a. đặt vấn đề
Trong công cuộc đổi mới đất nước những năm gần đây, nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung ở Việt Nam đã từng bước chuyển sang nền kinh tế thị trường như một đòi hỏi tất yếu của sự phát triển. Trong điều kiện cơ chế quản lý thay đổi, khi hiệu quả sản xuất kinh doanh trở thành yếu tố sống còn của mỗi doanh nghiệp thì nhiều doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế Nhà nước đã bộc lộ đầy đủ những yếu kém, lâm vào tình trạng sa sút và khủng hoảng. Đại hội VI, VII, VIII của Đảng đã xác định khâu
20 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1271 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Đẩy mạnh cổ phần hoá 1 bộ phận Doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đột phá để đổi mới nền kinh tế là sắp xếp và đổi mới quản lý doanh nghiệp Nhà nước. Một trong những giải pháp có tính chiến lược để giải quyết vấn đề này là tiến hành " cổ phần hoá một số doanh nghiệp Nhà nước nhằm đa dạng hoá sở hữu, đưa yếu tố cạnh tranh làm động lực để tăng hiệu quả kinh doanh và xác lập một mô hình doanh nghiệp hữu hiệu trong nền kinh tế thị trường".
Sau hơn 12 năm thực hiện chủ trương cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước , cho đến nay đã có gần 2500 doanh nghiệp được cổ phần hoá. Nhìn chung các doanh nghiệp cổ phần hoá đều phát triển ổn định và hoạt động có hiệu quả hơn. Tuy nhiên, thực tiễn cũng chỉ ra nhiều trở ngại gây khó khăn cho các doanh nghiệp sau cổ phần hoá . Việc nhận thức đúng bản chất, tầm quan trọng, thực trạng các doanh nghiệp cổ phần hoá và tìm biện pháp tháo gỡ tạo điều kiện cho các doanh nghiệp này phát triển tốt hơn là vấn đề bức xúc hiện nay.
Xuất phát từ tính thời sự của vấn đề này, đề án kinh tế chính trị của em đã được thực hiện với đề tài :
" Đẩy mạnh cổ phần hoá một bộ phận doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam"
b. nội dung
I. Một số vấn đề lý luận chung về cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước:
1. Khái niệm về cổ phần hóa:
Điều 1 Thông tư số 50/TCDN ngày 30/8/1996 của Bộ Tài chính quy định: " Doanh nghiệp nhà nước chuyển thành công ty cổ phần ( hay còn gọi là cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước) là một biện pháp chuyển doanh nghiệp từ sở hữu nhà nước sang hình thức sở hữu nhiều thành phần, trong đó tồn tại một phần sở hữu nhà nước ".
Luật Công ty ngày 21/12/1990 và Luật sửa đổi một số điều luật Công ty: " Công ty cổ phần và công ty trách nhiệm hữu hạn gọi chung là doanh nghiệp trong đó các thành viên cùng góp vốn cùng chia lợi nhuận, cùng chịu lỗ tương ứng với phần vốn góp và chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của Công ty trong phạm vi phần vốn của mình vào công ty."
2. Bản chất cổ phần hoá:
ở nước ta, chủ trương cổ phần hoá (CPH) một số doanh nghiệp nhà nước (DNNN) xuất phát từ đường lối kinh tế và đặc điểm kinh tế xã hội của nước ta trong giai đoạn hiện nay: Xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Chúng ta đang bố trí lại cơ cấu kinh tế và chuyển đổi cơ chế quản lý cho phù hợp với đường lối ấy. Đó là sự chuyển hướng chiến lược kinh tế - xã hội của nước ta, đó cũng là đặc điểm lớn nhất chi phối, quyết định mục đích, nội dung và phương thức CPH DNNN. Trên cơ sở đó, cần nhận thức rằng: Thực chất CPH ở nước ta là nhằm cơ cấu lại DNNN cho hợp lý và hiệu quả, còn việc chuyển đổi sở hữu của Nhà nước thành sở hữu của các cổ đông trong công ty cổ phần chỉ là một trong những phương tiện quan trọng để thực hiện mục đích trên.
CPH DNNN xét về bản chất kinh tế là quá trình chuyển đổi hình thức sở hữu một phần tài sản của Nhà nước thành sở hữu của các cổ đông, tạo ra dạng sở hữu hỗn hợp, trong đó Nhà nước có thể giữ một tỷ lệ nhất định - hình thành các công ty cổ phần.
Cụ thể:
2.1. Công ty cổ phần là sản phẩm xã hội hoá sản xuất và của nền kinh tế thị trường:
Công ty cổ phần là biểu hiện hình thức vận hành ở góc độ quan hệ sản xuất của sự xã hội hoá sản xuất. Theo cách nói của Mác thì nó là " tư bản xã hội". Tư bản, tự nó vốn dựa trên phương thức sản xuất xã hội và đòi hỏi phải có sự tập trung xã hội về tư liệu sản xuất và sức lao động, ở đây trực tiếp mang hình thái tư bản, tư bản xã hội (tư bản của những cá nhân trực tiếp liên hệ với nhau). Mác coi đó là " hình thái quá độ từ phương thức sản xuất TBCN sang phương thức sản xuất tập thể".
Công ty cổ phần là sản phẩm của quá trình tiến hoá lâu dài gắn liền với những nấc thang phát triển của xã hội hóa sở hữu tư nhân. Về mặt lịch sử, quá trình tiến hoá của các doanh nghiệp được đặc trưng bởi 3 loại hình chủ yếu tương ứng với 3 mức độ phát triển của xã hội hoá tư nhân: hình thái kinh doanh một chủ, hình thái kinh doanh chung vốn và hình thái công ty cổ phần. Hình thái công ty cổ phần ra đời đánh dấu sự tiến hoá của chế độ tín dụng từ kinh doanh chủ yếu dựa vào vay mượn qua ngân hàng hoặc chung vốn sang huy động vốn trên thị trường tài chính, trong đó chủ yếu là thị trường chứng khoán. Các công ty cổ phần là nguồn cung cấp sản phẩm cho sự phồn vinh của thị trường chứng khoán. Đổi lại, sự thịnh vượng của thị trường này tạo điều kiện cho các công ty cổ phần sinh sôi nảy nở. Có thể nói công ty cổ phần ra đời mang những đặc điểm mới cho phép thích ứng với những đòi hỏi của nền sản xuất xã hội hoá cao và sự phát triển nền kinh tế thị trường hiện đại mà những hình thái khác không đáp ứng được. Đó là :
- Công ty cổ phần là một tổ chức kinh tế có tư cách pháp nhân và các cổ đông chỉ có trách nhiệm pháp lý hữu hạn trong phần góp vốn của mình. Điều này cho phép công ty có tư cách pháp lý đầy đủ để huy động những lượng vốn rải rác trong nhiều cá nhân trong xã hội.
- Cơ cấu tổ chức trong công ty cổ phần đã thực hiện được việc tách biệt quyền sở hữu và quyền kinh doanh, tạo nên một hình thái xã hội hoá sở hữu: Một bên là đông đảo công chúng mua cổ phần, còn bên kia là đội ngũ những nhà quản trị kinh doanh chuyên nghiệp sử dụng thiết bị xã hội cho những công cuộc kinh doanh quy mô lớn.
- Các cổ phiếu và trái phiếu của công ty cổ phần được chuyển nhượng dễ dàng trên thị trường chứng khoán, vì thế bất kể cổ phiếu được chuyển giao bao nhiêu lần thì cuộc sống của doanh nghiệp vẫn tiếp tục một cách bình thường mà không bị ảnh hưởng. Đồng thời, nhờ cơ chế này nó đã tạo nên sự di chuyển linh hoạt các nguồn vốn xã hội, theo các nhu cầu và cơ hội đầu tư đa dạng của các công ty và công chúng.
Do đó , có thể khẳng định loại hình công ty cổ phần là một hình thức tổ chức về quyền tài sản, sự phát triển của công ty cổ phần gắn chặt với trình độ phát triển của nền sản xuất xã hội và trình độ phát triển của nền kinh tế thị trường.
2.2. Công ty cổ phần là hình thức tổ chức về quyền tài sản phù hợp với nền sản xuất xã hội hoá:
Công ty cổ phần là hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh hoặc hình thức tổ chức kinh tế . Mặc dù kinh tế cổ phần ra đời trong xã hội TBCN nhưng nó ra đời cùng với sự phát triển của nền sản xuất lớn xã hội hoá và của nền kinh tế hàng hoá.Chức năng cơ bản của nó là thúc đẩy quá trình xã hội hoá tư bản tập trung tư bản nhàn rỗi, phân tán để đạt hiệu quả cao, kết quả của nó là thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế hàng hoá và sự phát triển của lực lượng sản xuất xã hội. Theo nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác, công ty cổ phần có tác dụng tích cực trong quá trình thúc đẩy sự chuyển hoá từ tư bản cá nhân sang tư bản xã hội. Mác coi chế độ cổ phần là " điểm quá độ" từ sản xuất tư hữu chuyển hoá sang tài sản công hữu. Nền kinh tế hàng hoá là một giai đoạn không thể bỏ qua để phát triển lực lượng sản xuất của xã hội loài người. Chỉ có thể xã hội hoá lực lượng sản xuất thì cuối cùng mới có thể thực hiện được chế độ công hữu về tư liệu sản xuất. Sở dĩ công ty cổ phần có thể phát huy vai trò quan trọng trong việc phát triển nền kinh tế hàng hoá bởi vì công ty cổ phần không phải thúc đẩy tư nhân hóa tài sản mà thúc đẩy xã hội hoá về tài sản.
Từ sự phân tích trên đây, có thể thấy sự khác nhau cơ bản giữa quá trình CPH ở nước ta với quá trình tư nhân hoá của các nước trên thế giới ở một số nội dung chính sau đây:
- Thực chất của tư nhân hoá DNNN là việc bán một phần hay toàn bộ tư liệu sản xuất (tài sản) thuộc sở hữu toàn dân cho tư nhân. Còn CPH của ta là việc Nhà nước bán một phần hay toàn bộ giá trị tư liệu sản xuất (tài sản) trong một số doanh nghiệp cho các tổ chức hoặc tư nhân ( cổ đông gồm các thành phần: Quốc doanh + tập thể; Quốc doanh + tư nhân; Tập thể + tư nhân; Quốc doanh + tập thể + tư nhân) - tức là chuyển từ sở hữu toàn dân sang sở hữu nhiều chủ, thuộc các thành phần kinh tế khác nhau, thường gọi là sở hữu hỗn hợp, chứ không thể thuần tuý là tư nhân hoá.
- Ngoài sự khác biệt căn bản nêu trên, chúng ta còn nhận thấy rằng CPH có đặc điểm là việc bán những DNNN nào và bán ở mức độ nào cho tư nhân (tỷ trọng cổ phiếu phát ra) là do Nhà nước quyết định nên cũng không sợ rằng chủ trương CPH rốt cuộc chính là tư nhân hoá toàn bộ kinh tế Nhà nước làm mất định hướng chủ nghĩa xã hội như một số người vẫn hiểu.
- Mục đích của tư nhân hoá là tăng cường khu vực kinh tế tư nhân. Và ở các nước, coi CPH là một trong những biện pháp để đạt mục đích đó. Còn CPH ở nước ta nhằm mục đích bố trí lại cơ cấu kinh tế và chuyển đổi cơ chế quản lý cho phù hợp với đường lối xây dựng nền kinh tế mà Đảng và Nhà nước đã đề ra.
Tóm lại, công ty cổ phần là một hình thức tổ chức kinh tế thích ứng đòi hỏi của nền sản xuất xã hội hoá. Nó là sự xác định và xác nhận quyền sở hữu tài sản của doanh nghiệp bằng hình thức cổ phần và phân phối lợi tức cổ phần theo mức doanh lợi của công ty. Công ty cổ phần là sự biểu hiện xã hội hoá về mặt kinh tế xã hội, nó phù hợp với tính chất và trình độ xã hội hoá về mặt kinh tế kỹ thuật.
3. sự cần thiết phải đẩy mạnh cổ phần hoá một bộ phận doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam:
3.1. Cơ sở lý luận của cổ phần hoá một bộ phận doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam:
Thứ nhất, xét về hình thái kinh tế xã hội,trong một xã hội, với lực lượng sản xuất nhất định- phù hợp với tính chất và trình độ của nó là các quan hệ sở hữu tư liệu sản xuất, quan hệ quản lý và quan hệ phân phối khác nhau- sẽ hình thành các phương thức sản xuất khác nhau, trong đó có một phương thức sản xuất thống trị làm cơ sở, nền tảng của toàn xã hội. Đối với giai đoạn quá độ chuyển từ chế độ này sang chế độ khác, do không có phương thức sản xuất nào giữ địa vị thống trị nên mỗi phương thức sản xuất chỉ là một bộ phận của kết cấu kinh tế - xã hội có tính độc lập tương đối, chúng tác động lẫn nhau, hợp tác và đấu tranh với nhau để hình thành nên một thành phần kinh tế - xã hội.Một trong các thành phần này sẽ vươn lên nắm vai trò chủ đạo, chi phối các thành phần kinh tế khác theo định hướng của mình, tiến tới giữ địa vị thống trị nền kinh tế quốc dân và xác lập nên phương thức sản xuất xã hội. Như vậy, đối với bất kỳ xã hội nào trong thời kỳ quá độ, cơ sở để phân định các thành phần kinh tế là quan hệ sản xuất, trong đó quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất là cơ bản.
Học thuyết hình thái kinh tế- xã hội của Mác - Ăngghen cũng chỉ ra rằng không thể có một hình thái kinh tế xã hội trong thời kỳ quá độ. Trong thời kỳ quá độ, muốn định hướng một hình thái kinh tế- xã hội thì trước hết phải định hướng một phương thức sản xuất, hay nói cụ thể hơn là phải định hướng được một thành phần kinh tế. Định hướng phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa, gắn liền với nó là những thiết chế nhà nước XHCN, quan điểm tư tưởng xã hội, điều kiện địa lý, dân số và truyền thống văn hoá dân tộc sẽ hình thành định hướng hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa. Điều này lý giải sự không thể giống nhau trong việc mỗi quốc gia phải chọn một con đường phát triển kinh tế xã hội cho riêng mình, đặc biệt đối với thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Sự phân tích về trình độ phát triển của lực lượng sản xuất ở nước ta, quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất và lý luận của Lênin về đặc điểm nền kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội cho thấy: nền kinh tế nước ta có các thành phần kinh tế sau đây:
- Kinh tế nhà nước: là thành phần kinh tế dựa trên chế độ sở hữu công cộng (công hữu) về tư liệu sản xuất.
- Kinh tế tập thể : là thành phần kinh tế dựa trên hình thức sở hữu tập thể về tư liệu sản xuất.
- Kinh tế cá thể, tiểu chủ: là thành phần kinh tế dựa trên tư hữu nhỏ về tư liệu sản xuất và khả năng lao động của bản thân người lao động và gia đình.
- Kinh tế tư bản tư nhân : dựa trên hình thức sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất.
- Kinh tế tư bản nhà nước:thành phần kinh tế này dựa trên hình thức sở hữu hỗn hợp về vốn giữa kinh tế nhà nước với kinh tế tư bản tư nhân trong và ngoài nước.
- Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài:bao gồm các doanh nghiệp có thể 100% vốn nước ngoài có thể liên kết, liên doanh với doanh nghiệp nhà nước hoặc doanh nghiệp tư nhân của nước ta.
Tuy nhiên, nếu xét về quan hệ, hình thức và quy mô sở hữu đối với tư liệu sản xuất ở dạng tổng quát nhất thì có thể nói rằng trong nền kinh tế nước ta đang tồn tại 3 loại hình sở hữu cơ bản đó là:
- Sở hữu nhà nước XHCN
- Sở hữu hỗn hợp: gồm Nhà nước với tư nhân trong và ngoài nước; Nhà nước với tư nhân nước ngoài; Nhà nước với tư nhân trong nước; Nhà nước với tư nhân và người lao động; tư nhân với tư nhân
- Sở hữu tư nhân
Căn cứ vào các chính sách mở cửa và phát triển kinh tế của Đảng và Nhà nước qua các kỳ Đại hội Đảng từ năm 1986 đến nay, chúng ta có thể khẳng định rằng quá trình hình thành loại hình sở hữu hỗn hợp- mà hạt nhân trung gian là thành phần kinh tế tư bản nhà nước XHCN- sẽ là quá trình chủ yếu có tính kinh tế xã hội cao và diễn ra với tốc độ nhanh trong thời gian này ở nước ta.
Thứ hai, xét về xã hội hoá sản xuất thì xã hội hoá sản xuất là sự liên kết nhiều quá trình kinh tế riêng biệt thành quá trình kinh tế xã hội và quá trình này được hình thành, hoạt động và phát triển liên tục, tồn tại như một hệ thống hữu cơ. ở bất kỳ một xã hội nào, xã hội hoá sản xuất biểu hiện ở sự phân công lao động phát triển; mối liên hệ giữa các ngành, các khu vực, các vùng ngày một chặt chẽ; sản xuất tập trung với quy mô hợp lý; sản phẩm làm ra là kết quả của nhiều người, thậm chí nhiều quốc gia. Theo quan điểm kinh tế chính trị Mác - Lênin, xã hội hoá sản xuất là xu hướng vận động cơ bản của sự phát triển kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và nội dung của xã hội hoá sản xuất XHCN phải được tiến hành trên cả ba mặt của quá trình: kinh tế kỹ thuật, kinh tế xã hội và kinh tế tổ chức; có nghĩa là phải xem xét trong một tổng thể hình thái kinh tế - xã hội, trong đó quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất là then chốt.
Xem xét xu hướng xã hội hoá sản xuất theo học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của Mác - Ăngghen, có thể khẳng định rằng: trong giai đoạn hiện nay ở nước ta, xã hội hoá sản xuất theo định hướng XHCN, trước hết phải thực hiện xã hội hóa sở hữu tư liệu sản xuất theo định hướng XHCN. Quá trình xã hội hoá sở hữu tư liệu sản xuất phải đảm bảo được: tính chủ đạo của thành phần kinh tế nhà nước XHCN, phát triển cơ sở vật chất kỹ thuật để có năng suất lao động cao và phù hợp với những vận động và thiết chế của Nhà nước để củng cố và phát triển lực lượng sản xuất XHCN. Xã hội hoá sở hữu tư liệu sản xuất ở nước ta, trong thời kỳ quá độ, được thực hiện bằng hình thức cổ phần hoá doanh nghiệp, hợp tác hoá đối với kinh tế cá thể và nhà nước xây dựng mới, trong đó hình thức cổ phần hoá doanh nghiệp để hình thành loại hình sở hữu hỗn hợp là chủ yếu. CPH doanh nghiệp, trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, là để nhằm thiết lập các quan hệ sản xuất phù hợp với nền kinh tế nhiều thành phần, đẩy mạnh sự cạnh tranh và liên kết giữa các thành phần kinh tế, phát triển kinh tế hàng hoá, tập trung nguồn lực của Nhà nước để phát triển các cơ sở hạ tầng và các ngành kinh tế mũi nhọn, phát triển kinh tế tập thể- vốn được coi là hình thức sở hữu xã hội thu nhỏ, hạn chế tập trung tư bản tư nhân và thúc đẩy quá trình xã hội hoá công tác tổ chức quản lý sản xuất và phân phối sản phẩm.
3.2. Cơ sở thực tiễn của cổ phần hoá một bộ phận doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam:
Cơ sở thực tiễn của CPH chính là thực trạng của các DNNN trước cổ phần hoá.
Các DNNN ở Việt Nam được hình thành từ năm 1954 ( ở miền Bắc) và từ năm 1975 ( ở miền Nam). Do hình thành từ nhiều nguồn gốc khác nhau và được xây dựng trên cơ sở của nhiều quan điểm nên các DNNN ở Việt Nam có đặc trưng khác biệt so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới. Biểu hiện:
- Quy mô doanh nghiệp phần lớn nhỏ bé, cơ cấu phân tán, biểu hiện ở số lượng lao động và mức độ tích luỹ vốn.
- Trình độ kỹ thuật, công nghệ lạc hậu. Trừ một số rất ít DNNN được đầu tư mới đây (sau 1986), phần lớn các DNNN đã được thành lập khá lâu, có trình độ kỹ thuật thấp. Theo báo cáo điều tra bộ khoa học - công nghệ và môi trường thì trình độ công nghệ trong các DNNN của Việt Nam kém các nước từ 3- 4 thế hệ. Mặt khác, đại bộ phận DNNN được xây dựng bằng kỹ thuật của nhiều nước khác nhau nên tính đồng bộ của các doanh nghiệp thấp. Vì vậy, khi chuyển sang kinh tế thị trường, các DNNN khó có khả năng cạnh tranh cả trong nước và quốc tế.
- Việc phân bố còn bất hợp lý về ngành và vùng.
Sau gần 20 năm đổi mới, các DNNN đã và đang chuyển biến khá căn bản, đã sắp xếp lại một bước quan trọng, giảm được gần một nửa số doanh nghiệp chủ yếu là những doanh nghiệp địa phương, nhỏ bé hoạt động không có hiệu quả. Số lớn doanh nghiệp còn lại được tổ chức lại và từng bước phát huy quyền tự chủ kinh doanh làm ăn năng động và có hiệu quả. Nhưng nhìn chung các DNNN vẫn còn rất khó khăn, hiệu quả kinh doanh còn thấp, nhiều doanh nghiệp vẫn làm ăn thua lỗ triền miên, hoạt động cầm chừng; sự đóng góp của DNNN cho ngân sách chưa tương xứng với phần đầu tư của Nhà nước, cũng như với tiềm lực của DNNN; tình trạng mất và thất thoát lớn về vốn đang diễn ra hết sức nghiêm trọng, việc quản lý đối với DNNN còn quá yếu kém, đặc biệt nghiêm trọng là tình hình buông lỏng quản lý tài chính làm Nhà nước mất vai trò thực sự là người chủ sở hữu; tình trạng phân hoá, chênh lệch trong thu nhập ngày càng tăng (có nhiều doanh nghiệp thu nhập bình quân trên 1 triệu đồng/người/ tháng, trong khi nhiều doanh nghiệp lương công nhân không đảm bảo nhu cầu tối thiểu).
Có thể nói, các DNNN ở nước ta do yếu tố lịch sử để lại đã và đang đóng góp vai trò to lớn trong nhiều lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân, nhưng lại hoạt động kém hiệu quả và phát sinh nhiều tiêu cực. Quá trình chuyển đất nước sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước tất yếu phải đổi mới căn bản DNNN. Đây là một mâu thuẫn lớn, song bắt buộc phải kiên quyết đổi mới, phải có giải pháp và bước đi phù hợp với trình độ thực tế cơ sở. Chủ trương chuyển phần lớn DNNN sang công ty cổ phần là một trong những giải pháp cơ bản và cần thiết.
Tóm lại, từ cơ sở lí luận và thực tiễn nêu trên, chúng ta có thể thấy CPH một bộ phận DNNN ở Việt Nam là tất yếu khách quan.
4. Mục tiêu của cổ phần hoá:
Theo " Đề án thí điểm chuyển một số DNNN thành công ty cổ phần" ban hành kèm theo Quyết định 202 - HĐBT của Chủ tịch Hội đồng bộ trưởng (nay là Thủ tướng chính phủ) thì CPH phải đạt ba mục tiêu:
4.1. Mục tiêu thứ nhất: Chuyển một phần quyền sở hữu về tài sản của Nhà nước thành sở hữu của các cổ đông nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Mục tiêu này xuất phát từ yêu cầu đòi hỏi của nền kinh tế thị trường phải có các hình thức sở hữu khác nhau tồn tại; Yêu cầu của nó cũng xuất phát từ yêu cầu của một nền kinh tế quá độ không quốc doanh hoá tràn lan mà chỉ duy trì các DNNN ( 100% vốn) trên các lĩnh vực và các ngành then chốt của nền kinh tế.
Khi chuyển các DNNN sang công ty cổ phần và xoá bỏ cấp chủ quản dưới các hình thức, việc xác lập quyền tự chủ kinh doanh, tách quyền quản lý Nhà nước và quyền quản lý kinh doanh là đương nhiên thực hiện được. Và cũng chính điều đó đưa lại một khả năng mới là việc xác lập bộ máy quản lý và bổ nhiệm người vào các chức vụ quản lý kinh doanh do các cổ đông quyết định. Nhờ đó mà nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của các công ty.
4.2. Mục tiêu thứ hai: Huy động một khối lượng vốn nhất định ở trong và ngoài nước để đầu tư cho sản xuất kinh doanh.
Sự thay đổi cơ cấu sở hữu trong CPH DNNN cũng có nghĩa thu hút các nguồn vốn của các thành phần kinh tế trong xã hội vào doanh nghiệp. Đây là mục tiêu cần thiết, tuy nhiên việc thực hiện ở nước ta gặp rất nhiều khó khăn và trở ngại. Bởi vì, trên thực tế các nhà đầu tư chỉ bỏ vốn góp cổ phần theo sự lựa chọn của họ đối với các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh có lãi, có triển vọng. Do vậy, để thu hút được vốn từ các thành phần kinh tế, chúng ta cần lựa chọn kỹ lưỡng các loại doanh nghiệp và xác định bước đi cụ thể trong giai đoạn CPH.
4.3. Mục tiêu thứ ba: Tạo điều kiện để người lao động thực sự làm chủ doanh nghiệp
Việc chuyển một số DNNN thành công ty cổ phần đã tách biệt rõ ràng quyền sở hữu và quyền sử dụng tư liệu sản xuất của doanh nghiệp, quyền sở hữu và quyền kinh doanh, hành vi của chính quyền và hành vi của doanh nghiệp được hợp lý hoá một cách rõ nét. Sự can thiệp trực tiếp của các cấp chính quyền vào hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp sẽ giảm đến mức thấp nhất. Thông qua việc mua cổ phần, người lao động mới có điều kiện để thực hiện trên thực tế quyền làm chủ đích thực của mình. Với tư cách là cổ đông, họ tham gia cùng các cổ đông khác quyết định chiến lược phát triển của công ty, tham gia quản lý, phân chia lợi nhuận, sáp nhập, giải thể công ty, lựa chọn Hội đồng quản trị.
II.Thực trạng cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam:
1. Tiến trình cổ phần hoá:
Chủ trương CPH DNNN ở Việt Nam lần đầu tiên được nêu tại Nghị quyết Hội nghị lần thứ 2 Ban chấp hành Trung ương khoá VII ( tháng 11/1991), được cụ thể hoá trong Nghị quyết Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá VII ( 1/1994) và hàng loạt các văn bản khác đã ra đời. Chính phủ đã triển khai thực hiện từng bước các Nghị quyết, văn bản và chú ý điều chỉnh các chính sách cho phù hợp với tình hình thực tế.
Quá trình thực hiện có thể chia làm 2 giai đoạn chính:
a. Giai đoạn thí điểm ( 1992 - 1995 ):
Trong giai đoạn này, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng ( nay là Thủ tướng Chính phủ) đã ban hành Quyết định số 202/CT ngày 8 tháng 6 năm 1992 về tiếp tục thí điểm chuyển một số DNNN thành công ty cổ phần và Chỉ thị 84/TTg về việc xúc tiến thực hiện thí điểm CPH DNNN và các giải pháp đa dạng hoá hình thức sở hữu đối với các DNNN.
Sau 4 năm triển khai , 5 DNNN đã được chuyển thành công ty cổ phần:
- Công ty Đại lý Liên hiệp vận chuyển thuộc Bộ Giao thông vận tải (năm 1993)
- Công ty Cơ điện lạnh thuộc Uỷ ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh (năm 1993)
- Xí nghiệp Giày Hiệp An, thuộc Bộ công nghiệp (năm 1994)
- Xí nghiệp chế biến hàng xuất khẩu, thuộc Uỷ ban nhân dân tỉnh Long An (năm 1995)
- Xí nghiệp Chế biến thức ăn gia súc, thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn ( năm 1995)
b. Giai đoạn mở rộng thêm từ năm 1996 đến nay:
Trên cơ sở đánh giá các ưu điểm và tồn tại trong giai đoạn thí điểm CPH một số DNNN, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 28/CP ngày 7 tháng 5 năm 1996 về chuyển một số DNNN thành công ty cổ phần.
Quy trình chuyển đổi DNNN thành công ty cổ phần được thực hiện cụ thể như sau:
Thực hiện Nghị định số 44/1998/ NĐ- CP ngày 29 tháng 6 năm 1998 của Chính phủ về chuyển DNNN thành Công ty cổ phần, Ban đổi mới quản lý doanh nghiệp Trung ương hướng dẫn quy trình chuyển DNNN thành công ty cổ phần như sau:
1.1.Bước 1: Chuẩn bị CPH:
- Các Bộ , cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ ( gọi tắt là các Bộ), các Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương ( gọi tắt là ủBND tỉnh), các Tổng công ty do Thủ tướng quyết định thành lập (gọi tắt là Tổng Công ty 91): Dựa vào phương án phân loại và sắp xếp DNNN theo Chỉ thị số 20/1998/CT-TTg ngày 21 tháng 4 năm 1998 của Thủ tướng Chính phủ và bảng danh mục DNNN để lựa chọn CPH ban hành kèm theo Nghị định 44/1998/NĐ - CP ngày 29 tháng 6 năm 1998, lập danh sách DNNN CPH từng năm báo cáo Thủ tướng Chính phủ và gửi cho doanh nghiệp để thực hiện. Riêng các doanh nghiệp (DN) thành viên của Tổng công ty 91, sau khi có ý kiến phê duyệt của thủ tướng Chính phủ sẽ tổ chức thực hiện CPH.
- Các DNNN trong danh sách CPH báo cáo các Bộ, ủBND tỉnh, Tổng công ty 91 dự kiến danh sách các thành viên trong Ban đổi mới quản lý tại DN.
- Các Bộ, ủBND tỉnh, Tổng công ty 91 quyết định thành lập Ban đổi mới quản lý tại DN thuộc quyền quản lý và quyết định từng DN CPH trong từng năm.
- Các Bộ, ủBND tỉnh, Tổng công ty 91 phổ biến các văn bản về CPH cho Ban Đổi mới quản lý tại DN và tiến hành CPH DN.
- Ban Đổi mới quản lý tại DN có trách nhiệm tuyên truyền, giải thích cho người lao động trong DN của mình những chủ trương chính sách của Chính phủ để tổ chức thực hiện và chuẩn bị các tài liệu có liên quan.
1.2. Bước 2 : Xây dựng phương án CPH:
- Ban Đổi mới quản lý tại DN tổ chức kiểm kê tài sản, vật tư, tiền vốn, công nợ của DN và phân loại
- Các Bộ, ủBND tỉnh, Tổng công ty 91 thống nhất với cơ quan quản lý vốn và tài sản Nhà nước tại DN về giá trị thực tế của DN, ra văn bản thoả thuận với Bộ Tài chính về mức giá này.
- Quyết định giá trị thực tế của DN
- Ban Đổi mới quản lý tại DN lập phương án (dự kiến) CPH DN và dự thảo Điều lệ tổ chức và hoạt động của Công ty cổ phần.
1.3. Bước 3: Phê duyệt và triển khai thực hiện phương án CPH:
- Các Bộ, ủbnd tỉnh, Tổng công ty 91 phê duyệt phương án CPH và quyết định chuyển DNNN thành công ty cổ phần đối với DN có vốn Nhà nước đã được quyết định từ 10 tỷ đồng trở xuống ( trường hợp DNNN có giá trị trên 10 tỷ đồng thì phải trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt)
- Ban Đổi mới quản lý tại DN: mở sổ đăng ký mua cổ phần của các cổ đông, đăng ký mua tờ cổ phiếu tại kho bạc Nhà nước, thông báo công khai tình hình tài chính của DN cho đến thời điểm CPH, tổ chức bán cổ phần
- Trưởng ban Đổi mới quản lý tại DN triệu tập Đại hội cổ đông lần thứ nhất để bầu Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát, thông qua Điều lệ tổ chức và hoạt động của công ty cổ phần.
1.4. Bước 4 : Ra mắt công ty cổ phần, đăng ký kinh doanh:
- Giám đốc, kế toán trưởng DN với sự chứng kiến của Ban Đổi mới quản lý tại DN và đại diện cơ quan quản lý vốn và tài sản Nhà nước bàn giao cho Hội đồng quản trị Công ty cổ phần: lao động, tiền vốn, tài sản, danh sách, hồ sơ cổ đông và toàn bộ các hồ sơ tài liệu, sổ sách của DN.
+ Ban Đổi mới quản lý tại DN bàn giao những công việc còn lại (nếu có) cho Hội đồng quản trị và công bố tự giải thể từ ngày ký biên bản bàn giao.
- Hội đồng quản trị Công ty cổ phần hoàn tất những công việc còn lại:
+ Xin khắc con dấu Công ty cổ phần. Nộp lại con dấu cũ
+ Lập bảng kê đề nghị kho bạc tỉnh, thành phố cung cấp cho các cổ đông tờ cổ phiếu phù hợp với số cổ phần của các cổ đông.
+ Tổ chức ra mắt Công ty cổ phần
+ Đăng ký với Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nơi DN đóng trụ sở chính.
2. Những thành tựu và hạn chế của quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam :
CPH DNNN đã được đẩy mạnh từ năm 2002 sau khi Nghị định 64/2002/NĐ- CP được ban hành thay thế cho Nghị định 44/1998/NĐ- CP. Trong năm 2002, có 164 DN đã được CPH, trong khi năm 2003, con số này tăng lên tới 611 DN (trong đó có 537 DN và 74 bộ phận DN ). Như vậy, tổng số DNNN được CPH trong giai đoạn 2002-2003 đạt 775 DN, nhiều hơn cả giai đoạn từ giữa năm 1998 đến hết năm 2001, song chỉ đạt 63% so với kế hoạch.Số lượng DN CPH năm 2003 tuy lớn hơn năm 2002 nhưng chủ yếu là do có số DN bắt đầu thực hiện kế hoạch từ năm 2002 và chuyển sang hoàn thành trong năm 2003.
Theo đề án đã được Thủ tướng phê duyệt, trong năm 2004, cả nước phải thực hiện sắp xếp 893 DNNN, trong đó phải CPH 751 DN (nếu kể cả số DN còn lại phải sắp xếp trong năm 2003 chuyển qua thì phải sắp xếp 1468 DN, trong đó phải CPH 1000 DN). Trong chín tháng đầu năm 2004, cả nước đã sắp xếp được 615 DNNN (đạt 69% kế hoạch), trong đó đã CPH 425 DN độc lập và 64 bộ phận DN (đạt 57% kế hoạch). Nhiều DNNN có quy mô lớn (như Công ty Sữa Việt Nam, Công ty Bảo hiểm thành phố Hồ Chí Minh) và hoạt động trong một số lĩnh vực độc quyền nhà nước ( như điện lực, viễn thông) đã được CPH.
Theo báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, đến năm 2004 đã có 2242 DNNN được CPH. Trong đó, các DN ngành công nghiệp, giao thông, xây dựng chiếm 65,5% với 1469 DN; các DN thuộc các ngành thương mại, dịch vụ chiếm 28,7% với 643 DN; DN thuộc các ngành nông, lâm, ngư nghiệp 5,8% với 130 DN. Các DNNN thuộc các tổng công ty 90 và 91 chiếm 8,5% với 191 DN; DN thuộc các địa phương chiếm 65,7% với 1473 DN; DN các Bộ, ngành Trung ương chiếm 25,8% với 578 DN.
Tính từ năm 1992 đến đầu tháng 4/2005, cả nước đã CPH được gần 3350 DN và bộ phận DNNN.
2.1. Thành tựu của quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam:
Qua khảo sát 559 DNNN đã CPH hơn 1 năm cho thấy có tới 87,53% khẳng định kết quả hoạt động tốt hơn trước. Các DNNN sau CPH đã đạt được một số thành tựu chính sau đây:
Một là, ngay trong năm đầu tiên CPH, doanh thu bình quân của DN tăng 13%, lợi nhuận sau thuế tăng 48,8%. Điều này cho việc chuyển đổi đã có tác động mạnh đến hiệu quả hoạt động của DN.
Hai là, đối với DN CPH nhiều năm đã đi vào hoạt động ổn định, tốc độ tăng trưởng của DN được duy trì, doanh thu bình quân tăng 23,6%, lợi nhuận trước thuế tăng 9,4%, lợi nhuận sau thuế tăng tới 54,4%. Một số DN có doanh thu tăng cao như Công ty Cổ phần Đại lý liên hiệp Vận chuyển: 30 lần, Công ty Cổ phần Cơ điện lạnh: 13 lần, Công ty Cổ phần Kymdan: 11,2 lần...
Ba là, một số chỉ tiêu phản ánh kết quả hoạt động kinh doanh của các DN sau CPH đều tăng: Năng suất lao động tăng bình quân 18,3%; Mức nộp ngân sách bình quân của các DN tăng 24,9%; Đầu tư tài sản cố định tăng 11,5%; Lương bình quân DN tăng 11,4%. Điều đó khẳng định hiệu quả chuyển đổi các DNNN thành công ty cổ phần.
Bốn là, sau CPH các DN phát triển sản xuất kinh doanh, tạo thêm công ăn việc làm, thu hút thêm lao động. Số lao động trong các DN CPH tăng bình quân 6,6%. Cổ tức bình quân của các DN đạt 17,11%. Hầu hết các DN đều có mức cổ tức cao hơn lãi suất tiền gửi ngân hàng.
Việc thay đổi mô hình hoạt động của cán bộ quản lý và người lao động đã có tác động tích cực đến hoạt động kinh doanh của các DN. Cán bộ quản lý và người lao động đã thật sự gắn bó với DN, nhờ vậy mà hiệu quả kinh doanh tăng lên. Có 96% số DN cho rằng cán bộ quản lý đã quan tâm nhiều hơn đến hiệu quả sản xuất kinh doanh; 88% số DN khẳng định kết quả sản xuất của người lao động đã tăng lên khi tiền lương của họ được tính toán trên cơ sở kết quả việc làm. Thực tế có 85% DN cho rằng sau CPH cơ sở vật chất kỹ thuật, năng lực sản xuất của DN được khai thác triệt để hơn, sử dụng tốt hơn, tiết kiệm hơn trước.
2.2. Hạn chế của quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam :
a. Những hạn chế còn tồn tại:
- Tiến độ CPH không đạt yêu cầu đề ra: số lượng DNNN được CPH trong n._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 28108.doc