LỜI NÓI ĐẦU
Việt Nam đã thay đổi rất nhiều sau 20 năm với thành tích tăng trưởng cao và rất nhiều người dân Việt Nam đã thoát khỏi cảnh đói nghèo. Với tư cách một quốc gia, Việt Nam ngày càng nhận được sự nể trọng và có ảnh hưởng ngày càng lớn hơn trong cộng đồng quốc tế. Song vẫn còn những vấn đề cần phải giải quyết: năng lực sản xuất còn nhỏ lẻ, công nghệ yếu kém lạc hậu, chất lượng nguồn nhân lực chưa cao… Bên cạnh đó, có những vấn đề nhận thức cần phải nghiên cứu làm sáng tỏ từ đó mới có th
61 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1542 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Đầu tư vào tài sản vô hình trong các Doanh nghiệp Việt Nam. Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ể định hướng hoạt động trong thực tiễn. Một trong những vấn đề đó là hoạt động đầu tư vào tài sản vô hình trong doanh nghiệp hiện nay.
Chính vì vậy, em đã nghiên cứu đề tài “Đầu tư vào tài sản vô hình trong các doanh nghiệp Việt Nam. Thực trạng và giải pháp” nhằm làm rõ những vấn đề đang được đặt ra hiện nay.
Trong khuôn khổ hạn hẹp của bài viết, chắc hẳn sẽ khó lòng đề cập đầy đủ các khía cạnh của vấn đề đưa ra, và những sai sót là không thể tránh khỏi. Chính vì vậy em xin chân thành cảm ơn sự đóng góp ý kiến quý báu từ thầy cô cùng các bạn. Em cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất tới cô giáo Lương Hương Giang - người đã tận tình hướng dẫn, chỉ bảo em trong suốt quá trình thực hiện đề tài này.
Xin chân thành cám ơn!
CHƯƠNG IMỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐẦU TƯ TÀI SẢN VÔ HÌNH TRONG DOANH NGHIỆP
I. Khái niệm về đầu tư, đầu tư vào tài sản vô hình
1. Khái niệm về đầu tư.
1.1 Khái niệm về đầu tư
Đầu tư là một trong những hoạt động quan trọng nhất của nền kinh tế. Nó là một thành tố không thể thiếu được trong nền sản xuất. Nó cũng là mối quan tâm của bất kỳ doanh nghiệp nào muốn gia tăng lợi nhuận; bất kỳ cá nhân, gia đình nào muốn gia tăng thu nhập, đời sống vật chất và tinh thần. Vậy đầu tư là gì?
Có khá nhiều khái niệm về đầu tư được các nhà kinh tế học đưa ra. P.A. Samuelson cho rằng, đầu tư là hoạt động tạo ra tư bản thực sự. Đầu tư có thể dưới dạng vô hình như đầu tư cho giáo dục nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nghiên cứu phát minh. Theo ông, trong lĩnh vực tài chính, đầu tư có ý nghĩa hoàn toàn khác. Còn theo Pierce Conso, đầu tư có thể xem xét theo cách tiếp cận khác nhau như theo quan điểm kinh tế, tài chính và kế toán. Theo cuốn “từ điển kinh tế”, đầu tư bao gồm đầu tư tài chính và đầu tư tài sản vật chất. Đầu tư tài sản vật chất là hoạt động chi dùng vốn vào việc mua sắm các tài sản vật chất như nhà xưởng, máy móc thiết bị (tài sản cố định) và các tài sản tồn trữ (hàng tồn kho). Đầu tư tài sản vật chất tạo ra những tài sản mới cho nền kinh tế, trong khi đầu tư tài chính chỉ thuần túy là việc chuyển quyền sở hữu những tài sản hiện có từ chủ này sang chủ khác.
Có thể thấy khái niệm đầu tư được hiểu khá rộng. Theo nghĩa rộng, đầu tư có thể hiểu là sự hy sinh nguồn lực hiện tại để đạt được một hay tập hợp mục đích (mục tiêu) của nhà đầu tư trong tương lai. Theo khái niệm này, đầu tư là khoản chi trong hiện tại, bao trùm nhiều lĩnh vực như đầu tư tài chính, đầu tư thương mại, đầu tư tài sản vật chất và phi vật chất…nhiều cấp độ như cấp độ nền kinh tế, ngành, địa phương, doanh nghiệp và các cá nhân. Do đó, mục tiêu của đầu tư cũng được hiểu là đa lĩnh vực như mục tiêu chính trị, kinh tế, văn hóa – xã hội và cũng có thể là một mục tiêu nhân đạo đơn thuần… của chủ đầu tư.
Theo nghĩa hẹp, đầu tư là việc chi dùng vốn và các nguồn lực khác trong hiện tại nhằm thu về một kết quả lớn hơn nguồn lực đã chi ra để đạt kết quả đó, duy trì và tạo thêm những tài sản mới, năng lực mới cho nền kinh tế và cho chủ đầu tư trong tương lai. Định nghĩa này đã chỉ rõ phạm vi đầu tư là các tài sản (vật chất và vô hình) và giúp phân biệt hoạt động đầu tư với hoạt động mua sắm tiêu dùng, vì những hoạt động loại này không nhằm đem lại kết quả trực tiếp lớn hơn sau chu kỳ đầu tư. Phạm trù đầu tư theo nghĩa hẹp cũng giúp phân biệt hoạt động đầu tư với việc các tổ chức, doanh nghiệp phải chi một khoản tiền khá lớn cho các hoạt động mang tính thường xuyên nhằm đảm bảo cho quá trình sản xuất được diễn ra liên tục. Như vậy, đầu tư là hoạt động rất cần thiết để tái sản xuất tài sản của nền kinh tế và của chủ đầu tư. Với sự phân tích trên, đầu tư theo nghĩa hẹp còn được hiểu là đầu tư phát triển.
1.2. Phân loại đầu tư
Phần trên, ta đã thấy có rất nhiều cách tiếp cận với hoạt động đầu tư. Vì thế, cũng có rất nhiều cách để phân loại hoạt động đầu tư.
Theo bản chất của các đối tượng đầu tư: Đầu tư vào tài sản hữu hình, đầu tư vào tài sản vô hình.
Theo phân cấp quản lý: Đầu tư dự án nhóm A, đầu tư dự án nhóm B, đầu tư dự án nhóm C.
Theo lĩnh vực hoạt động của kết quả đầu tư: Đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, đầu tư phát triển khoa học kỹ thuật, đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng.
Theo đặc điểm hoạt động của các kết quả đầu tư: Đầu tư cơ bản, đầu tư vận hành.
Theo giai đoạn hoạt động của các kết quả đầu tư trong quá trình tái sản xuất xã hội: Đầu tư thương mại, đầu tư sản xuất.
Theo thời gian thực hiện và phát huy tác dụng của các kết quả đầu tư: Đầu tư ngắn hạn, đầu tư dài hạn.
Theo quan hệ quản lý của chủ đầu tư: đầu tư gián tiếp, đầu tư trực tiếp.
Theo nguồn vốn trên phạm vi quốc gia: Đầu tư bằng nguồn vốn trong nước, đầu tư bằng nguồn vốn nước ngoài.
-Theo quan điểm mục đích và tính chất của hoạt động đầu tư: Đầu tư tài chính, đầu tư thương mại, đầu tư phát triển.
1.3. Đặc điểm của đầu tư phát triển.
Hoạt động đầu tư phát triển có 5 đặc điểm chủ yếu sau:
Quy mô tiền vốn, vật tư, lao động cần thiết cho hoạt động đầu tư phát triển thường rất lớn. Đầu tư phát triển là một hoạt động quan trọng của nền kinh tế. Nó là một bộ phận của tăng trưởng kinh tế. Khi quy mô đầu tư tăng, nó tạo đà cho kinh tế tăng trưởng. Vậy nguồn lực để thực hiện đầu tư phát triển là từ đâu? Đó là vốn. Bản chất đầu tư phát triển được thể hiện ở vốn. Vậy vì sao cần phải có một nguồn vốn lớn dành cho đầu tư phát triển?
Vốn đầu tư phát triển là biểu hiện bằng tiền toàn bộ những chi phí đã chi ra để tạo năng lực sản xuất (tăng thêm tài sản cố định và tài sản lưu động) và các hoạt động đầu tư khác. Nguồn vốn này dùng để chi cho đầu tư xây dựng cơ bản, chi bổ sung cho các hoạt động đầu tư phát triển. Trong đó, chi xây dựng cơ bản đóng vai trò quan trọng nhất. Nó là nguồn để xây dựng mới, mở rộng, xây dựng lại, hoặc khôi phục năng lực sản xuất của tài sản cố định trong nền kinh tế quốc dân. Ví dụ như tạo thêm những công trình nhà máy, dây chuyền sản xuất, thiết bị máy móc mới, diện tích khai hoang, trồng rừng; những công trình thuỷ lợi, giao thông vận tải, truyền thông bưu điện; hay như sửa chữa, nâng cấp cầu đường, mua sắm, xây dựng lắp đặt trang thiết bị. Việc chi vốn này đẩy mạnh hoạt động sản xuất của cả nền kinh tế. Chính vì vậy, nguồn vốn cần thiết cho hoạt động này rất lớn. Thực tế, nó chiếm trên 80% tổng vốn đầu tư phát triển của một nước đang phát triển như Việt Nam. Ngoài ra còn có nguồn vốn chi bổ sung. Đó là các khoản đầu tư dùng để mua sắm nguyên vật liệu, thuê mướn lao động. Nguồn vốn này dùng để vận hành các công trình xây dựng cơ bản làm gia tăng tài sản quốc gia.
Vốn chi cho đầu tư phát triển khác bao gồm tất cả các khoản đầu tư nhằm gia tăng năng lực sản xuất của xã hội: trình độ dân trí, trình độ lao động, chất lượng môi trường. Cụ thể chi cho các công trình vì sức khỏe cộng đồng, phòng chống tệ nạn xã hội, giáo dục, y tế. Các nguồn vốn này đều vì sự tăng trưởng và phát triển ổn định của một quốc gia. Để đưa nền kinh tế tăng trưởng nhanh trước hết nhất thiết phải có nguồn lực lớn mạnh. Do vậy, muốn đưa đất nước đi lên cần phải có những giải pháp cho việc huy động, quản lý và sử dụng vốn hợp lý.
Lao động cần sử dụng cho các dự án rất lớn, đặc biệt đối với các dự án trọng điểm quốc gia. Do đó, công tác tuyển dụng, đào tạo, sử dụng, và đãi ngộ cần tuân thủ một kế hoạch định trước, sao cho đáp ứng tốt nhất nhu cầu từng loại nhân lực theo tiến độ đầu tư, đồng thời, hạn chế đến mức thấp nhất những ảnh hưởng tiêu cực do vấn đề “hậu dự án” tạo ra như việc bố trí lại lao động, giải quyết lao động dôi dư…
Tài nguyên, vật tư là những thành tố không thể thiếu đảm bảo cho quá trình hoạt động bình thường của dự án. Nhưng điều quan trọng là cần phải có hướng sử dụng sao cho vừa duy trì được cân bằng sinh thái, tránh khai thác cạn kiệt vừa mang lại lợi ích cho chủ đầu tư.
Một đặc điểm quan trọng khác của đầu tư phát triển là thời kỳ đầu tư kéo dài. Thời kỳ đầu tư tính từ khi khởi công thực hiện dự án cho đến khi hoàn thành và thực hiện dự án. Trong đặc điểm trên, ta thấy rằng những dự án đầu tư phát triển thường có quy mô rất lớn. Quá trình chuẩn bị, thực hiện và vận hành kết quả đầu tư cần có một khoản thời gian nhất định. Ví dụ thời gian xây dựng mới một con đường quốc lộ cần ít nhất là 2 đến 3 năm, bao gồm các thủ tục về mặt pháp lý, giải phóng mặt bằng, thi công công trình, nghiệm thu công trình... Thực tế có những công trình xây dựng phải mất tới hàng chục năm: xây một tòa nhà cao tầng, xây nhà máy lớn, công trình thủy điện…
Thời kỳ đầu tư kéo dài là cần thiết đối với một dự án. Nhưng vấn đề quan trọng là cần bao nhiêu thời gian. Điều này cần phải được nghiên cứu kỹ và có tính toán, tránh chạy theo thành tích mà đề ra những khoảng thời gian phi thực tế, ảnh hưởng đến chất lượng công trình. Ngoài ra, như chúng ta đã biết, nguồn vốn dành cho đầu tư phát triển thường nằm khê đọng trong suốt quá trình thực hiện đầu tư. Tiến độ công trình chậm bao nhiêu, thời gian hoàn vốn chậm bấy nhiêu. Điều đó làm giảm hiệu quả đầu tư. Do vậy, việc đảm bảo thời gian thực hiện dự án cũng là yêu cầu phải được đặt lên hàng đầu.
Thời gian vận hành các kết quả đầu tư thường kéo dài. Thời gian vận hành các kết quả đầu tư được tính từ khi công trình đưa vào hoạt động cho đến khi hết thời hạn sử dụng và đào thải công trình. Đây là một đặc điểm rất riêng của đầu tư phát triển. Thứ nhất, những sản phẩm của đầu tư phát triển đều là bộ phận của nền sản xuất. Nó tạo ra của cải vật chất cho xã hội, tạo đà tăng trưởng cho nền kinh tế, nên thời gian sử dụng dài. Thứ hai, quy mô của các công trình rất lớn, nên cần có một khoảng thời gian tương đối để thu hồi vốn và có lợi nhuận. Trên thực tế có rất nhiều công trình đã tồn tại vài chục năm, hàng trăm năm, thậm chí hàng thế kỷ như thủy điện sông Đà, cầu Long Biên, phố cổ Hội An.... Do tính chất này, nên trong suốt quá trình vận hành, nó chịu ảnh hưởng nhiều của các nhân tố bên ngoài, và đa phần là có ảnh hưởng tiêu cực đến sự thành công của dự án.
Các nhân tố tự nhiên, kinh tế, xã hội ảnh hưởng lớn đến quá trình thực hiện và vận hành kết quả đầu tư, nhất là đối với các công trình xây dựng. Các công trình xây dựng nói chung thường có quy mô lớn và phát huy tác dụng ngay tại địa phương xây dựng. Do vậy quá trình đầu tư cũng như thời gian vận hành các công trình này chịu nhiều tác động của điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội của vùng. Xây dựng một công trình ở nơi có khí hậu nhiệt đới gió mùa khác với xây dựng ở vùng hanh khô, hay xây dựng công trình ở nơi có địa chất ổn định khác với xây dựng ở nơi hay xảy ra động đất. Do vậy nhà đầu tư cần có tính toán hợp lý vừa để đảm bảo tính kiên cố của công trình, vừa có thể giảm được chi phí cho doanh nghiệp. Tiếp đến, sự phát triển kinh tế của vùng có ảnh hưởng rất lớn đến quyết định đầu tư và quy mô của doanh nghiệp. Nó ảnh hưởng đến việc mặt hàng của doanh nghiệp có khả năng phát triển trong điều kiện kinh tế vùng hay không? Lấy ví dụ về việc mở con đường ở nông thôn - kinh tế còn hạn chế - và ở thành phố - kinh tế phát triển. Ở nông thôn liệu nhu cầu đi lại đã đủ lớn để xây dựng con đường đó chưa? Nếu như nó được xây dựng có cần thiết phải xây con đường lớn không? Điều này buộc nhà đầu tư phải cân nhắc. Ngược lại ở thành phố, nhu cầu giao thông rất lớn, cần phải mở thêm đường để giảm bớt lưu lượng xe trên nhũng con đường khác, tránh ùn tắc... Điều kiện xã hội của vùng cũng có ảnh hưởng lớn tới công trình. Việc xây dựng nhà máy liệu có đảm bảo an ninh không, sản phẩm của nhà máy có phù hợp với văn hóa địa phương hay không?.... Do những ảnh hưởng trên đây, nên doanh nghiệp cần nghiên cứu kỹ càng môi trường đầu tư để quyết định sản xuất mặt hàng gì, công suất bao nhiêu là hợp lý.
Đầu tư phát triển có độ rủi ro cao. Đầu tư nói chung và đầu tư phát triển nói riêng mang một đặc điểm quan trọng: độ rủi ro cao. Nguồn lực cần cho đầu tư phát triển là rất lớn. Việc thu hồi vốn liệu có gặp thuận lợi hay không? Cùng một nguồn vốn đó, nhà đầu tư có thể đa dạng hóa đầu tư. Điều này sẽ làm giảm thất bại hơn là việc dồn vốn cho một dự án. Hơn thế nữa, thời gian hoàn thành dự án dài, vốn bị khê đọng trong công trình. Trong khoản thời gian đó, chủ đầu tư rất có thể gặp khó khăn khi một chính sách mới ban hành không có lợi cho công trình, hay những biến động về giá cả... Do đo rủi ro là một vấn để được các nhà đầu tư rất quan tâm.
Rủi ro trong đầu tư cũng có rất nhiều nguyên nhân. Tựu chung lại ta có thể xét rủi ro trên hai phương diện sau: Rủi ro chủ quan và rủi ro khách quan. Rủi ro chủ quan: nguyên nhân thuộc về phía các chủ đầu tư. Có thể do chủ đầu tư yếu kém về mặt trình độ, đã lựa chọn các phương án không hợp lý; do trình độ quản lý thấp, chất lượng sản phẩm không đạt yêu cầu... Rủi ro khách quan: Có thể do thay đổi pháp luật; biến động của thị trường (giá cả nguyên vật liệu, mặt hàng liên quan); máy móc hư hỏng....
Để thực hiện đầu tư tốt, nhà đầu tư cần phải nghiên cứu, phân loại các rủi ro có thể gặp trong suốt quá trình đầu tư:
- Rủi ro chính trị: do sự thay đổi về thuế theo hướng bất lợi khiến cho dòng lợi nhuận của chủ đầu tư giảm trong tương lai. Hay Nhà nước ban hành các chính sách giới hạn thương mại, hạn ngạch thuế quan khiến các doanh nghiệp phải giảm sản lượng, tăng chi phí. Điều này ảnh hưởng đến những tính toán trước khi ra quyết định đầu tư. Từ đó, công trình có nguy cơ giảm lợi nhuận, thua lỗ....
- Rủi ro trong quá trình xây dựng hoàn thành công trình: Rủi ro khi chi phí xây dựng vượt quá dự toán. Như vậy công trình sẽ gặp khó khăn trong việc xin cấp phép nguồn vốn bổ sung. Nó ảnh hưởng nhiều đến tiến độ thi công công trình, ít thì có thể là một vài tháng, nhiều có thể vài năm, thậm chí công trình bị hủy, gây lãng phí nguồn lực. Rủi ro phát sinh cũng có thể là không hoàn thành công trình đúng thời hạn, không giải tỏa được dân cư...
- Rủi ro về kỹ thuật vận hành: Khi các thiết bị trong quá trình thực hiện đầu tư gặp vấn đề. Điều này có thể gây thiệt hại kinh tế rất lớn. Ví dụ nguyên liệu đang trong giai đoạn chế biến quan trọng, nếu máy móc bị hỏng toàn bộ, nguyên liệu đó không thể sử dụng được. Thiệt hại của chủ đầu tư ngoài giá trị sản phẩm đó, còn các yếu tố liên quan khác: chi phí khắc phục máy móc, chậm giao sản phẩm cho khách hàng, kế hoạch làm việc của lao động....
Ngoài ra, ta còn có các loại rủi ro khác như: rủi ro về môt trường xã hội; rủi ro kinh tế vĩ mô (lạm phát, tỷ giá hối đoái), vi mô (cung, cầu)... Với những thiệt hại mà rủi ro đem lại cho các hoạt động đầu tư phát triển, đòi hỏi các nhà đầu tư phải có những nghiên cứu để nhận diện, đánh giá rủi ro, phòng tránh rủi ro. Từ đó mới đi tới quyết định đúng đắn.
2. Khái niệm về đầu tư tài sản vô hình
2.1. Khái niệm về đầu tư tài sản vô hình
Tài sản vô hình là những tài sản thể hiện ra bằng những lợi ích kinh tế, chúng không có cấu tạo vật chất, mà tạo ra những quyền và những ưu thế đối với người sở hữu và thường sinh ra thu nhập cho người sở hữu chúng. Nói một cách nôm na tài sản vô hình là tất cả những gì không thể dùng giác quan cảm nhận được nhưng lại có thể mang lại giá trị thặng dư được tính thành tiền.
Bên cạnh những đặc điểm chung của tài sản và tài sản cố định trong doanh nghiệp, tài sản vô hình có những đặc điểm chủ yếu sau:
- Có hình thái vật chất không rõ ràng
- Rất khó đánh giá chính xác giá trị của một tài sản cố định vô hình vì nó không tồn tại dưới dạng vật chất có thể đo đếm dễ dang. Sự đánh giá đúng hay sai trị giá của tài sản cố định vô hình phụ thuộc chủ yếu vào cảm nhận và ý kiến chủ quan của người đánh giá. Tuy nhiên, sự phát triển của các thị trường tài chính, thị trường về quyền sở hữu công nghiệp đã tạo ra điều kiện hình thành các mức giá thị trường của tài sản vô hình. Giá trị của những tài sản vô hình này được thể hiện bằng những khoản chi phí để mua tài sản đó thông qua các văn bản sở hữu được luật pháp thừa nhận như: khế ước, giấy chứng nhận sở hữu, hợp đồng…
- Các tài sản vô hình chỉ có lợi ích khi nó tạo ra lợi thế thương mại, chẳng hạn như sự yêu thích của người tiêu dùng hay người sử dụng.
2.2. Phân loại tài sản vô hình.
Tài sản vô hình bao gồm danh tiếng, tinh thần và văn hóa ứng xử của đội ngũ nhân lực, bí quyết kinh doanh và bí quyết kỹ thuật, sáng chế, giải pháp kỹ thuật, kiểu dáng công nghệ, nhãn hiệu hàng hóa và các thành quả vô hình khác.
- Các sáng chế, phát minh, công thức, quy trình, mô hình, kỹ năng (know-how).
- Bản quyền và các tác phẩm văn học, âm nhạc, nghệ thuật.
- Thương hiệu, tên thương mại, nhãn hiệu hàng hoá.
- Quyền kinh doanh (franchise), giấy phép (license), hợp đồng.
- Phương pháp, chương trình, hệ thống, thủ tục, khảo sát, nghiên cứu, dự báo, dự toán, danh sách khách hàng, các số liệu kỹ thuật.
- Các thứ “tương tự” khác. Một thứ được gọi là “tương tự” nếu nó tạo ra giá trị không phải nhờ vào các “thuộc tính vật chất”, mà nhờ vào “nội dung trí tuệ hoặc các quyền tài sản vô hình khác của nó”.
II. Nội dung đầu tư vào tài sản vô hình của doanh nghiệp
1. Hoạt động đầu tư phát triển nguồn lực.
Nguồn nhân lực là nguồn lực con người, là một trong những nguồn lực quan trọng của sự phát triển kinh tế xã hội. Nguồn nhân lực được hiểu như là nơi sinh sản, nuôi dưỡng và cung cấp nguồn lực con người cho sự phát triển. Nó là một yếu tố tham gia trực tiêp vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội, là tổng thể những con người cụ thể tham gia vào quá trình lao động.
Chất lượng nguồn nhân lực là trạng thái nhất định của nguồn nhân lực, thể hiện mối quan hệ giữa các yếu tố cấu thành nên bản chất bên trong của nguồn nhân lực. Chất lượng nguồn nhân lực là chỉ tiêu phản ánh trình độ phát triển kinh tế và đời sống người dân trong một xã hội nhất định. Chất lượng nguồn nhân lực ảnh hưởng mạnh đến năng suất lao động, đến sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp.
Đối với doanh nghiệp, nguồn nhân lực có vị trí quan trọng. Đó là yếu tố duy nhất đưa lại lợi ích kinh tế, làm tăng của cải cho doanh nghiệp. Trong quá trình sản xuất kinh doanh phải có 3yếu tố cơ bản là: tư liệu lao động, đối tượng lao động và lao động; nếu không có con người thì yếu tố tư liệu lao động và đối tượng lao động chỉ là vật chết, chính yếu tố lao động mới làm sống lại tư liệu sản xuất thông qua việc đưa chúng tham gia vào quá trình sản xuất. Người lao động là yếu tố cách mạng nhất của quá trình sản xuất. Mặt khác, nguồn nhân lực có chất lượng cao góp phần làm tăng năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, tăng thu hút đầu tư. Do vậy cần phải đầu tư phát triển nguồn nhân lực.
Đầu tư phát triển nguồn nhân lực là hoạt động đầu tư nâng cao chất lượng nguồn lực con người, đó là quá trình trang bị kiến thức nhất định về chuyên môn nghiệp vụ cho người lao động, để họ có thể đảm nhận được một công việc nhất định; đó cũng là quá trinh cải thiện, nâng cao chất lượng điều kiện làm việc của người lao động.
Như vậy, nội dung đầu tư phát triển nguồn nhân lực bao gồm:
Đầu tư cho hoạt động đào tạo đội ngũ nguồn nhân lực
Đầu tư cho công tác chăm sóc sức khoẻ, y tế
Cải thiện môi trường, điều kiện làm việc
Trả lương đúng và đủ cho người lao động.
Đầu tư cho hoạt động đào tạo đội ngũ lao động: Hoạt động đào tạo: chính quy, dài hạn, ngắn hạn, bồi dưỡng nghiệp vụ… Giáo dục cơ bản cung cấp những kiến thức cơ bản để phát triển năng lực cá nhân. Giáo dục nghề và giao dục đại học (đào tạo) vừa giúp cho người học có kiến thức đồng thời cung cấp tay nghề, kỹ năng, chuyên môn. Với mỗi trình độ nhất định, người được đào tạo biết được họ sẽ phải đảm nhận những công việc gì, yêu cầu kỹ năng cũng như chuyên môn nghề nghiệp phải như thế nào?
Vai trò của hoạt động giáo dục đối với việc nâng cao chất lượng lao động được cụ thể như sau:
Tăng tích luỹ vốn con người đặc biệt là tri thức và sẽ giúp cho việc sáng tạo ra công nghệ mới, tiếp thu công nghệ mới. Do đó, thúc đẩy quá trình tăng trưởng dài hạn của doanh nghiệp.
Tạo ra một lực lượng lao động có trình độ, có khả năng làm việc với năng suất cao, là cơ sở thúc đẩy phát triển nhanh và bền vững.
Giúp bổ sung các dịch vụ y tế.
Đầu tư dịch vụ y tế, chăm sóc sức khoẻ cải thiện chất lượng lao động: Sức khoẻ có tác động đến chất lượng lao động cả hiện tại và tương lai. Người có sức khoẻ tốt có thể mang lại những lợi nhuận trực tiếp hoặc gián tiếp bằng việc nâng cao sức bền bỉ, dẻo dai và khả năng tập trung cao. Vì vậy nhanh chóng tiếp thu kiến thức, kỹ năng qua giáo dục – đào tạo.
Trả lương đúng và đủ cho người lao động: Làm cho người lao động nhận thức đúng đắn công việc và vai trò của mình trong doanh nghiệp.
Lương phù hợp với khả năng khiến người lao động vững tâm và phấn đấu hơn trong công việc.
Như vậy, đầu tư vào các hoạt động trên có tác động hỗ trợ nhau, bổ sung cho nhau trong việc cải thiện chất lượng nguồn nhân lực .
2. Hoạt động đầu tư nghiên cứu và triển khai các hoạt động khoa học và công nghệ.
Cùng với đà phát triển của cơ chế thị trường hiện nay, nhu cầu của con người càng đa dạng, đòi hỏi cao không những về mặt số lượng mà còn về mặt chất lượng. Vì vậy, doanh nghiệp muốn có một chỗ đững vững chắc trên thị trường và nâng cao khả năng với các doanh nghiệp khác thì doanh nghiệp phải không ngừng cải tiến, đổi mới sản phẩm, đổi mới phương thức sản xuất, đổi mới công nghệ để nâng cao chất lượng sản phẩm. Vì vậy, hoạt động đàu tư nghiên cứu khoa học là thực sự quan trọng, đóng vai trò quyết định sự sống còn của doanh nghiệp.
Đầu tư nghiên cứu triển khai khoa học công nghệ có thể là đầu tư nghiên cứu công nghệ mới hoặc là đầu tư mua sắm công nghệ từ nước ngoài.
Mua công nghệ tức là công nghệ thuộc quyền sở hữu độc quyền của doanh nghiệp, doanh nghiệp là người duy nhất có quyền quyết định về công nghệ đó. Từ đó doanh nghiệp có khả năng sản xuất ra sản phẩm hoặc dịch vụ hiệu quả nhất, tốt nhất, tạo lợi thế cạnh tranh cao nhất cho doanh nghiệp. Tuy nhiên trong thực tế các doanh nghiệp nước ta hiện nay thực thi điều này là rất khó, mặt khác việc mua công nghệ thường gặp rủi ro lớn vì chưa hẳn công nghệ là tốt nhất. Nếu trong tương lai doanh nghiệp chưa kịp khấu hao hết công nghệ thì đã xuất hiện công nghệ mới tốt hơn…chính vì thế mà người ta thường chỉ mua những công nghệ ít biến động, sản xuất hàng hoá đặc biệt, hay với công nghệ xuất hiện lần đầu trong một loại sản phẩm dịch vụ cấp thiết, nhu cầu thị trường là rất lớn.
Mua quyền sử dụng công nghệ: doanh nghiệp thường áp dụng hình thức này bởi hình thức này có ít rủi ro hơn và tốn ít chi phí hơn. Tuy nhiên doanh nghiệp phải chấp nhận đối thủ của mình cũng sở hữu công nghệ như mình và sức ép cạnh tranh là rất lớn. Nhưng ít ra nó cũng giúp cho doanh nghiệp có những lợi thế hơn so với những sản phẩm không có công nghệ đó hoặc lợi thế giá thành do công nghệ giúp khai thác tối đa những nguồn lực mà đối thủ không có.
Và ngoài ra doanh nghiệp còn có thể đầu tư vào nghiên cứu phát minh ra công nghệ mới hay có sự cải tiến trong việc sử dụng hay tăng năng lực sản xuất của doanh nghiệp.
Đầu tư nghiên cứu hoặc mua công nghệ đòi hỏi một lượng vốn lớn và độ rủi ro cao. Công nghệ được sử dụng ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng sản phẩm tạo ra. Vì vậy, đầu tư vào khoa học công nghệ cần phải đầu tư một cách cẩn trọng. Hiện nay khả năng đầu tư cho hoạt động nghiên cứu và triển khai khoa học và công nghệ của doanh nghiệp Việt Nam còn khá khiêm tốn. Cùng với đà phát triển của kinh tế đất nước và doanh nghiệp, trong tương lai tỷ lệ chi cho hoạt động đầu tư này sẽ càng tăng, tương ứng với nhu cầu và khả năng của doanh nghiệp.
3. Hoạt động đầu tư Marketing
Hoạt động marketing là một trong những hoạt động quan trọng của doanh nghiệp. Trong nền kinh tế thị trường, doanh nghiệp là một chủ thể kinh doanh, một cơ thể sống của đời sống kinh tế. Cơ thể đó cần có sự trao đổi chất với môi trường bên ngoài – thị trường. Quá trình trao đổi chất đó càng diễn ra thường xuyên, liên tục, với quy mô càng lớn thì cơ thể đó càng khoẻ mạnh. Ngược lại, sự trao đổi đó diễn ra yếu ớt thì cơ thể đó có thể quặt quẹo và chết yểu. Chỉ có marketing mới có vai trò quyết định và điều phối sự kết nối với thị trường, có nghĩa là đảm bảo cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp hướng theo thị trường, biết lấy thị trường – nhu cầu và ước muốn của khách hàng làm chỗ dựa vững chắc nhất cho mọi quyết định kinh doanh. Như vậy đầu tư vào hoạt động marketing, doanh nghiệp sẽ tăng cường được vị thế của mình, ngoài ra doanh nghiệp còn xác định được các bước đi tiếp theo trong kế hoạch chiến lược của mình.
Đầu tư cho hoạt động marketing bao gồm:
- Đầu tư cho hoạt động quảng cáo: là hoạt động đầu tư vào những hình thức truyền thông không trực tiếp, phi cá nhân, được thực hiện thông qua các phương tiện truyền tin phải trả tiền và các chủ thể quảng cáo phải chịu chi phí. Theo quan điểm của nhà quản lý, quảng cáo là phương sách có tính chất chiến lược để đạt được hoặc duy trì một lợi thế cạnh tranh trên thị trường. Trong nhiều trường hợp, đầu tư cho quảng cáo là một sự đầu tư dài hạn .
- Xúc tiến thương mại
- Xây dựng thương hiệu…
Đầu tư cho các hoạt động marketing cần chiếm một tỷ trọng hợp lý trong tổng vốn đầu tư của doanh nghiệp.
4. Đầu tư vào tài sản vô hình khác
Tài sản vô hình khác: Bao gồm những loại tài sản vô hình khác chưa qui định phản ánh ở trên như: quyền đặc nhượng; quyền thuê nhà; quyền sử dụng hợp đồng; công thức và cách pha chế, kiểu mẫu, thiết kế và vật mẫu; tài sản vô hình đang triển khai…
III. Vai trò của đầu tư tài sản vô hình đối với sự phát triển của doanh nghiệp
Như trên chúng ta thấy, hoạt động đầu tư vào tài sản vô hình là nội dung cực kỳ quan trọng trong chiến lược phát triển của doanh nghiệp. Nhất là đối với các doanh nghiệp dịch vụ và công nghệ thì để tồn tại và phát triển cần phải xây dựng được một thương hiệu mạnh.
Vậy đầu tư vào tài sản hữu hình có tác động thế nào đến sự phát triển của doanh nghiệp, chúng ta sẽ lần lượt nghiên cứu.
Đầu tư vào tài sản vô hình tác động tới tới đầu tư vào tài sản hữu hình. Một khi doanh nghiệp đã đầu tư tốt vào tài sản vô hình, xây dựng cho mình được một thương hiệu mạnh, có uy tín với người tiêu dùng thì điều đó sẽ góp phần làm tăng doanh thu cũng như lợi nhuận cho doanh nghiệp. Từ đó doanh nghiệp sẽ có vốn để đầu tư ngược trở lại tài sản hữu hình thông qua việc mở rộng quy mô sản xuất, mua sắm trang thiết bị mới, xây dựng thêm các nhà xưởng…
Bên cạnh đó, nếu doanh nghiệp xây dựng được một đội ngũ nhân lực có khả năng và kinh nghiệm, có tâm huyết với công việc thì điều này đã trở thành một lợi thế cạnh tranh lơn cho doanh nghiệp. Hay khi doanh nghiệp triển khai nghiên cứu một công nghệ mới thành công, có tác dụng nâng cao năng suất lao động, cải tiến chất lượng sản phẩm thì nó sẽ giúp nâng cao mức lợi nhuận của doanh nghiệp, tạo cơ sở cho doanh nghiệp đầu tư trở lại tài sản hữu hình.
Mặc dù đầu tư vào tài sản vô hình có thể tác động tích cực song cũng có thể tác động tiêu cưc tới hoạt động đầu tư vào tài sản hữu hình. Nếu doanh nghiệp không xác định được tỉ trọng đầu tư hợp lí vào tài sản vô hình thì sẽ gây cản trở cho việc đầu tư vào tài sản hữu hình. Vì nguồn lực của các doanh nghiệp là hạn chế, nhất là đối với những doanh nghiệp Việt Nam như hiện nay- chủ yếu là những doanh nghiệp nhỏ, lẻ, quy mô vốn thấp. Chính vì vậy, nếu không sử dụng nguồn vốn hạn chế đó một cách có hiệu quả, phân bổ hợp lí vào từng danh mục đầu tư thì nếu đầu tư quá nhiều vào tài sản vô hình thì sẽ ảnh hưởng tới hiệu quả đầu tư vào tài sản hữu hình.
Bên cạnh đó, bất cứ một doanh nghiệp nào nếu chỉ tìm mọi cách để đánh bóng thương hiệu của mình trong con mắt người tiêu dùng( tức đầu tư vào tài sản vô hình- thương hiệu) mà không đổi mới, cải tiến chất lượng sản phẩm, mở rộng quy mô sản xuất thì tất yếu sẽ dẫn tới việc phá sản, thất bại trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh gay gắt như hiện nay, khi mà sản phảm đang ngày càng phong phú đa dạng cả về chủng loại và chất lượng và yêu cầu của người tiêu dùng thì ngày càng khắt khe hơn. Do đó, nếu doanh nghiệp không có chiến lược đầu tư tốt cho tài sản vô hình thì sẽ gây khó khăn, ảnh hưởng tiêu cực tới việc đầu tư vào tài sản hữu hình.
Mặt khác, nếu doanh nghiệp sai lầm trong việc đầu tư vào tài sản vô hình- ví dụ như tốn quá nhiều chi phí trong việc nghiên cứu triển khai một công nghệ không phù hợp, hoặc chiến lược tiếp thị, quảng cáo sản phẩm gây tác dụng ngược, phản cảm trong công chúng thì điều đó sẽ làm xấu đi hình ảnh của doanh nghiệp, giảm doanh thu cũng như thị phần của doanh nghiệp và điều đó sẽ tác động trực tiếp tới việc đầu tư vào tài sản hữu hình của doanh nghiệp đó.
Đầu tư vào tài sản vô hình tác động tới hoạt động của doanh nghiệp. Như chúng ta đã biêt, tài sản vô hình là thành phần không thể thiếu của doanh nghiệp, là phần xương sống của doanh nghiệp. Vậy hoạt động đầu tư vào tài sản vô hình có tác động thế nào đến hoạt động của doanh nghiệp. Chúng ta có thể thấy:
Đầu tư vào tài sản vô hình là không thể thiếu đối với hoạt động một doanh nghiệp trong cơ chế thị trường. Trước đây khi chúng ta duy trì cơ chế tập trung quan liêu bao cấp thì các doanh nghiệp chỉ cần đầu tư vào tài sản hữu hình bởi vì mỗi doanh nghiệp đã được giao định mức sản xuất, còn việc tiêu thụ sản phẩm là do Nhà Nước quản lý. Do vậy một doanh nghiệp có thể tồn tại hay không là phụ thuộc vào Nhà nước. Còn hiện nay, một doanh nghiệp muốn tồn tại không chỉ có cơ sở vật chất để sản xuất ra sản phẩm (tức tài sản hữu hình) mà nó còn phải có vị trí trên thị trường. Tức là sản phẩm doanh nghiệp phải được người tiêu dùng biết đến, lựa chọn và có một vị thế nhất định trong con mắt của người tiêu dùng. Để làm được điều đó thì doanh nghiệp còn phải đầu tư vào tài sản vô hình, tạo nên hình ảnh cho doanh nghiệp mình.
Đầu tư vào tài sản vô hình một cách hợp lý có tác động tích cực đến hoạt động của doanh nghiệp.Nếu doanh nghiệp không để ý đầu tư vào tài sản hữu hình thì sẽ khó có chỗ đứng trên thị trường. Bởi vì chúng ta đang hoạt động trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển thì phải khẳng định được hình ảnh của mình. Xu thế ngày nay đó là các doanh nghiệp tăng cường cho việc đầu tư vào tài sản vô hình nhiều. Điều quan trọng là các doanh nghiệp phải định vị sản phẩm của mình trên thị trường để có được chiến lược đầu tư đồng bộ giữa tài sản hữu hình và tài sản vô hình nhằm mang lại hiệu quả tốt nhất.
CHƯƠNG IITHỰC TRẠNG ĐẦU TƯ VÀO TÀI SẢN VÔ HÌNH TRONG CÁC ._.DOANH NGHIỆP VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2002-2007
I. Tình hình đầu tư vào tài sản vô hình theo nội dung đầu tư
1. Tình hình đầu tư phát triển nguồn nhân lực
Thứ nhất, về đầu tư cho hoạt động đào tạo đội ngũ nguồn nhân lực. Hiện nay, hoạt động đào tạo này đang theo hướng cầu của thị trường lao động.
Với việc hoàn thiện Luật doanh nghiệp, mỗi năm có hàng chục ngàn cơ sở sản xuất kinh doanh được thành lập với nhiều loại hình sở hữu và hình thức hoạt động. Theo Tổng cục thống kê, đến nay đã có trên 240.000 doanh nghiệp đăng ký hoạt động với số lao động làm việc đạt gần 12 triệu người. Để nâng cao năng lực cạnh tranh, các doanh nghiệp phải nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của mình, dẫn tới nhu cầc về lao động qua đào tạo nghề cũng như của các ngành kinh tế là rất lớn. Nhận thức được vai trò của việc đầu tư cho hoạt động này, để đáp ứng được nhu cầu nhân lực kỹ thuật cho các doanh nghiệp, công tác dạy nghề đã từng bước được đổi mới và phát triển. Có thể nêu một số kết quả đạt được:
Hệ thống dạy nghề đã bắt đầu được đổi mới, chuyển từ hệ thống dạy nghề hai cấp trình độ đào tạo sang hệ thống dạy nghề với ba cấp trình độ: sơ cấp nghề, trung cấp nghề và cao đẳng nghề, coi trọng dạy nghề trình độ cao đáp ứng nhu cầu.
Mạng lưới các cơ sở dạy nghề được phát triển theo quy hoạch rộng khắp trên toàn quốc, đa dạng về loại hình sở hữu và đào tạo. Đến nay trong cả nước có 2052 cơ sở dạy nghề. Số lượng dạy nghề tư thục tăng nhanh, đã có một số cơ sở dạy nghề có vốn đầu tư nước ngoài. Hiện có 789 cơ sở dạy nghề ngoài công lập.
Năng lực đào tạo của các cơ sở dạy nghề đã được nâng lên. Quy mô đào tạo nghề tăng nhanh, năm 2007 ước tính tuyển sinh được 1.436.500 người, trong đó trung cấp nghề là 151.000 và cao đẳng nghề là 29.500 người.
Cơ cấu ngành nghề được đào tạo đã từng bước được điều chỉnh theo cơ cấu ngành nghề trong sản xuất, kinh doanh, dịch vụ của các doanh nghiệp. Các cơ sở dạy nghề đã mở rộng thêm nhiều ngành nghề mà doanh nghiệp có nhu cầu.
Chất lượng và hiệu quả dạy nghề có từng bước chuyển tích cực. Hàng năm tỷ lệ học sinh tốt nghiệp đạt trên 95%; trong đó loại khá giỏi chiếm 29%; khoảng 70% học sinh tìm được việc làm hoặc tự tạo việc làm ngay sau khi tốt nghiệp ở một số nghề và một số cơ sở dạy nghề tại doanh nghiệp, tỷ lệ này đạt trên 90%. Qua điều tra của tổng cục dạy nghề tại gần 3.000 doanh nghiệp, đa số lao động qua đào tạo nghề đang làm việc trong các doanh nghiệp đã được sử dụng có hiệu quả. Đa số lao động qua đào tạo nghề được các doanh nghiệp sử dụng phù hợp với trình độ đào tạo cua họ (khoang 85% so với số lao động qua đào tạo nghề đang làm việc tại doanh nghiệp). Theo đánh giá của người sử dụng lao động, khoảng 30% số lao động qua đào tạo nghề có kỹ năng nghề đạt loại khá trở lên.
Nhìn chung dạy nghề đã từng bước đáp ứng nhu cầu lao động kỹ thuật trực tiếp trong sản xuất của doanh nghiệp; lao động Việt Nam đã đảm nhiệm được hầu hết những vị trí quan trọng trong các ngành sản xuất, kể cả các ngành đòi hỏi kỹ thuật cao, công nghệ phức tạp, góp phần tăng năng suất lao động, tăng sức cạnh tranh của sản phẩm, hàng hoá.
Việc dạy nghề được phát triển với các mô hình dạy nghề năng động, linh hoạt gắn đào tạo với sử dụng lao động theo hướng cầu của thị trường lao động để đáp ứng nhu cầu nhân lực của doanh nghiệp. Đặc biệt mô hình dạy nghề tại doanh nghiệp được triển khai trong những năm qua đã đạt được những kết quả bước đầu. Đến nay, cả nước có 143 cơ sở dạy nghề thuộc các doanh nghiệp; hầu hết các tổng công ty, các tập đoàn kinh tế mạnh đều có trường dạy nghề để chủ động tạo nguồn nhân lực cho xã hội. Các doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp tư nhân có quy mô lớn đã tổ chức dạy nghề, bổ túc nghề, bồi dưỡng kỹ năng, chuyển giao công nghệ cho người lao động theo yêu cầu của doanh nghiệp. Nhiều doanh nghiệp cũng đã đào tạo nghề tại chỗ khá tốt, không những đáp ứng được nhu cầu về tác động kỹ thuật phù hợp với cơ cấu trình độ, cơ cấu ngành nghề sản xuất kinh doanh và trình độ công nghệ của doanh nghiệp, mà còn chia sẻ trách nhiệm đối với Nhà nước, thực hiện xã hội hoá trong đào tạo nghề nhằm nâng cao chất lượng và tay nghề của đội ngũ lao động nước ta.
Ngoài việc tuyển dụng lao động có tay nghề, đào tạo nâng cao kỹ năng nghề cho lao động sau khi tuyển dụng là một vấn đề cần thiết. Qua khảo sát gần 10.000 lao động trong các doanh nghiệp; có 36,6% số lao động được đào tạo, đào tạo lại sau khi tuyển dụng để phù hợp với công nghệ sản xuất của doanh nghiệp. Điều này không có nghĩa là dạy nghề chưa đáp ứng được mà vì để thích ứng với công nghệ, nên các doanh nghiệp vẫn phải đào tạo lại cho phù hợp.
Điều đáng chú ý là trong thời gian qua, bước đầu đã có sự gắn kết giữa nhà trường và doanh nghiệp trong dạy nghề, như: Thành phố Hồ Chí Minh có 10 trung tâm đào tạo công nghệ thông tin liên kết với nước ngoài; trung tâm thiết kế điện tử EDTC hợp tác với tập đoàn Cadence; trung tâm đào tạo Java với tập đoàn Sanmicrosgten. Nhiều công ty tập đoàn lớn đã có kế hoạch tìm nhân tài ngay từ khi những đối tượng này còn ngồi trên ghế nhà trường, như: từ năm 2000, công ty Unilever đã thường niên tổ chức ngày hội quản trị viên tập sự, thu hút khoang 2.000 sinh viên; Proter & Gamble co chương trinh Careercamp, huấn luyện nghề nghiệp và học bổng học tập; công ty Pricewaterhousr Coopers tổ chức ngày hội giao lưu với sinh viên năm cuối.
Tuy nhiên, việc dạy nghề theo địa chỉ và tại doanh nghiệp vẫn còn những tồn tại, hạn chế như: cơ cấu nganh, nghề đào tạo vẫn chưa phù hợp với cơ cấu ngành nghề của yêu cầu; chưa bổ sung thường xuyên các nghề đào tạo mới, thiếu lao động kỹ thuật cao cung cấp cho các doanh nghiệp thuộc các ngành kinh tế mũi nhọn, kinh tế trọng điểm. Chất lượng dạy nghề vẫn còn thấp chưa phù hợp với sự thay đổi nhanh công nghệ sản xuất của doanh nghiệp. Mối quan hệ trường và doanh nghiệp chưa chặt chẽ cả về pháp lý và trách nhiệm xã hội.
Hàng năm có khoảng 200.000 sinh viên tốt nghiệp ra trường song chỉ một phần nhỏ có thể đáp ứng được nhu cầu tuyển dụng nhân lực trung, cao cấp của thị trường lao động. Nguồn lao động chất lượng cao, hiện vừa thiếu về số lượng, vừa thiếu về chất lượng, gần 70% lao động chưa qua đào tạo, một bộ phận lao động đã qua đào tạo hoặc sử dụng không đúng ngành nghề đào tạo hoặc phải đào tạo lại mới có thể đào tạo trong các doanh nghiệp, thiếu nghiêm trọng lao động dịch vụ cao cấp (tài chính, ngân hàng…). Mặt khác, hầu hết lao động của nước ta còn mang thói quen, tập quán sản xuất nhỏ, thiếu năng động và sáng tạo, ý thức kỷ luật tác phong công nghiệp kém, kiến thức kỹ năng làm việc theo nhóm hạn chế, ngại phát huy sáng kiến và chia sẻ kinh nghiệm làm việc.
Nguồn nhân lực bậc cao mới chỉ đáp ứng được 30 – 40% nhu cầu của các công ty. Nhiều doanh nghiệp có đủ khả năng tài chính muốn mở rộng sản xuất, kinh doanh nhưng nguồn lao động hiện hành không thể đáp ứng được nhu cầu, còn việc tuyển dụng người lao động chất lượng cao từ bên ngoài khó khăn. Do thiếu lao động nên một người phải đảm nhiệm công việc nhiều hơn dẫn đến chất lượng công việc giảm.
Điều kiện, môi trường làm việc: Các doanh nghiệp chưa ý thức được tầm quan trọng của công tác quản lý và phát triển nguồn nhân lực, thiếu hẳn cơ chế tổ chức rõ ràng để thu hút và giữ chân nhân tài dẫn tới hiện tượng chảy máu chất xám. Lúng túng trong việc xử lý những tranh chấp lao động phát sinh do khung pháp lý chưa hoàn thiện, do cơ chế và quá trình giải quyết tranh chấp chưa thật rõ ràng, chưa phát huy vai trò của các tổ chức trung gian. Về hệ thống giao dịch việc làm, chủ yếu vẫn là hình thức trực tiếp giữa người lao động và người sử dụng lao động (chiếm trên 80% tổng số giao dịch).
Chế độ đãi ngộ và trả lương: Cách trả lương của một số doanh nghiệp không theo tiêu chí rõ ràng và không theo kết quả công việc nên hạn chế về mức độ cống hiến của nhân viên trong doanh nghiệp. Cách chính sách về tiền lương, tiền công nói chung chưa phản ánh được giá trị theo quy luật của thị trường, chưa khuyến khích người lao động phát huy hết khả năng và chưa thực hiện được chức năng kích cầu để sản xuất phát triển.
Theo số liệu thu thập được, thì đến năm 2005 mới chỉ có 20,8% số doanh nghiệp tham gia đóng bảo hiểm xã hội cho người lao động, còn thấp hơn tỷ lệ năm 2004 là 23,1%; trong đó doanh nghiệp nhà nước là 99,0%; doanh nghiệp ngoài quốc doanh 10,7%; doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài 81,0%. Nếu so với số doanh nghiệp có từ 10 lao động trở lên (là doanh nghiệp bắt buộc phải đóng bảo hiểm xã hội cho người lao động) thì cũng chỉ đạt 40,0% (năm 2004 là 45,6%). Trong đó; doanh nghiệp nhà nước thực hiện 100%; doanh nghiệp ngoài quốc doanh 23,3%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài 87,3%, Như vậy vẫn còn 60,0% số doanh nghiệp thuộc diện bắt buộc nhưng chưa thực hiện Luật Lao động quy định về bảo hiểm xã hội cho người lao động. Ðiều đáng lưu ý hơn là tỷ lệ đóng bảo hiểm xã hội cho người lao động so với tổng quỹ lương vốn đã thấp, song lại có xu hướng thấp dần, năm 2004 là 8,68%; năm 2005 còn 7,37% (kể cả bảo hiểm y tế, kinh phí công đoàn và bảo hiểm xã hội).
Bên cạnh đó, chế độ tiền lương tiền thưởng cho người lao động vẫn còn rất nhiều bất cập. Trong khi tiền lương hiện nay được điều chỉnh với xu hướng tăng lên một cách chậm chạp thì giá cả lại ngày càng leo thang, trong đó lương thực thực phẩm – vốn là mặt hàng thiết yếu của người lao động thì lại là mặt hàng có tỉ lệ tăng giá cao nhất hiện nay. Chính điều đó đã gây ra rất nhiều khó khăn cho đời sống của người lao động.
2. Tình hình đầu tư nghiên cứu và triển khai các hoạt động khoa học và công nghệ.
Ban chỉ đạo công nghệ thông tin quốc gia đã làm một cuộc khảo sát việc ứng dụng công nghệ thông tin tại 217 doanh nghiệp và những con số có được đã khiến mọi người không khỏi bất ngờ. Hiện các doanh nghiệp Việt Nam mới chỉ đầu tư khoản chi phí rất nhỏ bé là 0,05- 0,08% doanh thu cho công nghệ thông tin, trong khi ở Mỹ con số trung bình là 1,5%. Chính sách đầu tư cho công nghệ thông tin của doanh nghiệp còn nhiều bất cập.
Đa phần doanh nghiệp chỉ đầu tư một lần cho hệ thống thông tin và nâng cấp các ứng dụng, do đó đầu tư đã thấp và hiệu quả của nó còn thấp hơn.Cuộc khảo sát còn cho thấy đến thời điểm này vẫn có những doanh nghiệp chưa có một ứng dụng công nghệ thông tin nào. Khối doanh nghiệp nhà nước còn 10%, trong khi các thành phần doanh nghiệp khác thì có đến 60% chưa đưa công nghệ thông tin vào công việc của mình. 40% doanh nghiệp chưa dám đầu tư mạnh vào công nghệ thông tin vì không đủ nhân viên có trình độ để quản lý và khai thác. Các doanh nghiệp tuy đã có nhận thức bước đầu về tầm quan trọng của công nghệ thông tin nhưng số lượng các doanh nghiệp có thể khai thác được sâu khả năng của công nghệ thông tin mới chỉ dừng lại ở con số ít ỏi.
Một doanh nghiệp phát biểu: “Nhiều nơi đã dùng máy tính làm các loại văn bản từ khá lâu, nhưng máy tính có thể ứng dụng được vào công việc gì nữa và làm như thế nào để thật sự hiệu quả, thì có lẽ đến 80% vẫn rất lúng túng”.
Không có gì đáng ngạc nhiên khi chương trình quan trọng nhất, được sử dụng rộng rãi nhất trong các doanh nghiệp là quản lý tài chính, kế toán. Khoảng 88% số doanh nghiệp áp dụng công nghệ thông tin có sử dụng phần mềm kế toán tài chính, nhưng ngay cả đối với những doanh nghiệp đã ứng dụng công nghệ thông tin, chỉ có khoảng 20% các phần mềm thoả mãn được yêu cầu của họ.
53% phần mềm cài đặt trên máy tính trong năm 2003 là phần mềm không có bản quyền, gây tổn thất khoảng 7,5 tỷ USD cho các nhà sản xuất.
Việt Nam có tỷ lệ vi phạm bản quyền phần mềm được công bố là 92% theo điều tra của BSA, song mức thiệt hại về tài chính chỉ khoảng 40,8 triệu USD, thua xa so với các nước trong khu vực và thế giới như Trung Quốc (3.822,5 triệu USD), Hàn Quốc (1.633 triệu USD), Thái Lan (140,9 triệu USD), hay Mỹ (1,96 tỷ USD).
Những năm gần đây, tình trạng xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ đang ngày càng có chiều hướng gia tăng trên thế giới và ở Việt Nam.
Theo số liệu điều tra của Tổ chức Hải quan thế giới thì giá trị hàng giả, hàng nhái của thế giới năm 2006 vào khoảng 500 tỷ USD, chiếm 5 - 7% giá trị khối lượng hàng hóa thế giới.
Cũng theo thông tin của vị Đại diện khu vực CA-TBD, Hội điện ảnh (MPA) trong một cuộc hội thảo về thực thi quyền sở hữu trí tuệ được tổ chức gần đây tại Hà Nội đã đưa ra dẫn chứng về việc xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ (bản quyền) của hơn 10 nước trong khu vực, trong đó tình trạng xâm phạm ở mức cao nhất là Trung Quốc (trên 95%), Malaysia (90%), Thái Lan, Philippins (xấp xỉ 80%)... và thấp nhất khu vực là Hàn Quốc (6%), Hồng Công (9%), Australia (11%), Nhật Bản (12%).
Đầu tư vào bản quyền sáng chế: Tỷ lệ vi phạm bản quyền PM của Việt Nam năm 2004 là 92% - là một trong những nước có tỷ lệ vi phạm bản quyền phần mềm cao nhất thế giới với giá trị vi phạm 55 triệu USD.
Số bằng Việt Nam xin cấp bằng sáng chế cũng vô cùng thấp. Vào các năm 2002, 2003, và 2004 lần lượt là 2, 7, và 2.
Trong khi đó năm 2005, Trung Quốc đang tiến mạnh về bằng sáng chế. Các nhà khoa học Trung Quốc có 2.452 đơn xin cấp bằng sáng chế. So với năm 2004, số lượng đơn của Trung Quốc tăng hơn 43%, khiến nước này từ vị trí 13 vượt lên đứng thứ 10 trong các nước có số bằng sáng chế lớn nhất thế giới.
Theo WIPO, vào năm 2005, đã có hơn 134. 000 đơn đăng ký cấp bằng sáng chế thuộc các lĩnh vực, tăng 9,4% so với năm 2004. 5 quốc gia dẫn đầu trong việc đăng ký bằng sáng chế vẫn không thay đổi là các nước Mỹ, Nhật, Đức, Pháp và Anh.
Các nhà sáng chế và ngành công nghiệp của Mỹ đã nộp 45.111đơn xin cấp bằng sáng chế, chiếm 33,6% tổng số đơn của năm 2005. Trong lúc Nhật, đứng thứ hai, chiếm 18,8%.
Bên cạnh đó, theo thống kê của WIPO, đây là năm thứ hai liên tiếp, tỉ lệ đơn tăng cao nhất đến từ các nước Đông Bắc Á, tức Nhật Bản, Hàn Quốc và Trung Quốc. Tất cả chiếm 24,1% tổng số đơn. Số đơn của Nam Hàn chiếm 3,5%, và Trung Quốc chiếm 1,8% trong tổng số đơn xin cấp bằng sáng chế.Số đơn của một số nước Đông Nam Á năm 2005: Brunei: 13, Indonesia: 12, Malaysia: 33, Philippines: 34, Singapore: 438, Thái Lan: 10.
"Tốc độ gia tăng từ các nước Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc tiếp tục trở thành những trường hợp đặc biệt. Điều đó phản ánh sự phát triển mạnh mẽ của sức mạnh công nghệ ở các nước này. Từ năm 2000, đơn xin cấp bằng sáng chế của các nước Nhật, Hàn Quốc, và Trung Quốc đã tăng lần lượt 162%, 200% và 212%," Ông Francis Gurry, Phó tổng giám đốc WIPO, nhận xét
Số liệu về tình hình nộp đơn yêu cầu bảo hộ và cấp bằng sáng chế ở VN
Ðơn yêu cầu bảo hộ sáng chế đã được nộp từ 1981 đến 2004
Năm
Số đơn yêu cầu bảo hộ sáng chế đã được nộp bởi
Người nộp đơn Việt Nam
Người nộp đơn nước ngoài
Tổng số
1981 - 1988
453
7
460
1989
53
18
71
1990
62
17
79
1991
39
25
64
1992
34
49
83
1993
33
194
227
1994
22
270
292
1995
23
659
682
1996
37
971
1008
1997
30
1234
1264
1998
25
1080
1105
1999
35
1107
1142
2000
34
1205
1239
2001
52
1234
1286
2002
69
1142
1211
2003
78
1072
1150
2004
103
1328
1431
Bằng độc quyền sáng chế đã được cấp từ 1984 đến 2004
Năm
Số Bằng độc quyền sáng chế đã được cấp cho
Người nộp đơn Việt Nam
Người nộp đơn nước ngoài
Tổng số
1984 - 1989
74
7
81
1990
11
3
14
1991
14
13
27
1992
19
16
35
1993
3
13
16
1994
5
14
19
1995
3
53
56
1996
4
58
62
1997
0
111
111
1998
5
343
348
1999
13
322
335
2000
10
620
630
2001
7
776
783
2002
9
734
743
2003
17
757
774
2004
22
676
698
(Nguồn: Cục Sở hữu Trí tuệ)
3. Tình hình đầu tư cho hoạt động marketing
Theo kết quả dư án khảo sát Thương hiệu nổi tiếng tại Việt Nam năm 2006 của VCCI kết hợp với tạp chí Việt Nam Business forum, công ty truyền thông Cuộc sống và công ty nghiên cứu thị trường ACNielsen Việt Nam, trong số 500 thương hiệu nổi tiếng được công bố,có tới xấp xỉ 50% thương hiệu của Việt Nam. Điều này chứng tỏ các doanh ngiệp Việt Nam gần đây đã chú trọng đến vấn đề xây dựng và quảng bá thương hiệu cho sản phẩm.
Một thuận lợi cho các doanh nghiệp hiện nay là việc tôn vinh quảng bá thương hiệu đã được các cơ quan chức năng và tổ chức kinh tế xã hội quan tâm. Ví dụ như chương trình xây dựng và phát triển thương hiệu Quốc gia đến năm 2010 đã đươc Thủ Tướng chính phủ phê duyệt tại quyết định số 253 ngày 25/11/2003, xây dựng tiềm thức trong các doanh nghiệp luôn hướng về chất lượng sản phẩm và tín nhiệm của doanh nghiệp để nâng cao sức cạnh tranh, gắn kết hơn với hệ thống phân phối,cuốn hút nhà sản xuất, người tiêu dùng. Từ đó xây dựng hình ảnh Việt Nam - quốc gia dồi dào sản phẩm hảo hạng tăng thêm sức hấp dẫn về đất nước và con người Việt Nam, góp phần đẩy mạnh xuất khẩu, khuyến khích du lịch và đầu tư nước ngoài. Chương trình hỗ trợ doanh nghiệp nâng cao nhận thức tầm quan trọng của thương hiệu từ đó xây dựng quảng bá và bảo vệ thương hiệu cùng tiêu chí để gắn với thương hiệu của quốc gia đối với những sản phẩm đạt chuẩn. Thủ tướng Chính phủ củng lập Hội đồng tư vấn về thương hiệu Quốc gia do Bộ trưởng bộ Thương mại là chủ tịch, các thành viên là lãnh đạo của một số ngành, cơ quan trực thuộc Chính phủ, hiệp hội ngành hàng và các trường Đại học.
Đầu tư vào thương hiệu: Cho đến thời điểm hiện nay, có một thực tế chắc chắn mà hầu hết các doanh nghiệp Việt Nam đều đã nhận thức được đó là nếu muốn tồn tại và phát triển lâu dài thì phải không ngừng chủ động hội nhập kinh tế quốc tế theo xu hướng chung của vền kinh tế đất nước.
Thương hiệu là gì? Vai trò của nó? Theo nhận thức chung được nhiều người chấp nhận thì thương hiệu đơn giản là một cái tên, một từ ngữ, một biểu tượng một hình vẽ hay tổng hợp tất cả các yếu tố kể trên nhằm xác định một sản phẩm hay dịch vụ của một (hay một nhóm người) bán và phân biệt các sản phẩm(dịch vụ)đó với đối thủ cạnh tranh khác.
Như vậy thực chất thương hiệu hiểu ngắn gọn là hình thức thể hiên tạo ra ấn tượng để thể hiện chất lượng sản phẩm và sự tín nhiệm của khách hàng đối với doanh nghiệp thông qua sản phẩm dịch vụ của doanh nghiệp. Thương hiệu tồn tại ngay tại sản phẩm như hình thức nhãn hiệu hàng hóa, sản phẩm, lô gô, biểu tượng… của doanh nghiệp và cả trong tiềm thức của khách hàng. Vì lẽ như vậy, xây dựng thương hiệu là việc làm đòi hỏi thời gian và chi phí. Nhưng quan trọng hơn, nếu doanh nghiệp biết chú trọng tới việc đầu tư công sức cho việc xây dựng thương hiệu thì tài chính không phải là vấn đề quyết định.
Đối với từng doanh nghiệp nói riêng và doanh nghiệp VN nói chung, thương hiệu là chìa khóa để có thể mở ra những cơ hội kinh doanh mới. Thương hiệu là công cụ đem lại nguồn tài chính trong cả hiện tại cũng như trong tương lai cho doanh nghiệp. Cụ thể hơn, thương hiệu đem lại sự sống cho doanh nghiệp. Điều này đúng với việc kinh doanh tại thị trường VN, lại càng đúng đắn hơn khi các doanh nghiệp VN muốn chủ động hội nhập quốc tế và muốn phát triển trong bối cảnh cạnh tranh ngày càng gay gắt.
Thương hiệu có tầm quan trọng như vậy nên chiến lược để có được thương hiệu tốt trong hội nhập lại càng quan trọng hơn.
Chiến lược về thương hiệu là một hệ thống những công việc phản ánh mục tiêu dài hạn của doanh nghiệp nhằm xác lập được một thương hiệu, khẳng định được uy tín từ phía khách hàng đối vơi sản phẩm và dịch vụ của mình.
Chiến lược thương hiệu thuộc phạm trù kinh doanh của doanh nghiệp. Tuy nhiên, trong bối cảnh hiện nay, chiến lược thương hiệu là một loại chiến lược quan trọng nhất trong chiến lược kinh doanh chung của doanh nghiệp.
Một chiến lược về thương hiệu đầy đủ phải phản ánh được một hệ các mục tiêu dài hạn của doanh nghiệp đồng thời phải vạch ra đựơc những việc và thời gian, không gian thực hiện chiến lược. Chẳng hạn phải xác định vấn đề bảo hộ sở hữu trí tuệ, thực hiện việc bảo hộ trí tuệ ở khu vực hay quốc gia nào, cần phải huy động nguồn lực tài chính và nguồn lực trí tuệ như thế nào để có thể thực hiện thành công. Việc lựa chọn và xây dựng thành công chiến lược thương hiệu là thành tố quyết định đến sự thành công hoặc thất bại của doanh nghiệp. Kinh nghiệm của các doanh nghiệp Nhật Bản cho thấy,sở dĩ các công ty hàng đầu của quốc gia này thành công và phát triển bền vững được trong điều kiện cạnh tranh hết sức khốc kiệt như hiện nay là do các công ty đã có được những chiến lược về thương hiệu và bảo hộ thương hiệu chủ động và chặt chẽ, chẳng hạn các công ty như Hitachi ngay từ thập kỷ 70 của thế kỷ trước đã thực hiện nộp đăng ký và bảo hộ sáng chế cho 20000 nhãn hiệu hàng hóa và sáng chế của mình tại Nhật và nhiều quốc gia khác như Mỹ và Tây Âu; kết quả là công ty này đã trở thành một trong những chủ thể thu được giá trị tài chính từ hoạt động bảo hộ này lên tới con số 365 triệu USD năm 1996; công ty NEC đã đăng ký bảo hộ cho 2500 sáng chế, nhãn hiệu hàng hóa tại thị trường Mỹ trong riêng năm 1998 và doanh nghiệp này đac dành ra 91 triệu USD cho các hoạt đông liên quan đến lập chiến lược thương hiệu và bảo hộ thương hiệu của mình, hoạt động đầu tư này đã đưa NEC đã đăng ký bảo hộ cho 2500 sáng chế, nhãn hiệu hàng hóa tại thị trường Mỹ trong riêng năm 1998 và doanh nghiệp này đã dành ra 91 triệu USD cho các hoạt động kiên quan dến lập chiến lược thương hiệu và bảo hộ thương hiệu của mình, hoạtt động đầu tư này đã đưa NEC trở thành một tập đoàn kinh tế có sức mạnh hàng đầu tại Nhật và trên thế giới về lĩnh vực chiến lược thương hiệu và bảo hộ sáng chế chỉ sau IBM và CANON.
Trong 500 doanh nghiệp được điều tra của báo Sài Gòn tiếp thị, kết quả cho thấy hầu hết các doanh nghiệp đều cho rằng xây dựng thương hiệu là mối quan tâm thứ hai sau việc đẩy mạnh tiêu thụ. Trong tổng số các doanh nghiệp được điều tra thì chỉ có 4,2% cho rằng thương hiệu là vũ khí quan trọng trong hội nhập và cạnh tranh. 5,4% cho rằng thương hiệu là tài sản của doanh nghiệp, chỉ có 30% doanh nghiệp cho rằng thương hiệu sẽ giúp bán hàng được giá cao hơn. Và hầu hết các doanh nghiệp đều không nhận thức rõ vai trò của thương hiệu đối với hội nhập, và một chiến lược cho thương hiệu nhìn chung chưa được đặt ra.
Tỷ lệ đầu tư cho thương hiệu của các doanh nghiệp Việt Nam
Đơn vị tính: %
Tỷ lệ đầu tư trên doanh thu
DN khu vực tư nhân
DN khu vực NN
Không đầu tư
18
16
Đầu tư dưới 5%
56
73
Đầu tư từ 5% - 10%
10
8
Đầu tư trên 10%
16
3
Nguồn: Thời báo kinh tế Việt Nam số 41-2005
Đầu tư sở hữu trí tuệ trong các doanh nghiệp: Hiện nay, trước xu thế toành cầu hoá, chúng ta đang chứng kiến đồng thời hai xu hướng: quá trình tự do hoá thương mại phát triển mạnh mẽ với việc dỡ bỏ các rào cản thương mại, tạo một sân chơi chung toàn cầu với luật lệ chung, bình đẳng trong khuôn khổ của tổ chức thương mại thế giới (WTO) và xu thế tăng cường bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ với những đòi hỏi chặt chẽ, khắt khe hơn nhằm bảo hộ đối với các đối tượng sở hữu trí tuệ.
Theo hội doanh nhân trẻ TP.HCM, thương trường cạnh tranh ngày càng khốc liệt giữa các doanh nghiệp trong và ngoài nước,nhất là khi Việt Nam gia nhập WTO, thách thức đặt ra cho doanh nghiệp là làm thế nào để hoà nhập và bảo vệ được tài sản trí tuệ như thương hiệu, logo, sologan… Do vậy, một trong những yếu tố sống còn của doanh nghiệp ngoài việc tăng cường khả năng cạnh tranh, mở rộng thị phần là bảo vệ và phát triển tài sản trí tuệ.
Mặc dù, lĩnh vực sở hữu trí tuệ là một vấn đề mới đối với Việt Nam (mới được vài chục năm so với hàng trăm năm trên thế giới). Sự quan tâm của cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam đối với vấn đề sở hữu trí tuệ đã được cải thiện, nhất là trong thời gian gần đây. Tuy nhiên, kết qủa khảo sát nghiên cứu gần đây cho thấy các doanh nghiệp Việt Nam chưa nhận thức việc phát triển, bảo hộ và khai thác quyền sở hữu trí tuệ là nguồn lực kinh tế.
Ngoài ra, doanh nghiệp còn thiếu đầu tư vào hoạt động nghiên cứu và phát triển, để từ đó thương mại hoá các sản phẩm được bảo hộ sáng chế độc quyền. Doanh nghiệp cũng không nhận thức được ý nghĩa hay giá trị của việc đăng lý các thủ tục xin cấp bằng sáng chế. Số doanh nghiệp Việt Nam nộp đơn đăng ký và được cấp văn bằng bảo hộ một số hướng dẫn về Sở Hữu Công Nghiệp cũng chiếm tỷ lệ thấp so với các soanh nghiệp nước ngoài, nhất là ở các nước công nghiệp phát triển.
Trong 3 năm gần đây số lượng doanh nghiệp Việt Nam đăng kí bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp (tài sản trí tuệ) tăng gấp 4 lần so với trước. Từ năm 2002 trở về trước hầu hết các đơn xin bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ là của doanh nghiệp nước ngoài, còn doanh nghiệp trong nước thì vẫn dửng dưng.
Theo số liệu thống kê tư cục sở hữu trí tuệ, trong 2006 này đã có khoảng 20000 đơn xin cục bảo hộ sở hữu công nghiệp, tăng hơn 10% so với năm 2005(18.000 đơn). Một con số cũng khá thú vị là tổng số doanh nghiệp đăng kí bảo hộ sở hữu trí tuệ tại TP.HCM cao gấp 2 lần doanh nghiệp tại Hà Nội.
Bên cạnh đó, số doanh nhân là lãnh đạo doanh nghiệp thông hiểu biết về sở hữu trí tuệ nói chung còn ít. Rất it doanh nghiệp thông hiểu về sở hữu trí tuệ nói chung còn ít. Rất ít doanh nghiệp có phòng, ban, bộ phận hoặc cán bộ chuyên trách về sở hữu trí tuệ. Sự quan tâm chưa thoả đáng đối với vấn đề sở hữu trí tuệ. Sự quan tâm chưa thoả đáng đối với vấn đề sở hữu trí tuệ còn thể hiện ở chính sách đầu tư của các doanh nghiệp. Nhiều doanh nghiệp đầu tư rất lớn cho lĩnh vực tài sản vật chất như nhà xưởng máy móc, thiết bị… nhưng hầu như không đầu tư gì cho lĩnh vực tài sản trí tuệ, không đầu tư cho viêc tạo ra, đăng ký xác lập quyền khai thác sử dụng và phát triển tài sản trí tuệ của mình.
Ông Trần Quang Huy, Chuyên viên kỹ thuật Công ty cổ phần Xi măng Bắc Giang cho biết:” Không chỉ riêng công ty này, mà đa số các công ty thuộc tỉnh Bắc Giang đều chưa quan tâm đến vấn đề sở hữu trí tuệ. Nguyên nhân chính là do công ty chỉ hoạt động kinh doanh trong địa bàn tỉnh, sản lượng làm ra được tiêu thụ hết chứ không để tồn kho nên chưa quan tâm đến vấn đề này.
Hiện nay, công ty có ý định mở rộng sản xuất và thị trường tiêu thụ, nên bắt đầu quan tâm tới vấn đề sở hữu trí tuệ”
Cũng vấn đề này, ông Trần Duy Chiến, Phó giám đốc Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh Thừa Thiên Huế nói: “Đa số doanh nghiệp trong tỉnh đều là những doanh nghiệp nhỏ và vừa nên quy mô sản xuất , vốn đầu tư, hiểu biết về văn hoá doanh nghiệp… còn hạn chế. Từ đó, dẫn đến sự thiếu hiểu biết về sở hữu trí tuệ, mặc dù sở đã có nhiều hoạt động tuyên truyền, đào tạo nhằm nâng cao hiểu biết của doanh nghiệp đối với vấn đề này.
Đầu tư vào nhãn hiệu hàng hóa: Nhãn hiệu có vị trí đặc biệt quan trọng và trở thành “linh hồn” của mỗi doanh nghiệp trong quá trình phát triển. Hiện nay, cùng với bằng sáng chế, bằng kiểu dáng công nghiệp và tên gọi xuất xứ, nhãn hiệu là một trong những đối tượng sở hữu công nghiệp đang được bảo hộ nhiều nhất ở Việt Nam. Mỗi năm, Cục Sở hữu trí tuệ đã nhận được không dưới 17.000 đơn đăng ký nhãn hiệu hàng hoá từ các doanh nghiệp trong nước và hơn 100 quốc gia trên thế giới.
Tuy nhiên, trong số hơn 110.000 nhãn hiệu được đăng ký và bảo hộ ở Việt Nam thì chủ yếu là của doanh nghiệp nước ngoài (chiếm tới 75%) và còn lại là của doanh nghiệp Việt Nam. Mặc dù trong những năm qua, lượng đơn đăng ký từ doanh nghiệp trong nước đã tăng lên đáng kể nhưng cũng còn không ít doanh nghiệp Việt Nam còn thờ ơ với việc bảo hộ nhãn của mình.
Đây chính là một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng nhãn hiệu bị nhái, bị đánh cắp, tranh chấp. Thực tế ở Việt Nam mỗi năm đã có tới trên 3.000 vụ xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp bị xử lý bằng các biện pháp hành chính, hàng trăm vụ làm hàng giả và vi phạm nhãn hiệu bị xử tại toà hình sự.
Đặc biệt, số vụ vi phạm sở hữu công nghiệp mỗi năm một tăng mạnh. Nếu như năm 2000, mới chỉ có 176 vụ vi phạm thì đến năm 2002 đã tăng lên 395 vụ và năm 2004 là 404 vụ.
Theo ông Lê Văn Kiều, Chánh thanh tra Bộ Khoa học Công nghệ, hàng năm, thanh tra Bộ đã kết hợp cùng công an kinh tế phát hiện, xử lý hàng trăm vụ vi phạm kiểu dáng, nhãn mác, nhãn hiệu hàng hoá. Không phủ nhận đã có nhiều doanh nghiệp xây dựng, quan tâm đăng ký bảo hộ nhãn hiệu của mình nhưng cũng vẫn còn không ít đơn vị không đầu tư tạo dựng thương hiệu mà ăn cắp, nhái nhãn mác hàng hoá... để làm hàng giả, hàng kém chất lượng.
Tại Việt Nam, đã có một số nhãn hiệu được định giá trong quá trình chuyển nhượng và góp vốn kinh doanh như: “P/S” (được định giá 5 triệu USD năm 1996), “Dạ Lan” (được định giá 2,5 triệu USD vào năm 1997). Mặc dù mức này còn khiêm tốn so với các nhãn hiệu nổi tiếng trên thế giới nhưng nó là khá cao ở Việt Nam và là minh chứng cho giá trị của nhãn hiệu các doanh nghiệp cần phải gìn giữ, bảo vệ.
II. Đánh giá tình hình đầu tư tài sản vô hình đối với sự phát triển của doanh nghiệp
1. Đánh giá tình hình đầu tư phát triển nguồn nhân lực
Chế độ đãi ngộ công nhân viên còn chưa thoả đáng. Mặc dù hiện nay, các doanh nghiệp đang ngày càng nhận thức được tầm quan trọng của nguồn nhân lực nhưng trên thực tế, họ vẫn chưa có những biện pháp nhằm nâng cao tinh thần ý thức trách nhiệm của người lao động, tạo ra sự gắn kết người lao động đối với tổ chức, doanh nghiệp của mình. Chúng ta có thể đơn cử một ví dụ điển hình là chế độ bảo hiểm xã hội cho người lao động- vốn là điều bắt buộc thì hiện nay vẫn chưa được các doanh nghiệp thực hiện một cách nghiêm túc. Theo số liệu thu thập được, thì đến năm 2005 mới chỉ có 20,8% số doanh nghiệp tham gia đóng bảo hiểm xã hội cho người lao động, còn thấp hơn tỷ lệ năm 2004 là 23,1%; trong đó doanh nghiệp nhà nước là 99,0%; doanh nghiệp ngoài quốc doanh 10,7%; doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài 81,0%. Nếu so với số doanh nghiệp có từ 10 lao động trở lên (là doanh nghiệp bắt buộc phải đóng bảo hiểm xã hội cho người lao động) thì cũng chỉ đạt 40,0% (năm 2004 là 45,6%). Trong đó; doanh nghiệp nhà nước thực hiện 100%; doanh nghiệp ngoài quốc doanh 23,3%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài 87,3%, Như vậy vẫn còn 60,0% số doanh nghiệp thuộc diện bắt buộc nhưng chưa thực hiện Luật Lao động quy định về bảo hiểm xã hội cho người lao động. Ðiều đáng lưu ý hơn là tỷ lệ đóng bảo hiểm xã hội cho người lao động so với tổng quỹ lương vốn đã thấp, song lại có xu hướng thấp dần, năm 2004 là 8,68%; năm 2005 còn 7,37% (kể cả bảo hiểm y tế, kinh phí công đoàn và bảo hiểm xã hội).
Bên cạnh đó, chế độ._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 22459.doc