Đẩy mạnh Cổ phần hóa 1 bộ phận của Doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam

Lời mở đầu Việt Nam đang trong thời kì quá độ lên Chủ Nghĩa Xã Hội (CNXH), xây dựng một nền kinh tế mở, hội nhập. Đặc biệt trong thời gian gần đây, Việt Nam đang ra sức cố gắng đàm phán với các đối tác song phương và đa phương để gia nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO). Qua gần 20 năm thực hiện chính sách đổi mới (từ Đại hội VI của Đảng đến nay) tư duy về kinh tế thị trường ở nước ta từng bước được hình thành, phát triển và phát huy hiệu quả trong thực tiễn đời sống xã hội. Tại đại hội IX Đ

doc18 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1575 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Đẩy mạnh Cổ phần hóa 1 bộ phận của Doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ảng cộng sản Việt Nam, Đảng và Nhà nước ta đã khẳng định mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kì quá độ lên CNXH là phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lí của Nhà nước theo định hướng XHCN. Qua các kì Đại hội, Đảng và Nhà nước ta đã chỉ ra công cuộc công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước là một thách thức lớn và trên cơ sở đó đã đề ra đường lối đổi mới sâu sắc và toàn diện đất nước, trong đó đổi mới hệ thống doanh nghiệp Nhà nước (DNNN) là khâu đột phá mà trước hết công việc mang tầm chiến lược là cổ phần hoá các DNNN. Đến nay hệ thống các DNNN đã được sắp xếp lại khá căn bản, được củng cố một bước, cơ chế quản lý mới hình thành và ngày càng hoàn thiện giúp các doanh nghiệp chuyển đổi và thích nghi dần với các quy luật của kinh tế thị trường trong bối cảnh nền kinh tế mở, hội nhập quốc tế. Đổi mới DNNN gắn liền với công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước và cạnh tranh trên thị trường, là một công việc gồm hai nội dung lớn: sắp xếp lại các doanh nghiệp và đổi mới cơ chế quản lý trong đó cổ phần hoá một bộ phận DNNN là một trong những nội dung đổi mới quản lí DNNN. Chương trình cổ phần hoá được thưc hiện từ năm 1992 theo Quyết định 202/CT - HĐBT về thí điểm chuyển một số doanh nghiệp thành công ty cổ phần. Cổ phần hóa là động lực để có thể huy động được nguồn vốn khổng lồ, trở thành chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ta trong thời kì đổi mới. Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề này, em đã chọn đề tài: "Đẩy mạnh cổ phần hoá một bộ phận của Doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam" cho đề án kinh tế chính trị của mình. Do trình độ và năng lực còn non trẻ nên bài viết không tránh khỏi những thiếu sót, rất mong các thầy cô thông cảm góp ý để bài viết của em được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn! Phần I: Một số vấn đề lý luận chung về cổ phần hoá Doanh nghiệp Nhà nước 1. Bản chất của cổ phần hoá là gì? Để hiểu được vấn đề này, trước hết ta cần hiểu cổ phần là gì. Cổ phần là phần vốn của công ty được chia thành nhiều phần bằng nhau và được phát hành dứơi nhiều hình thức cổ phiếu gọi là cổ phần. Cổ phiếu là phiếu chứng nhận góp vốn của cổ đông và quyền được hưởng lãi suất cổ phần của cổ đông. Cổ phiếu gồm có hai loại: Loại ưu đãi (có ghi danh giành cho các sáng lập viên và thành viên của Hội đồng Quản trị) và cổ phiếu thưởng (không ghi danh, được phát hành tự do trên thị trường). Ngoài ra còn có trái phiếu được phát hành nhằm huy động vốn bổ sung. Cổ đông góp vốn, nắm giữ cổ phiếu và quyền lực của họ đối với công ty phụ thuộc vào vốn. Ngày nay trên thế giới khái niệm công ty cổ phần không có gì là mới mẻ, nhưng ở Việt Nam đây còn là vấn đề đáng quan tâm. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế hàng hoá thì sự phân công lao động xã hội ngày càng sâu sắc làm cho mối quan hệ giữa những người sản xuất ngày càng phụ thuộc vào nhau. Hình thái kinh doanh một chủ ngày càng phát triển theo những quy luật kinh tế nội tại của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa nhưng cạnh tranh độc quyền làm cho nó nhanh chóng được thay thế bằng hình thức kinh doanh chung vốn. Đây là bước tiến hoá cho sự ra đời của các công ty cổ phần. Qua cổ phần hoá hình thức sở hữu tại doanh nghiệp đã chuyển từ sở hữu Nhà nước duy nhất sang sở hữu hỗn hợp, dẫn đến những thay đổi quan trọng về hình thức tổ chức, quản lí cũng như phương hướng hoạt động của công ty. DNNN sau khi thực hiện cổ phần sẽ trở thành Công ty Cổ phần và hoạt động theo luật Công ty. Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN được cấu thành từ nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế cùng tồn tại trong một thể thống nhất, trong đó công hữu ngày càng trở thành nền tảng vững chắc, tăng trưởng kinh tế gắn liền hữu cơ với đảm bảo công bằng xã hội, trong từng bước phát triển. Việc đa dạng hoá các hình thức sở hữu cho phép thực hiện triệt để những nguyên tắc quản lí kinh tế, nâng cao quyền tự chủ tài chính và khả năng tự quản lý trong kinh doanh. 2. Sự cần thiết phải đẩy mạnh cổ phần hoá một bộ p hận DNNN ở Việt Nam Chúng ta đang xây dựng nền kinh tế thị trường cuả riêng mình, đó là một nền kinh tế tự do hoá giá cả, môi trường cạnh tranh bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, bỏ dần hàng rào bảo hộ của Nhà nước đối với các doanh nghiệp trong nước, nhất là với các DNNN. Doanh nghiệp, nhất là DNNN là lực lượng chủ lực trong hội nhập kinh tế quốc tế song chưa chủ động vươn lên, còn có tư tưởng ỷ lại trông chờ vào sự bảo hộ của Nhà nước trong khi lộ trình hội nhập WTO đang tới gần. Với mục tiêu đưa đất nước tiến theo con đường công nghiệp hoá - hiện đại hoá, chúng ta cần có một nền kinh tế phát triển đa dạng, vững mạnh. Để có được điều đó, các DNNN phải đi đầu trong triển khai thực hiện các chính sách của Nhà nước về phát triển kinh tế xã hội. Từ chỗ coi nhẹ sở hữu tư nhân và cá nhân, lấy mục tiêu phát triển quan hệ sản xuất là chủ yếu, xây dựng nền kinh tế khép kín không tham gia vào sự phân công lao động quốc tế, không coi trọng đúng mức vai trò của các ngành dịch vụ, không chú trọng phát triển quan hệ hàng hoá - tiền tệ và các yếu tố thị trường trong nền kinh tế, trong thời kì đổi mới, trước thách thức của thời đại, quan điểm, nhận thức về kinh tế thị trường đã dần dần được hoàn thiện qua các kì Đại hội Đảng. Cổ phần hoá là vấn đề khiến nhiều người lao động quan tâm, băn khoăn, lo lắng khi các doanh nghiệp chuyển sang cổ phần. Bởi vì họ nghĩ rằng khi chuyển sang cổ phần hoá, tài sản không còn là của Nhà nước mà rơi vào tay các ông chủ, họ có thể chỉ đạo theo lợi nhuận và việc làm của những người lao động không được đảm bảo. Nhưng trên thực tế, thu nhập và việc làm của công nhân đều tăng, ổn định. Lao động tăng bình quân 12%, thu nhập của người lao động tăng gần 20%/năm. Ngay trong năm đầu tiên cổ phần hóa, doanh thu bình quân của doanh nghiệp tăng 13%, lợi nhuận sau thuế tăng 48,8%. Điều này cho thấy việc chuyển đổi đã có tác động mạnh đến hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. Còn những doanh nghiệp cổ phần hoá nhiều năm đã đi vào ổn định, tốc độ tăng trưởng của doanh nghiệp được duy trì, doanh thu bình quân tăng 23,6%, lợi nhuận trước thuế tăng 9,4%; lợi nhuận sau thuế tăng tới 54,4%. Một số chỉ tiêu phản ánh kết quả kinh doanh cảu các doanh nghiệp sau cổ phần đều tăng. Vấn đề cổ phần hoá DNNN được đặt ra từ năm 1992 nhưng cho đến nay tốc đị cổ phần hoá diễn ra khá chậm mà chủ yếu là do nhiều nguyên nhân phát sinh trong quá trình thực hiện cổ phần hoá chậm. Cổ phần hoá đi liền với mục tiêu công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước và cải cách thủ tục. Nó được coi là một trong những chủ trương quan trọng của Đảng và Nhà nước ta trong việc huy động mọi tầng lớp nhân dân tham gia vào sự nghiệp đổi mới và gắn liền lợi ích của mình với doanh nghiệp để từ đó từng bước cải thiện quan hệ sản xuất phù hợp với sự thay đổi của lực lượng sản xuất, từng bước đưa nền kinh tế nước nhà đi lên, tránh nguy cơ tụt hậu so với các nước khác. Việc cổ phần hoá DNNN nhằm tạo điều kiện cho các đơn vị kinh doanh hiệu quả hơn trong quá trình đổi mới, tạo môi trường hoạt động vốn dài hạn và lâu dài cho người dân để đầu tư chiều sâu, đổi mới công nghệ và sản phẩm cạnh tranh trên thị trường trong và ngoài nước, đồng thời tạo ra sức bật cho sự phát triển. Tóm lại, các DNNN ở nước ta do yếu tố lịch sử để lại đã và đang đóng góp vai trò to lớn gần như tuyệt đối trong mọi lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân. Quá trình chuyển đất nước sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lí của Nhà nước tất yếu phải đổi mới căn bản DNNN. Đây là nhiệm vụ bắt buộc cần có bước đi phù hợp trong thời gian tới. 3. Mục tiêu của cổ phần hoá Cổ phần hoá DNNN ở nước ta được tiến hành từ năm 1992 nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh; đáp ứng yêu cầu của cơ chế thị trường; huy động vốn từ các thành phần kinh tế tăng cường quản lý dân chủ. Với các doanh nghiệp chuyển từ DNNN sang cổ phần hóa là một cách làm rất tốt vì giúp các doanh nghiệp quảng bá được thương hiệu của mình. Khi tiến hành cổ phần hoá một số dnnn, chúng ta mong muốn đạt được các mục tiêu sau: Một là, chuyển phần sở hữu Nhà nước thành sở hữu của cổ đông nhăm nâng cao hiệu quả sản xuất - kinh doanh Hai là, phải huy động một khối lượng vốn nhất định ở trong và ngoài nước để đầu tư sản xuất, kinh doanh. Ba là, tạo điều kiện để người lao động thực sự làm chủ doanh nghiệp. Việc chuyển các DNNN thành công ty cổ phần không phải là mục đích tự thân, mà xuất phát từ mục tiêu kinh tế - chính trị, xã hội do Nhà nước lựa chọn giải pháp chuyển doanh nghiệp sang công ty cổ phần trong giai đoạn hiện nay có thể thực hiện ở một số doanh nghiệp mà trước hết là vì mục tiêu lợi nhuận. Như vậy, mục tiêu của cổ phần hóa một bộ phận DNNN là huy động vốn của toàn xã hội nhằm đổi mới công nghệ, tạo thêm việc làm, tạo điều kiện cho người lao động thực sự làm chủ doanh nghiệp, từ đó tạo ra động lực bên trong thay đổi phương thức quản lí nhằm nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của doanh nghiệp, làm tăng tài sản và thay đổi cơ cấu doanh nghiệp. Phần 2: thực trạng cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước ở việt Nam 1.Tiến trình cổ phần hoá Qua hai năm thực hiện thí điểm cổ phần hoá một số DNNN đối chiếu với các mục tiêu đặt ra khi cổ phần hoá, trong thực tế các doanh nghịêp đã chuyển một phần sở hữu nhà nước thành sở hữu của các cổ đông, huy dộng được một khối lượng vốn trong nước nhưng vẫn xhưa phát huy hết quyền làm chủ tập thể của công nhân viên chức trong DN. Cổ phần hoá từng bộ phận doanh nghiệp Nhà nước là một công cuộc khó khăn. DNNN ở nước ta hình thành từ năm 1954 (ở miền Bắc) và từ năm 1975 (ở miền Nam). Do hình thành từ nhiều nguồn khác nhau và được xây dựng trên cơ sở của nhiều quan điểm nên các DNNN ở Việt Nam có nhiều khác biệt so với các nước khác trong khu vực và trên thế giới. Đại Hội 9 của Đảng đã khẳng định sự phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là đường lối chiến lược nhất quán. Đây là một mô hình mới trong lịch sử phát triển, vừa có những đặc điểm chung của kinh tế thị trường hiện đại, vừa có những đặc điểm riêng phù hợp với những đặc thù của Việt Nam. Chủ trương cổ phần hoá một bộ phận DNNN đã được Đảng và Chính phủ đặt ra từ đầu thập kỉ 90 và chính thức triển khai từ năm 1992 - năm mà nền kinh tế ở Việt Nam đạt thành tựu rực rỡ nhất kể từ khi đổi mới. Có thể chia quá trình này thành 2 giai đoạn: Giai đoạn thí điểm (1992-1995): Nhiều văn bản liên quan đã được ban hành, gồm có: - Nghị quyết Hội nghị lần thứ 2 của Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VII (tháng 11/1991) đã ghi: "chuyển một số DNNN có điều kiện thành công ty cổ phần và thành lập một số công ty quốc doanh cổ phần mới, phải làm thí điểm chỉ đạo chặt chẽ, rút kinh nghiệm chu đáo trược khi mở rộng trong phạm vi thích hợp". - Nghị quyết Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kì khoá 7 (tháng 1/1994) chỉ rõ cổ phần hoá thu hút thêm vốn cho doanh nghiệp. - Nghị quuyết Bộ chính trị về tiếp tục đổi mới để phát huy vai trò chỉ đạo của DNNN (số 10 NQ/TW) đã chỉ rõ: tuỳ tính chất loại hình doanh nghiệp mà tiến hành bán một tỷ lệ cổ phần cho cán bộ công nhân viên.. và bán cổ phần cho tổ chức và cá nhân ngoài doanh nghiệp". - Thông báo số 63 TB/TW ngày 4/4/1991 của Bộ Chính trị khẳng định tiếp tục triển khai tích cực và vững chắc cổ phần hoá DNNN trong thời gian tới. - Nghị Quyết kì họp thư 10 Quốc hội khoá VIII ngày 26/12/1991 về nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội 5 năm 1991-1995 đã ghi: "thí điểm về cổ phần hoá một số cơ sở kinh tế quốc doanh để rút kinh nghiệm và có thêm nguồn vốn phát triển". Để thực hiện, Đảng, Quốc hội, Chính phủ đã ban hành nhiều văn bản: - Quyết định số 202/CT ngày 8/6/1992 của chủ tịch hôi đồng bộ trưởng (nay là thủ tướng chính phủ) về việc tiếp tục thí điểm chuyển một số DNNN thành công ty cổ phần. - Chỉ thị số 84/TTg ngày 4/3/1993 của thủ tướng chính phủ về việc xúc tiến thực hiện thí điểm cổ phần hoá DNNN và các giải pháp đa dạng hoá hình thức sở hữu đối với các DNNN. - Nghị định số 28/CP ngày 7/5/1997 của chính phủ về chuyển một số DNNN thành công ty cổ phần. Thực hiện quyết định số 202/CT, chúng ta đã tiến hành hướng dẫn các DNNN đăng kí thực hiện thí điểm chuyển sang công ty cổ phần. Quyết định số 203/CT ngày 8/6/1992 đã chọn 7 DNNN do Chính phủ chỉ đạo thí điểm chuyển thành công ty cổ phần, đó là: - Nhà máy xà phòng Việt Nam - Nhà máy diêm Thống nhất - Xí nghiệp nguyên vật liệu chế biến thức ăn gia súc Hà Nội - Xí nghiệp chế biến gỗ Long bình - Công ty vật tư tổng hợp Hải Hưng - Xí nghiệp dệt da may Legamex - Xí nghiệp sản xuất bao bì Tuy nhiên sau một thời gian làm thử, các DNNN trên đều xin rút hoặc không đủ diều kiện để tiến hành cổ phần hoá. Các doanh nghiệp khác đã xin chuyển thành công ty trách nhiệm hữu hạn theo chỉ thị số84/TTg. Và sau 4 năm thực hiện Quyết định số 202/CT, chỉ có 5 Doanh nghiệp chuyển sang công ty cổ phần, đó là: Công ty cổ phần Đại lí liên hiệp vận chuyển (bộ giao thông) Công ty Cổ phần cơ điện lạnh Công ty cổ phần giầy Hiệp An Công ty Cổ phần Chế biến hàng xuất khẩu Long An Công ty chế biến thức ăn gia súc Trong đó Doanh nghiệp đi tiên phong là công ty cổ phần Đại lý Liên hiệp vận chuyển (thuộc tổng công ty Hàng hải), sau đó là công ty cổ phần cơ điện lạnh TPHCM. Hai công ty này đã hoàn thành việc cổ phần hoá và chính thức hoạt động theo hình thức Công ty cổ phần từ ngày 1/10/1993. Giai đoạn mở rộng (1996 đến nay) Sau 4 năm thực hiện, chúng ta đã đúc rút được một số kinh nghiệm và sửa đổi về chế độ cổ phần hoá. Ngày 7/5/1996, Chính phủ đã ra Nghị quyết số 28/CP thay cho Nghị quyết số 202/CT với những quy định cụ thể rõ ràng hơn. Thực hiện theo Nghị định, công tác cổ phần hoáđã được quan tâm hơn, tiến hành củng cố tổ chức, bổ sung thành viên vào ban chỉ đạo cổ phần hoá, kiện toàn và thành lập các ban chỉ đạo cổ phần hoá ở các địa phương; Một số bộ, địa phương đã tổ chức hội nghị truyền đạt chủ trương, chính sách về cổ phần hoá DNNN cho đội ngũ cán bộ chủ chốt như Bộ nông nghiệp và phát triển Nông thôn, Bộ thuỷ sản, Bộ xây dựng, tỉnh Lâm Đồng, tỉnh Bình Định, tỉnh Quảng Ninh... Tuy nhiên vấn đề này vẫn chưa được chú ý tuyên truyền ở nhiều địa phương và nhiều ngành, chủ trương chính sách của Nhà nước chưa được phổ biến rộng rãi. đây là một trong những nguyên nhân gây chậm trễ trong quá trình triển khai thực hiện cổ phần hoá donh nghiệp. Đến đầu năm 1998 có 36 tỉnh thành, bộ, ngành và các tổng công ty 91 đã đăng kí hơn 200 doanh nghiệp thực hiện cổ phần hoá, chiếm 3% số DNNN, có khoảng 18 doanh nghiệp thực hiện cổ phần hoá chuyển sang hoạt động theo Luật công ty. Trong các công ty cổ phần, Nhà nước nắm giữ ít nhất 18%, cao nhất là 51% cổ phần của công ty; cổ đông do người lao động trong công ty nắm giữ là 18 - 50%, còn lại là do các cổ đông ngoài xã hội nắm giữ. Hầu hết các công ty này đều kinh doanh phát triển, cótiến bộ về mọi mặt, Nhà nước và doanh nghiệp đều có lợi. Ngày 29/6/1998, Chính phủ đã ban hành nghị định số 44/1998/NĐ-CP về chuyển doanh nghiệp Nhà nước thành công ty cổ phần, kèm theo phụ lục danh mục các loại DNNN để lựa chọn cổ phần hoá, chỉ một số doanh nghiệp đặc biệt Nhà nước chưa cổ phần hoá và một số doanh nghiệp quan trọng Nhà nước nắm cổ phần chi phối, còn lại cơ bản các DNNN khác đều chuyển thành công ty cổ phần. 2. Thành tựu, hạn chế và nguyên nhân *Thành tựu: Sau hơn 10 năm thực hiện, tính đến giữa quý III năm 2000, cả nước đã có 451 doanh nghiệp Nhà nước được cổ phần hoá, và tính đến cuối năm 2000 có khoảng 1000 DNNN chuyển sang hình thức công ty cổ phần. Và đến nay đã có gần 2500 doanh nghiệp được cổ phần hoá. Hầu hết các công ty đều làm ăn có lãi chứng tỏ rằng cổ phần hóa là một chủ trương đúng đắn. Mục tiêu cảu chủ trương này là huy động vốn, đổi mới phương thức quản lý để tăng hiệu quả kinh tế, tạo động lực cho sự phát triển, thông qua đó Nhà nước sẽ cơ cấu lại khu vực kinh tế Nhà nước, xác định quyền làm chủ của người lao động trong doanh nghiệp. Về huy động vốn: thực tế trong nhân dân còn tồn đọng một nguồn vốn nhàn rỗi khoang 8 tỷ $. Và cổ phần hoá chính là biện pháp có hiệu quả để huy động nguồn vốn này cho phát triển kinh tế của doanh nghiệp. Phần lớn vốn là của Nhà nước trong các DNNN cổ phần hoá, ngoài ra chúng ta đã thu thêm được1432 tỷ đồng của các cá nhân, pháp nhân thuộc mọi thành phần kinh tế thông qua huy động vốn. Đồng thời, thông qua cổ phần hoá và bán cổ phiếu, Nhà nước đã thu lại 814 tỷ đồng để đầu tư vào các DNNN khác và giải quyết chính sách cho người lao động trong các DNNN được cổ phần hoá. Phần vốn Nhà nước tại các doanh nghiệp này đã tăng từ 10-15%, nghĩa là vốn của Nhà nước đã không mất đi mà lại được tăng lên, thu hút thêm được một phần vốn nhàn rỗi trong dân. Tuy nhiên số lượng các DNNN cổ phần hoá mới chỉ chiếm 7% tổng số DNNN hiện có. Số vốn tại đó mới chỉ chiếm 1%, chiếm tỷ trọng rất nhỏ, chưa có tác động đáng kể đến việc cơ cấu lại vốn của khu vực DNNN. Ngày 20/7/2000, trung tâm giao dịch chứng khoán đầu tiên đã ra đời tại TPHCM. Việc này có tác dụng to lớn trong việc huy động vốn dùng trong sản xuất kinh doanh, nhưng luôn trong tình trạng cung không đủ cầu. Hoạt động này còn quá mới mẻ ở nước ta và các công ty còn sợ bọn đầu cơ cổ phiếu có thể làm ảnh hưởng đến việc sản xuất kinh doanh nên không muốn mạo hiểm. Về đổi mới phương thức quản lý kinh tế và hiệu quả sản xuất kinh doanh: Trong cơ cấu tổ chức của công ty cổ phần hoá có hội đồng Quản trị và Đại hội cổ đông nên hoạt động của doanh nghiệp thường xuyên được giám sát. Lợi ích của doanh nghiệp gắn với lợi ích của cổ đông, người lao động là những chủ nhân của doanh nghiệp. Do đó phương thức quản lý kinh tế không ngừng được đổi mới cho phù hợp với tình hình biến động của kinh tế xã hội. Về doanh thu: của các doanh nghiệp đều tăng gấp 2 lần so với trước cổ phần hoá. Lợi tức cổ phần bình quân đạt từ 1-2%/tháng. Về vốn: tăng 2,5 lần so với trước cổ phần hoá. Do đó, nộp ngân sách Nhà nước tăng bình quân 2 lần, mức nộp ngân sách bình quân của các doanh nghiệp tăng 24,9%; đầu tư tài sản cố định tăng 11,5%. Như vậy, từ thực tế cổ phần hoá của các doanh nghiệp đã cho thấy những cái được có sức thuyết phục như sau: - Sản xuất phát triển, đời sống cán bộ, công nhân viên tăng lên. - Công tác quản lí được đổi mới, bộ máy quản lí tinh giản, gọn nhẹ, có hiệu lực hơn. - Từ chỗ lo lắng khi thực hiện cổ phần hoá, qua một thời gian hoạt động, mọi người trong doanh nghiệp đều quan tâm đến kết quả sản xuất kinh doanh của công ty, bởi vì ích lợi của họ (thu nhập và lợi ích cổ phần) gắn chặt với lợi ích của công ty. Đây là bước chuyển đổi tư duy, hình thành động lực thật sự cho cán bộ công nhân viên của doanh nghiệp. - Tập dượt cho đội ngũ cán bộ kinh doanh tổ chức quản lý theo cơ chế thị trường, không dụa vào Nhà nước như trước đây, thực hiện quản lí theo phương châm: "chi phí tối thiểu, lợi nhuận tối đa" - điều mà doanh nghiệp nào cũng mong muốn. Thực chất là các doanh nghiệp này chuyển sang cơ chế "tự thân vận động". Số lượng vốn huy động trong dân tuy chưa nhiều nhưng cũng đã tập dần cho họ thói quen đầu tư vào sản xuất thay vì khi có tiến chỉ dùng để tiêu xài, mua sắm, tiết kiệm. Cổ phần hoá dnnn sẽ góp phần giải quyết nhiều vấn đề nhức nhối: chống tham nhũng, nâng cao hiệu quả đồng vốn do Nhà nước đầu tư, tạo điều kiện cho thị trường chứng khoán ra đời, chống quan liêu bao cấp. Quá trình cổ phần hoá các DNNN đã đến lúc phải làm với tốc độ nhanh theo lịch thời gian vì thực tiễn cho phép rút ra những vấn đề bổ sung tuy chưa hoàn chỉnh để thúc đẩy quá trình này. *Hạn chế và nguyên nhân: Từ thực tế hoạt động của các doanh nghiệp sau cổ phần hóa ta thấy: mặc dù đại bộ phận các doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả: sản xuất kinh doanh phát triển, tăng vốn điều lệ và nộp ngân sách, đảm bảo việc làm cho lao động hiện có và thu hút thêm lao động mới, thu nhập của cổ đông và người lao động đều tăng, nhưng tiến trình cổ phần hoá vẫn được đánh giá là chậm trễ và không đồng đều giữa các ngành, các địa phương và các tổng công ty Nhà nước; kết quả đạt được mặc dù có tính thyết phục cao nhưng chưa tạo thành sức bật lôi kéo phong trào cổ phần hóa đi lên. Tình trạng lao động thiếu việc làm và lao động doi dư phổ biến ở các doanh nghiệp. Bình quân lao động thiếu việc làm chiếm 23%, cá biệt có doanh nghiệp trên 67% không có việc làm, Chất lượng lao động thấp, hầu hết được tuyển dụng từ thời bao cấp, không được đào tạo, không đáơ ứng được đòi hỏi của cơ chế thị trường. Như vậy, mặc dù cổ phần hoá DNNN là một chủ trương mang tính quốc sách trong qua trình đổi mới, là giải pháp chiến lược về sắp xếp lại sản xuất nhưng tiến độ thực hiện quá chậm. Các DNNN thực hiện cổ phần hoá thành công đều nằm trên địa bàn TP HCM và những cơ sở này trụ được trong cơ chế thị trường đều thuộc các ngành nghề sản xuất, kinh doanh, dịch vụ có nhu cầu và có tương lai phát triển, lại ở một địa bàn có truyền thống hoà nhập nhanh với cơ chế thị trường,quên lối góp vốn làm ăn. Công việc này đồi hỏi sự quyết tâm cao hơn nữa trong chỉ đạo thực hiện. Đã đến lúc cần phải có một Nghị quyết của Bộ chính trị hoặc cao hơn nữa là của Ban chấp hành Trung ương Đảng về cổ phần hoá bởi vì các cấp lãnh đạo chủ chốt ở nhiều doanh nghiệp còn những tính toán hơn thiệt về lợi ích giữa cá nhân, tập thể với Nhà nước theo hướng "chậm chạp hoá" và kéo dài quá trình cổ phần hoá. Sựu do dự đó lại được biện minh bởi cách chỉ đạo không cụ thể, sát sao của cấp trên doanh nghiệp (có thể cũng bị vướng về lợi ích?) cộng với hiện tượng chỉ đạo thiếu đồng bộ và thiếu rất nhiều hướng dẫn cụ thể, tỉ mỉ cho việc triển khai ở cấp vi mô. Tình hình cổ phần hoá tại các Bộ (2002): 1. Bộ công nghiệp 38 2. Bộ nông nghiệp 45 3. Bộ xây dựng 14 4. Bộ giao thông vận tải 44 5. Bộ thuỷ sản 8 6. Bộ y tế 3 7. Bộ thương mại 19 8. Tổng cục du lịch 3 Những nguyên nhân cơ bản của tình trạng này được tóm tắt ở những điểm sau đây: Thứ nhất: những nguyên nhân thuộc về nhận thức tư tưởng: - Một số lo ngại "sự chệch hướng XHCN", nếu thúc đẩy nhanh quá trình cổ phần hoá chắc chắn sẽ dẫn đến thu hẹp phạm vi của các doanh nghiệp Nhà nước, làm kinh tế Nhà nước bị suy yếu đi. - Người lao động trong doanh nghiệp Nhà nước chưa hiểu rõ thực chất và nội dung quá trình cổ phần hóa, e ngại sự xáo trộn có thể xảy ra khi cổ phần hoá DNNN. - Cán bộ lãnh đạo DNNN e ngại mất quyền và lợi liên quan đến cương vị đang năm giữ; muốn tranh thủ sự bảo hộ vàbao cấp của Nhà nước. Cán bộ cơ quan quản lí cấp trên e ngại mất đi "quyền lực" với DNNN và các lợi ích cá nhân cục bộ gắn với DNNN "trực thuộc". Chính vì vậy trong thực tế đã xảy ra hiện tượng "chạy trốn" cổ phần hóa bằng nhiều cách khác nhau. Thứ hai, những vướng mắc về cơ chế chính sách về cổ phần hóa. Từ chỉ thị 202/TTg năm 1992, Nghị định 28/CP năm 1996, Nghị định 44/CP năm 1998 đến Nghị định 187/2004/NĐ-CP, cơ chế, chính sách về cổ phần hoá đã được hoàn thiện bổ sung theo hướng tạo những điều kiện rõ ràng và thông thoáng hơn cho các doanh nghiệp tiến hành cổ phần hoá. Song việc thực hiện trong thực tế vẫn còn những vướng mắc chưa hoàn toàn được tháo gỡ, nợ tồn đọng cản trở quá trình cổ phần hoá. Sự vướng mắc về cơ chế chính sách thể hiện khá rõ trong việc cổ phần hóa tại các tổng công ty lớn. Chưa có môi trường thật sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế. Ngân hàng ngoại thương (VCB) là DNNN lớn được lựa chọn thí điểm cổ phần hóa, song đến nay vẫn còn một loạt vướng mắc chưa được giải quyết. Theo Ngân hàng Nhà nước, một nguyên nhân làm chậm quá trình cổ phần hoá VCB là vướng mắc về mặt pháp lý. Ngân hàng này muốn phát hành cổ phiếu ưu đãi cổ tức (9%/năm) như một bước đệm để tiên stới cổ phần hoá một cách thực thụ. Song điều này lại trái với quy định hiện hành là chỉ công ty cổ phần mới được quyền phát hành cổ phiếu. Nếu chuyển sang phát hành trái phiếu thì cũng vướng quy định không cho phép tính trái phiếu chuyển đổi vào vố điều lệ của công ty cổ phần. Như vậy, muốn cổ phần hoá những doanh nghiệp loại này cần có những quy định riêng, mà điều này đến nay vẫn chưa được đáp ứng. Thứ ba, giá trị doanh nghiệp chưa được xác định đúng và tư tưởng cục bộ bản vị dẫn đên khuynh hướng khép kín trong quá trình cổ phần hoá DNNN. Thực tiễn cổ phần hóa trong thời gian qua cho thấy còn nhiều điều chưa chính xác trong định giá doanh nghiệp. Đó không phải chỉ là việc quy định không rõ ràng về tính giá trị quyền sử dụng đất trong giá trị doanh nghiệp, mà còn là quy định về vai trò và chức trách của Hội đồng định giá và phương thức phát hành cổ phiếu. Do Hội đồng định giá được hợp thành từ cán bộ của nhiều cơ quan, nên không có tính chuyên nghiệp, do vậy, tính chính xác của định giá cũng chưa cao. Mặt khác, số lượng cổ phần bán ra ngoài quá ít lại không bắt buộc bán đấu giá nên giá trị thực của doanh nghiệp không xác định được. Thứ tư, những vướng mắc về tổ chức thực hiện cổ phần hoá. Cổ phần hoá DNNN được coi là một trong những nhiệm vụ quan trọng của các cơ quan quản lý Nhà nước, trước hết và chủ yếu là cơ quan "chủ quản". Song trên thực tế, công tác này vẫn do các cán bộ kiêm nhiệm thực hiện. Chính tính chuyên môn hoá thấp này đã dẫn đến việc đôn đốc, kiểm tra và trợ giúp các doanh nghiệp trong quá trình cổ phần hoá kém hiệu quả. Còn ở phía doanh nghiệp, đội ngũ cán bộ quản lý doanh nghiệp cùng lúc phải lo hai việc lớn: duy trì hoạt động sản xuất - kinh doanh diễn ra bình thường; thực hiện những công việc liên quan đến cổ phần hoá. Trong điều kiện đó, các công việc khó có thể diễn ra chu đáo như mong muốn được. Cũng cần nói thêm rằng, các công việc của tiến trình cổ phần hóa hết sức phức tạp, tốn nhiều thời gian thực hiện. Thời gian cần thiết bình quân để chuyển một DNNN sang công ty cổ phần là: năm 2001: 512 ngày; năm 2002: 404 ngày; năm 2003: 424 ngày; năm 2004: 439 ngày. Sở dĩ chậm như vậy là do: 1/Sự phức tạp trong quy trình cổ phần hóa DNNN; 2/ Sự phức tạp trong những vấn đề tồn đọng của doanh nghiệp, trước hết là vấn đề công nợ; 3/Tư tưởng ngại trách nhiệm của các cán bộ và các cơ quan quản lý Nhà nước có liên quan. Điều đáng quan tâm là những tồn tại và nguyên nhân trên không phải là mới xuất hiện, mà đã tồn tại từ nhiều năm trước đây. Sự chậm trễ trong việc giải quyết những vấn đề đó đã gây nên ảnh hưởng dây chuyền trong việc làm chậm trễ quá trình đổi mới và phát triển DNNN, trong đó có nhiệm vụ cổ phần hoá DNNN. Vốn lưu động của doanh ngiệp ít, song chủ yếu lai nằm trong công nợ, nhiều doanh nghiệp thua lỗ, nợ khó đòi, hoạt động của doanh nghiệp bằng vốn vay là chủ yếu. Hơn nữa việc tuyên truyền quán triệt tư tưởng chỉ đạo về cổ phần hoá trong nội bộ các cấp có thẩm quyền, tới cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp được cổ phần hoá, tới người dân còn bị xem nhẹ, đặc biệt là ở các khâu trung gian như sở, ban ngành, tổng công ty... Chưa có một chế tài cụ thể đối với việc chấp hành chủ trương cổ phần hoá, thậm chí có nơi không triển khai cũng không sao. Do đó chưa tạo được sự quan tâm và hưởng ứng tích cực của toàn xã hội đối với chủ đề này. Cổ phần hoá nằm trong thể chế kinh tế thị trường, pháp luật, chính sách của Nhà nước. Song thể chế này còn chậm, thiếu đồng bộ, nhất quán và nhiều mặt chưa phù hợp trở thành cản trở, làm méo mó quá trình vận hành của cơ chế thị trường, làm cho hiệu lực quản lí của Nhà nước hạn chế, trong điều hành kinh tế còn nặng tính quan liêu, phân định chức năng chưa rõ ràng, nhiều khi còn có xu hướng buông lỏng chức năng điều tiết của Nhà nước, duy trì quá lâu sự độc quyền trong một số lĩnh vực. Chưa xây dựng được chiến lược tổng thể về hội nhập kinh tế quốc tế dẫn đến nhiều doanh nghiệp, địa phương còn lúng túng trong việc xác định nội dung, bước đi hội nhập của mình. Ngoài các lý do trên còn một lí do nữa là do tại căn bệnh nằm ngay trong nội tại các doanh nghiệp cổ phần hoá. Trước hết là tình trạng tài chính nhập nhèm. Nợ đọng dây dưa, nhiều năm không quyết toán được. Giá trị doanh nghiệp cũng là một vấ đề. ở hầu hết các doanh nghiệp, giá trị được phản ánh trên sổ sách khác xa với giá trị thực cảu doanh nghiệp. Điều này dẫn đến tình trạng có những người đã khai thác triệt để sự không rõ ràng của hệ thống tài chính doanh nghiệp để mưu lợi cho bản thân. Và đây còn là một căn bệnh khó chữa. Phần ba Định hướng & giải pháp cổ phần hoá một bộ phận DNNN trong thời gian tới Để khắc phục những hạn chế và nguyên nhân gây ảnh hưởng chậm qới quá trình cổ phần hoá, Chính phủ đã nhấn mạnh công tác cổ phần hoá và chuyển đổi hình thức sở hữu DNNN nói chung phải được đặt ở vị trí trung tâm trong lộ trình đổi mới và sắp xếp lại DNNN.Từ mô hình kế hoạch hoá tập trung chuyển sang mô hình kinh tế thị trường, thì vấn đề đa dạng hóa các hình thức sở hữu là một đòi hỏi khách quan. Đảng và Nhà nước ta đã khẳng định quan điểm cổ phần hóa theo định hướng xã hội là: cổ phần hóa là sự kết hợp giữa kinh tế Nhà nước và kinh tế tư nhân chứ không phải là tư nhân hoá hoàn toàn, hơn nũa Nhà nước vẫn duy trì hình thức quốc doanh với một số doanh nghiệp đặc biệt có vai trò quan trọng. Để thực hiện đa dạng hoá các hình thức sở hữu, chúng ta cần xem cổ phần hoá là một phương tiện quan trọng và hiệu quả. Vấn đề đặt ra là, làm thế nào để cổ phần hoá các DNNN mà không ảnh hưởng đến sự phát triển của đất nước theo định hướng XHCN. Để là được điều đó, cần phải xây dựng hành lang pháp lí đảm bảo: 1) Cổ phần hoá không biến thành tư nhân hoá; 2) Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đối với quá trình cổ phần hoá. Để đảm bảo mục tiêu cổ phần hoá như đã định, trong thời gian tới chúng ta cần làm tốt một số việc sau: Tạo sân chơi bình đẳng giữa DNNN và công ty cổ phần về những điều kiện hoạt động kinh doanh, tạo sự bình đẳng giữa các khu vực kinh tế, giữa đầu tư trong và ngoài nước, đồng thời cần xoá bỏ chế độ bao cấp cho khu vực kinh tế quốc doanh. Cổ phần hoá là chuyển sở hữu Nhà nước vào tay cổ đông thuộc các thành phần kinh tế. Quá trình này động chạm đến vấn đề mấu chốt trong kinh tế, đó là sở hữu: hoặc là chuyển tàon bộ hay chỉ chuyển một bộ phận DNNN; Tổ chức công ty cổ phần như thế nào để phát huy được ưu thé của hình thức này, đồng thời nâng cao được hiệu quả sản xuất. Do trong cổ phần hoá cũng có tư nhân hoá nên việc bán cổ phần cho các c._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0893.doc