Lời nói đầu
Trong nền kinh tế thị trường thực thụ thì xu hướng cổ phần hoá một bộ phận doanh nghiệp nhà nước đã diễn ra như một quy luật. Vì vậy Đảng và Nhà nước ta chủ trương cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước (CPH DNNN) nhằm huy động vốn của toàn xã hội, bao gồm cá nhân, các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội trong và ngoài nước để đầu tư đổi mới công nghệ, thêm việc làm, phát triển doanh nghiệp, nâng cao khả năng cạnh tranh, thay đổi cơ cấu DNNN; đồng thời tạo điều kiện để người lao động trong
16 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1327 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Đẩy mạnh cổ phần hoá một số bộ phận Doanh nghiệp nhà nước của Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
doanh nghiệp có cổ phần và những người đã góp vốn được làm chủ thực sự, thay đổi phương thức quản lý tạo động lực thúc đẩy doanh nghiệp (DN), của người lao động góp phần tăng trưởng kinh tế nhà nước.
Sau quá trình thí điểm cph một số DNNN từ năm 1992, Đảng và Nhà nước đã có những quy định rõ ràng, cụ thể và hướng dẫn chi tiết về việc cph dnnn. Các chế độ pháp lý liên quan đến CPH DNNN đã được tiến hành, nhiều đề tài nghiên cứu khoa học về vấn đề này đã và đang được triển khai nhằm bổ sung và hoàn thiện các chính sách tạo cơ sở cho việc cph dnnn đã được nhanh chóng và mang lại hiệu quả thiết thực.
Việc tiến hành cph các doanh nghiệp đã có những thành tựu nhất định song vẫn còn chậm chạp và hiệu quả chưa cao. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến thực trạng này và một trong những nguyên nhân quan trọng đó là sự vướng mắc về tài chính khi chuyển từ dnnn sang công ty cổ phần.
Nhận thấy vai trò quan trọng của vấn đề CPH một bộ phận DNNN trong giai đoạn hiện nay, sau khi đã tiếp thu được những kiến thức cơ bản ở trường và qua quá trình tìm hiểu thêm những tài liệu tham khảo em đã đi sâu nghiên cứu đề tài: ‘‘Đẩy mạnh cổ phần hoá một bộ phận doanh nghiệp nhà nước của Việt nam hiện nay’’ .
Đề tài này gồm những nội dung sau:
Phần i : Một số vấn đề lý luận chung về CPH DNNN
Phần II : Thực trạng tiến hành CPH DNNN ở Việt Nam
Phần III : Định hướng và giải pháp CPH một bộ phận DNNN thời gian tới.
PHần i
một số vấn đề lý luận Chung về CPH DNNN
Bản chất CPH DNNN
CPH DNNN là việc chuyển DNNN thành công ty cổ phần đối với những DN mà nhà nước thấy không cần nắm giữ 100% vốn đầu tư, nhằm tạo điều kiện cho người lao động trong DN có cổ phần làm chủ thực sự doanh nghiệp, huy động vốn toàn xã hội để đầu tư đổi mới công nghệ, phát triển doanh nghiệp góp phần phát triển tăng trưởng kinh tế.
Quá trình cổ phần hoá nhằm giải quyết bốn vấn đề sau:
Về sở hữu: nhằm đa dạng hoá quyền sở hữu và cụ thể hoá chủ sở hữu.
Về hoạt động: nhằm thương mại hoá mọi hoạt động của DN chứ không phải theo mệnh lệnh hành chính, cắt bỏ sự can thiệp trực tiếp của Nhà nước vào hoạt động của DN.
Về quản lý: luật pháp hoá tổ chức quản lý theo luật định đã ban hành.
Về hiệu quả: nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của DN.
Ba vấn đề đầu sẽ là tiền đề cho vấn đề thứ tư, là mục tiêu số một, mục tiêu cuối cùng của giải pháp CPH DNNN. Và khi chuyển sang công ty cổ phần không phải bao giờ cũng thực hiện được cả bốn vấn đề đó hoặc thực hiện các mục tiêu đó cùng một lúc.
Sự cần thiết phải đẩy mạnh cổ phần hoá một bộ phận DNNN ở Việt Nam
2.1. CPH một bộ phận DNNN là xu hướng tất yếu khách quan khi chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường:
Thực tiễn nhiều thập kỉ đã chứng minh là kinh tế quốc doanh kém hiệu quả hơn so với kinh tế tập thể và kinh tế tư nhân. Cũng có những trường hợp cá biệt, trong những điều kiện đặc biệt,với một thời gian ngắn, kinh tế quốc doanh vẫn có thể làm ăn có lãi, phát triển. Nhưng nhìn tổng quát, lâu dài thì kinh tế quốc doanh kém hiệu quả.
Vì DNNN thường làm ăn kém hiệu quả, thua lỗ nên Nhà nước buộc phải có chính sách tài trợ, bao cấp – Tài trợ là một sách lược, luôn luôn cần thiết, nhằm đảm bảo cho các DNNN hoạt động tốt theo chủ trương phát triển kinh tế - xã hội của Chính phủ. Còn bao cấp là việc không đáng làm, vì Nhà nước phải bù lỗ cho những doanh nghiệp hoạt động kém hiệu quả và thực ra là không cần phải duy trì hình thức quốc doanh. Như vậy là, cũng một khoản tiền mà Chính phủ cấp cho một DNNN cụ thể nào đó có thể coi là tài trợ hay là bao cấp phụ thuộc vào việc việc xác định DN đó có cần là quốc doanh hay không. Xác định đúng một DN là quốc doanh hay ngoài quốc doanh là rất khó và tiêu chuẩn để xác định cũng luôn luôn thay đổi tuỳ thuộc vào sự thay đổi chiến lược và sách lược phát triển kinh tế - xã hội trong từng giai đoạn của Chính phủ.
Lịch sử phát triển kinh tế đã cho thấy: sau đại chiến thế giới thứ II, các nước đua nhau thành lập DNNN, đặc biệt là ở các nước XHCN và các nước muốn bắt chước mô hình của Liên Xô (cũ). Nhưng đến năm 1970 thì đa số các nước trên thế giới đã nhận ra rằng: kinh tế quốc doanh là kém hiệu quả và chứa đựng nhiều tiêu cực. Từ đó cho đến nay, ở những mức độ khác nhau, vối những biện pháp không hoàn toàn giống nhau, các nước đang tìm cách cải tổ khu vực kinh tế quốc doanh, mà CPH được coi là giải pháp quan trọng và phổ biến.
2.2. CPH là giải pháp cơ bản đề tiếp tục cải cách DNNN trong giai đoạn hiện nay ở nước ta:
Từ 1986 đến nay, Nhà nước đã tốn rất nhiều công sức với thái độ tích cực nên đã đạt được những kết quả quan trọng (tuy còn chậm) trong việc cải cách các DNNN.
Thành công quan trọng nhất là đã thương mại hoá và mở rộng mạnh mẽ quyền tự chủ sản xuất – kinh doanh cho các DNNN, đồng thời với việc hạn chế đến mức tối đa sự can thiệp trực tiếp, không cần thiết của Nhà nước và các cấp hành chính vào hoạt động của DN, xoá bỏ về cơ bản cơ chế bao cấp của Nhà nước đối vối DN dưới nhiều hình thức.
3. Mục tiêu của CPH DNNN:
3.1. Chuyển một phần quyền sở hữu về tài sản của Nhà nước thành sở hữu của các cổ đông nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
Trước hết cần phải hiểu rằng mục đích của việc CPH DNNN là chuyển quyền sở hữu cho các cổ đông chứ không phải là quyền sử dụng, nghĩa là mua đứt bán đoạn, chứ không phải cho thuê, cho vay.Tuy vậy, vẫn có những trường hợp đặc biệt không chuyển quyền sở hữu mà chỉ chuyển quyền sử dụng.
Thứ hai, tài sản nói ở đây chủ yếu được thể hiện dưới hình thức tổng hợp là vốn. Vì vậy không cần thiết phải xem là nên CPH phần nào: tư liệu sản xuất hay vật phẩm tiêu dùng bởi vì, trong nền kinh tế thị trường thì sự chuyển hoá này là thường xuyên và không khó khăn gì.
Thứ ba, như thực tiễn đã chứng minh, hiện nay các DNNN hoạt động rất kém hiệu quả. Đó vừa là gánh nặng cho ngân sách Nhà nước vừa là nguy cơ đối với nền tài chính quốc gia.Trong nền kinh tế thị trường mà làm ăn kém hiệu quả thì nhất định sớm muộn cũng bị phá sản. Vì vậy, mục tiêu cao nhất cuooí cùng của CPH phải là nâng cao hiệu quả sản xuất – kinh doanh của DN. Nhưng nếu duy trì sở hữu Nhà nước thì nhất định sẽ dẫn đến hiệu quả kém. Vì vậy, mục tiêu số một của CPH là phải giải quyết vấn đề quyền sở hữu, tức là phải đa dạng hoá quyền sở hữu thì mới có thể nâng cao được hiệu quả sản xuất – kinh doanh.
3.2. Huy động được một khối lượng vốn nhất định ở trong và ngoài nước để phát triển sản xuất – kinh doanh
Các DNNN đang thiếu vốn nghiêm trọng để đầu tư phát triển.Nhà nước không thể và không nên tiếp tục cấp vốn cho một khu vực làm ăn kém hiệu quả. Dân chúng sẽ không bao giờ cho DNNN vay nếu DNNN không được cải tổ và có phương án làm ăn tốt có sức thuyết phục. Còn nước ngoài thì không bao giờ cho DNNN vay nếu giữ nguyên trạng.
Vậy là muốn có vốn để đầu tư cho phát triển, DNNN chỉ có thể huy động được thông qua hình thức bán cổ phần.Việc bán cổ phần cho nước ngoài là rất cần thiết và có thể làm được.Tuy nhiên, xung quanh vấn đề này còn có nhiều tranh cãi và Nhà nước cần phải quan tâm và có những quy định cụ thể, hướng dẫn chi tiết.
3.3. Tạo điều kiện để người lao động thực sự làm chủ doanh nghiệp
Hiện nay, người lao động đã giác ngộ ra rằng: nếu không làm chủ được về kinh tế thì mọi sự làm chủ khác đều vô nghĩa, chỉ là hình thức. Chỉ khi có vốn để mua cổ phiếu, tham gia chọn các thành viên Hội đồng quản trị thì lúc đó người lao động mới có quyền thực sự, không bị một sự o ép nào. Và khi mua cổ phiếu tức là một phần giá trị của công ty là của mình thì người lao động sẽ có ý thức và trách nhiệm hơn trong quá trình lao động, sẽ nâng cao năng suất lao động.
Tóm lại, các mục tiêu của CPH về thực chất là nhằm chuyển hình thái kinh doanh một chủ với sở hữu nhà nước toàn phần trong doanh nghiệp thành công ty cổ phần hỗn hợp nhà nước – tư nhân hoặc công ty cổ phần tư nhân .
Phần II
Thực trạng CPH DNNN ở việt nam
Tiến trình CPH một bộ phận DNNN
Thực hiện Nghị định só 44/1998/NĐ-CP ngày 29 tháng 6 năm 1998 của Chính phủ về chuyển đổi DNNN thành công ty cổ phần; Ban đổi mới quản lý doanh nghiệp Trung ương hướng đẫn quy trình chuyển doanh nghiệp Nhà nước thành công ty cổ phần như sau:
Bước 1 : Chuẩn bị CPH
+ Các bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ(gọi tắt là các Bộ), các Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương(gọi tắt là Uỷ ban nhân dân tỉnh –UBNN tỉnh), các Tổng công ty do Thủ tướng quyết định thành lập (gọi tắt là Tổng công ty 91).
+ Dựa vào phương án phân loại và sắp xếp DNNN theo Chỉ thị số 20/1998/CT-TTg ngày 21 tháng 4 năm 1998 của Thủ tướng Chính phủ và bảng danh mục DNNN để lựa chọn CPH ban hành kèm theo Nghị định 44/1998/NĐ-CP ngày 29 tháng 6 năm 1998: lập danh sách DNNN CPH từng năm báo cáo Thủ tướng Chính phủ và gửi cho DN để thực hiện. Riêng các DN thành viên của Tổng công ty 91, sau khi có ý kiến phê duyệt của Thủ tướng Chính phủ sẽ tổ chức CPH.
+ Các DNNN trong danh sách CPH báo cáo các Bộ, UBND tỉnh, Tổng công ty 91 dự kiến danh sách các thành viên trong Ban Đổi mới quản ký tại DN.
+ Các Bộ, UBND tỉnh, Tổng công ty 91 quyết định thành lập Ban Đổi mới quản lý tại DN thuộc quyền quản lý và quyết định từng DN CPH trong từng năm. Thành phần Ban Đổi mới DN tại đơn vị gồm: Giám đốc (hoặc Phó Giám Đốc) làm trưởng ban, kế toán trưởng là uỷ viên thường trực, các trưởng phòng, ban kế hoạch, sản xuất kinh doanh, tổ chức cán bộ, kỹ thuật làm uỷ viên và mời đồng chí bí thư Đảng uỷ(hoặc Chi bộ), Chủ tịch Công đoàn tham gia là uỷ viên Ban Đổi mới quản lý DN của đơn vị mình.
+ Các Bộ, UBND tỉnh, Tổng công ty 91 phổ biến các văn bản về CPH cho Ban Đổi mới quản lý tại DN và tiến hành CPH DN.
+ Ban Đổi mới quản lý tại DN có trách nhiệm tuyên truyền, giải thích cho những người lao động trong DN mình để tổ chức thực hiện.
+ Ban Đổi mới quản lý tại DN chuẩn bị các tài liệu về:
Các hồ sơ pháp lý khi thành lập DN.
Tình hình công nợ, tài sản, nhà xưởng, vật kiến trúc đang quản lý.
Vật tư hàng hoá ứ đọng, kém, mất phẩm chất và đề ra hướng giải quyết.
Danh sách lao động của DN đến thời điểm quyết định CPH, số lượng người, năm công tác của từng người, dự kiến số lao động nghèo được mua cổ phần theo giá ưư đãi của Nhà nước trả dần trong 10 năm.
Dự toán chi phí CPH cho đến khi hoàn thành Đại hội cổ đông lần thứ nhất (nếu DN cần phải thuê kiểm toán độc lập thì chi phí thuê kiểm toán cũng được dự toán vào chi phí này) theo mức quy định tại thông tư số 104/1998/TT-BTC ngày 18 tháng 7 năm 1998 Bộ Tài chính.
Bước 2 : Xây dựng phương án CPH
+ Ban Đổi mới quản lý tại DN tổ chức kiểm kê tài sản, vật tư, tiền vốn, công nợ của DN và phân loại: tài sản đang dùng, tài sản không cần dùng, tài sản xin thanh lý, tài sản (hiện vật) được hình thành từ quỹ khen thưởng, quỹ phúc lợi của DN.
+ Căn cứ theo số liệ trên sổ sách kế toán và kết quả kiêm kê, đánh giá lại giá trị tài sản của DN, phối hợp với các cơ quan quản lý vốn giải quyết những vướng mắc về tài chính và dự kiến đề nghị giá trị thực tế của doanh nghiệp, giá trị thực tế phần vốn Nhà nước tại DN.
+ Các Bộ, UBND tỉnh, Tổng công ty 91 thống nhất với cơ quan quản lý vốn và tài sản Nhà nước tại DN về giá trị thực tế của DN, ra văn bản thoả thuận với Bộ Tài chính mức giá này.
+ Quyết định giá trị thực tế của DN.
Trên cơ sở đã thống nhất với các cơ quan có liên quan về xác định giá trị DN, Bộ trưởng Bộ Tài chính quyết định giá trị có mức vốn Nhà nước ghi trên sổ kế toán đến thời điểm CPH trên 10 tỷ đồng.
Các Bộ, UBND tỉnh, Tổng công ty 91 quyết định giá trị DN có mức vốn Nhà nước từ 10 tỷ đồng trở xuống. Thời hạn để hoàn thành việc xác định giá trị DN không quá 30 ngày.
+ Ban Đổi mới quản lý tại DN lập phương án (dự kiến) CPH DN và dự thảo Điều lệ tổ chức và hoạt động của công ty cổ phần:
Phổ biến hoặc niêm yết công khai các dự kiến phương án nêu trên để mọi người lao động cùng biết, thảo luận.
Tổ chức Đại hội công nhân viên chức (bất thường) để lấy ý kiến về dự thảo phương án, bàn phương hướng, biện pháp cụ thể để có cơ sở hoàn thiện phương án (có thể tổ chức lấy ý kiến bằng các hình thức có hiệu quả khác, không nhất thiết phải tổ chức đại hội công nhân viên chức).
Hoàn thiện phương án trình lên cơ quan có thẩm quyền phê duyệt, hoàn chỉnh dự thảo Điều lệ tổ chức và hoạt động của công ty cổ phần để chuẩn bị trình Đại hội cổ đông xem xét, quyết định.
Bước 3 : Phê duyệt và triển khai thực hiện phương án CPH
+ Các Bộ, UBND tỉnh, Tổng công ty 91 :
Đối với các DNNN có giá trị thuộc vốn Nhà nước do cơ quan có thẩm quyền đã quyết định trên 10 tỷ đồng trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt phương án và quyết định chuyển DNNN thành công ty cổ phần.
Các Bộ, UBND tỉnh phê duyệt phương án CPH và quyết định chuyển DNNN thành công ty cổ phần đối với DN có vốn Nhà nước đã được quyết định từ 10 tỷ đồng trở xuống.
Các DN thành viên của Tổng công ty 91 có vốn Nhà nước đã được cơ quan có thẩm quyền thẩm định có giá trị từ 10 tỷ đồng trở xuống, Tổng công ty 91 báo cáo Bộ quản lý ngành kinh tế kỹ thuật phê duyệt phương án CPH và quyết định chuyển DNNN thành công ty cổ phần.
Các Bộ, UBND tỉnh, Tổng công ty 91 hoặc doanh nghiệp cùng Bộ Tài chính thoả thuận và dự kiến đề cử người để bầu vào Hội đồng quản trị quản lý phần vốn Nhà nước(nếu có) tại công ty cổ phần.
+ Ban Đổi mới quản lý tại DN :
Mở sổ đăng ký mua cổ phần của các cổ đông, đăng ký mua tờ cổ phiếu tại Kho bạc Nhà nước.
Thông báo công khai tình hình tài chính của DN cho đến thời điểm CPH.
Thông báo công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng chủ trương bán cổ phần, tổ chức bán cổ phần của DN cho các cổ đông.
+ Trưởng ban Đổi mới quản lý tại DN triệu tập Đại hội cổ đông lần thứ nhất để bầu Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát, thông qua Điều lệ tổ chức và hoạt động của công ty cổ phần.
Ra mắt công ty cổ phần, đăng ký kinh doanh
+ Giám đốc, kế toán trưởng DN với sự chứng kiến của Ban Đổi mới quản lý tại DN và đại diện cơ quan quản lý vốn và tài sản Nhà nước bàn giao cho Hội đồng quản trị của công ty cổ phần: lao động, tài sản, tiền vốn, danh sách, hồ sơ cổ đông và toàn bộ hồ sơ tài liệu sổ sách của DN. Ban Đổi mới quản lý tại DN bàn giao những công việc còn lại khác (nếu có) cho Hội đồng quản trị và công bố tự giải thể từ ngày ký biên bản bàn giao.
+ Hội đồng quản trị hoàn tất những công việc còn lại
Xin khắc dấu công ty cổ phần. Nộp lại con dấu cũ.
Lập bảng kê đề nghị kho bạc tỉnh, thành phố cung cấp cho các cổ đông tờ cổ phiếu phù hợp với số cổ phần của các cổ đông.
Tổ chức ra mắt công ty cổ phần: đăng báo theo quy định, công bố trên phương tiện thông tin đại chúng hoặc thông báo bằng văn bản thời điểm hoạt động của công ty cổ phần theo con dấu mới,vốn điều lệ, ngành nghề kinh doanh.
Đăng ký với Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nơi DN đóng trụ sở chính. Hồ sơ đăng kí kinh doanh như quy định tại Điều 19 Nghị định 44/1998/NĐ-CP ngày 29 tháng 6 năm 1998 của Chính phủ.
+ Các Bộ, UBND tỉnh, Hội đồng quản trị Tổng công ty 91 cụ thể hoá từng công đoạn CPH, phân công tổ chức thực hiện.
+ Các văn bản chỉ đạo thực hiện CPH của các Bộ, UBND các tỉnh, Hội đồng quản trị Tổng công ty 91 nhất thiết phải gửi về Ban Đổi mới quản lý DN Trung ương(văn phòng Chính phủ) để theo dõi, phối hợp chỉ đạo.
Thành tựu, hạn chế và những nguyên nhân của hạn chế trong quá trình CPH một bộ phận DNNN
2.1. Những thành tựu đã đạt được
- Sau hơn 12 năm tiến hành CPH DNNN, đã thu lại nhiều kết quả tích cực. Từ năm 1992 đến nay, trong phạm vi cả nước đã CPH được 2.242 DNNN và bộ phận DNNN. Riêng các năm 2001 đến 2004, CPH được 1.654 doanh nghiệp. Các DN thuộc các ngành công nghiệp, giao thông, xây dựng chiếm 65,5%; thuộc các ngành thương mại, dịch vụ chiếm 28,7%; nông, lâm, ngư nghiệp chiếm 5,8%. Các DN thuộc các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chiếm 65,7%; thuộc các Bộ, ngành Trung ương chiếm 25,8%; thuộc các Tổng công ty 91 chiếm 8,5%.
Trong số trên 2.200 DNNN đã được CPH, các DN có vốn Nhà nước dưới 5 tỷ đồng chiếm 59,2%; các DN có vốn Nhà nước từ 5- 10 tỷ đồng chiếm 22,3%; các DN có vốn Nhà nước trên 10 tỷ đồng chỉ có 18,5%.
- Trong quá trình thực hiện, Ban Chỉ đạo đổi mới và Phát triển DN đã đi sâu sát và có những chỉ đạo hợp lý nhằm tháo gỡ các vướng mắc, từ đó đẩy nhanh tiến trình CPH. Các hình thức CPH theo quy định đều được áp dụng. Trong đó, hình thức bán một phần vốn Nhà nước hiện có tại DN kết hợp phát hành thêm cổ phiếu là 973 DN, chiếm 43,4%; hình thức bán một phần vốn Nhà nước hiện có tại DN là 583 DN, chiếm 26%; hình thức bán toàn bộ vốn Nhà nước hiện có tại DN là 347 DN, chiếm 15,5%; hình thức giữ nguyên vốn Nhà nước phát hành thêm cổ phiếu là 339 DN, chiếm 15,1%.
- CPH đã thực sự phát huy hiệu quả và tạo ra loại hình DN có nhiều chủ sở hữu, bao gồm Nhà nước, người lao động trong DN, cổ đông ngoài DN, trong đó người lao động trong DN trở thành người chủ thực sự phần vốn góp của mình trong công ty cổ phần. Các DN công nghiệp chế biến có nguyên liệu từ nông, lâm, thuỷ sản khi CPH đã thực hiện bán cổ phần ưu đãi cho người cung cấp nguyên liệu, tạo sự gắn kết giữa đơn vị sản xuất với cơ sở cung cấp nguyên liệu, mang lại hiệu quả kinh tế- xã hội thiết thực.
2.2. Những hạn chế trong tiến trình CPH
- Tiến độ CPH không đạt yêu cầu đề ra: số lượng DNNN được CPH trong những năm gần đây tăng nhanh nhưng chưa năm nào đảm bảo được kế hoạch đã được duyệt. Năm 2004 là năm thành công của tốc độ CPH cũng chỉ đạt 753/1000 DN dự kiến CPH.
- CPH còn mang tính khép kín trong nội bộ DN: trong cơ cấu cổ đông của các DN đã CPH: bình quân Nhà nước giữ 45,6% vốn điều lệ, cán bộ công nhân viên giữ 39,3%, cổ đông bên ngoài giữ 15,1% ; số DN cổ phần mà Nhà nước giữ cổ phần chi phối là 27,4%. Mặt khác tính đến nay mới CPH được 6,3% vốn Nhà nước có trong DNNN.
- Định giá tài sản (nhất là quyền sở hữu trí tuệ, giá trị quyền sử dụng đất) của DN còn lúng túng, gây thất thoát tài sản Nhà nước.
- Hơn nữa, nguồn tài chính cho công tác định giá và bán cổ phần không đủ: tổng chi phí cho CPH theo quy định khoảng 0,01% tổng giá trị thực tế của DN. Mức chi phí này không đủ chi trả việc định giá thực hiện theo tiêu chuẩn chuyên nghiệp, chi phí thuê các công ty kiểm toán và tài chính chưa được quy định cụ thể.
- Về việc quản lý phần vốn Nhà nước còn trong DN sau CPH chưa rõ ràng.
- Vấn đề vay vốn sau CPH gặp nhiều trở ngại.
- Nhận thức của cán bộ công nhân viên về CPH chưa được nhất quán trong các cấp, các ngành và các DN.
- Chế độ chính sách hiện hành về CPH DNNN chưa đủ sức hấp dẫn, khuyến khích, thúc đẩy các DN và người lao động tham gia tích cực vào CPH. Trong đó, sự thiếu bình đẳng giữa DNNN với công ty cổ phần đang cản trở việc đẩy nhanh tiến độ CPH.
- Thông tin về đấu giá cổ phần rất sơ sài về tình hình tài chính, tài sản, giá trị quyền sử dụng đất đai của DN không kịp thời, không đầy đủ.
- Quy trình CPH còn phức tạp, nhiều phiền hà, nhất là việc xử lý các vấn đề tài chính.
- Những văn bản pháp luật của các cơ quan chuyên môn chỉ đạo quá trình CPH chưa kịp sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với thực tế, cải cách hành chính không theo kịp cải cách DN...
- Xử lý nợ của DNNN trước CPH là khó khăn lớn hạn chế quá trình CPH.
2.3. Những nguyên nhân của hạn chế trong tiến trình CPH
- CPH DNNN là công việc mới mẻ, phức tạp, vì vậy việc nghiên cứu các cơ chế chính sách CPH còn chậm chạp. Các văn bản ban hành thiếu đồng bộ, quy trình triển khai phức tạp, còn nhiều mặt chưa hợp lý.
- Chưa có môi trường thật sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế. Một số nơi coi công ty cổ phần là doanh nghiệp ngoài quốc doanh nên không được ưu ái như DNNN. Mặt khác, do Luật Công tu trước đây và Luật Doanh nghiệp Nhà nước đều chưa quy định rõ vai trò quản lý Nhà nước đối với doanh nghiệp đa sở hữu có vốn Nhà nước góp , nên mỗi nơi vận dụng theo nhận thức riêng, không thống nhất.
- Về nhận thức: Do CPH đụng chạm đến lợi ích, bao gồm cả lợi ich cục bộ của ngành, đơn vị và cả lợi ích cá nhân, thêm nữa là thói quen trì trệ thích yên ổn, ngại thay đổi nên không ít Tổng công ty ngần ngại chỉ đạo triển khai CPH vì e rằng một công ty thành viên được CPH tính độc lập sẽ cao hơn, ít lệ thuộc vào Tổng công ty hơn.Cũng có những đơn vị có đề án tổng thể sắp xếp lại DNNN trong phạm vi quản lý nhưng lại không có chương trình kế hoạch cụ thể, việc triển khai mang tính chất đối phó, hình thức.
- Ngay cả Ban chỉ đạo CPH ở Trung ương và địa phương do phải kiêm nhiệm nhiều việc nên tập trung vào công tác chỉ đạo dẫn đến công việc bị chậm trễ, kéo dài. Ban Chỉ đạo Trung ương chưa đủ thẩm quyền quyết định trực tiếp các đề án, kế hoạch CPH DNNN, chỉ có nhiệm vụ hướng dẫn, theo dõi, đôn đốc và giám sát các Bộ, ngành, địa phương thực hiện CPH nên tính hiệu quả của CPH chưa cao.
- Hơn nữa việc tuyên truyền quán triệt tư tưởng chỉ đạo về CPH trong nội bộ các cấp có thẩm quyền, tới cán bộ công nhân viên trong DN được CPH, tới người dân còn bị xem nhẹ, đặc biệt là ở các khâu trung gian như sở, ban, ngành, Tổng công ty. Chưa có một chế tài cụ thể đối với việc chấp hành chủ trương CPH, thậm chí có nơi không triển khai cũng không sao. Do đó chưa tạo được sự quan tâm và hưởng ứng tích cực của toàn xã hội đối với chủ trương CPH.
- Ngoài các lí do trên còn một nguyên nhân khác, đó là căn bệnh nằm ngay trong nội tại các DN CPH. Trước hết là tình trạng tài chính nhập nhèm, nợ đọng dây dưa, nhiều năm không quyết toán được. Giá trị DN cũng là một vấn đề. Hầu hết ở các DN, giá trị được phản ánh trên sổ sách khác xa với giá trị thực của DN. Không ít người đã khai thác triệt để sự không rõ ràng của hệ thống tài chính DN để mưu lợi cho bản thân. Chính vì vậy mà không phải ai cũng sẵn sàng chữa trị căn bệnh này.
phần III
định hướng và giải pháp CPH
một bộ phận DNNN trong thời gian tới
Định hướng CPH một bộ phận DNNN trong thời gian tới
1.1. Việc lựa chọn những DN để chuyển thành công ty cổ phần phải được đặt trong chương trình tổng thể đổi mới khu vực kinh tế nhà nước và sắp xếp lại các DNNN.
1.2. Việc lựa chọn các DN để tiến hành CPH thuộc thẩm quyền và chức năng của Nhà nước với tư cách là người sở hữu chứ không tuỳ thuộc vào ý kiến của giám đốc và tập thể lao động trong DN. Nguyên tắc này được nêu ra để làm cơ sở cho các cơ quan chủ quản của Nhà nước phân loại các doanh nghiẹp do mình quản lý để thực hiện CPH.
1.3. Dựa trên bảng cân đối tài sản và kết quả hoạt động sản xuất của DN, cần xác định các mục tiêu chủ yếu và cụ thể đối với từng DN được lựa chọn CPH.
1.4. Mọi tài sản của DN đều thuộc sở hữu Nhà nước, trừ quỹ phúc lợi xã hội của tập thể là phần tiền lương không chia để lại cho mọi cán bộ công nhân viên trong DN cùng hưởng. Phần "vốn tự có" của các DNNN hiện nay thực chất là phần lợi nhuận và quỹ khấu hao được Nhà nước cho phép giữ lại để tái sản xuất mở rộng, nên đương nhiên là thuộc về Nhà nước và trở thành vốn cổ phần của Nhà nước trong công ty cổ phần sẽ được hình thành. Điều này là hợp lý khi xét về mặt pháp lý trong hoạt động sản xuất kinh doanh của DN khi tất cả các khoản nợ và có của DN đều thuộc về Nhà nước. Không thể quy kết các khoản nợ của DN cho tập thể. Vì vậy lẽ đương nhiên khi tiến hành lập bảng cân đối tài sản trong DN, xác lập giá trị tài sản còn lại để CPH thì cũng không thể đưa "vốn tự có" ra ngoài bảng cân đối vì nó là của tập thể. Xác định quan điểm này để bảo đảm việc chống lại sự phân tán tài sản của Nhà nước và phân phối không công bằng trong quá trình chuyển đổi sang hình thức công ty cổ phần.
1.5. Việc xác định giá trị của DNNN để CPH phải chú ý đến cả hai yếu tố cấu thành: giá trị hữu hình và giá trị vô hình. Trong yếu tố giá trị hữu hình về cơ bản có hai bộ phận: giá trị toàn bộ tài sản hiện có của DN và giá trị đất đai mà DN đang sử dụng làm mặt bằng sản xuất kinh doanh. Trong yếu tố giá trị vô hình như uy tín và nhãn hiệu của DN, ưu thế về thị trường và khả năng cạnh tranh, các điều kiện về địa điểm, quảng cáo, bạn hàng v.v... tựu chung lại đều biểu thị ở khả năng sinh lợi hay tỷ suất lợi nhuận của DN.
1.6. Phương pháp bán cổ phiếu ở những DN được chọn CPH cần thực hiện công khai, rõ ràng, thủ tục đơn giản, dễ hiểu đối với mọi người.
1.7. Để thực hiện thành công chương trình CPH, Nhà nước không chỉ chú ý đến thu hồi vốn mà cần phải biết chấp nhận một khoản phí tổn nhất định. Đó là những khoản phí tổn cần thiết mà ở nước nào cũng có như những chi phí bảo hiểm, trợ cấp cho người lao động bị mất việc làm và tìm kiếm nghề mới, những chi phí do bán giá thấp nhằm ưu đãi những tầng lớp dân cư theo những mục tiêu chính trị, xã hội của Nhà nước... Ngoài ra, với điều kiện đặc thù của nước ta cần có thêm những phí tổn khác như vì hiệu quả và lợi ích lâu dài của việc chuyển đổi mô hình kinh doanh có thể chấp nhận bán các DN thấp hơn giá thị trường chút ít để khuyến khích mọi thành phần tham gia...
1.8. Theo tinh thần quyết định 202-HĐBT thì các DN đã được CPH đương nhiên sẽ hoạt động trong khuôn khổ Luật Công ty cả về hình thức tổ chức quản lý lẫn hoạt động tài chính. Vì vậy, cần phải có điều lệ và quy chế hoạt động tuân thủ theo các quy định của Luật Công ty...
1.9. Các DN được lựa chọn để CPH cần phải có sự giải quyết rõ ràng, dứt điểm các vấn đề tồn đọng về tài chính và lao động trước khi chuyển sang công ty cổ phần...
2. Giải pháp đẩy mạnh CPH một bộ phận DNNN trong thời gian tới
Để đảm bảo mục tiêu CPH như đã định, trong thời gian tới chúng ta cần làm tốt một số việc sau đây :
- Do trong CPH cũng có tư nhân hóa nên việc bán cổ phần cho các cá nhân là tất nhiên, do đó cần quy định tỷ lệ cổ phần bán cho người nước ngoài cho phù hợp để thu hút tối đa nguồn lực cho phát triển kinh tế.
- Các cấp, các ngành, các DNNN cần quán triệt sâu sắc và có nhận thức đâỳ đủ, đúng đắn về chủ trương, chính sách, các giải pháp đổi mới và phát triển DNNN với tiến trình cụ thể cho từng năm cuả Chính phủ, từ đó triển khai thực hiện với phương châm tích cực, vững chắc,tạo ra sự chuyển biến rõ rệt.
- Tuyên truyền rộng rãi trong nhân dân, trước hết là trong các DNN về các chủ trương CPH với những sửa đổi bổ sung về chế độ khuyến khích tạo ra sự quan tâm của toàn xã hội với chủ trương quan trọng.
- Giải quyết tốt vấn đề lao động, việc làm cho người lao động, tích cực giải quyết các khoản nợ của DN, tạo tiền đề cho việc thực hiện thành công chương trìng CPH.
- Nghiên cứu, sửa đổi , bổ sung, hoàn thiện, ban hành mới các Nghị định về CPH để phù hợp với yêu cầu và những vấn đề đặt ra trong CPH: từ đối tượng, chính sách đối với DN và người lao động, đồng thời cần xem xét mối quan hệ giữa giai cấp công nhân với nông dân, đảm bảo sự công bằng xã hội,có chính sách hỗ trợ những người có thu nhập thấp, giảm bớt chênh lệch giữa người có thu nhập cao và người có thu nhập thấp trong DN.
- Chính phủ giao nhiệm ụ và phân cấp mạnh cho các bộ, ngành, Trung ương và UBND tỉnh, thành phố xử lý các vấn đề cụ thể nảy sinh, giải quyết nhanh các yêu cầu không cần phải chờ đợi kéo dài.
- Các ngành, các địa phương cần tiến hành phân loại sắp xếp DNNN do mình thành lập thành :
+ Trước mắt là một số ít các DNNN cần giữ 100% vốn Nhà nước hoặc có cổ phần chi phối mà các thành phần kinh tế khác không muốn hoặc không có khả năng đầu tư vốn.
+ Các DNNN có vốn dưới 1 tỷ đồng làm ăn thua lỗ triền miên thì cho thuê, sát nhập, bán, giao cho công nhân sử dụng hoặc phá sản.
+ Các DN còn lại không phụ thuộc quy mô, ngành nghề đều thuộc diện CPH với bước đi thích hợp.
- Các Bộ, ngành, tỉnh, thành phố chưa thành lập Ban Chỉ đạo CPH cần khẩn trương thành lập ngay như cac văn bản hướng dẫn của Trung ương. Riêng một số Bộ và các thành phố lớn có thành lập Ban Chỉ đạo CPH hoạt động theo chế độ chuyên trách để giúp UBND thành phố và Bộ giải quyết các công việc về CPH.
- Hoàn thiện hệ thống Luật doanh nghiệp và các Luật khác có liên quan. Cần quán triệt các tư tưởng mới của Luật Doanh nghiệp đến các cơ quan chức năng, bởi vì các DNNN sau khi được chuyển đổi sẽ được điều chỉnh theo luật này,thế nhưng không ít các cơ quan chức năng vẫn còn sử dụng những quy định cũ đã lỗi thời để gây khó khăn cho các hoạt động của DN.
- Tiếp tục đẩy nhanh quá trình CNH - HĐH, nâng cao chất lượng đào tạo đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật, cán bộ quản lý, trình độ dân trí làm cơ sở cho CPH đi lên.
Kết luận
CPH DNNN là chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ta trong việc đổi mới và cải cách dnnn, nó vừa phù hợp xu hướng phát triển khách quan của nền kinh tế thị trường, vừa đáp ứng được yêu cầu đòi hỏi tất yếu cho phát triển nền kinh tế nước ta.
Việc đánh giá, giá trị doanh nghiệp còn nhiều bất cập như đánh giá không đúng với thực tế, trong nhiều trường hợp thấp hơn giá trị thị trường của doanh nghiệp do chưa có cơ chế "đấu giá doanh nghiệp"
Việc kinh doanhvà tiêu thụ sản phẩm trong nhiều công ty cổ phần chưa mang lại hiệu quả cao do cơ chế hoạt động của công ty cổ phần còn lõng lẽo, chưa hoạch định được kế hoạch tài chính lâu dài cũng như trước mắt, nhất là có chiến lược thị trường, chiến lược cạnh tranh hữu hiệu.
Qua những khó khăn như vậy em đã đề xuất một số giải pháp nhằm đẩy nhanh quá trình CPH và cơ cấu lại khu vực dnnn làm cho khu vực kinh tế nhà nước phù hợp với kinh tế thị trường, nâng cao khả năng cạnh tranh và hoạt động cơ hiệu quả hơn, đủ thực lực vật chất để giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế thị trường. Tuy vậy, cph dnnn là một đề tài lớn một công việc hết sức mới mẽ đối với nước ta, cho nên tiểu luận mới chỉ dừng lại nghiên cứu đề xuất những vấn đề còn rất nhỏ và rất cụ thể phát sinh trong quá trình CPH do đó không thể tránh khỏi nhiều hạn chế. Quá trình CPH ở nước ta rất nhiều vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu bổ sung hoàn thiện để chúng ta thực hiện thành công chủ trương CPH DNNN.
Trong quá trình tìm tài liệu và viết đề án do kiến thức còn chưa đầy đủ nên bài làm của em còn có những phần chưa chính xác, chưa đúng. Cuối cùng em xin chân thành cảm ơn cô giáo đã tận tình hướng dẫn em hoàn thành đề án này.
danh mục tài liệu tham khảo
[1]. Cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước, những vấn đề lý luận và thực tiễn.
PGS – TS Lê Hồng Hạnh
[2]. Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước. Cơ sở lý luận và kinh nghiệm thực tiễn.
Nguyễn Ngọc Quang
[3]. Cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước ở Việt._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 28110.doc