Dạy làm văn lớp 10 theo quan điểm giao tiếp Khóa luận tốt nghiệp
Nguyễn Phạm Hồng Trang Trang 1
A. MỞ ĐẦU
I. Lí do chọn đề tài
Môn Tiếng Việt nói chung và Làm văn nói riêng nhằm mục đích
cuối cùng là rèn cho học sinh sử dụng đúng, hay tiếng Việt vào hoạt động
giao tiếp trong đời sống. Môn Tiếng Việt cung cấp cho học sinh những tri
thức về ngôn ngữ như các lớp từ vựng, các qui tắc sử dụng ngôn ngữ vào
trong hoạt động giao tiếp. Chính nhờ những tri thức này mà học sinh mới
biết
48 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2953 | Lượt tải: 2
Tóm tắt tài liệu Dạy làm văn lớp 10 theo quan điểm giao tiếp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
cách sử dụng ngôn ngữ phù hợp với nội dung cần trình bày. Có thể
nói dạy tiếng Việt là dạy cho học sinh cách sử dụng phương tiện cần thiết
để thực hiện quá trình giao tiếp. Mặt khác, môn học này còn giúp cho học
sinh tiếp nhận và diễn đạt những kiến thức khoa học trong nhà trường.
Dạy làm văn ở trường phổ thông hiện nay gặp rất nhiều khó khăn.
Có một thời gian dài người giáo viên dạy làm văn cho học sinh quá thiên
về tri thức lý thuyết một cách máy móc mà quên rằng tất cả những tri thức
ấy cần được vận dụng trong đời sống thực tế. Mặt khác, chương trình cũng
không chú ý đến nhu cầu, thị hiếu của học sinh cho nên đa số nội dung của
các bài làm văn mà giáo viên đưa ra không gắn với thực tế đời sống mà
chỉ nghiêng về những tác phẩm văn chương. Người dạy chưa tìm hiểu
xem học sinh có nhu cầu bộc lộ tình cảm, cảm xúc của mình không?
Chính điều này đã làm cho học sinh trở nên thụ động, hạn chế khả năng
giao tiếp, đồng thời tạo cho học sinh cảm giác nhàm chán, không thích
học làm văn.
Từ trước đến nay người ta bàn rất nhiều về phương pháp dạy tiếng
Việt, làm văn ở phổ thông: phương pháp giao tiếp, phương pháp vận động,
phương pháp tích cực hóa hoạt động học tập của học sinh … Trong đó
người ta đặc biệt nhấn mạnh đến phương pháp giao tiếp. Trong dạy học
nói chung và dạy làm văn nói riêng, phương pháp giao tiếp ngày càng
được thể hiện dưới những hình thức đa dạng khác nhau. Kết quả của một
giờ làm văn không phải chỉ cho học sinh nắm được nội dung bài học theo
lý thuyết suông mà còn phải biết ứng dụng vào các hoạt động giao tiếp
trong thực tế đời sống. Vì vậy, kể từ khi quan điểm giao tiếp được đưa vào
trong phương pháp dạy học thì kết quả dạy làm văn đã đạt được những
bước tiến đáng kể so với trước đó.
Chúng tôi nhận thấy rằng phương pháp giao tiếp đóng một vai trò
quan trọng trong việc dạy và học làm văn. Phương pháp giao tiếp sẽ phát
huy được khả năng sử dụng ngôn ngữ cho học sinh, phát huy tư duy sáng
tạo, đồng thời tạo sự hứng thú cho học sinh trong các giờ học làm văn.
Chúng tôi suy nghĩ rằng đổi mới phương pháp dạy học làm văn đang là
vấn đề cần thiết. Hiện nay, chúng ta đã khẳng định tính ưu việt của
phương pháp giao tiếp trong việc dạy làm văn nhưng việc dạy và học làm
văn ở phổ thông vẫn còn hạn chế. Phần lớn giáo viên đều nhận thấy được
tầm quan trọng của việc dạy làm văn theo quan điểm giao tiếp nhưng lại
không nắm được lý thuyết về giao tiếp, chưa tổ chức được những hình
Dạy làm văn lớp 10 theo quan điểm giao tiếp Khóa luận tốt nghiệp
Nguyễn Phạm Hồng Trang Trang 2
thức giao tiếp, chưa nhận thức được đầy đủ về tầm quan trọng, hiệu quả
của phương pháp này, đặc biệt là trong dạy làm văn. Điều này đã làm hạn
chế rất nhiều đến kết quả dạy và học làm văn. Trước thực trạng đó, với tư
cách là một giáo viên Ngữ văn tương lai tôi quyết định chọn đề tài
“Những giải pháp nâng cao hiệu quả dạy làm văn lớp 10 theo quan điểm
giao tiếp”. Ở đề tài này, chúng tôi đề ra những phương pháp dạy làm văn
theo quan điểm giao tiếp nhằm mục đích giúp cho việc dạy và học làm
văn ở phổ thông đạt được chất lượng tốt hơn.
II. Lịch sử vấn đề
Những năm gần đây nhất là từ sau cải cách giáo dục, phương pháp
dạy học chính là vấn đề được quan tâm hàng đầu. Trong những phương
pháp đó thì phương pháp giao tiếp được các nhà giáo dục hết sức chú ý.
Có nhiều bài viết, bài nghiên cứu về phương pháp này. Trong số các tác
giả nghiên cứu về dạy làm văn theo quan điểm giao tiếp thì có tác giả
quan tâm cụ thể về mặt phương tiện (phương pháp dạy của giáo viên)
cũng có tác giả quan tâm về mặt mục đích của việc dạy làm văn theo quan
điểm giao tiếp.
Nguyễn Quang Ninh trong sách “Một số vấn đề dạy ngôn bản nói
và viết ở tiểu học theo hướng giao tiếp” khi nói về việc dạy làm văn, tác
giả đã nêu lên những nhược điểm của dạy làm văn nói theo định hướng
giao tiếp. Ông cho rằng mục đích của các bài làm văn thường bị giáo viên
coi nhẹ, giáo viên chỉ thiên về đánh giá thành phần nội dung của sự việc.
Người giáo viên đã quên rằng một bài làm văn không phải chỉ để tả, kể mà
qua việc tả, kể đó nhằm hướng đến một mục đích khác. Bên cạnh đó khi ra
đề làm văn cho học sinh thì dường như các nhân tố giao tiếp bị gạt ra
ngoài sự chú ý của giáo viên. Chính điều đó đã dẫn đến bài làm văn của
học sinh trở nên đơn điệu, nhàm chán. Tác giả đặc biệt chú ý đến phương
tiện của hoạt động giao tiếp là ngôn bản nói và ngôn bản viết. Đây chính
là phương tiện chủ yếu để thực hiện quá trình giao tiếp. Ở bài viết này
Nguyễn Quang Ninh cũng đã đưa ra những đặc điểm của ngôn bản nói và
ngôn bản viết. Ngôn bản ở đây là một chuỗi ngôn ngữ được sắp xếp theo
các qui tắc ngữ pháp, kèm theo ngữ điệu (ngôn bản nói) nhằm thể hiện nội
dung giao tiếp. Từ những đặc điểm trên giúp cho người dạy tìm ra những
phương pháp dạy làm văn phù hợp với quan điểm giao tiếp. Chúng ta cần
ý thức cho học sinh biết rằng mục đích cuối cùng của một bài làm văn là
phải giúp cho học sinh tổ chức được những ngôn bản theo mục đích giao
tiếp đã đề ra.
Trong sách “ Những thủ thuật trong dạy học – các chiến lược
nghiên cứu và lý thuyết về dạy học dành cho các giảng viên Đại học và
Cao đẳng ” Wilbrt J.Mckeachie đã dựa trên quan điểm thực tiễn của
phương pháp dạy học hiện nay mà cho rằng “Theo chương trình dạy tiếng
Pháp phải dựa trên việc thực hành ngôn ngữ trong và ngoài lớp học tiếng
Pháp học sinh phải luôn luôn được đặt vào tình huống giao tiếp” [Wilbrt,
J.Mckeachie. 2003.14]. Ở một đoạn khác, tác giả đặc biệt nhấn mạnh “cơ
Dạy làm văn lớp 10 theo quan điểm giao tiếp Khóa luận tốt nghiệp
Nguyễn Phạm Hồng Trang Trang 3
bản là phải đặt học sinh trong một tình huống giao tiếp làm sản sinh hoặc
thông hiểu lời nói” [Wilbrt, J.Mckeachie. 2003.14]. Điều đó có nghĩa là
việc dạy học theo quan điểm giao tiếp được áp dụng rộng rãi ở tất cả các
môn học. Để có thể hướng quá trình dạy học vào hoạt động giao tiếp thì
người giáo viên cần thiết phải tạo ra những tình huống có vấn đề để học
sinh tham gia vào hoạt động giao tiếp. Tình huống là một điều kiện quan
trọng để sản sinh ra hoạt động giao tiếp, không có tình huống thì học sinh
không thể giao tiếp. Đây là nhận định có ý nghĩa quan trọng để người giáo
viên có thể tổ chức quá trình dạy học tiếng Việt, làm văn đạt hiệu quả cao.
Trần Đình Chung khi bàn về quan điểm dạy học làm văn trong sách
“Mấy vấn đề về giảng dạy môn phương pháp dạy học Ngữ văn trong
chương trình Cao đẳng Sư phạm mới” có nói “Với phân môn Tập làm
văn, quan điểm dạy học tích hợp càng thể hiện tính tích cực của nó khi
hiện thực hóa quan điểm thực hành và giao tiếp của phân môn này [Trần
Đình Chung. 2007.15]. Phương pháp dạy học tích hợp là lấy các dữ liệu từ
các nội dung bài học thuộc các phân môn liên quan. Chính các dữ liệu này
sẽ góp phần khơi gợi hứng thú, củng cố các kiến thức đã học. Từ đây cho
thấy quan điểm giao tiếp trong dạy học nói chung, dạy làm văn nói riêng
có một vai trò hết sức quan trọng đó là thực hành những văn bản góp phần
tích cực hóa hoạt động học tập của học sinh.
Lê A khi bàn về phương pháp giao tiếp đã nói “ Phương pháp giao
tiếp là phương pháp quan trọng trong dạy học Tiếng việt. Phương pháp
giao tiếp là phương pháp hướng dẫn học sinh vận dụng lý thuyết được học
vào thực hiện các nhiệm vụ của quá trình giao tiếp, có chú ý đến đặc điểm
và các nhân tố tham gia vào hoạt động giao tiếp” [Lê A. 2006. 69-70].
Đặc biệt các tác giả còn nhấn mạnh “ Phương pháp này có thể được áp
dụng khi dạy học từ ngữ, câu, phong cách và đặc biệt là trong các bài học
thuộc phân môn Tiếng việt “ [Lê A. 2006. 70]. Từ những ý kiến trên, ta
thấy rằng tác giả đặc biệt nhấn mạnh đến vai trò của phương pháp giao
tiếp. Phương pháp này có thể giúp cho học sinh vận dụng được những lý
thuyết đã học để thực hành các văn bản trong quá trình giao tiếp. Phương
pháp giao tiếp là phương pháp có vai trò rất lớn và đang được sử dụng
rộng rãi trong việc dạy tiếng Việt nói chung và phân môn Làm văn nói
riêng. Khi vận dụng phương pháp này trong dạy làm văn thì người giáo
viên cần chú ý đến hai mặt chủ yếu là phải giúp học sinh vận dụng được
các lý thuyết giao tiếp và ý thức được các nhân tố giao tiếp.
Nguyễn Trí trong sách “Dạy Tập làm văn ở trường tiểu học” khi
bàn về việc tạo sự hứng thú cho học sinh trong các giờ học, tác giả đã đưa
ra những cách lập đúng chương trình lời nói. Ở bài viết này, tác giả cũng
chú ý đến mục đích của hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ. Bên cạnh đó
khi nói về mục đích của môn Làm văn tác giả cũng nhấn mạnh “Tập làm
văn có nhiệm vụ chủ yếu là rèn luyện kĩ năng sản sinh ngôn bản nói và
viết. Không học tốt Tập làm văn khả năng nói và viết ngôn bản của học
sinh sẽ bị hạn chế” [Nguyễn Trí. 1998. 8]. Điều đó có nghĩa là mục đích
Dạy làm văn lớp 10 theo quan điểm giao tiếp Khóa luận tốt nghiệp
Nguyễn Phạm Hồng Trang Trang 4
cuối cùng của môn Làm văn là giúp cho học sinh có thể sử dụng thành
thạo ngôn ngữ vào trong hoạt động giao tiếp, học làm văn tốt sẽ giúp cho
học sinh có kĩ năng nói và viết thành thạo hơn
Trong sách “Phương pháp dạy học Tiếng việt” khi bàn về lý thuyết
giao tiếp bằng ngôn ngữ, Lê A đã nói “Làm văn chính là làm các loại văn
bản để giao tiếp. Không có nhu cầu giao tiếp thì không ai lại nói và viết
thành văn bản” [Lê A. 2006.193]. Mỗi người đều có những nhu cầu khác
nhau. Chính nhu cầu là động lực giúp cho con người hành động. Cho nên
để tạo ra được những văn bản thì người ta cần phải có nhu cầu giao tiếp. Ở
một đoạn khác tác giả càng nhấn mạnh vai trò của hoạt động giao tiếp
“Việc làm văn có quan hệ với một lý thuyết khác bên cạnh lý thuyết về văn
bản. Đó là lý thuyết giao tiếp bằng ngôn ngữ hay nói gọn hơn là lý thuyết
giao tiếp ngôn ngữ” [Lê A. 2006.193]. Điều đó có nghĩa là lý thuyết giao
tiếp đóng một vai trò quan trọng trong việc dạy và học làm văn. Chính nhu
cầu giao tiếp là nguyên nhân sản sinh ra văn bản. Từ đó cho thấy để sản
sinh ra những văn bản có giá trị giao tiếp thì người dạy và học phải tham
gia vào hoạt động giao tiếp bằng các lý thuyết giao tiếp ngôn ngữ.
Năm 2006 trên Tạp chí giáo dục số 138, Phan Thị Thủy trong bài
viết “Dạy làm văn ở Trung học cơ sở theo quan điểm giao tiếp” có nói
“Dạy làm văn theo quan điểm giao tiếp cho học sinh Trung học cơ sở là
phát huy vai trò độc lập, sáng tạo, chủ động suy nghĩ của học sinh trong
việc học làm văn. Tính chủ động, sáng tạo này được thể hiện rõ thông qua
dấu ấn chủ quan của các em trong việc tạo lập văn bản” [Phan Thị Thủy.
2006. 27]. Một bài làm văn trở nên sinh động khi nó bộc lộ được tư tưởng,
tình cảm, cảm xúc của học sinh. Muốn đạt được điều này cần phải phát
huy tư duy, sáng tạo của mỗi học sinh. Cho nên chúng ta cần hướng học
sinh vào hoạt động giao tiếp. Chính hoạt động giao tiếp là điều kiện cần
thiết để học sinh bộc lộ tư duy sáng tạo của mình. Ở quan điểm này, tác
giả đã đưa ra những đặc điểm cụ thể của một bài làm văn theo quan điểm
giao tiếp. Mục đích này cũng là mục đích cần phải có khi tiến hành các
phương pháp dạy học mới.
Vì các lẽ trên mà có nhiều ý kiến đã đánh giá rất cao về vai trò của
phương pháp giao tiếp trong quá trình dạy học. Ở đây, thêm một lần nữa
chúng tôi khẳng định vai trò của dạy làm văn theo quan điểm giao tiếp. Có
thể nói việc dạy làm văn theo quan điểm giao tiếp hiện nay là một phương
pháp đang được sử dụng rộng rãi trong dạy và học ở các trường phổ
thông.
Nhìn chung, các bài viết trên chỉ dừng lại ở những ý tưởng có tính
chất định hướng, các tác giả thiên về mặt lí luận, thiếu khâu tổ chức thực
nghiệm việc dạy và học làm văn ở trường phổ thông. Dường như chưa có
công trình nào đề cập một cách cụ thể, chi tiết có hệ thống từ khâu lí luận
đến thực tiễn. Trên cơ sở vận dụng lý thuyết về hoạt động giao tiếp và
thực tiễn dạy học ở trường phổ thông, kế thừa những vấn đề nghiên cứu
của người đi trước, người viết sẽ đi sâu nghiên cứu vấn đề này hơn.
Dạy làm văn lớp 10 theo quan điểm giao tiếp Khóa luận tốt nghiệp
Nguyễn Phạm Hồng Trang Trang 5
III. Đối tượng nghiên cứu
Trong đề tài nghiên cứu này chúng tôi hướng đến những đối tượng
sau:
1. Những yếu tố còn tồn đọng gây khó khăn cho việc dạy và
học làm văn. Từ đó đề ra hướng khắc phục và những giải pháp để dạy làm
văn theo quan điểm giao tiếp đạt hiệu quả. Ở đây người viết sẽ đi sâu vào
những giải pháp gắn liền với hoạt động giao tiếp.
2.Những yêu cầu mà người giáo viên cần phải có để có thể dạy
làm văn theo quan điểm giao tiếp đạt hiệu quả như: tri thức về các kiểu
bài, phong cách ngôn ngữ, ngữ pháp văn bản, nắm vững phương pháp dạy
tiếng Việt, làm văn.
3.Những phương pháp thực hiện dạy làm văn theo quan điểm
giao tiếp. Người viết sẽ đưa ra những phương pháp dạy làm văn từ lý
thuyết đến thực hành đến cách ra đề và chấm bài.
4.Chương trình chuẩn thực hiện năm 2006, tập trung vào phần
Tiếng Việt, Làm văn ở sách giáo khoa ngữ văn lớp 10 hệ đại trà, nghiên
cứu những nội dung mới trong sách gắn với hoạt động giao tiếp.
IV. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài chỉ tập trung vào nghiên cứu những vấn đề cơ bản sau
1. Phương pháp dạy làm văn theo quan điểm giao tiếp, người
viết chỉ tập trung vào những phương pháp nhằm tạo ra hoạt động giao tiếp
trong quá trình dạy học.
2. Phương pháp dạy làm văn lớp 10, người viết chỉ tập trung vào
học sinh ở lớp 10 trường Trung học phổ thông Châu Văn Liêm.
V. Nhiệm vụ nghiên cứu
Trong đề tài nghiên cứu này thể hiện các nhiệm vụ sau
1.Nghiên cứu lý thuyết giao tiếp: tập trung các nhân tố chi phối
quá trình giao tiếp bằng ngôn ngữ như: nhân vật giao tiếp, hoàn cảnh giao
tiếp, nội dung giao tiếp, phương tiện giao tiếp, mục đích giao tiếp. Từ đó
giúp giáo viên có cách ra đề làm văn theo quan điểm giao tiếp, hình thức
viết một bài làm văn.
2.Nghiên cứu nội dung, kiểu loại văn bản, mục tiêu, phương pháp
dạy làm văn lớp 10.
3.Nghiên cứu thực tế dạy và học làm văn ở phổ thông.
4.Đề xuất những giải pháp thiết thực để nâng cao hiệu quả dạy
làm văn theo quan điểm giao tiếp.
Dạy làm văn lớp 10 theo quan điểm giao tiếp Khóa luận tốt nghiệp
Nguyễn Phạm Hồng Trang Trang 6
VI. Phương pháp nghiên cứu
1. Phương pháp phân tích
Phương pháp phân tích là tìm hiểu các khía cạnh của vấn đề. Phân
tích giúp ta hiểu rõ về nội dung, đặc điểm của vấn đề. Khi sử dụng phương
pháp này chúng tôi đã tiến hành tập trung phân tích những tài liệu viết về
hoạt động giao tiếp. Từ đó xác lập cơ sở lí luận của hoạt động giao tiếp.
2.Phương pháp phỏng vấn
Phương pháp phỏng vấn là phương pháp hỏi ý kiến của người khác
bằng nhiều hình thức khác nhau. Phương pháp này giúp ta nắm bắt một
cách nhanh nhất tình hình dạy và học làm văn của giáo viên và học sinh.
Phương pháp này được thực hiện thông qua việc lập phiếu điều tra để giáo
viên và học sinh trả lời những câu trắc nghiệm, những câu hỏi ngắn. Tiếp
đó là thống kê các số liệu để có thể xác định được tình hình thực tiễn của
việc dạy và học làm văn theo quan điểm giao tiếp ở trường phổ thông hiện
nay.
3. Phương pháp so sánh
Phương pháp so sánh là phương pháp tìm ra những điểm giống
nhau và khác nhau của hai hay nhiều sự vật, sự việc. Phương pháp này
giúp ta có thể rút ra được ưu, khuyết điểm của phương pháp dạy làm văn
theo quan điểm truyền thống. Khi sử dụng phương pháp này, chúng tôi đã
tiến hành đối chiếu, so sánh phương pháp dạy học làm văn theo cách
truyền thống với phương pháp dạy học làm văn theo quan điểm giao tiếp.
Từ đó rút ra được những tác dụng to lớn của phương pháp giao tiếp và đề
ra những phương pháp dạy làm văn theo quan điểm giao tiếp.
VII. Hướng đóng góp của đề tài
1. Giúp cho người giáo viên ra trường, đặc biệt là bản thân có
phương pháp dạy tiếng Việt nói chung và làm văn nói riêng đạt hiệu quả.
2. Từng bước đẩy lùi cách dạy học xa rời thực tế, không gắn với
giao tiếp, phát huy tính tích cực sáng tạo của học sinh trong học tập. Khắc
phục những hạn chế của việc dạy làm văn ở trường THPT
3. Đề xuất với trường Đại học An Giang bổ sung những nội dung
cần thiết cho sinh viên Ngữ văn để khi ra trường sinh viên có một kiến
thức vững chắc đáp ứng yêu cầu của đổi mới giáo dục.
4. Đề tài này có thể là một tài liệu tham khảo cho giáo viên muốn
tìm hiểu, vận dụng phương pháp này trong dạy học làm văn.
VIII. Cấu trúc của luận văn
A. Mở đầu: 6 trang gồm các phần
I. Lí do chọn đề tài
II. Lịch sử vấn đề
Dạy làm văn lớp 10 theo quan điểm giao tiếp Khóa luận tốt nghiệp
Nguyễn Phạm Hồng Trang Trang 7
III. Đối tượng nghiên cứu
IV. Phạm vi nghiên cứu
V. Nhiệm vụ nghiên cứu
VI. Phương pháp nghiên cứu
VII. Hướng đóng góp của luận văn
B. Nội dung: 32 trang gồm
Chương I: Những vấn đề lý thuyết của hoạt động giao tiếp bằng ngôn
ngữ (15 trang)
Chương II: Thực tế dạy và học làm văn ở trường THPT Châu Văn Liêm
và những giải pháp đề xuất khi dạy làm văn (17 trang)
C. Kết luận: 2 trang
Tư liệu tham khảo: 2 trang
Phụ lục: 5 trang
Dạy làm văn lớp 10 theo quan điểm giao tiếp Khóa luận tốt nghiệp
Nguyễn Phạm Hồng Trang Trang 8
B. NỘI DUNG
CHƯƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ THUYẾT CỦA HOẠT ĐỘNG GIAO
TIẾP BẰNG NGÔN NGỮ
I. Giao tiếp và hoạt động giao tiếp trong đời sống xã hội
1.Giao tiếp, nhu cầu thiết yếu của con người
Giao tiếp có nghĩa là tiếp xúc, trao đổi thông tin , bộc lộ tư tưởng
tình cảm với nhau.
Giao tiếp là một nhu cầu thiết yếu của con người. Trẻ mới sinh ra
bắt đầu được giao tiếp tuy nhiên còn mang tính chất thụ động. Bà mẹ hiểu
nhu cầu ấy là của mình và cả con. Việc giao tiếp biểu hiện qua lời ru, những
lời mắng yêu con. Điều đó chứng tỏ bà mẹ đã có ý thức giao tiếp với con
mình dù lúc này trẻ chỉ tiếp nhận hoạt động giao tiếp của người mẹ một
cách thụ động.
Quá trình tuổi thơ, việc giao tiếp của trẻ không ngừng phát triển từ
thụ động chuyển sang chủ động. Nếu mới sinh ra trẻ chỉ có thể im lặng
trước những hành động, lời nói của người mẹ thì giờ đây trẻ đã muốn nghe
hát, nghe kể chuyện, muốn hiểu biết về thế giới: ông bà, con gà, cái bánh…
Trẻ có nhu cầu được nghe, được tìm hiểu về những vật đã gọi tên dù lúc
này trẻ chưa ý thức được một cách đầy đủ về sự vật đang gọi tên. Chẳng
hạn trẻ gọi tên cái bánh thì trẻ chỉ biết đó là thứ có thể ăn được chứ không ý
thức được hết là nó làm từ nguyên liệu gì, cách thức làm ra sao. Mặc dù vậy
ta cũng phải công nhận một điều rằng lúc này hoạt động giao tiếp ở thể chủ
động của trẻ đang dần dần được hình thành. Dù chưa được hình thành một
cách hoàn chỉnh nhất nhưng đây là tiền đề, là cơ sở quan trọng để tiến hành
những hoạt động giao tiếp sau này. Tiếp đó là tư duy của trẻ được tích lũy,
từ tuổi thơ ngôn ngữ của trẻ cũng được hình thành mà ngôn ngữ và tư duy
là hai nhân tố giao tiếp giúp con người ứng xử được với hoàn cảnh, tồn tại
với hoàn cảnh sống. Ngôn ngữ là phương tiện dùng để diễn tả những tư
tưởng, tình cảm, cảm xúc của con người. Chẳng hạn câu “Tôi rất muốn
cùng bạn đi du lịch khắp nơi”. Qua câu nói này thì người nói muốn truyền
đạt đến người nghe hai vấn đề. Thứ nhất nói về ước muốn của bản thân là
được đi du lịch, thứ hai là tác động tình cảm đến người nghe muốn người
nghe chấp nhận là cùng đi du lịch với mình. Qua đây còn thể hiện tình cảm,
cảm xúc của người nói. Như vậy để diễn đạt được nội dung của câu nói trên
thì ta cần phải biết ngôn ngữ tương ứng đồng thời phải có tư duy để có thể
sử dụng vốn ngôn ngữ phù hợp với nội dung diễn đạt để không những
truyền đạt được ước muốn của bản thân mà còn phải tạo được tác dụng
Dạy làm văn lớp 10 theo quan điểm giao tiếp Khóa luận tốt nghiệp
Nguyễn Phạm Hồng Trang Trang 9
thuyết phục người nghe. Có thể nói ngôn ngữ và tư duy là hai nhân tố quan
trọng để thực hiện quá trình giao tiếp và hai nhân tố này có quan hệ mật
thiết với nhau cùng hỗ trợ cho nhau để thực hiện giao tiếp. Đây cũng là yếu
tố quan trọng để phân biệt con người và loài vật bởi vì giao tiếp của loài vật
là do bản năng chứ không phải là hoạt động có ý thức như con người.
Giao tiếp là phương thức tồn tại phát triển của xã hội. Xã hội là
một tập thể có quan hệ với nhau về nhiều mặt: quan hệ họ hàng, quan hệ
đồng nghiệp, quan hệ thầy trò… Các mối quan hệ này là lí do để con người
có quan hệ giao tiếp với nhau. Giao tiếp trái lại để giữ vững các mối quan
hệ đó. Con người không được giao tiếp với nhau thì không thể có xã hội.
Xã hội là môi trường để con người có thể thực hiện quá trình giao tiếp. Cơ
sở đánh giá một xã hội phát triển là dựa trên cơ sở vật chất, tinh thần ngày
càng thêm đa dạng, phong phú đáp ứng nhu cầu đời sống con người. Sản
phẩm vật chất, tinh thần chính là thành quả sáng tạo của con người. Sự sáng
tạo ấy có được từ tư duy, trình độ sáng tạo. Con người có điều đó là nhờ
giao tiếp, học tập. Những người trong cùng một xã hội muốn trao đổi thông
tin hay bộc lộ cảm xúc cho nhau thì cần phải có giao tiếp. Ngược lại hoàn
cảnh xã hội chính là nguyên nhân, động lực để tạo nên hoạt động giao tiếp.
Thông qua hoạt động giao tiếp thì xã hội được tồn tại và ngày càng phát
triển. Người đời trước có thể truyền kinh nghiệm, kiến thức cho người đời
sau thông qua giao tiếp. Mỗi một người là một thành viên của xã hội, xã hội
muốn tồn tại thì mỗi con người cần phải phát triển và sự phát triển này được
thực hiện thông qua quá trình giao tiếp. Trong hoạt động giao tiếp con
người vừa có thể tiếp nhận thông tin từ người khác đồng thời có thể phản
hồi những ý kiến của bản thân. Chính sự phản hồi này là điều kiện để người
giao tiếp điều chỉnh nội dung giao tiếp cho phù hợp nhằm đạt hiệu quả cao
nhất.
Phạm vi giao tiếp của con người rất rộng. Giao tiếp với tự nhiên
và giao tiếp trong xã hội. Giao tiếp với các hiện tượng tự nhiên con người
nhận ra quy luật của nó giúp con người có ứng xử phù hợp để tạo điều kiện
thuận lợi cho cuộc sống của mình. Chẳng hạn khi thấy trời kéo mây đen thì
con người biết là trời sắp mưa. Từ đó họ sẽ có cách xử lí là lấy quần áo vào
để khỏi bị ướt. Ta thấy rằng dù ngày nay khoa học kĩ thuật ngày càng hiện
đại, ngày càng phục vụ đắc lực cho cuộc sống của con người nhưng bên
cạnh đó thì yếu tố tự nhiên cũng đóng vai trò khá quan trọng trong cuộc
sống của chúng ta. Tất cả các hiện tượng tự nhiên đều tồn tại trực tiếp,
thường xuyên trong cuộc sống của con người cho nên để có thể tồn tại thì
con người cần phải thực hiện hoạt động giao tiếp với tự nhiên, đồng thời
hoạt động giao tiếp này sẽ giúp cho con người hình thành ý thức và năng
lực nhằm để cải tạo tự nhiên phục vụ cho cuộc sống của mình.
Song song với giao tiếp tự nhiên thì con người luôn giao tiếp với
xã hội. Giao tiếp trong xã hội mang tính chất đa dạng, phong phú, con
người có thể giao tiếp trong mọi hoàn cảnh: trong một gia đình cha mẹ giao
tiếp với con cái về những sinh hoạt hàng ngày, các đồng nghiệp giao tiếp
Dạy làm văn lớp 10 theo quan điểm giao tiếp Khóa luận tốt nghiệp
Nguyễn Phạm Hồng Trang Trang 10
với nhau về công việc hoặc là độc giả có thể giao tiếp với các vấn đề xã hội
qua báo chí, sách vở. Con người còn có khả năng giao tiếp với người xưa.
Qua những tác phẩm của người xưa để lại ta biết được tâm tư, tình cảm,
nguyện vọng của họ và hiện thực xã hội thời đó. Ví dụ như đọc Truyện
Kiều của Nguyễn Du ta biết được những bất công ngang trái đang đè nặng
lên người phụ nữ đồng thời còn thấy được tấm lòng nhân đạo của tác giả.
Không những chỉ giao tiếp với người xưa mà con người còn có thể giao tiếp
với cả thế hệ mai sau như những tác phẩm trong hiện tại bấy giờ có thể
truyền đến cho người đọc ở cả tương lai.
Con người giao tiếp ở mọi nơi, học tập được nhiều điều nhưng
quan trọng nhất là giao tiếp trong trường học, ở đó con người được mở rộng
những hiểu biết mang tính lí luận, khoa học. Ta thấy rằng ngay từ những
câu ca dao, tục ngữ mà ta được học trong nhà trường đã có tác dụng định
hướng cho con người vào hoạt động giao tiếp.
Ví dụ:
Học ăn học nói, học gói học mở.
Chỉ ra việc ta phải học hỏi mọi thứ trong cuộc sống, trong đó có
việc học cách nói năng tức là học cách giao tiếp trong đời sống xã hội. Hay
là
Lời nói chẳng mất tiền mua
Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau.
Ngôn ngữ là tài sản chung của mọi người, con người có quyền tự
do lựa chon vốn ngôn ngữ riêng cho bản thân mình. Cho nên khi nói ta phải
biết lựa những lời nói nào cho phù hợp nhất để không những truyền đạt
được thông tin mà còn tác dụng thuyết phục ở người tiếp nhận thông tin. Ở
đây đã chỉ ra cách thức giao tiếp là ta phải biết lựa chọn nội dung giao tiếp
cho phù hợp với từng hoàn cảnh, từng đối tượng để đạt được hiệu quả giao
tiếp cao nhất.
Chim khôn hót tiếng rảnh rang
Người khôn nói tiếng dịu dàng dễ nghe.
Vàng thì thử lửa thử than
Chuông kêu thử tiếng, người ngoan thử lời.
Qua lời nói thì người ta có thể đánh giá về phẩm chất của một con
người cho nên khi nói phải biết lựa chọn lời nói cho phù hợp. Như vậy vai
trò của hoạt động giao tiếp không chỉ truyền đạt thông tin mà qua đó còn
đánh giá được phẩm chất của một con người.
Như vậy, từ lâu con người đã ý thức đúng về vai trò, tác dụng
của hoạt động giao tiếp. Người xưa đã đưa ra những lời khuyên hữu ích cho
con người như: nói cũng phải học, nói đúng còn thể hiện tư cách của một
con người, nói sao cho người nghe thấy được cái hay, cái đẹp. Trong phẩm
Dạy làm văn lớp 10 theo quan điểm giao tiếp Khóa luận tốt nghiệp
Nguyễn Phạm Hồng Trang Trang 11
chất đạo đức có ngôn ngữ, lời nói. Người xưa chưa đưa ra được những
phương pháp để con người luyện tập, rèn giũa lời nói của mình nhưng rõ
ràng giao tiếp từ lâu đã được ý thức là hết sức quan trọng trong đời sống.
Trường học còn là nơi cung cấp những tri thức, hiểu biết cho con người
thông qua hoạt động giao tiếp. Ở đây diễn ra hoạt động giao tiếp giữa giáo
viên và học sinh, giữa giáo viên với giáo viên và giữa học sinh với nhau.
Tất cả những hoạt động giao tiếp này được thể hiện dưới nhiều hình thức
khác nhau nhưng tất cả đều nhằm mục đích là cung cấp, trao đổi thông tin.
Cho nên có thể nói trường học là môi trường giao tiếp quan trọng nhất của
con người vì ở đây con người không chỉ học được những kiến thức mà còn
hoàn thiện được nhân cách của bản thân mình thông qua hoạt động giao
tiếp. Tóm lại, con người có thể giao tiếp mọi lúc, mọi nơi, mọi hoàn cảnh
vượt cả không gian và thời gian.
2. Hai phương tiện giao tiếp cơ bản của con người
Phạm vi giao tiếp của con người rất rộng, phương tiện giao tiếp
cũng hết sức đa dạng. Theo các nhà kí hiệu học ngôn ngữ thì phương tiện
giao tiếp chia thành hai nhóm đó là ngôn ngữ và các yếu tố không bằng
ngôn ngữ gọi là các yếu tố phi ngôn ngữ.
Yếu tố phi ngôn ngữ, một phương tiện giao tiếp không thể thiếu
trong giao tiếp: các yếu tố phi ngôn ngữ rất đa dạng, phong phú gắn liền với
cuộc sống của con người chúng ta. Có những ngữ cảnh thuộc giới tự nhiên
mang tính khách quan như mây đen, cơn gió lạnh, sấm chớp… những yếu
tố này không lệ thuộc nhiều vào con người. Có những yếu tố do con người
tổ chức thực hiện: động tác vỗ về, ôm ấp con của bà mẹ, các cử chỉ liếc
mắt, khoát tay, gật đầu. Những kí hiệu: đèn đường (đèn đỏ báo hiệu xe phải
dừng, đèn xanh báo hiệu cho xe chạy…), kí hiệu toán học, các hình vẽ
trong các thùng hàng hóa. Tất cả các phương tiện này đều gắn bó mật thiết,
đều phục vụ cho lợi ích của con người. Những phương tiện phi ngôn ngữ
giúp cho hoạt động giao tiếp trở nên sinh động, hấp dẫn hơn. Người giao
tiếp không chỉ nắm được nội dung giao tiếp mà còn có thể gợi liên tưởng
tăng tính biểu cảm cho nội dung truyền đạt. Mặc dù vị trí của nó là không
nhỏ trong việc hỗ trợ ngôn ngữ để lột tả nội dung, sắc thái. Nhưng đôi lúc
các phương tiện phi ngôn ngữ do con người tạo ra đã gây khó khăn cho
người tiếp nhận bởi vì các yếu tố phi ngôn ngữ có những sắc thái biểu cảm
khác nhau, mỗi yếu tố phi ngôn ngữ sẽ mang nhiều nội dung khác nhau chứ
không phải chỉ có một nội dung duy nhất. Ví dụ như hành động gật đầu .
Trong trường hợp có một người khác hỏi “Bạn có đồng ý với ý kiến của tôi
không?” thì hành động gật đầu chứng tỏ mang tính chất khẳng định, là đồng
tình với ý kiến. Trong một trường hợp khác như câu: “Bạn không đồng ý
với ý kiến của tôi, có phải không?” thì lúc này hành động gật đầu mang tính
chất phủ định, không đồng tình với ý kiến đó. Từ ví dụ trên ta thấy rằng các
yếu tố phi ngôn ngữ mang những nét nghĩa rất đa dạng, phong phú. Có thể
nói tóm lại khi dùng các yếu tố ngôn ngữ hoặc phi ngôn ngữ để diễn đạt nội
Dạy làm văn lớp 10 theo quan điểm giao tiếp Khóa luận tốt nghiệp
Nguyễn Phạm Hồng Trang Trang 12
dung lời nói thì ta cần đặt chúng vào trong những ngữ cảnh cụ thể thì mới
có thể hiểu nội dung giao tiếp một cách đúng đắn nhất.
Ngôn ngữ - phương tiện giao tiếp quan trọng của con người. Như
đã nói ở trên thì chúng ta đều biết rằng trong thực tiễn đời sống con người
muốn trao đổi thông tin hay bộc lộ tư tưởng, tình cảm cho nhau thì có thể
dùng cử chỉ, điệu bộ, nét mặt, ánh mắt… gọi chung là các yếu tố phi ngôn
ngữ. Tuy nhiên những yếu tố này thường đem lại hiệu quả giao tiếp không
cao hoặc có khi bị hiểu ngược lại ý định của người phát. Chỉ có giao tiếp
bằng ngôn ngữ mới giúp người ta hiểu được nội dung một cách chính xác
và đầy đủ nhất. Vì vậy có thể nói ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp quan
trọng nhất của con người. Ngay từ khi mới sinh ra trẻ đã biết cất tiếng khóc
chào đời, được nghe những vần điệu ca dao, dân ca, những lời ru nồng nàn
yêu thương từ mẹ từ bà. Lớn hơn một chút thì trẻ đã tập nói những tiếng nói
đầu tiên đó là những lời gọi ông, bà, cha, mẹ…Có thể nói ngay từ rất sớm
con người đã có ý thức dùng ngôn ngữ để giao tiếp. Ngôn ngữ và tư duy là
hai nhân tố giao tiếp giúp con người ứng xử được với hoàn cảnh. Cho nên
muốn thực hiện hoạt động giao tiếp còn cần ph._.ải có tư duy và ngôn ngữ. Có
thể nói không có ngôn ngữ sẽ không có tư duy, ngược lại, nếu không có tư
duy thì ngôn ngữ cũng không thể phát triển. Nhờ có ngôn ngữ mà hoạt động
tư duy mới có thể chuyển hóa những thứ thuộc về tinh thần ra vật chất làm
cho người khác dễ tiếp nhận, ngôn ngữ vừa thực hiện chức năng giao tiếp
vừa thực hiện chức năng tư duy. Hai chức năng này lại có quan hệ mật thiết
với nhau. Điều này giúp cho ngôn ngữ trở thành một phương tiện giao tiếp
có nhiều điểm khác biệt so với các phương tiện giao tiếp khác trong đời
sống xã hội. Nói về giao tiếp, người ta cho rằng con người còn có thể giao
tiếp với người xưa và cả thế hệ mai sau. Để có thể thực hiện chức năng này
thì hoạt động giao tiếp cần phải có chức năng lưu trữ và ngôn ngữ chính là
phương tiện để thực hiện chức năng này. Con người giao tiếp với người xưa
hay cả với thế hệ mai sau chủ yếu thông qua sách, báo… được ghi chép
bằng ngôn ngữ. Nếu không có ngôn ngữ thì người đi sau không hiểu những
gì mà người đi trước đã làm cũng như người đi trước không thể truyền lại
những kinh nghiệm, những hiểu biết cho người đời sau. Ngôn ngữ chính là
phương tiện giao tiếp quan trọng nhất của con người.
Bất cứ cuộc giao tiếp nào, con người không những phải truyền đạt
được nội dung giao tiếp mà còn phải đạt được cái hay, cái đẹp trong giao
tiếp. Chính sự đa dạng muôn màu muôn vẻ của ngôn ngữ là điều kiện để
hoạt động giao tiếp đạt tính thẩm mĩ. Trong hoạt động giao tiếp con người
phải lựa chọn ngôn ngữ cho phù hợp với hiệu quả thẩm mĩ. Quá trình tiếp
xúc với môn Tiếng Việt và các môn học khác, con người được trang bị
hoàn chỉnh một hệ thống ngôn ngữ hóa làm phương tiện giao tiếp để giao
tiếp, học tập. Môn Tiếng Việt cung cấp cho học sinh những tri thức về ngôn
ngữ, quy tắc sử dụng ngôn ngữ, kĩ năng sử dụng ngôn ngữ trong hoạt động
giao tiếp… Và khi tiếp xúc với các môn học khác sẽ làm cho hệ thống ngôn
ngữ thêm phong phú, đa dạng và ngày càng hoàn thiện hơn.
Dạy làm văn lớp 10 theo quan điểm giao tiếp Khóa luận tốt nghiệp
Nguyễn Phạm Hồng Trang Trang 13
II. Hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ
1. Khái niệm về hoạt động giao tiếp – giao tiếp bằng ngôn ngữ
Hoạt động giao tiếp là hoạt động trao đổi thông tin, bộc lộ tư
tưởng, tình cảm giữa người và người. Khi có ít nhất hai người trò chuyện
với nhau về một điều gì đó thì giữa hai người đó đã diễn ra hoạt động giao
tiếp. Ta thấy rằng điều đầu tiên để cho hoạt động giao tiếp có thể diễn ra là
phải có hai đối tượng. Trong đó, một đóng vai người nói, một đóng vai
người nghe, hai vai này có thể luân phiên lẫn nhau để đảm nhận những vai
giao tiếp khác nhau. Bất cứ một cuộc giao tiếp nào cũng diễn ra trong điều
kiện nhất định, dùng một thứ ngôn ngữ nhất định, hướng đến một đối tượng
nhất định để nhằm đạt được một mục đích nhất định. Ta có thể hình dung
quá trình giao tiếp diễn ra như sau: trước hết là người nói chuẩn bị một nội
dung nào đó nhằm truyền đạt nội dung đó đến người nghe. Nội dung ở đây
là sự phản ánh thế giới khách quan hoặc có thể là tư tưởng, tình cảm nào đó
của con người. Cho nên nội dung giao tiếp ở đây vừa mang tính khách quan
(phản ánh hiện thực) vừa mang tính chủ quan (nhận thức của con người).
Hoạt động giao tiếp này được thực hiện thông qua văn bản. Văn bản ở đây
là một chuỗi ngôn ngữ được sắp xếp một cách hoàn chỉnh theo các qui tắc
ngữ pháp để truyền đạt một nội dung nào đó trong quá trình giao tiếp. Vì
nội dung giao tiếp là sự phản ánh thế giới khách quan vào trong ý thức của
người nói cho nên nó thuộc lĩnh vực tinh thần. Để người nghe có thể nắm
bắt được nội dung thuộc lĩnh vực tinh thần đó thì người nói phải chuyển nội
dung ấy sang hệ thống vật chất, hệ thống vật chất ấy chính là ngôn ngữ.
Quá trình giao tiếp lại được tiếp tục bằng việc lĩnh hội các yếu tố ngôn ngữ
do người nói phát ra, để hiểu được nội dung mà người nói truyền đạt thì
người nghe phải lí giải các yếu tố ngôn ngữ này. Kết thúc quá trình này
cũng là kết thúc quá trình giao tiếp. Văn bản trong hoạt động giao tiếp được
tồn tại ở hai dạng là nói và viết.
Văn bản nói: là các yếu tố ngôn ngữ được sắp xếp thành một chuỗi
tạo nên lời nói trong giao tiếp. Tiếp nhận văn bản nói là tiếp nhận âm thanh
bằng thính giác. Văn bản nói thường được dùng trong sinh hoạt hằng ngày,
văn bản nói thường có các đặc điểm sau:
Kèm theo ngữ điệu (lên giọng, xuống giọng, nhấn mạnh…) Tùy
theo từng nội dung muốn truyền đạt mà người nói sẽ có sự thay đổi ngữ
điệu cho phù hợp. Sự thay đổi ngữ điệu này sẽ có tác động rất lớn đến nội
dung mà người nói muốn truyền đạt đến người nghe. Ngữ điệu làm cho lời
nói trở nên sinh động, hấp dẫn, gợi hình ảnh. Sự biến đổi của ngữ điệu sẽ
làm thay đổi cảm xúc, ý nghĩa của lời nói. Thậm chí có khi sự thay đổi ngữ
điệu sẽ làm cho nội dung giao tiếp mang ý nghĩa trái ngược lại. Cho nên,
khi sử dụng ngữ điệu phải đúng lúc, đúng chỗ, đúng đối tượng.
Sử dụng yếu tố phi ngôn ngữ: cử chỉ, điệu bộ, nét mặt, … hỗ trợ để
truyền đạt nội dung. Trong một số trường hợp nhất định chính nhờ những
Dạy làm văn lớp 10 theo quan điểm giao tiếp Khóa luận tốt nghiệp
Nguyễn Phạm Hồng Trang Trang 14
yếu tố này mà người nghe sẽ hiểu được nội dung mà người nói muốn truyền
đạt một cách chính xác và đầy đủ nhất.
Từ ngữ được sử dụng đa dạng, phong phú, có cả khẩu ngữ, tiếng
lóng, tiếng địa phương, thán từ…chêm xen. Về câu thường sử dụng những
câu ngắn ngọn, câu đặc biệt, câu tỉnh lược. Điều này làm cho văn bản nói
được tạo ra một cách liền mạch sẽ giúp người nghe dễ hiểu, dễ tiếp nhận.
Nhìn chung văn bản nói là văn bản nảy sinh tức thời, không có điều
kiện gọt giũa nên đôi khi có những yếu tố dư thừa cho nên người nói phải
biết lựa chọn những nội dung thông tin cho phù hợp với quá trình giao tiếp.
Văn bản viết: chữ viết được sắp xếp một chuỗi thành một bài viết.
Đó là các văn bản hành chính, các bài văn chính luận, các bài báo…Tiếp
nhận văn bản viết là tiếp nhận chữ viết bằng thị giác. Văn bản viết có những
đặc điểm sau
Do không có ngữ điệu nên văn bản viết đòi hỏi phải dùng chính xác
các dấu câu, các quy tắc chữ viết, các quy tắc ngữ pháp, ít dùng những từ
ngữ dung tục, khẩu ngữ. Câu phải có kết cấu chặt chẽ, được liên kết bằng
các phép liên kết câu theo đúng quy tắc ngữ pháp, phong cách nghệ thuật.
Nhìn chung văn bản viết thường có thời gian xem xét, kiểm tra, gọt giũa
cho nên ít có sai sót hơn văn bản nói. Ngoài ra còn có dạng đặc biệt là văn
bản viết được thể hiện dưới dạng nói (đọc một bài phát biểu, một lời kêu
gọi trong một hội nghị. Ở đây là văn bản được xây dựng theo các đặc điểm
của văn bản viết nhưng được thể hiện bằng dạng nói nên sẽ kèm theo ngữ
điệu) hoặc ngược lại văn bản nói được thể hiện bằng dạng viết (lời đối thoại
của các nhân vật là văn bản nói nhưng khi được đưa vào trong tác phẩm in
trên sách thì trở thành văn bản viết). Từ đó cho thấy văn bản trong giao tiếp
được tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau. Mỗi hình thức sẽ mang những
đặc điểm khác nhau cho nên khi dùng văn bản ở hình thức nào thì phải nắm
rõ đặc điểm của hình thức ấy để có sự lựa chọn phương tiện giao tiếp cho
phù hợp.
2. Giao tiếp, một hiện tượng xã hội
Giao tiếp là hoạt động có tính vĩnh viễn vì ở thời đại nào con người
cũng cần phải có giao tiếp. Giao tiếp là phương thức giúp con người tồn tại
và phát triển. Trong tất cả mọi hoạt động của đời sống xã hội thì con người
cần phải giao tiếp với nhau. Còn phương tiện, nội dung thì mang tính lịch
sử, đây là vấn đề có tính triết học. Xã hội càng phát triển thì phương tiện
giao tiếp của con người càng hiện đại. Nếu trước đây người ta chỉ có thể
giao tiếp bằng miệng, bằng sách báo thì ngày nay người ta đã có thể giao
tiếp với nhau qua điện thoại, thư từ, chat… Nội dung giao tiếp vì thế cũng
ngày càng đa dạng. Nếu trước đây người ta chỉ giao tiếp với nhau về những
vấn đề trong sinh hoạt hàng ngày thì ngày nay người ta đã biết giao tiếp
những vấn đề về thiên nhiên, vũ trụ, những vấn đề mang tầm thế giới…Ta
phải nhận thấy rằng xã hội càng ngày càng phát triển đã cung cấp cho con
người những phương tiện, nội dung giao tiếp ngày càng đa dạng, phong phú
Dạy làm văn lớp 10 theo quan điểm giao tiếp Khóa luận tốt nghiệp
Nguyễn Phạm Hồng Trang Trang 15
hơn bởi vì mỗi thời đại lịch sử khác nhau thì quan niệm về cái đẹp, cái hay
của con người cũng khác nhau.
Người hiện tại giao tiếp với quá khứ và có tham vọng giao tiếp với
cả hậu thế. Lời nói thông thường có tính chất tức thời “lời nói gió thoảng”
bởi vì lời nói ra không thể lưu giữ lại được, người nghe chỉ có thể tiếp nhận
được ngay lúc đó còn việc có nhớ hay không thì không thể biết trước được.
Nhưng lời văn, lời thơ thì sao? Lời văn, lời thơ có tham vọng là lời của
muôn đời. Khi viết ra một tác phẩm thì người viết không những muốn cho
người đương thời tiếp nhận mà còn muốn truyền đạt đến cả người hậu thế.
Bất kì một sáng tác nào thì bao giờ cũng phản ánh hiện thực và bộc lộ tâm
tư, tình cảm của tác giả. Cho nên mỗi sáng tác đều có tham vọng lưu truyền
ở đời. Chẳng hạn dù cách ngày nay đã mấy trăm năm thì Truyện Kiều của
Nguyễn Du vẫn thấm đẫm trong lòng người đọc. Nhắc đến văn học là người
ta nhắc ngay đến Truyện Kiều của Nguyễn Du. Và giá trị nhân đạo, hiện
thực mà tác phẩm để lại cho chúng ta không thể phủ nhận được. Mỗi một
tác phẩm khi được viết ra thì tác giả đều muốn truyền đạt đến người tiếp
nhận một ý nghĩa nào đó. Và ý nghĩa này được người tiếp nhận thông qua
ngôn ngữ.
Giao tiếp được coi là một hiện tượng xã hội, giao tiếp là cách
thức, hoạt động để tiếp nhận các thông tin của đời sống, để trao đổi mọi tư
tưởng, tình cảm giữa người và người trong mọi mặt của đời sống.
III. Các nhân tố cơ bản của hoạt động giao tiếp
Trong hoạt động giao tiếp có nhiều nhân tố ảnh hưởng đến việc tạo
lập văn bản và các nhân tố này có mối quan hệ mật thiết với nhau. Mỗi
nhân tố có một vai trò khác nhau trong việc tạo lập văn bản. Khi dạy làm
văn theo quan điểm giao tiếp ta cần chú ý đến các nhân tố. Có rất nhiều
nhân tố giao tiếp khác nhau nhưng ở đây chúng tôi chỉ tập trung vào các
nhân tố cơ bản sau
1.Nhân vật giao tiếp
Là những người tham gia trực tiếp vào quá trình giao tiếp. Quá trình
giao tiếp có thể thực hiện bởi hai người hoặc nhiều người nhưng chúng ta
có thể chia làm hai loại nhân vật giao tiếp đó là người phát và người nhận.
Hiệu quả của quá trình giao tiếp được quyết định bởi cả người phát và
người nhận. Khi người phát nói, viết những gì mà người nhận không hiểu
hay không phù hợp với suy nghĩ, thói quen của người nhận thì cuộc giao
tiếp sẽ không đạt được hiệu quả. Như vậy để quá trình giao tiếp đạt được
hiệu quả như mong muốn thì người phát phải có sự lựa chọn nội dung giao
tiếp cho phù hợp với lứa tuổi, trình độ, đặc điểm tâm lí của người nhận,
đồng thời người phát phải biết lựa chọn ngôn ngữ cho phù hợp để khơi gợi
hứng thú giao tiếp. Ngược lại khi tiếp nhận nội dung truyền đạt thì người
nhận phải có vốn hiểu biết nhất định về các lĩnh vực liên quan đến nội dung
lĩnh hội, về đối tượng đã truyền đạt (người phát). Sự hiểu biết này cũng
không kém phần quan trọng nó giúp cho người nhận có thể hiểu được nội
Dạy làm văn lớp 10 theo quan điểm giao tiếp Khóa luận tốt nghiệp
Nguyễn Phạm Hồng Trang Trang 16
dung truyền đạt một cách đúng đắn và đầy đủ nhất để có sự hồi đáp phù
hợp với cuộc giao tiếp. Những người tham gia trong cuộc giao tiếp phải có
một trình độ nhất định, nếu trình độ ngang hàng nhau thì càng hiểu được
nội dung giao tiếp của nhau. Từ đó cho chúng ta thấy rằng sự hiểu biết về
đối tượng giao tiếp càng đầy đủ, sâu sắc bao nhiêu thì hiệu quả giao tiếp
càng cao bấy nhiêu. Vai vế, địa vị của nhân vật giao tiếp sẽ ảnh hưởng rất
nhiều đến hoạt động giao tiếp. Những người có vai vế, địa vị xã hội càng
cao thì lời nói càng có giá trị, càng có sức thuyết phục. Cùng một nội dung,
nhưng người này nói lại không có sức thuyết phục hơn người khác. Từ
những đặc điểm trên ta thấy rằng nhân vật giao tiếp đóng vai trò quan trọng,
đó là nhân tố để lại dấu ấn đậm nét nhất trong việc lựa chọn nội dung và
cách thức trình bày một văn bản. Là một người giáo viên phải nắm rõ đặc
điểm học sinh lớp mình để tổ chức ngôn ngữ giảng dạy theo quan điểm giao
tiếp cho phù hợp với từng đối tượng. Đồng thời phải tạo được vị thế cho
bản thân để tăng sức thuyết phục cho lời nói khi truyền đạt đến học sinh.
2. Nội dung giao tiếp
Nội dung giao tiếp ở đây là hiện thực được nói đến trong cuộc giao
tiếp. Nội dung là tình cảm, sự hiểu biết của con người được đưa vào nội
dung lời nói của người tham gia giao tiếp. Người ta không thể nói những gì
mà người ta không biết. Hiện thực được nói đến sẽ tạo nên chủ đề, đề tài
của cuộc giao tiếp. Nội dung giao tiếp ở đây có thể thuộc về quá khứ, hiện
tại và cả tương lai. Nội dung giao tiếp được tồn tại trong suốt quá trình giao
tiếp, không ai lại nói những điều mà không chứa đựng được nội dung nào.
Điều quan trọng để cuộc giao tiếp có thể diễn ra là cả người phát và người
nhận phải cùng hướng về một nội dung giao tiếp. Không thể người này nói
một nơi người khác lại hiểu một nẻo. Chẳng hạn khi A hỏi B “Sao hôm qua
không đi học ?” B trả lời “Hôm nay trời đẹp quá”. Đó là vi phạm về nguyên
tắc của hoạt động giao tiếp. Vì thế, cuộc giao tiếp xem như thất bại. Tóm
lại, để có thể thực hiện hoạt động giao tiếp thì những người tham gia giao
tiếp phải nắm rõ về nội dung giao tiếp, cùng hướng về một nội dung giao
tiếp nhất định.
3. Mục đích giao tiếp
B. Tômasepxki đã nói “ Mục đích của giao tiếp thông thường là
biểu đạt. Chỉ cần thỏa mãn sự biểu đạt, con người có thể sử dụng bất cứ
phương tiện, cách thức nào: từ ngữ, ánh mắt, nụ cười, cử chỉ, bàn tay, cái
nhún vai… [Trần Đình Sử . 2005. 135]. Như vậy, có thể nói mục đích cơ
bản của cuộc giao tiếp là nhằm truyền đạt thông tin, bộc lộ tư tưởng, tình
cảm, cảm xúc của mình. Qua đó còn phải tác động đến người tiếp nhận một
tình cảm nào đó. Mục đích giao tiếp là kết quả cuối cùng mà cuộc giao tiếp
mong muốn đạt được. Có thể nói một cuộc giao tiếp được gọi là thành công
khi cuộc giao tiếp đạt được mục đích đã đề ra. Mục đích giao tiếp là động
lực giúp con người hướng đến và thực hiện hoạt động giao tiếp.
Dạy làm văn lớp 10 theo quan điểm giao tiếp Khóa luận tốt nghiệp
Nguyễn Phạm Hồng Trang Trang 17
4. Phương tiện giao tiếp
Phương tiện giao tiếp ở đây là ngôn ngữ. Điều đầu tiên để cả người
phát và người nhận có thể hiểu thông điệp của nhau là ngôn ngữ dùng trong
giao tiếp phải có tính chất chung đối với cả hai và ngôn ngữ trong văn bản
viết phải khác với ngôn ngữ trong văn bản nói. Để đạt được điều này thì
người giao tiếp phải biết cách sử dụng phương tiện ngôn ngữ sao cho phù
hợp với đối tượng giao tiếp, nội dung giao tiếp, sử dụng vốn ngôn ngữ
mang tính chất cộng đồng … để người nhận có thể tiếp thu, có thể hiểu
được nội dung mà người nói muốn truyền đạt. Đối với người Việt trong
những hoạt động giao tiếp thông thường thì ngôn ngữ được sử dụng là tiếng
Việt. Khi giao tiếp bằng ngôn ngữ thì trình độ ngôn ngữ cũng như vốn hiểu
biết về tiếng Việt sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả giao tiếp. Cũng như
các loại hình ngôn ngữ khác, tiếng Việt cũng được thể hiện ở cả hai dạng
nói và viết. Khi sử dụng tiếng Việt chúng ta còn cần phải chú ý đến các
phong cách sử dụng vì mỗi phong cách sẽ quyết định việc lựa chọn những
phương tiện giao tiếp cho phù hợp.
5. Hoàn cảnh giao tiếp
Hoàn cảnh giao tiếp là không gian, thời gian và những đặc điểm
của nơi diễn ra cuộc giao tiếp. Hoàn cảnh giao tiếp có thể chia làm hai loại:
hoàn cảnh giao tiếp rộng và hoàn cảnh giao tiếp hẹp. Hoàn cảnh giao tiếp
rộng là những hiểu biết chung về chính trị , văn hóa, xã hội … tại thời điểm
diễn ra cuộc giao tiếp. Tất cả những hiểu biết này tạo ra tiền giả định để các
nhân vật giao tiếp huy động theo những cách khác nhau vào cuộc giao tiếp.
Khi tiến hành cuộc giao tiếp thì các nhân vật giao tiếp phải có chung một
tiền giả định. Hoàn cảnh giao tiếp hẹp là không gian, thời gian cụ thể đang
diễn ra cuộc giao tiếp. Hoàn cảnh giao tiếp hẹp đòi hỏi nhân vật tham gia
giao tiếp phải có những ứng xử cho phù hợp. Hoàn cảnh giao tiếp cũng ảnh
hưởng rất nhiều đến cuộc giao tiếp, mỗi hoàn cảnh ta phải có sự lựa chọn
những cách thức giao tiếp cho phù hợp.
Trên đây là những nhân tố cơ bản của hoạt động giao tiếp bằng ngôn
ngữ. Các nhân tố này có mối quan hệ mật thiết với nhau trong khi tiến hành
hoạt động giao tiếp. Nhân vật giao tiếp có vai trò quyết định nội dung,
phương tiện giao tiếp. Chẳng hạn như ngôn ngữ dùng để giao tiếp với người
lớn tuổi hơn mình sẽ khác với ngôn ngữ dùng giao tiếp với người ngang
hàng. Khi gọi em mình ăn cơm, ta có thể nói “vô ăn cơm” nhưng khi gọi
ông nội thì ta không thể dùng ngôn ngữ đó mà phải nói là “cháu mời ông
nội vào dùng cơm”. Nội dung giao tiếp lại quyết định việc lựa chọn phương
tiện giao tiếp. Vì mỗi đối tượng mỗi nội dung giao tiếp khác nhau sẽ có
những phương tiện giao tiếp phù hợp. Đồng thời khi có sự hiểu biết, sự nắm
vững đầy đủ về nhân vật giao tiếp, nội dung giao tiếp, phương tiện giao
tiếp, hoàn cảnh giao tiếp thì mới có thể đạt được mục đích giao tiếp như kết
quả mong muốn.
Dạy làm văn lớp 10 theo quan điểm giao tiếp Khóa luận tốt nghiệp
Nguyễn Phạm Hồng Trang Trang 18
IV. Giao tiếp và việc dạy- học làm văn để giao tiếp
1.Dạy tiếng Việt và làm văn là dạy học sinh rèn luyện và nâng cao kĩ
năng sử dụng tiếng Việt làm phương tiện giao tiếp - sản sinh văn bản làm
phương tiện giao tiếp. Tiếng Việt có nhiệm vụ cung cấp cho học sinh những
tri thức ngôn ngữ, quy tắc sử dụng ngôn ngữ tạo ra các sản phẩm trong hoạt
động giao tiếp. Tiếng Việt là công cụ để giao tiếp và tư duy. Dạy tiếng Việt
là dạy về ngôn ngữ mà ngôn ngữ là phương tiện để tạo nên văn bản trong
hoạt động giao tiếp. Văn bản này được xây dựng dựa trên những nguyên tắc
chung của tiếng Việt. Văn bản là một chuỗi lời nói được sắp xếp một cách
mạch lạc nhằm truyền đạt nội dung giao tiếp nào đó. Văn bản bao gồm hai
phần: hình thức và nội dung. Hai thành phần này được xây dựng dựa trên
những nguyên tắc của tiếng Việt. Thành phần nội dung nhằm phản ánh hiện
thực, thái độ, tình cảm của con người và để truyền tải được nội dung đó đến
người tiếp nhận thì người nói cần phải sử dụng một hình thức cho phù hợp.
Giữa nội dung và hình thức có mối quan hệ mật thiết với nhau: nội dung
quyết định hình thức, hình thức phản ánh nội dung. Dạy tiếng Việt là dạy
các kiến thức cơ bản để có thể tạo nên mối quan hệ hài hòa giữa hình thức
và nội dung trong cùng một văn bản. Làm văn là phương tiện để học sinh
có thể thực hành những văn bản trong hoạt động giao tiếp. Bất cứ một vấn
đề nào cũng vậy nếu ta chỉ dạy lý thuyết suông thì không thể đạt được hiệu
quả mà ta cần phải gắn lý thuyết với thực hành. Cho nên có thể nói rằng dạy
tiếng Việt và làm văn là dạy cho học sinh có cách sử dụng tiếng Việt để làm
phương tiện giao tiếp.
2.Dạy làm văn không phải chỉ dạy hình thức bài văn đúng phong
cách mà quan trọng là nội dung có ý hay, đẹp
2.1 Về hình thức:
Hình thức bài văn bao gồm nhiều đoạn, nhiều câu liên kết chặt chẽ
với nhau, các câu này phải cùng thể hiện được một chủ đề, cùng hướng đến
một mục đích nhất định. Môn Làm văn có các thao tác lập luận cơ bản. Ta
có thể lập luận theo cách diễn dịch hay quy nạp. Tùy theo nội dung và yêu
cầu của bài văn mà ta sẽ có sự lựa chọn phương pháp lập luận cho phù hợp
vì mỗi phương pháp lập luận đều có những ưu, khuyết điểm riêng. Các thao
tác lập luận này cần phải được tổ chức mạch lạc, chặt chẽ để giúp cho đoạn
văn có một hình thức thống nhất. Bố cục bài làm văn gồm có 3 phần lớn:
mở bài, thân bài, kết bài.
Mở bài là nêu một cách khái quát về vấn đề trọng tâm mà mình sẽ
khai thác ở phần thân bài. Phần mở bài này sẽ giúp cho học sinh nhận diện
được vấn đề mà mình sẽ tìm hiểu. Mở bài trong bài văn tự sự thuyết minh
thường giới thiệu khái quát về đối tượng, sự vật, sự việc sẽ kể sẽ thuyết
minh trong phần thân bài. Mở bài trong bài văn nghị luận thường nêu lên
luận điểm trọng tâm sẽ được trình bày trong phần thân bài. Phần mở bài
đóng một vai trò rất quan trọng, nó là điều kiện là tiền đề để học sinh có thể
làm phần tiếp theo. Vì có nhiều trường hợp học sinh mất quá nhiều thời
Dạy làm văn lớp 10 theo quan điểm giao tiếp Khóa luận tốt nghiệp
Nguyễn Phạm Hồng Trang Trang 19
gian để có thể viết được phần mở bài. Có những học sinh khi không viết
được phần mở bài thì sẽ không thể làm được những phần tiếp theo.
Thân bài có nhiệm vụ là triển khai và làm sáng tỏ vấn đề nêu ở phần
mở bài. Ở phần thân bài này sẽ gồm các luận điểm, luận cứ góp phần làm
sáng tỏ luận đề ở phần mở bài. Các luận điểm, luận cứ này cần phải được
liên kết chặt chẽ với nhau bằng các thao tác lập luận. Các luận điểm phải
nhỏ hơn và tập trung làm sáng rõ luận đề. Giữa các đoạn văn trong cùng
một bài làm văn được liên kết với nhau bằng các câu chuyển đoạn.
Kết bài là tổng kết, kết luận lại nội dung đã trình bày. Qua đó nêu
lên nhận định của bản thân về vấn đề đó, khẳng định hoặc phủ dịnh vấn đề
đó. Phần kết luận thường ngắn gọn, súc tích giúp học sinh nắm lại được nội
dung chính của vấn đề.
Làm văn lớp 10 có 3 kiểu bài cơ bản: Tự sự, thuyết minh, nghị luận.
Gắn liền với các kiểu bài này là các thao tác chứng minh, giải thích, bác bỏ.
Mỗi kiểu bài sẽ có hình thức riêng cho nên ta phải biết cách lựa chọn hình
thức cho phù hợp với từng kiểu bài.
Tự sự: cách làm bài văn tự sự là phải chuyển đổi cốt truyện thành
một bài văn mang nội dung truyện. Những đặc điểm chủ yếu của bài văn tự
sự bao gồm: cốt truyện, tình huống truyện phải hợp logic nhằm tác dụng
bộc lộ đầy đủ được vấn đề. Ta phải biết sắp xếp sao để cho mỗi tình tiết đều
có vai trò riêng không có chi tiết thừa. Bên cạnh đó còn phải chú ý đến cách
kể. Có thể kể theo trình tự thời gian, đảo trình tự thời gian hoặc kết hợp cả
hai. Cái hay của bài làm văn tự sự thường được bộc lộ qua lời kể cho nên
lời văn trong bài văn tự sự cần phải có cảm xúc để gây hứng thú cho người
đọc. Ta có thể kết hợp lời kể, lời dẫn hoặc lời “nửa trực tiếp” (Trong nền
văn học hiện thực giai đoạn 1930 – 1945, Nam Cao là nhà văn sử dụng lời
nửa trực tiếp đạt hiệu quả nhất). Về ngôi kể thì có thể kể theo điểm nhìn của
nhân vật, kể theo điểm nhìn của người kể. Dù khi ta lựa chọn cách kể nào
thì cũng phải đảm bảo được rằng cách kể đó phải phù hợp với nội dung vấn
đề và đạt được hiệu quả nghệ thuật.
Thuyết minh là văn bản giới thiệu về những đặc điểm, tính chất cơ
bản của một sự vật, sự việc nào đó. Tất cả các đặc điểm này phải mang tính
khách quan phù hợp với thực tế. Đặc điểm của văn bản thuyết minh là phải
phản ánh được bản chất của sự việc cho nên khi làm một bài văn thuyết
minh tránh viết những ý dài dòng mà cần tập trung làm nổi bật đối tượng
định thuyết minh, các chi tiết cần phải được sắp xếp theo trình tự, hợp
logic. Văn bản thuyết minh được sử dụng rộng rãi trong đời sống hàng ngày
cho nên ngôn ngữ trong văn bản thuyết minh đòi hỏi phải giản dị, gần gũi
với đời sống hàng ngày. Khi làm một bài văn thuyết minh đòi hỏi người
viết phải tôn trọng sự việc, tránh những hư cấu thái hóa, phương pháp so
sánh được sử dụng rộng rãi trong bài văn thuyết minh sẽ đem lại hiệu quả
cao.
Dạy làm văn lớp 10 theo quan điểm giao tiếp Khóa luận tốt nghiệp
Nguyễn Phạm Hồng Trang Trang 20
Nghị luận là thể văn ra đời từ rất lâu. Văn nghị luận phản ánh tư
tưởng, tình cảm, ý chí, nguyện vọng của con người. Trong bài văn nghị
luận thường phải có luận điểm, luận cứ, luận chứng để làm sáng tỏ luận đề.
Lời văn trong bài văn nghị luận phải sáng sủa, mạch lạc. Người viết cần
phải dùng lí lẽ để làm rõ vấn đề. Trong bài văn nghị luận cần phải có các
thao tác: chứng minh, dẫn chứng, giải thích, phân tích, tổng hợp. Các thao
tác này có quan hệ mật thiết với nhau cùng thực hiện một nhiệm vụ là làm
sáng tỏ vấn đề. Muốn chứng minh một vấn đề thì cần phải có dẫn chứng (số
liệu, một nhận định của ai đó….) thuyết phục người đọc. Và để người khác
có thể hiểu được thì phải giải thích, phân tích. Cuối cùng là tổng hợp để
khẳng định lại vấn đề, đưa ra một nhận định chung về sự vật, sự việc.
Khi nói đến một bài làm văn thì một trong những vấn đề quan trọng
là việc sử dụng từ ngữ vì làm văn chính là thực hành những kiến thức về
tiếng Việt đã học. Từ ngữ trong một bài làm văn góp phần thể hiện được
những kĩ năng của người viết, phải biết lựa chọn từ ngữ trong sáng, mạch
lạc, súc tích phù hợp với từng kiểu bài và phù hợp với phong cách của một
bài làm văn. Ngôn ngữ trong một bài làm văn thuộc về ngôn ngữ nghệ thuật
cho nên từ ngữ đòi hỏi phải đạt được giá trị thẫm mĩ. Mỗi từ ngữ không
phải chỉ hàm chứa nội dung mà còn phải đạt được cái hay cái đẹp. Tiếng
Việt của ta về từ ngữ thì rất phong phú, đa dạng. Sự phong phú đa dạng này
đem lại kết quả 2 mặt: một là nếu ta sử dụng đúng thì sẽ giúp cho lời văn
trở nên sinh động đạt được hiệu quả cao. Ngược lại thì nó sẽ làm sai ý nghĩa
hoặc đôi khi làm đảo lộn cả nội dung muốn nói đến. Bên cạnh đó thì câu
cũng đóng vai trò quan trọng trong một bài Làm văn. Nội dung giữa các câu
cần phải được sắp xếp một cách hợp logic, đúng đặc điểm ngữ pháp để tạo
nên được hiệu quả diễn đạt. Người ta thường nói “phong ba bão táp không
bằng ngữ pháp Việt Nam”, ta thấy rằng chỉ với một dấu câu cũng có thể
làm thay đổi nội dung của cả câu.
Ví dụ
Ngày tôi về nhà, cô ấy rất vui
Ngày tôi về, nhà cô ấy rất vui
Ta thấy chỉ cần thay vị trí dấu phẩy thì ý nghĩa của hai câu đã
khác xa nhau. Ở câu thứ nhất thì người có được niềm vui là “cô ấy”, còn ở
câu thứ 2 thì cả nhà cô ấy có được niềm vui. Từ sự phân tích trên ta thấy
rằng khi viết thành câu thì ta còn cần phải chú ý đến cả dấu câu. Các câu
được liên kết chặt chẽ với nhau bằng các phép liên kết, các phương thức
ngữ pháp khác nhau cho phù hợp. Từ là phương tiện để tạo nên câu, câu là
đơn vị để tạo nên một đoạn văn và mỗi đoạn văn lại là phương tiện để tạo
nên một bài làm văn. Cho nên để có thể tạo nên một bài làm văn đạt được
yêu cầu thì trước tiên cần phải sử dụng từ ngữ, câu đúng phong cách, đặc
điểm ngữ pháp để cho bài làm văn chẳng những mang giá trị nội dung mà
còn đạt được giá trị thẩm mĩ.
Dạy làm văn lớp 10 theo quan điểm giao tiếp Khóa luận tốt nghiệp
Nguyễn Phạm Hồng Trang Trang 21
Tóm lại, để có thể viết được một bài làm văn hay, đạt hiệu quả thì
trước tiên bài làm văn đó phải đạt được yêu cầu về mặt hình thức. Hình
thức đóng vai trò quan trọng trong một bài làm văn vì hình thức là điều đập
vào mắt người đọc trước khi tiếp xúc với nội dung của một bài làm văn.
Cho nên khi hình thức tạo được sức thuyết phục nơi người tiếp nhận thì
người ta mới có thể tiếp nhận tiếp phần nội dung. Bên cạnh, bài làm văn
cần chú ý đến phần nội dung
2.2 Về nội dung:
Nội dung giao tiếp vô cùng phong phú, đa dạng về vấn đề tự nhiên
rồi các vấn đề xã hội như đạo đức, văn học, tình cảm. Trong bất cứ hoàn
cảnh nào thì con người cũng cần phải có giao tiếp. Trong nhà trường
thường giao tiếp về các lĩnh vực khác nhau. Ở đó, không chỉ cung cấp
thông tin mà còn bồi dưỡng tư tưởng, tình cảm cho học sinh. Cho nên nội
dung giao tiếp cần phải hướng đến nhiều đối tượng khác nhau để đạt được
những hiệu quả giao tiếp. Lượng kiến thức mà nhà trường cung cấp cho học
sinh với số lượng rất lớn. Người giáo viên cần truyền tải tất cả nội dung này
gắn liền với giao tiếp để vừa giúp học sinh rèn luyện được kĩ năng của mình
vừa phát huy được tính tích cực, tự giác, sự hứng thú của học sinh trong các
giờ học nói chung và giờ làm văn nói riêng. Giờ làm văn là những giờ giúp
cho học sinh có thể diễn đạt được những kiến thức đã học.
Cùng một vấn đề để làm sáng tỏ (nội dung) đâu phải lúc nào cũng
chứng minh hay phân tích với 1 thao tác duy nhất. Có thể tùy người nghe
(đọc), ý muốn chủ quan của người nói (viết) mà sử dụng những thao tác lập
luận, kiểu bài phù hợp. Đây là vấn đề có liên quan đến việc ra đề làm văn
sao cho phù hợp nhu cầu, lựa chọn cách thức thể hiện của người viết. Và
chỉ khi phù hợp nhu cầu thì người viết mới có khả năng bộc lộ sự thích thú,
sáng tạo được. Từ đó bài viết sẽ hay, hấp dẫn hơn. Ví dụ ta thử so sánh hai
đề làm văn sau:
Đề 1:Hãy chứng minh đôi vai là kì diệu nhất
Đề 2:Lấy đôi vai làm đề tài, hãy viết bài luận về đề tài ấy.
Ta thấy đề 2 sẽ tạo sự linh hoạt, hứng thú, sáng tạo nơi người viết.
Ở đề 1 tạo sự thụ động cho người viết vì ở đây khẳng định tác dụng của đôi
vai là “kì diệu nhất” và yêu cầu người viết chứng minh điều đó. Nghĩa là
người viết phải chấp nhận nhận định đó là đúng và chỉ tìm những ý nào
chứng tỏ đôi vai là kì diệu nhất làm cho phạm vi viết trở nên rất hạn hẹp.
Còn ở đề 2 người viết có thể tự do suy nghĩ và chọn ra chủ đề mà mình yêu
thích. Mỗi người sẽ có suy nghĩ, có sáng tạo khác nhau. Chẳng hạn như có
thể viết “đôi vai là nơi sẻ chia những tình cảm” hoặc “đôi vai là nơi để ta
cùng nhau chia sớt những gánh nặng trong đời”. Mỗi người sẽ có sự thể
hiện những tình cảm riêng của mình, do không bị gò bó về mặt nội dung
cho nên sẽ tạo được sự hứng thú cho người viết. Người viết sẽ thả những
suy nghĩ của mình trong bài làm văn. Qua cách ra đề như vậy người giáo
viên sẽ nắm được kiến thức của học sinh. Như vậy, nội dung làm văn phải
Dạy làm văn lớp 10 theo quan điểm giao tiếp Khóa luận tốt nghiệp
Nguyễn Phạm Hồng Trang Trang 22
phong phú, gắn với cuộc sống xung quanh chứ không chỉ vấn đề sách vở,
vấn đề lời người xưa. Vì học sinh thích những điều gì thực tế, nắm bắt được
chứ không phải những gì mang tính chất lý thuyết khô khan. Học sinh có
nhu cầu tìm hiểu về thế giới, về những g._.tra được kiến
thức, kĩ năng làm văn của học sinh vừa phải có tác dụng tạo hứng thú cho
học sinh.
2.2 Phân tích đề, lập dàn ý
Tìm hiểu yêu cầu của đề văn : Để có kĩ năng tìm hiểu yêu cầu của đề
trước hết ta phải đọc kĩ đề văn để xác định phần dẫn, phần yêu cầu của kiểu
bài, phần giới hạn của vấn đề. Từ đó phân tích mối quan hệ giữa các thành
phần trong đề bài để thấy được vấn đề nào là trọng tâm cần phải làm sáng
tỏ, xác định các thao tác lập luận cho phù hợp với từng kiểu bài. Cách đơn
giản để có thể phân tích vấn đề là ta có thể gạch dưới những từ trọng tâm
của đề văn. Cần hướng dẫn học sinh tự đặt ra câu hỏi cho bản thân và tự trả
lời về các vấn đề liên quan đến đề bài. Phân tích đề văn là công việc đầu
tiên và cũng vô cùng quan trọng trong quá trình làm bài. Khi phân tích đề
văn đúng hướng thì bài làm văn sẽ không bị lạc đề. Và qua quá trình phân
tích sẽ giúp ta xác định được nội dung cơ bản để lập dàn ý cho bài văn.
Muốn tìm ý cho bài văn cần xác định vấn đề lớn của đề bài hay còn gọi là
luận đề. Nội dung của luận đề có thể là vấn đề thuộc văn học, đời sống hoặc
các lĩnh vực khác. Dù nội dung là vấn đề gì thì ta cũng phải chú ý là giữa
văn học và đời sống có mối liên hệ mật thiết với nhau. Khi lập dàn bài ta
phải xác định là trình bày theo cách diễn dịch hoặc qui nạp. Dù là trình bày
vấn đề theo cách nào thì ta cũng phải biết sắp xếp các luận đề, luận điểm,
luận chứng, luận cứ theo trình tự hợp lí. Luận đề là nòng cốt của đề bài, là ý
lớn nhất mà bài làm văn cần làm sáng tỏ. Trong luận đề thì có nhiều luận
điểm để làm rõ cho luận đề. Các luận điểm này cần phải xây dựng thành
một hệ thống luận điểm chặt chẽ, phù hợp với nội dung của đề văn. Tuy
nhiên cần phải xem xét các luận điểm này có phù hợp với sự thật, với lí lẽ
Dạy làm văn lớp 10 theo quan điểm giao tiếp Khóa luận tốt nghiệp
Nguyễn Phạm Hồng Trang Trang 34
hay không? Có nhiều cách để tìm luận điểm. Trước hết ta cần phải dựa vào
quy luật tất yếu của đời sống, thứ hai là phải dựa vào sự thật hiển nhiên
đang diễn ra trong thực tế. Chẳng hạn như để bình luận câu tục ngữ “Có
công mài sắt, có ngày nên kim”. Để tìm được luận điểm cho câu tục ngữ
này thì trước tiên ta phải dựa vào quy luật thực tế là qua sự bào mòn thì cái
lớn sẽ trở thành cái bé. Thứ hai là phải dựa vào những kinh nghiệm trong
đời sống thực tế là khi ta cố gắng làm việc gì dù khó khăn đến mấy thì cũng
sẽ đạt được kết quả như mong muốn. Cuối cùng người giáo viên cần giúp
cho học sinh phân tích luận điểm đó có giá trị nhất thời hay vĩnh viễn. Từ
đó có thể đề xuất những luận điểm mới. Để có thể hình thành và triển khai
luận điểm đòi hỏi học sinh phải có một vốn hiểu biết nhất định. Vốn hiểu
biết này được tích lũy trong quá trình đọc sách, tham khảo ghi chép tài liệu,
vốn sống thực tế… Sự hiểu biết này càng nhiều bao nhiêu thì học sinh càng
tự tin bấy nhiêu trong việc đưa ra các luận điểm. Để có được một hệ thống
luận điểm, học sinh phải sắp xếp các luận điểm sao cho mạch lạc, chặt chẽ,
phù hợp với logic của nội dung bài học. Đây là thao tác dẫn dắt người đọc
hiểu được vấn đề một cách đầy đủ hơn. Chẳng hạn thuyết minh truyện
“Chuyện chức phán sự đền Tản Viên – Trích Truyền kì mạn lục của
Nguyễn Dữ ”
Hoạt động 1: Định nghĩa thể loại truyện truyền kì
Hoạt động 2 : Giới thiệu các yếu tố của truyện truyền kì như yếu tố
kì ảo, sự kiện và nhân vật, nhân vật chính là Ngô Tử Văn, nhân vật phụ là
thổ công, diêm vương. Miêu tả, bình giá, bày tỏ cảm xúc, nhận định của bản
thân và các yếu tố bổ sung làm cho truyện sinh động, hấp dẫn
Các luận điểm cần được sắp xếp theo trình tự tăng dần, từ những vấn
đề bình thường đến những vấn đề có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, từ cụ thể
đến khái quát. Cách sắp xếp như vậy sẽ làm cho bài văn chặt chẽ, rõ ràng,
giàu tính thuyết phục. Cũng có khi bài làm văn được thể hiện bằng hình
thức phản đề, nghĩa là nêu lên vấn đề ngược lại. Trong quá trình triển khai
người viết sẽ tìm ra những điều để chứng minh sự giả sử đó là sai. Từ đó
định hướng vấn đề được trình bày là đúng. Cách làm này mang tính chất
khách quan, gây được hứng thú, bất ngờ cho người đọc.
Luận cứ là các sự vật, hiện tượng, lí lẽ để chứng minh cho luận điểm
đó. Luận cứ là những ý nhỏ dùng để làm rõ cho luận điểm. Có thể nói luận
cứ là một bộ phận của luận điểm. Tuy nhiên giữa hai khái niệm này không
có sự phân giới rõ ràng. Có khi luận điểm trong ngữ cảnh này sẽ trở thành
luận cứ trong ngữ cảnh khác. Cho nên khi xây dựng dàn bài cho một bài
làm văn, người giáo viên cần phải xác định được luận điểm đầu tiên, bao
quát cả nội dung của bài làm.
Luận chứng có thể xem là phần sinh động, hấp dẫn nhất vì luận
chứng thường là những ví dụ gắn liền với đời sống thực tế hoặc cũng có thể
là những nội dung thuộc về văn học. Luận chứng có tác dụng chứng minh,
thuyết phục người đọc. Sự thuyết phục này không phải bằng lí lẽ khô khan,
Dạy làm văn lớp 10 theo quan điểm giao tiếp Khóa luận tốt nghiệp
Nguyễn Phạm Hồng Trang Trang 35
trừu tượng mà bằng những kinh nghiệm của con người tích lũy từ thực tế
đời sống. Điều đó không những tạo sức thuyết phục mà còn tạo sự hấp dẫn
cho bài viết. Để có được những luận chứng đáng tin cậy thì những luận
chứng đó phải thể hiện rõ bản chất của vấn đề và điều tất nhiên là người
tiếp nhận phải hiểu rõ về những luận chứng ấy.
Phần kết bài phải nói gọn lại vấn đề đã trình bày. Người viết phải
đưa ra cách nhìn nhận của bản thân về vấn đề
Kĩ năng tìm ý và xây dựng bố cục phải gắn với nội dung thực tế. Bài
làm văn chủ yếu nhằm mục đích giao tiếp. Cho nên khi lập dàn ý, người
giáo viên cần hướng đến đối tượng mà học sinh sẽ giao tiếp trong bài viết
của mình. Như Bác Hồ đã nói về quan niệm khi sáng tác văn chương thì
phải biết viết cho ai? Viết để làm gì? Viết cái gì? Viết như thế nào?. Muốn
tìm ý là lập bố cục cho bài văn thì nguyên tắc giao tiếp vô cùng quan trọng,
người viết phải xác định được đối tượng sẽ tác động, trao đổi. Lập dàn ý là
khâu có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Nếu có một dàn ý hoàn chỉnh thì học
sinh sẽ có định hướng rõ ràng khi làm văn. Điều quan trọng của phần lập
dàn ý là giáo viên phải giúp học sinh xác định được đối tượng sẽ hướng đến
trong bài viết của mình. Đây là vấn đề có ý nghĩa quan trọng để học sinh
triển khai nội dung trong bài viết của mình. Xác định được người tiếp nhận
sẽ hướng đến trong bài viết sẽ giúp học sinh có sự lựa chọn nội dụng,
phương tiện ngôn ngữ sẽ dùng trong khi viết làm văn. Dàn ý bài làm văn
nên có ý lớn, các ý nhỏ. Ở mỗi ý nên xác định được đối tượng nào là chủ
yếu cần phải làm sáng tỏ, đối tượng nào là thứ yếu.
2.3 Đáp án chấm
2.3.1 Nội dung
Nội dung của bài văn phải đảm bảo được các ý cơ bản sau: kĩ năng
diễn đạt, hành văn phải trong sáng hấp dẫn. Kĩ năng diễn đạt, hành văn là
yếu tố phản ánh trình độ ngôn ngữ và khả năng của người viết. Khi đánh
giá một bài làm văn, giáo viên cần phải dựa vào hai ý cơ bản. Thứ nhất là
dựa vào những hiểu biết mà học sinh ứng dụng để làm rõ vấn đề trong bài
viết của mình, thứ hai là bài làm văn phải có những ý tưởng, những nội
dung mới mẻ theo suy nghĩ riêng của bản thân học sinh, miễn là những suy
nghĩ ấy phù hợp, không nên áp đặt học sinh phải hiểu theo ý mình, theo
những khuôn mẫu nhất định. Giáo viên phải tôn trọng những suy nghĩ sáng
tạo của học sinh, không nên áp đặt bắt học sinh phải hiểu theo ý của mình.
Bài làm văn của học sinh cần phải làm rõ được đối tượng sẽ hướng đến.
Cần biểu dương những điểm đặc sắc mà học sinh hướng đến trong bài viết
của mình. Bên cạnh đó thì cũng xem học sinh có xây dựng được các chủ đề
của từng đoạn cũng như của cả bài viết hay không? Kiến thức có sai sót
không? Mức độ như thế nào?. Nội dung làm văn có toát lên được mục đích
không?
Dạy làm văn lớp 10 theo quan điểm giao tiếp Khóa luận tốt nghiệp
Nguyễn Phạm Hồng Trang Trang 36
2.3.2 Hình thức
Kết cấu bài văn phải mạch lạc, các ý phải liên kết chặt chẽ với nhau.
Hình thức phải phù hợp với nội dung chính của bài làm văn, phù hợp với
đối tượng hướng đến của bài viết. Ngôn ngữ phải phù hợp với nội dung, đối
tượng tiếp nhận. Lời lẽ, cách thức diễn đạt phải phù hợp với các kiểu bài.
Từ ngữ không bị lặp lại quá nhiều. Chú ý đến lỗi chính tả, sử dụng đa dạng
các kiểu câu. Cách triển khai vấn đề phải phù hợp với phong cách của kiểu
bài. Bài làm văn phải trình bày rõ ràng, sạch đẹp
Chấm bài là một công việc phức tạp và phải tốn nhiều thời gian để
có thể đọc rõ, đánh giá đúng bài viết. Nhưng đây cũng là một công việc vô
cùng hứng thú vì giáo viên sẽ nhìn thấy được những thành quả của quá trình
dạy học, được biết những tâm tư, tình cảm của học sinh của mình. Để quá
trình chấm bài được diễn ra một cách thuận lợi và đạt hiệu quả thì người
giáo viên phải đưa ra những qui định cụ thể về nội dung, hình thức của một
bài làm văn. Từ đó giáo viên sẽ có cách chấm bài cho học sinh phù hợp. Từ
kết quả của các bài viết, giáo viên sẽ có cách thay đổi phương pháp dạy học
cho phù hợp.
2.4 Trả bài
Trả bài là phân đoạn có thể giúp học sinh thực hiện được quá trình
giao tiếp của mình. Ở trường phổ thông thì thời gian trả bài được bố trí một
tiết, đây là giờ học chính thức có mục đích hẳn hoi. Giờ trả bài là giờ mà
giáo viên có thể giao tiếp với học sinh thông qua cả văn bản nói và văn bản
viết. Đây là khâu giáo viên cần giúp học sinh thấy được bài làm có đáp ứng
yêu cầu giao tiếp không?
Giáo viên cùng học sinh thảo luận, phân tích đề sau đó ghi dàn ý bài
làm, thang điểm lên bảng. Giáo viên trao đổi với học sinh, các học sinh trao
đổi với nhau về bài viết của mình. Giáo viên nêu lên những ưu, khuyết
điểm của học sinh khi viết làm văn, đọc những bài văn hay, tiêu biểu. Điều
đó giúp cho học sinh tự đánh giá được mình, nhận ra những mặt mạnh yếu
của mình, so sánh với các bài viết trước để hoàn thiện ở các bài viết sau.
Trong quá trình trao đổi, giáo viên và học sinh đã thực hiện hoạt động giao
tiếp. Học sinh được bộc lộ những suy nghĩ cũng như tự đánh giá về khả
năng của mình. Ở tiết trả bài, học sinh có thể nêu lên những quan điểm của
bản thân về vấn đề đã triển khai trong bài viết. Đây là tiết học mà giáo viên
có thể nắm được nhu cầu của bản thân học sinh, từ đó có cách ra đề làm văn
cho phù hợp.
Dạy làm văn lớp 10 theo quan điểm giao tiếp Khóa luận tốt nghiệp
Nguyễn Phạm Hồng Trang Trang 37
III. Đề xuất với trường Đại học
1.Thực tế học tập ở trường Đại học
Phương pháp giảng dạy của giảng viên ở Đại học phù hợp với mục
tiêu và phù hợp với quan điểm giao tiếp. Hiện nay theo phương pháp dạy
học mới là phải tích cực hóa hoạt động học tập của học sinh. Ở chương
trình phương pháp dạy học tiếng Việt ở Đại học có học phần phương pháp
dạy làm văn ở THPT. Giảng viên đưa ra những nguyên tắc đặc thù của
phương pháp dạy học tiếng Việt, trong đó có nguyên tắc hướng vào hoạt
động giao tiếp, nguyên tắc tích cực hóa hoạt động học tập của học sinh.
Những nguyên tắc này chỉ ra cách giảng dạy để học sinh tạo ra được những
văn bản theo quan điểm giao tiếp. Trong các phương pháp dạy học tiếng
Việt thường dùng, giảng viên đã chỉ ra những đặc điểm và những điểm cần
lưu ý khi sử dụng các phương pháp này trong giảng dạy tiếng Việt ở phổ
thông. Phương pháp làm văn giúp cho người giáo viên có cách dạy, cách ra
đề phù hợp với quan điểm giao tiếp và cách tổ chức giao tiếp, tổ chức văn
bản. Tất cả các phương pháp mà giảng viên hướng dẫn để sinh viên ra
trường có thể giảng dạy học phần Tiếng Việt, Làm văn ở phổ thông đều gắn
với quan điểm giao tiếp, đều lấy học sinh làm trung tâm. Đa số là giảng
viên tổ chức cho sinh viên thực hành bằng các giờ tập giảng các bài học
trong sách giáo khoa cả phần Tiếng Việt lẫn Làm văn. Phần dạy lý thuyết
thường được gắn với những tiết thực hành. Điều này giúp cho sinh viên
nắm vững được kiến thức hơn đồng thời tạo ra được những văn bản thực
hành theo quan điểm giao tiếp. Tóm lại, phương pháp giảng dạy tiếng Việt
của giáo viên ở trường Đại học giúp cho sinh viên ra trường tiếp cận được
với phương pháp dạy học mới ở phổ thông là tạo ra được những văn bản
giao tiếp trong quá trình dạy học. Chính điều này sẽ đáp ứng được yêu cầu
đổi mới giáo dục trong giai đoạn hiện nay. Là một sinh viên chúng ta cần
nắm vững những phương pháp tích cực để có thể ứng dụng vào giảng dạy
sau này.
2. Đề xuất với sinh viên
Là một sinh viên để có thể chuẩn bị tốt kiến thức về phương pháp dạy
làm văn ta cần chú ý đến những điểm sau
Dạy tiếng Việt là dạy về hệ thống tiếng Việt, các quy luật hành chức
của tiếng Việt để có thể hình thành các kĩ năng trong học làm văn. Môn
Tiếng Việt có thêm một số chức năng khác nữa là làm công cụ để giao tiếp
cho học sinh. Nhờ những kiến thức về tiếng Việt mà học sinh mới có thể
tiếp nhận và diễn đạt mọi kiến thức khoa học trong nhà trường. Để có thể
thực hiện tốt được quá trình nhận thức thì học sinh cần có những hiểu biết
cần thiết và phải rèn luyện năng lực sử dụng thành thạo tiếng Việt để có thể
lĩnh hội các tri thức khoa học trong nhà trường. Ngược lại các môn học
khác cũng có tác động trở lại môn Tiếng Việt. Ở mỗi môn học sẽ có các
thuật ngữ riêng và phong cách ngôn ngữ riêng. Chính điều này sẽ giúp học
Dạy làm văn lớp 10 theo quan điểm giao tiếp Khóa luận tốt nghiệp
Nguyễn Phạm Hồng Trang Trang 38
sinh hình thành các kĩ năng sử dụng ngôn ngữ thành thạo trong nhiều phong
cách khác nhau. Đối với môn Làm văn thì tiếng Việt càng có quan hệ gần
gũi hơn. Trước tiên thì môn Làm văn là thực hành những văn bản văn học,
để phát hiện ra cái hay cái đẹp cả về giá trị nội dung và giá trị hình thức của
một tác phẩm văn học thì điều đầu tiên là ta cần phải có những hiểu biết về
ngôn ngữ. Tuy nhiên tiếng Việt và văn học có quan hệ gần gũi nhưng
không phải là một, hơn nữa môn Làm văn không phải là chỉ thực hành
những văn bản văn học mà còn phải biết ứng dụng thêm những văn bản
thông dụng trong đời sống. Bên cạnh đó thì văn học phản ánh cuộc sống
chứ không phải là bản thân cuộc sống cho nên khi sử dụng tiếng Việt vào
môn Làm văn thì người giáo viên cần phải hướng dẫn học sinh có sự lựa
chọn phù hợp để có thể phát huy hiệu quả của ngôn ngữ trong tiếng Việt
vào làm văn. Ngôn ngữ là công cụ để tư duy và giao tiếp xã hội. Mục đích
của môn Tiếng Việt là giúp học sinh sử dụng thành thạo tiếng Việt vào
trong giao tiếp và đời sống. Mục đích này sẽ có tác dụng trong việc tạo ra
các văn bản theo định hướng giao tiếp trong giảng dạy làm văn. Tóm lại
môn Tiếng Việt có quan hệ gần gũi với môn Làm văn trong việc cung cấp
kiến thức về mặt ngôn ngữ để tạo ra các văn bản theo định hướng giao tiếp
trong việc dạy và học làm văn.
3. Các đề xuất với trường Đại học
Trường Đại học cần có sự liên thông với các trường phổ thông để
nắm rõ tình hình dạy và học của giáo viên và học sinh. Vì hiện nay có nhiều
giáo viên cho rằng nội dung chương trình ở trường phổ thông với nội dung
được học tập ở trường Đại học không tương xứng nhau.
Đưa vào đào tạo sinh viên Ngữ văn học phần Làm văn. Vì hiện nay
chương trình giảng dạy ở Đại học chỉ có phần làm văn ghép chung với
phương pháp dạy học tiếng Việt chứ không phải là một học phần riêng biệt.
Với số tiết quá ít ỏi sinh viên không có nhiều tiết để thực hành. Do đó khi ra
trường người giáo viên không thể truyền tải được đầy đủ tất cả nội dung cần
phải có, cũng như không thể vận dụng được một cách linh hoạt các phương
pháp mới trong dạy làm văn ở phổ thông. Đối với học phần Ngữ pháp văn
bản, giáo viên cần rèn cho sinh viên kĩ năng viết một đoạn văn, một văn bản
sao cho khi ra trường về dạy ở phổ thông có thể vận dụng kĩ năng đó để rèn
cho học sinh kĩ năng, kĩ xảo viết một bài văn. Trong học phần phương
pháp, giáo viên cần bố trí nhiều hơn nữa các tiết thực hành, cần đối tượng
học là học sinh phổ thông.
Cần bồi dưỡng thêm cho giáo viên cũ vì có nhiều giáo viên cũ cho
rằng vì mình không được học về các kiến thức giao tiếp ở trường Đại học
mà nội dung chương trình cải cách của sách giáo khoa mới lại gắn liền với
khuynh hướng giảng dạy theo quan điểm giao tiếp. Bên cạnh đó thì những
tài liệu về phương pháp giảng dạy làm văn cho giáo viên cũng còn quá ít.
Cho nên người giáo viên nói chung đặc biệt là giáo viên cũ đã gặp rất nhiều
khó khăn trong việc giảng dạy làm văn theo quan điểm giao tiếp.
Dạy làm văn lớp 10 theo quan điểm giao tiếp Khóa luận tốt nghiệp
Nguyễn Phạm Hồng Trang Trang 39
Tóm lại, nhà trường cần có sự liên hệ thực tế với trường phổ thông
để có thể điều chỉnh phương pháp dạy học sao cho phù hợp để mỗi sinh
viên ra trường có thể trở thành người giáo viên thực thụ, thực sự có năng
lực đáp ứng yêu cầu của đổi mới giáo dục hiện nay. Giảng viên phương
pháp ở Đại học phải thường xuyên thực tế phổ thông. Trường Đại học cần
tạo điều kiện để giảng viên phương pháp được tham gia các hội nghị, hội
thảo về phương pháp mà sở giáo dục đào tạo tổ chức.
Dạy làm văn lớp 10 theo quan điểm giao tiếp Khóa luận tốt nghiệp
Nguyễn Phạm Hồng Trang Trang 40
C. KẾT LUẬN
Hiện nay dạy môn Ngữ văn nói chung và dạy môn Làm văn nói
riêng là vấn đề đang được quan tâm và cần phải bàn luận thêm nhiều. Trên
các tạp chí hiện nay cũng có nhiều bài viết về phương pháp dạy làm văn.
Các nhà phương pháp đều thừa nhận dạy tiếng Việt, làm văn là rèn cho học
sinh biết cách tạo lập ra các sản phẩm lời nói để làm phương tiện giao tiếp.
Dạy tiếng Việt và làm văn phải gắn với hoạt động giao tiếp. Phương
pháp giao tiếp là phương pháp cơ bản. Giao tiếp là một nhu cầu thiết yếu
của con người, con người được giao tiếp trong một phạm vi rất rộng từ khi
mới sinh ra cho đến lúc trưởng thành. Hai phương tiện giao tiếp cơ bản, chủ
yếu của con người là phương tiện ngôn ngữ và phi ngôn ngữ, trong đó ngôn
ngữ là phương tiện giao tiếp quan trọng nhất của con người. Dạy tiếng Việt
và làm văn là dạy học sinh làm một công cụ để giao tiếp. Dạy làm văn
không chỉ dạy hình thức một bài văn đúng phong cách mà quan trọng là nội
dung có ý hay, đẹp. Những vấn đề lý thuyết của hoạt động giao tiếp bằng
ngôn ngữ là một vấn đề có ý nghĩa hết sức quan trọng, nó giúp cho người
giáo viên có những cơ sở lí luận đầu tiên để có thể tiến hành giảng dạy làm
văn. Dạy làm văn là dạy cách tạo lập văn bản đúng ngữ pháp, đúng hoàn
cảnh giao tiếp. Việc xác lập được các ý nghĩa, đặc điểm của hoạt động giao
tiếp trong việc dạy làm văn là tiền đề để giúp giáo viên giảng dạy môn Làm
văn theo quan điểm giao tiếp như đúng mục tiêu đã đề ra.
Dạy và học làm văn vẫn còn hạn chế bởi các lí do sau
Về phía giáo viên: Do phải tiếp xúc với sách giáo khoa cải cách mà
một số giáo viên đã không thích ứng kịp thời, giáo viên chưa nắm được về
lí thuyết cũng như phương pháp giảng dạy làm văn theo quan điểm giao
tiếp. Đa số những giờ làm văn là những giờ giáo viên cung cấp kiến thức
cho học sinh một cách máy móc, rập khuôn. Hơn nữa nội dung làm văn
cũng xa rời thực tế, giáo viên chưa tạo được sự hứng thú, sáng tạo cho học
sinh khi học làm văn. Bên cạnh đó thì đây là môn học khô khan lại quá ít tài
liệu hướng dẫn làm cho người giáo viên gặp rất nhiều khó khăn trong việc
giảng dạy.
Về phía học sinh: Nguyên nhân làm cho các em học kém môn làm
văn là do học sinh không hiểu được lợi ích của môn học đối với bản thân
các em, kĩ năng diễn đạt của các em còn hạn chế. Mặt khác, nội dung làm
văn mà giáo viên cung cấp cho học sinh quá khô khan không phù hợp với
nhu cầu của học sinh, học sinh lại phụ thuộc quá nhiều vào các bài văn
mẫu. Chính điều này đã không khơi gợi được sự hứng thú cũng như sự tư
duy, sáng tạo của các em.
Với thực trạng dạy và học như vậy, chúng tôi thấy rằng hiệu quả dạy
và học làm văn ở phổ thông hiện nay còn rất thấp. Nguyên tắc “lấy học sinh
làm trung tâm” vẫn chưa thể hiện một cách hiệu quả nhất cho nên người
Dạy làm văn lớp 10 theo quan điểm giao tiếp Khóa luận tốt nghiệp
Nguyễn Phạm Hồng Trang Trang 41
viết đã đưa ra những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả dạy làm văn ở phổ
thông. Một trong những giải pháp cơ bản là giáo viên phải tạo ra được
những tình huống có vấn đề để kích thích học sinh tham gia vào hoạt động
giao tiếp để chiếm lĩnh tri thức, đồng thời nội dung làm văn cần phải có
những bước tiến mới, cần phải gắn với đời sống thực tế để tạo hứng thú,
sáng tạo cho học sinh.
Bên cạnh đó thì chúng tôi cũng đưa ra những đề xuất đối với trường
Đại học để đào tạo sinh viên ra trường có thể đáp ứng được sự đổi mới của
giáo dục. Nội dung của các đề xuất cơ bản là trường Đại học cần liên thông
với trường phổ thông để có những phương pháp dạy học cho phù hợp, thêm
học phần Làm văn, tăng cường các tiết thực hành, bồi dưỡng cho giáo viên
cũ. Những đề xuất này nếu được chấp thuận thì sẽ giúp cho người giáo viên
ra trường có một kiến thức vững vàng khi về giảng dạy ở trường phổ thông.
Trên đây là một số kết luận khái quát nhưng ít nhiều đã phản ánh
được những nội dung cơ bản của luận văn. Việc vận dụng lí thuyết giao tiếp
để dạy làm văn là một vấn đề rất cần thiết và đúng đắn, nó sẽ mang lại hiệu
quả cao trong những giờ làm văn. Chúng tôi hi vọng những vấn đề đã trình
bày sẽ đóng góp một phần nhỏ vào việc nâng cao chất lượng dạy học làm
văn ở phổ thông. Do năng lực có giới hạn và điều kiện khảo sát ở trường
phổ thông còn hạn chế cho nên chúng tôi chỉ tiến hành nghiên cứu ở một
khối lớp, một trường. Nếu có dịp sẽ nghiên cứu cả khối Trung học phổ
thông.
Dạy làm văn lớp 10 theo quan điểm giao tiếp Khóa luận tốt nghiệp
Nguyễn Phạm Hồng Trang Trang 42
TƯ LIỆU THAM KHẢO
1. Lê A (chủ biên). 2006. Phương pháp dạy Tiếng việt. NXB Giáo dục
2. Nguyễn Trọng Báu. Nguyễn Quang Ninh. Trần Ngọc Thêm. 1985.
Ngữ pháp văn bản và việc dạy làm văn. NXB Giáo dục
3. Diệp Quang Ban. 1999. Văn bản và liên kết trong tiếng Việt. NXB
Giáo dục.
4. Diệp Quang Ban. 2003. Giao tiếp – văn bản – liên kết – đoạn văn.
Hà Nội: NXB Giáo dục.
5. Lê Khánh Bằng. 1993. Tổ chức quá trình dạy học Đại học. Viện
nghiên cứu Đại học chuyên nghiệp. Hà Nội.
6. Nguyễn Tài Cẩn. 1975. Từ loại danh từ trong Tiếng việt hiện đại. Hà
Nội : NXB Khoa học xã hội.
7. Đỗ Hữu Châu. Đinh Trọng Lạc. Đặng Đức Siêu. 1994. Tiếng việt lớp
10 Ban Khoa học xã hội. Hà Nội : NXB Giáo dục.
8. Trần Đình Chung. 2007. Mấy vấn đề về giảng dạy môn phương pháp
dạy học Ngữ văn trong chương trình Cao đẳng Sư phạm mới. NXB
Đại học Sư phạm
9. Nguyễn Thiện Giáp (chủ biên). 2005. Dẫn luận ngôn ngữ học. Hà
Nội: NXB Giáo dục.
10. Nguyễn Thanh Hùng. 2007. Giáo trình Phương pháp dạy học Ngữ
văn ở Trung học cơ sở. NXB Đại học Sư phạm
11. Nguyễn Thị Hiên. 2007. “Thiết kế câu hỏi dạy học làm văn theo
định hướng giao tiếp”. Tạp chí Giáo dục số 170.
12. Đinh Trọng Lạc (chủ biên). 2004. Phong cách học tiếng Việt. NXB
Giáo dục
13. Hoàng Thảo Nguyên (chủ biên). 2007. Một số biện pháp nâng cao
chất lượng dạy học Ngữ văn theo chương trình Cao đẳng Sư phạm
2004. NXB Đại học Sư phạm
14. Nguyễn Quang Ninh. 1998. Một số vấn đề dạy ngôn bản nói và viết
ở tiểu học theo hướng giao tiếp. NXB Giáo dục
15. Lê Thị Phượng. 2007. “Đổi mới đào tạo giáo viên Ngữ văn phần
Làm văn ở trường Cao đẳng, Đại học”. Khoa học giáo dục
16. Lê Thị Phượng. 2006. “Đổi mới phương pháp dạy học Tập làm văn
ở trường THCS”. Tạp chí Giáo dục số 149
Dạy làm văn lớp 10 theo quan điểm giao tiếp Khóa luận tốt nghiệp
Nguyễn Phạm Hồng Trang Trang 43
17. Bảo Quyến. 2004. Rèn kĩ năng làm văn nghị luận. NXB Giáo dục
18. Trần Đình Sử. 2005. Thi pháp Truyện Kiều. NXB Giáo dục
19. Nguyễn Thị Việt Thanh. 1999. Hệ thống liên kết lời nói tiếng Việt.
NXB Giáo dục.
20. Đỗ Ngọc Thống (chủ biên). 2007. Làm văn. NXB Đại học Sư phạm
21. Phan Thị Thủy. 2006. “Dạy làm văn ở THCS theo quan điểm giao
tiếp”. Tạp chí Giáo dục số 138.
22. Bùi Minh Toán. 1999. Từ trong hoạt động giao tiếp Tiếng việt. Hà
Nội: NXB Giáo dục.
23. Nguyễn Trí. 1998. Dạy tập làm văn ở trường Tiểu học. NXB Giáo
dục.
24. Wilbrt J.Mckeachie. Những thủ thuật trong dạy học - các chiến lược,
nghiên cứu và lí thuyết về dạy học dành cho các giảng viên Đại học
và Cao đẳng. Tài liệu dịch của dự án Việt-Bỉ, 2003
25. Sách giáo khoa Ngữ văn lớp 10. Tập 1.2006. NXB Giáo dục
26. Sách giáo khoa Ngữ văn lớp 10. Tập 2. 2006. NXB Giáo dục
Dạy làm văn lớp 10 theo quan điểm giao tiếp Khóa luận tốt nghiệp
Nguyễn Phạm Hồng Trang Trang 44
PHỤ LỤC
PHIẾU PHỎNG VẤN HỌC SINH
Để giúp cô nắm được tình hình học làm văn của các em, xin các
em vui lòng trả lời các câu hỏi sau (Đánh “x” vào trước các ý mình chọn, có
thể chọn nhiều ý trong một câu)
1. Mục đích của các em khi viết một bài làm văn là gì ?
a. Hoàn thành yêu cầu của giáo viên
b. Bày tỏ tình cảm, cảm xúc, bênh vực ý kiến cho bản thân
c. Không hiểu được mục đích
2. Khi viết một bài làm văn, các em có biết là viết để ai đọc không ?
a. Biết
b. Chưa biết
c. Chưa để ý
3. Khi viết một bài làm văn, các em thích nói về đề tài nào nhất
a. Về bản thân
b. Những vấn đề gắn liền với đời sống hàng ngày
c. Về những tác phẩm văn học đã học
4. Em có thích viết làm văn không ?
a. Thích
b. Không thích
c. Chỉ đôi lúc thích
5. Vì sao em không thích viết làm văn?
a. Vì không biết viết
b. Vì không hợp với nhu cầu bản thân
c. Vì đây là môn học khô khan, dễ chán
6. Em có hiểu về các nhân tố giao tiếp trong khi viết làm văn không ?
a. Hiểu
b. Còn mơ hồ
c. Chưa biết
Dạy làm văn lớp 10 theo quan điểm giao tiếp Khóa luận tốt nghiệp
Nguyễn Phạm Hồng Trang Trang 45
7. Sau mỗi bài viết làm văn, các em có rút ra được ưu, khuyết điểm của bản
thân không ?
a. Có, rất tốt
b. Chưa biết vì sao
c. Biết rất ít
8. Trong các kiểu bài làm văn đã học ở lớp 10, các em thích kiểu bài nào
nhất
a. Tự sự
b. Thuyết minh
c. Nghị luận
d. Cả 3
9. Đối với các em học môn Làm văn có ý nghĩa gì?
a. Không biết
b. Giúp em diễn đạt tốt một vấn đề
c. Không có ý nghĩa
10. Em thích (hoặc không thích) học làm văm, vì sao?
…………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………
………………………………
11. Em có đề nghị đối với thầy (cô) dạy làm văn
…………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………
………………………………………………………………………...
Dạy làm văn lớp 10 theo quan điểm giao tiếp Khóa luận tốt nghiệp
Nguyễn Phạm Hồng Trang Trang 46
PHIẾU HỎI Ý KIẾN GIÁO VIÊN
Để giúp em có thể nắm được tình hình học làm văn ở trường
THPT, xin thầy (cô) vui lòng giúp em trả lời các câu hỏi sau (có thể chọn
nhiều ý trong một câu)
1.Quí thầy (cô) được học lý thuyết giao tiếp ở đâu?
a. Ở trường Đại học
b. Tự tham khảo
c. Chưa được tiếp xúc
2. Quí thầy (cô) có chú ý đến dạy làm văn theo quan điểm giao tiếp không?
a. Luôn luôn
b. Không
c. Thỉnh thoảng
3. Qua việc dạy làm văn ở trường THPT, thầy (cô) đánh giá năng lực học
làm văn của học sinh theo quan điểm giao tiếp như thế nào?
a. Tốt
b. Trung bình
c. Còn yếu
4. Ngày nay ở trường phổ thông đã áp dụng phương pháp mới là “lấy học
sinh làm trung tâm”. Thầy (cô) đã vận dụng phương pháp này như thế nào?
a. Cung cấp cho học sinh tất cả các nội dung
b. Cho học sinh tự làm việc, giáo viên chỉ là người hướng dẫn
5. Khi dạy làm văn, thầy (cô) đã sử dụng phương pháp nào?
a. Thuyết giảng
b. Thảo luận nhóm
c. Thực hành luyện tập
d. Phương pháp giao tiếp
6. Thầy (cô) có nhận xét gì về kết quả của bài làm văn sau (so với bài trước)
của học sinh
a. Tiến bộ nhiều
b. Trung bình
c. Không ổn định
Dạy làm văn lớp 10 theo quan điểm giao tiếp Khóa luận tốt nghiệp
Nguyễn Phạm Hồng Trang Trang 47
7. Theo phân bố tiết dạy làm văn trong sách giáo khoa, thầy (cô) thấy có
hợp lí không?
a. Chưa hợp lí, quá ít
b. Chưa hợp lí, quá nhiều
c. Hợp lí
8. Qua thực tế và hiệu quả giảng dạy của những giờ làm văn, thầy (cô) thấy
phương pháp nào đem lại hiệu quả cao
a. Thuyết giảng
b. Thảo luận nhóm
c. Thực hành luyện tập
d. Phương pháp giao tiếp
9. Theo quí thầy (cô) vì sao học sinh không thích học môn Làm văn
a. Môn học khó, khô
b. Học sinh chưa hiểu lợi ích của môn học
c. Nội dung làm văn còn xa rời thực tế, không gây hứng thú cho học
sinh
10. Khi dạy làm văn theo quan điểm giao tiếp ở trường phổ thông, thầy (cô)
đã gặp những khó khăn gì?
a. Học sinh chưa có kiến thức về các nhân tố giao tiếp
b. Học sinh lệ thuộc nhiều vào các bài văn mẫu
c. Học sinh không có kĩ năng diễn đạt
d. Tất cả các ý kiến trên
11. Quí thầy (cô) có ý kiến gì đối với trường Đại học khi dạy “phương pháp
dạy làm văn” cho sinh viên
………………………………………………………………………
………………………………………………………………………
………………………………………………………………………
12.Quí thầy (cô) có nhu cầu được bồi dưỡng thêm về kiến thức gì để dạy tốt
làm văn cho học sinh ở trường mình
………………………………………………………………………
………………………………………………………………………
………………………………………………………………………
13. Điều khó khăn nhất của quí thầy (cô) khi dạy làm văn là gì?
………………………………………………………………………
………….…………………………………………………………..
………………………………………………………………………
Dạy làm văn lớp 10 theo quan điểm giao tiếp Khóa luận tốt nghiệp
Nguyễn Phạm Hồng Trang Trang 48
ĐỀ LÀM VĂN THEO QUAN ĐIỂM GIAO TIẾP
1. Có nhiều thanh niên cho rằng “cuộc sống ngày nay rất buồn tẻ”. Anh
(chị) có nhận xét gì với ý kiến trên.
2. Lấy đôi vai làm đề tài và hãy viết một bài luận về đề tài ấy.
3. Có một vĩ nhân đã từng nhận xét “cuộc sống không cho ta tất cả những
gì ta mơ ước nhưng cho ta có quyền thực hiện những mơ ước ấy”. Anh
(chị) có đồng tình với ý kiến trên không? Vì sao?
4. Hãy nêu lên cảm nhận của bản thân về một sự việc mà anh (chị) đã bắt
gặp trong cuộc sống hàng ngày.
5. Mẹ là người luôn bên ta trong tất cả những bước đường của cuộc đời.
Hãy viết một bài luận nói về mẹ của mình.
6. Ngày nay môi trường đang bị ô nhiễm nghiêm trọng. Theo anh (chị)
thì ta phải làm thế nào để cải tạo môi trường sống.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- XT1243.pdf