ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM
LÂM THỊ QUYÊN
DẠY - HỌC VĂN BẢN TỰA VÀVĂN BIA TRONG SÁCH
GIÁO KHOA NGỮ VĂN 10 THEO ĐẶC TRƢNG THỂ LOẠI
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC
THÁI NGUYÊN – NĂM 2008
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM
LÂM THỊ QUYÊN
DẠY - HỌC VĂN BẢN TỰA VÀ VĂN BIA TRONG
SÁCH GIÁO KHOA NGỮ VĂN 10 THEO ĐẶC TRƢNG
THỂ LOẠI
Chuyên nghành: Lí luận và phƣơng pháp dạy học Ngữ văn
Mã số : 60.14.10
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC
Ng
109 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1822 | Lượt tải: 5
Tóm tắt tài liệu Dạy - Học văn bản tựa và văn bia trong sách giáo khoa ngữ văn 10 theo đặc trưng thể loại, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. HOÀNG HỮU BỘI
THÁI NGUYÊN – NĂM 2008
MỤC LỤC
Phần mở đầu
1. Lí do chọn đề tài. ........................................................................................... 1
2. Lịch sử vấn đề: .............................................................................................. 1
3. Mục đích nghiên cứu: .................................................................................... 5
4. Nhiệm vụ nghiên cứu: ................................................................................... 5
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:............................................................... 6
6. Phương pháp nghiên cứu:.............................................................................. 6
7. Cấu trúc luận văn: ......................................................................................... 6
Phần nội dung
Chƣơng I: Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc dạy học văn bản thuộc thể
Tựa và thể Văn bia
1. Cơ sở lí luận: ................................................................................................ 7
1.1 Những điểm mới trong chương trình và SGK lần này (Từ năm học
2002 - 2003 đến năm học 2008 - 2009) .................................................. 7
1.1.1 Đổi mới chương trình giáo dục phổ thông ............................... 7
1.1.2 Đổi mới chương trình và SGK ở bậc THPT ............................. 9
1.1.3. Đổi mới dạy học môn Ngữ văn ở THPT ................................ 13
1.2 Đặc trưng thể loại của văn bản Tựa .................................................. 16
1.2.1 Khái niệm ................................................................................ 16
1.2.2 Đặc trưng thể loại của Tựa .................................................... 18
1.3 Đặc trưng thể loại của văn bản Văn bia. ................................... 19
1.3.1 Khái niệm: .............................................................................. 20
1.3.2 Đặc trưng thể loại của Văn bia .............................................. 21
2. Cơ sở thực tiễn ............................................................................................ 22
2.1 Giờ dạy học bài Tựa “ Trích diễm thi tập”. ...................................... 23
2.2 Giờ học Hiền tài là nguyên khí quốc gia........................................... 38
2.3. Nhận xét tổng quát về việc thực thi dạy học hai văn bản Tựa và Văn
bia. ........................................................................................................... 39
Chƣơng II: Các phƣơng án dạy học Tựa và Văn bia đã đƣợc đề xuất
1.1 Hai phương án dạy văn bản tựa “Trích diễm thi tập” của Hoàng Đức
Lương trong sách giáo viên (SGV) Ngữ văn 10 ( bộ chuẩn và bộ nâng
cao). ......................................................................................................... 45
1.1.1 Về mục tiêu bài học. .............................................................. 45
1.1.2 Về nội dung bài học ................................................................ 46
1.1.3. Về phương pháp dạy học. ...................................................... 47
1.2. Thiết kế của nhà giáo Phạm Thu Hương trong cuốn “Thiết kế bài
học Ngữ văn 10” do GS. Phan Trọng Luận chủ biên. NXB Giáo dục,
2006. ........................................................................................................ 48
1.2.1.Về kết quả cần đạt. ................................................................. 48
1.2.2. Về hoạt động dạy học. ........................................................... 48
1.2.3 Nhận xét tổng quát .................................................................. 53
1.3. Thiết kế trong cuốn “Thiết kế bài giảng Ngữ văn 10” do TS. Nguyễn
Văn Đường chủ biên, NXB Hà Nội, 2006. ............................................. 55
1.4. Thiết kế trong cuốn “Giới thiệu giáo án Ngữ văn 10” do TS. Nguyễn
Hải Châu chủ biên. NXB Hà Nội, 2006. ................................................. 63
2.1. Phương án dạy học văn bản “Hiền tài là nguyên khí quốc gia” trong
SGV Ngữ văn 10 ( bộ chuẩn). ................................................................. 69
2.2. Bài thiết kế hướng dẫn đọc thêm văn bản “Hiền tài là nguyên khí
quốc gia” trong cuốn “Thiết kế bài giảng Ngữ văn 10” do TS. Nguyễn
Văn Đường chủ biên . NXB Hà Nội, 2006. ............................................ 73
Chƣơng III: Thực nghiệm sƣ phạm
1. Thiết kế bài học thể loại Tựa và thể loại Văn bia. ..................................... 80
1.1 Thiết kế bài học Tựa “ Trích diễm thi tập”. ..................................... 80
1.2. Thiết kế bài dạy học Hiền tài là nguyên khí quốc gia. ..................... 87
2. Thực nghiệm sư phạm ................................................................................. 92
2.1. Mục đích, ý nghĩa của thực nghiệm sư phạm. .................................. 92
2.2. Đối tượng và địa bàn thực nghiệm ................................................... 92
2.3. Phương pháp tiến hành thực nghiệm. .............................................. 93
2.4. Nội dung thực nghiệm. ..................................................................... 94
2.5. Đánh giá kết quả thực nghiệm. ........................................................ 95
2.6. Kết luận chung về thực nghiệm ........................................................ 98
Phần kết luận
1
1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI.
1.1.Về mặt lí luận: Tựa còn gọi là lời nói đầu, lời giới thiệu; phần nằm
ngoài văn bản của tác phẩm; được viết ra để thuyết minh cho nó về mục đích,
tôn chỉ, cách viết, hoàn cảnh ra đời... thường được trình bày ở đầu cuốn sách.
Tựa có thể do chính tác giả viết hoặc do người khác viết.
Văn bia gồm bi kí, bi văn, bi minh, mộ chí minh. Là những bài văn
khắc trên bia đá đặt ở chùa chiền, đền miếu, lăng mộ, cầu, đình...để ghi công
tích các bậc danh nhân, anh hùng hoặc các sự kiện quan trọng đáng nhớ;
thường được viết bằng văn xuôi, phần “minh” được viết bằng văn vần gồm
phần ghi chép tiểu sử, lai lịch và phần ngợi ca, phẩm bình.
Đây là hai thể loại thuộc văn nghị luận thời trung đại, lần đầu tiên hai
thể loại này được đưa vào chương trình Ngữ Văn trung học phổ thông. Vì
vậy,về lí thuyết, khoa học về phương pháp giảng dạy văn học chưa có ai bàn
đến việc dạy học hai loại văn bản này. Bởi vậy, lần này chúng tôi mạnh dạn
chọn đề tài nghiên cứu này với mong muốn có được chút đóng góp cho việc
dạy học hai loại văn bản này ở trường trung học phổ thông.
1.2. Về mặt thực tiễn: Lần đầu tiên, Tựa “Trích diễm thi tập” của
Hoàng Đức Lương và Hiền tài là nguyên khí quốc gia của Thân Nhân Trung
được đưa vào SGK Ngữ văn 10. Làm thế nào để việc dạy học hai loại văn bản
này đạt hiệu quả cao? Đó là vấn đề đang đặt ra trước mắt những giáo viên
thực thi chương trình sách giáo khoa Ngữ văn mới. Chọn đề tài nghiên cứu
này, chúng tôi hy vọng góp một ý kiến nhằm giải quyết những khó khăn,
lúng túng mà thầy- trò ở trung học phổ thông đang gặp phải.
2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ
Vì đây là lần đầu tiên hai loại văn bản này được đưa vào chương trình
sách giáo khoa Ngữ Văn nhà trường nên việc nghiên cứu phương pháp dạy
2
học về nó chưa nhiều; ta chỉ có thể nói tới một số bài viết trong các cuốn sách
tham khảo cho GV và HS được xuất bản gần đây:
2.1. Sách phân tích , bình giảng gồm các bài:
Bài phân tích văn bản Tựa “ Trích diễm thi tập” của Hoàng Đức
Lương và phân tích văn bản Hiền tài là nguyên khí quốc gia của Thân Nhân
Trung trong cuốn Phân tích tác phẩm Ngữ Văn 10 do Trần Nho Thìn làm
chủ biên.
Với văn bản Tựa “Trích diễm thi tập” của Hoàng Đức Lương, tác giả
bài viết khẳng định tầm quan trọng của việc tìm hiểu văn bản Tựa: “Ngày
nay, để nghiên cứu văn học trung đại, những bài tựa, bài bạt là nguồn tư liệu
quan trọng giúp chúng ta hiểu sâu hơn, đúng hơn các sáng tác văn học”.
Đến phần phân tích, tác giả tập trung làm rõ: Tính chất nghị luận của
bài Tựa và giá trị văn học của nó.
Với văn bản Hiền tài là nguyên khí quốc gia, tác giả đã cung cấp cho
người đọc một số tri thức xung quanh các hình thức tuyển chọn và khích lệ
nhân tài do nhà nước phong kiến triều Lê đặt ra, trong đó việc lập bia đá là
một trong những biện pháp cần thiết để khích lệ, cổ vũ nhân tài. Đồng thời,
tác giả phân tích rõ đặc trưng, chức năng và nghệ thuật của văn bản.
Đây là nhưng tri thức quan trọng, có vai trò hỗ trợ học sinh khi tiếp nhận hai
loại văn bản trên.
2.2. Sách thiết kế dạy học gồm có:
- Sách giáo viên Ngữ Văn 10 chương trình chuẩn: Hướng dẫn dạy học
văn bản Tựa “Trích diểm thi tập”của Hoàng Đức Lương. Nội dung của bài
dạy văn bản này là tập trung làm rõ hai đơn vị kiến thức:
- Các nguyên nhân khiến cho thơ ca Việt Nam thời kì trung đại trước
thế kỉ 15 không được truyền lại đầy đủ. Qua đó, học sinh hiểu thêm những
3
khó khăn và cố gắng to lớn của ông cha ta trong sự nghiệp xây dựng nền văn
hóa dân tộc.
- Niềm tự hào và ý thức trách nhiệm của Hoàng Đức Lương đối với nền
thơ ca dân tộc.
Tiến trình giờ dạy học được thực hiện như sau:
Bước 1: Trước hết cho học sinh đọc toàn văn bản tại lớp, làm rõ nội
dung văn bản bằng các kiến thức bổ trợ.
Bước 2: Tìm hiểu chi tiết văn bản bằng cách tổ chức cho học sinh thảo
luận và trả lời các câu hỏi trong sách giáo khoa.
Bước 3: Kiểm tra, đánh giá và gợi ý giải bài tập.
Hướng dẫn học sinh đọc thêm văn bản Hiền tài là nguyên khí quốc gia
của Thân Nhân Trung. Tìm hiểu văn bản này học sinh cần thấy được các ý cơ
bản sau:
+ Trước hết bài kí khẳng định tầm quan trọng của hiền tài đối với quốc gia.
+ Ý nghĩa, tác dụng của việc khắc bia tiến sĩ.
+ Bài học lịch sử rút ra từ việc khắc bia tiến sĩ.
- Sách tham khảo có:
Cuốn thiết kế bài học Ngữ Văn 10 do GS Phan Trọng Luận làm chủ
biên có bài thiết kế dạy học văn bản Tựa “Trích diễm thi tập” của Hoàng
Đức Lương, theo tác giả nội dung bài học là cần làm rõ các kiến thức cơ bản:
- Đặc điiểm của một bài Tựa.
- Lí do biên soạn Trích diễm thi tập.
- Quá trình biên soạn và cách tổ chức tác phẩm.
- Thấy được tình cảm, thái độ của tác giả, trong quá trình gian khổ xây
dựng và bảo vệ nền văn hiến dân tộc, bản lĩnh ý thức độc lập tự chủ về văn
hóa của ông cha ta.
Bài học được tiến hành theo các bước sau:
4
I- Tiếp cận văn bản qua các thông tin liên quan tới tác giả và tác phẩm.
II - Học văn bản: Đọc, tìm hiểu bố cục, phân tích chi tiết văn bản.
III - Khái quát lại; củng cố kiến thức.
Cuốn Thiết kế dạy học Ngữ Văn 10 của TS Hoàng Hữu Bội, theo tác
giả việc dạy học văn bản Tựa “ Trích diễm thi tập” của Hoàng Đức Lương
cần làm rõ các nội dung sau:
- Đặc điểm của thể Tựa nói chung và văn bản Tựa “Trích diễm thi
tập” của Hoàng Đức Lương nói riêng.
- Những nét chính về tác giả Hoàng Đức Lương.
- Cấu trúc của văn bản.
- Hiểu ý kiến, tình cảm của tác giả ở từng vấn đề, và nghệ thuật lập luận
ở từng phần sau khi nhìn tổng quát toàn văn bản.
Bài học được dẫn dắt theo các bước sau:
Bước 1- Tiếp xúc bước đầu với tác phẩm.
Bước 2- Xem xét từng phần nội dung và hình thức của văn bản.
Bước 3- Khơi gợi học sinh trao đổi về những vấn đề được tác giả đặt ra
trong tác phẩm.
Công việc hướng dẫn học sinh tiếp nhận văn bản Hiền tài là nguyên
khí quốc gia của Thân Nhân Trung cũng được dẫn dắt cụ thể theo các bước:
Bước 1- Tiếp xúc bước đầu với văn bản. Nội dung cụ thể là cho học
sinh đọc văn bản và giải thích từ khó; giới thiệu đôi nét về tác giả và tác
phẩm.
Bước 2- Tìm hiểu chi tiết về văn bản:
- Cấu trúc văn bản.
- Nội dung của văn bản bao gồm:
+ “Hiền tài là nguyên khí quốc gia”
+ Chính sách trọng đãi người tài của triều đại Lê Thánh Tông.
5
+ Lợi ích của việc dựng tấm bia đá.
- Khơi gợi học sinh phát hiện ra những nét độc đáo trong nghệ thuật
của tác phẩm.
Bước 3- Liên hệ thực tế.
Các thiết kế bài giảng, các bài phân tích của các nhà sư phạm đã giúp
chúng tôi có được những cảm nhận đúng đắn về hai văn bản thuộc thể loại
Tựa và Văn bia trong chương trình sách giáo khoa Ngữ Văn 10. Đó là
nguồn kiến thức bổ ích giúp chúng tôi bổ sung, hoàn thiện đề tài nghiên cứu:
“Dạy học Tựa và Văn bia trong sách giáo khoa Ngữ Văn 10 theo đặc
trƣng thể loại”
3. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU:
3.1. Tìm hiểu tình hình dạy học hai văn bản thuộc thể Tựa và Văn bia
ở nhà trường trung học phổ thông trong những năm đầu thực thi chương trình
sách giáo khoa Ngữ Văn mới. Cụ thể là tìm hiểu về những thuận lợi, khó
khăn, cách tổ chức giờ học và hiệu quả giờ học hai văn bản; Tựa “ Trích
diễm thi tập của Hoàng Đức Lương và Hiền tài là nguyên khí quốc gia của
Thân Nhân Trung.
3.2. Trên cơ sở lí luận và thực tiễn, luận văn đề xuất một phương án
dạy học nhằm nâng cao hiệu quả giờ dạy hai văn bản trên.
4. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU:
4.1.Tìm hiểu đặc trưng của hai thể loại Tựa và Văn bia để vận dụng nó
vào việc xác định hướng tiếp cận tác phẩm.
4.2. Khảo sát thực tiễn dạy học hai văn bản:
- Tựa Trích diễm thi tập của Hoàng Đức Lương.
- Hiền tài là nguyên khí quốc gia của Thân Nhân Trung.
6
4.3. Thực nghiệm sư phạm để kiểm nghiệm phương án đề xuất nâng
cao hiệu quả giờ dạy của luận văn.
5. ĐỐI TƢỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU:
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn này là hoạt động dạy-
học của thầy- trò về hai văn bản:
- Tựa “ Trích diễm thi tập” của Hoàng Đức Lương.
- Hiền tài là nguyên khí quốc gia của Thân Nhân Trung.
Cụ thể là về nội dung bài dạy, tiến trình giờ dạy, cơ chế hoạt động của
thầy- trò trong giờ dạy học, hiệu quả giờ dạy học.
6. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
Dựa trên trình tự tiếp cận đối tượng, người nghiên cứu sử dụng hai
nhóm phương pháp chính
6.1. Nhóm nghiên cứu lí thuyết:
- Phương pháp phân tích, tổng hợp tài liệu chuyên nghành, liên
nghành.
- Hệ thống hóa các kiến thức có liên quan tới đề tài.
6.2. Nhóm nghiên cứu thực tiễn:
- Khảo sát thực tiễn dạy học Tựa và Văn bia ở lớp 10.
- Xây dựng thiết kế và tiến hành thực nghiệm sư phạm hai văn bản:
Tựa “Trích diễm thi tập” của Hoàng Đức Lương và Hiền tài là nguyên khí
quốc gia của Thân Nhân Trung.
7. CẤU TRÚC LUẬN VĂN:
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, phần nội dung của luận văn gồm
ba chương:
7
Chƣơng I- Cơ sở lí luận và thực tiễn của việc dạy văn bản Tựa và văn
bản Văn bia.
Chƣơng II- Các phương án dạy Tựa và Văn bia đã được đề xuất.
Chƣơng III - Thực nghiệm sư phạm.
CHƢƠNG I
CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC DẠY HỌC VĂN
BẢN THUỘC THỂ TỰA VÀ THỂ VĂN BIA
1. CƠ SỞ LÍ LUẬN:
Tựa và Văn bia là hai thể loại xuất hiện khá sớm trong lịch sử nền văn
học dân tộc. Nhưng chỉ đến năm học 2005-2006 thì hai thể loại văn học này
mới được đưa vào giảng dạy trong chương trình Ngữ văn trung học phổ
thông. Cho nên nó đã trở thành hai thể loại mới mẻ đối với thầy và trò trung
học phổ thông. Việc tiếp cận hai loại văn bản này theo hướng nào sao cho đạt
hiệu quả cao là nhu cầu của các giáo viên đang thực thi bộ sách giáo khoa
(SGK) mới. Chúng tôi hy vọng rằng cách tiếp cận hai loại văn bản này theo
đặc trưng thể loại mà chúng tôi đề cập trong luận văn là một giải pháp giúp
cho thầy trò trung học phổ thông có được kết quả tốt trong các giờ dạy học
hai loại văn bản này. Hướng tiếp cận của chúng tôi được thực hiện dựa trên
những tiền đề lí luận sau:
1.1 Những điểm mới trong chƣơng trình và SGK lần này (Từ năm
học 2002 - 2003 đến năm học 2008 - 2009)
1.1.1 Đổi mới chƣơng trình giáo dục phổ thông
Tài liệu bồi dưỡng giáo viên của Bộ Giáo dục - Đào tạo ghi rõ:
• Khác với những lần cải cách giáo dục trước đây (1950, 1956, 1980), lần
này chỉ tập trung vào việc đổi mới chương trình giáo dục phổ thông (từ tiểu
8
học qua THCS đến THPT). Tuy nhiên, cần hiểu chương trình theo nghĩa rộng
như Luật định: “Chương trình giáo dục phổ thông thể hiện mục tiêu giáo dục,
cách thức đánh giá kết quả giáo dục đối với các môn học ở mỗi lớp và mỗi
cấp học của giáo dục phổ thông” (Điều 29, mục II - Luật giáo dục - 2005).
Như vậy đổi mới chương trình giáo dục phổ thông là một quá trình đổi mới từ
mục tiêu giáo dục, nội dung, phương pháp đến phương tiện giáo dục, đánh giá
chất lượng giáo dục , kể cả việc đổi mới cách xây dựng chương trình, từ quan
niệm cho đến quy trình kĩ thuật và đổi mới những hoạt động quản lí cả quá
trình này. Chương trình giáo dục Trung học phổ thông (THPT) là một bộ
phận của chương trình trên, vì vậy khi tiến hành đổi mới phải tuân theo các
định hướng, đảm bảo các nguyên tắc,, thực hiện các yêu cầu như đối với các
chương trình các bậc học trên cơ sở quán triệt những đặc điểm của cấp học,
của trường THPT.
• Một trong những nguyên tắc đổi mới chương trình giáo dục và SGK phổ
thông lần này là:
- Chương trình không chỉ nêu nội dung và thời lượng dạy học mà thực sự
là một kế hoạch hành động sư phạm, kết nối mục tiêu giáo dục với các lĩnh
vực nội dung và phương pháp giáo dục, phương tiện dạy học và cách thức
đánh giá kết quả học tập của học sinh, đảm bảo sự phát triển liên tục giữa các
bậc học, cấp học, đảm bảo tính liên thông giữa giáo dục phổ thông và giáo
dục chuyên nghiệp.
- SGK không đơn giản là tài liệu thông báo các kiến thức có sẵn mà là tài
liệu giúp học sinh tự học, tự phát hiện và giải quyết vấn đề chiếm lĩnh và vận
dụng kiến thức mới một cách linh hoạt, chủ động và sáng tạo.
Chương trình và SGK được thể chế hóa theo luật giáo dục và được
quản lí chỉ đạo theo yêu cầu cụ thể của giai đoạn phát triển mới của đất nước,
9
cố gắng giữ vững ổn định để góp phần không ngừng nâng cao chất lượng giáo
dục phổ thông, thực hiện tiết kiệm trong sản xuất và sử dụng sách ở các cấp
học.
1.1.2 Đổi mới chƣơng trình và SGK ở bậc THPT
• Mục tiêu giáo dục THPT được quy định trong ở điều 27, mục 2,
chương II, luật giáo dục 2005 như sau: Giáo dục THPT nhằm giúp học sinh
củng cố và phát triển những kết quả của giáo dục THCS, hoàn thiện học vấn
phổ thông, có những hiểu biết thông thường về giáo dục và hướng nghiệp, có
điều kiện lựa chọn hướng phát triển phát huy năng lực cá nhân, tiếp tục học
đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp, học nghề hoặc đi vào cuộc sống
lao động.
Với Mục tiêu giáo dục quy định như vậy, chương trình các môn học,
SGK và phương pháp dạy học ở THPT cũng được đổi mới sao cho đáp ứng
được mục tiêu đề ra:
* Đổi mới chương trình các môn học ở THPT:
Có chương trình chuẩn cho tất cả các bộ môn và có chương trình nâng
cao cho 8 môn học (Toán, Ngữ văn, Ngoại ngữ, Vật lí, Hóa học, Sinh vật,
Lịch sử, Địa lí). Ngoài ra còn có chương trình tự chọn kèm theo.
Chương trình chuẩn của tất cả các môn học thể hiện những yêu cầu
mang tính tối thiểu mọi học sinh cần và có thể đạt.
Chương trình nâng cao đối với 8 môn phân hóa: Toán, Lí, Hóa, Sinh,
Ngữ văn, Sử, Địa và tiếng nước ngoài. Trong chương trình của từng môn,
mục tiêu môn học thiết kế nhằm đạt được mục tiêu giáo dục cả cấp học.
Chươnng trình giới thiệu quan điểm chính của việc xây dựng lại chương trình
môn học, trình bày chuẩn kiến thức kĩ năng môn học theo từng lớp và những
10
gợi ý cần thiết về phương pháp , phương tiện dạy học, kiểm tra đánh giá kết
quả môn học của học sinh.
Chương trình tự chọn: Bao gồm hệ thống các chủ đề tự chọn, cung cấp
cho học sinh những cơ hội để củng cố, luyện tập kiến thức, kĩ năng có trong
chương trình các môn học hoặc mở rộng, nâng cao, đáp ứng nhu cầu của học
sinh.
* Đổi mới SGK các môn ở THPT:
Quá trình dạy học trong nhà trường thì SGK luôn giữ vai trò là : Tài
liệu thể hiện một cách cụ thể nội dung, phương pháp giáo dục của từng môn
học trong chương trình giáo dục. Vì thế chương trình giáo dục phổ thông lần
đổi mới này đòi hỏi quá trình biên soạn SGK THPT cần phải đáp ứng được
các yêu cầu đổi mới của chương trình. Các yêu cầu được đặt ra là:
Bám sát chương trình môn học.
Đảm bảo tính kế thừa trong quá trình biên soạn.
Dựa trên cơ sở lí luận về SGK có có lưu ý tới xu thế tiên tiến trên thế
giới trong lĩnh vực này.
Đảm bảo các tiêu chuẩn cơ bản, tinh giản, hiện đại, sát thực tiễn Việt
Nam.
Đảm bảo tính liên môn.
Tạo điều kiện trực tiếp giúp học sinh tiếp tục nâng cao năng lực tự học
và đổi mới phương pháp dạy học.
Đảm bảo yêu cầu phân hóa.
Đảm bảo những yêu cầu về văn phong đặc trưng của SGK mỗi môn học.
Chú ý tới đặc điểm lứa tuổi học sinh và điều kiện dạy học cụ thể của
cấp THPT.
11
Cụ thể về nội dung và hình thức SGK THPT có những điểm mới cơ bản sau:
Về mặt hình thức
+ Có hai bộ SGK được biên soạn theo chương trình chuẩn và nâng cao.
+ Riêng môn Ngữ văn và Toán do nội dung nhiều và thời lượng lớn nên
ở mỗi lớp đều có tập I và tập II.
+ Thực hiện nguyên tắc tích hợp, môn Ngữ văn (Trước đây có tên là
môn Văn) từ ba phân môn Văn – Tiếng Việt – Làm Văn được kết hợp và trình
bày trong một cuốn sách giáo khoa
+ Trong cấu trúc từng cuốn sách giáo khoa, các tác giả đã lưu ý cách
trình bày thể hiện rõ sự hỗ trợ cho đổi mới phương pháp dạy học, tạo điều
kiện cho học sinh được làm việc tích cực, chủ động; hạn chế việc cung cấp
sẵn kiến thức, việc mô tả các quá trình.
Về mặt nội dung: Các tác giả sách giáo khoa thực hiện đổi mới qua việc
cân nhắc, lựa chọn kiến thức, xác định mức độ các kiến thức ở từng bài, từng
chương, của bộ môn ở từng lớp và cả cấp THPT.
* Đổi mới về phương pháp dạy học:
Đổi mới về phương pháp dạy học là vấn đề cốt lõi của việc đổi mới
chương giáo dục phổ thông lần này. Vì, chỉ có đổi mới phương pháp dạy học
mới đáp ứng được mục tiêu giáo dục con người trong thời đại mới đó là luôn
năng động, sáng tạo, tích cực cạnh tranh trí tuệ trong bối cảnh nhiều nước trên
thế giới đang hướng tới nền kinh tế tri thức.
Luật Giáo dục điều 28.2 đã ghi : Phương pháp giáo dục phổ thông
phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh; phù hợp
với đặc điểm của từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn
luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem
lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh.
12
Như vậy, cốt lõi của đổi mới phương pháp dạy học là: Hướng tới hoạt
động học tập chủ động, chống lại thói quen học tập thụ động. Nói cách khác,
đó là phương pháp dạy học phát huy tính tích cực của học sinh (HS) gọi tắt là
phương pháp dạy học tích cực.
Đặc trưng của phương pháp dạy học tích cực là:
- Dạy học thông qua các tổ chức học tập của học sinh.
- Dạy và học chú trọng rèn luyện phương pháp tự học.
- Tăng cường học tập cá thể phối hợp với học tập hợp tác.
- Kết hợp đánh giá của thầy với tự đánh giá của trò.
13
1.1.3. Đổi mới dạy học môn Ngữ văn ở THPT
• Điểm mới của chương trình Ngữ văn THPT
Chương trình Ngữ văn THPT lần này có sự thay đổi lớn về nội dung và
phương pháp. Cụ thể những điểm đổi mới đó là:
1) Ngữ văn được coi là bộ môn có tính chất công cụ: HS học môn Ngữ
văn không những được trang bị những kiến thức văn học mà còn được rèn
luyện kĩ năng sử dụng thành thạo phương tiện giao tiếp – ngôn ngữ.
2) Có sự chuyển đổi nội hàm văn học trong nhà trường: Không chỉ dạy
các văn bản nghệ thuật mà còn có các văn bản nghị luận.
3) Chương trình quy định kĩ năng đọc- hiểu văn bản cho HS.
4) Gọi những tác phẩm hay những đoạn trích văn học là văn bản.
5) Chương trình được sắp xếp theo cụm thể loại trong tiến trình lịch sử
văn học. Để rèn luyện kĩ năng đọc – hiểu theo đặc trưng thể loại. Bài học tác
gia thường đặt sau các văn bản của tác gia đó để HS quy nạp, nâng cao kiến
thức về tác gia.
6) Phần Tiếng Việt chủ yếu học về phong cách ngôn ngữ để hỗ trợ cho
việc làm văn...
7) Phần Làm văn không còn khái niệm kiểu bài mà dùng khái niệm
kiểu văn bản; đề bài không chỉ yêu cầu làm bài văn nghị luận văn học mà đổi
mới cách ra đề nhằm tích cực hóa hoạt động của HS.
8) Chương trình xây dựng theo nguyên tắc tích hợp ba phân môn.
9) Chương trình có chuẩn kiến thức và kĩ năng.
10) Đổi mới phương pháp dạy học văn và kiểm tra đánh giá theo hướng
tích cực hóa hoạt động của HS.
• Điểm mới của SGK Ngữ văn THPT
14
Cấu trúc của chương trình thay đổi thể hiện rõ trong sự thay đổi cấu
trúc của SGK:
Về cấu trúc bài đọc văn gồm các phần:
- Tên tác phẩm, đoạn trích.
- Kết quả cần đạt.
- Tiểu dẫn.
- Văn bản.
- Chú thích đặt dưới trang.
- Hướng dẫn học bài.
- Luyện tập.( bài tập nâng cao đối với bộ SGK Ngữ văn nâng cao)
- Tri thức đọc – hiểu ở cuối cụm bài ( Đối với bộ SGK Ngữ văn nâng cao).
Cấu trúc bài khái quát, lí thuyết.
- Phần nội dung khái quát, lí thuyết.
- Luyện tập.
Cấu trúc bài luyện tập: gồm chuỗi các bài tập.
Cấu trúc bài làm văn. Nêu các định hướng trả bài.
• Đổi mới phương pháp dạy học Ngữ văn THPT.
Phát huy phương pháp đọc - hiểu.
Việc dạy học văn ở THPT tiếp tục phát huy phương pháp đọc - hiểu ở
THCS. Nghĩa là mỗi HS chủ động trực tiếp làm việc với văn bản để khám phá
và tiếp nhận tri thức. Tuy nhiên, quá trình đọc hiểu của HS ở THPT không
chỉ là HS làm việc với văn bản để hình thành kiến thức rồi GV khái quát lại
thành mục Ghi nhớ như ở cấp THCS mà đòi hỏi ở mức độ cao hơn là HS tích
cực tích lũy kiến thức, quan niệm, ấn tượng và khái quát ban đầu về văn học
nghệ thuật, cho nên yêu cầu vận dụng các khái niệm lí luận văn học và lịch sử
15
văn học nhiều hơn để HS có cách tiếp cận văn học một cách có lí luận, biết
phân tích lí giải văn bản văn học một cách có ý thức và có phương pháp.
Nghĩa là phương pháp dạy học ở bậc THPT là tăng cường hoạt động đọc -
hiểu có ý thức, có lí luận.
• Điểm mới trong chương trình Văn học trung đại Việt Nam.
Văn học trung đại Việt Nam chiếm đa phần thời lượng chương trình
Ngữ văn lớp 10. Vì thế ở lần đổi mới này, bộ phận văn học trung đại có
những điểm mới như sau:
Các văn bản học chính thức và đọc thêm gồm 7 loại thể chính: Thơ trữ
tình, phú, ngâm khúc, nghị luận, truyện chữ Hán và truyện chữ Nôm. So với
chương trình cũ thì chương trình Ngữ văn lần này ở phần văn học trung đại có
thêm một số thể loại như: Tựa, Văn bia, Bình sử (trong loại nghị luận); Sử kí
(trong loại tự sự). Và có những văn bản mới được lựa chọn vào thay thế văn
bản có trong SGK Văn học cũ.
Cụ thể, Văn học trung đại Việt Nam trong chương trình Ngữ văn mới
gồm những văn bản sau:
- Thơ trữ tình: “Thuật Hoài” (Phạm Ngũ Lão), “Cảm Hoài” (Đặng
Dung), “Bảo kính cảnh giới” số 43 (Nguyễn Trãi), “Nhàn” (Nguyễn Bỉnh
Khiêm), “Độc Tiểu Thanh kí” (Nguyễn Du), “Quốc Tộ” (Đỗ Pháp Thuận),
“Cáo tật thị chúng”
(Mãn Giác), “ Quy hứng” (Nguyễn Trung Ngạn).
- Phú : “Bạch Đằng giang phú” (Trương Hán Siêu), “Hàn Nho phong vị
phú” ( Nguyễn Công Trứ).
- Ngâm khúc : “Chinh phụ ngâm” (Đặng Trần Côn/ Đoàn Thị Điểm),
trích “Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ”, “Cung oán ngâm khúc”
(Nguyễn Gia Thiều), trích đoạn “Nỗi sầu oán của người cung nữ”
16
- Nghị luận: “ Bình Ngô đại cáo” (Nguyễn Trãi), “Quân trung từ mệnh
tập”, “Thư lại dụ Vương Thông lần nữa” (Nguyễn Trãi), Tựa “Trích diễm thi
tập” (Hoàng Đức Lương), “Hiền tài là nguyên khí quốc gia” (Văn Bia của
Thân Nhân Trung), Phẩm bình nhân vật lịch sử của Lê Văn Hưu.
- Tự sự: “Thái sư Trần Thủ Độ” (Trích Đại Việt sử kí toàn thư của Ngô
Sĩ Liên), “Thái phó Tô Hiến Thành” (Trích “Đại Việt sử lược”), “Hưng Đạo
Vương Trần Quốc Tuấn” ( Trích “ Đại Việt sử kí toàn thư” của Ngô Sĩ Liên).
- Truyện chữ Hán: “Chuyện chức phán sự ở đền Tản Viên” (Trích
“Truyền kì mạn lục” của Nguyễn Dữ).
- Truyện thơ Nôm: “Truyện Kiều” (Nguyễn Du) với các trích đoạn:
“Trao duyên”, “Nỗi thương mình”, “Chí khí anh hùng”, “Thề nguyền”.
Như vậy, so với bộ sách “Văn học 10” năm 2000 thì bộ sách “Ngữ văn
10” năm 2006 có thêm các văn bản: “Hứng trở về” (Nguyễn Trung Ngạn),
“Nhàn” (Nguyễn Bỉnh Khiêm), “Nhà Nho vui cảnh nghèo” (Nguyễn Công
Trứ), “Hiền tài là nguyên khí quốc gia” (Văn bia của Thân Nhân Trung), Tựa
“Trích diễm thi tập” (Hoàng Đức Lương) và ba văn bản sử kí: “Thái sư Trần
Thủ Độ”, “Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn”, “Thái phó Tô Hiến Thành”.
1.2 Đặc trƣng thể loại của văn bản Tựa
1.2.1 Khái niệm
Mục Tri thức đọc - hiểu trong cuốn SGK Ngữ văn 10 nâng cao viết:
Tựa là bài văn thường đặt ở đầu tác phẩm văn học hoặc sử học, địa lí, hội họa,
âm nhạc... nhằm giới thiệu mục đích, nội dung, quá trình hình thành và kết
cấu tác phẩm ấy. Bài Tựa có thể do tác giả tự viết, cũng có thể do một ai đó vì
yêu quý, mến mộ tác phẩm mà viết. Cuối bài Tựa thường ghi họ tên, chức
17
tước của người viết và ngày tháng, địa điểm làm bài Tựa. Người ta gọi phần
này là Lạc khoản.
Văn của thể Tựa thường có tính chất thuyết minh, thường kết hợp với
nghị luận và tự sự, có khi còn mang sắc thái trữ tình.
Cuốn Ngữ văn Hán Nôm do GS Lê Trí Viễn chủ biên Có ghi: Trong
tiếng việt Tự được gọi là Tựa...Là những bài viết đặt ở đầu cuốn sách, có khi
cũng là của tác giả nhưng thường là của người khác, một người có uy tín
trong lĩnh vực nội dung cuốn sách...có khi một cuốn sách có nhiều Tự, mỗi
lần tái bản một bài Tự, sách in một lần mấy bài Tự, có bài tự trước, bài tự
sau, tự thứ nhất, tự thứ nhì...
Tự nhằm giới thiệu cuốn sách cho độc giả. Nó nói lên cái độc đáo nhất
của tác phẩm tức phần có ý nghĩa đóng góp nhất của tác giả: Về nguồn gốc
của vấn đề nội dung tác phẩm đặt ra, về bản thân của tác giả, về vị trí của
vấn đề đó trong lĩnh vực khoa học, văn học, về bản thân nội dung của tác
phẩm, những giá trị của nó về tư tưởng nghệ thuật. Nó cũng có thể nêu lên ý
kiến, quan niệm của người đề tựa về vấn đề tác phẩm đề cập tới, những cảm
nghĩ của người đó với tư cách là người thưởng thức, về cái hay cái đẹp của
tác phẩm, cái tài của tác giả...
Trong cuốn Mấy vấn đề thi pháp văn học trung đại Việt Nam , GS
Trần Đình Sử có viết: Đây là thể văn viết đặt ở đầu các tác phẩm thơ văn
nhằm thuyết minh cho việc trước thuật, ý đồ xuất bản, thể lệ biên soạn hoặc
tình hình tác giả. Tựa có thể bao gồm cả lời bình đối với tác phẩm hoặc bổ
sung thêm các vấn đề, chi tiết hữu quan.
Diê._.u Nại trong “ Cổ văn từ loại soạn” nói “Loại tự là loại văn xưa các
bậc tiền thánh làm dịch. Khổng Tử làm truyện cho Hệ Từ, thuyết quái, vạn
ngôn, tứ quái, tạp quái dùng để suy luận ra gốc ngọn, mở rộng ý nghĩa thi,
18
thư đều có tự. Còn nghi lễ cũng có tự, đều do nhà Nho làm. Chủ tử thì tự làm
tự cho mình, hoặc cho đệ tử làm “Thời cổ xưa nói chung tự đều đặt ở cuối
sách như “Sử kí”, thái sư công tự tự, thuyết văn giải tự tự ... Đến với thời
Nam triều nhà Lương tác giả Văn tuyển là Triêu Thống đem tự đặt ở đầu sách
và gọi tự ở cuối sách là bạt...
Như vậy thể loại tự cho biết rõ quan điểm, mục đích và việc làm sách.
Đó là những văn bản có giá trị về quan niệm tư tưởng và học thuật của tiền
nhân, là kho tàng vô giá để tìm hiểu lịch sử, trước thuật nước nhà.(16; tr 316,
317, 318)
Trong cuốn Từ điển thuật ngữ văn học (Lê Bá Hán, Trần Đình Sử,
Nguyễn Khắc Phi) giải thích: Tựa ( Tiếng pháp là: preface)
Còn được gọi là lời nói đầu hay lời giới thiệu.
Phần nằm ngoài văn bản của một tác phẩm, được viết ra để thuyết
minh cho nó (Tựa nguyên chữ Hán là Tự, có nghĩa là “ trình bày”, “ thuyết
minh”) về mục đích, tôn chỉ, cách viết, hoàn cảnh ra đời.
Tựa (hay lời tựa) Phân biệt với bạt (hay lời bạt) bởi vị trí trình bày ở
đầu sách. Điều này có tính chất ước lệ. Các bài tựa cổ đại đều đặt ở cuối
sách, như “ Tự tự của Tư Mã Thiên cuối tập sử kí. Sau đời Hán tựa mới được
đặt ở đầu sách.
Tự có thể do chính tác giả cuốn sách viết, có thể do người khác viết. Có
lời tựa cho một sáng tác văn học cũng có lời tựa cho một tác phẩm nghiên
cứu hoặc phê bình
Một cuốn sách khi xuất hiện có thể mang một hoặc nhiều bài tựa khác
nhau.(11; tr 390).
1.2.2 Đặc trƣng thể loại của Tựa
• Đặc trưng về chỗ đứng:
19
Tựa là bài văn thường được đặt ở đầu các cuốn sách (văn học, sử học,
địa lí, hội họa, âm nhạc...); có thể do tác giả cuốn sách viết hoặc có thể do ai
đó vì yêu quý, mến mộ tác phẩm.
• Đặc trưng về nội dung:
Đây là bài viết giới thiệu về cuốn sách. Người viết thường nói về:
- Mục đích, lí do viết cuốn sách
- Nội dung và kết cấu của cuốn sách
- Quá trình hình thành cuốn sách
- Tư tưởng, tình cảm của tác giả muốn gửi gắm, giãi bày
• Đặc trưng về hình thức
Tựa là trình bày ý kiến trực tiếp của mình nên các tác giả thường dùng
lối văn nghị luận, đồng thời kết hợp với tự sự và trữ tình để bộc lộ tư tưởng,
tình cảm của mình.
Do vậy mà dạy và học văn bản tựa “ Trích diễm thi tập” trước hết phải
chú ý đến những điều được trình bày trong văn bản:
- ý kiến của người viết Tựa ( hệ thống luận điểm và cách lập luận).
+ Lí do khiến tác giả biên soạn cuốn sách
+ Quá trình sưu tầm, biên soạn cuốn sách
- Tư tưởng, tình cảm mà người viết Tựa bày tỏ (Tiếng lòng của tác giả)
Sau đó đi sâu vào hình tượng tác giả ẩn chìm sau văn bản: Tác giả là
người đang xót xa, thương tiếc cho di sản văn thơ của ông cha bị thất lạc, lại
có cả niềm tự hào và ý thức, trách nhiệm đối với việc bảo tồn văn hóa của tiền
nhân.
1.3 Đặc trƣng thể loại của văn bản Văn Bia
20
1.3.1 Khái niệm
Mục Tri thức đọc – hiểu trong SGK Ngữ văn10 nâng cao cho biết: “ Văn bia
là loại văn khắc trên mặt đá nhằm ghi chép các sự kiện trọng đại hoặc tên
tuổi, cuộc đời của những người có công đức lớn để lưu truyền cho đời sau.
Bia có ba loại chính: bia ghi công đức, bia ghi việc xây dựng các công trình
kiến trúc và bia lăng mộ.
Bia ghi công đức gồm có ba phần: Thứ nhất là tự ( kể), nêu lí do, quá
trình làm bia, sự tích nhân vật được khắc vào bia; Thứ hai, viết bằng văn vần
tóm lược nội dung tự sự ở trên để người đọc ghi nhớ, phần này còn gọi là
minh ( ghi nhớ); thứ ba là phần ghi ngày tháng, họ tên người làm bia ( viết
bằng văn xuôi) dần dần phần tự trở thành quan trọng nhất, thể hiện tư tưởng,
quan niệm của người làm bia.
Bài kí đề danh tiến sĩ khoa Nhâm Tuất niên hiệu Đại Bảo thứ ba giữ vai
trò quan trọng như một lời tựa chung cho cả 28 tấm bia tiến sĩ ở Văn Miếu Hà
Nội”.
Văn bia gồm bi kí, bi văn, bi minh, mộ chí minh. Thể loại văn học lịch
sử trung đại, rất phổ biến ở các nước Đông Á như Trung Quốc, Việt Nam,
Triều Tiên, Nhật Bản. Đó là những bài văn khắc trên bia đá đặt ở chùa chiền,
đền miếu, lăng mộ, cầu đình...để ghi công tích các bậc danh nhân, anh hùng
hoặc các sự kiện quan trọng đáng nhớ, thường viết bằng văn xuôi, phần minh
thường được viết bằng văn vần, gồm phần ghi chép tiểu sử, lai lịch và phần
ngợi ca, phẩm bình...”(11; tr 399).
Bi tức là bia, là thể văn dùng để khắc vào đá, người ta gọi là bi bản, bi
biểu, bi chí, bi kệ, bi minh, bi bảng, bi trung...Lưu Hiệp trong Văn tâm điêu
long ghi “Bi là sự đề cao hoàng đế thủa xưa khi ghi hiệu phomng thiền đều
dựng bia đá trên núi cao để khắc ghi công lao cho nên được gọi là bia. Thể
21
văn bia đòi hỏi cái tài của nhà làm sử, việc kể sự tích để lưu truyền, còn bài
văn để khắc ghi đức lớn thì phải hiện lên vẻ rực rỡ của cốt cách cao khiết, mà
ghi điều tốt đẹp thì phải cho thấy công lao phi thường, đó là quy định của
bia”. Từ sư Tăng đời Minh có nói: Văn bia từ đời Hán trở lại đây càng có
nhiều người làm, có bia về cầu đường, có bia về đàn, giếng, có bia về đền
thần, có bia về nhà thờ, có bia cổ tích, phông thổ, có bia công đức, có bia mộ,
chùa, quán... Thể văn bia chủ yếu là kể chuyện dần dần về sau pha tạp nghị
luận, đó là không đúng. Tự sự mới là thể chính của văn bia, có nghị luận là
thể biến của văn bia, nếu có ngụ ý thì lại là thể khác.
Văn bia là thể văn hình thành sớm nhất trong các thể văn xuôi ở Việt
Nam vào thời Lí (16; tr 312, 313)
1.3.2 Đặc trƣng thể loại của Văn Bia
• Đặc trưng về chỗ đứng: Văn bia là những bài văn được khắc trên
những tấm bia đá đặt ở đền, chùa, miếu, cầu đình, lăng mộ...để ghi công tích
của danh nhân hoặc các sự kiện quan trọng
• Đặc trưng về nội dung: Bia ghi công đức và bia đề danh thường gồm
hai phần
- Ghi chép tiểu sử, lai lịch của danh nhân, anh hùng, sự việc
- Ngợi ca và phẩm bình về người hoặc sự việc ở trên
• Đặc trưng về hình thức: Văn bia thường được viết bằng văn xuôi chữ
Hán theo lối thuyết minh.
Văn bản trong SGK Ngữ văn 10 được trích từ Bài kí đề danh tiến sĩ
khoa Nhâm Tuất niên hiệu Đại Bảo thứ ba do TS Thân Nhân Trung viết năm
1484. Bài kí đó được coi như lời tựa chung cho cả 82 tấm bia tiến sĩ ở Văn
Miếu Hà Nội. Nội dung chính của văn bản đoạn trích là:
22
- “Hiền tài là nguyên khí quốc gia”
- Những việc triều đình đã làm để khuyến khích hiền tài
- ý nghĩa, tác dụng của việc khắc bia tiến sĩ
Dựa vào những tiền đề lí luận ở trên, chúng tôi khảo sát tình hình dạy
và học văn bản Tựa và Văn bia trong chương trình Ngữ văn 10, và xây dựng
định hướng dạy học hai loại văn bản đó theo đặc trưng thể loại.
2. CƠ SỞ THỰC TIỄN
Để xác định cơ sở thực tiễn của việc dạy học hai loại văn bản này,
chúng tôi đã tiến hành khảo sát tình hình dạy học văn bản Tựa Trích diễm thi
tập của Hoàng Đức Lương và văn bản Hiền tài là nguyên khí quốc gia của
Thân Nhân Trung ở một số trường trung học phổ thông trên địa bàn tỉnh Bắc
Kạn .
• Mục đích khảo sát
Tìm hiểu thực tiễn dạy và học văn bản tựa “Trích diễm trhi tập” của
Hoàng Đức Lương và văn bản “ Hiền tài là nguyên khí quốc gia”. của Thân
Nhân Trung, về những mặt được và chưa được trong năm đầu thực thi chương
trình và SGK mới.
• Nội dung khảo sát
Thực tiễn dạy học hai văn bản tựa “ Trích diễm thi tập” và Hiền tài là
nguyên khí quốc gia trong SGK Ngữ văn 10 trên địa bàn tỉnh Bắc Kạn. Cụ
thể:
- Tiến trình giờ học.
- Hoạt động của thầy và trò trong giờ học
- Kết quả giờ học.
- Ý kiến của giáo viên(GV)
23
• Địa bàn và thời gian khảo sát
- Địa bàn khảo sát: Một số trường THPT thuộc tỉnh Bắc Kạn (trường
THPT Nà Phặc, huyện Ngân Sơn; THPT Chợ Mới, huyện Chợ Mới; THPT
Dân tộc nội trú Bắc Kạn).
- Thời gian khảo sát: Tháng 2, năm 2008
2.1 Giờ dạy học bài Tựa “ Trích diễm thi tập”
2.1.1 Bài dạy của cô giáo Chu Thị Hội trƣờng trung học phổ thông
Nà Phặc- Ngân Sơn- Bắc Kạn:
2.1.1.1 Tiến tình của bài học được triển khai theo ba bước lớn:
I – Tìm hiểu chung
II – Hướng dẫn HS đọc – hiểu về văn bản
III- Tổng kết
Nội dung cụ thể của phần Hướng dẫn HS tìm hiểu về tác giả và tác
phẩm: Dựa vào phần tiểu dẫn trong SGK GV dẫn dắt HS làm rõ những thông
tin cơ bản về tác giả Hoàng Đức Lương như quê quán, học vị, chức danh...và
một số thông tin về Trích diễm thi tập và thể Tựa.
Nội dung phần Hướng dẫn đọc – hiểu văn bản; GV dẫn dắt HS tìm
hiểu về bố cục của bài tựa “Trích diễm thi tập”; phân tích nội dung bài tựa:
Những nguyên nhân khiến thơ văn người xưa bị thất truyền, quá trình sưu tầm
biên soạn sách.
Nội dung phần Tổng kết là hướng dẫn HS khái quát, củng cố tri thức:
GV gợi dẫn cho HS khái quát lại giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm.
2.1.1.2. Hoạt động của thầy trò trong quá trình dạy học:
I- Tìm hiểu chung
1. Tácgiả
GV: Hướng dẫn HS đọc tiểu dẫn
24
GV hỏi: Dựa vào phần tiểu dẫn hãy nêu những nét chính về tác giả, tác
phẩm?
HS: Trả lời
Định hướng: - Hoàng Đức Lương (chưa rõ năm sinh, năm mất), nhà
sưu tầm, tuyển chọ, biên soạn; quê ở Văn Giang- Hưng Yên, sinh sống ở Hà
Nội; đỗ tiến sĩ năm 1478.
- Tựa ( tự) là những bài viết đặt ở đầu cuốn sách, do tác giả hoặc người
khác viết nhằm giới thiệu về cuốn sách.
- Trích diễm thi tập: Tuyển tập những bài thơ hay từ thời Trần đến thời Lê.
II - Đọc – Hiểu văn bản
HS :đọc văn bản
GV: nhận xét cách đọc của HS
HS: đọc chú thích
1. Bố cục của văn bản
GV hỏi: Bài tựa có thể được chia làm mấy phần? Nội dung chính của
từng phần?
HS: thảo luận nhóm. Đại diện nhóm trình bày, nhận xét.
Định hướng: Bài tựa có thể chia làm 3 phần, với nội dung như sau:
- Phần 1: Những nguyên nhân khiến thơ văn người xưa không được lưu
truyền đầy đủ
- Phần 2: Quá trình sưu tầm, biên soạn Trích diễm thi tập
- Phần 3: Lạc khoản (Niên hiệu, thông tin về tác giả).
2. Phân tích nội dung văn bản
GV: Hướng dẫn HS phân tích theo phần Hướng dẫn học bài trong
SGK.
a) Những nguyên nhân khiến thơ văn người xưa không được lưu truyền
đầy đủ.
25
GV hỏi: Theo tác giả có những nguyên nhân nào khiến thơ văn người
xưa không được lưu truyền lại đầy đủ cho đời sau? Cho biết nghệ thuật lập
luận của tác giả?
HS: Trả lời.
Định hướng: - bốn nguyên nhân chủ quan:
+ Thơ văn hay nhưng kén người thưởng thức.
+ Người có năng lực cảm thụ thì hoặc vì bân việc mà không có
thời gian sưu tầm hoặc không để ý tới.
+ Người thích sưu tầm thì không đủ năng lực, không đủ kiên trì.
+ Chính sách in ấn của nhà vua quá ngặt nghèo.
- Hai nguyên nhân khách quan:
+ Binh lửa, chiến tranh àn phá
+ Thời gian hủy hoại sách vở
- Nghệ thuật lập luận của tác giả:
+ Chặt chẽ, lô gíc: Trình bày nguyên nhân và thực trạng của hiện
tượng thơ văn người xưa bị thất truyền trước, từ đó khẳng định việc ra đời
của Trích diễm thi tập là yêu cầu khách quan của thời đại.
+ Kết hợp nghị luận với biểu cảm, tự sự tạo được sức thuyết phục cao.
- Quá trình sưu tầm, biên soạn sách
GV hỏi: Hoàng Đức Lương đã làm gì để sưu tầm, biên soạn sách?
HS: Thảo luận nhóm, đại diện nhóm trình bày
Định hướng: Quá trình biên soạn gặp nhiều khó khăn: Tác giả phải
“Nhặt nhạnh ở giấy tàn vách nát”, “tìm quanh hỏi khắp”, “ thu lượm thêm
thơ của các vị hiện đang làm quan trong triều...” Chọn bài hay, sắp xếp theo
thể loại, gồm 6 quyển chia làm hai phần.
26
GV hỏi: Điều gì đã thôi thúc Hoàng Đức Lương vượt khó khăn để sưu
tầm, biên soạn tuyển tập thơ này? Em có cảm nghĩ gì về công việc sưu tầm,
biên soạn của ông?
HS: thảo luận nhóm, đại diện nhóm trình bày, nhận xét
Định hướng: - Chính tấm lòng yêu nước và niềm tự hào về văn hiến
của dân tộc đã thôi thúc tác giả vượt gian khó để sưu tầm, biên soạn lại thơ
văn của người xưa.
- Đó là một công việc kì công, khó khăn, vất vả nhưng cũng rất có ý
nghĩa.
GV hỏi: Em hãy cho biết, trước Trích diễm thi tập đã có ý kiến nào nói
về nền văn hiến của dân tộc?
Định hướng: Đó là Đại cáo bình Ngô của Nguyễn Trãi:
Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu...
III- Tổng kết
GV hỏi: Hãy nêu nhận xét chung về nội dung và nghệ thuật của tác
phẩm?
Định hướng: - Nội dung: Thể hiện được niềm tự hào, sự trân trọng và ý
thức bảo tồn di sản văn hóa dân tộc.
- Nghệ thuật: Lập luận chặt chẽ, lời văn giàu cảm xúc...
IV- Luyện tập
HS làm các bài tập trong SGK
2.1.1.3 Kết quả giờ học
Chúng tôi tiến hành khảo sát kết quả học tập của HS bằng hệ thống câu
hỏi:
Câu hỏi 1) Em hãy cho biết đặc điểm cơ bản của thể Tựa?
27
HS trả lời: Tưa được đặt ở đầu cuốn sách, do tác giả hoặc người khác
viết nhằm giới thiệu về cuốn sách.
Câu hỏi 2) Theo Hoàng Đức Lương, có những nguyên nhân nào khiến
thơ văn người xưa không được lưu truyền lại đầy đủ?
HS trả lời: Có 4 nguyên nhân.
- Thơ ca là sản phẩm tinh thần đặc biệt, chỉ có thi nhân mới cảm nhận
được sắc đẹp và vị ngon của thi ca.
- Các vị danh Nho làm quan to thì vì bận rộn công việc triều đình mà
“không có thì giờ để biên tập”, còn các viên quan cấp thấp thì vì lận đận
lo thi cử hoặc lo công việc hàng ngày nên không để ý.
- Có người sưu tầm thơ ca nhưng thấy trách nhiệm nặng nề, lượng sức
yếu kém nên bỏ dở
- Nhà vua cấm không cho khắc ván
Ngoài ra còn do chiến tranh phá hủy và thời gian làm tàn phai
Câu hỏi 3) Nhận xét về cách lập luận của tác giả?
HS trả lời: Lập luận chặt chẽ, lời lẽ thiết tha, lí lẽ hào hùng, có tính thuyết
phục cao.
Câu hỏi 4) Hoàng Đức Lương đã làm gì để sưu tập thơ văn của tiền nhân?
HS trả lời: Tác giả tìm tòi, nhặt nhạnh, sưu tập, chọn lọc, sửa chữa, sắp
xếp lại để làm nên “Trích diễm thi tập”.
Câu hỏi 5) Theo cảm nhận của em, tác giả là người như thế nào?
HS trả lời: Theo cảm nhận của em, tác giả là một người có ý thức cao
trong việc bảo tồn di sản văn hóa của dân tộc; có lòng tự hào, trân trọng thơ
văn dân tộc.
2.1.1.4. Ý kiến của giáo viên
Cô Chu Thị Hội nói: việc lựa chọn văn bản tựa “ Trích diễm thi tập”
vào chương trình Ngữ văn THPT có nhiều ý nghĩa:
28
- Giúp cho HS có cơ hội học tập và nâng cao kĩ năng viết văn nghị
luận.
- HS hiểu được nhưng khó khăn mà cha ông ta phải vượt qua để chúng
ta có được nhưng di sản văn hóa như hôm nay.
- Qua bài học, HS nhận thức đúng đắn về ý nghĩa và tầm quan trọng
của việc bảo tồn di sản văn hóa dân tộc.
- Bài học giáo dục ý thức độc lập tự chủ dân tộc cho HS...
Việc dạy học văn bản được SGV và các sách tham khảo hướng dẫn kĩ,
nhưng tôi tự nhận thấy việc dạy học văn bản này thiếu chất văn chương,
không sinh động nên thật sự khó tạo được hứng thú cho cả thầy và trò trong
quá trình tìm hiểu.
• Nhận xét: Bài dạy học đã thể hiện được sự đổi mới trong quá trình
dạy học tác phẩm văn chương trong nhà trường: Phương pháp tổ chức dạy
học linh hoạt thể hiện rõ vai trò tích cực chủ động, sáng tạo của HS trong quá
trình tiếp nhận tác phẩm văn chương, đồng thời người thầy luôn giữ đúng vai
trò là người hướng dẫn, điều khiển quá trình tiếp nhận giá trị thẩm mĩ tác
phẩm văn chương của HS; bố cục bài dạy học rõ ràng, quá trình phân tích
theo trình tự bố cục tác phẩm đã làm rõ được những kiến thức cơ bản của bài
học.
Tuy nhiên, bài dạy học cũng bộc lộ một số điểm cần khắc phục:- Việc
mở bài bằng những kiến thức có sẵn trong SGK chưa tạo được không khí cần
thiết cho giờ học.
- Học sinh chưa được trang bị những kiến thức cần thiết về thể Tựa –
Một thể loại văn học hoàn toàn mới mẻ với các em.
-Yếu tố trữ tình thể hiện rõ cảm xúc của tác giả ( Một điểm quan trọng
làm nên giá trị tác phẩm) chưa được khai thác rõ...
29
2.1.2 Bài dạy học của cô giáo Hoàng thị Hồng trƣờng trung học phổ
thông Chợ Mới – Bắc Kạn
2.1.2.1. Tiến trình bài dạy được triển khai theo các phần:
I – Tiểu dẫn
Ở phần này, GV giúp HS là rõ: Những thông tin cơ bản về tác giả
Hoàng Đức Lương và tác phẩm Trích diễm thi tập.
II – Đọc- hiểu văn bản
Phần này, GV dẫn dắt HS phân tích những vấn đề:
+ Hệ thống lập luận chặt chẽ về hiện tượng thơ văn bị thất truyền.
+ Nỗi lòng của tác giả về hiện tuợng thơ văn bị thất truyền.
+ Giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm.
III –Tổng kết
Phương pháp dạy học: Dùng hệ thống câu hỏi tái hiện, gợi mở, nêu vấn
đề cùng với cách tổ chức cho HS thảo luận theo nhóm.
2.1.2.2.Hoạt động của thầy và trò trong quá trình dạy học
I – Tiểu dẫn
HS :đọc phần tiểu dẫn trong SGK
GV hỏi: Em hiểu những gì về tác giả Hoàng Đức Lương và Trích diễm
thi tập.
Yêu cầu: HS dựa vào phần tiểu dẫn để trả lời câu hỏi
II - Đọc – Hiểu văn bản
1. Hệ thống lập luận chặt chẽ về hiện tượng thơ văn bị thất truyền.
GV hỏi: Nội dung của văn bản được chia làm mấy phần? Xác định luận
điểm một của văn bản? Những nguyên nhân nào khiến thơ văn người xưa
không được lưu truyền đầy đủ cho thế hệ sau?
HS: Trả lời.
Yêu cầu: - Nội dung của văn bản được chia làm ba phần:
30
+ Phần một :Nhưng nguyên nhân khiến thơ văn người xưa không được
lưu truyền đầy đủ.
+ Phần hai: Quá trình sưu tầm, biên soạn sách; kết cấu của tác phẩm.
+ Phần ba: Lạc khoản.
- Luận điểm một: Những nguyên nhân khiến thơ văn người xưa không
được lưu truyền lại đầy đủ:
+ Nguyên nhân thứ nhất: Thơ văn tuy hay nhưng không phải ai cũng có
thể thưởng thức, chỉ người có tài mới có thể thưởng thức cái hay, cái đẹp của
thơ văn.
+ Nguyên nhân thứ hai: Người có khả năng thưởng thức thơ văn thì
hoặc vì bận việc hoặc không để ý đến.
+ Nguyên nhân thứ ba: Người thích sưu tầm thơ văn thì không đủ tài
hoặc không kiên trì.
+ Nguyên nhân thứ tư: Kiểm duyệt của nhà vua quá khắt khe
+ Binh lửa, chiến tranh tàn phá sách vở
+ Thời gian hủy hoại, mai một sách vở
GV hỏi: Khi chỉ ra những nguyên nhân đó, tác giả đã sử dụng cách lập
luận nào?
HS: Trả lời.
Yêu cầu: Phương pháp lập luận: Phân tích bằng những luận cứ cụ thể
về các mặt khác nhau để lí giải hiện tượng, vấn đề.
2. Nỗi lòng của tác giả trước hiện tượng thơ văn người xưa bị thất truyền
GV hỏi: Bên cạnh những nguyên nhân, đoạn văn trên còn ẩn chứa điều gì?
HS: Trả lời.
Yêu cầu: Tình cảm yêu quý, trân trọng văn thơ của ông cha, tâm trạng
xót xa, thương tiếc trước di sản quý báu của dân tộc bị mất mát...của tác giả.
GV hỏi: Hoàng Đức Lương đã làm gì để sưu tầm , biên soạn thơ văn?
31
HS: Thảo luận nhóm, trả lời câu hỏi.
Yêu cầu: Tác giả đã nhặt nhạnh, thu lượm , tìm hỏi, bổ sung thêm
GV hỏi: Điều gì đã khiến cho tác giả vượt mọi khó khăn để sưu tầm thơ văn?
HS: Trả lời.
Yêu cầu: Đó là lòng yêu nước, niềm tự hào về nền văn hiến dân tộc, là
lòng khát khao giữ gìn di sản văn hóa dân tộc, ý thức độc lập tự chủ dân tộc...
III- Tổng kết.
GV hỏi : Hãy nêu giá trị về nội dung và nghệ thuật của tác phẩm?
HS: Trả lời
Yêu cầu: - Nội dung: Thể hiện niềm tự hào và ý thức độc lập, tự chủ
đân tộc.
- Nghệ thuật: Lập luận chặt chẽ, lời văn giàu cảm xúc.
III – Luyện tập
Hướng dẫn HS làm bài tập trong SGK
2.1.2.3 Kết quả giờ học
Câu hỏi 1) Em hãy cho biết đặc điểm cơ bản của thể Tựa?
HS trả lời: Tựa nguyên văn là Tự, bài viết đặt ở đầu cuốn sách do tác
giả hoặc người khác được mời viết. Bài Tựa thường nêu những quan điểm của
người viết về những vấn đề có liên quan dến cuốn sách.
Câu hỏi 2) Theo Hoàng Đức Lương có những nguyên nhân nào khiến
thơ văn không được lưu truyền lại đầy đủ cho đời sau?
Hs trả lời: Theo tác giả, những nguyên nhân khiến thơ ca không được
lưu truyền đầy đủ là: Thơ văn hay nhưng khó, không phải ai cũng cảm nhận
được; Người có khả năng thì bận việc hoặc không dể ý đến; Người thích sưu
tầm thì không đủ năng lực; Chính sách của nhà vua qúa khắt khe; Thời gian;
binh lửa hủy hoại sách vở.
Câu hỏi 3) Nghệ thuật lập luận của tác giả?
32
HS trả lời: Lập luận chặt chẽ, lời văn giàu cảm xúc.
Câu hỏi 4) Hoàng Đức Lương đã làm gì để sưu tầm thơ văn của tiền
nhân?
HS trả lời: Tác giả đã thu lượm những bài thơ còn xót lại, thu lượm
thêm thơ của các vị làm quan trong triều.
Câu hỏi 5) Theo cảm nhận của em, tác giả là người như thế nào?
HS trả lời: Là một người cá trách nhiệm với di sản văn hóa dân tộc.
2.1.2.4. Ý kiến của giáo viên
Cô Hoàng Thị Hồng bày tỏ: Văn bản tựa “ Trích diễm thi tập” là một
văn bản rất hay, việc lựa chọn văn bản này vào chương trình Ngữ văn trong
nhà trường là rất đúng đắn. Vì qua văn bản này HS có dịp tìm hiểu một văn
bản nghị luận mẫu mực, đồng thời có được những kiến thức về một thể loại
văn học của cha ông ta. Giá trị mà văn bản này đem lại là rất lớn: Giáo dục ý
thức, trách nhiệm với di sản văn hóa dân tộc, rèn luyện kĩ năng viết văn nghị
luận cho HS...
Tuy nhiên, để dạy học văn bản này thật sự thành công là điều không dễ
vì: Đây là văn bản nghị luận khó tiếp nhận nên phần lớn HS không có hứng
thú học; Tài liệu tham khảo rất hiếm...
Tôi mong muốn tiếp tục có những bài nghiên cứu, bài viết tâm đắc về
loại văn bản này để thầy trò chúng tôi có thể tham khảo nhằm nâng cao hiệu
quả tiếp nhận.
• Nhận xét: Bài dạy đã thể hiện được tư tưởng dạy học văn hiện đại đó
là GV giữ vai trò dẫn dắt ,điều khiển HS trong suốt quá trình chiếm lĩnh tri
thức. Với hệ thống câu hỏi gợi dẫn của GV, HS luôn tích cực, chủ động trong
quá trình khám phá tri thức. Nội dung bài dạy đáp ứng được những yêu cầu
cơ bản.
Bài dạy học sẽ đạt hiệu quả cao hơn nếu giáo viên cố gắng:
33
- Tạo được cách dẫn dắt vào bài mới, cuốn hút HS bằng những kiến
thức liên quan hoặc những nhận định về tác phẩm...
- Làm rõ đặc điểm của thể Tựa trước khi phân tích tác phẩm.
- Dẫn dắt HS phân tích theo bố cục của tác phẩm...
- Phân tích rõ hơn về nghệ thật lập luận và tính biểu cảm của tác phẩm.
2.1.3 Bài dạy học của cô Nguyễn Thị Thiên Sinh trƣờng THPT Dân
tộc nội trú Bắc Kạn.
2.1.3.1. Tiến trình bài học được triển khai như sau:
I – Tiểu dẫn
Phần này thầy trò cùng làm rõ nhưng nét chính về tác giả Hoàng Đức
Lương và tiêu đề Trích diễm thi tập.
34
II - Đọc- hiểu văn bản
Phân tích giá trị nội dung và nghệ thuật của văn bản tựa “ Trích diễm
thi tập”.
III – Củng cố tri thức
Khái quát lại giá trị của văn bản
Phương pháp dạy học: Bằng hệ thống câu hỏi gợi dẫn ,GV dẫn dắt HS
tích cực, chủ động tiếp nhận văn bản.
2.1.3.2. Hoạt động của thầy trò trong quá trình dạy học.
I- Tiểu dẫn
HS đọc tiểu dẫn trong SGK
GV hỏi: Hãy nêu những nét chính về tác giả Hoàng Đức Lương và giải
thích tiêu đề Trích diễm thi tập?
Định hướng:- Hoàng Đức Lương là một trong những tri thức thế kỉ
XV; Quê ở Hưng Yên; Đậu tiến sĩ năm 1478.
- Trích diễm thi tập: Tuyển tập những bài tho hay ( Trích: tuyển chọn;
Diễm: đep, hay; Thi: thơ).
II - Đọc – Hiểu văn bản
GV cho HS đọc văn bản một lượt
HS tìm hiểu từ khó
GV hỏi: Văn bản có thể chia làm mấy phần?
Định hướng: Văn bản được chia làm ba phần
+ Từ đầu đến “làm sao mà không rách nát tan tành”
+ Từ “ Đức Lương này....Chê trách người xưa vậy”
+ Còn lại
1) Phần một
GV hỏi: ở phần này tác giả đã đưa ra những lí do chủ quan nào khiến
thơ văn người xưa không được lưu truyền đầy đủ?
35
Định hướng: 4 nguyên nhân chủ quan đó là:
+ Thơ văn có “sắc đẹp” Và “ vị ngon” nhưng không phải ai cũng
thưởng thức được.
+ Các vị làm quan trong triều thì bận việc, những người lận đận trong
thi cử thì không để ý đến.
+ Những người thích thơ văn thì không đủ năng lực và không kiên trì.
+ Nhà vua kiểm duyệt khắt khe.
GV hỏi: Ngoài những nguyên nhân trên còn có tác động nào từ bên
ngoài khiến thơ văn cha ông ta không được lưu truyền đầy đủ cho thế hệ sau?
Định hướng: 2 nguyên nhân khách quan:
+ Chiến tranh, hỏa hoạn tàn phá sách vở.
+ Thời gian làm mai một sách vở.
GV hỏi: Qua phần này ta hiểu được tâm sự gì của Hoàng Đức Lương?
Định hướng: Xót xa trước nhưng di sản thơ văn của cha ông bị tàn phá,
mai một.
GV hỏi: Hãy nhận xét về cách viết văn nghị luận của của tác giả?
Định hướng: Lập luận chặt chẽ, luận điểm, luận cứ vững chắc. Phương
pháp lập luận: Quy nạp.
2) Phần hai:
GV hỏi: Hoàng Đức Lương đã làm gì để sưu tầm, biên soạn thơ văn?
Định hướng: Tác giả đã “tìm quanh, hỏi khắp” để “thu lượm” thơ văn
của tiền nhân, rồi “thu lượm thêm thơ của các vị hiện đang làm quan trong
triều..”, “phụ thêm mấy bài vụng về.” của tác giả, sắp xếp theo từng loại...
GV hỏi: Điều gì đã thôi thúc tác giả quyết tâm thực hiện công việc đầy
khó khăn này?
36
Định hướng: Chính tấm lòng yêu nước, thiết tha với di sản văn hóa dân
tộc cùng với ý thức độc lập tự chủ là động lực giúp tác giả quyết tâm hoàn
thành công việc.
GV hỏi: Em có suy nghĩ gì về công việc của tác giả?
Định hướng: Đây là một công việc đòi hỏi năng lực và tính kiên trì cao.
Đem lại nhiều giá trị đối với văn hóa dân tộc.
III- Tổng kết
GV hỏi: Em nào có thể khái quát lại giá trị về nội dung và nghệ thuật
của văn bản này?
Định hướng:
- Nội dung: Thể hiện lòng yêu nước, niềm trân trọng và tự hào về nền
văn hiến dân tộc của tác giả.
- Nghệ thuật: Kết hợp giữa nghị luận và biểu cảm tạo được sức cuốn
hút cho người đọc.
2.1.3.3. Kết quả giờ học
Câu hỏi 1) Hãy cho biết đặc điểm cơ bản của thể loại Tựa?
HS trả lời: Tựa nguyên văn là Tự là bài viết đặt ở đầu cuốn sách do tác
giả hoặc người khác được tác giả mời viết.
Câu hỏi 2) Theo tác giả thì có nhưng nguyên nhân nào khiến thơ văn
của người xưa không được lưu truyền đầy đủ?
HS trả lời: Theo tác giả thì có bốn nguyên nhân chủ quan và hai nguyên
nhân khách quan khiến cho thơ văn không được lưu truyền đầy đủ ở trên đời:
Bốn nguyên nhân chủ quan:- Thơ văn hay nhưng không phải ai cũng
cảm nhận được; Những người có thể cảm nhận thơ văn thì vì bận việc hoặc
không để ý tới; có những người ham mê nhưng lại không đủ khả năng; triều
đình không cho phép in ấn.
37
Hai nguyên nhân khách quan: Chiến tranh tàn phá sách vở; thời gian
làm mai một sách vở.
Câu hỏi 3) Hãy nhận xét cách lập luận của tác giả?
Lập luận chặt chẽ, lô gíc
Câu hỏi 4) Theo cảm nhận của em, tác giả là một người như thế nào?
Tác giả là người có ý thức, trách nhiệm với di sản văn hóa dân tộc, luôn
tự hào về nền văn hiến dân tộc.
2.1.3.4. ý kiến của giáo viên
Cô Nguyễn Thị Thiên Sinh nói: Đây là bài nghị luận rất hay, có kết cấu
chặt chẽ, lập luận khúc triết giàu tính biểu cảm và tính thuyết phục. Thể hiện
được truyền thống yêu nước, tấm lòng trân trọng, tự hào và ý thức trách
nhiệm đối với di sản thơ ca dân tộc trong việc bảo tồn di sản văn học của cha
ông ta.Vì thế văn bản này có tinh giáo dục rất lớn: Giáo dục lòng yêu nước
cho thế hệ HS, HS biết thể hiện lòng yêu nước của mình bằng suy nghĩ và
việc làm đúng đắn với các di sản của dân tộc. Qua bài học, HS có dịp học tập
và rèn luyện kĩ năng viết văn nghị luận. Tuy nhiên, việc dạy học văn bản này
còn gặp nhiều khó khăn vì: Lần đầu tiên thầy trò chúng tôi được làm quen với
loại văn bản này, vốn hiểu biết về thể loại chưa nhiều, kinh nghiệm tiếp cận
chưa từng trải, đây lại là văn bản nghị luận không tạo được sức hấp dẫn lắm
từ phía HS, nên ban đầu HS chưa thật hứng thú học.
Chúng tôi hy vọng rằng các nhà nghiên cứu, các bạn đồng nghiệp tâm
huyết có thể chia sẻ với chúng tôi, giúp chúng tôi có được giờ dạy học về văn
bản này thật sự thành công.
• Nhận xét: Với cách tổ chức quá trình dạy học như vậy, GV đã thể
hiện được sự đổi mới trong việc tiếp nhận tác phẩm văn chương trong nhà
trường; bố cục triển khai bài học khá rõ ràng, trình tự hợp lí; hệ thống câu hỏi
38
phù hợp; thể hiện rõ ràng công việc của GV và HS. Tuy nhiên, GV cần khắc
phục những tồn tại sau:
- Cần làm rõ đặc điểm của thể loại Tựa tạo tri thức nền tảng cho HS khi
tiếp cận thể loại này.
- Khai thác rõ hơn nghệ thuật viết văn nghị luận hòa quyện với trữ tình,
biểu cảm làm nên giá trị độc đáo của tác phẩm.
2.2 Giờ học “Hiền tài là nguyên khí quốc gia”
Qua quá trình khảo sát, chúng tôi nhận thấy thực tiễn việc dạy học văn bản
“ Hiền tài là nguyên khí quốc gia” như sau:
Đa số GV đều có quan niệm rằng đây là văn bản hướng dẫn đọc thêm
nên không quan trọng. Bởi vậy, việc hướng dẫn HS tìm hiểu về văn bản này
chỉ được thực hiện một cách đại khái:
- Việc soạn giáo án cho giờ dạy học văn bản này rất sơ sài, hầu như các
GV soạn không đầy một trang giấy với nội dung bài soạn đơn giản như sau:
ĐỌC THÊM “HIỀN TÀI LÀ NGUYÊN KHÍ QUỐC GIA”
1) Tầm quan trọng của hiền tài.
Câu hỏi: Hiền tài có vai trò quan trọng như thế nào đối với đất nước?
Định hướng: Người tài cao, học rộng là khí chất ban đầu làm nên sự
sống còn và phát triển của đất nước.
2) Ý nghĩa của việc khắc bia ghi tên tiến sĩ.
Câu hỏi: Hãy nêu ý nghĩa của việc khắc bia ghi tên tiến sĩ?
Định hướng: Khuyến khích nhân tài, noi gương hiền tài ngăn ngừa
điều ác; làm cho đất nước hưng thịnh, bền vững lâu dài.
3) Bài học lịch sử rút ra từ việc khắc bia.
- Phải biết quý trọng nhân tài.
- Hiền tài có mối quan hệ sống còn đối với sự thịnh suy của đất nước.
- Thời gian lên lớp thực hiện bài dạy học văn bản này là 25 phút.
39
2.2.1. Tiến trình giờ dạy học được triển khai như sau:
I - Tiểu dẫn
II - Đọc hiểu khái quát văn bản
2.2.2. Hoạt động của thầy và trò
I - Tiểu dẫn( SGK)
II - Đọc – hiểu khái quát văn bản
1) Tầm quan trọng của hiền tài
GV hỏi: Hiền tài có vai trò quan trọng như thế nào đối với đất nước?
HS trả lời
Định hướng: Người tài cao, học rộng là khí chất ban đầu làm nên sự
sống còn và phát triển của đất nước.
2) Ý nghĩa của việc khắc bia ghi tên tiến sĩ
Câu hỏi: Hãy nêu ý nghĩa của việc khắc bia ghi tên tiến sĩ?
Định hướng: Khuyến khích nhân tài, noi gương hiền tài ngăn ngừa
điều ác; làm cho đất nước hưng thịnh, bền vững lâu dài.
3) Bài học lịch sử rút ra từ việc khắc bia
- Phải biết quý trọng nhân tài
- Hiền tài có mối quan hệ sống còn đối với sự thịnh suy của đất nước
2.2.3. Ý kiến của giáo viên:
Đa số các giáo viên đều có ý kiến rằng đây là một văn bản hay, có giá trị
nhưng khó tạo được sức cuốn hút cho HS vì là văn bản nghị luận. Đây lại là
văn bả._.đến” việc sưu tầm thơ văn của tiền nhân. Ông cũng ngầm
phê phán luật lệ quản lí hà khắc của nhà vua trong việc khắc in các tác phẩm
thơ văn....
+ Hoàng Đức Lương còn là một tri thức Nho học rất khiêm nhường.
Qua những lời lẽ của ông ở bài Tựa này, người đọc ngày nay còn biết được
lời ăn, tiếng nói vừa nhún nhường khiêm tốn, vừa sâu sắc của các nhà Nho
thời xưa: “Tôi không tự lượng sức mình, muốn sửa lại điều lối cũ... trách
nhiệm nặng nề mà tài hèn sức mọn... ở cuối các quyển ấy, mạn phép phụ thêm
mấy bài vụng về do tôi viết, cốt để làm sách dạy trong gia đình...” .Người
phương Đông thời trung đại thường hay khiêm nhường khi nói về mình như
vậy.
2.3. Tầng nghĩa thứ ba: Không khí thời đại
+ Bài Tựa này được tác giả viết vào năm 1497, vào thời vua Lê Thánh
Tông. Đây là thời kì phục hưng của nước Đại Việt sau cuộc kháng chiến
chống giặc Minh thắng lợi, trong đó có sự phục hưng về văn hóa. Thời đó có
thực trạng về “thơ văn không được lưu truyền hết ở đời”, có cả nhu cầu
thưởng thức văn thơ, nhu cầu sưu tầm biên soạn thơ văn của tiền nhân.
+ Qua bài Tựa này người đọc ngày nay còn biết thêm được quan niệm
của người ở thời trung đại về bản chất thẩm mĩ của thơ văn: “Đến như thơ văn
thì lại là sắc đẹp ngoài cả sắc đẹp, vị ngon ngoài cả vị ngon , không thể đem
mắt tầm thường xem, miệng tầm thườg mà nếm được.”. Nói theo cách nói của
ngày nay thì: Thơ văn là món ăn tinh thần cao cấp, có tính đặc thù, chỉ có
những người am tường thơ văn mới có thể cảm nhận được cái hay của nó. Vì
vậy, công việc truyền bá văn chương cũng đòi hỏi phải có những người có
83
học vấn, có tài năng, lòng yêu thơ văn, đức tính kiên trì, ý thức trách nhiệm...
và cần có cả điều kiện vật chất và sự ủng hộ của nhà cầm quyền...
Nhưng không thể đưa tất cả những gì nói ở trên vào bài dạy được,
chúng ta chỉ có thể tập trung vào hai nội dung chính của bài Tựa và mấy nét
về chân dung tác giả.
- Tính cấp thiết của việc biên soạn cuốn “Trích diễm thi tập”
+ Lí do khiến thơ văn không được lưu truyền hết ở trên đời.
+ Nhu cầu bức thiết của người muốn được học làm thơ.
- Quá trình biên soạn “Trích diễm thi tập” của tác giả.
- Vài nét về chân dung tác giả Hoàng Đức Lương.
Đó chính là định hướng dạy học văn bản Tựa của Hoàng Đức Lương.
II- Tiến trình dạy học
1. Tiếp xúc bước đầu với bài Tựa
1.1.Đọc văn bản và giả thích tên cuốn sách
- GV và HS đọc văn bản một lượt để tạo hứng thú bước vào giờ học.
- Trích diễm thi tập (Trích: Tuyển chọn, diễm: đẹp (diễm lệ), thi: thơ,
diễm thi: thơ hay): Công trình sưu tầm, biên soạn của Hoàng Đúc Lương về
những bài thơ hay từ thời Trần đến đầu thời Hậu Lê.
Tựa ( tự): Trình bày, thuyết minh. Tựa còn được gọi là “Lời nói đầu”
hay “Lời giới thiệu”.
Thể văn Tựa có hai đặc điểm:
- Luôn đặt ở đầu cuốn sách, nói rõ lí do và quá trình làm sách
- Thường thiên về văn nghị luận, đôi khi được kết hợp với tự sự mang
thêm sắc thái trữ tình.
Bài tựa’ Trích diễm thi tập” của Hoàng Đức Lương thiên về nghị luận,
có lập luận chặt chẽ và chất trữ tình hòa quyện vào chất nghị luận. Thực chất
đây là bài nghị luận thời cổ.
84
1.2. Giới thiệu tác giả
Hoàng Đức Lương sống ở thế kỉ XV, nguyên quán ở tỉnh Hưng Yên,
trú quán ở Hà Nội, đỗ tiến sĩ năm 1478, viết lời Tựa cuốn Trích diễm thi tập
vào năm 1497.
1.3. Kết cấu văn bản: Bài Tựa có kết cấu như sau:
Phần 1: Sự cấp thiết của việc sưu tầm thơ ca dân tộc
- “Thơ văn không đựoc lưu truyền hết ở trên đời là vì nhiều lí do”
- “Đức Lương học làm thơ...không khảo cứu vào đâu được”
Phần 2: Quá trình tác giả biên soạn” Trích diễm thi tập” và cấu tạo bộ sách
Phần 3: Thời điểm và tên tuổi, chức tước, quê quán người biên soạn (lạc
khoản).
2. Tìm hiểu nội dung và nghệ thuật bài Tựa
2.1. Tính cấp thiết của việc biên soạn Trích diễm thi tập
Gợi dẫn 1: Mạch lập luận của tác giả được bắt đầu từ việc trình bày
thực trạng di sản văn thơ bị thất truyền. Theo tác giả, có mấy nguyên nhân
khiến cho “thơ văn không được lưu truyền hết ở đời”?
Yêu cầu: Mở đầu bài Tựa Tiến sĩ Hoàng Đức Lương nói ngay đến một
thực trạng đáng buồn:” “Thơ văn không lưu truyền hết ở đời”. Tác giả trình
bày rõ ràng từng lí do một theo lối quy nạp (Đi từ những hiện tượng sự kiện
đến kết luận).
- Lí do thứ nhất: Thơ văn là món ăn tinh thần cao cấp, đặc thù, chỉ có
thi nhân mới cảm nhận được vẻ đẹp, vị ngon của nó.
- lí do thứ hai: Những bậc danh Nho làm quan to thì bận việc, các viên
quan nhàn tản chức thấp thì không để ý đến.
- Lí do thứ ba: Người thích thơ văn thì ngại công việc nặng nhọc, tài
lực kém cỏi, làm được nửa chừng rồi bỏ dở.
85
- Lí do thứ tư: Thơ văn thời Lí - Trần, nếu không được lệnh vua, không
giám khắc ván lưu hành.
Ngoài hai lí do trên còn hai lí do khác nữa
- “Trải qua mấy triều dại lâu dài” bản thảo “Tan nát, trôi chìm”
- Qua mấy lần binh lửa, bản thảo “Rách nát, tan tành”
Nói cách khác thời gian và chiến tranh đã hủy hoại sách vở
Gợi dẫn 2: Thực trạng đó đã khiến cho tác giả lâm vào tình huống như
thế nào?
Yêu cầu: Thực trạng trên đã khiến cho tác giả lâm vào tình hống rất bức xúc:
- “Đức Lương này học làm thơ, chỉ trông vào thơ bách gia đời nhà
Đường còn như thơ văn Lí, Trần thì không khảo cứu vào đâu được”.
- Do vậy mà tác giả rất đau xót vì lòng tự hào dân tộc bị tổn thương:
“Than ôi! Một nước văn hiến, xây dựng đã mấy trăm năm, chẳng lẽ không có
quyển sách nào có thể làm căn bản, mà phải tìm xa xôi để học thơ văn đời nhà
Đường. Như thế chả đáng thương xót lắm sao!” . Ở đây ta nhận thấy rõ ràng
đặc điểm văn nghị luận của Hoàng Đức Lương vừa lập luận chặt chẽ, vừa
đậm tính biểu cảm bằng những lời cảm thán chân thành, thiết tha.
Gợi dẫn 3: Hai điều trên được trình bày nối tiếp nhau trong bài Tựa đã
làm toát lên vấn đề gì?
Yêu cầu: Hai diều trên được trình bày nối tiếp nhau làm toát lên một
vấn đề: Tính cấp thiết của việc sưu tầm, biên soạn cuốn Trích diễm thi tập –
nghĩa là việc sưu tầm, biên soạn thơ văn của người xưa và người ngày nay đã
trở thành cấp thiết không thể trì hoãn được. Việc biên soạn cuốn sách vừa là
do nhu cầu của thời đại vừa là do nỗi bức xúc riêng của tác giả. Bởi thế tác
giả đã không thể không bắt tay ngay vào công việc.
2.2. Quá trình làm sách của tác giả.
86
Gợi dẫn 4: Tiến sĩ Hoàng Đức Lương đã làm cuốn Trích diễm thi tập
như thế nào? Kết quả ra sao?
Yêu cầu: Do thực trạng văn thơ bị thất tán như đã nói ở trên, khi bắt tay
vào làm sách, Hoàng Đức Lương đã gặp rất nhiều khó khăn: “Sách cũ không
còn bao nhiêu, trách nhiệm nặng nề mà tài hèn sức mọn, tìm quanh, hỏi khắp
nhưng số thơ thu lượm được cũng chỉ là một hai phần trong số muôn nghìn bài”
+ Bởi thế ông đã phải “thu lượm thêm thơ của các vị hiện đang làm
quan trong triều, chọn lấy bài hay, chia xếp theo từng loại... mạn phép phụ
thêm những bài vụng về do tôi viết”
+ Kết quả là làm được 6 quyển, đặt tên là Trích diễm ( Tuyển tập những
bài thơ hay). Đây là bộ sách sưu tầm, biên soạn những bài thơ hay của các tác
giả từ đời Trần đến đời Hậu Lê và thơ của chính Hoàng Đức Lương.
3. Tìm hiểu hình tượng tác giả
Gợi dẫn 5: Qua nội dung và lời lẽ ở bài Tựa này, anh ( chị) hình dung
được gì về chân dung tác giả Hoàng Đức Lương?
Yêu cầu: Qua bài Tựa, người đọc nhận thấy chân dung tác giả hiện lên
rất sinh động, chân thực và gần gũi. Đây là một trí thức Nho học thời Lê có
lòng yêu nước sâu sắc. Điều đó thể hiện ở tấm lòng và việc làm của ông đối
với di sản văn hóa của dân tộc.
- Trước hết ông có ý thức sâu sắc về nền văn hiến của dân tộc “Nước ta
từ nhà Lí, nhà Trần dựng nước đến nay vẫn có tiếng là nước văn hiến....lẽ nào
không có người hay”, “Than ôi! một nước văn hiến, xây dựng đã mấy trăm
năm chẳng lẽ không có quyển sách nào có thể làm căn bản (văn hiến là truyền
thống văn hóa lâu đời và tốt đẹp).
Nỗi đau xót trước thực trạng đó của ông thể hiện rõ ý thức độc lập dân
tộc của một trí thức Đại Việt.
87
- Bởi vậy mà ông có ý thức, trách nhiệm, thực sự tâm huyết với di sản
thơ văn của dân tộc. Ông không chỉ nêu ra vấn đề, bàn luận vấn đề đó, mà còn
là người trực tiếp thực hiện bộ sưu tầm, biên soạn thơ văn của người thời xưa
và người đương thời thành sách để lưu lại cho đời sau. Ông là người mở
đường để xây dựng nên truyền thống sưu tầm, biên soạn các hợp tuyển thơ
văn của dân tộc ta.
1.2. Thiết kế bài dạy học “Hiền tài là nguyên khí quốc gia”
I - Định hướng dạy học
Văn bia là thể loại rất quen thuộc trong văn học trung đại. Đây là lần
đầu tiên HS được tiếp xúc với thể loại này.
Bằng hệ thống lời gợi dẫn, GV sẽ hướng dẫn HS làm việc trên văn bản,
giúp các em hiểu được nội dung của bài Văn bia:
- “Hiền tài là nguyên khí quốc gia”
- Chính sách trọng đãi người tài của triều đại Lê Thánh Tông
- Lợi ích của việc dựng tấm bia đá
Đồng thời cũng khơi gợi cho HS phát hiện ra những nét độc đáo trong
nghệ thuật kết cấu, lập luận, ngôn ngữ của tác giả.
II – Tiến trình dạy học
1. Tiếp xúc bước đầu với tác phẩm
a) Đọc văn bản và giải thích từ ngữ
- Đọc toàn bộ văn bản, giọng đọc nghiêm cẩn, thể hiện được ý kiến của
tác giả về vai trò quan trọng của hiền tài đối với quốc gia, về chính sách trọng
đãi nhân tài của triều đại Lê Thánh Tông, về ý nghĩa của việc khắc bia tiến sĩ.
- Mặc dù SGK đã chú giải đầy đủ các từ khó, GV vẫn phải giải thích
cặn kẽ câu “Hiền tài là nguyên khí quốc gia”: “Hiền tài” là người có tài cao,
học rộng và có đạo đức. Nguyên khí là khí chất ban đầu làm nên sự sống còn
và phát triển của sự vật. Ở đây câu văn ấy có ý nghĩa là: Người có tài cao, học
88
rộng và có đạo đức có quan hệ sống còn với sự thịnh suy của đất nước. Câu
nói này thể hiện một nhận thức đúng đắn về vai trò quan trọng của người tài
đối với quốc gia, thể hiện thái độ quý trọng người tài.
b) Giới thiệu tác giả, tác phẩm
- Thân Nhân Trung (1418- 1499), người Bắc Giang, đỗ tiến sĩ năm
1469, nổi tiếng văn chương, được vua Lê Thánh Tông tin dùng.
- Bài kí đề danh tiến sĩ khoa Nhâm Tuất, niên hiệu Đại Bảo thứ ba được
Thân Nhân Trung viết năm 1484 thời Hồng Đức, đặt ở Văn Miếu (Hà Nội).
Văn bia là những bài văn khắc trên bia đặt ở chùa chiền, đền miếu,
lăng mộ... để ghi công tích các bậc danh nhân, anh hùng hoặc các sự kiện
quan trọng, thường được viết bằng văn xuôi ( chữ Hán).
2. Tìm hiểu cấu trúc văn bản
Gợi dẫn 1: văn bản đoạn trích có mấy ý và các ý đó liên kết với nhau
như thế nào?
Yêu cầu:
- Mở đầu tác giả khẳng định vai trò quan trọng của người có tài cao,
đức trọng đối với quốc gia.
- Vì nhận thức rõ nên triều đình (Thời Lê Thánh Tông) đã thực thi
chính sách trọng hiền tài (đặt lễ xướng danh, ban mũ áo, đãi yến, làm lễ vinh
quy bái tổ cho những người đỗ đạt cao).
- Song, “ban ân rất lớn mà vẫn cho là chưa đủ”, cho nên nhà vua cho
khắc bia tiến sĩ, đặt ở Văn Miếu để khích lệ “kẻ sĩ” “rèn luyện danh tiết, gắng
sức giúp vua”, “ra sức báo đáp”, sự “đề cao rất mực” của triều đình.
Như vậy, “việc dựng tấm bia đá này ích lợi rất nhiều: kẻ ác lấy đó là
răn, người thiện theo đó mà gắng”.
3. Tìm hiểu “Hiền tài là nguyên khí quốc gia”
89
Gợi dẫn 2: Thân Nhân Trung viết: “Hiền tài là nguyên khí của quốc
gia”.Anh ( chị) hiểu câu nói đó như thế nào? Các vua chúa anh minh ngày xưa
có nhận thức rõ mối quan hệ giữa hiền tài với quốc gia không?
Yêu cầu:
- Câu nói của Thân Nhân Trung thể hiện rõ nhận thức của ông về vai
trò quan trọng của hiền tài đối với sựu tồn vong và thịnh suy của đất nước:
“Nguyên khí mạnh thì thế nước mạnh, rồi lên cao, nguyên khí suy thì thế
nước yếu, rồi xuống thấp”. Tác giả giải thích rõ ràng, khúc triết, lời lẽ mang
tính khẳng định cao.
- Để chứng minh cho luận điểm đó của mình, tác giả nêu ra một vài dẫn
chứng: “Vì vậy các đấng thánh đế minh vương chẳng ai không lấy việc bồi
dưỡng nhân tài, kén chọn kẻ sĩ, vun trồng nguyên khí làm việc đầu tiên. Kẻ sĩ
quan hệ với quốc gia trọng đại như thế” cho nên “ban ân rất lớn mà vẫn cho là
chưa đủ”. Lập luận như vậy là rất chặt chẽ.
4. Tìm hiểu chính sách trọng đãi nhân tài của triều đại Lê Thánh Tông
Gợi dẫn 3: Theo Thân Nhân Trung thì triều đình nhà Lê thời đại Lê
Thánh Tông đà làm những gì và đang làm những gì để thể hiện sự trọng đãi
nhân tài?
Yêu cầu:
- “Triều đình mừng được người tài không có việc gì là không làm đến
mức cao nhất": “nêu tên ở tháp Nhạn, ban cho danh hiệu Long hổ, bày tiệc
Văn hỉ”. Sử sách đã cho ta biết: Từ năm 1439, nhà nước phong kiến triều Lê
đặt ra lệ xướng danh, yết bảng, ban mũ áo, cấp ngựa, đãi yến và vinh quy bái
tổ cho những người đỗ đạt cao để khuyến khích nhân tài, phát triển nền giáo
dục nước nhà.
- “Tuy vậy, thánh minh lại cho rằng chuyện hay, việc tốt( (...) chưa đủ
lưu vẻ sáng lâu dài, cho nên lại dựng đá đề danh đặt ở Hiền quan”, mục đích
90
là “khiến cho kẻ sĩ trong vào mà phấn chấn hâm mộ, rèn luyện danh tiết, gắng
sức giúp vua”.
5. Tìm hiểu lợi ích của việc dựng tấm bia đá
Gợi dẫn 4: Thân Nhân Trung đã đưa ra những lí lẽ và dẫn chứg nào để
nói rõ lợi ích của việc dựng tấm bia đá ghi tên tiến sĩ? Lời van và cách lập
luận ở đây khác với đoạn trên ở điểm nào?
Yêu cầu:
- Để làm rõ lợi ích của việc dựng tấm bia đá khắc tên hiền tài, tác giả
đưa ra những lí lẽ và dẫn chứng sau:
+ Dựng bia đá để làm cho “kẻ sĩ chốn trường ốc lều tranh, phận thật
nhỏ mọnmà được triều đình đề cao rất mực như thế, thì họ phải làm thế nào
để tự trọng tấm thân mà ra sức báo đáp”. Lí lẽ này được thể hiện bằng câu văn
cảm thán nên có tác dụng gợi cảm xúc rất lớn.
+ Dẫn chứng thực tế: Có người đỗ “đã đem văn học, chính sự ra tô
điểm cho cảnh trị bình ( ...), được quốc gia tin dùng”. Nhưng cũng có “Những
kẻ vì nhận hối lộ mà hư hỏng hoặc rơi vào hàng ngũ bọn gian ác, có lẽ vì lúc
còn sống họ chưa được nhìn tấm bia này”.
+ Từ lí lẽ và dẫn chứng đó, tác giả kết luận : “Thế thì việc dựng tấm bia
đá này ích lợi rất nhều: kẻ ác lấy đó làm răn, người thiện theo đó mà gắng,
dẫn việc dĩ vãng, chỉ lối tương lai, vừa để rèn rũa danh tiếng cho sĩ phu, vừa
để củng cố mệnh mạch cho nhà nước”.
- Nếu như ở đoạn trên, tác giả lập luận theo lối diễn dịch, thì ở đoạn
này, ông lại lập luận theo lối quy nạp. Đoạn văn dùng nhiều câu cảm thán
(“Ôi, kẻ sĩ...”) và câu nghi vấn (“ví thử hồi đó...nảy sinh như vậy được?”)..
Cách diễn đạt của tác giả (qua bản dịch). rất đậm tính dân tộc: “ví thử hồi
đó...thế thì...Thánh thần đặt ra đâu phải là vô dụng”.
91
6. Khắc sâu ấn tượng về tác phẩm
Gợi dẫn 5: Từ thời Lê ( Hậu Lê), ông cha ta đã có chính sách trọng đãi
người tài như vậy. Ngày nay Đảng và nhà nước ta đang phát huy truyền thống
đó của ông cha. Anh( chị) có suy nghĩ, đề xuất gì với Nhà nước về chính sách
trọng đãi người tài?
Yêu cầu:
HS trao đổi, thảo luận tự do
92
2. Thực nghiệm sƣ phạm
2.1. Mục đích, ý nghĩa của thực nghiệm sƣ phạm
Muốn đánh giá được hiệu quả của một phương án dạy học nào đó thì
phải dựa vào kết quả trong quá trình hoạt động thực tiễn của nó. Nghĩa là
phương án dạy học đó phải đựơc đem ra thực dạy trong nhà trường. Vì thế
thực nghiệm sư phạm là một khâu quan trọng giúp chúng tôi kiểm tra, đánh
giá được tính khả thi của đề tài nghiên cứu. Hơn nữa, qua quá trình thực
nghiệm chúng tôi có thể sửa chữa, bổ sung để hoàn thiện phương án dạy học
Tựa và Văn bia theo đặc trưng thể loại.
2.2. Đối tƣợng và địa bàn thực nghiệm
- Đối tượng thực nghiệm: Hai văn bản Tựa “Trích diễm thi tập” và
“Hiền tài là nguyên khí quốc gia” nằm trong chương trình Ngữ văn lớp 10,
bởi vậy đối tượng thực nghiệm đề tài nghiên cứu của chúng tôi chính là học
sinh lớp 10.
- Địa bàn thực nghiệm: khi bắt tay vào thực hiện đề tài, chúng tôi luôn
tâm nguyện đề tài của chúng tôi sẽ được đem đến thực nghiệm ở nhiều địa
bàn khác nhau với các đối tượng học sinh lớp 10 ở những môi truờng văn hóa
khác nhau. Thế nhưng, vì điều kiện thời gian không cho phép nên chúng tôi
chỉ có thể thực ngiệm ở một số trường THPT trên địa bàn tỉnh Bắc Kạn:
Trường THPT thị trấn Nà Phặc – Huyện Ngân Sơn- Tỉnh Bắc Kạn.
Trường THPT thị trấn Chợ Mới- Huyện Chợ Mới – Tỉnh Bắc Kạn.
Mỗi trường chúng tôi chọn ra hai lớp , một lớp thực nghiệm, một lớp
đối chứng.
Danh sách cụ thể các lớp như sau:
Trường THPT thị trấn Nà Phặc:
Lớp thực nghiệm: 10A ( Sĩ số: 45, Giáo viên dạy: Chu Thị Hội)
93
Lớp đối chứng : 10B ( sĩ số: 45, giáo viên dạy: Chu Thị Hội)
Trường THPT thị trấn Chợ Mới:
Lớp thực nghiệm: 10A1 ( Sĩ số 44, giáo viên dạy: Hoàng Thị Hồng)
Lớp đối chứng: 10 A2 ( sĩ số 45, giáo viên dạy: Hoàng Thị Hồng)
Nhận xét chung
- Về phía GV: Hai giáo viên tham gia thực nghiệm đều là hai giáo viên
tâm huyết với nghề, có tay nghề vững vàng.
- Về phía HS: Hai trường mà chúng tôi lựa chọn để thực nghiệm đều có
điều kiện văn hóa xã hội tương đương nhau. Vì thế, về năng lực nhận thức và
nề nếp học tập của học sinh giữa hai trường không có sự chênh lệch đáng kể.
Kết quả học tập của số học sinh thuộc hai lớp 10 của hai trường trên được
đánh giá là tương đương nhau.
2.3. Phƣơng pháp tiến hành thực nghiệm
Quá trình thực nghiệm được tiến hành như sau
- Thiết kế bài giảng phục vụ cho hoạt động dạy học về hai loại văn bản:
Tựa “Trích diễm thi tập” của Hoàng Đức Lương và “ Hiền tài là nguyên khí
quốc gia” của Thân Nhân Trung theo đặc trưng thể loại.
- Trao đổi với các GV tham gia thực nghiệm, tìm hiểu đặc điểm của
HS ở lớp thực nghiệm và lớp đối chứng.
Mỗi tiết thực nghiệm, chúng tôi bắt đầu lần lượt bằng các thao tác sau:
+ Trao đổi để các GV nắm rõ về mục đích, ý nghĩa và cách thức tiến
hành thực nghiệm trong từng bài. Phân tích chỗ khác nhau của phương án
dạy học hai loại văn bản này theo đặc trưng thể loại với các phương án dạy
học khác, chỉ rõ phương pháp cần thực hiện. Dự kiến cách giải quyết những
tình huống gặp phải trong giờ dạy học.
+ Đưa bản thiết kế bài dạy cho các GV nghiên cứu trước, tiếp thu
những ý kiến tích cực từ phía các GV để bổ sung hoàn chỉnh bản thiết kế.
94
+ Trao phiếu điều tra cho GV lớp thực nghiệm và lớp đối chứng để tổ
chức cho HS thực nghiệm đối chứng.
+ Quan sát quá trình hoạt động dạy học của GV và HS ở trên lớp để
thấy rõ hơn khả năng thực hiện phương án dạy học này của GV và cũng như
khả năng tiếp nhận văn bản của HS.
+ Chúng tôi cũng quan sát quá trình thực hiện các yêu cầu trong phiếu
điều tra để đảm bảo tính khách quan của kết quả điều tra. Sau đó thu lại phiếu
điều tra để tổng hợp kết quả.
Cuối cùng là gặp gỡ trao đổi với các GV về những thận lợi và khó khăn
trong quá trình thực hiện thiết kế bài giảng thực nghiệm. Đồng thời gặp gỡ
trao đổi với HS .
2.4. Nội dung thực nghiệm
Chúng tôi thiết kế hai giáo án thử nghiệm về hai loại văn bản: Tựa và
Văn Bia trong chương trình Ngữ văn 10. Cụ thể:
Giáo án 1: Tiết 63: Văn bản: Tựa “ Trích diễm thi tập” của Hoàng Đức
Lương ( SGK Ngữ văn 10 , tập 2)
Giáo án 2: Tiết 64: Đọc thêm văn bản: “ Hiền tài là nguyên khí quốc
gia” của Thân Nhân Trung ( SGK Ngữ văn 10, tập 2)
Thiết kế giáo án của chúng tôi dựa trên nguyên tắc : Luôn hướng tới
mục đích của việc thực hiện đề tài, đó là: Giúp thầy trò THPT tiếp cận hai
loại văn bản mới được đưa vào giảng dạy trong nhà trường ( Tựa và Văn Bia)
theo đặc trưng thể loại, tạo thuân lợi cho HS hoạt động để có hiệu quả hơn
trong giờ học. Chính vì vậy mà mục tiêu quan trọng nhất của phương án
chúng tôi chính là giúp thầy trò THPT tiếp cận hai loại văn bản này từ góc độ
thể loại mà khám phá được giá trị đích thực về nội dung và nghệ thuật của
văn bản.
95
Quá trình thực nghiệm diễn ra như trong thiết kế đã được trình bày ở
phần 1 của chương này.
2.5. Đánh giá kết quả thực nghiệm
* Mục đích của việc đánh giá
Chúng tôi tiến hành đánh giá kết quả thực nghiệm để thấy được:
- Hiệu quả của phương án dạy học hai loại văn bản Tựa và Văn bia theo
đặc trưng thể loại.
- Cách thức tiến hành dạy học tác phẩm văn chương theo đặc trưng thể
loại trong nhà trường.
- Tác dụng của giáo án thực nghiệm
Phương pháp đánh giá
Tổmg hợp kết quả nhận thức và kĩ năng của HS qua bài kiểm tra viết
trắc nghiệm và kiểm tra bằng câu hỏi phát vấn tại lớp.
* Nội dung đánh giá
Để đánh giá kết quả nhận thức của HS qua bài học, chúng tôi nêu ra hệ
thống câu hỏi với nội dung bám sát những kiến thức mà các em vừa được học.
96
THỐNG KÊ KẾT QUẢ THỰC NGHIỆM
- Thống kê kết quả thực nghiệm giáo án: Tựa “ Trích diễm thi tập” của
Hoàng Đức Lương.
+ Trƣờng THPT Nà Phặc - Ngân Sơn – Bắc Kạn
Kết quả
Trả lời
Tốt
Đạt yêu cầu
Yếu kém
Thể nghiệm Đối
chứng
Thể
nghiệm
Đối
chứng
Thể
nghiệm
Đối
chứng
Số HS 17/45 10/45 23/45 27/45 5/45 8/45
Tỉ lệ% 37,7 22,2 51,1 60 11,1 17,7
+ Trƣờng THPT Chợ Mới – Chợ Mới – Bắc Kạn
Kết quả
Trả lời
Tốt
Đạt yêu cầu
Yếu kém
Thể
nghiệm
Đối
chứng
Thể
nghiệm
Đối
chứng
Thể
nghiệm
Đối
chứng
Số HS 15/44 9/45 25/44 29/45 4/44 7/45
Tỉ lệ% 34,1 20 56,8 64,4 9 15,5
- Thống kê kết quả thực nghiệm giáo án: “ Hiền tài là nguyên khí quốc gia”
Thân Nhân Trung.
97
+ Trƣờng THPT Nà Phặc – Ngân Sơn – Bắc Kạn
Kết quả
Trả lời
Tốt
Đạt yêu cầu
Yếu kém
Thể
nghiệm
Đối
chứng
Thể
nghiệm
Đối
chứng
Thể
nghiệm
Đối
chứng
Số HS 16/45 9/45 26/45 24/45 3/45 12/45
Tỉ lệ% 35,5 20 57,75 53,3 6,6 26,6
+ Trƣờng THPT Chợ Mới – Chợ Mới – Bắc Kạn
Kết quả
Trả lời
Tốt
Đạt yêu cầu
Yếu kém
Thể
nghiệm
Đối
chứng
Thể
nghiệm
Đối
chứng
Thể
nghiệm
Đối
chứng
Số HS 14/44 8/45 26/44 22/45 4/44 15/45
Tỉ lệ% 31,8 17,7 59,1 48,8 10 33,3
98
2.6. Kết luận chung về thực nghiệm
Trong khoảng thời gian cho phép, chúng tôi đã tiến hành thực nghiệm
được bốn tiết học với hai thiết kế giáo án của chúng tôi. Với số lượng giờ thực
nghiệm còn hạn chế và địa bàn thực nghiệm chưa thật phong phú như vậy,
chưa thể khẳng định hoàn toàn sự thành công của đề tài mà chúng tôi nghiên
cứu. Tuy vậy, qua việc đối chứng, đề tài nghiên cứu này đã đem lại kết quả
khả quan giúp chúng tôi vững tin vào khả năng ứng dụng đề tài vào thực tế
dạy học.
Qua quá trình thực nghiệm, chúng tôi nhận thấy:
- Đối với giáo viên: Khi tiến hành thực thi giáo án do chúng tôi thiết kế,
giáo viên cả hai trường không gặp phải bất kì trở ngại nào. Các yêu cầu mà
thiết kế chúng tôi đề ra đều được các giáo viên thực hiện tốt. Thời gian thực
hiện mỗi giáo án thiết kế của các giáo viên là đúng 45 phút. Các phần trong
bài học được thực hiện theo trình tự, lô gích chặt chẽ làm nổi bật được trọng
tâm của từng phần và từng bài học. Đặc biệt, mỗi bài học đã thể hiện được sự
vận dụng phương pháp dạy học văn hiện đại, thầy giáo có vai trò điều khiển,
hướng dẫn HS khám phá giá trị tác phẩm văn chương và hình thành phương
pháp, kĩ năng...
- Đối với HS: Hệ thống lời gợi dẫn dễ hiểu, hợp lí mà chúng tôi đưa ra
trong thiết kế đã tạo được không khí sôi nổi trong giờ học. HS luôn tích cực,
chủ động khám phá từng đơn vị kiến thức rồi khái quát thành kĩ năng ,phương
pháp... Điểm đặc biệt mà thiết kế của chúng tôi đem lại là phần nào đã tạo
được hứng thú cho HS khi tiếp nhận hai loại văn bản này.
- Kết quả thể nghiệm: Bảng thống kê kết quả thể nghiệm đã cho thấy rõ
số bài làm của HS đạt kết quả tốt tăng lên đáng kể, đồng thời số bài làm của
HS bị yếu kém giảm xuống. Đây chính là sự đánh giá khách quan kết quả đề
tài chúng tôi đem lại.
99
Kết quả bước đầu như vậy đã cho thấy tính khả quan của việc ứng dụng đề
tài: Dạy học văn bản Tựa và Văn Bia theo đặc trưng thể loại vào thực tế. Tuy
nhiên, để phương án dạy học này đem lại kết quả như mong muốn đòi hỏi mỗi
GV bộ môn phải nỗ lực rất nhiều trong việc nâng cao trình độ chuyên môn,
nghiệp vụ sư phạm...luôn tâm huyết với nghề và linh hoạt trong việc vận dụng
các phương pháp dạy học.
100
KẾT LUẬN
Trong cuốn “Dạy học tác phẩm văn chương theo đặc trưng thể loại”
của GS. Trần Thanh Đạm có ghi: “Giảng dạy tác phẩm văn chương theo đặc
trưng thể loại chính là một phương diện lớn của việc giảng dạy tác phẩm
trong sự thống nhất giữa hình thức và nội dung, một sự giáo dục đi đúng với
quy luật và bản chất của văn học, đồng thời đảm bảo hiệu quả giáo dục cao
nhất”.
Như vậy, dạy học tác phẩm văn chương theo đặc trưng thể loại có vai
trò vô cùng quan trọng trong quá trình đến được với những giá trị đích thực
của hình thức và nội dung tác phẩm văn chương, đồng thời luôn đảm bảo tính
giáo dục.Tách rời tác phẩm văn chương khỏi thể loại với nhưng đặc trưng
riêng của nó sẽ dẫn tới việc đánh giá thiên lệch về giá trị của tác phẩm.
Luận văn của chúng tôi được thực hiện trên cơ sở của sự nhận thức
đúng đắn về việc vận dụng quan điểm trên vào quá trình dạy- học các văn
bản văn học nói chung và dạy học văn bản thuộc thể Tựa và thể Văn bia nói
riêng.
1) Vấn đề được nêu ra ở luận văn này là: Dạy học hai văn bản Tựa và
Văn bia theo đặc trưng thể loại
Định hướng dạy học tác phẩm văn học theo đặc trưng thể loại là định
hướng dạy học lấy đặc trưng thể loại làm xuất phát điểm để đến với giá trị
đích thực về nội dung và nghệ thuật của tác phẩm. Hai loại văn bản: Tựa và
Văn bia thuộc lối văn nghị luận thời trung đại, nó có những nét đặc trưng
riêng về hình thức nghệ thuật, quy định nội dung phản ánh. Vì thế, nó đòi hỏi
phải được tiếp cận phù hợp với đặc trưng thể loại và cách tổ chức HS chiếm
lĩnh bằng những phương pháp phù hợp. Luận văn của chúng tôi có nhiệm vụ
giải quyết vấn đề đó.
101
2) Trong quá trình nghiên cứu và thực hiện luận văn, chúng tôi đã cố
gắng giải quyết vấn đề được nêu như sau:
- Xác định cơ sở lí luận của việc dạy học văn bản thuộc thể Tựa và thể
Văn bia theo đặc trưngthể loại. Bao gồm:
+ Những điểm mới trong chương trình và SGK ( Từ năm học 2002 -
2003 đến năm học 2008 - 2009).
+ Đặc trưng thể loại Tựa
+ Đặc trưng thể loại Văn bia
- Xác định cơ sở lí luận của việc dạy học văn bản thuộc thể Tựa và thể
Văn bia theo đặc trưng thể loại:
+ Thực tiễn dạy – học văn bản Tựa “Trích diễm thi tập” trong SGK
Ngữ văn 10.
+ Thực tiễn dạy – học văn bản Hiền tài là nguyên khí quốc gia trong
SGK Ngữ văn 10.
- Luận văn đã tìm hiểu hầu hết các phươngg án của các nhà sư phạm đề
xuất về hai văn bản này( tường thuật trung thành các phương án dạy học văn
bản Tựa “Trích diễm thi tập” và văn bản Hiền tài là nguyên khí quốc gia trong
SGK Ngữ văn 10 và nhận xét về các phương án mà các nhà sư phạm đưa ra):
+ Phương án dạy học Tựa “Trích diễm thi tập” của hoàng Đức Lương
trong SGV Ngữ văn10 ( bộ chuẩn và bộ nâng cao).
+ Phương án dạy học Tựa “Trích diễm thi tập” của nhà giáo Phạm Thu
Hương
+ Phương án dạy học Tựa “Trích diễm thi tập” của TS . Nguyễn Văn Đường
+ Phương án dạy học Tựa “Trích diễm thi tập” của TS . Nguyễn Hải Châu
+ Phương án dạy học văn bản Hiền tài là nguyên khí quốc gia trong
SGV Ngữ văn 10 ( bộ chuẩn)
102
+ Phương án dạy học văn bản Hiền tài là nguyên khí quốc gia của TS
Nguyễn Văn Đường
3) Kết quả từ quá trình “Thực nghiệm sư phạm” đã cho thấy rõ những
ưu điểm của phương án dạy học trong luận văn của chúng tôi và tính khả thi
của việc vận dụng đề tài nghiên cứu vào thực tiễn dạy học.Tuy vậy, luận văn
này vẫn có những hạn chế mà chúng tôi chưa khắc phục đựợc: Vì chương
trình và SGK mới vừa mới thực thi được hai năm nên việc tìm hiểu tình hình
dạy học hai văn bản này chưa thật sự đầy đủ như chúng tôi mong muốn; việc
khảo sát khả năng tiếp nhận của thầy – trò ở vùng núi chúng tôi còn hạn chế
về nhiều mặt; đề tài chưa có điều kiện tổ chức thực nghiệm được nhiều. Hơn
nữa, để những ưu điểm của phương án dạy học văn bản thuộc thể Tựa và thể
Văn bia theo đặc trưng thể loại thật sự phát huy hiệu quả còn phụ thuộc rất
nhiều vào năng lực vận dụng và mức độ linh hoạt của mỗi GV. Chúng tôi hy
vọng rằng, với những kết quả đạt được từ phương án dạy học này, các giáo
viên sẽ có được những kinh nghiệm khoa học bổ ích cho việc tiếp cận tác
phẩm văn chương trong nhà trường.
4) Đề tài nghiên cứu của luận văn chúng tôi là đề tài mở: Cách nghiên
cứu được thực thi ở luận văn này đối với hai thể loại Tựa và Văn bia có thể
mở rộng để thực hiện với các thể loại khác, vừa mới được đưa vào chương
trình (sử kí, bình sử...) . Sau này nếu có điều kiện chúng tôi tiếp tục mở rộng
đề tài./.
103
THƢ MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Giáo dục và Đào tạo – SGV Ngữ văn 10, tập 1 (bộ chuẩn). NXB Giáo
dục, 2006.
2. Bộ Giáo dục và Đào tạo – SGK Ngữ văn 10, tập 2 (bộ chuẩn). NXB Giáo
dục, 2006.
3. Bộ Giáo dục và Đào tạo – SGK Ngữ văn 10, tập 1 (bộ nâng cao). NXB
Giáo dục,2006.
4. Bộ Giáo dục và Đào tạo – SGK Ngữ văn 10, tập 2 (bộ nâng cao). NXB
Giáo dục, 2006.
5. Bộ Giáo dục và Đào tạo – SGV Ngữ văn 10, tập 2 (bộ chuẩn). NXB Giáo
dục, 2006.
6. Bộ giáo dục và Đào tạo – SGV Ngữ văn 10, tập 2 ( bộ nâng cao). NXB
Giáo dục, 2006.
7. Hoàng Hữu Bội – Thiết kế dạy học Ngữ văn 10. NXB Giáo dục, 2006.
8. Nguyễn Hải Châu (chủ biên) – Giới thiệu giáo án Ngữ văn 10. NXB Hà
Nội, 2006.
9. Trần Thanh Đạm – Giảng dạy tác phẩm văn chương theo đặc trưng thể
loại. NXB ...
10. Nguyễn Văn Đường (chủ biên) – Thiết kế bài giảng Ngữ văn 10. NXB Hà
Nội, 2006.
11. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi – Từ điển thuật ngữ văn học.
NXB Giáo dục,1999.
12. Nguyễn Trọng Hoàn – Rèn luyện tư duy sáng tạo trong dạy học tác phẩm
văn chương. NXB Giáo dục, 2001
13. Nguyễn Phạm Hùng – Văn học Lí – Trần nhìn từ góc độ thể loại. NXB
Giáo dục,1996.
104
14. Phan Trọng Luận – Văn chương bạn đọc sáng tạo. NXB Đại học quốc gia
Hà Nội, 2003.
15.Phan Trọng Luận (chủ biên) – Thiết kế bài học Ngữ văn 10. NXB Giáo
dục, 2006.
16. Trần Đình Sử – Mấy vấn đề thi pháp văn học trung đại Việt Nam. NXB
Giáo dục, 1999.
17. Nguyễn Khắc Phi ( chủ biên) – Phân tích, bình giảng tác phẩm văn học
10. NXB Giáo dục, 2006.
18. Trần Nho Thìn (chủ biên) – Phân tích tác phẩm Ngữ văn 10. NXB Giáo
dục, 2007.
19. Lê Trí Viễn – Ngữ văn Hán Nôm. NXB...
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LA9074.pdf