BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
NGUYỄN THỊ BẢO THU
Chuyên ngành : Lý luận và phương pháp dạy học môn văn
Mã số : 60 14 10
LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS. LÊ THU YẾN
Thành phố Hồ Chí Minh – 2007
LỜI CẢM ƠN
Với tình cảm chân thành, tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn đến quý thầy, cô giáo
tham gia giảng dạy lớp Cao học Phương pháp Giảng dạy Khóa 15, của quý thầy cô
Phòng Khoa học Công nghệ - Sau Đại học, trường Đại họ
99 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2344 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Dạy đọc hiểu tác phẩm văn chương và vận dụng vào các đoạn trích truyện kiều trong chương trình ngữ văn 10 năm 2006 - 2007, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
c Sư phạm Thành phố Hồ
Chí Minh, lãnh đạo Sở Giáo dục và Đào tạo Tiền Giang, đã tận tình giúp đỡ, hợp
tác, tạo điều kiện cho tác giả trong quá trình học tập và hoàn thành luận văn này.
Cho phép tôi được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến PGS.TS. Lê Thu Yến,
người đã hết lòng giúp đỡ và hướng dẫn tận tình cho tôi trong suốt quá trình làm
luận văn tốt nghiệp.
Dù đã có nhiều cố gắng trong quá trình thực hiện, song chắc chắn rằng luận
văn này sẽ không thể tránh khỏi một vài thiếu sót. Tác giả rất mong nhận được sự
góp ý của quý Thầy Cô và các bạn đồng nghiệp.
TP.HCM, tháng 8 năm 2007
Tác giả luận văn
Nguyễn Thị Bảo Thu
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 3.1. Bài Trao Duyên......................................................................... 111
Bảng 3.2. Tổng hợp so sánh kết quả giữa thực nghiệm và đối chứng ...... 111
Bảng 3.3. Bài Nỗi thương mình ................................................................ 112
Bảng 3.4. Tổng hợp so sánh kết quả giữa thực nghiệm và đối chứng ...... 112
Bảng 3.5. Bài Chí khí anh hùng ................................................................ 113
..........................................................................................................
Bảng 3.6. Tổng hợp so sánh kết quả giữa thực nghiệm và đối chứng ...... 113
Bảng 3.7. Tổng hợp kết quả ba bài thực nghiệm và thực nghiệm đối chứng
................................................................................................... 114
Bảng 3.8. Tổng hợp so sánh kết quả giữa ba bài thực nghiệm
và đối chứng.............................................................................. 114
Bảng 3.9. Xếp loại đánh giá kết quả ba bài thực nghiệm và đối chứng ... 115
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Hiện nay, nhiều ý kiến đang phê bình về công việc dạy-học văn trong nhà
trường như học sinh ngày càng chán học văn, sợ học văn, học văn theo mẫu. Đồng
thời học sinh còn quá nhiều sai sót về dùng từ, diễn đạt, chưa cảm nhận được cái hay
cái đẹp của tác phẩm văn chương... Học sinh học văn chỉ học theo sự áp đặt của giáo
viên….
Có thể thấy nguyên nhân chủ yếu xuất phát từ cách dạy của giáo viên. Những
thiếu sót đầu tiên của giáo viên như chưa chú trọng rèn luyện cách đặt câu, sử dụng
từ, sửa lỗi chính tả cho học sinh, chưa chú ý đến đặc trưng thể loại khi phân tích tác
phẩm văn học. Giáo viên chưa thực hiện tốt chức năng nhiệm vụ của môn văn. Thứ
hai, người giáo viên dạy theo phương pháp thuyết giảng. Lên lớp, giáo viên chỉ giảng
dạy theo bài soạn, nói thay, làm thay, cảm thụ thay những cái hay cái đẹp của tác
phẩm văn chương cho học sinh. Học sinh chỉ có nhiệm vụ ghi chép lại, học thuộc rồi
làm bài. “Học sinh lâu nay chỉ được coi là một khách thể tiếp thụ của giáo viên”[21,
tr.250]. Từ đó sẽ dẫn đến thói quen lười suy nghĩ, lười tư duy, thiếu sáng tạo. Có thể
thấy hiện nay, giáo viên văn chưa tìm ra một phương pháp dạy học thích hợp mặc dù
trong thời gian qua Bộ giáo dục (BGD) đã kêu gọi “đổi mới phương pháp, cải tạo
phương pháp; dạy học phải phát huy được tính tích cực chủ động sáng tạo của học
sinh..” [Trích nghị quyết Trung Ương lần thứ 4 về “Tiếp tục đổi mới sự nghiệp giáo
dục và đào tạo”]
Các nhà nghiên cứu phương pháp cũng đã nghiên cứu nhiều phương pháp dạy
học tích cực như dạy học nêu vấn đề, dạy theo thể loại... Tuy nhiên vấn đề đó chỉ
dừng lại ở mức độ lý thuyết chứ chưa phải là những thực hành cụ thể cho giáo viên.
Một số giáo viên giỏi cũng đang tìm cách đổi mới phương pháp dạy học để tạo hứng
thú cho học sinh nhưng kết quả cũng không cao.
Hiện nay, nhìn chung các nhà phương pháp ở các trường sư phạm vẫn chưa
xác lập một hệ thống năng lực và kĩ thuật dạy học văn cho giáo sinh. Vì vậy việc
giảng dạy lý thuyết về phương pháp dạy học văn vẫn còn chơi vơi, chưa định hướng
vào mục tiêu cụ thể. Trong khi Bộ giáo dục cũng chưa có một tài liệu hoàn chỉnh,
đồng bộ cả về lý thuyết lẫn thực hành để hướng dẫn giáo sinh sư phạm bồi dưỡng
năng lực và kĩ năng dạy-học Văn.
Từ những thực trạng trên thì yêu cầu bức thiết đặt ra cho việc đổi mới phương
pháp và tìm ra một phương pháp dạy học văn thích hợp.
Thứ nhất xuất phát từ nghị quyết TW lần thứ tư về "Tiếp tục đổi mới sự nghiệp
giáo dục và đào tạo” tháng 1-1993 chỉ rõ “xác định lại mục tiêu, thiết kế lại chương
trình, kế hoạch nội dung phương pháp giáo dục và đào tạo”.
Thứ hai xuất phát từ thực tiễn của nhân loại. Bước sang thế kỉ XXI là thời đại
của công nghệ thông tin, thời đại mà hệ thống tri thức phát triển như vũ bão, lượng
thông tin ngày càng tăng vọt mà với điều kiện về trí nhớ, thời gian không cho phép
con người nắm hết bằng các phương pháp học truyền thống nữa. Nó đòi hỏi con
người phải có cách nắm bắt tri thức, nắm bắt thông tin một cách năng động và sáng
tạo. Con người phải có phương pháp tự học, tự nắm bắt thông tin. Điều đó cũng đòi
hỏi nhà trường phải thay đổi phương pháp dạy cũ bằng một phương pháp dạy học
phát huy được tính tích cực chủ động sáng tạo của học sinh. Dạy học là dạy cho học
sinh về phương pháp nghiên cứu, phương pháp tự nắm bắt thông tin chứ không phải
dạy cho học sinh học thuộc những tri thức sẵn có.
Thứ ba, với yêu cầu đổi mới phương pháp và đồng loạt những nghiên cứu về
phương pháp giảng dạy của nhiều nhà nghiên cứu như Phan Trọng Luận, Đỗ Ngọc
Thống, Nguyễn Đức Ân, Nguyễn Thị Hồng Hà.... giáo viên đang đứng trước những
khó khăn trong việc lựa chọn cho mình một phương pháp thích hợp và vận dụng vào
công việc dạy học của mình một cách có hiệu quả.
Để đáp ứng tất cả những yêu cầu bức thiết trên, BGD và những nhà phương
pháp phải nghiên cứu một phương pháp dạy học cụ thể về mặt lý thuyết lẫn thực hành
cho giáo viên học tập và vận dụng.
Ngay từ những năm 2002-2006 với yêu cầu đổi mới phương pháp của BGD,
những nhà khoa học nghiên cứu về chương trình, sách giáo khoa cũng như những nhà
phương pháp đã tiến hành cải cách chương trình, đổi mới phương pháp theo từng cấp
học. Mục tiêu đề ra là phải tiến hành cải cách làm sao phát huy được tính tích cực chủ
động sáng tạo của học sinh, đào tạo ra những người chủ tương lai thực sự của đất
nước.
Đổi mới phương pháp giảng dạy ở môn Văn là sự vận dụng linh hoạt các
nguyên tắc, các thao tác giảng dạy khác nhau nhằm phát huy tối đa tinh thần chủ
động tích cực sáng tạo của học sinh giúp các em tự tìm tòi khám phá ra chân lý thay
vì cách học thụ động một chiều trước đây. Thủ tướng Phạm Văn Đồng trong bài
“Dạy Văn là quá trình rèn luyện một cách toàn diện” có viết “Ngày nay, sự hiểu biết
của con người luôn luôn đổi mới cho dù học được trong nhà trường bao nhiêu chăng
nữa cũng chỉ là rất hạn chế. Thế thì cái gì là quan trọng? Cái quan trọng là rèn
luyện bộ óc, rèn luyện phương pháp suy nghĩ, phương pháp học tập, phải tìm phương
pháp vận dụng kiến thức, phải vận dụng tốt nhất bộ óc của mình….”[29].
Phương pháp dạy đọc- hiểu đi từ khâu hướng dẫn học sinh đọc văn bản- bám
sát câu chữ văn bản để chỉ ra nội dung tư tưởng, từ khám phá ra cái hay cái đẹp của
văn bản theo ý mình. Từ đó hình thành phương pháp đọc- hiểu các tác phẩm cùng
loại. Với phương pháp dạy như vậy thì dạy đọc- hiểu văn bản sẽ đáp ứng được yêu
cầu đổi mới phương pháp, phát huy được tích cực chủ động sáng tạo của học sinh. Đề
tài “Dạy đọc- hiểu tác phẩm văn chương và vận dụng vào các đoạn trích Truyện
Kiều trong sách giáo khoa Ngữ văn 10 (2006-2007)” sẽ đi vào nghiên cứu sâu về
phương pháp dạy đó và khả năng ứng dụng vào thực tế.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Với đề tài này, chúng tôi đi vào nghiên cứu những lý thuyết về Phương pháp
dạy đọc- hiểu tác phẩm văn chương và vận dụng vào giảng dạy các đoạn trích Truyện
Kiều trong sách giáo khoa Ngữ Văn 10 (2006-2007).
3. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
Môn văn- Tiếng Việt đã được đưa vào giảng dạy trong trường phổ thông từ rất
sớm. Ban đầu các thầy giáo đã tiếp thu được những tri thức và kinh nghiệm về thẩm
văn, bình văn, học văn, dạy văn của các nhà nho tiến bộ. Đồng thời họ là những nhà
sư phạm ưu tú của các thời đại trước. Song sự hình thành phương pháp dạy học văn
với tư cách là một môn khoa học gắn liền với sự trưởng thành của khoa sư phạm và
nhà trường mới rõ nhất là từ sau những năm 60 của thế kỉ XX.
Khi mới hình thành, ngành phương pháp giảng dạy dựa trên những chỉ dẫn
phong phú của Chủ tịch HCM, Thủ tướng Phạm Văn Đồng và từng bước vững vàng
trên cơ sở vận dụng phương pháp luận khoa học hiện đại, kinh nghiệm dạy học văn
trong và ngoài nước. Nhiều công trình về chuyên ngành phương pháp dạy học văn
chương trên thế giới được dịch và chuyển dụng vào Việt Nam. Nó là cơ sở ban đầu
cho ngành phương pháp giảng dạy văn học ở Việt Nam.
Nước ta nếu tính từ năm 1950 khi cuốn Giảng văn Chinh phụ ngâm khúc của
giáo sư Đặng Thai Mai được ấn hành ở liên khu trong thời kì kháng chiến chống
Pháp đến nay, những công trình lớn nhỏ về phương pháp dạy học văn, đặc biệt trong
khoảng chục năm nay đã tăng lên một cách rõ rệt. Những công trình đó được đánh
dấu khá rõ nét bước đi lên đáng mừng tuy còn vất vả chậm chạp của ngành phương
pháp dạy học Văn ở Việt Nam hơn một phần hai thế kỉ qua. Những công trình đó còn
thiên về ứng dụng lý luận văn học.
Phải đến cuối thập kỉ 60 của thế kỉ XX, những công trình chuyên ngành mới
được nâng cao lên một bước về chất lượng. Nhiều chuyên luận lần lượt ra đời như
“Rèn luyện tư duy học sinh qua giờ giảng dạy văn học” (1969) của Phan Trọng Luận;
“Vấn đề giảng dạy văn học theo loại thể (1970) Trần Thanh Đạm chủ biên; “Phân
tích tác phẩm văn học trong nhà trường (1977) của Phan Trọng Luận; ….. Những
công trình nghiên cứu đó bước đầu đã nghiên cứu về phương pháp theo hướng chú ý
đến sự tiếp nhận của học sinh và từng bước đi vào con đường cải tiến, hoàn thiện và
đổi mới về phương pháp.
Đáng ghi nhận như một mốc quan trọng là với nghị quyết Trung Ương II (khoá
8) về giáo dục và khoa học công nghệ, vấn đề nội dung và phương pháp giáo dục đã
được đặc biệt lưu ý. Vấn đề đổi mới phương pháp được đặt ra một cách chính thức
trong văn kiện của Đại hội Đảng cũng như những văn bản pháp quy của Bộ giáo dục
và đào tạo (BGD & ĐT). Đổi mới phương pháp đã trở thành vấn đề thời sự khoa học.
Những bài viết lẻ tẻ đăng trên các báo, các tạp chí về mối quan hệ giữa tác phẩm với
học sinh, hướng đổi mới hệ hình dạy học văn chương trong nhà trường phổ thông….
đã đúc kết lại trong tài liệu bồi dưỡng chính thức cho các giáo viên toàn quốc trong
các chu kì bồi dưỡng thường xuyên.
Cùng với sự phát triển của khoa học kĩ thuật nhất là lĩnh vực nghiên cứu phê
bình văn học, những phương pháp giảng dạy truyền thống trong nhà trường không
còn thích hợp. Nên từ nghị quyết TW lần thứ tư về " Tiếp tục đổi mới sự nghiệp giáo
dục và đào tạo tháng 1-1993 chỉ rõ xác định lại mục tiêu, thiết kế lại chương trình, kế
hoạch nội dung phương pháp giáo dục và đào tạo”. Yêu cầu phải có một phương
pháp dạy học thích hợp- Phương pháp dạy học tích cực phát huy tính chủ động sáng
tạo của học sinh, lấy học sinh làm trung tâm để đào tạo ra những con người năng
động trong tương lai.
Gần đây nhất trong tiến trình đổi mới chương trình, đổi mới sách giáo khoa,
người ta đang chú trọng và từng bước áp dụng một phương pháp dạy học mới- dạy
học đọc- hiểu tác phẩm văn chương trong nhà trường. Phương pháp dạy học tích cực
đó đã được áp dụng trong chương trình giảng dạy ở Trung học cơ sở (THCS) và thu
được nhiều kết quả như mong muốn. Qua đó, phương pháp dạy học đọc- hiểu tác
phẩm văn chương từng bước khẳng định được ưu thế của mình và thay thế cho
phương pháp dạy học truyền thống trước đó.
Trong đợt thay sách chính thức Trung học phổ thông (THPT) năm 2006-2007,
toàn bộ chương trình Ngữ văn được điều chỉnh một cách hợp lý. Trên cơ sở đó, đổi
mới về nội dung và phương pháp giảng dạy cũng là một việc làm thiết thực. Phương
pháp dạy đọc- hiểu văn bản được chính thức vận dụng vào trong chương trình giảng
dạy môn Ngữ văn THPT.
Trong chương trình Ngữ văn THPT cũng không loại trừ Nguyễn Du với tư
cách là một tác gia lớn vơi và tác phẩm Truyện Kiều. Nguyễn Du là một tác gia có vị
trí đặc biệt quan trọng trong nền văn học Việt Nam nên đã có rất nhiều bài, nhiều
công trình nghiên cứu về ông và các tác phẩm của ông. Ở đây, chúng tôi xin nêu ra
một số công trình, bài viết tiêu biểu về Nguyễn Du và các tác phẩm của ông. Bài viết
“ Nguyễn Du trong nền văn hoá Việt Nam” của Mai Quốc Liên đã đánh giá ý nghĩa
của Nguyễn Du trong nền văn học Việt Nam: “Nguyễn Du vừa là sản phẩm của một
thời đại vừa là vượt thời đại và thuộc về mọi thời đại, chủ nghĩa nhân đạo của ông
như một ngọn đuốc chiếu sáng trong đêm đen của lịch sử loài người”. Bài viết cũng
đã nêu lên những thành tựu trong sáng tác văn chương của Nguyễn Du, đặc biệt là
Truyện Kiều. Cuối bài viết tác giả kết luận “Nguyễn Du là một nghệ sĩ, một nghệ sĩ
vô song, Nguyễn Du là một trái tim lớn mà nhịp đập của nó đập cùng trái tim của
hàng triệu người qua các thế kỉ…. Nguyễn Du như là biểu tượng bất diệt của tinh hoa
văn hoá Việt Nam”. Bài viết này được in trong “Dưới góc me vườn Nguyễn Huệ” –
Sở văn hoá thông tin Nghĩa Bình-1986 và được Lê Thu Yến trích in lại trong quyển “
Nhà văn trong nhà trường- Nguyễn Du”, Nhà xuất bản giáo dục (Nxb GD), 2002.
Trong bài “Chân dung Nguyễn Du trong Truyện Kiều” tác giả Trần Đình Sử đã
nghiên cứu và nêu ra “Chân dung của Nguyễn Du qua ngôn ngữ của ông, một chân
dung được dệt bằng chính những từ mà ông thường dùng và thích dùng” bài viết
được in trong “ Những thế giới nghệ thuật thơ”- Nxb GD, 1995 và Lê Thu Yến trích
in trong sách vừa dẫn ở trên.
Nghiên cứu về Nguyễn Du và các tác phẩm của ông còn rất nhiều công trình
nghiên cứu của các tác giả nổi tiếng như giáo sư Lê Trí Viễn trong quyển “Lịch sử
văn học Việt Nam-tập III”; Nguyễn Lộc trong quyển “Văn học Việt Nam nửa cuối
thế kỉ XVIII, nửa đầu thế kỉ XIX”; Hoài Thanh với bài viết trong quyển “Nguyễn Du-
về tác gia và tác phẩm” …. Và một số công trình nghiên cứu về nghệ thuật thơ
Nguyễn Du của các tác giả như: Hoàng Văn Hành, Phan Ngọc, Trần Đình Sử….Nhìn
chung các công trình nghiên cứu vừa nêu đã đi sâu vào nghiên cứu cặn kẽ cuộc đời,
sự nghiệp sáng tác và những thành công của đại thi hào dân tộc Nguyễn Du.
Những kết quả thu được từ việc vận dụng phương pháp dạy đọc hiểu trong
trường THCS và những tài liệu tập huấn về phương pháp dạy học trong trường THPT
sẽ là cơ sở cho việc tiến hành nghiên cứu luận văn này. Những công trình nghiên cứu
về tác gia Nguyễn Du và tác phẩm của ông là cơ sở, là tiền đề giúp cho việc nghiên
cứu có liên quan đến tác gia Nguyễn Du, Truyện Kiều và các đoạn trích trong sách
giáo khoa Ngữ văn 10 (2006-2007).
4. Giả thuyết khoa học
Dạy đọc- hiểu nếu được vận dụng một cách triệt để sẽ đáp ứng được yêu cầu
giáo dục lấy học sinh làm trung tâm và phát huy được tính tích cực chủ động sáng tạo
của học sinh.
5. Phương hướng và phương pháp nghiên cứu
Đối với đề tài luận văn này, trước hết chúng tôi nghiên cứu kỹ lý thuyết đổi
mới phương pháp dạy học văn theo hướng đọc-hiểu trong nhà trường THPT. Từ đó
vận dụng vào soạn giáo án một số đoạn trích Truyện Kiều trong sách giáo khoa Ngữ
văn 10 (2006-2007) và tiến hành dạy thử nghiệm cho lớp các lớp 10 trường THPT
Tân Hiệp cũng như dự giờ trong các lớp khác để rút kinh nghiệm.
Để hoàn thành công trình nghiên cứu này, chúng tôi vận dụng phương pháp
nghiên cứu phân tích và tổng hợp từ những phương pháp giảng dạy tích cực hiện đại
cũng như phương pháp quan sát thực tế từ những giờ dạy cụ thể để rút kinh nghiệm.
6. Mục đích, ý nghĩa và đóng góp của luận văn
6.1. Mục đích
Luận văn nhằm mục đích nghiên cứu và đánh giá những hiệu quả của dạy học
theo hướng đọc- hiểu. Đồng thời đề xuất một phương pháp dạy học tối ưu và phù hợp
với nhu cầu đổi mới.
6.2. Ý nghĩa
Ý nghĩa thực tiễn: đề xuất một phương pháp dạy học tích cực phát huy được
tính tích cực chủ động sáng tạo của học sinh và giúp cho giáo viên có cơ sở giảng
dạy tốt tác phẩm văn chương trong chương trình Ngữ văn trong nhà trường THPT.
Ý nghĩa lý luận: luận giải một cách khoa học về phương pháp dạy học tích cực
trong nhà trường phổ thông.
Ý nghĩa xã hội: góp phần nâng cao hiệu quả đào tạo thế hệ học sinh năng động
sáng tạo trong thời đại mới.
7. Bố cục của luận văn
Gồm ba phần:
Mở đầu. Lí do chọn đề tài; Đối tượng phạm vi nghiên cứu; Lịch sử vấn đề
nghiên cứu; Giả thuyết khoa học; Phương pháp nghiên cứu; Mục đích ý nghĩa của
luận văn.
Chương một. Làm rõ một cách khoa học về phương pháp dạy đọc- hiểu tác
phẩm văn chương là một phương pháp phát huy tính tích cực chủ động sáng tạo của
học sinh- phương pháp dạy tích hợp. Điểm cốt yếu của chương là phương pháp dạy
học đọc- hiểu trong nhà trường phổ thông, đi vào nghiên cứu từng công việc cụ thể
của giáo viên khi vận dụng vào giảng dạy Tác phẩm văn chương trong chương trình
THPT.
Chương hai. Đi vào nghiên cứu một cách khái quát về Truyện Kiều. Luận văn
nêu một cách khái quát các bước dạy Truyện Kiều theo hướng đọc- hiểu và những
điểm cần chú ý khi vận dụng phương pháp dạy đọc- hiểu vào các đoạn trích Truyện
Kiều. Luận văn cũng đánh giá lại hướng giảng dạy Truyện Kiều từ trước đến nay
trong nhà trường.
Chương ba. Mô tả lại tiến trình thực nghiệm và dựa vào kết quả thực nghiệm
để bước đầu đánh giá lại khả năng ứng dụng của phương pháp dạy học đọc- hiểu và
tính khả thi của đề tài luận văn.
Kết Luận. Bước đầu khẳng định khả năng ứng dụng của phương pháp dạy học
đọc-hiểu vào trong dạy học tác phẩm văn chương trong trường phổ thông và một số
đề xuất.
Tài liệu tham khảo
Phụ lục.Một số hình ảnh để làm nền cho các Slile trong giáo án dạy các đoạn
trích Truyện Kiều.
Chương 1
DẠY ĐỌC- HIỂU TÁC PHẨM VĂN CHƯƠNG
LÀ PHƯƠNG PHÁP PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC CHỦ ĐỘNG SÁNG TẠO
CỦA HỌC SINH
1.1. Dạy đọc- hiểu là một phương pháp dạy học theo hướng tích hợp
1.1.1. Đọc hiểu là một hình thức quan trọng của tiếp nhận văn học
Tiếp nhận văn bản văn học là một quá trình tiếp thu lĩnh hội một đối tượng nghệ
thuật. Tiếp nhận văn học đồng nghĩa với năng lực đọc hiểu những gì đã đọc thông
qua ngôn từ và những gì có ý nghĩa nhân sinh thẩm mỹ trong tác phẩm văn chương.
Nguyên lý chú giải theo Gađamelà “phải cố gắng hiểu tất cả những gì có thể hiểu
được”. Khi đọc tác phẩm văn chương, người tiếp nhận không thể với tới hiện thực
tiếp nhận ở dạng nguyên thủy được mà chỉ có thể hiểu được qua thế giới nghệ thuật
được sắp đặt, tổ chức bằng ngôn ngữ và trong ngôn ngữ. Theo Gađame con người
sống trong ngôn ngữ và không thể bước ra ngoài dù là một phút giây nào.
Tác phẩm văn học là một đối tượng nhận thức đặc thù vì nó là sản phẩm tinh
thần đặc biệt. Muốn chiếm lĩnh, tiếp nhận không thể vận dụng những năng lực hoạt
động nhận thức chung mà cần đến những năng lực đặc thù qua hình tượng thẩm mỹ
vốn là một hình tượng nhận thức phát triển ở mức cao hơn những hoạt động nhận
thức bằng lý luận. Tác phẩm văn học là một sáng tạo tinh thần của cá nhân người
nghệ sĩ. Nó không phải là một vật thể thẩm mỹ cụ thể mà là một tồn tại phi vật thể
thông báo qua hình tượng thẩm mỹ được vật chất hoá bằng hệ thống tín hiệu ngôn
ngữ nghệ thuật. Tác phẩm văn học nào cũng nhằm mục đích thông báo tình cảm thẩm
mỹ. Nhà văn gửi đến cho người đọc nhiều xúc động mãnh liệt nhất về cuộc sống, con
người dưới ánh sáng của một lý tưởng thẩm mỹ. Nội dung đó nó được thể hiện qua
hình tượng thẩm mỹ được hệ thống hoá qua hệ thống ngôn ngữ nghệ thuật do nhà văn
sáng tạo nên. Nó là một đặc trưng riêng trong sáng tác văn học và trong tiếp nhận văn
học. Tiếp nhận chính là tìm hiểu những tình cảm thẩm mỹ bằng hình tượng thẩm mỹ
qua hệ thống ngôn ngữ. Đây là một qui trình khép kín của tác phẩm văn học từ sáng
tác đến bạn đọc và ngược lại.
Từ qui trình tác động của tác phẩm văn học đối với bạn đọc, chúng ta nhận
thấy qui trình tiếp nhận văn bản tác phẩm cũng là một quá trình. Đó chính là quá trình
tiếp thu, lĩnh hội những giá trị mà văn bản tác phẩm văn học mang đến cho người
đọc. Nó đòi hỏi người đọc phải có những năng lực cụ thể. Quá trình đó diễn ra theo
một chiều duy nhất đó đọc văn và tri giác ngôn ngữ. “Tiếp nhận văn học là một quá
trình, vì nó chỉ thực sự diễn ra theo một hoạt động duy nhất là đọc văn”[13, tr.35].
Đọc văn xuất phát từ văn bản văn học. Văn bản văn học được xây dựng bằng
ngôn ngữ. Tiếp xúc với văn bản trước hết là tiếp xúc với ngôn từ của văn bản. Nói
cách khác, để đọc một tác phẩm văn học trước hết phải đọc văn bản ngôn từ của nó,
phải đọc hiểu được từng từ, từng câu, từng chữ, từng dấu hiệu trong tác phẩm. Như
đã giới thiệu trên thì văn bản văn học được xây dựng chủ yếu bằng ngôn từ. Ngôn từ
là chất liệu xây dựng nên tác phẩm. Những hình tượng văn học thể hiện tư tưởng tình
cảm thẩm mỹ của tác giả đều được xây dựng qua hệ thống ngôn từ. Đọc hiểu văn bản
chính là đọc hiểu hệ thống ngôn từ.
Dạy đọc- hiểu văn chương hay tiếp nhận văn học là quá trình biến văn bản
thành tác phẩm của mỗi học sinh bởi “mỗi quyển sách có số phận riêng của mình
trong đầu bạn đọc (L.Tôntôi)”. Điều đó cũng xuất phát từ đặc trưng sáng tác của nhà
văn. Nhà văn chỉ sáng tác nên tác phẩm của riêng mình và nếu chưa được tiếp nhận
thì chỉ là những văn bản ngôn ngữ “văn bản là ngôn ngữ viết mà có”. N.I Kuđriasép
khẳng định: “thiếu người đọc thì hoạt động văn học chẳng khác gì một tiếng kêu vô
vọng vang lên giữa cánh đồng hoang và mọc đầy cỏ dại”. Văn bản không phải là sự
tập hợp ngẫu nhiên của từ, câu rời rạc được viết lại mà nó có thể được coi là một
chỉnh thể ngôn ngữ cấu thành. Đọc- hiểu văn bản chính là đọc- hiểu từ chỉnh thể ngôn
ngữ cấu thành nên văn bản đó.
Xuất phát từ những đặc trưng trên thì việc dạy cho học sinh tiếp nhận văn bản
chính là dạy cho học sinh đọc- hiểu từ những hệ thống ngôn ngữ để cảm nhận được
hệ thống giá trị của tác phẩm.
Đọc văn là một hoạt động cơ bản của con người để chiếm lĩnh văn hoá. Hoạt
động đọc diễn ra ở nhiều mức độ từ đọc thông, đọc thuộc, không vấp về âm, về từ và
biết ngắt nhịp đúng chỗ. Bước kế tiếp là phải đọc sâu hiểu cách hành văn, cách sắp
xếp ý và những điểm mấu chốt trong tác phẩm cũng như những dụng ý của nó. Bước
cuối cùng là đọc hiểu thông điệp của tác phẩm mà nhà văn gởi gắm đến cho người
đọc. Người đọc phải tìm ra được cái nghĩa mà tác giả thể hiện kín đáo trong tác phẩm
và phát hiện ra những điều mà người đọc trước chưa thấy cũng như những điều ngoài
tầm kiểm soát của tác giả. Đó chính là đọc sáng tạo. Trong các khâu đọc đó, đọc hiểu
là khâu cơ bản nhất nó bắt đầu từ hiểu từ, hiểu câu, hiểu đoạn, hiểu liên kết, hiểu
nghĩa toàn bài. Có hiểu đúng thì mới có hiểu sáng tạo. Muốn hiểu đúng, phải tôn
trọng tính chỉnh thể toàn vẹn và liên kết trong tác phẩm, tránh việc cắt xén suy diễn
xuyên tạc trong phê bình. Nhà trường phải chú trọng dạy cho học trò cách đọc, kỹ
năng đọc đúng, đọc có khoa học và có đạo đức. Người giáo viên phải nghiên cứu quá
trình đọc, tâm lý đọc, điều kiện đọc phân suất chúng ra từng cấp độ và đặt trọng tâm
rèn luyện các cấp độ ấy từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp mới tạo ra chương
trình dạy đọc văn có tính khoa học thoát khỏi cách học đọc thuần túy tự phát, phó
mặc cho kinh nghiệm, thói quen dẫn dắt như thường thấy. Học sinh tự đọc, tự khám
phá, tự tiếp nhận tác phẩm văn học một cách toàn diện sâu sắc. Giáo viên phải hướng
dẫn học sinh con đường và cách thức tự đọc hiểu ở đây.
Con đường đi vào thế giới nghệ thuật của tác phẩm văn học phải bắt đầu từ
bước đọc hiểu ngôn từ của tác phẩm. Nếu không có quá trình này thì tác phẩm chỉ là
một văn bản câm lặng, không có linh hồn. Đọc hiểu văn bản hay là quá trình tri giác
ngôn ngữ làm cho tác phẩm sống động có hồn. Trong đọc văn bản học sinh có nhiều
cách thức đọc: đọc nhanh, đọc chậm, đọc thành tiếng, đọc thầm, đọc cho tự người đọc
tiếp nhận và đọc cho người khác tiếp nhận. Đó chính là khâu đọc hiểu trên dòng của
bề mặt ngôn ngữ.
Đọc hiểu văn bản không chỉ dừng lại ở việc đọc trên dòng mà phải đọc hiểu
giữa dòng và đọc hiểu ý nghĩa tiềm ẩn đằng sau hệ thống ngôn từ đó. Đọc phải tìm ra
những ẩn ý bên trong mà người viết muốn gởi gắm đến cho người đọc. Ở đối tượng
học sinh cũng vậy. Đọc hiểu tác phẩm văn chương là đọc hiểu nội dung ý nghĩa của
văn bản tác phẩm văn học. Tuy nhiên nội dung văn bản văn học là khách quan bất
biến nhưng ý nghĩa của nó dưới sự cảm thụ của những người tiếp nhận khác nhau là
khả biến đa thanh. Vì thế đọc hiểu văn bản không thể chỉ dựa vào một yếu tố nào đó
riêng biệt mà phải là một quá trình tổng hợp, tích hợp. “Đọc là tìm ra ý nghĩa trong
một thông điệp được tổ chức bằng hệ thống kí hiệu”[43, tr.118]. Phải đọc hiểu từ các
yếu tố trong văn bản thuộc văn bản đi đến vận dụng những yếu tố ngoài văn bản để
soi sáng cho kết quả phân tích văn bản như tiểu sử, thời đại, hoàn cảnh sáng tác,
phong cách….. Đây chính là quá trình tổng hợp trong tiếp nhận văn học. Tuy nhiên
với đặc điểm tâm sinh lý, trình độ, khả năng cảm thụ và tiếp nhận của học sinh sẽ
chưa sâu, chưa đầy đủ nếu không có sự hướng dẫn của giáo viên.
Giáo viên với khả năng, trình độ, tư cách một người tiếp nhận trước nhưng ở
trình độ cao hơn sẽ đóng vai trò người hướng dẫn cho học sinh tìm tòi, từng bước
khám phá, phân tích, đọc hiểu văn bản, đọc hiểu nội dung bên trong mà người viết
muốn gởi gắm. Quá trình đọc như vậy phải thực hiện từ khâu chuẩn bị kĩ càng của
giáo viên lẫn học sinh. Học sinh sẽ tiếp xúc với tác phẩm văn học dưới hình thức một
văn bản và những câu hỏi hướng dẫn đọc hiểu trong sách Ngữ văn. Nhiệm vụ của học
sinh là đọc văn bản. Đây chính là bước cảm nhận ban đầu. Khâu này rất quan trọng.
Nếu học sinh đọc đúng sẽ giúp cho quá trình tìm hiểu văn bản đúng hướng, đúng nội
dung. Sau khi tiến hành đọc trên bề mặt ngôn ngữ, học sinh sẽ từ từ đi vào đọc hiểu
bề sâu ngôn ngữ qua sự hướng dẫn của giáo viên. Giáo viên sẽ hướng dẫn học sinh
vận dụng tất cả những yếu tố có liên quan đến văn bản để phân tích lý giải khám phá
tác phẩm. Có như vậy thì sự tiếp nhận của học sinh sẽ toàn diện và sâu sắc hơn. “Học
sinh được giáo viên hướng dẫn sẽ hình thành kiến thức mới trên cơ sở sách giáo khoa
và vốn hiểu biết trực tiếp và gián tiếp của bản thân mình” [21, tr.238].
1.1.2. Dạy học theo hướng đọc- hiểu là phương pháp dạy học tích cực và tích
hợp.
Một tác phẩm văn học được tạo nên bởi hệ thống ngôn từ và trong quá trình tạo
lập, nó không phải được tạo ra một cách biệt lập mà có quan hệ chặt chẽ với các phân
môn khác như Tiếng Việt, Làm văn, Lịch sử….. cho nên dạy đọc hiểu không thể nào
tách rời với các phân môn khác nhất là Tiếng Việt và Làm văn. Dạy đọc hiểu phải
dạy theo hướng tích hợp về kiến thức và phương pháp.
1.1.2.1. Tích hợp về kiến thức
Theo cơ cấu, chương trình Ngữ văn 10 là sự nối tiếp của chương trình Ngữ văn
THCS về đặc điểm, kiến thức, chương trình. Chương trình các lớp trên có sự kế thừa,
phát triển chương trình các lớp dưới về mặt hình thức lẫn nội dung.
Các tác giả trong chương trình Ngữ văn THPT đều được học qua ở các cấp học
nhưng ở THPT có sự nâng cao về nội dung và dung lượng. Ví dụ như tác gia Nguyễn
Du và tác phẩm Truyện Kiều của ông đã được học qua ở THCS. Học sinh được học
tóm tắt Truyện Kiều và một số đoạn trích của nó. Sang chương trình Ngữ văn 10 học
sinh được tiếp tục học lại về tác gia Nguyễn Du và thêm một số đoạn trích dài hơn,
sâu sắc hơn như “Trao duyên”, “Nỗi thương mình”, “Chí khí anh hùng”, “Thề
nguyền”…..
Sự tích hợp đó gọi là tích hợp dọc. Bên cạnh đó, trong tiến trình lịch sử, một
tác phẩm ra đời không thể nào nằm ngoài chu trình phát triển của lịch sử hay một tác
phẩm ra đời bao giờ cũng mang đặc điểm chung của thời kì văn học bên cạnh những
đặc điểm riêng của nó. Những đặc điểm chung chính là tiền đề giúp cho chúng ta dễ
dàng đi vào phân tích và tìm hiểu những đặc điểm riêng của tác phẩm. Các yếu tố về
tác giả, các tác giả cùng thời đại.…cũng góp phần giúp chúng ta trong đọc hiểu tác
phẩm. Đồng thời do đặc trưng sáng tác chúng ta cũng không loại trừ việc phân tích
ngôn từ nghệ thuật và phong cách sáng tác. Nó có quan hệ chặt chẽ với phân môn
Làm văn và Tiếng việt. Việc phân tích đánh giá chính là sự vận dụng các thao tác
trong Tiếng Việt và Làm văn để làm bài. Điều đó cũng được thể hiện rất rõ trong
chương trình học của học sinh. Sách Ngữ văn cải cách có đầy đủ cả ba phân môn
Giảng văn, Tiếng Việt, Làm Văn mà trước kia nó được tách rời ra làm ba phân môn
riêng biệt. Là giáo viên đứng lớp, chúng ta phải nắm vững những vấn đề này và
hướng dẫn cho học sinh một cách cụ thể Điều này thể hiện rất rõ tính tích hợp của
môn Ngữ văn và phương pháp dạy mới.
1.1.2.2. Tích hợp về phương pháp.
Từ xưa đến nay, chúng ta có rất nhiều phương pháp giảng dạy. Mỗi phương
pháp giảng dạy có những ưu cũng như những nhược điểm của nó. Chúng ta không
hoàn toàn bác bỏ giá trị của phương pháp nào cả. Cái quan trọng là chúng ta biết loại
bỏ những khuyết điểm, kế thừa, vận dụng và phát huy những ưu điểm của mọi
phương pháp để đưa vào tiết dạy một cách tốt nhất và tạo được hiệu quả cao.
Phương pháp dạy học phát vấn: hay còn gọi là phương pháp đàm thoại. Đây là
phương pháp người giáo viên xây dựng câu hỏi cho học sinh trả lời hoặc trao đổi,
tranh luận với nhau dưới sự chỉ đạo của thầy qua đó học sinh tiếp nhận tri thức. Bằng
con đường đàm thoại gợi mở, giáo viên tạo cho lớp học một không khí tự do tư
tưởng, tự do bộc lộ những nhận thức trực tiếp của mình. Những tín hiệu phản hồi
được báo lại cho giáo viên kịp thời trong khi lên lớp. Giờ dạy học văn có được không
khí tâm tình, trao đổi thân mật về những vấn đề thông qua tác phẩm. Mối liên hệ giữa
nhà văn, giáo viên và học sinh được hình thành ngay trên lớp học.
Phương pháp dạy học đàm thoại có thể kích thích tư duy của học sinh, học sinh ._.
chịu tìm tòi, suy nghĩ mọi câu trả lời đúng sẽ giúp học sinh nhớ lâu hơn. Ngoài ra
phương pháp dạy học này còn giúp học sinh có khả năng trình bày một vấn đề trước
tập thể học sinh. Tuy nhiên để giờ đàm thoại có hiệu quả, giáo viên cần phải chuẩn bị
kĩ hệ thống câu hỏi và phải tổ chức lớp học hợp lý.
Phương pháp đọc diễn cảm: là một phương pháp truyền thống được các giáo
viên dạy văn ở nước ta sử dụng cho học sinh đọc trước khi phân tích tác phẩm. Tuy
nhiên, hầu hết giáo viên và học sinh chỉ coi đó là công đoạn mở đầu cho giờ dạy học
tác phẩm văn chương. Giáo viên chưa chú ý đến hiệu quả của phương pháp này. Theo
giáo sư Lê Trí Viễn: “Giữa giọng đọc và tâm hồn người đọc có ảnh hưởng tương hỗ.
Hiểu bài văn rồi mới đọc tốt nhưng đọc tốt càng hiểu thêm bài văn”. Đọc diễn cảm là
một hình thức đặc thù của nhận thức văn học. Am vang của lời đọc sẽ kích thích quá
trình tri giác, tuởng tượng và tái hiện hình ảnh. Bằng sức mạnh của đọc diễn cảm,
người giáo viên dẫn dắt học sinh đi vào thế giới của tác phẩm một cách dễ dàng phù
hợp với qui luật cảm thụ văn học.
Đọc diễn cảm có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc dạy văn học, tuy nhiên
hiện nay trong dạy học văn người giáo viên vẫn chưa phát huy hết hiệu quả của nó,
đọc diễn cảm chỉ là việc làm một, hai lần trong suốt giờ dạy một tác phẩm văn
chương.
Dạy học nêu vấn đề: hay còn gọi là dạy học giải quyết vấn đề. Đây là phương
hướng dạy học trong đó học sinh tham gia một cách có hệ thống vào quá trình giải
quyết các vấn đề và các bài toán có vấn đề xây dựng theo nội dung tài liệu học trong
chương trình. Trong dạy học nêu vấn đề, kiến thức không đưa đến dưới hình thức có
sẵn mà thông qua những tình huống có vấn đề đặt ra trước học sinh. Dạy học nêu vấn
đề là một hệ thống tình huống có vấn đề gắn liền nhau, phức tạp hóa, trong quá trình
đó học sinh dưới sự hướng dẫn của giáo viên nắm nội dung bài học và phát triển ở
mình những phẩm chất cần thiết cho sáng tạo, trong khoa học và đời sống.
Tóm lại dạy học nêu vấn đề là quá trình người giáo viên đặt vấn đề- học sinh
tri giác-giáo viên tổ chức giải quyết vấn đề, trong quá trình đó học sinh nắm kiến
thức, phương thức giải quyết và phương pháp nhận thức khoa học. Dạy học nêu vấn
đề kích thích được sự tư duy sáng tạo ở học sinh.
Dạy theo hình thức thảo luận nhóm: thảo luận là một hình thức dạy học trong
đó học sinh tự học dưới sự hướng dẫn của giáo viên. Hình thức học tập này đòi hỏi sự
tham gia đóng góp trực tiếp và tích cực của học sinh vào quá trình học tập. Trong đó
giáo viên sử dụng các nhóm nhỏ và yêu cầu học sinh cùng nhau làm việc để mở rộng
tối đa việc học của bản thân học sinh và tất cả học sinh trong nhóm.
Thảo luận nhóm thường được tổ chức theo hình thức: nhóm 2 học sinh, 4- 5
học sinh, ghép nhóm, các nhóm kim tự tháp, hoạt động trà trộn. Hình thức thảo luận
nhóm tạo điều kiện cho tất cả học sinh có cơ hội tham gia vào hoạt động học tập của
lớp, phát huy tính chủ động sáng tạo, năng lực tư duy của học sinh. Mặt khác thảo
luận nhóm còn rèn luyện tinh thần hợp tác giữa các thành viên trong nhóm. Hình thức
dạy học thảo luận nhóm thường mất nhiều thời gian đòi hỏi người giáo viên có năng
lực quản lý tổ chức nhóm. Đồng thời đòi hỏi người giáo viên mất nhiều thời gian
chuẩn bị giáo án, chuẩn bị những vấn đề, những câu hỏi thảo luận phù hợp.
Trên đây là một số phương pháp, biện pháp dạy học văn đang được các nhà
nghiên cứu, các giáo viên đưa vào nghiên cứu vận dụng sáng tạo trong quá trình dạy
học văn theo phương pháp mới. Mỗi phương pháp, biện pháp đều có những ưu điểm,
nhược điểm riêng của nó, khi vận dụng vào dạy học đòi hỏi người giáo viên phải biết
khắc phục những nhược điểm và phát huy những ưu điểm của các phương pháp trên.
Trong quá trình dạy học, những phương pháp, biện pháp trên phải được vận dụng
phối hợp, sáng tạo tùy theo đối tượng học sinh, tùy theo bài dạy. Nếu được vận dụng
hợp lý sẽ đem lại hiệu quả dạy học cao hơn trong quá trình dạy học văn.
Phương pháp dạy học đọc- hiểu là phương pháp hướng dẫn học sinh đọc văn,
phát hiện ý nghĩa trong các văn cảnh. Một, giúp học sinh đọc văn bản, tìm hiểu những
yếu tố nghệ thuật trong văn bản. Hai đặt câu hỏi hướng học sinh vào những điểm mấu
chốt. Ba, vận dụng những yếu tố trong văn bản, ngoài văn bản để giúp học sinh giải
quyết câu hỏi. Bốn, tổng hợp những vấn đề đã phân tích rút ra các giá trị tác phẩm.
Phương pháp dạy đọc- hiểu không bao giờ cung cấp sẵn ngay kết quả cho học sinh
nên phương pháp đọc- hiểu là phương pháp dạy cho học sinh tìm tòi nắm bắt thông
tin, xử lý thông tin và rút ra chân lý. Trong phương pháp này chúng ta không sử dụng
đơn thuần một phương pháp dạy nào cả mà là sự phối hợp tất cả các phương pháp
một cách hiệu quả và hợp lý.
Ngày nay với yêu cầu phát huy được tính tích cực chủ động và sáng tạo của
học sinh thì ngoài việc phối hợp một cách hợp lý các phương pháp giảng dạy, phương
pháp dạy đọc- hiểu cũng không loại trừ việc kết hợp các hoạt động tích cực của học
sinh trên lớp học. Học sinh phải tích cực đọc tài liệu, nghiên cứu tài liệu và tích cực
thảo luận, phát biểu ý kiến tranh luận với các bạn. Giáo viên phải phát huy tối đa
những hoạt động của học sinh thì bài dạy mới thành công.
1.1.3. Dạy đọc –hiểu phù hợp với tâm lý học lứa tuổi của học sinh.
1.1.3.1. Dạy đọc- hiểu phù hợp với yêu cầu tự học, tự phát triển của học sinh
trong thời kỳ đổi mới.
Học sinh là người cộng sự trong tiến trình giảng dạy của giáo viên. Học sinh
vừa là đối tượng nhận thức vừa là chủ thể tiếp nhận văn học. Mọi hoạt động của giáo
viên trong giờ giảng văn đều có liên quan đến học sinh. Mọi phương pháp giáo viên
vận dụng đều tác động trực tiếp đến tâm lý nhận thức của học sinh. “Học sinh luôn
luôn là một thực thể trực tiếp ảnh hưởng đến nhiệm vụ, phương pháp lên lớp của
giáo viên” [21, tr.234]. Do đó giáo viên phải hiểu học sinh, nắm được đối tượng cộng
sự với mình hay những người chịu tác động của phương pháp. Hiểu học sinh là hiểu
tâm lý nhận thức cũng như khả năng tư duy, trình độ văn hoá, vốn sống, kinh nghiệm,
những điều kiện vật chất, tinh thần có ảnh hưởng đến học tập của học sinh.
Học sinh trung học thường yêu thích cái mới nên hay tìm tòi khám phá cái
mới. Cái mới đây là những kiến thức khoa học xã hội, những hiểu biết về tự nhiên, về
cuộc sống con người, đặc biệt là những người xung quanh. Khi khám phá học sinh
thường thích khẳng định mình trước cái mới, thích tham gia giải thích, thuyết trình
cái mới theo cách hiểu riêng, hay quan điểm riêng. Tâm lý trên đã phần nào cho thấy
khả năng tư duy và cá tính sáng tạo của học sinh. Các kết quả nghiên cứu về tâm lý
lứa tuổi cho thấy sự hình thành tư duy sáng tạo độc lập và tích cực là đặc điểm quan
trọng của lứa tuổi này. Nếu giáo viên biết cổ vũ các em học tập một cách thông minh,
tin tưởng vào khả năng trí tuệ của chúng thì rất phù hợp với đặc điểm về nhân cách
lứa tuổi. Vào độ tuổi thanh niên, trí tuệ và thể lực của học sinh đã phát triển, tư duy
khái quát đã được xác lập, học sinh biết suy luận, đánh giá nhận xét trên cơ sở tổng
hợp phân tích các dữ liệu học tập. Thủ tướng Phạm Văn Đồng đánh giá rất cao lứa
tuổi học sinh trong nhà trường “lứa tuổi từ 7 đến 17 là rất nhạy cảm, thông minh lạ
lùng lắm”[21, tr.236]. Tuy nhiên, tư duy khái quát đôi khi vẫn bị tư duy cụ thể lấn át,
do đó phân tích một tác phẩm văn học, học sinh thường sa vào nội dung cụ thể mà ít
suy nghĩ được chiều sâu. Đã thế vốn sống, vốn ngôn ngữ, sự hiểu biết xã hội ở học
sinh phổ thông còn nghèo nàn, nông cạn nên khi phân tích một tác phẩm nghệ thuật
các em thường không phát hiện được hết ý đồ nghệ thuật của tác giả. Lúc này các em
rất cần sự chỉ bảo hướng dẫn của giáo viên để việc cảm thụ tác phẩm văn học tốt hơn.
Cũng xuất phát từ sự thay đổi trên, học sinh ngày nay rất năng động sáng tạo vì
có đầy đủ những điều kiện về cơ sở vật chất cũng như tinh thần, thể lực. So với học
sinh ở THCS, học sinh THPT đã có sự phát triển về trí tuệ, thể lực cũng như trình độ
nhận thức. Ở tuổi này học sinh đã bắt đầu hình thành thế giới quan và xác lập được
các tiêu chí đạo đức và quan niệm sống. Học sinh THPT đã có sự trưởng thành về
nhận thức lý tính “các em có khả năng tư duy lý luận tư duy trù tượng một cách độc
lập sáng tạo trong những đối tượng quen biết đã được học và chưa được học ở nhà
trường. Tư duy của các em chặt chẽ hơn, có căn cứ hơn và nhất quán hơn”[26,
tr.39]. “Học sinh muốn tự khám phá, phát hiện những kinh nghiệm xã hội có ý nghĩa
trong cuộc sống hằng ngày thông qua cách cảm nghĩ, suy tư và xúc cảm tinh vi của
con người ” [14, tr.62]. Đây chính là một điều kiện quan trọng giúp cho việc dạy học
đọc-hiểu đạt kết quả cao. Dạy học đọc- hiểu sẽ dễ dàng khơi gợi, kích thích học sinh
tư duy suy nghĩ để tìm ra được chân lý. Nó phù hợp với tâm lý năng động sáng tạo
của học sinh ngày nay.
Ngày nay, lượng thông tin phát triển như vũ bão, sự giao lưu văn hóa quốc tế
được gia tăng. Điều kiện tiếp xúc với các nguồn văn bản được mở rộng hơn bao giờ
hết và các trang thiết bị phục vụ cho công việc học tập được cải tiến, trình độ văn hoá
của con người không phụ thuộc vào trí nhớ nữa mà là năng lực, năng lực nắm bắt,
tiếp nhận và xử lý thông tin từ các văn bản khác nhau. Phương pháp dạy học hiện đại
phải là phương pháp dạy cho học sinh biết tự tìm tòi nắm bắt kiến thức một cách chủ
động tích cực. Phương pháp dạy học đọc- hiểu sẽ dạy cho học sinh phương pháp đọc,
kĩ năng đọc, năng lực đọc để học sinh có thể đọc- hiểu bất cứ văn bản nào cùng loại.
Đó chính là con đường duy nhất để nắm bắt kiến thức. Phương pháp dạy đọc- hiểu là
dạy học phương pháp tự học.
1.1.3.2. Dạy đọc- hiểu phát huy được tính tích cực chủ động sáng tạo của
học sinh.
Khác với dạy học thông tin tiếp thụ trong dạy học truyền thống, dạy đọc- hiểu
văn bản không lấy phương thức truyền thụ là chính mà là tổ chức cho học sinh tìm tòi
phát hiện. Với cách tổ chức, hướng dẫn học sinh bám sát vào những yếu tố trong văn
bản, ngoài văn bản cũng như liên hệ so sánh sẽ giúp cho học sinh từ từ khám phá
được vấn đề. Khi đó vai trò của thầy cũng như của trò. Thầy không giữ vai trò trung
tâm nữa, cũng không còn là nguồn cung cấp tri thức sẵn có, trò không phải là đối
tượng thụ động mà trở thành chủ thể nhận thức. Như vậy dạy đọc hiểu làm thay đổi
cách dạy của thầy và trả lại vai trò chủ thể cho học sinh, giải phóng học sinh khỏi tri
thức áp đặt. Việc này có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong hoạt động nhận thức. Chỉ
khi là chủ thể nhận thức thì học sinh mới phát huy được tính chủ động sáng tạo của
mình.
Trong dạy đọc- hiểu, giáo viên là người hướng dẫn, người khơi gợi dẫn đường
cho học sinh đi tìm vấn đề. Còn học sinh chính là những người học thực sự, phải tích
cực hoạt động trên lớp dưới sự hướng dẫn của giáo viên để tìm ra chân lý. Trong mối
quan hệ này, giáo viên với vai trò của một bạn đọc đi trước có kinh nghiệm, có kiến
thức vững vàng hơn. Học sinh cũng là một bạn đọc nên vẫn có những suy nghĩ riêng,
độc lập của mình. Mỗi học sinh là một cách hiểu khác nhau, nên với cách dạy hướng
dẫn gợi tìm sẽ tạo cho mỗi học sinh một tâm thế hiểu của riêng mình. Tuy nhiên
người giáo viên sẽ phát huy vai trò của người đầu tàu để hướng học sinh vào những
cách hiểu đúng nhất tránh đi chệch hướng. Dưới sự hướng dẫn của giáo viên, học
sinh sẽ đi vào những cách hiểu của riêng mình và tích cực chủ động bộc lộ những
cách hiểu đó. Từ đó học sinh sẽ rút ra được chân lý và tính tích cực chủ động sáng tạo
của từng học sinh được phát huy một cách tối đa.
Trong phương pháp dạy học đọc- hiểu, học sinh từ cách học thụ động, chỉ là
đối tượng tiếp thu nay trở thành người đọc, người đọc trực tiếp, người đọc nhiều lần,
đọc có cảm xúc và suy nghĩ, đọc cho thấu đáo và đọc cho ra cái mình cần. Hoạt động
đọc như vậy thoã mãn sự tiếp cận và khám phá. Bạn đọc học sinh không bao giờ chịu
thầy như xưa nay. Nhiều ý kiến xuất phát từ thực tế đã thừa nhận ở học sinh ít tuổi
vẫn có thể tinh nhạy trong cảm xúc thẩm mỹ và sáng suốt trong ý nghĩa tác phẩm văn
học. Với năng lực ấy, học sinh xứng đáng là người bạn bình đẳng để đối thoại với tác
giả, với tác phẩm, với giáo viên và những người cùng thời về những gì chứa trong tác
phẩm và được tác phẩm văn học khơi gợi ra. Bằng những phương pháp khơi gợi
hướng dẫn và để học sinh tiếp xúc trực tiếp, được khám phá và được thưởng
thức“chất văn”, nghĩa là được thể nghiệm, nếm trải và hiểu sâu thêm những việc đời,
việc người, việc mình chân thực là đã phát huy chủ thể sáng tạo tích cực trong dạy
văn.
1.2. Bản chất của việc dạy đọc- hiểu
1.2.1. Dạy đọc- hiểu trong nhà trường là trang bị cho học sinh cách thức tiếp
cận tác phẩm văn chương
Đặt vấn đề đọc hiểu trong tác phẩm văn chương chính là đọc hiểu trong hệ
thống các nhân tố có liên quan mật thiết với nhau. Trong hệ thống đó thì hoạt động
đọc là cơ bản và có tầm quan trọng hết sức to lớn và cần giải quyết thấu đáo. Còn
“hiểu” là kết quả có được từ hoạt động đọc nhưng là cái đích duy nhất của bất cứ hoạt
động đọc nào. Trong hệ thống ấy, còn có nhân tố không thể thiếu được chính là văn
bản và người đọc. Văn bản sẽ qui định cách thức đọc, phương thức đọc. Tùy theo
phong cách văn bản mà có những cách đọc khác nhau. Văn bản được tạo nên bởi hệ
thống ngôn ngữ. Mỗi một văn bản hoàn chỉnh về mặt nội dung và hình thức. Từ văn
bản người ta đi sâu vào ngữ pháp văn bản, vào tu từ ngữ pháp, vào ngữ pháp nghệ
thuật. Dạy đọc hiểu là dạy cho học sinh cách thức đọc ra nội dung trong những mối
quan hệ ngày càng bao quát trọn vẹn văn bản.
Tác phẩm văn chương được xây dựng từ ngôn từ nghệ thuật. Dạy đọc hiểu tác
phẩm văn chương là dạy cho học sinh cách thức tiếp nhận tác phẩm văn chương trên
cơ sở đọc hiểu ngôn từ nghệ thuật là chủ yếu. Muốn hiểu được tác phẩm văn chương
phải đi từ ngôn từ nghệ thuật và vận dụng những kiến thức về loại thể, xã hội, Tiếng
Việt, Làm Văn để tìm hiểu từ và nắm bắt thông tin đó trong tác phẩm. Đó là con
đường duy nhất để tiếp nhận tác phẩm văn học.
Cách dạy đọc hiểu không phải cung cấp cho học sinh kiến thức về tác phẩm mà
là dạy cho học sinh cách thức, phương pháp để đi tìm kiến thức. Đọc văn trong học
văn là đọc có lý giải, phân tích có phương pháp, cách thức. Đọc ở đây không chỉ là
phát biểu cảm tưởng, cảm tính thiếu cơ sở khoa học. Cách đọc này cần có sự hướng
dẫn, giảng giải hình thành phương pháp của giáo viên cho học sinh. “Dạy văn là dạy
cho học sinh phương pháp đọc, kĩ năng đọc, năng lực đọc để học sinh có thể đọc-hiểu
bất cứ một văn bản nào cùng loại” [44, tr.115-116]. Trên phương pháp ấy thì học
sinh có thể tự tìm hiểu những tác phẩm cùng loại. Như vậy thì dạy đọc hiểu tác phẩm
văn chương chính là dạy cho học sinh cách thức, con đường tìm ra chân lý.
1.2.2. Dạy đọc- hiểu khác với phương pháp giảng văn truyền thống.
Phương pháp giảng văn truyền thống trong nhà trường đã tồn tại từ rất lâu.
Quan niệm dạy học văn truyền thống với tất cả bề dầy kiến thức và kinh nghiệm
phong phú của nó, nhìn chung còn có nhược điểm là chưa phát huy đúng mức tính
tích cực chủ động sáng tạo trong học tập của học sinh. Mô hình tiêu biểu của phương
pháp dạy đó là thầy giảng- trò nghe, thầy đọc- trò chép. Kiểm tra là thầy ra đề hỏi về
những điều đã học, trò thuộc bài và trả lời. Trong phương pháp này, giáo viên đóng
vai trò trung tâm của tiết học, mọi hoạt động của tiết học nghiêng về phía người giáo
viên. Giáo viên cảm thụ thay cho học sinh những cái hay cái đẹp của tác phẩm văn
học còn học sinh chỉ thụ động ngồi nghe và ghi lại. Quá trình đó là quá trình truyền
thụ một chiều, từ giáo viên đến học sinh và từ tác phẩm đến học sinh. Học sinh chỉ
cảm thụ được những giá trị tác phẩm thông qua kiến thức truyền thụ của giáo viên.
Ngày nay tất cả các môn học đều thay đổi phương pháp nhằm nâng cao hiệu
quả học tập của học sinh. Quan điểm dạy học mới là đầu tư phát huy chủ thể học
sinh. Với quan điểm lấy học sinh làm trung tâm, những hạn chế, khuyết điểm của
phương pháp dạy học truyền thống không còn phù hợp nữa. Học sinh ngày nay phải
năng động tích cực, chủ động đi tìm kiến thức chứ không phải chờ đợi người khác
mang kiến thức đến.
Trong phương pháp dạy đọc- hiểu, giáo viên chỉ là người tổ chức cho học trò
thực hiện quá trình tự đi tìm kiếm kiến thức theo khả năng của mình. Tác phẩm sẽ là
đối tượng chính để học sinh tích cực tác động lên. Học sinh sẽ bám sát câu chữ của
văn bản để tìm hiểu nội dung tư tưởng của tác phẩm, tập trung khai thác vẻ đẹp của
nội dung qua hình thức nghệ thuật. Học sinh không còn thụ động. Trong phương
pháp này học sinh bắt buộc phải đọc văn bản, hiểu văn bản và có phương pháp đọc
hiểu tác phẩm cùng thể loại. Mối quan hệ giữa giáo viên- học sinh- tác phẩm là mối
quan hệ vòng tròn khép kín. Tác phẩm là đối tượng chung để giáo viên lẫn học sinh
cùng nhau khai thác. Giáo viên trong tư cách là người đọc trước có kinh nghiệm nắm
vững kiến thức sẽ là người hướng dẫn, truyền thụ kinh nghiệm cho học sinh con
đường tiếp cận tác phẩm. Học sinh chính là trung tâm của tiết học, bằng mọi con
đường trực tiếp tác động lên tác phẩm để tìm ra chân lý dưới sự hướng dẫn của giáo
viên. Chúng ta có thể thấy mối quan hệ đó qua mô hình sau:
Giáo viên
Học sinh Tác phẩm.
1.3. Dạy đọc- hiểu tác phẩm văn chương trong trường phổ thông.
1.3.1. Các bước chuẩn bị cho dạy đọc-hiểu
Dạy đọc- hiểu trong trường phổ thông chính là dạy cho học sinh cách thức
“đọc” tác phẩm. Nó khác với đọc theo sở thích ngoài đời. Đọc ở đây là đọc có lý giải,
phân tích có phương pháp, cách thức, có cơ sở khoa học. Cách đọc này cần sự hướng
dẫn của giáo viên thông qua đó hình thành cho học sinh phương pháp tiếp cận tác
phẩm cùng loại. Nó cần sự chuẩn bị kĩ càng của giáo viên và học sinh.
1.3.1.1 Xác định thể loại và đi tìm đặc trưng thể loại
Chủ trương của chương trình và phương pháp mới trong dạy văn là dạy theo
thể loại. Chương trình Ngữ văn mới được sắp xếp theo thể loại. Trong quá trình phân
tích chúng ta không thể nào bỏ qua công việc tìm hiểu thể loại của tác phẩm cần phân
tích. Thể loại có rất nhiều tầng bậc. Mỗi một thể loại có một đặc trưng riêng mà khi
phân tích chung ta cần nắm. Nắm được đặc điểm thể loại sẽ hướng dẫn học sinh đọc
theo thể loại, phân tích dựa trên những đặc điểm của thể loại. Giáo viên nắm chắc vai
trò tác dụng của từng thể loại đối với việc truyền tải tư tưởng tình cảm thái độ của tác
giả, đồng thời hướng dẫn học sinh phân tích trên những cơ sở đó. Từ đó rút ra cho
học sinh cách thức phân tích những tác phẩm khác cùng thể loại.
Tác phẩm văn học thì muôn hình muôn vẻ nhưng nếu xét kĩ chúng ta có thể
thấy giữa chúng có những nét chung về mặt cấu tạo nội dung và nghệ thuật. Những
nét chung này ít nhiều có tính ổn định. Dựa vào những nét chung đó mà người ta có
thể phân chia chúng ra thành những loại thể văn học. Việc phân chia loại thể văn học
giúp ít nhiều cho việc nghiên cứu, cảm thụ và lĩnh hội các tác phẩm văn học. Đối với
giáo viên chúng ta, tìm hiểu sự phân chia loại thể văn học cũng như nắm vững những
đặc trưng loại thể sẽ giúp cho việc “hiểu và cảm, dạy và học tác phẩm văn chương có
kết quả hơn.”[9, tr.7].
Trong “Nghệ thuật thơ ca”, A-ri-xtô-tơ nêu lên ba phương thức mô phỏng hiện
thực : “Hoặc kể về một sự kiện, coi như một cái gì tách biệt với mình, hoặc là người
mô phỏng nhân danh mình mà kể, hoặc là giới thiệu tất cả các nhân vật như những
người đang hành động và hành động”[9, tr.10]. Cách chia này, đến nay vẫn còn có ý
nghĩa đúng đắn. Dựa vào đó trong phân chia loại thể, người ta phân chia thành ba
phương thức cơ bản nhất để phản ánh hiện thực và biểu hiện nội tâm của tác giả. Ba
phương thức cơ bản nhất của sự cấu tạo hình tượng, kiến trúc tác phẩm văn học, đồng
thời cũng là ba loại cơ bản nhất, trong lòng mỗi loại và trên biên giới của các loại sẽ
nảy sinh rất nhiều thể khác nhau của sự sáng tác văn học. Đó là phương thức trữ tình,
tự sự và kịch. Nhìn chung trong sáng tác văn học có nhiều hình thức thể hiện rất
phong phú, nhưng chung qui người ta qui tụ chúng trong ba loại cơ bản trên. Trong
mỗi loại còn có những thể khác nhau của sự sáng tác văn học.
Tự Sự là loại tác phẩm văn học tái hiện trực tiếp hiện thực khách quan “như
một cái gì tách biệt” ở bên ngoài đối với tác giả thành một câu chuyện có diễn biến
của sự việc, của hoàn cảnh, có sự phát triển của tâm trạng, tính cách, hành động con
người. Tác giả chỉ đóng vai trò là người kể chuyện. Những tư tưởng tình cảm của
mình thường được tác giả thể hiện một cách khéo léo thông qua cách kể, cách tả để
tạo cảm giác cho người đọc có cảm giác như câu chuyện đang diễn ra một cách chân
thực trước mắt mình và bị nó thu hút thuyết phục. Nhưng thật ra chính tác giả là
người kể, dẫn dắt cốt truyện theo tư tưởng tình cảm của mình. Lời kể của tác giả là
một đặc điểm của loại tự sự. Hình tượng của tác phẩm tự sự được dệt qua lời kể đó.
Cho nên trong tác phẩm tự sự chúng ta thường phân biệt hai thứ ngôn ngữ: ngôn ngữ
gián tiếp (lời kể của tác giả) và ngôn ngữ trực tiếp (lời nói của nhân vật).
Tác phẩm tự sự bao giờ cũng có một câu chuyện làm nồng cốt, trong đó có
những sự việc đang xảy ra, đang diễn biến, có sự tham gia của những con người với
những hành động ngôn ngữ, tâm trạng, tính cách… của họ trong mối quan hệ với
hoàn cảnh thiên nhiên, xã hội và trong mối quan hệ lẫn nhau. Nhờ những đặc điểm đó
nên loại hình tự sự có khả năng nhiều nhất trong việc dựng nên những bức tranh rộng
lớn sâu sắc, nhiều mặt về đời sống xã hội và con người, về những biến cố lịch sử
quan trọng.
Đặc trưng của loại Trữ Tình là bộc lộ trực tiếp tư tưởng, cảm xúc, nhiệt tình
tâm tư, những trạng thái mạnh mẽ, xao động, phong phú của tâm hồn và trí tuệ con
người. Những trạng thái ấy cũng đều bắt nguồn từ hiện thực khách quan. Nhưng nó
được bộc lộ qua cảm quan và ngôn ngữ cá nhân của tác giả hoặc nhân vật mà tác giả
nhân danh để phát biểu mà trong lý luận văn học gọi là “nhân vật trữ tình” “cái tôi trữ
tình”. Trong tác phẩm trữ tình cũng có cảnh, có người, có việc nhưng chủ yếu ở đây
nó chỉ là nền cho việc thể hiện tâm trạng, tâm tư, cảm xúc dào dạt hay chất chứa
những suy nghĩ, suy tư trước cảnh, trước người, trước việc. Nếu so sánh, thì tác phẩm
tự sự trung tâm là hình tượng- tính cách, còn trong tác phẩm trữ tình là hình tượng-
tâm tư.
Kịch là thể loại văn học đặc biệt. Một tác phẩm kịch có thể đọc nhưng chủ yếu
là để diễn trên sân khấu. Kịch là phương thức đặc biệt để tái hiện hiện thực cuộc sống
và biểu hiện tư tưởng nhà văn, tức là phản ánh và biểu hiện bằng ngôn ngữ và hành
động trực tiếp của các nhân vật trong các tình huống của cuộc sống “tự bản thân nó,
không cần sự dẫn dắt của tác giả”. Trong tác phẩm kịch tác giả không phải luôn luôn
lúc nào cũng có mặt để giới thiệu, dẫn dắt nhân vật như trong tác phẩm tự sự mà để
tự nó bộc lộ ra. Do đó trong tác phẩm kịch, phải tập trung cao độ những tình huống
cuộc sống. Kịch phải có những tình huống gay go nhất, kịch liệt nhất mà ở đó tính
cách các nhân vật và tư tưởng của tác phẩm được bộc lộ một cách rõ ràng sâu sắc.
Trong tác phẩm kịch, sự có mặt tác giả là rất ít nên ngôn ngữ trực tiếp của nhân vật
trên sân khấu là rất quan trọng. Ngôn ngữ của nhân vật kịch là phương tiện chủ yếu
nhất để tạo lập các tình huống sự việc, cũng như bộc lộ các tính cách nhân vật, diễn tả
tư tưởng của tác giả và tác động đến cảm xúc người đọc, người xem. Do đó ngôn ngữ
nhân vật trong kịch phải vừa tất yếu, vừa tự nhiên, vừa điển hình và vừa mang cá tính
của mỗi nhân vật.
Việc phân chia loại hình văn học ra làm ba loại hình cơ bản nói trên căn cứ vào
thiên hướng chủ đạo của phương thức phản ánh và biểu hiện của tác phẩm. Do đó sự
phân chia này chỉ dựa trên lý luận và có tính chất tương đối. Trên thực tế cụ thể sinh
động của các tác phẩm, các thể loại trên thường thâm nhập vào nhau, kết hợp với
nhau trong việc mô tả hiện thực cuộc sống, bộc lộ tư tưởng tình cảm con người. Cho
nên khi dạy đọc hiểu tác phẩm văn chương ngoài mặt dạy theo loại thể, chú ý những
đặc trưng về loại thể chúng ta cũng cần lưu ý đến sự kết hợp này.
Việc xác định loại thể văn học và tìm hiểu đặc trưng loại thể cần thiết cho việc
dạy đọc hiểu tác phẩm văn học. Vì nhà văn sáng tác theo loại thể thì người đọc cũng
cảm thụ theo loại thể và người dạy cũng dạy theo loại thể. Phương thức cấu tạo hình
tượng mà tác giả đã sử dụng khi sáng tác qui định phương thức cảm thụ hình tượng
đó của người đọc và cũng từ đó qui định phương thức giảng dạy của chúng ta. Sự
cảm thụ của chúng ta đối với một tác phẩm tự sự, một tác phẩm trữ tình, một tác
phẩm kịch không phải hoàn toàn giống nhau. Cách dạy một tác phẩm tự sự, một tác
phẩm trữ tình hay một tác phẩm kịch cũng khác nhau.
Trong giảng dạy đọc- hiểu, vai trò loại thể rất quan trọng. Tuỳ theo thể loại, mà
người giáo viên có những cách hướng dẫn học sinh tìm hiểu khác nhau. Đại thể nếu
là phân tích tác phẩm thuộc thể loại tự sự thì người giảng phải nắm và nêu cho được
trình tự diễn biến, logíc phát triển của câu chuyện với các sự biến, các nhân vật qua
các chặng thời gian với các lớp không gian. Nếu là tác phẩm thuộc trữ tình thì người
giảng phải nắm và nêu cho được trình tự diễn biến, logíc phát triển của tâm tư tác giả
hay nhân vật trữ tình với mọi sắc thái và mọi biểu hiện của nó qua các chặng thời
gian cũng như qua các lớp không gian. Còn nếu là tác phẩm kịch thì cần nắm và nêu
cho được trình tự diễn biến của hành động kịch thông qua các tình huống sân khấu và
qua ngôn ngữ đối thoại của nhân vật. Tuy nhiên, còn tuỳ thuộc vào từng tác phẩm cụ
thể và tuỳ đối tượng mà người giáo viên có những cách dạy cụ thể chi tiết và phù hợp
hơn.
1.3.1.2. Xác định bố cục
Bản thân mỗi tác phẩm khi được các nhà văn sáng tạo nên bao giờ cũng có một
chủ ý và được xây dựng theo một bố cục nhất định để biểu đạt nội dung và ý nghĩa
của tác phẩm. Bố cục này có khi do nhà văn qui định hoặc có những thể loại theo một
qui định chung của thể loại như thơ Đường luật. Mỗi một bố cục đều có ý nghĩa quan
trọng, là đầu mối quan trọng trong việc giúp cho người đọc dễ dàng khám phá tác
phẩm. Việc phân chia bố cục hay kết cấu cũng sẽ giúp học sinh nắm được kết cấu đại
cương của tác phẩm, các chặng đường phát triển và diễn biến của hình tượng và làm
chỗ dựa cho sự phân tích chi tiết.
Có thể nói phân chia bố cục là bước ban đầu học sinh thâm nhập vào trong tác
phẩm. Đọc xong tác phẩm, học sinh phải nắm cho được trình tự diễn biến của câu
chuyện, sự phát triển của tâm tư tình cảm nhân vật trữ tình, hay cac tình huống trong
kịch. Việc phân chia bố cục hợp lý cũng sẽ giúp cho học sinh dễ dàng trong việc phân
tích.
1.3.1.3. Định hướng, xác định cảm hứng chung cho việc phân tích
Tác phẩm văn học là một loại văn bản đặc biệt, được tạo nên từ hệ thống ngôn
từ. Nó khác các loại văn bản khác. Ngôn từ nghệ thuật trong tác phẩm văn học được
sử dụng giàu hình tượng, giàu hình ảnh, và sử dụng nhiều biện pháp tu từ hơn những
văn bản khác. Đồng thời, văn bản văn học còn phụ thuộc vào vai trò của người tiếp
nhận, tuỳ thuộc tâm lý, trình độ người tiếp nhận. Trong tác phẩm văn học bao giờ
cũng chứa đựng ý đồ của người sáng tác. Tuy nhiên ý đồ này được thể hiện qua ngôn
từ nghệ thuật và bị khúc xạ qua văn cảnh và lăng kính người tiếp nhận nên ý nghĩa
tác phẩm thường đa nghĩa. Ý nghĩa tác phẩm khả biến nhưng nội dung của văn bản
văn học khách quan bất biến. Tác phẩm văn học là sáng tạo của cá nhân, thể hiện tâm
tư tình cảm của người sáng tác nhưng bao giờ cũng hướng tới cộng đồng để tìm sự
đồng cảm, tri âm, tri kỉ nên phải dùng những qui ước có tính cộng đồng qui định cách
hiểu chung của cộng đồng. Chính những qui ước, qui định chung này sẽ tạo cho học
sinh đi tìm cảm hứng ban đầu làm cơ sở cho việc đọc hiểu tác phẩm.
Mỗi một tác phẩm khi được tạo ra đều chứa đựng trong nó một giá trị nhất
định. Đây chính là tính khách quan của tác phẩm. Nếu chưa đến tay người đọc, nó chỉ
là một văn bản tồn tại dưới dạng ngôn từ. Khi tác phẩm đến tay người đọc, người đọc
tiếp nhận nó bằng khả năng của mình và nhận ra những giá trị thực sự của nó. Khi đó
văn bản mới thực sự là một tác phẩm được người ta đánh giá và tiếp nhận. Chính tính
khách quan của tác phẩm sẽ là yếu tố trực cảm ban đầu giúp cho người đọc có cơ sở
phân tích và sau đó đi sâu vào khám phá lý giải. Trong giảng dạy đọc hiểu, khi đọc
tác phẩm, học sinh bắt buộc phải xác định cho được gam chủ đạo này và toàn bộ quá
trình đọc hiểu sẽ làm sáng tỏ nó. Nó không phải là quá trình tóm tắt, nêu đại ý tác
phẩm mà là những cảm nhận của mỗi học sinh khi đọc tác phẩm. Giáo viên có thể đặt
câu hỏi để kích thích học sinh nêu cảm nhận ban đầu về mặt nội dung và nghệ thuật.
Tác phẩm nói được đều gì? Thể hiện cảm hứng gì?. Học sinh phải nói được cảm
hứng bao trùm, cái hồn của tác phẩm. Ví dụ: Đoạn trích “Trao duyên” chính là bi
kịch đầu tiên về tình yêu trong cuộc đời đau khổ của Kiều. Hay “Đôi mắt” là tuyên
ngôn nghệ thuật trong quá trình nhận đường trong giai đoạn thời khắc đặc biệt có tính
chất bước ngoặc lịch sử đối với cả một tầng lớp văn nghệ sĩ. Và nó còn là cách nhìn,
cách sống của lớp người đi theo cách mạng, theo kháng chiến. Đôi mắt là đôi mắt của
lý tưởng, lý trí, tình cảm và hành động.
1.3.2. Hướng dẫn học sinh đọc- hiểu
Đây chính là quá trình làm việc trực tiếp của giáo viên và học sinh lên văn bản.
Nó diễn ra trong lớp học và bị không chế về mặt thời gian nên cần được tiến hành
theo một trình tự thích hợp. Trong quá trình này người giáo viên với vai trò là một
người hướng dẫn, còn học sinh chính là người làm việc thực sự, là trung tâm của quá
trình học, là những người chủ động đi tìm kiến thức nên không thể thụ động nữa mà
phải tích cực năng động và sáng tạo. Giáo vi._.iểu về vị trí, vai trò và giá trị đoạn
trích.
I/Vị trí, vai trò đoạn trích:
Bước 2: Hướng dẫn học sinh tìm hiểu các điển tích, điển cố, từ khó trong chú
thích: lòng bốn phương, thẳng rong.
-Lòng bốn phương: theo Sách giáo khoa: chí nguyện lập công danh sự nghiệp.
Trong Vương Thuý Kiều chú giải tân truyện, Lê Xuân Lít chú giải như sau: lấy tích
từ công tử Trùng Nhĩ muốn đứng dậy từ bỏ Tề để đi nơi khác tính đường công-
nghiệp mong lại trở về Tấn làm vua. Trong trường hợp này lòng bốn phương tả cái
tâm sự Từ Hải lúc sắp muốn đứng dậy đi. Thực hay.
-Thẳng rong: theo Sách giáo khoa: đi liền một mạch. Tản Đà bàn: hai chữ ngẫm
ra chưa tinh tế vì dưới còn có lời Kiều muốn theo. Cho nên như chữ đó có thể là vội
lời. Theo Lê Xuân Lít hai từ này không nhằm tả cảnh thật mà còn ở dạng thức tâm
trạng khi Từ Hải vừa nghĩ đến việc ra đi đã có tâm trạng mênh mang trời bể và một
thanh gươm, một yên ngựa…
Bước 3: Hướng dẫn học sinh phân tích từ các tín hiệu thẩm mỹ
GV hướng dẫn học sinh đọc đoạn trích: những câu đầu là ngôn ngữ tác giả và
ngôn ngữ đối thoại của Kiều nên giọng đọc nhẹ nhàng chậm rãi. Đến lời của Từ Hải
diễn tả cái khí phách anh hùng của mình nên giọng đọc phải hùng hồn mạnh mẽ.
Học sinh tiến hành đọc đoạn trích theo hướng dẫn của giáo viên
II/Đọc- hiểu văn bản:
Giáo viên hướng dẫn học sinh đọc hiểu về nhân vật Từ Hải.
Học sinh tiến hành thảo luận và đại diện nhóm trả lời câu hỏi. Những nhóm khác có
thể nhận xét đánh giá hoặc bổ sung. Giáo viên cần liên hệ với kiến thức mà học sinh
đã học ở THCS để cho học sinh khắc sâu hơn và so sánh với Từ Hải trong tác phẩm
của Thanh Tâm Tài Nhân.
Giáo viên hướng dẫn học sinh đọc hiểu chí khí anh hùng của Từ Hải.
Học sinh tiến hành thảo luận và đại diện nhóm trả lời câu hỏi. Những nhóm
khác có thể nhận xét đánh giá hoặc bổ sung thêm. Giáo viên cần liên hệ với kiến thức
mà học sinh đã học ở THCS để cho học sinh dễ dàng phát hiện và khắc sâu kiến thức
hơn.
Câu hỏi gợi ý thêm: trong cách nói của mình Từ Hải dùng những từ ngữ nào
để chỉ sự thành công của mình? Nhận xét về những từ ngữ đó?Thái độ ra sao?
GV bình thêm: dù đang sống hạnh phúc bên cạnh nàng Kiều tài sắc, nhưng với
lý tưởng “Giang hồ quen thú vẫy vùng
Gươm đàn nửa gánh, non sông một chèo”
thì Từ Hải quyết lòng dứt áo ra đi. Trong lời nói của Từ, chúng ta thấy hiện lên hình
ảnh không gian rộng lớn mênh mông của mười vạn tinh binh, âm thanh giòn giã của
tiếng chiêng dậy đất, hình ảnh cờ xí rợp đường. Tất cả mang một tầm vóc lớn lao. Nó
phù hợp với hình ảnh người anh hùng mang chí hướng bốn phương ở trên. Khi ra đi
chàng hẹn chắc nịch với Kiều rằng: “Chầy chăng thì một năm sau vội gì”. Dường như
trong mắt của Từ, thì thành công là chắc chắn.
Bước 4: Hướng dẫn học sinh tổng kết giá trị đoạn trích:
HS tiến hành thảo luận, đại diện nhóm phát biểu ý kiến và những nhóm khác có thể
nhận xét đánh giá hoặc bổ sung. Giáo viên yêu cầu học sinh lấy thêm những dẫn
chứng khác. HS có thể chọn những ví dụ tiêu biểu khác.
Bước 5: Hướng dẫn học sinh tổng kết
III/ Tổng kết
“Khi xây dựng nhân vật Từ Hải Nguyễn Du đã gởi vào đó những ước mơ, khát
vọng của mình.”?Các em nhận xét như thế nào về nhận định này?
Học sinh suy nghĩ và phát biểu ý kiến. Giáo viên hướng dẫn học sinh đi vào
tổng kết chung.
E/ Dặn dò:
1/ Học thuộc lòng đoạn trích.
2/ Chia lớp ra làm ba nhóm về chuẩn bị những câu hỏi trong đoạn trích “Thề
nguyền”. Tiết sau thuyết trình.
3.4.4. Đọc thêm: “THỀ NGUYỀN”
(Trích Truyện Kiều- Nguyễn Du)
A/Mục tiêu bài học:
Giúp học sinh:
-Hiểu được tình yêu Kim- Kiều rất cao đẹp và thiêng liêng.
-Nắm được nghệ thuật tả, kể đặc sắc của tác giả.
B/ Phương tiện thực hiện
-Sách Ngữ văn 10, tập II.
-Các bài bình, bài viết về đoạn trích Thề nguyền của các tác giả trong sách học
tốt Ngữ văn 10.
C/ Cách thức tiến hành
Vì đây là bài dạy theo hướng đọc thêm nên giáo viên tổ chức cho học sinh
hoàn toàn làm việc với nhau. Giáo viên tổ chức giờ dạy theo phương pháp thuyết
trình. Giáo viên chia lớp ra làm ba nhóm, mỗi nhóm về nhà chuẩn bị những câu hỏi
trong sách giáo khoa. Lên lớp, Giáo viên yêu cầu đại diện nhóm thuyết trình bài làm
của nhóm và cả lớp thảo luận. Cuối tiết giáo viên tổng kết.
D/ Tiến trình bài học
Lời dẫn giáo viên: trong đoạn trích Trao duyên, chúng ta nghe Thuý Kiều nhắc
đến những kỉ niệm, kỉ vật trong đêm thề nguyền. Vậy đêm thề nguyền diễn ra như thế
nào? Hôm nay chúng ta sẽ rõ qua đoạn trích.
Giáo Viên yêu cầu mỗi nhóm thuyết trình bài chuẩn bị theo một câu hỏi trong
sách giáo khoa. Những nhóm khác lắng nghe và thảo luận.
Cuối buổi giáo viên tổng kết, định hướng cho học sinh trả lời theo hướng sau:
Câu 1. Nhận xét về hàm nghĩa các từ “Vội”, “xăm xăm”, “băng”: diễn tả thái độ khẩn
trương gấp rút vội vàng của Kiều đối với tình yêu của mình. Kiều như ganh đua với
thời gian và định mệnh đang ám ảnh tình yêu nên nàng vội vã đến với chàng Kim.
Đây là một cách nhìn mới mẻ trong tình yêu của Nguyễn Du. Quan niệm nho giáo
cho rằng trong quan hệ nam nữ, bao giờ người con trai cũng là người chủ động.
Nhưng ở đây, qua cách dùng những từ ngữ này, Nguyễn Du nhấn mạnh sự chủ động
của Kiều, một người con gái nhưng dám vì tình yêu mà vượt cả lễ giáo gia phong.
Nhà thơ có cái nhìn vượt thời đại.
Câu 2. Nghệ thuật miêu tả không gian của buổi thề nguyền: không gian thần tiên, hư
ảo được tả bằng các hình ảnh ánh trăng nhặt thưa, ngọn đèn hiu hắt, tiếng bước chân
nhẹ nhàng tạo ấn tượng cho Kim Trọng như đang sống trong mơ. Không gian như
cần thêm ánh sáng, cần thêm hương thơm và sự ấp áp. Đó là không gian đẹp, nhưng
có cảm giác hư ảo, không có thực con người rất cô đơn giữa trời đất bao la. Có thể
thấy nó như một điềm không tốt lành trong tình yêu của hai người.
Câu 3. Liên hệ với đoạn trích Trao duyên để chỉ ra được tính chất nhất quán trong
quan niệm tình yêu của Kiều: đoạn trích cho thấy tình yêu của hai người rất thiêng
liêng, cao đẹp. Lời thề của họ được vầng trăng chứng giám. Đoạn trao duyên là sự
tiếp tục một cách logíc quan niệm và cách nhìn tình yêu của Thuý Kiều, ngược lại
đoạn trích này góp phần hiểu đúng đoạn trích Trao duyên, vì đây là một kỉ niệm đẹp
đối với Kiều và Kiều sẽ nhớ mãi những chi tiết trong đêm thề nguyền này.
3.5. Thuyết minh bài dạy.
Phương pháp dạy học theo hướng đọc hiểu chủ yếu là phát huy tính tích cực
chủ động và sáng tạo của học sinh nên thiết kế bài học chủ yếu là đặt câu hỏi cho học
sinh thảo luận và phát biểu ý kiến. Bài dạy kết hợp nhiều phương pháp và biện pháp
dạy học: đọc văn, câu hỏi thảo luận, thảo luận nhóm, phát biểy ý kiến, gợi tìm và
bình giảng.
Trong bài dạy các đoạn trích truyện Kiều trên, giáo viên hướng dẫn học sinh
đọc đúng tâm trạng của nhân vật sẽ giúp học sinh phần nào nắm được tâm trạng
chung của nhân vật. Trên cơ sở đó giáo viên đặt câu hỏi thảo luận hướng học sinh đi
vào tìm hiểu những vấn đề cụ thể của tác phẩm. Thảo luận nhóm và phát biểu ý kiến
sẽ giúp cho học sinh phát huy một cách tối đa tích tích cực chủ động và sáng tạo của
mình. Bên cạnh đó dưới sự hướng dẫn gợi tìm của giáo viên sẽ giúp học sinh tìm hiểu
đúng hướng vấn đề đặt ra.
Trong bài dạy, giáo viên ít diễn giảng mà chủ yếu đặt câu hỏi cho học sinh thảo
luận vấn đề rồi tiếp tục gợi ý thêm cho học sinh khám phá nội dung bài học. Sau mỗi
nội dung, giáo viên bình thêm để giúp học sinh cảm nhận sâu bài học.
Bài dạy sử dụng một hệ thống câu hỏi cho học sinh thảo luận nhóm. Câu hỏi
thảo luận mà giáo viên đặt ra trong bài thực nghiệm bao gồm những câu hỏi tái hiện,
câu hỏi phát hiện, câu hỏi tổng hợp , câu hỏi khái quát, câu hỏi nêu vấn đề. Tất cả các
câu hỏi được đặt trong mối quan hệ tương hỗ và kết thành một hệ thống. Những câu
hỏi mà giáo viên đặt ra có sử dụng những câu hỏi trong phần hướng dẫn học bài nên
học sinh giải quyết khá nhanh và tốt. Những câu hỏi gợi mở hướng dẫn học sinh tổng
hợp đi từ nghệ thuật ngôn từ trong đoạn trích đến giá trị nội dung đoạn trích và toàn
tác phẩm. Đồng thời nó cũng hướng dẫn học sinh vận dụng những kiến thức đã học
cũng như kinh nghiệm bản thân để giải quyết vấn đề. Những câu hỏi mà giáo viên
nêu ra kích thích học sinh tham gia giải quyết vấn đề.
3.6. Tổ chức thực nghiệm.
Sau khi lập kế hoạch thực nghiệm, chúng tôi họp tổ để thống nhất kế hoạch
thực nghiệm và phân công giáo viên dạy thực nghiệm đối chứng. Thống nhất mục
đích yêu cầu, nội dung, phương pháp thực nghiệm. Cách thức kiểm tra đánh giá kết
qủa thực nghiệm. Gửi bài soạn thực nghiệm và thực nghiệm đối chứng cho giáo viên
nghiên cứu trước.
Mỗi bài thực nghiệm được dạy trên năm lớp 10 với tổng số là 225 học sinh.
Thực nghiệm đối chứng được giảng dạy trên 2 lớp vơi tổng số học sinh tham gia là
91 học sinh.
Sau mỗi tiết dạy thực nghiệm cũng như thực nghiệm đối chứng, giáo viên đều
cho học sinh kiểm tra theo câu hỏi cho sẵn và gởi bài cho chúng tôi xử lý. Đồng thời
các giáo viên khác trong tổ cũng họp tổ và đánh giá rút kinh nghiệm.
Dưới đây là những nhận xét đánh giá của giáo viên dự giờ.
Bài soạn thể hiện được những yêu cầu của việc đổi mới phương pháp. Cụ thể là
giáo viên ít diễn giảng mà chủ yếu tổ chức hướng dẫn để học sinh tìm tòi phát hiện.
Trong mỗi nội dung giáo viên chỉ đặt câu hỏi, kích thích học sinh suy nghĩ tìm tòi và
phát hiện vấn đề. Học sinh không thụ động ngồi nghe, ghi chép mà phải luôn suy
nghĩ, tìm tòi thảo luận trong nhóm để phát hiện vấn đề. Câu hỏi mà giáo viên đặt ra
có những câu giáo viên dựa vào phần hướng dẫn học bài nên vừa sức với học sinh
được học sinh giải quyết khá tốt. Những câu hỏi mà giáo viên đặt ra không chỉ yêu
cầu học sinh tái hiện kiến thức mà có tính chất tư duy khiến cho học sinh phải suy
nghĩ, tìm tòi để giải quyết vấn đề. Từ đó đã phát huy được vai trò chủ động sáng tạo
của học sinh.
Đối với những lớp khá giỏi thì khi nêu câu hỏi thảo luận ra, học sinh tiến hành
thảo luận và giải quyết khá nhanh, trả lời chính xác đầy đủ nội dung cần đạt. Tiết dạy
đạt yêu cầu về thời gian. Còn những lớp trung bình, yếu thì học sinh còn lúng túng và
nội dung trả lời chưa chính xác hoặc không đầy đủ, giáo viên phải gợi ý thêm nên tiết
dạy không đủ thời gian như qui định trong phân phối chương trình.
Ý kiến mà học sinh đưa ra giải quyết vấn đề khác nhau, đôi khi trái ngược
nhau, giáo viên phải tôn trọng những ý kiến mang tính sáng tạo của cá nhân học sinh
và khéo léo gợi ý định hướng cho những ý kiến sai đi vào câu trả lời đúng.
Sau khi thảo luận đánh giá rút kinh nghiệm, chúng tôi rút ra những biện pháp
tháo gỡ sau:
(1) Học sinh phải chuẩn bị bài trước ở nhà theo hệ thống câu hỏi hướng dẫn học
bài.
(2) Giáo viên phải có thái độ mềm mỏng, cởi mở tôn trọng ý kiến học sinh, kể cả
ý kiến phát biểu sai. Có như vậy mới khuyến khích học sinh mạnh dạn tham
gia phát biểu ý kiến.
(3) Đối với những lớp khá giỏi nên cho học sinh chủ động phát biểu ý kiến và
tranh luận với nhau để phát huy tích sáng tạo của mỗi học sinh. Giáo viên chỉ
can thiệp khi cần và cuối cùng tổng kết theo yêu cầu bài học.
(4) Đối với lớp trung bình yếu, học sinh còn thụ động, cần khuyến khích những
nhóm học sinh khá giỏi phát biểu trước để tạo không khí cho lớp học, khuyến
khích học sinh khác mạnh dạn phát biểu ý kiến.
3.7. Đánh giá kết quả thực nghiệm.
3.7.1. Biện pháp đánh giá và kết quả cần đạt
Kết quả thực nghiệm là căn cứ quan trọng để đánh giá khả năng ứng dụng của
bài dạy theo Phương pháp đọc- hiểu vào giờ giảng văn ở trường phổ thông. Vì thế tổ
chức thực nghiệm và kiểm tra đánh giá phải nghiêm túc, khách quan để thu được kết
quả chính xác.
Biện pháp đánh giá: kiểm tra trực tiếp học sinh bằng bài kiểm. Kết quả của bài
dạy thực nghiệm sẽ dựa trên kết quả kiểm tra.
Các kết quả cần đạt:
Về kiến thức: học sinh nắm được các kiến thức cơ bản về đoạn trích và kiến
thức khái quát để từ đó có thể vận dụng vào phân tích các đoạn trích khác.
Về phương pháp: học sinh tự hình thành cho mình phương pháp đọc- hiểu đoạn
trích khác và những tác phẩm cùng thể loại. Học sinh biết cách phối hợp vận dụng
những tất cả các kiến thức có liên quan vào phân tích một tác phẩm cụ thể. Tiết dạy
kích thích được học sinh tích cực chủ động tham gia vào việc tìm hiểu khám phá tác
phẩm.
Về giáo dưỡng: học sinh biết thông cảm chia sẽ với nỗi đau của Kiều trong
đoạn trích, từ đó biết tu dưỡng tình cảm sống yêu thương chia sẽ với mọi người. Qua
đoạn trích học sinh yêu thích Truyện Kiều và trân trọng với những giá trị của tác
phẩm.
3.7.2. Kết quả thực nghiệm- nhận xét đánh giá.
3.7.2.1. Kết quả thực nghiệm và thực nghiệm đối chứng.
Bảng 3.1. Bài Trao Duyên
Xếp loại
Giỏi(9-10) Khá(7-8) TB(5-6) Yếu(3-4) Kém(1-2)
Lớp
Số
bài
KT
SL % SL % SL % SL % SL %
10C 46 10 21.7 22 47.8 14 30.4 0 0 0 0
10A2 45 3 6.7 26 57.8 16 35.6 0 0 0 0
10A4 45 1 2.2 21 46.7 22 48.9 1 2.2 0 0
10A5 45 0 0 21 46.7 23 51.1 1 2.2 0 0
10A10 44 0 0 19 43.2 22 50 2 4.5 1 2.3
10A6 46 1 2.1 17 36.9 23 50 3 6.5 2 4.3
10A8 45 0 0 13 28.9 27 60 4 8.9 1 2.2
Bảng 3.2. Tổng hợp so sánh kết quả giữa thực nghiệm và đối chứng
Thực nghiệm
(225 bài)
Đối chứng
(91 bài)
Tỉ lệ đạt được
của thực nghiệm
Xếp
loại SL % SL %
Tăng >
Giảm <
SL %
Giỏi 14 6.2 1 1.1 > 13 5.1
Khá 109 48.4 30 32.7 > 79 15.7
TB 97 43.1 50 54.9 < 47 11.8
Yếu 4 1.8 7 7.7 < 2 3.7
Kém 1 0.4 3 3.3 < 2 2.9
Bảng 3.3. Bài Nỗi thương mình
Xếp loại
Giỏi(9-10) Khá(7-8) TB(5-6) Yếu(3-4) Kém(1-2)
Lớp
Số
bài
KT
SL % SL % SL % SL % SL %
10C 46 8 17.4 29 63 9 19.6 0 0 0 0
10A2 45 4 8.9 26 57.8 15 33.3 0 0 0 0
10A4 45 1 2.2 27 60 15 33.3 2 4.4 0 0
10A5 45 0 0 24 53.3 20 44.4 1 2.2 0 0
10A10 44 0 0 19 43.2 22 50 2 4.5 1 2.3
10A6 46 0 0 18 39.1 27 58.7 1 2.2 0 0
10A8 45 0 0 16 35.6 26 55.6 2 4.4 1 2.2
Bảng 3.4. Tổng hợp so sánh kết quả giữa thực nghiệm và đối chứng
Thực nghiệm
(225 bài)
Đối chứng
(91 bài)
Tỉ lệ đạt được của thực
nghiệm Xếp
loại
SL % SL %
Tăng >
Giảm <
SL %
Giỏi 13 5.8 0 0 > 13 5.8
Khá 125 55.6 34 37.4 > 91 18.2
TB 81 36 53 58.2 < 28 22.2
Yếu 5 2.2 3 3.3 < 2 1.1
Kém 1 0.4 1 1.1 < 0 0.7
Bảng 3.5. Bài Chí khí anh hùng
Xếp loại
Giỏi(9-10) Khá(7-8) TB(5-6) Yếu(3-4) Kém(1-2)
Lớp
Số
bài
KT
SL % SL % SL % SL % SL %
10C 46 7 15.2 28 60.9 11 23.9 0 0 0 0
10A2 45 3 6.7 25 55.6 17 37.8 0 0 0 0
10A4 45 1 2.2 25 55.6 17 37.8 1 2.2 0 0
10A5 45 0 0 21 46.7 23 51.1 1 2.2 0 0
10A10 44 0 0 18 40.9 24 54.5 2 4.5 1 2.3
10A6 46 0 0 16 34.8 26 56.5 3 6.5 1 2.2
10A8 45 0 0 14 31.1 26 57.8 4 8.9 1 2.2
Bảng 3.6. Tổng hợp so sánh kết quả giữa thực nghiệm và đối chứng
Thực nghiệm
(225 bài)
Đối chứng
(91 bài)
Tỉ lệ đạt được
của thực nghiệm
Xếp
loại SL % SL %
Tăng >
Giảm <
SL %
Giỏi 11 4.9 0 0 > 10 4.9
Khá 117 52 30 33 > 87 19
TB 94 41.8 52 57.1 < 42 15.3
Yếu 4 1.8 7 7.7 < 3 5.9
Kém 1 0.4 2 2.2 < 1 1.8
Bảng 3.7. Tổng hợp kết quả ba bài thực nghiệm và thực nghiệm đối chứng
giỏi Khá TB Yếu Kém Đối
tượng SL % SL % SL % SL % SL %
Thực
nghiệm
38 5.6 351 52 271 40.1 13 1.9 2 0.3
Đối
chứng
1 0.4 94 34.4 155 56.7 17 6.2 6 2.2
Bảng 3.8. Tổng hợp so sánh kết quả giữa ba bài thực nghiệm và
đối chứng
Thực nghiệm
(675 bài)
Đối chứng
(273 bài)
Tỉ lệ đạt được của thực
nghiệm
Xếp
loại
SL % SL %
Tăng >
Giảm <
SL %
Giỏi 38 5.6 1 0.4 > 37 5.2
Khá 351 52 94 34.4 > 257 17.6
TB 271 40.1 155 56.8 < 116 17.4
Yếu 13 1.9 17 5.5 < 4 3.6
Kém 2 0.3 6 2.2 < 4 1.9
Bảng 3. 9. Xếp loại đánh giá kết quả ba bài thực nghiệm và đối chứng
Đạt loại khá giỏi
Đạt từ TB trở
lên
Loại yếu kém
Đối tượng
SL % SL % SL %
Thực nghiệm
(675 bài)
389 57.6 660 97.8 15 2.2
Đối chứng 95 34.8 250 91.6 23 8.4
(273 bài)
3.7.2.2. Nhận xét đánh giá
Bảng nhận xét đánh giá cho thấy kết quả bài dạy thực nghiệm hơn bài dạy đối
chứng.
Tỉ lệ bài đạt điểm kiểm tra khá giỏi là 57.6%, bài từ trung bình trở lên là
97.8%, bài yếu kém là 2.2%. Trong khi đó, tỉ lệ khá giỏi của bài đối chứng là 34.8%,
bài đạt tỉ lệ trung bình trở lên là 91.6%, tỉ lệ yếu kém là 8.4%.
So sánh kết quả bài thực nghiệm với bài đối chứng thì tỉ lệ đạt khá giỏi của bài
thực nghiệm cao hơn bài đối chứng là 22.8%, tỉ lệ trung bình trở lên cao hơn là 6.2, tỉ
lệ bài yếu kém thấp hơn là 6.2.
Với kết quả thực nghiệm, chứng tỏ giờ giảng văn dạy theo hướng đọc- hiểu
cho kết quả cao hơn. Bài dạy theo hướng đọc- hiểu đã phát huy được tính chủ động
tích cực sáng tạo của học sinh nâng cao hiệu quả của giờ giảng văn ở trường THPT.
Bằng thực tế dạy trên lớp và qua kết quả kiểm tra, chúng tôi có nhận xét đánh
giá như sau:
Phương pháp dạy học theo hướng đọc- hiểu đã được vận dụng ở THCS nên
sang THPT học sinh cũng tiếp tục phát huy tích tích cực nhủ động sáng tạo của mình.
Điều đó đã giúp ích rất nhiều cho giáo viên khi giảng dạy theo hướng đọc- hiểu ở
THPT. Cụ thể là các em về nhà chuẩn bị rất kĩ những câu hỏi trong sách giáo khoa,
khi giáo viên đặt câu hỏi thảo luận thì tích cực thảo luận nhóm và chủ động giơ tay
phát biểu ý kiến của mình làm cho giờ học sôi nổi, tích cực và bảo đảm thời gian như
qui định. Tuy nhiên đối với những lớp trung bình yếu, học sinh còn thụ động, giải
quyết vấn đề chưa sâu và chưa triệt để. Giáo viên phải gợi ý thêm, mất thời gian hơn.
Về phía học sinh, do đã chuẩn bị trước hệ thống câu hỏi trong sách giáo khoa
nên với những câu hỏi có dựa vào đó, học sinh rất năng động phát biểu ý kiến. Còn
những câu hỏi khác thì cũng tích cực thảo luận và phát biểu ý kiến. Tuy nhiên ý kiến
chưa sâu hoặc chưa đấy đủ và giáo viên phải gợi ý thêm.
Nhìn chung bài dạy theo phương pháp đọc hiểu đã đáp ứng được yêu cầu đề ra
và phát huy được tính tích cực năng động sáng tạo của học sinh đáp ứng được yêu
cầu đề ra của BGD & ĐT.
KẾT LUẬN
1. Thế kỉ XXI là thời đại của công nghệ thông tin, thời đại mà hệ thống tri thức
phát triển như vũ bão, lượng thông tin ngày càng tăng vọt. Nó đòi hỏi con người phải
có cách nắm bắt tri thức, nắm bắt thông tin một cách năng động và sáng tạo. Con
người phải có phương pháp tự học, tự nắm bắt thông tin. Điều đó cũng đòi hỏi nhà
trường phải có phương pháp dạy học phát huy được tính tích cực chủ động sáng tạo
của học sinh. Dạy học là dạy cho học sinh về phương pháp nghiên cứu, phương pháp
tự nắm bắt thông tin chứ không phải dạy cho học sinh học thuộc những tri thức sẵn
có. Giảng dạy làm sao phát huy được tính tích cực chủ động sáng tạo của học sinh là
một phương hướng đề ra chính xác của BGD & ĐT.
Trước yêu cầu đổi mới đó, các nhà nghiên cứu về phương pháp cũng như các
giáo viên đang trực tiếp giảng dạy đã nghiên cứu, tìm tòi đổi mới phương pháp.
Nhiều phương pháp dạy học mới được vận dụng vào trong giờ giảng dạy và có một
số tiến bộ như mong muốn, chất lượng giờ giảng văn được nâng lên không khí lớp
học phần nào được thay đổi. Song về bản chất giờ giảng văn chưa phải là giờ dạy-
học sáng tạo. Giáo viên vẫn chưa thoát khỏi vai trò của người truyền thụ kiến thức và
học sinh cũng chưa tích cực, chủ động để tìm kiếm kiến thức. Tiết học vẫn diễn ra
theo lối thông tin- tiếp thu.
2. Với đề tài “Dạy đọc hiểu tác phẩm văn chương và vận dụng vào các đoạn
trích Truyện Kiều trong sách giáo khoa Ngữ văn 10 (2006-2007)”, tác giả luận văn
chỉ mong muốn góp một phần vào trong phong trào đổi mới phương pháp, góp phần
hạn chế lối dạy học áp đặt đồng thời kích thích tính tích cực, chủ động và hình thành
nếp tư duy sáng tạo trong hoạt động tiếp nhận văn học của học sinh.
Phương pháp dạy học đọc- hiểu là phương pháp dạy học mà giáo viên sẽ tổ
chức hướng dẫn cho học sinh bám sát vào những yếu tố trong văn bản, ngoài văn bản
cũng như thao tác liên hệ so sánh giúp cho học sinh từ từ khám phá vấn đề. Trong
phương pháp dạy này học sinh là trung tâm của tiết dạy, học sinh tự mình tìm tòi phát
hiện vấn đề dưới sự hướng dẫn của giáo viên. Giáo viên chỉ là người tổ chức hướng
dẫn cho học sinh tự đi tìm kiến thức chứ không phải truyền thụ thông tin như trong
các phương pháp dạy truyền thống nữa. Phương pháp dạy đọc- hiểu phát huy được
tính tích cực chủ động sáng tạo của học sinh, đáp ứng dược yêu cầu phương pháp của
BGD & ĐT.
Phương pháp dạy đọc- hiểu được vận dụng dựa trên đặc trưng của tác phẩm
văn học và sự tiếp nhận của học sinh. Tác phẩm văn học là một sáng tạo cá nhân
người nghệ sĩ, là một tồn tại phi vật thể mà nội dung thể hiện thông qua hình tượng
thẩm mỹ được vật chất hoá bằng hệ thống tín hiệu ngôn ngữ nghệ thuật. Tiếp nhận
văn học chính là tìm hiểu nội dung tác phẩm văn học qua hệ thống ngôn từ nghệ
thuật. Giáo viên sẽ hướng dẫn học sinh đi từ khâu đọc hiểu ngôn từ nghệ thuật trong
văn bản và vận dụng các yếu tố ngoài văn bản để phát hiện vấn đề. Giáo viên cần sử
dụng tổng hợp các phân môn nhất là phân môn Tiếng Việt và Tập làm văn. Phương
pháp dạy đọc- hiểu chính là quá trình tổng hợp trong tiếp nhận và tích hợp trong
phương pháp giảng dạy.
Sử dụng Phương pháp dạy đọc- hiểu vào giảng dạy các tác phẩm văn chương
trong chương trình Ngữ văn sẽ phát huy được tính tích cực chủ động sáng tạo của học
sinh. Tuy nhiên khi giảng dạy theo hướng này giáo viên cần lưu ý một vài khuyết
điểm nếu xử lý không khéo sẽ làm cho tiết dạy khó không thành công. Phương pháp
dạy đọc- hiểu chủ yếu tổ chức hướng dẫn cho học sinh tìm kiếm kiến thức dưới hình
thức câu hỏi, thảo luận nhóm, và phát biểu ý kiến nên giờ dạy dễ kéo dài thời gian.
Học sinh có rất nhiều ý kiến khác nhau, giáo viên phải khéo léo hướng dẫn học sinh
tập trung vào những điểm mấu chốt nếu không giờ học sẽ trở nên lan man, học sinh
phát biểu xa vấn đề. Đồng thời phương pháp dạy đọc- hiểu chủ yếu là hoạt động của
học sinh nên bản thân học sinh phải có sự tìm hiểu và chuẩn bị bài trước ở nhà. Học
sinh có thể chuẩn bị dựa vào những câu hỏi trong phần hướng dẫn học bài hay hệ
thống câu hỏi giáo viên cho trước. Có như vậy tiết học sẽ không mất nhiều thời gian
và ý kiến phát biểu đầy đủ, sâu sắc.
3. Nguyễn Du là một tác gia lớn trong nền văn học dân tộc Việt Nam. Truyện
Kiều là một tác phẩm văn học có giá trị vượt bậc về mặt nội dung cũng như hình thức
nghệ thuật. Nguyễn Du và Truyện Kiều có vai trò đặc biệt quan trọng trong nền văn
học dân tộc và chương trình phổ thông. Trong chương trình phổ thông, Truyện Kiều
được giảng dạy dưới hình thức trích đoạn tiêu biểu. Mỗi đoạn trích có nội dung và
hình thức nghệ thuật tương đối hoàn chỉnh.
Giảng dạy các đoạn trích Truyện Kiều theo phương pháp đọc- hiểu là hướng
dẫn học sinh đọc- hiểu các yếu tố trong đoạn trích đến vận dụng thao tác liên hệ, so
sánh với toàn tác phẩm, tác phẩm Kim Vân Kiều của Thanh Tâm Tài Nhân cũng như
những yếu tố khác ngoài văn bản để làm nổi bật nội dung và hình thức nghệ thuật của
đoạn trích. Trong phương pháp này, giáo viên sử dụng phối hợp hợp lý kiến thức,
phương pháp, biện pháp để tổ chức hướng dẫn cho học sinh tìm kiếm kiến thức.
4. Phương pháp dạy đọc- hiểu cũng như những tiền đề cho phép ứng dụng từ
phía tác phẩm và học sinh được kiểm nghiệm thông qua hoạt động thực nghiệm. Thái
độ học tập, khả năng phát hiện, giải quyết yêu cầu đề ra từ học sinh và kết quả thực
nghiệm cho phép chúng tôi khẳng định:
Ưng dụng Phương pháp dạy đọc- hiểu vào dạy học tác phẩm văn học là phù
hợp với đặc trưng bộ môn, đặc điểm tâm lý của học sinh và phát huy được tính tích
cực chủ động và sáng tạo của học sinh, đáp ứng được yêu cầu đổi mới phương pháp
dạy học hiện nay.
Phương pháp dạy học đọc- hiểu được ứng dụng rộng rãi vào trong các trường
phổ thông sẽ giúp cho học sinh năng động trong học tập và có phương pháp tự đọc-
hiểu các tác phẩm văn chương một cách có khoa học.
Phương pháp dạy đọc- hiểu không hạ thấp vai trò, vị trí của người giáo viên mà
trái lại đặt giáo viên đứng trước một nhiệm vụ nặng nề: không chỉ biết tổ chức, hướng
dẫn mà còn phải linh hoạt, khéo léo trong việc tháo gỡ những vướng mắc cả về tri
thức lẫn kĩ năng của học sinh. Kết quả tìm kiếm, lĩnh hội tri thức của học sinh phụ
thuộc vào tài năng dẫn dắt của giáo viên.
5. Thông qua việc vận dụng phương pháp dạy đọc hiểu vào dạy học tác phẩm
văn chương, chúng tôi xin có mấy đề xuất sau:
Thường xuyên nâng cao nghiệp vụ sự phạm và bồi dưỡng tư tưởng sư phạm
mới cho giáo viên. Yêu cầu giáo viên tự nâng cao trình độ hiểu biết về lý luận dạy
học hiện đại nắm các thành tựu của khoa học liên ngành như tâm lý giáo dục, giáo
dục học, ngôn ngữ học,…đặc biệt là nắm vững thành tựu khoa học chuyên ngành để
kịp thời vận dụng vào dạy học văn ở trường phổ thông.
Ngày nay công nghệ thông tin rất phát triển và ngày càng trở thành công cụ
hữu hiệu trong công việc dạy và học. Người giáo viên phải biết vận dụng công nghệ
thông tin vào trong tiết giảng dạy của mình như tìm kiếm tư liệu, soạn giảng bằng
giáo án điện tử…
Trong kiểm tra, đề ra tránh chỉ yêu cầu học sinh tái hiện kiến thức mà phải yêu
cầu học sinh có sự suy luận và những phát hiện mới của bản thân học sinh. Có như
vậy giáo viên mới mạnh dạn sử dụng những phương pháp dạy học mới vào tiết dạy
của mình và học sinh mới phát huy được tính tích cực sáng tạo của mình.
Phương pháp dạy đọc hiểu đã được vận dụng vào chương trình giảng dạy môn
Ngữ văn ở THCS và thu được kết quả tốt. Người viết luận văn này chỉ mong muốn
tiếp tục chứng minh tính khả thi của phương pháp dạy đọc- hiểu vào chương trình
Ngữ văn THPT.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn An (chủ biên)(1995), Lý luận dạy học, ĐHSP TPHCM
2. Nguyễn Đức An, Dạy học giảng văn, Nxb tổng hợp Đồng Tháp
3. Nguyễn Viết Chữ, Phương pháp dạy học tác phẩm văn chương (theo loại thể),
Nxb ĐHSP.
4. Thiều Chữu, Từ điển Hán Việt, Nxb HCM.
5. Tản Đà- Nguyễn Khắc Hiếu, Vương Thuý Kiều chú giải tân truyện, Lê Xuân Lít
giới thiệu, Nxb Thanh Niên.
6. Lê Tiến Dũng, Giáo trình lý luận văn học (phần tác phẩm văn học) Nxb ĐHQG
TPHCM.
7. Trần Thanh Đạm-Huỳnh Lý-Hoàng NHư Mai-Phan Sĩ Tấn- Đàm Gia
Cẩn,(1971) Vấn đề giảng dạy văn học theo loại thể, Nxb GD.
8. Hà Minh Đức (chủ biên), Lý luận văn học, Nxb GD.
9. Nguyễn Văn Hạnh-Huỳnh Như Phương (1999), Lý luận văn học: vấn đề và suy
nghĩ, Nxb GD.
10. Hoàng Ngọc Hiến (1999), Văn học và học Văn, Nxb Văn học Hà Nội.
11. Đặng Vũ Hoạt- Hà Thị Đức, Lý luận dạy học đại học.
12. Nguyễn Minh Hùng (2003), Văn chương nhìn từ góc sân trường, Nxb Văn học.
13. Nguyễn Thanh Hùng, Đọc và tiếp nhận văn chương, Nxb GD.
14. Nguyễn Thanh Hùng, Hiểu Văn- Dạy Văn, Nxb GD.
15. Z.IaRez (chủ biên)(1983), phương pháp dạy học văn học, Nxb GD.
16. Nguyễn Kì (1995), Phương pháp dạy học tích cực lấy người học làm trung tâm,
Nxb GD HN.
17. Bùi Kỉ- Trần Trọng Kim, Truyện Kiều-Nguyễn Du, Nxb Tổ hợp Đồng Tháp.
18. I.IaLeene (1977), Dạy học nêu vấn đề, Nxb GD.
19. Nguyễn Lộc, Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỉ XVIII-nửa đầu XIX, Nxb Văn
học và chuyên nghiệp.
20. Phan Trọng Luận, Phương pháp dạy học Văn, Nxb ĐHSP.
21. Phan Trọng Luận, Văn chương bạn đọc sáng tạo.
22. Phan Trọng Luận, Xã hội Văn học nhà trường, Nxb ĐHQG HN.
23. Phan Trọng Luận, Văn học giáo dục thế kỉ XXI, NXb ĐHQG HN.
24. Phan Trọng Luận, Thiết kế bài học tác phẩm văn chương ở nhà trường phổ
thông, tập 1,2.
25. Nguyễn Lê Tuyết Mai, tuyển tập 100 bài văn hay lớp 10, Nxb Trẻ.
26. Nguyễn Thị Ngân (2001), Câu hỏi nêu vấn đề trong giờ giảng văn ở trường
THPT, Luận án tiến sĩ giáo dục ngành Phương pháp giảng dạy văn học, HN.
27. V.A NhiKonxki (1978), Phương pháp giảng dạy văn học ở trường PT, tập I,
Ngọc Toàn- Bùi Lê dịch, Nxb GD.
28. GN.Pospelow (chủ biên) (1985), Dẫn luận nghiên cứu văn học, tập II, Nxb GD.
29. Nguyễn Huy Quát-Hoàng Hữu Bội, Một số vấn đề về Phương pháp dạy học văn
trong nhà trường, Nxb GD.
30. Trần Đình Sử, Thi pháp Văn học Trung đại Việt Nam, Nxb ĐHQG.
31. Trần Đình Sử, Lý luận và phê bình văn học, Nxb GD.
32. Lê Tử Thành, Logíc học và phương pháp luận nghiên cứu khoa học, Nxb Trẻ.
33. Đặng Thêm, Cùng học sinh khám phá qua mỗi giờ văn, Nxb GD.
34. Đỗ Ngọc Thống, Đổi mới việc dạy và học môn Ngữ văn ở Trung học cơ sơ, Nxb
GD.
35. Nhóm biên soạn Đào Qúi Văn Thuỷ, Tâm lý giáo dục: Lý thuyết và thực hành,
Nxb Thống kê.
36. Chu Quang Tiềm, Tâm lý văn nghệ, Nxb TPHCM
37. Nguyễn Tri- Nguyễn Trọng Hoàn, Đổi mới phương pháp dạy học Văn- Tiếng
Việt ở trường phổ thông, Nxb ĐH QG HN.
38. Hoàng Văn- Đường Văn (2002), Nguyễn Du-Truyện Kiều một hướng cảm, luận
và dạy học mới, Nxb Thanh Niên.
39. Lê Trí Viễn (1984), Những đặc điểm có tính qui luật của Lịch sử phát triển Văn
học Việt Nam, Trường ĐHSPTPHCM
40. Trịnh Xuân Vũ, Văn chương và Phương pháp giảng dạy văn chương,
ĐHSPTPHCM.
41. Lê Thu Yến (2002), Nhà văn trong Nhà trường- Nguyễn Du, Nxb Giáo Dục.
42. Bộ GD và ĐT (2001), Tài liệu hội nghị tập huấn phương pháp dạy học môn
Văn-Tiếng Việt THPT, HN.
43. Bộ GD và ĐT (2005), Tài liệu bồi dưỡng giáo viên dạy sách giáo khoa lớp 9
môn Ngữ văn, HN.
44. Bộ GD và ĐT (2006), Tài liệu bồi dưỡng giáo viên thực hiện chương trình sách
giáo khoa lớp 10 THPT-Ngữ văn nâng cao. HN.
45. Bộ GD và ĐT (2006), Tài liệu bồi dưỡng giáo viên thực hiện chương trình
sách giáo khoa lớp 10 THPT-Ngữ văn. HN.
46. Bộ GD và ĐT, Ngữ văn 10, tập II, Nxb GD.
47. Bộ GD và ĐT, Ngữ văn 10 nâng cao, tập II, Nxb GD
48. Bộ GD và ĐT, Ngữ văn 10, sách giáo viên, tập II, Nxb GD
49. Bộ GD và ĐT, Ngữ văn 10 nâng cao,sách giáo viên, tập II, Nxb GD.
50. Đổi mới giờ học tác phẩm văn chương ở trường THPT (sách bồi dưỡng
thường xuyên chu kì 1997-2000 cho giáo viên THPT), Nxb GD.
51. Uy ban khoa học xã hội Việt Nam (1980), Lịch sử văn học Việt Nam, Nxb khoa
học xã hội, HN.
52. Phê bình và lý luận văn học- Nguyễn Du,Tủ sách tham khảo văn học.
PHỤ LỤC
Giới thiệu một số hình ảnh làm nền cho slile trong giáo án
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LA7069.pdf