LỜI NÓI ĐẦU
Thực tế cho thấy, sự phát triển nhiều quốc gia đã cho thấy không một nền kinh tế nào có thể phát triển toàn diện khi không có một nền tảng cơ sở hạ tầng vững chắc. Bên cạnh đó cũng không ai phủ nhận rằng đầu tư XDCB là tác nhân chính quyết định tới chất lượng của hệ thống cơ sở hạ tầng cho một nền kinh tế. Chính bởi lý do đó mà việc nghiên cứu và phân tích công tác thực hiện đầu tư XDCB nhằm đề ra giải pháp nâng cao hiệu quả và kết quả đầu tư luôn là vấn đề đáng được quan tâm đối vớ
86 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1472 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Đầu tư xây dựng cơ bản ở tỉnh Vĩnh Phúc. Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
i mọi quốc gia. May mắn được thực tập ở Sở Kế hoạch và đầu tư tỉnh Vĩnh Phúc, nên em xin chọn viết đề tài : Đầu tư xây dựng cơ bản ở tỉnh Vĩnh Phúc : Thực trạng và giải pháp.
Do còn thiếu kinh nghiệm thực tế nên bài viết của em không tránh khỏi những thiếu sót, em rất mong nhận được sự góp ý của thầy cô giáo và các bạn.
Em xin chân thành cảm ơn PGS.TS.Từ Quang Phương đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ thực hiện đề tài này.
Em xin chân thành cảm ơn các bác, các cô, các anh chị đang làm việc tại Sở kế hoạch và đầu tư tỉnh Vĩnh Phúc và giúp em trong việc tìm các tài liệu liên quan đến tình hình đầu tư Xây dựng cơ bản trên địa bàn tỉnh.
Chương I
THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ XÂY DỰNG CƠ BẢN Ở TỈNH VĨNH PHÚC TRONG NHỮNG NĂM QUA
I. ĐẶC ĐIỂM TỰ NHIÊN, KINH TẾ XÃ HỘI CỦA TỈNH VĨNH PHÚC
1. Đặc điểm tự nhiên của Vĩnh Phúc
* Vị trí địa lý
Vĩnh phúc là một tỉnh thuộc vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng, cửa ngõ Tây Bắc của Thủ đô Hà Nội. là một trong 8 tỉnh thuộc vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, dân số xấp xỉ 1,2 triệu người, diện tích trên 1.371km2 Tỉnh có 9 đơn vị hành chính, 7 huyện và 1 thị xã, 1 thành phố, thành phố Vĩnh Yên là trung tâm kinh tế, chính trị, văn hoá của Tỉnh. Cách trung tâm thủ đô Hà Nội 50km.
* Địa hình : tựa lưng vào dãy núi Tam Đảo ở phía Bắc với đỉnh núi Dao Trù cao 1.435m, phía Tây và Nam bao bọc bởi sông Lô và sông Hồng, Vĩnh Phúc có địa hình đa dạng, độ dốc nghiêng từ Đông Bắc xuống Tây Nam và chia thành 3 vùng sinh thái đặc trưng rõ rệt: đồng bằng, trung du và miền núi. Nếu xét theo địa hình thì Vĩnh Phúc là một tỉnh trung du, miền núi.
* Khí hậu thời tiết
Vĩnh Phúc nằm trong vành đai nhiệt đới gió mùa nóng ẩm, với khí hậu trong năm chia thành 4 mùa rõ rệt. Nhiệt độ trung bình của tỉnh trong năm khoảng 23,20C, riêng vùng núi Tam Đảo nhiệt độ trung bình khoảng 18,20C. Độ ẩm trung bình và lượng mưa trung bình đều ở mức cao. Độ ẩm tương đối trung bình các năm dao động từ 84 – 86%; lượng mưa trung bình hàng năm dao động từ 1.500 – 1.700 mm. Vùng tiểu khí hậu Tam Đảo là nơi khí hậu mát mẻ ôn hoà, núi rừng hoang sơ, nhiều tiềm năng phát triển du lịch.
* Thuỷ Văn
Hệ thống sông suối ao hồ trên địa bàn tỉnh khá phong phú. Một số con sông lớn chảy qua địa bàn tỉnh đó là sông Hồng, sông Lô, sông Phó Đáy, sông Cà Lồ và một số hệ thống sông phụ khác tạo nên nguồn cung cấp nước dồi dào ở diện rộng và tương đối đồng đều. Một số hồ đầm lớn vừa có giá trị về mặt thuỷ lợi vừa có giá trị du lịch như: hồ Đại Lải, Hồ Xạ hương, Đầm Vạc, hồ Vân Trục…Dung tích tổng cộng lên đến hàng triệu m3, có tác dụng điều tiết nguồn nước rất lớn.
* Tài nguyên
Vĩnh Phúc là tỉnh có diện tích nhỏ, lại ít khoáng sản, chỉ có một số lượng quý hiếm nhưng trữ lượng nhỏ và phân tán nên chưa đạt tiêu chuẩn để khai thác. một số loại khoáng sản có khả năng khai thác lâu dài là các mỏ cao lanh giàu nhôm, cát sỏi, đá xây dựng…Riêng đất sét làm gạch có trữ lượng lớn nhưng việc khai thác bị hạn chế vì nằm trong vùng đất canh tác. Hiện tại mới đầu tư khai thác đá vôi, đá xây dựng ở Lập Thạch, Bình Xuyên, Mê Linh; cát sỏi ở ven sông Hồng, sông Lô; Mica ở Lập Thạch.
2. Kết quả kinh tế-xã hội của Vĩnh Phúc thời kỳ 2004-2008
Vĩnh Phúc nằm trong vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ nên cũng có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế xã hội. Trong những năm gần đây, tình hình kinh tế – xã hội của Vĩnh Phúc đã đạt được những kết quả khá cao. Nền kinh tế đạt tốc độ tăng trưởng cao, ổn định, thúc đẩy nhanh tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa trên địa bàn tỉnh. Kinh tế nhà nước được sắp xếp lại và đổi mới hoạt động, hiệu quả tăng; kinh tế tập thể có bước phát triển; kinh tế tư nhân phát triển nhanh và cùng với kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài chiếm vị trí ngày càng quan trọng trong cơ cấu kinh tế của tỉnh.
Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực, đúng định hướng là tăng tỷ trọng công nghiệp - xây dựng và giảm tỷ trọng ngành nông lâm nghiệp thuỷ sản: Tỷ trọng khu vực công nghiệp - xây dựng trong cơ cấu kinh tế của tỉnh tăng nhanh từ 52,4% năm 2005 lên 58,8% năm 2008. Tỷ trọng nông - lâm nghiệp - thuỷ sản giảm, ước thực hiện năm 2008 còn 18,05%, giảm 2,42% so với năm 2005.
Cơ cấu thành phần kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng phát huy năng lực và tiềm năng của các thành phần kinh tế. Khu vực kinh tế nhà nước tiếp tục được tổ chức lại, đổi mới, tỷ trọng chiếm trong GDP (theo giá CĐ 94) năm 2008 đạt 18,5%. Kinh tế tư nhân phát triển nhanh, nhất là các doanh nghiệp dân doanh, hoạt động có hiệu quả trên nhiều lĩnh vực, đóng góp quan trọng cho tăng trưởng và phát triển kinh tế, giải quyết việc làm và cải thiện đời sống nhân dân, tỷ trọng chiếm trong GDP (theo giá CĐ 94) năm 2008 đạt 29,1%; Kinh tế tập thể có bước phát triển, khắc phục được một phần tồn tại yếu kém, từng bước ổn định, đóng góp khoảng 7,7% GDP. Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài có tốc độ tăng trưởng cao và chiếm tỷ trọng ngày càng lớn trong GDP, chiếm 44,7% GDP.
Kết quả kinh tế xã hội của tỉnh Vĩnh Phúc trong thời kỳ 2004-2008 là khá cao so với các địa phương khác trong cả nước. Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân giai đoạn 2004 - 2008 tăng 20,42%/năm (kế hoạch đề ra 14-14,5%/năm),cụ thể trong đó: công nghiệp - xây dựng tăng 26,85%/năm (kế hoạch tăng 18,5-20%/năm), dịch vụ tăng 19,35%/năm (kế hoạch tăng 13-14%/năm) và nông - lâm nghiệp - thuỷ sản tăng 3,75%/năm (kế hoạch tăng tăng 5-5,5%/năm). Ước thực hiện hết năm 2008, qui mô GDP (giá CĐ 94) đạt 10.863,3 tỷ đồng, bằng 93,5% mục tiêu đề ra đến năm 2010 (11.621 tỷ đồng).
GDP bình quân đầu người (theo giá TT) liên tục tăng, năm 2005 mới chỉ đạt 8,5 triệu đồng/người, đến năm 2007 đạt 15,3 triệu đồng/người (tương đương khoảng 950 USD/người) đã vượt mức bình quân chung cả nước. Ước thực hiện năm 2008 đạt 21,6 triệu đồng/người (khoảng trên 1.200 USD/người.
Kết quả cụ thể của các ngành, lĩnh vực như sau:
* Về công nghiệp - xây dựng:
Sản xuất công nghiệp tiếp tục đạt nhịp độ tăng trưởng cao. Một số ngành công nghiệp chủ lực, công nghiệp có lợi thế so sánh phát triển nhanh; bước đầu phát triển được một số ngành công nghiệp sản xuất các mặt hàng công nghệ cao.
Để phát triển công nghiệp, tỉnh đã tập trung đầu tư phát triển hạ tầng, tạo môi trường đầu tư thuận lợi và liên tục được cải thiện nhằm thu hút đầu tư cho phát triển công nghiệp, ưu tiên phát triển các ngành công nghiệp: chế biến, cơ khí, sản xuất vật liệu xây dựng, may mặc... sản xuất ra các sản phẩm có số lượng lớn và giá trị cao như: ô tô, xe máy, thép và ống thép, gạch ốp lát, gạch nung nước giải khát, giày da, may mặc quần áo,.... Do vậy, ngành công nghiệp - xây dựng giai đoạn 2004-2008 luôn duy trì mức tăng trưởng cao ở tất cả các thành phần kinh tế. Tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất ngành công nghiệp - xây dựng(giá CĐ1994)tăng bình quân 32,62%/năm, trong đó ngành công nghiệp tăng 34,12%/năm, cụ thể: công nghiệp Nhà nước tăng 12,38%/năm, công nghiệp ngoài quốc doanh tăng 24,2%/năm và công nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng 37,06%/năm. Đưa quy mô giá trị tăng thêm ngành công nghiệp - xây dựng (theo giá CĐ 1994) năm 2008 lên 6.499,4 tỷ đồng, đạt tốc độ tăng trưởng bình quân 26,85%/năm.
* Các ngành dịch vụ:
Hoạt động của các ngành dịch vụ đều có bước phát triển khá. Quy mô giá trị tăng thêm (GDP ) liên tục tăng qua các năm, cụ thể: năm 2006 đạt 2.044,9 tỷ đồng, năm 2007 đạt 2.437,5 tỷ đồng, năm 2008 ước đạt 2.834,1tỷ đồng, tốc độ tăng trưởng bình quân 3 năm giai đoạn 2006 - 2008 là 19,35%/năm đã đạt và vượt so với mục tiêu kế hoạch đề ra (tăng 13-14%/năm).
* Ngành nông, lâm nghiệp, thuỷ sản:
Từ năm 2004 đến nay, đã vượt qua mọi khó khăn về thiên tai, dịch bệnh, về những biến động bất thường của nền kinh tế,… từng bước phát triển ổn định, đời sống, kinh tế – xã hội khu vực nông nghiệp nông thôn có nhiều thay đổi và khởi sắc. Sản xuất nông nghiệp đã và đang từng bước chuyển dần sang sản xuất hàng hoá, đã xuất hiện một số mô hình trang trại, hợp tác xã sản xuất hàng hoá với khối lượng lớn. Việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nông nghiệp đã có những chuyển biến mạnh mẽ, tỷ trọng chăn nuôi và thuỷ sản không ngừng tăng, các loại cây, con có giá trị kinh tế cao được chú trọng đưa vào sản xuất.
- Về trồng trọt:
Cơ cấu cây trồng chuyển dịch đúng hướng: giảm diện tích các loại cây có giá trị kinh tế thấp, tăng dần diện tích các loại cây có giá trị kinh tế cao. Tổng diện tích gieo trồng cây hàng năm cơ bản ổn định, đạt trung bình 116 ngàn ha/năm, trong đó diện tích cây lương thực có hạt tăng bình quân 1,09%/năm, Diện tích cây rau đậu tăng 2,19%/năm; Diện tích cây lạc tăng bình quân 4,83%; Riêng diện tích đậu tương giảm 7,94%/năm, diện tích cây chất bột như khoai, sắn giảm 6,9%/năm.
Sản lượng lương thực có hạt tăng bình quân 1,26%/năm, trung bình mỗi năm đạt 39,81 vạn tấn/năm (kế hoạch 40 vạn tấn/năm). Năm 2008, giá trị sản xuất trên 1 ha đất canh tác cây hàng năm ước đạt 50,2 triệu đồng/ha (giá TT), vượt mục tiêu kế hoạch đề ra đến 2010 (50triệu/ha).
- Về chăn nuôi:
Chăn nuôi phát triển ổn định, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng ngày càng tăng nhanh, giá trị sản xuất (theo giá CĐ 94) tăng bình quân 8,08%/năm. Công tác phòng chống dịch bệnh trong chăn nuôi đã được triển khai tốt, về cơ bản không có dịch bệnh lớn xảy ra. Các dự án về cải tạo giống đàn bò thịt và bò sữa của tỉnh tiếp tục được triển khai. Kết quả về tổng đàn đạt được như sau: đàn trâu giảm bình quân 6,92%/năm, đàn bò tăng bình quân 1,8%/năm, trong đó tỷ lệ bò lai tăng từ 53,5% năm 2005 lên 60,8% năm 2008, đàn bò sữa 2 năm giảm (2006, 2007) do giá sữa quá thấp, năm 2008 đã tăng lên trên 1 ngàn con. Đàn lợn tăng 2,37%/năm, đàn gia cầm tăng bình quân 10,75%/năm.
- Về dịch vụ trong nông nghiệp:
Các hoạt động dịch vụ nông nghiệp trên địa bàn được triển khai đạt kết quả tốt, đảm bảo cung ứng đầy đủ cho nhu cầu sản xuất của bà con nông dân. Công tác dự tính, dự báo sâu bệnh được duy trì thường xuyên, có thông báo chỉ đạo, hướng dẫn phòng trừ sâu bệnh nên đã giảm thiểu thiệt hại do sâu bệnh gây ra. Công tác khuyến nông đã xây dựng nhiều chuyên mục trên đài truyền hình tỉnh, báo Vĩnh phúc, tổ chức các lớp tập huấn kỹ thuật cho nông dân, xây dựng nhiều mô hình trình diễn các loại giống mới có năng suất và hiệu quả kinh tế cao, từng bước chuyển giao tiến bộ kỹ thuật mới đến cho nông dân. Công tác quản lý Nhà nước về giống cây trồng, vật tư, phân bón, thuốc BVTV được tăng cường, tình trạng kinh doanh giống và vật tư có phẩm cấp chất lượng kém đã được hạn chế.
- Về lâm nghiệp:
Trong những năm qua, công tác trồng và chăm sóc rừng được thực hiện tốt. Trong 3 năm (2006 – 2008) đã trồng mới được 2.398 ha rừng tập trung, trung bình mỗi năm trồng được 800 ha, trồng được 244,1ha cây phân tán, đạt trung bình mỗi năm 81,4 ha. Công tác phòng chống cháy rừng và bảo vệ rừng được duy trì thường xuyên nên thiệt hại không đáng kể. Tỷ lệ rừng che phủ tăng từ 20,28% năm 2005 tăng lên 22,03% năm 2008.
-Về thuỷ sản:
Thực hiện nghị quyết Đại hội đảng bộ tỉnh lần thứ XIV, trong những năm qua, đã có nhiều dự án cải tạo vùng trũng được triển khai thực hiện, cải tạo được 1 số diện tích ruộng trũng 1 vụ lúa bấp bênh thành 1 lúa ăn chắc + 1 vụ cá, góp phần giải quyết việc làm, tăng thu nhập trên diện tích đất canh tác và nâng cao đời sống cho nông dân vùng trũng. Diện tích nuôi trồng thuỷ sản trên toàn tỉnh đã tăng từ 5.585,8 ha năm 2005 lên 6.060,4 ha năm 2008 (tăng 474,6 ha). Ngành thuỷ sản đã có những bước phát triển khá, giá trị sản xuất tăng bình quân 5,1%/năm, sản lượng cá nuôi trồng tăng từ 8.513,2 tấn năm 2005 lên 11.481 tấn năm 2008, tăng bình quân 10,48%/năm.
- Về phát triển hợp tác xã :
Tính đến tháng 6/2008, trên địa bàn tỉnh có 427 hợp tác xã. So với năm 2005, giảm 8 hợp tác xã do một số hợp tác xã quy mô thôn, xóm sáp nhập thành quy mô toàn xã; có 9 hợp tác xã thành lập mới.
Hoạt động của các hợp tác xã nông nghiệp đã có nhiều chuyển biến, khắc phục được một phần tồn tại yếu kém, từng bước ổn định. Một số hợp tác xã làm dịch vụ thuần tuý về thuỷ lợi, điện, bảo vệ sản xuất, cung ứng giống, đã chuyển sang sản xuất kinh doanh đa ngành nghề ở các mức độ khác nhau như : sản xuất giống, kinh doanh vật tư nông nghiệp, kinh doanh xăng dầu, sản xuất vật liệu xây dựng, chăn nuôi gia súc, gia cầm, tiêu thụ sản phẩm. Bước đầu đã xuất hiện sự liên doanh liên kết giữa các hợp tác xã, giữa các hợp tác xã với ngân hàng, doanh nghiệp trong việc sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, vay vốn.
Công tác quản lý kinh tế, tài chính của các hợp tác xã nông nghiệp đã có sự đổi mới, từng bước thực hiện hạch toán theo đúng chế độ quy định, khắc phục được những yếu kém trước đây. Ở nhiều địa phương, hợp tác xã nông nghiệp vẫn đóng vai trò chủ yếu trong việc tham gia thực hiện các chương trình đưa tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất, kiên cố hoá kênh mương, dồn điền đổi thửa, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nông nghiệp nông thôn.
II. THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ XÂY DỰNG CƠ BẢN Ở TỈNH VĨNH PHÚC TRONG NHỮNG NĂM QUA
1. Quy mô vốn đầu tư XDCB
Trong những năm qua, đặc biệt từ sau ngày tái lập tỉnh Vĩnh Phúc (tháng 1/1997), tỉnh đã chú trọng phát huy các nguồn lực, lợi thế của địa phương để phát triển kinh tế xã hội. Những năm đầu sau khi mới tách tỉnh, điều kiện cơ sở vật chất, hạ tầng kỹ thuật của Tỉnh còn nghèo nàn, lạc hậu, đó là yếu tố quan trọng ảnh hưởng tới sự phát triển kinh tế xã hội. Nắm được điều đó, trong thời gian qua, đặc biệt từ sau năm 2000, tỉnh đã chú trọng cải thiện cơ sở vật chất, hạ tầng kỹ thuật nhằm thu hút vốn đầu tư, tạo điều kiện sản xuất kinh doanh phát triển, trong đó hoạt động đầu tư XDCB có vai trò quan trọng hàng đầu. Đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế xã hội của tỉnh, công tác đầu tư xây dựng cơ bản tại Vĩnh Phúc khá sôi động và phát triển mạnh mẽ, phạm vi đầu tư rộng khắp ở tất cả các địa bàn thành phố thị xã và các huyện.
Quy mô vốn đầu tư XDCB của Tỉnh tăng mạnh qua các năm. Để thấy rõ điều này, ta xem xét bảng sau:
BẢNG 1 : VỐN ĐẦU TƯ XDCB TRONG TỔNG VỐN ĐẦU TƯ XÃ HỘI TỈNH VĨNH PHÚC GIAI ĐOẠN 2004-2008
(Đơn vị : tỷ đồng )
Năm
Vốn đầu tư toàn xã hội
Vốn đầu tư XDCB
Tỷ lệ (%)
2004
6,061.07
5,061.00
83,5%
2005
7,525.07
6,618.00
87.9%
2006
9,278.16
7,905.00
85.2%
2007
9,395.97
8,400.00
89.4%
2008
10,738.5
8,870.00
82.6%
Nguồn : Sở kế hoạch và đầu tư tỉnh Vĩnh Phúc
Như vậy, ta thấy quy mô vốn đầu tư toàn xã hội tỉnh Vĩnh Phúc qua một số năm từ 2004-2008 có xu hướng tăng liên tục, tăng đều và khá ổn định qua các năm, năm sau cao hơn năm trước, với tốc độ tăng trung bình là 15.8%, cả vốn đầu tư trong nước và vốn đầu tư nước ngoài. Điều đó cho thấy Vĩnh Phúc đã làm khá tốt công tác thu hút vốn đầu tư nói chung cũng như vốn đầu tư xây dựng cơ bản nói riêng. Qua bảng, ta cũng thấy được tỷ lệ vốn đầu tư XDCB so với tổng vốn đầu tư toàn xã hội của tỉnh Vĩnh Phúc giai đoạn 2004-2008 chiếm tỷ lệ khá cao, đều chiếm trên 80%, điều đó cho thấy Vĩnh Phúc đang tích cực đầu tư xây dựng cơ bản tạo tiền đề, cơ sở vật chất hạ tầng vững chắc cho phát triển kinh tế của tỉnh.
Tổng số dự án đầu tư xây dựng cơ bản của tỉnh Vĩnh Phúc từ năm 2004 đến hết năm 2008 là : 503 dự án
Trong đó:
Số dự án FDI là 155dự án
Số dự án DDI là 348 dự án
Như vậy ta thấy số dự án FDI khá nhiều, chiếm tới 30,8% tổng số dự án đầu tư XDCB trên địa bàn tỉnh, điều đó cho thấy tỉnh đã khá thành công trong việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào địa bàn tỉnh.
Tình hình thực hiện vốn đầu tư xây dựng cơ bản qua từng năm và trong cả giai đoạn 2004-2008 được thể hiện trong bản số liệu sau đây :
BẢNG 2 : TÌNH HÌNH THỰC HIỆN VỐN ĐẦU TƯ XDCB GIAI ĐOẠN 2004-2008
Năm
Kế hoạch năm
(tỷ đồng )
Vốn đầu tư thực hiện
(tỷ đồng)
Tỷ lệ hoàn thành
( % )
2004
3,007.13
5,061.00
168.3%
2005
7,435.9
6,618.00
89%
2006
8,526.58
7,905.00
92.71%
2007
7,304.34
8,400.00
115%
2008
9,051.02
8,870.00
98%
Tổng
35,324.97
36,854
Nguồn : Sở kế hoạch & đầu tư tỉnh Vĩnh Phúc
Trong giai đoạn này, có năm 2004 và 2007 các công trình thực hiện đạt được và vượt kế hoạch được giao, đặc biệt là năm 2004, tỷ lệ hoàn thành đạt cao, 168,3%,có được kết quả vậy là nhờ các ngành,các cấp của Tỉnh nhất là các khai ngành tổng hợp như sở Kế hoạch và Đầu tư, Sở Tài chính đã tích cực thác vốn từ Trung ương; giải ngân các công trình chuyển tiếp thuộc kế hoạch 2004 đạt kết quả cao,kế hoạch hoá đầu tư 2004 từ nguồn ngân sách tập trung được thực hiện tốt, quản lý đầu tư xây dựng đã đi vào nề nếp. Năm 2005 công trình không đạt kế hoạch là do trong năm, chính phủ ra nghị định 16/2005/NĐ-CP về quản lý và đầu tư xây dựng công trình theo Luật Xây Dựng năm 2003. Mặc dù đã có thông tư 08/2005/TT-BXD hướng dẫn song vẫn còn nhiều bất cập,nhiều chủ đầu tư, cơ quan chuyên môn hiều chưa đúng tinh thần của Nghị định nên có một số quyết định chưa phù hợp. Các dự án phải bổ sung nhiều lần dẫn tới thời gian chuẩn bị đầu tư kéo dài ảnh hưởng đến tiến độ dự án.Công tác thẩm định dự án, thẩm định thiết kế cơ sở, thẩm định dự toán ... khi thẩm định định mức và đơn giá ban hành chưa sát với thực tế còn nhiều tranh cãi, thời gian thẩm định còn kéo dài. Đấu thầu thiếu tính cạnh tranh, hầu hết chủ đầu tư đều không muốn đấu thầu rộng rãi, chủ yếu xin được đấu thầu hạn chế. Các nhà thầu xây lắp hầu hết không thực hiện đúng cam kết ứng vốn khi tham gia đấu thầu .
2. Nguồn vốn đầu tư xây dựng cơ bản
Việc xem xét vốn đầu tư XDCB theo nguồn vốn không những cho ta thấy được các nguồn vốn để đầu tư XDCB mà còn cho thấy tỷ trọng giữa các nguồn vốn, nguồn nào là quan trọng, chủ yếu, nguồn nào có tiềm năng nhưng vẫn chưa phát huy hết. Từ đó sẽ giúp cho tỉnh có những biện pháp tốt để huy động, thu hút các nguồn vốn đầu tư XDCB vào địa bàn tỉnh.
BẢNG 3 : VỐN ĐẦU TƯ XDCB THỰC HIỆN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH VĨNH PHÚC GIAI ĐOẠN 2004-2008
Đơn vị : Tỷ đồng
Năm
2004
2005
2006
2007
2008
Tổng
5,061.00
6,618.00
7,905.00
8,400.00
8,870.00
I.Vốn do địa phương quản lý
3,306.00
4,318.00
5,345.00
5,460.00
4,715.00
1
Vốn NSNN
666.00
783.00
1,500.00
1,500.00
1,140.00
2
Vốn tín dụng đầu tư phát triển NN
20.00
5.00
30.00
40.00
45.00
3
Vốn đầu tư DNNN
20.00
30.00
15.00
20.00
30.00
4
Vốn dân cư và DN ngoài QD
2,000.00
2,000.00
2,300.00
2,400.00
2,250.00
5
Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
600.00
1,500.00
1,500.00
1,500.00
1,250.00
II.Vốn do TW đầu tư trên địa bàn
1,755.00
2,300.00
2,560.00
2,940.00
4,155.00
1
Vốn đầu tư NSNN
155.00
200.00
250.00
320.00
380.00
2
Vốn tín dụng đầu tư phát triển NN
100.00
100.00
110.00
120.00
125.00
3
Vốn đầu tư DNTW và ngoài tỉnh ( DDI )
1,500.00
2,000.00
2,200.00
2,500.00
3,650.00
Nguồn: Sở kế hoạch và đầu tư tỉnh Vĩnh Phúc
Qua bảng, ta thấy tổng vốn đầu tư xây dựng cơ bản trên địa bàn tỉnh có xu hướng tăng liên tục qua các năm từ 2004 – 2008. Trong cơ cấu vốn đầu tư, ta thấy các nguồn vốn đầu tư chiếm tỷ trọng lớn là những nguồn vốn đầu tư : Vốn dân cư, xã, phường và vốn tự có của doanh nghiệp ngoài quốc doanh, vốn của Bộ ngành TW và vốn FDI đầu tư trên địa bàn, tổng ba nguồn vốn này thường chiếm trên 80% tổng vốn đầu tư xây dựng cơ bản trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc từ năm 2004 - 2008. Nguồn vốn đầu tư của khu vực dân cư và tư nhân trong địa bàn là một trong những nguồn vốn khá quan trọng đối với sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Vĩnh Phúc. Vốn trong dân là nguồn vốn được huy động từ dân cư , phường xã , hợp tác xã. Qua những năm gần đây, nguồn vốn này ngày càng tăng, góp phần đáng kể vào việc đầu tư phát triển của tỉnh Vĩnh Phúc. Vốn đầu tư xây dựng của khu vực dân cư chiếm tỷ trọng cao cho thấy nguồn vốn to lớn của khu vực dân cư và có thể huy động cho đầu tư phát triển, và cũng cho thấy tiềm năng, nhu cầu phát triển kinh tế của tỉnh trong những năm tiếp theo. Đây là một lợi thế của Tỉnh Vĩnh Phúc vì đầu tư xây dựng là loại hình đầu tư dài hạn, kết quả là những công trình có thể sử dụng trong thời gian dài, mục đích nhằm tạo ra cơ sở vật chất lâu dài cho quá trình phát triển kinh tế cũng như xã hội. Đầu tư xây dựng cơ bản luôn là yếu tố đi trước tạo tiền đề, nền tảng, tạo điều kiện cho các hoạt động đầu tư khác được tiến hành một cách thuận lợi, tạo cơ sở vật chất cho công việc sản xuất kinh doanh sau này.
Như vậy trong giai đoạn 2004 – 2008, trong tổng khối lượng vốn đầu tư toàn tỉnh Vĩnh Phúc thì vốn đầu tư của các bộ ngành TW đầu tư trên địa bàn tỉnh chiếm tỷ lệ cao nhất đạt 31,72%; sau đó tới nguồn vốn của khu vực dân cư, xã, phường : 30,56%, Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài chiếm 17% với hàng loạt những công trình lớn về giao thông, thủy lợi; vốn đầu tư từ ngân sách tỉnh chiếm tỷ lệ 15% , với các dự án đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, công trình nhà làm việc của các cơ quan đoàn thể, giao thông nội tỉnh. Đánh giá về cơ cấu vốn đầu tư giai đoạn 2004 – 2008 của tỉnh Vĩnh Phúc cho thấy vốn của bộ ngành TW đầu tư trên địa bàn tỉnh chiếm tỷ trọng cao điều này là hoàn toàn hợp lý vì đầu tư xây dựng cơ bản đòi hỏi lượng vốn lớn, thời gian thu hồi vốn dài nên ít thu hút được các doanh nghiệp bỏ vốn đầu tư. Bên cạnh đó, ta thấy vốn trong dân cư là rất lớn, là một nguồn tiềm năng nếu biết huy động, vốn từ ngân sách tỉnh đóng vai trò quan trọng, từ đó đặt ra một yêu cầu là làm sao huy động tốt nguồn vốn trong dân cư nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế xã hội của địa phương. Nguồn vốn FDI cũng là nguồn vốn quan trọng do các doanh nghiệp nước ngoài bỏ vốn đầu tư trên địa bàn tỉnh,đây cũng là nguồn chiếm tỷ trọng khá cao trong cơ cấu vốn đầu tư XDCB của tỉnh.
3.Đầu tư xây dựng cơ bản phân theo ngành
Phân loại vốn đầu tư xây dựng cơ bản theo ngành kinh tế nhằm mục đích quản lý việc sử dụng vốn đầu tư xây dựng cơ bản của các ngành kinh tế hiệu quả hơn, đánh giá hiệu quả của vốn đầu tư xây dựng cơ bản theo các ngành kinh tế, qua đó xem xét tính cân đối của việc phân bổ vốn đầu tư xây dựng cơ bản phù hợp với mục tiêu, định hướng phát triển của Tỉnh. Tình hình thực hiện vốn đầu tư xây dựng cơ bản theo ngành phản ánh khối lượng vốn đầu tư xây dựng thực hiện của từng ngành trong từng năm và trong cà giai đoạn 2004-2008, Qua đó cho thấy tiến độ thực hiện đầu tư xây dựng cơ bản của các ngành, từ đó có những biện pháp phù hợp đảm bảo tiến độ của các công trình đối với từng ngành; mặt khác nó cũng cho thấy được ngành nào có khối lượng vốn đầu tư thực hiện lớn nhất trong kỳ, vốn đầu tư tập trung vào những ngành nào, có phù hợp với định hướng, mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của Tỉnh hay không.
Cơ cấu vốn đầu tư là quan hệ tỷ lệ khối lượng vốn đầu tư vào các ngành kinh tế, các khu vực và các vùng kinh tế cũng như các quan hệ trong thành phần kinh tế, tính chất chi phí và các loại hình đầu tư. Cơ cấu đầu tư thực chất phản ánh mục tiêu phát triển kinh tế của đất nước trong từng giai đoạn nhất định. Do vậy, nghiên cứu cơ cấu đầu tư cho phép rút được những kết luận đối với việc vận dụng các quy luật kinh tế, cũng như các chủ trương phát triển kinh tế của Đảng, Nhà nước.
Giữa cơ cấu đầu tư và cơ cấu kinh tế có một mối liên hệ mật thiết và tác động qua lại với nhau, điều này thể hiện ở chỗ tỷ lệ các ngành kinh tế được đặc trưng bởi cơ cấu tổng giá trị sản lượng trong các ngành cũng như trong nội bộ nền kinh tế. Hơn nữa cơ cấu vốn đầu tư không chỉ ảnh hưởng đến nhịp độ phát triển kinh tế mà còn ảnh hưởng đến tính chất của sự phát triển đó. Nhiệm vụ cơ bản của phân tích cơ cấu ngành của vốn đầu tư xây dựng cơ bản là chỉ ra được tính hợp lý trong bố trí vốn đầu tư giữa các ngành trên cơ sở xem xét tác động của đầu tư ở các ngành đến việc thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế của cả giai đoạn. Đồng thời nghiên cứu cơ câu đầu tư xây dựng cơ bản ngành là cơ sở để hoàn thiện cơ cấu đầu tư của cả nền kinh tế. Do đó nghiên cứu cơ cấu đầu tư xây dựng cơ bản ngành là cơ sở để hoàn thiện cơ cấu đầu tư của cả nền kinh tế. Từ đó ta thấy được nghiên cứu cơ cấu đầu tư xây dựng cơ bản theo ngành là rất cần thiết.
Dưới đây là khối lượng vốn đầu tư xây dựng cơ bản theo ngành kinh tế tỉnh Vĩnh Phúc qua một số năm từ 2002-2008:
BẢNG 4 : VỐN ĐẦU TƯ XDCB THỰC HIỆN THEO NGÀNH
(Đơn vị tính : tỷ đồng)
STT
Ngành
2004
2005
2006
2007
2008
1
Công nghiệp
328.69
430.53
815.10
889.01
1,048.11
2
Nông lâm nghiệp
725.12
1,105.64
1,092.02
1,178.69
1,332.04
3
Quản lý NN
341.18
445.62
444.7
455.27
394.29
4
Giao thông
1,541.1
2,014.4
1,696.3
1,777.3
1.756.4
5
Cơ sở hạ tầng đô thị
255.31
333.69
574.88
601.86
592.47
6
KHCN-MT
144.01
188.47
270.97
296.94
356.63
7
GD – ĐT
520.78
680.99
1,106.7
1,176.0
1,241.8
8
Ytế-dịch vụ XH
174.6
228.32
272.72
289.8
306.02
9
Văn hoá,thông tin thể thao
448.62
586.68
698.81
744.87
797.58
10
Hành chính công cộng
33.06
43.18
53.45
54.60
47.15
11
Các ngành khác
223.53
292.35
559.19
596.40
640.28
Tổng
5,061.00
6,618.00
7,905.00
8,400.00
8,870.00
Nguồn : Sở kế hoạch và đầu tư tỉnh Vinh Phúc
Trong cơ cấu vốn đầu tư xây dựng cơ bản, nguồn vốn đầu tư tỉnh Vĩnh Phúc các ngành chiếm tỷ trọng vốn đầu tư cao trong giai đoạn từ 2004-2008 đó là : Giao thông (25%), Nông lâm nghiệp (15%) và giáo dục - đào tạo (14 %). Sở dĩ có sự tập trung vốn đầu tư xây dựng cơ bản vào 3 ngành nêu trên là do tỉnh Vĩnh Phúc mới được tái lập (năm 1997), cơ sở hạ tầng phục vụ cho công tác quản lý cũng như điều kiện phục vụ cho các hoạt động sản xuất kinh doanh chưa được hoàn thiện. Mặt khác do hệ thống giao thông trên địa bàn tỉnh còn nhiều bất cập, chưa đáp ứng tốt được nhu cầu phát triển kinh tế xã hội. Các dự án thuộc lĩnh vực giao thông lại luôn đòi hỏi lượng vốn khá lớn, do vậy tỷ trọng vốn dành cho ngành giao thông luôn cao hơn các ngành khác cũng là điều dễ hiểu.
Giáo dục đào tạo chiếm một tỷ lệ vốn đầu tư xây dựng cơ bản lớn trong cơ cấu vốn đầu tư xây dựng cơ bản là do trong giai đoạn 2004-2008 hàng loạt các công trình xây dựng trường học được phê duyệt và tiến hành xây dựng như : Trường dạy nghề Việt Đức, Trường cao đẳng kinh tế kỹ thuật Vĩnh Phúc, Trường THPT Tam Dương II, trường THPT bán công Nguyễn Duy Thì, THPT bán công Trần Hưng Đạo....
Nông lâm nghiệp cũng chiếm lượng vốn đáng kể là nhờ các dự án kiên cố hoá kênh mương và đê điều ở các địa phương. Vĩnh Phúc vốn là một tỉnh nông nghiệp, người dân làm nông nghiệp và diện tích đất nông nghiệp khá lớn. Hơn nữa, trong những năm gần đây tình hình mưa lũ diễn biến thất thường,nên tỉnh đã tập trung đầu tư kiên cố lại các tuyến đê xung yếu trên địa bàn. Do đó mà lượng vốn đầu tư vào nông lâm nghiệp, thuỷ lợi cũng chiếm tỷ trọng cao. Các dự án giao thông cũng là đối tượng được tập trung vốn đầu tư lớn, như dự án : đường tỉnh lộ 295, tổng vốn đầu tư là 69,412 triệu đồng, dự án đường tỉnh lộ 271, tổng vốn đầu tư là 36,642 triệu đồng...
Trong cơ cấu vốn đầu tư XDCB qua các năm giai đoạn 2004-2008 thì năm 2008 có tổng vốn đầu tư cao nhất, đạt 8.870 tỷ đồng. Điều đó cho thấy nhu cầu XDCB của tỉnh vẫn đang trên đà tăng mạnh và cơ sở hạ tầng của tỉnh vẫn đang hoàn thiện hơn.
Việc nguồn vốn đầu tư xây dựng cơ bản tập trung vào những ngành như : Giao thông, giáo dục và nông lâm nghiệp là hoàn toàn dễ hiểu. Qua đó cho thấy chủ trương của Tỉnh là tập trung phát triển những ngành cơ bản, có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy kinh tế xã hội phát triển, đảm bảo nhu cầu sinh hoạt, chăm sóc sức khoẻ cho người dân. Việc đầu tư vào ngành giao thông đối với tỉnh Vĩnh Phúc nhằm hoàn thiện hệ thống giao thông trong tỉnh, tạo điều kiện thuận lợi cho việc đi lại của nhân dân và hơn nữa là nhằm thu hút các nhà đầu tư đến với tỉnh Vĩnh Phúc, gia tăng việc lưu thông, trao đổi hàng hoá trên địa bàn Tỉnh. Theo xu hướng bùng nổ công nghệ, hội nhập như hiện nay mà nguồn lao động có trình độ chưa cao, do đó để bắt kịp với kỹ thuật công nghệ,tỉnh đã đầu tư một phần vào giáo dục nhằm tạo nguồn lao động có tay nghề, chất lượng ngay tại địa bàn , như trường dạy nghề Việt - Đức,Trung cấp kỹ thuật...Đầu tư cho Y tế - xã hội nhằm tạo cơ sở hạ tầng hiện đại phục vụ cho công tác chữa bệnh cũng như chăm sóc sức khoẻ nhân dân. Hơn nữa cơ cấu vốn đầu tư XDCB thực hiện theo ngành của Vĩnh Phúc cũng cho thấy một cơ cấu khá hợp lý và vững chắc, Vĩnh Phúc là tỉnh mới chuyển sang phát triển sản xuất công nghiệp, dịch vụ từ một tỉnh nông nghiệp nghèo nàn, từ đó cần đầu tư tạo cơ sở hạ tầng kỹ thuật vững chắc thì mới phát triển bền vững được.
4. Vốn đầu tư xây dựng cơ bản theo vùng
Cách phân loại này cho thấy vốn đầu tư xây dựng có bản theo các địa phương trong tỉnh Vĩnh Phúc; cho thấy cơ cấu vốn đầu tư xây dựng cơ bản của các huyện, thành phố so với tổng vốn đầu tư xây dựng cơ bản của Tỉnh.
Nghiên cứu, đánh giá cơ cấu, khối lượng vốn đầu tư XDCB của thành phố và các huyện trong địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc trong giai đoạn 2004-2008 nhằm rút ra những nhận định về công tác xây dựng của từng vùng. Đồng thời dựa trên cơ sở là các quy hoạch phát triển kinh tế xã hội của tỉnh Vĩnh Phúc, quy hoạch của địa phương, đánh giá đúng đắn, hiệu quả của các công trình xây dựng trong từng địa phương, xem xét huyện nào có quy mô đầu tư xây dựng lớn nhất, phần nào đánh giá được nhu cầu phát triển kinh tế của vùng.
Ta xem xét vốn đầu tư XDCB thực hiện theo vùng thông qua bảng sau :
BẢNG 5 : VỐN ĐẦU TƯ XDCB THỰC HIỆN PHÂN THEO VÙNG
STT
Địa điểm
Năm
Tổng
2004
2005
2006
2007
2008
1
Tp Vĩnh Yên
1,858.72
2,457.40
2,975.04
3,067.60
3,158.43
13,517.19
2
Mê Linh
725.18
935.20
1,109.13
1,213.80
1,321.29
5,304.60
3
Bình Xuyên
653.57
803.66
952.98
1,150.25
1,215.19
4,775.65
4
Tam Dương
354.27
463.26
553.35
587.21
620.9
2,578.99
5
Lập Thạch
263.05
337.9
395.25
421.32
463.6
1,881.12
6
Vĩnh Tường
516.71
717.98
859.53
812.23
875.41
3,781.86
7
Yên Lạc
511.32
663.65
758.17
764.43
792.62
3,490.19
8
Tam Đảo
178.18
238.95
301.19
383.16
422.56
1,524.04
Tổng
5,061.00
6,618.00
7,905.00
8,400.00
8,870.00
36,854.00
Nguồn : Sở KH & ĐT tỉnh Vĩnh Phúc
Qua bảng trên, Thành phố Vĩnh Yên chiếm khối lượng vốn đầu tư xây dựng cơ bản cao nhất trong 8 huyện thị, với tổng số vốn đầu tư XDCB giai đoạn 2004-2008 là 13.517,19 tỷ đồng, chiếm 38% tổng vốn đầu tư xây dựng cơ bản toàn Tỉnh; tiếp theo là Huyện Mê Linh với số vốn là 5.304,6 tỷ đồng, chiếm 14% và huyện Bình Xuyên với số vốn là 4.775,65 tỷ đồng, chiếm 13% . ._.Nhìn chung vốn đầu tư xây dựng cơ bản của các huyện tăng theo từng năm trong giai đoạn 2004-2008, trung bình năm sau tăng hơn năm trước khoảng 31 %.
Việc phân chia vốn đầu tư xây dựng cơ bản theo vùng nhằm mục đích đánh giá xem vùng nào thu hút đầu tư xây dựng cơ bản nhiều, đánh giá nhu cầu vốn đầu tư xây dựng cơ bản của vùng đó cũng như chính sách phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Những nơi nhu cầu phát triển kinh tế lớn sẽ đòi hỏi một cơ sở hạ tầng kỹ thuật tương ứng, cụ thể là nhu cầu về nhà xưởng, hệ thống giao thông, hệ thống cấp thoát nước, hệ thống điện ... Đối với tỉnh Vĩnh Phúc, theo như bảng trên ta thấy khối lượng vốn đầu tư xây dựng cơ bản tập trung ở thành phố Vĩnh Yên và huyện Mê Linh, Bình Xuyên. Điều đó hoàn toàn thống nhất với cơ cấu vốn đầu tư xây dựng cơ bản phân chia theo ngành kinh tế. Qua đó ta thấy điều kiện thuận lợi cũng như nhu cầu phát triển kinh tế cao ở hai vùng này : Thành phố Vĩnh Yên là trung tâm kinh tế, chính trị văn hoá xã hội của Tỉnh, do đó hoạt động kinh tế cũng như các hoạt động chính trị đều tập trung ở đây, hơn nữa trên địa bàn thành phố mới có khu công nghiệp Khai Quang đang đi vào hoàn thiện cơ sở hạ tầng kỹ thuật để sản xuất, do đó yêu cầu về một hệ thống vật chất, cơ sở hạ tầng tương xứng là hoàn toàn hợp lý; huyện Mê Linh cũng là một trung tâm kinh tế lớn thứ hai của tỉnh Vĩnh Phúc với khu công nghiệp Quang Minh I, Quang Minh II có quy mô lớn, vì vậy cũng đòi hỏi phải có một cơ sở hạ tầng phù hợp, Huyện Bình Xuyên cũng có lượng vốn đầu tư XDCB khá cao là một phần vì hai khu công nghiệp Bình Xuyên và Bá Thiện đang trong quá trình hoàn thiện và xây dựng chuẩn bị đi vào sản xuất nên đòi hỏi lượng vốn lớn. Huyện Tam Đảo là một huyện miền núi, kinh tế còn nhiều khó khăn và tỉnh cũng đang từng bước tạo điều kiện phát triển kinh tế, nâng cao đời sống nhân dân và tạo sự phát triển đồng đều giữa các vùng. Lượng vốn đầu tư XDCB vào huyện thời gian qua đã tăng lên đáng kể với các chương trình mục tiêu quốc gia như chương trình 134, 135,...
Vốn đầu tư xây dựng tập trung ở thành phố Vĩnh Yên và huyện Mê Linh cho thấy đây là hai trung tâm kinh tế chính trị văn hoá xã hội lớn nhất của Tỉnh, nhu cầu phát triển kinh tế ở hai khu vực này là rất lớn.Từ phát triển kinh tế của hai khu vực này sẽ tạo thành điểm tựa, vùng trọng điểm để thúc đấy sự phát triển của các vùng còn khó khăn, lạc hậu khác trên địa bàn như huyện Tam Đảo, Lập Thạch.
Bảng trên cũng cho thấy cơ cấu vốn đầu tư xây dựng cơ bản tỉnh Vĩnh Phúc là tương đối hợp lý, ngoài ra hai vùng là thành phố Vĩnh Yên và huyện Mê Linh thì cơ cấu vốn đầu tư giữa các huyện còn lại là tương đối đồng đều, cho thấy việc phân bổ vốn cho các huyện là tương đối tốt, tạo điều kiện cho các huyện phát triển kinh tế xã hội, tạo nên sự phát triển kinh tế bền vững, không quá chênh lệch kinh tế giữa các vùng trong tỉnh. Huyện Tam Đảo và Lập Thạch có số vốn đầu tư thấp hơn so với các vùng khác một phần là do hai địa phương này là vùng miền núi, địa hình khó khăn cho phát triển kinh tế, phần khác là do vốn đầu tư XDCB là có hạn nên tỉnh cần cân nhắc đầu tư phát triển những địa phương có lợi thế phát triển kinh tế trước. Tuy nhiên, lượng vốn đầu tư vào hai vùng trên cũng đã có sự cải thiện đáng kể trong thời gian qua, đó là chính sách đầu tư đúng đắn của tỉnh nhằm tạo sự phát triển kinh tế bền vững. Cũng qua cơ cấu vốn đầu tư xây dựng cơ bản theo vùng, ta thấy cần tập trung đầu tư vào vùng nào cho phù hợp với mục tiêu, định hướng phát triển trong tương lai, tránh đầu tư dàn trải, lãng phí, tránh tập trung vào một vùng mà bỏ quên các vùng khác, gây ra hiện tượng mất cân bằng trong phát triển kinh tế giữa các vùng và không đảm bảo phát triển bền vững nền kinh tế.
5. Vốn đầu tư xây dựng cơ bản chia theo loại hình doanh nghiệp :
Ta xem xét nguồn vốn đầu tư xây dựng cơ bản chia theo loại hình doanh nghiệp thông qua bảng sau. Để dễ dàng trong quá trình nghiên cứu và không mất tính tổng quát, ta chia vốn đầu tư theo loại hình doanh nghiệp thành vốn đầu tư XDCB của doanh nghiệp nhà nước, của doanh nghiệp nước ngoài và của các dự án chung :
BẢNG 6: VỐN ĐẦU TƯ XDCB CHIA THEO LOẠI HÌNH DOANH NGHIỆP
Đơn vị : Tỷ đồng
STT
Loại hình doanh
nghiệp
2004
2005
2006
2007
2008
1
DNNN
1,520
2,030
2,215
2,974
3,680
2
DA chung
2,941
3,088
4,263
4,834
4,606
3
DN nước ngoài
600
1,500
1,573
2,408
2,583
Tổng
5,061
6,618
7,905
8,400
8,870
Nguồn : Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Vĩnh Phúc
Theo cách phân chia này, nguồn vốn của các dự án chung chiếm khối lượng vốn cao nhất trong các loại hình doanh nghiệp đầu tư trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc. Tiếp đó là đến các doanh nhiệp nhà nước, và doanh nghiệp nước ngoài. Vốn đầu tư của các doanh nghiệp nước ngoài trong thời gian qua đã tăng khá cao về số tuyệt đối nhưng xét cơ cấu thì vẫn chưa cao so với doanh nghiệp trong nước, Vốn của các dự án chung năm 2008 có sự suy giảm so với năm 2007 và 2006 một phần vì ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế thế giới đến nền kinh tế nước ta, khiến cho nhiều dự án bị tạm dừng cấp vốn đầu tư.
6. Kết quả và hiệu quả đầu tư xây dựng cơ bản tỉnh Vĩnh Phúc
6.1. Kết quả đầu tư xây dựng cơ bản trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc
Trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc hàng năm có khoảng 300-350 công trình xây dựng hoàn thành và được đưa vào khai thác sử dụng, đã mang lại những hiệu quả to lớn cho nền kinh tế, góp phần đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế, xã hội của địa phương. Trong giai đoạn 2004-2008, cùng với sự đổi mới và phát triển kinh tế chung toàn tỉnh, cơ cấu kinh tế thay đổi theo hướng tích cực, các ngành kinh tế quan trọng có tốc độ phát triển khá, ngành XDCB với vai trò quan trọng của mình cũng thu được kết quả khả quan. Qua đó tạo điều kiện cho các ngành kinh tế khác phát triển, cải thiện hệ thống cơ sở hạ tầng, giao thông trong tỉnh, cũng như tạo thêm sức hút đối với các nhà đầu tư trong và ngoài nước đầu tư vào địa bàn tỉnh.
Để thấy được kết quả đầu tư XDCB trên địa bàn tỉnh, ta xét các chỉ tiêu kết quả kinh tế xã hội của tỉnh trong giai đoạn 2004-2008. Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân giai đoạn 2004 - 2008 của tỉnh tăng 20,42%/năm, cụ thể trong đó: công nghiệp - xây dựng tăng 26,85%/năm, dịch vụ tăng 19,35%/năm và nông - lâm nghiệp - thuỷ sản tăng 3,75%/năm. Ước thực hiện hết năm 2008, qui mô GDP (giá CĐ 94) đạt 10.863,3 tỷ đồng, bằng 93,5% mục tiêu đề ra đến năm 2010 (11.621 tỷ đồng).
GDP bình quân đầu người (theo giá TT) liên tục tăng, năm 2005 mới chỉ đạt 8,5 triệu đồng/người, đến năm 2007 đạt 15,3 triệu đồng/người (tương đương khoảng 950 USD/người) đã vượt mức bình quân chung cả nước. Ước thực hiện năm 2008 đạt 21,6 triệu đồng/người (khoảng trên 1.200 USD/người.
Trong giai đoạn 2004-2008, phần lớn nguồn vốn đầu tư XDCB được phân bổ cho các ngành, các lĩnh vực mũi nhọn, có tầm quan trọng chiến lược trong phát triển kinh tế-xã hội và đã thu được một số kết quả chủ yếu như sau
+ Các công trình nông nghiệp và thuỷ lợi ( trạm bơm, chuồng trại, đê điều...) :
Tổng vốn đầu tư thực hiện : 44.500 triệu đồng,
Tổng vốn đầu tư được phê duyệt là : 765.320 triệu đồng, bao gồm các công trình như gia cố lại 80km đê đã xuống cấp của các huyện, thị, xây dựng 18 trạm bơm đảm bảo tưới tiêu cho 8.672 ha, xây dựng 19 điểm canh đê. Các công trình này có ý nghĩa quan trọng vì trong thời gian gần đây, tình hình mưa lũ vào mùa mưa khá phức tạp, những công trình này sẽ góp phần vào việc phòng chống lũ lụt trên địa bàn, giảm thiểu hậu quả của thiên tai, lũ lụt tới sản xuất và đời sống người dân. Hệ thống thuỷ nông đã được hình thành rộng khắp trên địa bàn tỉnh, đảm bảo tưới tiêu cho trên 80% diện tích canh tác của tỉnh. Các vùng trọng điểm lúa của các huyện thị đã đảm bảo các công trình tưới tiêu phục vụ sản xuất, góp phần làm tăng năng suất nông nghiệp. Rất nhiều trạm bơm đã được hoàn thành như trạm bơm Thanh Điền, trạm bơm Đại Thịnh, Liễn Sơn…và hàng trăm trạm bơm nhỏ khác góp phần tăng năng lực tưới lên 1 vạn ha và trên 9.000ha được tưới bổ sung. Đã kiên cố hoá được 350 km kênh mương, hoàn thiện hạ tầng hệ thống thuỷ lợi, tạo điều kiện thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp đạt được hiệu quả cao.
Tuy vậy hầu hết các công trình thuỷ lợi đều được xây dựng từ những thập kỷ trước và đang trong tình trạng xuống cấp mặc dù đã được Nhà nước và nhân dân quan tâm tu bổ nhưng kết quả rất hạn chế, ảnh hưởng tới việc đẩy mạnh sản xuất, thâm canh đưa các tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất. Trong thời gian tới, tỉnh vẫn cần tiếp tục dành một phần vốn đầu tư vào nâng cấp hệ thống thuỷ lợi, kênh mương đã xuống cấp cho các vùng sản xuất nông nghiệp trên địa bàn.
+ Các công trình giao thông :
Tổng vốn đầu tư được phê duyệt cho các dự án là: 1.869.557 triệu đồng, tổng vốn thực hiện trong giai đoạn 2004-2008 là 476.925 triệu đồng. Hoạt động đầu tư XDCB vào giao thông đã làm nâng số km đường nhựa lên 487km năm 2008 trong khi đó con số này của năm 1997 chỉ có 192km, hiện nay 100% các tuyến đường đến trung tâm huyện và vùng trọng điểm đã được trải nhựa, hầu hết đường nông thôn, khu dân cư của các huyện đã được bê tông hoá. Tạo điều kiện tốt cho việc đi lại sinh hoạt và giao lưu buôn bán giữa các vùng, miền trên điạ bàn tỉnh. Kết quả đầu tư các dự án giao thông Quốc lộ và Tỉnh lộ đã tạo ra vị thế vô cùng thuận lợi và hấp dẫn cho đầu tư tại Vĩnh Phúc, cải thiện hoàn thành việc vận tải, lưu thông hàng hoá và rút ngắn được khoảng cách địa lý giữa các vùng kinh tế trong khu vực, tạo sự phát triển kinh tế cân đối giữa các vùng.
Các dự án giao thông trọng điểm: cải tạo nâng cấp Quốc lộ 2A, Quốc lộ 2B đã được hoàn thành, đưa vào khai thác, sử dụng. Các công trình hạ tầng ngoài hàng rào KCN thuộc huyện Bình Xuyên tổng mức đầu tư 160 tỷ đồng cũng được tập trung thực hiện, đã hoàn thành, bàn giao đi vào sử dụng trong năm 2007. Dự án Đường Nguyễn Tất Thành nối Quốc lộ 2A qua 4 khu công nghiệp tổng mức đầu tư là 283 tỷ đồng, đã được Bộ Tài chính thông báo cho vay 200 tỷ đồng, đã tổ chức đấu thầu và đền bù xong. Các tuyến tỉnh lộ khác được đầu tư bằng nguồn vốn NSNN như: Tỉnh lộ 308; Tỉnh lộ 312; Tỉnh lộ 305 (địa phận Yên Lạc); Tỉnh lộ 301; Tỉnh lộ 303; Tỉnh lộ 307; Tỉnh lộ 306. Các tuyến đường huyện lộ, các tuyến đường liên xã trên địa bàn các huyện, thị đã và đang triển khai 93 tuyến, với 279 km. Các công trình hạ tầng giao thông nông thôn cũng được quan tâm đầu tư như các chương trình bê tông hoá đường giao thông nông thôn.
+ Các công trình Giáo dục – đào tạo :
Tổng vốn đầu tư thực hiện : 136.700 triệu đồng, xây dựng hoàn chỉnh 358 phòng học, 3.244 m2 nhà ở nội trú cho trường trung học phổ thông và cao đẳng, các công trình cải tạo, nâng cấp trang thiết bị phòng học, từng bước nâng cao chất lượng giáo dục trên địa bàn tỉnh. Kết quả đầu tư XDCB trong giai đoạn vừa qua không thể không tính đến việc đầu tư xây dựng các trường cao đẳng, trung cấp kỹ thuật, trường dạy nghề nhằm phục vụ nhu cầu lao động có tay nghề tại chỗ trên địa bàn tỉnh cũng như cung cấp lao động có tay nghề, chất lượng cho các tỉnh lân cận .
+ Bưu chính viễn thông:
Hệ thống hạ tầng viễn thông được đầu tư và phát triển mạnh, cụ thể: các đơn vị như VNPT, Viettel, EVN đã đầu tư 80 trạm thu phát sóng thông tin di động (BTS) tương đương 300 tỷ đồng (trong đó EVN: 55 tỷ, các ngành khác 245 tỷ), nâng tổng số trạm BTS lên 160 trạm, cơ bản đảm bảo thông tin thông suốt trên địa bàn toàn tỉnh.
+ Hệ thống cấp nước:
Hệ thống cấp nước Phúc Yên sử dụng vốn ODA Italia cấp nước cho khu vực thị xã Phúc Yên, khu công nghiệp Bình Xuyên, một phần khu công nghiệp Bá Thiện và một phần huyện Mê Linh được đầu tư hoàn thiện.
Công ty Cấp thoát nước và môi trường số 1: Đầu tư hoàn thành hệ thống đường ống cấp nước cho huyện lỵ Tam Dương; Đường ống cấp nước khu vực phía Nam Vĩnh Yên (từ Chùa Phú - Quất Lưu); khởi công đường ống nối từ KCN Khai Quang cấp nước cho KCN Bá Thiện; Đã hoàn thành công tác chuẩn bị đầu tư cho dự án hệ thống cấp nước huyện lỵ Tam Đảo.
Hệ thống cấp nước Lập Thạch đầu tư bằng nguồn vốn NSNN, với tổng vốn gần 20 tỷ đồng đã cơ bản hoàn thành. Hệ thống cấp nước Vĩnh Tường đầu tư bằng nguồn vốn JBIC đã được khởi công thực hiện. Các hệ thống này sau khi hoàn thiện sẽ cung cấp nước sạch phục vụ cho đời sống của lượng lớn dân cư trên địa bàn các huyện, góp phần nâng cao đời sống cho người dân.
+ Xây dựng, cải tạo nâng cấp trụ sở làm việc các cơ quan Đảng, cơ quan Quản lý nhà nước và các Đoàn thể trên địa bàn tỉnh, góp phần nâng cao điều kiện làm việc của các cơ quan quản lý nhà nước trên địa bàn tỉnh. Tổng vốn đầu tư là : 67.800 triệu đồng, bao gồm : 48 trụ sở, với tổng diện tích sàn : 75,600m2.
+ Công trình Y tế, tổng vốn đầu tư thực hiện là : 41.000 triệu đồng, trong đó : đầu tư xây dựng nâng cấp mở rộng bệnh viện Đa khoa tỉnh Vĩnh Phúc là 56.000triệu đồng, dự án đã hoàn thành đưa vào sử dụng một số hạng mục và đang hoàn thiện những hạng mục còn lại. Ngoài ra còn có các dự án đầu tư nâng cấp, cải tạo cơ sở vật chất cho các bệnh viện tuyến huyện, thị nhằm đáp ứng nhu cầu chữa bệnh tại chỗ của người dân, tránh hiện tượng quá tải trong các bệnh viện tuyến tỉnh.
+ Các công trình văn hoá, du lịch - dịch vụ, thể thao, môi trường có tổng mức vốn đầu tư là : 34.566 triệu đồng. Với các dự án xử lý chất thải rắn, cải thiện vệ sinh môi trường trên địa bàn tỉnh, xây dựng cảnh quan đô thị, môi trường sạch đẹp. Các công trình thể dục thể thao như cải tạo nhà thi đấu tỉnh, phục vụ cho các phong trào thể dục thể thao toàn tỉnh và toàn quốc, xây dựng các sân vận động, nhà văn hoá cho các huyện thị trên địa bàn tỉnh.
Từ những kết quả cụ thể của công tác đầu tư xây dựng cơ bản trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc giai đoạn 2004-2008, cùng với sự phát huy tác dụng của các công trình xây dựng của những năm trước đó đã tạo ra một cơ sở hạ tầng, hệ thống giao thông, hệ thống công trình công cộng tương đối hoàn chỉnh trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc, đáp ứng phần nào nhu cầu phát triển kinh tế, xã hội của tỉnh. Tuy nhiên, tính đồng bộ của các công trình xây dựng, giao thông luôn là vấn đề bức xúc đối với tất cả các địa phương và đối với cả tỉnh Vĩnh Phúc. Nguồn vốn đầu tư tập trung cho xây dựng cơ bản phân bổ chủ yếu cho các trung tâm kinh tế lớn như Thành phố Vĩnh Yên, thị xã Phúc Yên, các thị trấn trung tâm của các huyện. Những năm tới tỉnh cần có một tỷ lệ vốn đầu tư phân bổ cho các huyện, đặc biệt là các huyện miền núi còn nhiều khó khăn để hoàn thiện hơn nữa một hệ thống liên thôn, liên xã đáp ứng nhu cầu đi lại, giao lưu kinh tế giữa các vùng trên địa bàn. Góp phần phát triển kinh tế, cải thiện đời sống cho các vùng miền núi, vùng khó khăn.
6.2. Hiệu quả đầu tư xây dựng cơ bản trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc
Qua đánh giá hiệu quả đầu tư để xem xét các thành quả đạt được từ hoạt động đầu tư XDCB cũng như những tồn tại nhằm rút ra những bài học trong quá trình quản lý kinh tế giúp cho đầu tư phát triển ngày càng đạt hiệu quả cao hơn, góp phần phát triển kinh tế xã hội của tỉnh và của đất nước .
Hiệu quả đầu tư phát triển nói chung và đầu tư XDCB nói riêng có mối liên hệ chặt chẽ đến hiệu quả sản xuất xã hội, bởi bất cứ hoạt động đầu tư nào nảy sinh thì trước tiên phải xem xét đến lợi ích mà nó mang lại cho xã hôi, cho cộng đồng. Nâng cao hiệu quả đầu tư không chỉ phụ thuộc vào số lượng, chất lượng của công trình xây dựng hoàn thành mà còn phụ thuộc rất nhiều vào việc tổ chức quản lý khai thác và sử dụng các sản phẩm đó. Nếu các sản phẩm xây dựng được khai thác và quản lý tốt thì sẽ đem lại hiệu quả lớn hơn nhiều lần.
Hoạt động nghiên cứu hiệu quả kinh tế xã hội của hoạt động đầu tư có ý nghĩa quan trọng và thiết thực, mục tiêu hàng đầu của các hoạt động đầu tư là các hiệu quả kinh tế - xã hội mà nó mang lại. Hiệu quả hoạt động đầu tư rất đa dạng nên phương pháp đánh giá hiệu quả kinh tế trong những trường hợp khác nhau có thể khác nhau tuỳ thuộc vào nội dung, mức độ, phạm vi của các kết quả đó. Hiệu quả kinh tế xã hội do đầu tư xây dựng cơ bản mang lại tương đối lớn, nhất là hoạt động đầu tư xây dựng cơ bản, nó tạo ra một hiệu ứng đầu tư định hướng, tạo cơ sở, nền tảng vật chất hạ tầng kỹ thuật để phục vụ các hoạt động sản xuất kinh doanh, lưu thông hàng hoá,góp phần phát triển kinh tế, nâng cao đời sống nhân dân.
Vĩnh Phúc là tỉnh mới tái lập, có xuất phát điểm thấp và dân số sống bằng nông nghiệp là chủ yếu, còn thiếu thốn về cơ sở vật chất, ngay từ những ngày đầu mới tái lập, Tỉnh đã có những kế hoạch, chiến lược phát triển đúng đắn , chuyển dần từ sản xuất nông nghiệp sang công nghiệp, những khu vực đất đai cằn cỗi, không có hiệu quả trong sản xuất nông nghiệp dần được quy hoạch thành các khu, cụm công nghiệp. Tỉnh từng bước tạo cơ sở vật chất hạ tầng vững chắc. Với tinh thần nỗ lực phấn đấu bằng nội lực của mình và sự giúp đỡ có hiệu quả của các Bộ, Ngành Trung ương. Kết quả đầu tư trong giai đoạn 2004-2008 như nêu trên đã tạo nên những chuyển biến tích cực có hiệu quả trong sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội của Vĩnh Phúc trong những năm tới. Ta xem xét hiệu quả đầu tư XDCB trên địa bàn tỉnh trên hai khía cạnh là hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội.
* Hiệu quả về kinh tế
Hoạt động đầu tư phát triển nói chung và hoạt động đầu tư xây dựng cơ bản nói riêng có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Hoạt động đầu tư xây dựng cơ bản luôn là hoạt động đầu tư tiên phong, tạo tiền đề, cơ sở cho hoạt động đầu tư phát triển khác được tiến hành, góp phần quan trọng trong việc thu hút vốn đầu tư vào địa bàn Tỉnh, làm cho nền kinh tế phát triển, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tích cực. Hoạt động đầu tư XDCB nhằm tạo ra cơ sở vật chất, cơ sở hạ tầng, những công trình phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh, hoạt động thương mại, giao lưu buôn bán giữa các vùng trong và ngoài Tỉnh. Các công trình đầu tư xây dựng cơ bản hầu hết đều là những công trình không đặt mục tiêu lợi nhuận lên hàng đầu, nó mang tính chất xã hội cao, đòi hỏi lượng vốn đầu tư lớn, thời gian thu hồi vốn dài .
Trong giai đoạn 2004-2008, cùng với sự phát huy tác dụng của các công trình xây dựng từ những năm trước và một loạt các dự án mới được phê duyệt trong giai đoạn đó, trong phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Vĩnh Phúc đã thu được những kết quả to lớn, hiệu quả kinh tế, xã hội mà các công trình đem lại là không thể phủ nhận. Tốc độ phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp tăng với tốc độ nhanh, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế đạt hiệu quả theo hướng tích cực.
Để thấy rõ được hiệu quả của hoạt động đầu tư XDCB, ta xét các chỉ tiêu hiệu quả sau, hệ thống các chỉ tiêu hiệu quả của đầu tư XDCB còn nhiều nhưng do việc thu thập số liệu có khó khăn nên ta xét một số chỉ tiêu sau.
BẢNG 7 : MỘT SỐ CHỈ TIÊU HIỆU QUẢ KINH TẾ CỦA ĐẦU TƯ XDCB TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH VĨNH PHÚC GIAI ĐOẠN
2004-2008.
Đơn vị: Tỷ đồng,giá TT
Chỉ tiêu
2004
2005
2006
2007
2008
Mức tăng giá trị sản xuất
3,372.21
6,145.61
10,691.0
16,087.36
21,213.52
Mức tăng thu ngân sách
713.53
880.05
1,028.88
1,170.51
1,362.45
Mức tăng tổng sản phẩm quốc nội
1,341.24
2,121.89
3,708.12
4,514.29
5,473.32
Vốn đầu tư XDCB
5061
6618
7905
8400
8870
Tỷ số mức tăng giá trị sản xuất/VĐT
0.65
0.92
1.35
1.91
2.39
T/s mức tăng thu NS/ VĐT
0.14
0.13
0.13
0.14
0.153
T/s mức tăng GDP/VĐT
0.26
0.32
0.46
0.53
0.61
Nguồn : Niên giám thống kê tỉnh Vĩnh Phúc
Qua bảng, ta thấy mức tăng của giá trị sản xuất so với vốn đầu tư XDCB tăng lên rõ rệt qua các năm, từ 0.65 năm 2004 đã tăng lên 2.39 năm 2008, từ đó thấy được tác động phần nào của đầu tư XDCB đến gia tăng giá trị sản xuất của tỉnh theo hướng tích cực. Tỷ số mức tăng giá trị sản xuất so với vốn đầu tư XDCB tính theo từng năm có nhược điểm đó là không tính đến độ trễ thời gian của đầu tư, đó là vốn đầu tư được đầu tư năm trước nhưng sang năm sau mới phát huy hiệu quả. Do đó ta có thể xem xét mức tăng của giá trị sản xuất so với vốn đầu tư của cả giai đoạn 2004-2008 là 1.44, giá trị này của giai đoạn 1999-2003 là 0.81, qua so sánh mức tăng giá trị sản xuất so với tổng vốn đàu tư XDCB của hai giai đoạn ta thấy giai đoạn 2004-2008 có mức tăng cao hơn so với giai đoạn 1999-2003, điều đó cho thấy mức tăng giá trị sản xuất trên một đơn vị vốn đầu tư XDCB của giai đoạn 2004-2008 cao hơn giai đoạn 1999-2003 hay hiệu quả sử dụng vốn đầu tư XDCB giai đoạn sau đã cao hơn.
Qua bảng trên ta thấy được mức tăng GDP so với vốn đầu tư XDCB tăng dần qua các năm, năm sau cao hơn năm trước, năm 2004 là 0.26 và đến năm 2008 là 0.61. Nghĩa là cứ một đồng vốn đầu tư năm 2008 làm GDP năm tăng thêm là 0.61 đồng. Mức tăng của tổng sản phẩm quốc nội so với tổng đầu tư XDCB của cả giai đoạn là 0.44, giá trị này của Hải Phòng là 0.75, của Phú Thọ là 0.35; của Bắc Ninh 0.39; của Hải Dương : 0.56;Và của cả nước là 0.41. Như vậy mức tăng GDP so với vốn đầu tư XDCB của Vĩnh Phúc cao hơn giá trị trung bình của cả nước, tuy nhiên so với một số tỉnh thành phố của đồng bằng Bắc Bộ thì vẫn ở mức trung bình, điều đó một phần do đặc điểm phát triển kinh tế của từng địa phương, như các địa phương đã có cơ sở vật chất hoàn thiện, khi đó tập trung vào sản xuất kinh doanh nên lượng vốn đầu tư XDCB sẽ có phần giảm xuống và do đó mà các chỉ tiêu hiệu quả cao hơn. Thời gian những năm vừa qua, Vĩnh Phúc đã thu hút một lượng vốn đầu tư khá lớn, tuy nhiên một phần do hoạt động đầu tư có độ trễ nên lượng vốn ấy vẫn chưa phát huy hết được hiệu quả ngay được, do vậy nên mức tăng của GDP so với vốn đầu tư XDCB chưa cao.
Mức tăng thu ngân sách so với vốn đầu tư XDCB trong giai đoạn 2004-2008 khá đồng đều và ổn định.Với giá trị tăng bình quân là 0.139, tức là thu ngân sách sẽ tăng 0.139 đồng nếu vốn đầu tư XDCB tăng một đồng. giá trị này của cả nước trong giai đoạn 2004-2008 là 0.127, như vậy giá trị mức tăng thu ngân sách so với vốn đầu tư XDCB trong giai đoạn 2004-2008 của Vĩnh Phúc đã cao hơn so với giá trị của cả nước tức là mức bình quân chung của các tỉnh thành.
Để thấy được tính hiệu quả của hoạt động đầu tư xây dựng cơ bản trên địa bàn Tỉnh Vĩnh Phúc, ta cũng có thể xem xét thông một số chỉ tiêu sau đây :
Tỷ trọng vốn đầu tư của tỉnh Vĩnh Phúc so với cả nước giai đoạn 2004-2008 là 1,74% trong khi đó tỷ trọng GDP của Vĩnh Phúc so với cả nước giai đoạn này là 1,57%. Tỷ trọng vốn đầu tư của tỉnh Vĩnh Phúc so với cả nước xấp xỉ với tỷ trọng GDP của tỉnh so với cả nước .Tuy tỷ trọng vốn đầu tư của Vĩnh Phúc so với cả nước cao hơn tỷ trọng GDP, nhưng mức chênh lệch là không lớn nên qua con số này chưa thể khẳng định được là tỉnh Vĩnh Phúc sử dụng vốn đầu tư kém hiệu quả, Vĩnh Phúc là một tỉnh mới tái lập, có cơ sở vật chất còn đang từng bước được hoàn thiện, các cụm, khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh đang hình thành mạnh mẽ. Ngoài các khu công nghiệp đã hoàn thiện cơ sở vật chất hạ tầng thì còn một phần khá lớn đang được xây dựng hoàn thiện, do đó nên lượng vốn đầu tư vào cơ sở hạ tầng lớn, lượng vốn này chưa phát huy tác dụng nó sẽ phát huy tác dụng trong những năm sau khi các khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh đi vào hoạt động sản xuất sản phẩm.
Hiệu quả kinh tế của hoạt động đầu tư cũng được thể hiện ở sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Hoạt động đầu tư đạt hiệu quả kinh tế nếu nó làm cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực, đúng định hướng phát triển của tỉnh. Tỉnh Vĩnh Phúc đang phấn đấu tới năm 2015 trở thành một tỉnh công nghiệp, do đó mà cơ cấu kinh tế phải chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp, giảm dần tỷ trọng nông nghiệp. Để thấy rõ sự chuyển dịch đó, ta xem bảng sau
BẢNG 8 : CƠ CẤU KINH TẾ VÀ GDP THEO NGÀNH CỦA TỈNH VĨNH PHÚC GIAI ĐOẠN 2004-2008
Chỉ tiêu
Năm
2004
2005
2006
2007
2008
GDP ngành (tỷ đồng )
Công nghiệp, XD
3.851
5.223
7.808
9.488
12.923
Nông lâm ngư
1.872
2.039
2.304
2.276
3.923
Dịch vụ
2.115
2.697
3.556
4.069
5.306
Cơ cấu kinh tế ngành (%)
Công nghiệp, XD
49,13
52,44
57,12
59,9
58,3
Nông lâm ngư
23,88
20,48
16,86
14,25
17,7
Dịch vụ
26,99
27,08
26,04
25,7
24,0
Nguồn : Niên giám thống kê tỉnh Vĩnh Phúc
Cơ cấu kinh tế đã có hướng chuyển dịch theo hướng tích cực, tăng dần tỷ trọng công nghiệp, xây dựng và dịch vụ, tỷ trọng nông nghiệp có xu hướng giảm, điều đó là hoàn toàn phù hợp với mục tiêu CNH-HĐH của đất nước và mục tiêu của tỉnh Vĩnh Phúc sẽ trở thành một tỉnh công nghiệp trong tương lai gần. Tỷ trọng công nghiệp, xây dựng năm 2004 là 49,13% tăng lên 58,6% trong năm 2008, tỷ trọng ngành dịch vụ năm 2004 là 26,99% và năm 2008 là 24,0%, tỷ trọng nông nghiệp năm 2004 là 23,88% thì đến năm 2008 là 17,7%. Tuy có sự thay đổi tích cực trong cơ cơ cấu GDP các ngành nhưng sự thay đổi đó diễn ra mạnh nhất ở ngành công nghiệp và xây dựng, cho thấy phần nào hiệu quả của hoạt động đầu tư xây dựng cơ bản tác động tới ngành công nghiệp trong giai đoạn 2004-2008 của tỉnh là rất lớn, tỷ trọng ngành dịch vụ có chuyển biến theo hướng tích cực nhưng tốc độ tăng trưởng còn thấp chưa tương xứng với tiềm năng của địa phương. Trong thời gian tới khi các công trình xây dựng hoàn thành, đưa vào khai thác, tạo một cơ sở hạ tầng hoàn thiện thì ngành dịch vụ sẽ có mức tăng cao hơn nữa so với mức 12.923 tỷ đồng trong năm 2008. Giá trị nông lâm ngư nghiệp cũng tăng từ 1872 tỷ đồng năm 2004 lên 3.923 tỷ đồng trong năm 2008; giá trị dịch vụ năm 2004 là 2.115 tỷ đồng tăng lên 5.306 tỷ đồng trong năm 2008. Tốc độ tăng trưởng bình quân trong cả giai đoạn của ngành công nghiệp, xây dựng là 35,7%; của ngành nông lâm ngư nghiệp là 23,2% và của ngành dịch vụ là 26%.
Giá trị công nghiệp, xây dựng năm 2004 là 3.851 tỷ đồng, tăng lên 12.923 tỷ đồng năm 2008. Hai ngành công nghiệp, xây dựng và dịch vụ có tốc độ tăng trưởng cao và cao hơn so với ngành nông lâm ngư nghiệp, điều đó cho thấy cơ cấu trong các ngành kinh tế của tỉnh Vĩnh Phúc đang chuyển biến theo hướng tích cực.
Hiệu quả đầu tư xây dựng cơ bản còn thể hiện ở các công trình : đầu tư phát triển 9 khu công nghiệp như khu công nghiệp Quang Minh I, Quang Minh II, Kim Hoa, Khai Quang, Bình Xuyên I, Bình Xuyên II, Bá Thiện, Chấn Hưng và Bá Thiện II và 30 cụm công nghiệp làng nghề, cụm công nghiệp vừa và nhỏ đã tạo ra cho các chủ doanh nghiệp đầu tư mở rộng mặt bằng sản xuất, đầu tư thiết bị hiện đại và công nghệ tiên tiến. Sản xuất nhiều loại sản phẩm có chất lượng cao đảm bảo phục vụ nền kinh tế quốc dân và hội nhập thị trường quốc tế. Phát triển xây dựng cụm công nghiệp làng nghề như cụm làng nghề làm gốm ở Hương Canh, cụm công nghiệp vừa và nhỏ còn tạo bước chuyển biến tích cực sự nghiệp phát triển công nghiệp địa phương - phát triển mọi mặt kinh tế - xã hội của địa phương và góp phần vào thay đổi nông thôn theo hướng công nghiệp hoá. Đầu tư cho các công trình nông nghiệp đảm bảo đúng hướng góp phần đáng kể thúc đẩy nông nghiệp của Tỉnh phát triển vững chắc với mức độ khá. Nhịp độ tăng trưởng bình quân đạt 9.25%/năm. Đầu tư ngành điện đảm bảo 100% số xã phường trên địa bàn có điện lưới quốc gia và 100% số dân sử dụng điện lưới quốc gia. Sản lượng điện thương phẩm phục vụ sản xuất đời sống tăng bình quân 16 %/năm. Đảm bảo ổn định điện phục vụ cho sản xuất, sinh hoạt. Giá bán điện sinh hoạt nông thôn giảm từ 800-900đ/KWh xuống thấp hơn hoặc bằng 700đ/KWh. Đóng góp vào ngân sách nhà nước hàng năm đều tăng.
BẢNG 9 : TỔNG THU NHẬP CỦA TỈNH VĨNH PHÚC GIAI ĐOẠN 2004-2008
Chỉ tiêu
Đơn vị
Năm
2004
2005
2006
2007
2008
Tổng sản phẩm trong tỉnh
(giá năm 1994)
Tỷ đồng
4581.7
6242
7.450
8.255
9.271
Tốc độ tăng trưởng
%
14.1
17.9
12.92
15.5
16.25
GDP bình quân
(giá thực tế )
Triệu đồng/
người
5.66
8.2
14.1
15.7
21.8
Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Vĩnh Phúc
Tốc độ tăng trưởng GDP toàn tỉnh qua các năm : 14,1% năm 2004, 17,9% năm 2005; 15,5% năm 2007; 16,25% năm 2008. Trong giai đoạn 2004-2008, tổng sản phẩm trong Tỉnh tăng liên tục năm sau cao hơn năm trước, tốc độ tăng trưởng bình quân cả giai đoạn là 15,34%, đây là một tốc độ tăng trưởng cao so với các tỉnh trong nước. Qua đó, GDP bình quân đầu người cũng tăng liên tục qua các năm và đạt mức cao, điều đó cho thấy đời sống nhân dân trong tỉnh được cải thiện đáng kể.
* Hiệu quả xã hội
Hoạt động đầu tư XDCB là tiền đề, tạo đà cho phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp trên địa bàn. Từ đó đã gián tiếp tạo công ăn việc làm cho nhiều lao động và đảm bảo ổn định đời sống cho người lao động, góp phần nâng cao đời sống nhân dân, tạo môi trường thuận lợi để phát triển kinh tế xã hội.
Số cơ sở sản xuất, số lao động được giải quyết việc làm hàng năm trên địa bàn tỉnh đều tăng, Số cơ sở sản xuất năm 1997 chỉ có 9.238 cơ sở nhưng tới năm 2005 là 39.457 cơ sở, năm 2008 tăng lên 52.843 cơ sở.
Số lao động năm 2000 là 587,29 người, năm 2004 là 645,15 nghìn người, và năm 2008 là 754,83 nghìn người.
Mỗi năm, bình quân ngành công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp thu hút 17.165 lao động, đảm bảo thu nhập cho người dân trên địa bàn, từng bước cải thiện và nâng cao đời sống vật chất cũng như tinh thần cho người lao động. Một ý nghĩa quan trọng nữa là còn giảm bớt được tệ nạn xã hội nảy sinh khi còn số đông người lao động không có việc làm.
BẢNG 10: HIỆU QUẢ XÃ HỘI CỦA VỐN ĐẦU TƯ XDCB CỦA TỈNH VĨNH PHÚC GIAI ĐOẠN 2004-2008
Năm
Số lao động có việc làm
(nghìn người)
Vốn đầu tư XDCB
( Tỷ đồng)
Tỷ số
2004
645.15
5,061
0.127
2005
652.59
6,618
0.098
2006
668.45
7,905
0.0845
2007
680.83
8,400
0.0810
2008
722.34
8,870
0.0814
Giá trị bình quân
673.87
7,370.8
0.0924
Nguồn : Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Vĩnh Phúc
Qua bảng, ta thấy số lao động có việc làm bình quân trên một tỷ đồng đầu tư XDCB của cả giai đoạn này là 93 lao động. Số lao động có việc làm trên một tỷ đồng của tỉnh Phú Thọ là 75 lao động, của Bắc Ninh là 86 lao động, của Thái Nguyên là 91 lao động. Như vậy so với một số tỉnh thành trong vùng đồng bằng Bắc Bộ thì Vĩnh Phúc đã đạt hiệu quả khá tốt trong việc tạo công ăn việc làm cho người lao động, điều đó cho thấy hiệu quả về mặt xã hội của đầu tư xây dựng cơ bản trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc. Trong thời gian tới, khi cơ sở hạ tầng các khu công nghiệp đang được thi công xây dựng trên địa bàn hoàn thiện và đi vào sử dụng sẽ thu hút thêm lượng lớn lao động trong và ngoài tỉnh và khi đó hiệu quả xã hội của đầu tư XDCB còn được nâng cao hơn. Tỉnh cũng có chính sách ưu tiên cho những doanh nghiệp sử._. đường huyện, đảm bảo 75-85% đường giao thông liên thôn, liên xã được bê tông hoá, đầu tư cải tạo nâng cấp các trạm bơm hiện có, xây dựng một số trạm bơm đảm bảo tưới tiêu cho sản xuất nông nghiệp.
Đầu tư xây dựng trung tâm y tế huyện, các bệnh viện chuyên khoa đảm bảo đủ điều kiện phục vụ khám chữa bệnh và chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân. Đảm bảo xây dựng các trạm y tế xã kiên cố đủ điều kiện chăm sóc sức khoẻ cộng đồng.
Đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng ngoài hàng rào khu công nghiệp tập trung, cụm công nghiệp làng nghề, cụm công nghiệp vừa và nhỏ để thu hút các nhà đầu tư vào các khu công nghiệp trên địa bàn Tỉnh.
Đầu tư xây dựng trường trung học phổ thông, trung học cơ sở, trường tiểu học đảm bảo kiên cố 100%. Xây dựng mỗi cấp học sẽ tăng số trường đạt chuẩn quốc gia.
Đầu tư xây dựng các công trình văn hoá, phát thanh truyền hình, bưu điện, đảm bảo 100% nhân dân trong tỉnh được phủ sóng truyền hình của Tỉnh, mỗi thôn có một nhà văn hoá, câu lạc bộ vui chơi, cứ 10 người dân có 6 người có điện thoại.
Phấn đấu đến năm 2015 Vĩnh Phúc có hệ thống kết cấu hạ tầng hoàn chỉnh, đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội ở trình độ cao trong giai đoạn tiếp theo. Xây dựng Vĩnh Yên trở thành một trong những thành phố vệ tinh quan trọng của Hà Nội.
Ước tính nguồn vốn đầu tư xã hội bình quân mỗi năm khoảng 2.200 – 2.700tỷ đồng. Trong đó nguồn vốn đầu tư tập trung từ ngân sách nhà nước khoảng 200-220 tỷ đồng.
Để có thể thực hiện mục tiêu phương hướng trên cần huy động mọi nguồn vốn đầu tư toàn xã hội. Một yếu tố quan trọng là sự giúp đỡ, tạo điều kiện của các Bộ, Ngành TW và bằng nỗ lực của địa phương để huy động từ các nguồn cho đầu tư phát triển.
2. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ ĐẦU TƯ XÂY DỰNG CƠ BẢN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH VĨNH PHÚC
Nâng cao hiệu quả đầu tư XDCB thì cần nâng cao các chỉ tiêu hiệu quả kinh tế- xã hội của đầu tư, một vấn đề quan trọng trong nâng cao hiệu quả đầu tư xây dựng cơ bản là hoàn thành công trình đúng kế hoạch, tránh kéo dài thời gian đầu tư, tiết kiệm vốn đầu tư xây dựng cơ bản. Muốn nâng cao các chỉ tiêu đó, cần tiết kiệm vốn đầu tư và phát huy được tác dụng của vốn đầu tư để phát triển sản xuất kinh doanh. Ta xét các nhóm giải pháp sau
2.1. Những giải pháp cụ thể nhằm nâng cao hiệu quả đầu tư xây dựng cơ bản trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc
2.1.1.Giải pháp trong huy động vốn đầu tư xây dựng cơ bản :
Do lượng vốn đầu tư xây dựng cơ bản là có hạn mà nhu cầu đầu tư , đặc biệt là đầu tư XDCB luôn cần một lượng vốn lớn, do đó các cơ quan làm công tác kế hoạch, quy hoạch đầu tư trên địa bàn tỉnh cần có những kế hoạch hợp lý, lựa chọn những dự án đầu tư theo tầm quan trọng, tính cấp thiết của dự án đó đối với chiến lược phát triển kinh tế của tỉnh. Tập trung vốn vào đầu tư những dự án có tầm quan trọng trước mắt, nhằm tránh hiện tượng đầu tư tràn lan, không hiệu quả gây lãng phí vốn đầu tư vốn đã thiếu so với nhu cầu đầu tư.
Huy động vốn trong nước có rất nhiều kênh , nhưng kênh có tính chất định hướng, quyết định tới khối lượng vốn đầu tư để phát triển KT-XH chính là kênh ngân sách nhà nước. Việc huy động vốn qua kênh ngân sách nhà nước phải dựa chủ yếu vào : thuế , phí và lệ phí , phát huy tiềm năng vốn từ các nguồn tài nguyên quốc gia , từ nguồn tài sản công, từ vay nợ …Trong đó thu thuế và phí vẫn là nguồn quan trọng nhất .
- Tỉnh cần tiến hành rà soát lại số lượng các doanh nghiệp, các hợp tác xã, các tổ sản xuất, các hộ kinh tế gia đình …đã ra kinh doanh nhưng chưa kê khai nộp thuế để đưa vào diện quản lý thu thuế, chống thất thu về đối tượng nộp thuế. Đồng thời, điều tra xem xét các loại hình kinh doanh : hoa hồng buôn bán môi giới nhà đất, môi giới kinh doanh bất động sản, dịch vụ tư vấn … để đưa vào diện quản lý thu thuế. Điều chỉnh kịp thời mức thuế cho sát với khả năng và nghĩa vụ trả thuế của các đối tượng nộp thuế. Tăng cường chống thất thu thông qua các biện pháp kiểm tra nắm chắc các nguồn thu, đối tượng phải thu có liên quan đến nhà đất tài sản. Cần quản lý chặt chẽ quỹ đất.
- Về cơ chế quản lý thu, chuyển mạnh sang cơ chế đối tượng nộp thuế tự khai và trực tiếp nộp thuế vào kho bạc Nhà nước. Thực hiện triệt để công tác đôn đốc chống dây dưa nợ đọng thuế nhằm đảm bảo tiền thuế phải được thu về cho ngân sách kịp thời và đầy đủ nhất .
* Huy động vốn qua dân cư
Nguồn vốn trong dân cư luôn là nguồn tiềm năng tốt nếu tỉnh biết cách tận dụng, huy động tốt nguồn vốn trong dân cư .
UBND tỉnh cần có chính sách ưu đãi, bảo hộ khuyến khích người dân trong tỉnh bỏ vốn đầu tư sản xuất kinh doanh, nhất là khuyến khích bỏ vốn đầu tư tận thôn, xã để lập các xí nghiệp,các hợp tác xã, làng nghề .
Để làm việc này, UBND tỉnh cần tạo những điều kiện tối thiểu về điện, nước, giao thông, cung cấp tốt các dịch vụ đầu tư như điều tra thị trường, tư vấn đầu tư, giới thiệu đối tác, hỗ trợ thành lập doanh nghiệp … Để thuận tiện cho việc đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh. Khuyến khích các hộ gia đình phát triển các ngành nghề phụ, đặc biệt là những nơi có ngành nghề truyền thống .
Cần đa dạng hoá các hình thức, công cụ phương tiện tích tụ và tập trung vốn sao cho mọi người dân ở mọi chỗ, mọi nơi đều có cơ hội thuận tiện để đưa những đồng vốn tiết kiệm của mình vào dòng chảy đầu tư .
* Các giải pháp đẩy mạnh huy động vốn qua các doanh nghiệp
- Đảm bảo sự bình đẳng và nghĩa vụ nộp thuế giữa các doanh nghiệp trong nước với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài .
- Thực hiện ưu đãi hơn nữa về thuế thu nhập cho các doanh nghiệp mới đầu tư với thời gian miễn giảm dài hơn như các nước trong khu vực ASEAN.
- Ưu đãi khuyến khích hơn nữa về thuế thu nhập đối với các doanh nghiệp sử dụng thu nhập sau thuế , huy động lợi tức của cổ đông để tái đầu tư.
- Sửa đổi chế độ khấu hao cơ bản theo hướng cho phép các doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả cao và đã đảm bảo nghĩa vụ đối với ngân sách , được trích khấu hao gắn với các điều khoản của chính sách vay và trả nợ vốn .
- Có quy chế bắt buộc các doanh nghiệp nhà nước sử dụng phần lợi nhuận sau thuế, đặc biệt là quỹ đầu tư phát triển để thực hiện tái đầu tư cho sản xuất cũng như xây dựng cơ bản cải tạo, mở rộng cơ sở vật chất.
2.1.2. Cải tiến phương pháp giao kế hoạch vốn đầu tư xây dựng hàng năm
Công tác lập kế hoạch luôn có vai trò hết sức quan trọng trong công tác quản lý kinh tế nói chung và trong công tác quản lý đầu tư xây dựng cơ bản nói riêng, nó có vai trò quyết định trong sự thành công hay thất bại và tính hiệu quả của công tác đầu tư. Kế hoạch phân bổ vốn đầu tư thường được xác định vào cuối các năm để phân bổ vốn cho năm sau, qua đó vốn đầu tư sẽ tập trung vào những ngành, công trình nào có vai trò quan trọng trước mắt, mang tính cấp thiết hơn, cần phải đầu tư làm ngay, để làm động lực thúc đẩy sự phát triển chung của nền kinh tế. Việc phân bổ khối lượng vốn đầu tư bao nhiêu cho một ngành được tính toán dựa trên nhu cầu thực tế của ngành đó, định hướng phát triển kinh tế. Để nâng cao hiệu quả trong việc phân bổ, cấp phát vốn đầu tư có thể tập trung vào một số biện pháp sau :
- Cần giao kế hoạch vốn đầu tư xây dựng ngay từ đầu năm kế hoạch. Việc giao kế hoạch vốn đầu tư ngay từ đầu năm giúp cho các chủ đầu tư, cơ quan quản lý vốn đầu tư thuộc các Sở, Ban, Ngành chủ động và có kế hoạch cụ thể cho việc sử dụng vốn đầu tư cho các dự án của mình, qua đó chủ động trong việc phân bổ vốn cho từng công trình, đảm bảo tiến độ và chất lượng thi công công trình đã được phê duyệt. Góp phần thực hiện đầu tư hoàn thành đúng tiến độ kế hoạch thi công xây dựng công trình.
- Tập trung vốn ưu tiên cho các dự án trọng điểm trước, tránh bố trí vốn đầu tư dàn trải cho các công trình. Bố trí đủ vốn cho các dự án nhóm B trong 4 năm, nhóm C trong 2 năm. Các công trình trọng điểm là những công trình đóng vai trò quan trọng, định hướng trong sự phát triển kinh tế - xã hội của Tỉnh, giải quyết những nhu cầu cấp bách trên địa bàn tỉnh, do vậy việc tập trung bố trí vốn cho các công trình trọng điểm để đảm bảo tiến độ cũng như chất lượng cho các công trình là điều hết sức cần thiết. Đồng thời tránh được thất thoát lãng phí do việc kéo dài thời gian thi công các công trình này.
- Đối với các dự án không có thủ tục đầu tư, dự án không phù hợp kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và phát triển đô thị thì kiên quyết không bố trí vốn đầu tư. Việc bố trí vốn cho các công trình không có trong quy hoạch, không được phê duyệt là vi phạm các quy định quản lý nhà nước về kinh tế gây thiệt hại thất thoát vốn đầu tư. Hơn nữa, khi bố trí vốn cho các dự án không có thủ tục đầu tư, không phù hợp với quy hoạch phát triển kinh tế sẽ gây ra những hậu quả nghiêm trọng cho nền kinh tế, cho sự phát triển chung của Tỉnh như gây ảnh hưởng đến môi trường tự nhiên, xã hội, gây thiệt hại về kinh tế cho người dân chịu ảnh hưởng từ việc thực hiện những dự án đó. Hậu quả nghiêm trọng hơn đó là khi dự án chưa được phê duyệt thì có thể thiết kế, tính hiệu quả về kinh tế và xã hội của dự án là không đảm bảo, nếu đầu tư có thể gây ra lãng phí sau này.
2.1.3. Nâng cao chất lượng thẩm định dự án đầu tư, chất lượng thiết kế kỹ thuật, tổng dự toán và thẩm định thiết kế kỹ thuật tổng dự toán
Nâng cao chất lượng lập thẩm định dự án đầu tư, chất lượng và tính khả thi của dự án đầu tư là yếu tố rất quan trọng đối với đầu tư xây dựng cơ bản. Do đó cần quản lý nâng cao chất lượng lập thẩm định các dự án đầu tư để đảm bảo hiệu quả dự án đầu tư.
Dự án đầu tư phải phù hợp quy hoạch phát triển kinh tế xã hội, phù hợp phát triển quy hoạch đô thị và kiến trúc hiện đại. Dự án đầu tư sản xuất kinh doanh phải phù hợp với công nghệ hiện đại, tiên tiến, đảm bảo đủ sức cạnh tranh trên thị trường, đảm bảo hiệu quả kinh tế và thời hạn thu hồi vốn đầu tư.
Trong các điều kiện trên, chất lượng thẩm định dự án đầu tư là điều kiện tiên quyết phải đạt được. Thẩm định dự án cần phải đảm bảo tính khả thi, khoa học, khách quan. Đội ngũ cán bộ thẩm định phải là chuyên gia giỏi trên nhiều lĩnh vực, có phẩm chất đạo đức và phong cách làm việc khoa học, khách quan, chặt chẽ.
Nâng cao chất lượng thiết kế kỹ thuật đảm bảo đầy đủ các chi tiết, đảm bảo chất lượng hệ số an toàn cho phép, tránh lãng phí, gây tốn kém không cần thiết trong lựa chọ phương án kết cấu công trình. Nâng cao chất lượng thiết kế nhằm nâng cao chất lượng tổng dự toán công trình chính xác, không còn hiện tượng bổ sung gây nên kẽ hở để tham ô, tiêu cực trong thực hiện đầu tư xây dựng. Thẩm định thiết kế kỹ thuật, tổng dự toán đảm bảo tính chính xác cao, khoa học và chặt chẽ. Thẩm định thiết kế kỹ thuật chính xác còn đảm bảo cho tính chính xác của việc dự toán công trình, tính toán các chỉ tiêu kinh tế đánh giá hiệu quả dự án. Dự toán công trình cần đảm bảo dựa trên thiết kế kỹ thuật của công trình,căn cứ theo giá cả thị trường tại thời điểm tính toán, so sánh sự hợp lý với các công trình tương tự, có tính đến các yếu tố ảnh hưởng như : lạm phát, giá cả nguyên vật liệu tăng, yếu tố mưa lũ, thiên tai bất thường ....
Công việc thẩm định dự án đầu tư cần những chuyên gia có kinh nghiệm, có đạo đức, do đó tỉnh cần có kế hoạch cụ thể cho việc đào tạo bồi dưỡng cán bộ có năng lực, phẩm chất tốt. Cần thường xuyên cử cán bộ đi bồi dưỡng, nâng cao trình độ chuyên môn. Đánh giá đúng hiệu quả kinh tế cũng như hiệu quả xã hội của dự án trên cơ sở phân tích độ nhạy của dự án, nếu tính hiệu quả đó của dự án vẫn đảm bảo thì dự án đó là khả thi. Việc thẩm định dự án, thiết kế kỹ thuật phải có căn cứ thực tế, dựa trên các quy định về chất lượng các công trình xây dựng ban hành theo các văn bản pháp luật của Bộ Xây dựng, của Tỉnh.
2.1.4. Quản lý chặt chẽ trong công tác đấu thầu và chỉ định thầu
Qua thực tế cho thấy, công tác đấu thầu vẫn mang tính hình thức, thiếu tính minh bạch, khách quan, công bằng, bởi đã có sự liên kết khéo léo giữa các nhà thầu, để tăng giá thầu. Thậm chí có cả trường hợp thông đồng thoả thuận với chủ đầu tư để thực hiện quá trình đấu thầu. Tỉnh cần thường xuyên, định kỳ tổ chức các lớp bồi dưỡng trình độ, cử cán bộ đi học nhằm nâng cao trình độ cán bộ làm công tác quản lý về đấu thầu.
Việc đấu thầu như vậy vừa thiếu khách quan, công bằng và làm thiệt hại cho ngân sách nhà nước. Thường xảy ra ở các cuộc đấu thầu hạn chế cho số lượng nhà thầu tham gia có hạn ( theo quy định là 5 nhà thầu hoặc 3 nhà thầu đối với gói thầu nhỏ ). Khi xét thầu đã có 2-3 nhà thầu phạm quy, chỉ còn 1-2 nhà thầu được xem xét. Do vậy dẫn tới tính cạnh tranh kém và khả năng lựa chọn nhà thầu xứng đáng để trao thầu không cao.
Đối với nhà thầu, cần nâng cao chất lượng các hồ sơ dự thầu, các thiết kế cần đảm bảo yêu cầu kỹ thuật trên cơ sở tiết kiệm tối đa có thể chi phí, và có một tỷ lệ lãi nhất định. Mặt khác, cũng cần nâng cao nhận thức, đề cao vấn đề đạo đức của các nhà thầu, điều này có ý nghĩa quan trọng trong công tác thi công công trình, tránh được hiện tượng liên kết nhằm rút ruột các công trình. Với mỗi công trình đảm bảo một tỷ lệ lãi nhất định cho nhà thầu, cùng với việc tăng cường công tác quản lý đầu tư thì việc đảm bảo chất lượng công trình là khả thi,đặc biệt khi có sự hợp tác tích cực giữa nhà thầu - chủ đầu tư, cơ quan quản lý.
Đối với công tác quản lý nhà nước trong hoạt động đấu thầu : Trước hết là cần tuân thủ các nguyên tắc trong công tác đấu thầu như đảm bảo tính minh bạch, công bằng. Cần có hướng dẫn cụ thể về quy trình, thủ tục, các giấy tờ pháp lý về việc đấu thầu cho các nhà thầu, giúp nhà thầu hiểu rõ về gói thầu mà mình tham gia, đảm bảo tính công khai, công bằng giữa các nhà thầu, tránh hiện tượng tiêu cực trong công tác đấu thầu. Do vậy phải quy định chặt chẽ, giảm đấu thầu hạn chế và khuyến khích hoặc bắt buộc đấu thầu rộng rãi, hạn chế chỉ định thầu để đấu thầu.
Một trong các vấn đề cần quan tâm của đội ngũ quản lý trong công tác đấu thầu là phẩm chất, đạo đức của đội ngũ quản lý cũng cần được đề cao, tránh tình trạng có “quan hệ bạn bè, anh em ” giữa các bên giám sát, quản lý đấu thầu với các nhà thầu nhằm tạo thuận lợi cho một số nhà thầu và gây khó khăn cho các nhà thầu khác, có năng lực cao hơn nhưng không có mối quan hệ tốt với các quan chức trong bộ máy quản lý. Cần ban hành những chế tài xử phạt đối với các nhà thầu cố tình vi phạm các quy định trong đầu tư như kéo dài thời gian thi công xây dựng công trình gây thất thoát, lãng phí vốn đầu tư.
2.1.5. Quản lý tốt việc cấp phát và thanh toán vốn đầu tư
Quản lý tốt việc cấp phát và thanh toán vốn đầu tư nhất thiết phải đảm bảo đúng quy định của Nhà nước. Việc cấp phát vốn đầu tư phải gắn với nhu cầu thực tế của công trình, phù hợp với tiến độ thi công các hạng mục, tránh tình trạng cấp vốn tràn lan dẫn đến hiệu quả sử dụng vốn đầu tư không cao. Việc cấp phát vốn tràn lan, thừa so với yêu cầu vốn để thực hiện xây dựng công trình trong một thời điểm sẽ dẫn tới tình trạng thừa vốn cho công trình đó, nhưng lại thiếu vốn cho công trình khác, qua đó dẫn đến tình trạng chỗ thiếu, chỗ thừa vốn, nơi thì khối lượng vốn nợ đọng, không thanh quyết toán được công trình, nơi thì thất thoát vốn. Nghiêm cấm việc ứng vốn, nợ khối lượng dẫn tới quản lý không chặt chẽ. Đây là hiện tượng xin ứng trước vốn khi mà khối lượng công trình thực hiện chưa đảm bảo, chưa được nghiệm thu.
Nghiệm thu khối lượng nới lỏng gây nên thất thoát lãng phí và chất lượng công trình kém hiệu quả. Nghiệm thu công trình nới lỏng có thể do trình độ, năng lực yếu kém của bộ máy quản lý, hoặc cũng có thể là do có sự liên kết giữa các bên : Bên thi công và bên nghiệm thu, để ăn bớt khối lượng công trình, chất lượng công trình thì không đảm bảo chất lượng yêu cầu, không đúng thiết kế cũng nghiệm thu.
Công tác cấp phát vốn đầu tư có thể theo hướng cụ thể như sau để đảm bảo vốn cho các công trình có thể thực hiện đúng tiến độ:
- Dành 40% để thanh toán nợ xây dựng cơ bản hoàn thành.
- Dành 45% để phân bổ cho các công trình chuyển tiếp.
- Dành 15% để phân bổ cho các công trình mới đã có đủ thủ tục đầu tư theo quy định.
- Đảm bảo đủ vốn để hoàn thành công trình nhóm B trong 4 năm kể từ khi khởi công,công trình nhóm C trong 2 năm.
Mặt khác cần nâng cao chuyên môn của các cán bộ quản lý đầu tư xây dựng cơ bản, đề cao phẩm chất đạo đức của các cán bộ quản lý, đảm bảo cho công tác nghiệm thu công trình đúng với thiết kế, đảm bảo chất lượng công trình đưa vào sử dụng, qua đó nâng cao chất lượng công tác thanh quyết toán vốn đầu tư xây dựng cơ bản.
Thực hiện bảo hành công trình theo đúng quy định của quy chế quản lý đầu tư và xây dựng.
2.1.6. Tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra, giám sát đánh giá đầu tư xây dựng.
Cần tăng cường hơn nữa công tác kiểm tra, kiểm soát và giám sát. Trước hết, phải có các biện pháp giám sát và kiểm soát nội bộ kết hợp với các biện pháp kiểm tra, thanh tra từ bên ngoài. Tiếp đến, cần hình thành, duy trì và nâng cao tính hiệu lực của hệ thống kiểm soát nội bộ bằng chính quy trình đầu tư, quy trình quản lý vốn, quản lý đầu tư.
Cần thực hiện thường xuyên công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát, đánh giá đầu tư xây dựng nhằm phát hiện, uốn nắn những sai phạm trong quá trình quản lý và thực hiện đầu tư xây dựng để đảm bảo công tác đầu tư xây dựng mang lại hiệu quả cao.
Do vậy, công tác thanh tra, kiểm tra đầu tư xây dựng phải được thực hiện ở tất cả các giai đoạn chuẩn bị đầu tư, thực hiện đầu tư, dự án hoàn thành đưa vào khai thác sủ dụng, tiến hành thanh tra, kiểm tra ở tất cả các lĩnh vực đầu tư xây dựng.
Thanh tra, kiểm tra ở giai đoạn chuẩn bị đầu tư nhằm đảm bảo cho tính hiệu quả của công trình, dự án sau này, tránh lãng phí khi dự án không có tính khả thi, việc thanh tra ở giai đoạn này cần tập trung vào đánh giá sơ bộ tính hiệu quả dự án, công trình, địa điểm thực hiện dự án, thi công xây dựng công trình.
Thanh tra ở giai đoạn thực hiện đầu tư cần được tiến hành thường xuyên, kết hợp kiểm tra định kỳ và kiểm tra bất kỳ, khi thấy có dấu hiệu bất thường trong việc thực hiện dự án nhằm đảm bảo cho tiến độ cũng như chất lượng công trình được đảm bảo đúng thiết kế và dự toán đã được duyệt.
Kiểm tra, thanh tra ở giai đoạn vận hành, khai thác công trình cần tập trung vào việc xem xét, đánh giá tính hiệu quả về kinh tế và hiệu quả xã hội của dự án, công trình, qua đó nhận định và giải quyết kịp thời những phát sinh ảnh hưởng tới tính hiệu quả trong khai thác công trình.
UBND tỉnh cần phải kiện toàn lực lượng thanh tra, kiểm tra công tác đầu tư xây dựng đủ mạnh, có chuyên môn và là những chuyên gia giỏi của các lĩnh vực đầu tư xây dựng, cán bộ phải có phẩm chất đạo đức, có uy tín và trung thực.
Tỉnh cần có kế hoạch thanh tra thường xuyên và bất kỳ đối với tất cả các công trình xây dựng thuộc thẩm quyền quản lý của mình nhằm đảm bảo việc vận hành, khai thác các công trình đó mang lại hiệu quả như dự tính. Cụ thể :
- Các đơn vị xây dựng kế hoạch tự kiểm tra thực hiện công tác đầu tư xây dựng. Định kỳ 6 tháng sơ kết 1 lần và tổng kết vào cuối năm kế hoạch.
- Thanh tra Tỉnh xây dựng kế hoạch thanh tra, kiểm tra trên phạm vi toàn tỉnh, trình UBND phê duyệt.
- Thanh tra các huyện, ngành có kế hoạch thanh tra, kiểm tra trong phạm vi ngành và địa phương mình.
Kiên quyết xử lý những vi phạm như : tham ô, lợi dụng chức quyền làm thất thoát vốn đầu tư xây dựng, rút ruột công trình, thiếu trách nhiệm quản lý làm tổn hại đến chất lượng công trình xây dựng.
Chống thất thoát, lãng phí trong xây dựng cơ bản là nhiệm vụ khó khăn phức tạp, không chỉ là nhiệm vụ của cán bộ thanh tra mà là của toàn xã hội. Trách nhiệm của các ngành, các cấp và của người dân là phải nâng cao ý thức trách nhiệm, giúp đỡ, tạo điều kiện cùng lực lượng thanh tra của tỉnh thực hiện.
2.2. Nhóm giải pháp về chính sách và môi trường pháp lý
2.2.1. Nâng cao chất lượng công tác quy hoạch
Nâng cao chất lượng, tầm nhìn dài hạn, tính đồng bộ, tính liên kết, tính pháp lý trong công tác quy hoạch, kế hoạch đầu tư XDCB. Cần tăng cường phân cấp, phân quyền, phân công nhiệm vụ cụ thể, rõ ràng, gắn quyền hạn với trách nhiệm trong công tác quy hoạch giữa các bộ, ngành, địa phương. Cần chủ động cập nhật, bổ sung các quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội, phát triển ngành; trong đó xây dựng các chương trình phát triển, xác định các dự án đầu tư. Gắn quy hoạch với kế hoạch và nhu cầu thị trường. Quy hoạch cần phù hợp và có hiệu quả kinh tế xã hội cao, tránh những quy hoạch không phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội dẫn tới quy hoạch treo, phải sửa đổi lại nhiều lần. Trên cơ sở đó hình thành cơ cấu đầu tư hợp lý trong từng ngành, từng vùng.
* Quy hoạch tổng thể kinh tế - xã hội
Trước hết phải rà soát lại quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội quy hoạch phát triển ngành, lĩnh vực đến năm 2020 và tầm nhìn đến 2030. Điều chỉnh, bổ sung quy hoạch cho phù hợp điều kiện cụ thể và hướng phát triển theo tiến trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá. Quy hoạch tổng thể kinh tế - xã hội có vai trò quan trọng trong định hướng phát triển kinh tế xã hội, nó được ví như một cái khung để định hướng các kế hoạch, quy hoạch ngắn hạn phát triển theo. Để nền kinh tế phát triển đúng định hướng, theo chiều hướng tích cực thì công tác lập quy hoạch tổng thể đóng vai trò quan trọng trong đó. Khi quy hoạch tổng thể chính xác thì việc lập quy hoạch chi tiết cho từng ngành, từng lĩnh vực cũng có căn cứ, định hướng đúng đắn. Quy hoạch tổng thể cần được lập dựa trên cơ sở quy hoạch kinh tế - xã hội chung của cả nước, gắn với điều kiện cụ thể của địa phương, nhằm phát huy những lợi thế của địa phương mình, tận dụng những cơ hội phát triển từ bên ngoài, theo đúng xu thế phát triển chung của kinh tế đất nước và thế giới.
Xây dựng quy hoạch phát triển kinh tế ngành, vùng trọng điểm đảm bảo ưu tiên đầu tư xây dựng cho những mục tiêu quan trọng, mũi nhọn của nền kinh tế. Việc xây dựng quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội vùng, ngành lại căn cứ vào quy hoạch chung của Tỉnh, đảm bảo yêu cầu về tính khả thi, hiện thực, đúng thực tế, phát huy những tiềm năng phát triển của ngành và của vùng kinh tế. Cụ thể là những vùng (huyện ) nào phát triển ngành nghề gì, sản xuất gì, chăn nuôi trồng trọt gì đều cần căn cứ vào điều kiện tự nhiên,kinh tế- xã hội của vùng đó, trên cơ sở phù hợp với quy hoạch chung.
Cần chú trọng đến việc quy hoạch phát triển những vùng, ngành trọng điểm nhằm tận dụng lợi thế so sánh của ngành nghề và của vùng đó so với các ngành, vùng khác trong tỉnh và so sánh với các địa phương khác.
Có quy hoạch cụ thể phát triển thành phố Vĩnh Yên thành trung tâm kinh tế văn hoá xã hội của Tỉnh, phát triển cơ sở hạ tầng, không gian ven đường quốc lộ 2A, 2B mới nhằm tận dụng lợi thế, những điều kiện phát triển thuận lợi thu được từ giao thông thuận tiện, qua đó thu hút các nhà đầu tư vào đầu tư trên địa bàn Tỉnh.
* Quy hoạch chung và quy hoạch chi tiết
Điều chỉnh quy hoạch chung thành phố Vĩnh Yên theo sự phát triển không gian, phù hợp hiện tại và xu hướng trong tương lai trên cơ sở khoa học và thực tiễn. Tiếp tục rà soát, xem xét lại quy hoạch chi tiết các khu thương mại – dịch vụ, văn hoá thể thao, vui chơi giải trí và khu dân cư, khu đô thị mới. Có sự rà soát liên tục về sự hợp lý của các khu thương mại, văn hoá thể thao, dân cư để có sự đánh gía, điều chỉnh kịp thời, đáp ứng nhu cầu phát triển chung, đồng thời giải quyết kịp thời những vướng mắc có liên quan.
Việc quy hoạch các khu công nghiệp luôn có ý nghĩa quan trọng với tất cả các địa phương, và với Vĩnh Phúc cũng vậy. Các khu công nghiệp cần được quy hoạch tốt, đảm bảo tính đồng bộ về điều kiện giao thông, hệ thống điện, nước, an ninh ... đảm bảo các điều kiện cho hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, công ty hoạt động trong khu công nghiệp. Từ đó mới tạo điều kiện tốt để thu hút các doanh nghiệp về đầu tư, và đầu tư sản xuất kinh doanh tốt. Bên cạnh các yếu tố trên cũng cần chú trọng đến việc quy hoạch hệ thống tài chính ngân hàng, với những ngân hàng nhằm đáp ứng việc cung ứng vốn cho các doanh nghiệp đảm bảo hoạt động sản xuất.
Bên cạnh việc tập trung quy hoạch các khu công nghiệp cũng cần chú ý tới công tác quy hoạch các cụm công nghiệp làng nghề, qua đó đảm bảo cho sự phát triển của các làng nghề truyền thống, cụm công nghiệp tạo công ăn việc làm tại chỗ cho người lao động, góp phần gìn giữ truyền thống văn hoá, tăng thu nhập cho Tỉnh.
Tỉnh cần rà soát quy hoạch chi tiết các huyện lỵ, điều chỉnh bổ sung cho phù hợp, đầu tư xây dựng đảm bảo đúng quy hoạch được duyệt. Việc rà soát lại các quy hoạch chi tiết các huyện lỵ có ý nghĩa đảm bảo cho các quy hoạch đó thống nhất với quy hoạch chung của Tỉnh, tránh thiếu sự đồng bộ, quy hoạch phát triển vùng, phát triển ngành, qua đó giải quyết kịp thời những vướng mắc liên quan, đảm bảo sự phát triển kinh tế - xã hội cho địa phương.
2.2.2. Hoàn thiện các văn bản pháp lý về công tác đầu tư xây dựng cơ bản
Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật, đổi mới cơ chế, chính sách đầu tư. Trước mắt, tập trung hướng dẫn triển khai một cách có hiệu quả các Luật: Đầu tư, Đấu thầu, Doanh nghiệp, Chứng khoán, Kinh doanh bất động sản… Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ hơn nữa cơ chế phân bổ vốn đầu tư, vốn cho các chương trình mục tiêu quốc gia trên cơ sở tôn trọng các nguyên tắc đầu tư, tiêu chí, tiêu chuẩn, định mức theo hướng công khai, minh bạch. Hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật điều chỉnh lĩnh vực XDCB của Tỉnh, đảm bảo tính thống nhất về nội dung giữa các văn bản của Sở , Ban, Ngành liên quan, và sự thống nhất giữa văn bản của TW với văn bản của địa phương, tránh tình trạng luật của Nhà nước quy định một kiểu, văn bản của địa phương lại ban hành không phù hợp, thống nhất với những quy định của nhà nước gây khó khăn cho nhà đầu tư, cản trở công tác thi hành pháp luật tại địa phương.
Thường xuyên tổ chức tập huấn về nghiệp vụ quản lý đầu tư xây dựng ở các cấp, các ngành, ít nhất 6 tháng 1 lần về nội dung: Cung cấp kiến thức cơ bản về quản lý đầu tư xây dựng hiện có và mới bổ sung, công tác quản lý chất lượng công trình, công tác quản lý đô thị đối với cán bộ trực tiếp làm công tác quản lý đầu tư xây dựng.
Đề nghị UBND tỉnh ban hành chế tài đối với các vi phạm về quản lý lực lượng tư vấn giám sát kỹ thuật xây dựng trên địa bàn, chế tài về công tác quyết toán công trình hoàn thành bàn giao đưa vào sử dụng theo quy định của Nhà nước.
Một số biện pháp hành chính áp dụng nhằm đảm bảo cho việc thực thi pháp luật tại địa phương trong lĩnh vực XDCB, nâng cao chất lượng công trình XDCB :
- Kiên quyết không bố trí chủ đầu tư dự án cho các đơn vị đã vi phạm quản lý dây dưa, kéo dài thời gian quyết toán công trình không theo quy định của pháp luật.
- Không cho phép cán bộ giám sát thi công công trình không có chứng chỉ về tư vấn giám sát do cơ quan có thẩm quyền cấp ( Cục giám định nhà nước và chất lượng công trình – Bộ xây dựng).
- Không chấp nhận dự án đầu tư, khi chủ trì kiến trúc không có chứng chỉ hành nghề được cấp của cơ quan có thẩm quyền ( Sở xây dựng).
- Các nhà thầu có vi phạm những điều sau đây không được tham gia đấu thầu công trình tại tỉnh Vĩnh Phúc:
+ Vi phạm về quản lý chất lượng công trình theo Bộ xây dựng.
+ Thi công công trình trước đó đã hoàn thành bàn giao đưa vào sử dụng không thực hiện quyết toán theo quy định.
+ Vi phạm quy định từ 2 lần trở lên khi tham gia vào dự thầu tại Vĩnh Phúc (hồ sơ bị loại).
3. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ :
Trong những năm vừa qua, tình hình kinh tế - xã hội ở tỉnh Vĩnh Phúc đã phát triển khá nhanh và tương đối ổn đinh, Xây dựng cơ bản phát triển mạnh , huy động đựơc nhiều nguồn vốn phục vụ cho đầu tư Xây dựng cơ bản góp phần tạo ra của cải vật chất, góp phần đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu ngành nghề, cơ cấu lao động tỉnh. Tuy nhiên, vẫn còn một sô tiềm năng rất thuận lợi cho công cuộc phát triển kinh tế - xã hội ở tỉnh chưa được khai thác tốt. Em có một số kiến nghị sau:
Sử dụng vốn đầu tư có hiệu quả hơn, có trọng điểm, tránh đầu tư dàn trải, gây thấy thoát lãng phí vốn đầu tư .
Thực hiện tốt công tác đấu thầu, tránh tình trạng móc ngoặc dẫn đến ép giá chủ đầu tư, hoặc những quan hệ, hiện tượng lót tay khiến nhà thầu năng lực kém vẫn trúng thầu.
Tập trung đầu tư khai thác những tiềm năng du lịch của địa phương
Đẩy mạnh xây dựng và phát triển các cụm, khu công nghiệp, xây dựng khu đô thị mới .
Thực hiện một cơ chế chính sách khuyến khích đầu tư rộng mở hơn, tạo môi trường hấp dẫn thu hút các nhà đầu tư cả trong nước và nước ngoài .
KẾT LUẬN
Như vậy trong thời gian qua, đầu tư Xây dựng cơ bản đã góp phần rất lớn vào sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Vĩnh Phúc, dần đưa tỉnh Vĩnh Phúc trở thành một tỉnh có nền kinh tế công nghiệp hoá - hiện đại hoá dần trở thành một trong những tỉnh phát triển kinh tế mạnh nhất trong vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ. Trong những năm vừa qua, kinh tế tỉnh Vĩnh Phúc đã có tốc độ tăng trưởng cao và khá ổn định, tạo công ăn việc làm, nâng cao thu nhập cũng như đời sống của nhân dân trên địa bàn, đó là điều đáng mừng.
Có điều kiện tự nhiên, vị trí địa lý thuận lợi, nhiều tiềm năng kinh tế chưa khai thác triệt để, nghiên cứu và đánh giá, phân tích tình hình đầu tư Xây dựng cơ bản một cách kỹ lưỡng và đưa ra những giải pháp nâng cao hiệu quả đầu tư Xây dựng cơ bản sẽ là một yếu tố quan trọng để đưa nền kinh tế Vĩnh Phúc ngày càng phát triển.
Một lần nữa em xin cám ơn sự chỉ bảo tận tình của PGS.TS.Từ Quang Phương đã giúp đỡ em trong quá trình hoàn thành bài viết của mình, và em xin cám ơn các bác, các cô các chú ở Sở Kế hoạch và đầu tư tỉnh Vĩnh Phúc đã giúp đỡ em trong quá trình thu thập tài liệu .
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Giáo trình Kinh tế đầu tư – GS.TS.Nguyễn Bạch Nguyệt, PGS.TS.Từ Quang Phương chủ biên.
Giáo trình lập dự án đầu tư – GS.TS.Nguyễn Bạch Nguyệt chủ biên.
Giáo trình quản lý dự án đầu tư – PGS.TS.Từ Quang Phương chủ biên.
Các báo cáo kế hoạch hàng năm về đầu tư XDCB của Sở kế hoạch đầu tư tỉnh Vĩnh Phúc
Các trang web vinhphuc.gov.vn,
Luận văn tốt nghiệp các khoá 43-46
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
XDCB : Xây dựng cơ bản
HDND : Hội đồng nhân dân
UBND : Uỷ ban nhân dân
QLDA : Quản lý dự án
NSNN : Ngân sách nhà nước
TKBVTC-DT : Thiết kế bản vẽ thi công-dự toán
TKKT-XDCT : Thiết kế kỹ thuật – Xây dựng công trình
CNH-HĐH : Công nghiệp hoá-hiện đại hoá.
MỤC LỤC
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 21579.doc