quy định cho vay bắt buộc, mọi khoản vay phải thực hiện chặt chẽ theo đúng các quy định này. Quy trình cho vay của ngân hàng chặt chẽ thì chất lượng khoản vay được đảm bảo nhưng có thể sẽ ảnh hưởng đến số lượng các khoản vay vì quy trình cho vay chặt chẽ thường có sự rườm rà, phức tạp, nhiều thủ tục, vì thế có thể gây trở ngại cho các doanh nghiệp đến vay vốn ngân hàng. Một ngân hàng với quy trình cho vay đơn giản, gọn nhẹ, ít thủ tục sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp đến vay vốn ngân hàng nhiều hơn. Vì vậy, vấn đề đặt ra cho các ngân hàng trong việc đẩy mạnh hoạt động cho vay đối với doanh nghiệp là ngân hàng phải tạo lập được một quy trình cho vay đơn giản, loại bỏ bớt các thủ tục không cần thiết nhưng vẫn đảm bảo chất lượng khoản vay.
* Chất lượng cán bộ tín dụng
Năng lực, trình độ cán bộ tín dụng thể hiện ở trình độ học vấn, kinh nghiệm nghề nghiệp và đạo đức nghề nghiệp của bản thân họ. Việc quyết định cho vay đúng đắn hoặc sai sót của cán bộ tín dụng có ảnh hưởng lớn đến việc đẩy mạnh hoạt động cho vay đối với doanh nghiệp. Nếu ngân hàng có đội ngũ cán bộ tín dụng đầy đủ năng lực, trình độ, đạo đức nghề nghiệp thì trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng nói chung và trong việc đẩy mạnh hoạt động cho vay đối với các doanh nghiêp nói riêng sẽ có nhiều thuận lợi và thu được kết quả cao. Ngược lại, cán bộ tín dụng quan liêu, xét duyệt cho vay không vô tư, thiếu hiểu biết pháp luật, thậm chí thoái hoá biến chất, báo cáo sai sự thật với cấp trên, đề xuất cho vay sai lầm, không chung thực sẽ gây ảnh hưởng lớn đến hoạt động cho vay và rất dễ để lại một hình ảnh xấu về ngân hàng mình trong các doanh nghiệp và như vậy sẽ hạn chế việc các doanh nghiệp đến ngân hàng vay vốn.
Hơn nữa, nếu cán bộ cho vay không có trình độ sẽ không phân tích được kinh tế tài chính, tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và sẽ gặp phải những sai lầm trong các quyết định cho vay. Vì vậy, hiện nay các ngân hàng rất coi trọng khâu tổ chức đề bạt, đào tạo và đào tạo lại cán bộ, tuyển dụng đúng đắn trình độ cán bộ trên các mặt: kiến thức kinh tế - xã hội, kiến thức phân tích tài chính, kiến thức pháp luật, kiến thức tin học, công nghệ hiện đại.
* Hoạt động thu thập phân tích thông tin của ngân hàng
Đây là hoạt động có vai trò quan trọng trong việc giảm thấp rủi ro trong hoạt động cho vay của ngân hàng. Nhờ có thông tin người quản lý có thể đưa ra quyết định đúng đắn hoặc sai lầm, vì thế sẽ liên quan trực tiếp đến chất lượng các khoản vay. Chẳng hạn một ngân hàng chọn nhầm thông tin không đánh giá đích thực khả năng tài chính của doanh nghiệp, tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp có thể yếu kém thua lỗ mà ngân hàng không biết do vậy sẽ gây ảnh hưởng đến việc thu hồi nợ. Mặt khác, khách hàng cũng có htể cung cấp thông tin không đầy đủ, sai sự thật cho ngân hàng. Cả hai trường hợp trên đều dẫn đến rủi ro trong hoạt động cho vay của ngân hàng. Vậy việc tổng hợp, phân tích thông tin về doanh nghiệp để xác định doanh nghiệp tiềm năng, doanh nghiệp có triển vọng tốt, loại trừ doanh nghiệp xấu là một yêu cầu quan trọng đối với mọi ngân hàng.
1.2.3.2. Các nhân tố thuộc về doanh nghiệp
Để đánh giá tầm vóc hoạt động cho vay đối với doanh nghiệp của một ngân hàng có thể dựa trên nhiều tiêu thức khác nhau, song yếu tố thuộc về doanh nghiệp là yếu tố chủ yếu phản ánh bức tranh hoạt động của một NHTM, đặc biệt chất lượng và số lượng doanh nghiệp đến vay vốn ngân hàng. Chất lượng ra sao, quy mô thế nào luôn là mối quan tâm của những nhà quản lý kinh doanh trên lĩnh vực ngân hàng. Chính vì vậy các NHTM thường xuyên “sàng lọc” doanh nghiệp để đạt mục tiêu lựa chọn những doanh nghiệp là khách hàng có triển vọng, loại trừ những doanh nghiệp xấu ra khỏi hệ thống khách hàng vốn có. Thực tế hoạt động kinh doanh đã chỉ rõ: hoạt động cho vay của ngân hàng đối với doanh nghiệp không thể tốt được nếu như không có một hệ thống khách hàng doanh nghiệp tốt. Đúng vậy, doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả, có uy tín, khả năng trả nợ cho ngân hàng là cao, vì vậy nhu cầu vay vốn chính đáng của họ sẽ được ngân hàng chấp nhận cho vay. Ngược lại, doanh nghiệp làm ăn không hiệu quả, uy tín thấp, khả năng tài chính không đảm bảo sẽ tiềm ẩn nhiều rủi ro cho ngân hàng và khi rủi ro ấy xảy ra sẽ gây thiệt hại cho ngân hàng. Như vậy, hoạt động cho vay đối với doanh nghiệp của NHTM có chịu ảnh hưởng bởi những nhân tố thuộc về doanh nghiệp, các nhân tố đó là:
* Năng lực tài chính của doanh nghiệp, uy tín của doanh nghiệp đối với ngân hàng
Năng lực tài chính của doanh nghiệp thể hiện ở mức vốn tự có của doanh nghiệp tham gia vào dự án sản xuất kinh doanh, tài sản thế chấp, tài sản đảm bảo. Năng lực tài chính của doanh nghiệp cao, lành mạnh thì khả năng trả nợ ngân hàng được đảm bảo. Uy tín của doanh nghiệp đối với ngân hàng thể hiện ở kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp được ngân hàng ghi nhận là tốt, có hiệu quả, được ngân hàng xếp vào nhóm khách hàng tốt. Những doanh nghiệp có uy tín với ngân hàng thì khả năng được vay vốn ngân hàng là cao và thuận lợi.
* Đặc điểm của dự án vay vốn
Dự án vay vốn có khả năng thực thi cao, có khả năng tạo lợi nhuận lớn, ít rủi ro thì khả năng trả nợ ngân hàng của doanh nghiệp được đảm bảo, do đó ngân hàng sẵn sàng cho doanh nghiệp vay để đầu tư những dựa án như vậy. Hơn nữa, doanh nghiệp sử dụng tiền vay đúng đối tượng, đúng mục đích thì mới có giá trị thực tiễn đem lại hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội và việc thu nợ gốc và lãi vay sẽ khả thi. Như vậy, đặc điểm của dự án vay vốn, tính hiệu quả của dự án vay vốn, thời gian thu hồi vốn của dự án sẽ ảnh hưởng đến hoạt động cho vay đối với doanh nghiệp của ngân hàng.
1.2.3.3. Các yếu tố thuộc về môi trường bên ngoài:
* Điều kiện tự nhiên, tình hình kinh tế - xã hội
Điều kiện tự nhiên có ảnh hưởng đến hoạt động cho vay của ngân hàng. Nếu điều kiện tự nhiên thuận lợi, ít bị thiên tai sẽ tác động tích cực tới hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp và ngân hàng. Giao thông đi lại cũng ảnh hưởng đến hoạt động cho vay đối với doanh nghiệp của ngân hàng. Thật vậy, nếu ngân hàng nằm trên tuyến đường giao thông thuận lợi cho việc đi lại đối với các doanh nghiệp thì sẽ thu hút được nhiều doanh nghiệp đến giao dịch hơn so với những ngân hàng mà việc đi đến giao dịch với ngân hàng gặp khó khăn, trắc trở, bất lợi.
Tình hình xã hội cũng có ảnh hưởng đến hoạt động cho vay của ngân hàng. Một xã hội ổn định, an ninh trật tự được giữ vững là môi trường tốt để các doanh nghiệp cũng như các NHTM ổn định hoạt động kinh doanh của mình. Từ đó việc đẩy mạnh hoạt động cho vay đối với doanh nghiệp sẽ an toàn và thuận lợi hơn.
Nền kinh tế cũng ảnh hưởng đến hoạt động cho vay của ngân hàng đối với doanh nghiệp. Môi trường kinh tế lành mạnh tạo điều kiện cho ngân hàng phát triển tốt và ngược lại. Môi trường kinh tế tác động đến hoạt động cho vay thể hiện trên các mặt như: Thứ nhất là trình độ phát triển của nền kinh tế, một nền kinh tế của một quốc gia đạt đến trình độ phát triển cao hoặc trung bình, lạc hậu nó sẽ thể hiện rõ môi trường cho vay của các NHTM có hệ thống ổn định hay là manh mún, nhỏ lẻ. Thứ hai là tính tăng trưởng của nền kinh tế, nền kinh tế tăng trưởng ổn định thể hiện môi trường kinh tế lý tưởng trong hoạt động kinh doanh ngân hàng. Song, trong thực tế nền kinh tế thị trường luôn có bước phát triển đặc thù của nó vì vậy trong mỗi giai đoạn, hiệu quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng phải đối mặt với những thách thức như: nếu giai đoạn nền kinh tế hưng thịnh hoặc kinh tế phục hồi thì hoạt động ngân hàng diễn ra thuận lợi, ngược lại trong giai đoạn suy thoái, khủng hoảng lạm phát, giảm phát diễn ra sẽ khó có thể tránh khỏi những rủi ro trong hoạt động cho vay đối với doanh nghiệp của ngân hàng vì cả doanh nghiệp và ngân hàng đều gặp phải những khó khăn.
* Chính sách của Đảng và hệ thống pháp luật của Nhà nước đối với doanh nghiệp và ngân hàng
Đây là yếu tố rất quan trọng bởi vì sự can thiệp của Đảng và Nhà nước đối với nền kinh tế là một tác nhân thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển nền kinh tế, từ đó ảnh hưởng đến hoạt động cho vay của ngân hàng đối với các chủ thể trong nền kinh tế nói chung và đối với các doanh nghiệp nói riêng. Sự điều tiết của Nhà nước đối với nền kinh tế bằng những công cụ pháp luật để làm cơ sở, hành lang pháp lý cho nền kinh tế phát triển lành mạnh. Có thể nói rằng một hệ thống pháp luật tốt, thông thoáng sẽ bảo vệ lợi ích chính đáng của doanh nghiệp nói chung và ngân hàng nói riêng, ngăn chặn được những tiêu cực xảy ra trong xã hội như tham nhũng, buôn lậu, hụi họ, số đề, cờ bạc..., và sẽ khuyến khích được sự phát triển của các doanh nghiệp và ngân hàng. Từ đó việc đẩy mạnh hoạt động cho vay đối với doanh nghiệp của ngân hàng.
Trong hoạt động kinh doanh ngân hàng các quan hệ pháp luật của NHTM với các pháp nhân, thể nhân rất phong phú, đa dạng, phức tạp. Vì vậy hoạt động cho vay của ngân hàng đối với các doanh nghiệp chịu tác động mạnh mẽ của hệ thống pháp luật hiện hành đặc biệt là các văn bản pháp lý liên quan đến hoạt động ngân hàng.
Chương II: Thực trạng hoạt động cho vay đối với doanh nghiệp tại chi nhánh NHNo&PTNT Hà Tây
2.1. Khái quát về điều kiện tự nhiên, tình hình kinh tế - xã hội và các doanh nghiệp ở Hà Tây
2.1.1. Điều kiện tự nhiên của Hà Tây
Hà Tây với diện tích 2192 km2, liền kề và bao quanh thủ đô Hà Nội về phía tây và phía tây nam. Phía đông của Hà Tây là tỉnh Hưng Yên. Phía bắc, tây bắc giáp các tỉnh Vĩnh Phúc, Phú Thọ. Phía tây giáp với tỉnh Hoà Bình. Phía nam là tỉnh Hà Nam. Tỉnh Hà Tây ở về phía tây của vùng đồng bằng Bắc Bộ. Hà Tây nằm cạnh khu kinh tế tam giác Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh - hạt nhân kinh tế miền Bắc. Đó chính là môi trường thuận lợi để tạo đà thúc đẩy kinh tế Hà Tây phát triển.
Hà Tây được sông Đà, sông Hồng bao quanh địa bàn tỉnh từ phía tây bắc xuống phía đông nam. Ngoài ra trên địa bàn tỉnh có những sông lớn như sông Đáy, sông Nhuệ, sông Tích và một số đầm hồ lớn. Hệ thống sông ngòi cung cấp nước tưới phục vụ sản xuất nông nghiệp, vừa có giá trị tiềm năng nuôi trồng thuỷ sản và du lịch…Ngoài ra, Hà Tây còn là một tỉnh có nhiều di tích lịch sử, nhiều cảnh quan đẹp tạo nên nhiều điểm du lịch nổi tiếng, đóng góp rất nhiều vào sự phát triển kinh tế của tỉnh nhà.
Với những điều kiện tự nhiên như trên, Tỉnh đã thu hút được nhiều nguồn vốn, nhiều các nhà đầu tư đầu tư và hình thành nhiều doanh nghiệp.
2.1.2. Tình hình kinh tế - xã hội của Hà Tây
Hà Tây là một tỉnh nông nghiệp, có hơn 80% dân số là nông dân. Hà Tây có vùng nông thôn rộng lớn, đất đai chứa đựng những tiềm năng kinh tế đa dạng. Thế mạnh của Tỉnh là phát triển nông nghiệp, cây công nghiệp, cây ăn quả, chăn nuôi và phát triển tiểu thủ công nghiệp, với 1141 làng nghề truyền thống. Đây là môi trường thuận lợi để NHNo&PTNT huy động vốn, đầu tư tín dụng, giúp các thành phần kinh tế và hộ nông dân phát triển sản xuất kinh doanh, góp phần xây dựng nông thôn Hà Tây ngày một giàu mạnh, văn minh tiến bộ.
Bên cạnh đó, trên địa bàn tỉnh nhiều khu công nghiệp, cụm điểm công nghiệp đã hình thành và đang phát triển, thu hút nhiều doanh nghiệp đầu tư sản xuất kinh doanh, tạo thêm viẹc làm cho hàng vạn người lao động.
Trên địa bàn tỉnh có 8 đơn vị hoạt động kinh doanh tiền tệ - tín dụng và dịch vụ ngân hàng, bao gồm: NHNo&PTNT, NH Đầu tư và phát triển, NH Công thương, NH Chính sách xã hội, NH Phát triển Nhà Đồng Bằng sông Cửu Long, NH cổ phần quốc tế, hệ thống 74 quỹ Tín dụng nhân dân và 1 quỹ Tín dụng TW. Đây là những đối thủ cạnh tranh của NHNo&PTNT Hà Tây. Theo quy định của NHNN Việt Nam thì một khách hàng có thể có quan hệ với nhiều tổ chức tín dụng, do vậỵ để đứng vững được trên thị trường thì NHTM nói chung và NHNo&PTNT Hà Tây nói riêng phải hết sức cố gắng trong mọi hoạt động kinh doanh của mình.
Ý thức được những thuận lợi và khó khăn trên, để phát triển kinh doanh có hiệu quả trong môi trường cạnh tranh theo cơ chế thị trường, trong những năm qua NHNo&PTNT Hà Tây đã nhận thức đầy đủ định hướng kinh doanh của NHNo&PTNT Việt Nam và thường xuyên bám sát mục tiêu phát triển kinh tế của Tỉnh, đề ra nhiều giải pháp kinh doanh phù hợp và đã đạt được nhiều thành công như ngày hôm nay.
2.1.3. Khái quát về các doanh nghiệp ở Hà Tây
* Doanh nghiệp nhà nước
Tính đến 31/12/2006 toàn tỉnh Hà Tây có 82 DNNN, trong đó có 26 doanh nghiệp đang có quan hệ vay vốn NHNo&PTNT Hà Tây, giảm so với đầu năm là 6 doanh nghiệp, tỷ trọng DNNN có quan hệ tín dụng với NHNo&PTNT là 31,7% so với tổng DNNN có trên địa bàn. Số lượng DNNN trên địa bàn tỉnh ngày càng giảm (năm 2004 toàn tỉnh có 95 DNNN) do quá trình sắp xếp lại doanh nghiệp và quá trình cổ phần hoá các DNNN chuyển sang công ty cổ phần. Hiện tại các DNNN hầu như đang trong tình trạng khó khăn, sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả thấp, thua lỗ. Tình trạng này đã gây khó khăn cho việc thu hồi nợ của ngân hàng đối với những doanh nghiệp đã có quan hệ vay vốn của ngân hàng. Ví dụ như: Công ty Xây dựng công trình giao thông số 116 hiện tại nợ NHNo&PTNT Hà Tây 34.176 triệu đồng, Công ty Xuất nhập khẩu may thêu Hưng Thịnh hiện tại nợ 33.346 triệu đồng.
Trước tình trạng hoạt động kinh doanh của khối các DNNN làm ăn gặp khó khăn như vậy NHNo&PTNT Hà Tây vẫn giữ mối quan hệ tốt với các doanh nghiệp này để có thể thu hồi được nợ và giữ chân họ bởi vì trong tương lai các DNNN sẽ cổ phần hoá chuyển sang công ty cổ phần hạch toán độc lập, làm ăn có hiệu quả hơn.
* Doanh nghiệp ngoài quốc doanh
Số lượng các DNNQD trên địa bàn tỉnh ngày càng nhiều, năm 2005 toàn tỉnh có 2164 doanh nghiệp, đến 31/12/2006 đã có tới 3200 doanh nghiệp và chủ yếu là doanh nghiệp nhỏ và vừa. Trong số 3200 doanh nghiệp thuộc khối DNNQD, hiện có 750 doanh nghiệp có quan hệ vay vốn NHNo&PTNT Hà Tây. Đây là thành phần kinh tế đang phát triển mạnh, có vai trò quan trọng đối với Hà Tây vì nó đã có đóng góp lớn vào quá trình phát triển kinh tế của tỉnh nhà. Nhưng ở Hà Tây, khối doanh nghiệp này đa số được hình thành chủ yếu là từ kinh tế hộ gia đình và cá nhân phát triển lên, do vậy trình độ quản lý doanh nghiệp còn nhiều hạn chế, quy mô sản xuất nhỏ, vốn tự có thấp, sức cạnh tranh yếu do công nghệ sản xuất còn lạc hậu, sổ sách kế toán chưa kịp thời, trong hoạt động sản xuất kinh doanh các vẫn chưa có những dự án, phương án phát triển vững chắc, lâu bền.
Chính những hạn chế trên mà trong thời gian qua hoạt động cho vay của NHNo&PTNT Hà Tây đối với khối các doanh nghiệp này gặp phải nhiều khó khăn vì những hạn chế đó đã làm ảnh hưởng đến việc kiểm tra, kiểm soát của ngân hàng đối với các doanh nghiệp. Do đó, việc nghiên cứu mở rộng hoạt động đầu tư cho vay của Nhno&PTNT Hà Tây đối với khối doanh nghiệp này đã bị hạn chế rất nhiều. Vì vậy, để thúc đẩy sự phát triển và nâng cao năng lực cho khối doanh nghiệp này NHNo&PTNT Hà Tây cần phải đẩy mạnh hoạt động cho vay đối với các đối tượng doanh nghiệp này trên cơ sở nắm bắt được hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp để có những biện pháp thích hợp trong hoạt động cho vay.
2.2. Tình hình hoạt động kinh doanh của NHNo&PTNT Hà tây
2.2.1. Hoạt động huy dộng vốn
Huy động vốn là một trong những hoạt động chủ yếu và quan trọng nhất của NHTM nói chung và NHNo&PTNT Hà Tây nói riêng. Hoạt động này mang lại nguồn vốn để ngân hàng có thể thực hiện các hoạt động khác của mình. Hoạt động huy động vốn tuy không mang lại lợi nhuận trực tiếp cho ngân hàng nhưng nó lại là một hoạt động rất quan trọng, không có hoạt động này xem như không có các hoạt động khác của NHTM.
Với phương châm chủ động khai thác nguồn vốn nội tỉnh để chủ động mở rộng cho vay cân đối tại chỗ, NHNo&PTNT Hà Tây trong thời gian qua đã chú trọng đến công tác huy động các loại vốn ngắn hạn, dài hạn để chủ động mở rộng cho vay trung và dài hạn, đáp ứng nhu cầu cho vay có hiệu quả trên địa bàn đồng thời hỗ trợ vốn cho toàn ngành. Tình hình huy động vốn của NHNo&PTNT Hà Tây trong những năm gần đây được thể hiện thông qua bảng số liệu và biểu đồ sau:
Bảng 1: Cơ cấu nguồn vốn phân theo tính chất nguồn vốn huy động
Đơn vị: Triệu đồng
Chỉ tiêu
2004
2005
2006
1. Tiền gửi dân cư
2.231.129
2.962.660
3.858.323
2. Tiền gửi TCKT-XH
511.949
634.907
695.603.
3. Tiền gửi TCTD
360.214
239.522
25.310
4. Tiền gửi uỷ thác đầu tư
821.500
930.200
1.100.369
5. Tổng nguồn vốn
3.924.792
4.767.289
5.679.688
6. Tốc độ tăng trưởng tổng nguồn vốn
17,22%
21,5%
19,2%
(Nguồn: Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh năm 2004, 2005, 2006)
Số liệu ở bảng trên được thể hiện trong biểu đồ sau:
Biểu đồ 1: Biểu đồ cơ cấu nguồn vốn theo nguồn huy động
Dựa vào bảng số liệu và biểu đồ trên ta thấy: Nguồn vốn huy động của chi nhánh NHNo&PTNT Hà Tây trong những năm gần đây đạt mức tương đối cao. Tuy tốc độ tăng trưởng giữa các năm không đồng đều nhưng đều vượt mức kế hoạch được giao. Cụ thể là: Tổng nguồn vốn huy động đến 31/12/2004 là 3.924.792 triệu đồng, tốc độ tăng trưởng 17,22%, đạt 97,5% kế hoạch được giao. Tổng nguồn vốn huy động đến 31/12/2005 là 4.924.792 triệu đồng, tăng 842.497 triệu đồng so với đầu năm, tốc độ tăng trưởng 21,5%, đạt 106% kế hoạch. Tổng nguồn vốn huy động đến 31/12/2006 là 5.679.688 triệu đồng, tăng 912.399 triệu đồng so với đầu năm, tốc độ tăng trưởng 19,2%, đạt 103,3% kế hoạch được giao.
Trong tổng nguồn huy động thì tiền gửi dân cư luôn chiếm tỷ trọng cao nhất (năm 2006 tiền gửi dân cư chiếm tỷ trọng 68% tổng nguồn vốn) và liên tục tăng với mức cao qua các năm. Tình hình này cho ta thấy mức độ tin cậy của dân cư đối với ngân hàng, NHNo&PTNT Hà Tây đã để lại được hình ảnh tốt trong lòng dân cư. Ngược lại, tiền gửi của TCTD ngày càng giảm và chiếm tỷ trọng nhỏ nhất so với các nguồn khác, năm 2006 tiền gửi của TCTD chỉ chiếm tỷ trọng rất nhỏ 0,44% so với tổng nguồn vốn.
Nếu phân loại theo thời hạn huy động, tình hình huy động nguồn vốn của NHNo&PTNT Hà Tây trong thời gian qua được thể hiện thông qua bảng số liệu sau:
Bảng 2: Cơ cấu nguồn vốn phân theo thời hạn huy động
Đơn vị: Triệu đồng
Chỉ tiêu
2004
2005
2006
Số tiền
Tỷ trọng
Số tiền
Tỷ trọng
Số tiền
Tỷ trọng
1. TG không kỳ hạn
537.890
13,7%
657.437
13,8%
675.688
13,6%
2. TG kỳ hạn <12T
814.804
20,8%
809.309
17%
80.154
1,6%
3. TG kỳ hạn >= 12T
2.572.098
65,5%
3.300.543
69,2%
4.201.763
84,8%
Tổng cộng
3924792
100%
4767289
100%
4957605
100%
(Nguồn: Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh năm 2004, 2005, 2006)
Bảng số liệu trên cho ta thấy: Trong tổng nguồn vốn huy động thì tiền gửi có kỳ hạn >= 12 tháng chiếm tỷ trọng cao nhất và liên tục tăng qua các năm cả về mặt số lượng và cơ cấu trong tổng nguồn huy động. Năm 2004 tiền gửi có kỳ hạn >= 12 tháng chiếm 65,5% so với tổng nguồn, đến năm 2005 chiếm 69,2% so với tổng nguồn tăng 728.445 triệu đồng so với năm 2005, đến năm 2006 chiếm 84,4% so với tổng nguồn tăng 901.220 triệu đồng so với năm 2005. Tiền gửi có kỳ hạn = 12 tháng, liên tục giảm qua các năm, đặc biệt trong năm 2006 giảm xuống nhanh chóng ngân hàng chỉ huy động được 80154 triệu đồng từ nguồn này và chỉ chiếm một tỷ trọng nhỏ 1,6% so với tổng nguồn huy động.Tiền gửi không kỳ hạn chiếm tỷ trọng không lớn và ổn định qua các năm. Nguồn vốn ngân hàng huy động từ nguồn này thấp hơn rất nhiều so với tiền gửi có kỳ hạn >= 12 tháng (năm 2006 tiền gửi không kỳ hạn chỉ bằng 16% so với tiền gửi có kỳ hạn >= 12 tháng). Đây là một thuận lợi lớn cho ngân hàng trong việc đảm bảo khả năng chi trả và thanh toán cho khách hàng vì tỷ lệ tiền gửi có kỳ hạn lớn do đó ngân hàng hoàn toàn chủ động về thời hạn phải thanh toán cho khách hàng gửi tiền.
2.2.2. Hoạt động đầu tư tín dụng
Hoạt động đầu tư tín dụng là hoạt động đem lại lợi nhuận trực tiếp cho ngân hàng. Trong hoạt động đầu tư tín dụng NHNo&PTNT Hà Tây có nhiệm vụ cho vay ngắn hạn đối với các hoạt động sản xuất kinh doanh hàng hoá và dịch vụ, cho vay trung hạn, dài hạn đối với các dự án có hiệu quả, mục tiêu tài trợ tuỳ tính chất và khả năng nguồn vốn. Trên cơ sở có lợi thế về huy động nguồn vốn, NHNo&PTNT Hà Tây luôn tích cực chỉ đạo mở rộng tín dụng luôn đi đôi với nâng cao chất lương tín dụng, lấy thị trường nông thôn là chính, đẩy mạnh đầu tư vào các làng nghề và kinh tế hộ sản xuất, đồng thời chú trọng đầu tư vào doanh nghiệp. Trong những năm gần đây hoạt động đầu tư cho vay của NHNo&PTNT Hà Tây rất phát triển và đã đạt được nhiều kết quả lớn cả về mặt số lượng và chất lượng. Cụ thể như sau:
* Dư nợ cho vay
Dư nợ cho vay của NHNo&PTNT Hà Tây liên tục tăng qua các năm. Kết quả đạt được trong hoạt động cho vay những năm gần đây được thể hiện qua bảng số liệu và biểu đồ dưới đây.
Bảng 3: Tình hình dư nợ cho vay qua các năm
Đơn vị: Triệu đồng
Chỉ tiêu
2004
2005
2006
1. Tổng dư nợ
3.649.429
4.233.502
5.283.013
2. Mức tăng dư nợ so với năm trước
712.287
584.073
1.049.511
3. Tốc độ tăng trưởng dư nợ
24,30%
16%
24,30%
(Nguồn: Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh năm 2004, 2005, 2006)
Số liệu ở bảng trên được biểu diễn thông qua biểu đồ sau:
Biểu đồ 2: Biểu đồ dư nợ cho vay qua các năm của NHNo&PTNT Hà Tây
Dựa vào bảng số liệu và biểu đồ trên ta thấy: Trong hoạt động cho vay của NHNo&PTNT Hà Tây, dư nợ cho vay của ngân hàng liên tục tăng qua các năm từ 2004 đến 2006 về cả số tuyệt đối và số tương đối, với mức tăng dư nợ cho vay trung bình hàng năm là 806.375 triệu đồng. Mức tăng dư nợ cho vay năm 2005 so với năm 2004 là 712.287 triệu đồng, mức tăng dư nợ cho vay năm 2006 so với năm 2005 lên tới 1.049.511 triệu đồng. Tuy nhiên, tốc độ tăng trưởng dư nợ không đồng đều giữa các năm, năm 2004 tốc độ tăng trưởng dư nợ cho vay là 24,3% nhưng đến năm 2005 tốc độ tăng trưởng dư nợ cho vay lại thấp hơn so với năm 2004 chỉ còn ở mức 16%, năm 2006 dư nợ cho vay lại tăng trở lại với tốc độ tăng trưởng bằng với tốc độ tăng năm 2004 là 24,3%. Sở dĩ năm 2005 tổng dư nợ cho vay lại giảm như vậy là do trong thời gian đó trên địa bàn tỉnh Hà Tây, dịch cúm gia cầm tái bùng phát đã gây ra những biến động cho nền kinh tế, đã làm ảnh hưởng lớn đến tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của tất cả các cá nhân, hộ gia đình và doanh nghiệp do vậy cũng đã ảnh hưởng đến tình hình hoạt động của ngân hàng.
Nếu hoạt động cho vay được nhìn nhận trên phương diện thời hạn cho vay thì trong thời gian qua kết quả hoạt động cho vay của ngân hàng được thể hiện ở bảng số liệu sau:
Bảng 4: Kết quả hoạt động cho vay phân theo thời hạn cho vay
Đơn vị: Triệu đồng
Chỉ tiêu
2004
2005
2006
DNCV
Tỷ trọng
DNCV
Tỷ trọng
DNCV
Tỷ trọng
1. DNCV ngắn hạn
2.214.015
61,7%
2.831.043
66,9%
3.747.595
70,9%
2. DNCV trung hạn
1.248.544
34,2%
1.256.191
29,7%
1.396.922
26,5%
3. DNCV dài hạn
186.870
5,1%
146.268
3,4%
138.496
2,6%
4. Tổng dư nợ
3.649.429
100%
4.233.502
100%
5.283.013
100%
(Nguồn: Báo cáo hoạt động tín dụng qua các năm 2004, 005, 2006)
Qua bảng số liệu trên ta thấy: Dư nợ cho vay ngắn hạn luôn chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng dư nợ và liên tục tăng qua các năm cả về số tuyệt đối và số tương đối. Năm 2006 dư nợ cho vay ngắn hạn là 3.474.595 triệu đồng, chiếm tỷ trọng 70,9% trong tổng dư nợ, đây cũng là năm có dư nợ cho vay ngắn hạn cao nhất và chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng dư nợ trong ba năm. Dư nợ cho vay trung hạn cũng tăng qua các năm nhưng so với tổng nguồn thì tỷ trọng dư nợ cho vay trung hạn đang có xu hướng giảm qua các năm, cụ thể là: năm 2004 dư nợ cho vay trung hạn là 1.248.544 triệu đồng, chiếm tỷ trọng 34,2% so với tổng dư nợ. Đến năm 2006, mặc dù dư nợ cho vay tăng so với năm 2004 đạt 1.369.922 triệu đồng nhưng lại chiếm tỷ trọng thấp hơn chỉ ở mức 26,5% so với tổng dư nợ. Dư nợ cho vay dài hạn chiếm tỷ trọng nhỏ nhất trong tổng dư nợ và liên tục giảm về cả số tuyệt đối và số tương đối so với tổng dư nợ. Năm 2004 dư nợ cho vay dài hạn là 186.870 triệu đồng, chiếm tỷ trọng 5,1% so với tổng dự nợ, đến năm 2005 giảm xuống dư nợ cho vay là 146.268 triệu đồng, chiếm tỷ trọng 3,4% so với tổng dư nợ, đến năm 2006 mức dư nợ cho vay dài hạn lại giảm xuống còn 138.496 triệu đồng, chiếm tỷ trọng 2,6% so với tổng dư nợ.
Qua phân tích trên ta thấy NHNo&PTNT Hà Tây chủ yếu cho vay ngắn hạn, cho vay trung hạn ở mức thấp và cho vay dài hạn ở mức rất thấp so với cho vay ngắn hạn. Điều này cho thấy khách hàng đến với ngân hàng chủ yếu là có nhu cầu vốn ngắn hạn và khách hàng có nhu cầu vốn dài hạn nhưng không có đủ điều kiện để được vay vốn dài hạn nên chỉ được vay vốn ngắn hạn.
* Chất lượng cho vay
Nợ xấu là tiêu thức chủ yếu khi đánh giá chất lượng cho vay, là tiêu thức phản ánh rõ nhất về chất lượng hoạt động cho vay của ngân hàng. Theo quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN của NHNN, nợ xấu là các khoản nợ thuộc nhóm 3, nhóm 4, nhóm 5. Nợ xấu được xác định như sau:
Tỷ lệ nợ xấu
=
Số dư nợ xấu
*
100%
Tổng dư nợ
Trong quá trình cho vay NHNo&PTNT Hà Tây hết sức quan tâm tổ chức thực hiện và thẩm định chặt chẽ từng món vay, luôn chú trọng công tác thẩm định trước khi cho vay, tăng cường kiểm tra trong và sau khi cho vay, từng bước giảm thấp nợ xấu, nâng cao chất lượng cho vay. Tình hình nợ xấu của NHNo&PTNT Hà Tây trong hoạt động cho vay thời gian qua được thể hiện thông qua bảng số liệu sau:
Bảng 5: Tình hình nợ xấu qua các năm
Đơn vị: Tỷ đồng
Chỉ tiêu
2004
2005
2006
Dư nợ
Tỷ trọng
Dư nợ
Tỷ trọng
Dư nợ
Tỷ trọng
1. Nợ nhóm 3
22,5
68%
97
69,2%
67
66,3%
2. Nợ nhóm 4
6,3
19,9%
15
10,7%
13
12,87%
3. Nợ nhóm 5
4,2
12,8%
28
20,1%
21
20,8%
4. Tổng nợ xấu
33
100%
140
100%
101
100%
(Nguồn: Báo cáo kết quả hoạt động tín dụng năm 2004, 2005, 2006)
Qua bảng số liệu ta thấy: Tình hình nợ xấu trong hoạt động cho vay của NHNo&PTNT Hà Tây qua các năm có sự biến động rất lớn, năm 2004 nợ xấu chỉ là 33 tỷ đồng nhưng đến năm 2005 nợ xấu tăng đột ngột lên tới 140 tỷ đồng và đến 2006 thì giảm xuống còn 101 tỷ đồng. Nguyên nhân của tình hình này như đã nói ở trên trong năm 2005 dịch cúm gia cầm tái bùng phát gây khó khăn cho mọi hoạt động kinh tế của tỉnh do đó làm ảnh hưởng đến khả năng trả nợ ngân hàng. Đây là một thực trang cần xem xét nghiêm túc. Cụ thể từng loại như sau:
Nợ nhóm 3: Trong năm 2005 lên tới 97 tỷ đồng, tăng 74,5 tỷ đồng so với năm 2004, trong năm 2006 ngân hàng đã thu hồi được 30 tỷ đồng vì vậy đến cuối năm 2006 nợ xấu chỉ còn 67 tỷ đồng.
Nợ nhóm 4: Năm 2005 là 15 tỷ đồng tăng 8,7 tỷ đồng so với năm 2004. Năm 2006 giảm xuống còn 13 tỷ đồng, như vậy ngân hàng chỉ thu hồi được 2 tỷ đồng.
Nợ nhóm 5: Năm 2004 là 4,2 tỷ đồng, nhưng đến năm 2005 lên tới 28 tỷ đồng. Đây là một thực trạng đáng lo ngại cho việc thu hồi nợ của ngân hàng. Vì vậy đòi hỏi ngân hàng phải có những biện pháp kiên quyết trong việc thu hồi nợ. Tuy nhiên đến 2006 tình trạng trên đã được cải tạo, trong năm 2006 ngân hàng đã thu hồi được 7 tỷ đồng và hiện tại nợ nhóm 5 của ngân hàng chỉ còn 21 tỷ đồng. Trong thời gian tới ngân hàng cần có những biện pháp tích cực hơn nữa trong việc thu hồi nợ.
2.2.3. Nghiệp vụ kinh doanh đối ngoại
Năm 2006, các mặt nghiệp vụ thanh toán quốc tế tăng mạnh, tổng doanh số thanh toán quốc tế 66 triệu USD, tăng so với năm 2005 là 11,7 triệu USD. Doanh số thanh toán hàng xuất, nhập khẩu trị giá 21,8 triệu USD, doanh số mua bán ngoại tệ đạt 68,2 triệu USD, doanh số chi trả kiều hối 32 triệu USD, thực hiện chi trả dịch vụ Westem Union tại 16 chi nhánh ngân hàng cấp II và hội sở NHNo&PTNT tỉnh tổng số tiền 6 triệu USD với 5195 món, cho vay 5,2 triệu USD. Đến nay đã có trên 13.000 khách hàng mở tài khoản giao dịch với NHNo&PTNT Hà Tây tăng 1,3 lần so với năm 2005. Năm 2006 mở thêm dịch vụ mới: Thanh toán biên mậu với hai tỉnh biên giới Trung Quốc đạt 2,4 tỷ VNĐ. Toàn chi nhánh chủ động tự cân đối được ngoại tệ đáp ứng nhu cầu khách hàng, tăng uy tín của NHNo&PTNT Hà Tây.
2.2.4. Công tác tài chính
Trong những năm qua NHNo&PTNT Hà Tây đã tăng cường chỉ đạo sát sao các cấp ngân hàng thực hiện nghiêm túc quy chế tài chính, tiết kiệm chi phí hợp lý, tận thu lãi mặt bằng, lãi đọng và thu nợ rủi ro. Đồng thời chấn chỉnh thực hiện tốt công tác khoán tài chính đến đơn vị, nhóm và người lao động, có chính sách đơn giá tiền lương phù hợp, áp dụng cơ chế lãi suất huy động vốn linh hoạt, kịp thời phù hợp với thực tế, thực hiện lãi suất cho vay không phân biệt thành phần kinh tế, gia hạn nợ, điều chỉnh kỳ hạn nợ áp dụng lãi suất hiện hành, mở rộng kinh doanh nhằm tăng năng lực tài chính toàn tỉnh. Hầu hết các ngân hàng cơ sở đều thực hiện tăng doanh thu, tạo nguồn tài chính cả năm lớn, đảm bảo đủ quỹ lương chi trả cho cán bộ nhân viên, thực hiện trích rủi ro vượt kế hoạch NHN0&PTNT Việt Nam giao. Toàn tỉnh có 17/18 đơn vị có đủ quỹ lương cho cho cán bộ nhân viên theo chế độ.
Cụ thể kết quả công tác tài chính trong thời gian gần đây được thể hiện ở bảng dưới đây:
Bảng 6: Kết quả công tác tài chính qua các năm
STT
Chỉ tiêu
2004
2005
2006
1
Tổng doanh thu (Tỷ đồng)
418
745
963
2
Tổng chi phí (Tỷ đồng)
331
634
810
3
C/lệch thu - chi (chưa lương) (tỷ đồn._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 36555.doc