Đầu tư trực tiếp nước ngoài với tăng trưởng và phát triển kinh tế Việt Nam

Lời nói đầu Một quốc gia, khi nói đến nguyên nhân phát triển không thể không nói đến đầu tư và các nguồn vốn, trong đó vốn đầu tư trong nước là quyết định, vốn đầu tư nước ngoài có vai trò quan trọng. Ngày nay, chúng ta đều biết đến vai trò to lớn của vốn đầu tư đối với sự tăng trưởng và phát triển kinh tế xã hội. Về nguyên tắc, muốn tích lũy vốn chúng ta phải tăng cường sản xuất và thực hành tiết kiệm, nhưng thu hút vốn đầu tư nước ngoài là một cách tạo vốn tích lũy nhanh mà các nước đi sau

doc93 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1521 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Đầu tư trực tiếp nước ngoài với tăng trưởng và phát triển kinh tế Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
có thể làm được. Trong xu thế liên kết và hoà nhập nền kinh tế thế giới thành một chỉnh thể thống nhất, hầu hết các nước đều tham gia ngày càng tích cực vào quá trình phân công lao động quốc tế. Đầu tư nước ngoài nói chung và đầu tư trực tiếp nước ngoài nói riêng là một hoạt động kinh tế đối ngoại có vị trí và vai trò ngày càng to lớn, nó đã và đang trở thành xu hướng của thời đại, được nhiều quốc gia sử dụng như một chính sách kinh tế quan trọng và lâu dài. Trên cơ sở thực tiễn, Đảng cộng sản Việt Nam đã khẳng định, với thu nhập bình quân đầu người thấp như hiện nay, sự tụt hậu về kinh tế và thu nhập sẽ ngày càng gay gắt. Đẻ rút ngắn khoảng cách này, đòi hỏi phải có sự hoạt động đồng bộ, gắn kết trong tất cả các ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Năm 2000, Việt Nam đứng thứ 140 về chỉ tiêu GDP/người, đạt khoảng 480 USD/người (trong khi Liên Hợp Quốc quy định GDP/người của một quốc gia dưới 750 USD thì quốc gia đó thuộc loại quốc gia nghèo), thì khả năng tích luỹ vốn từ nội bộ nền kinh tế nước ta dành cho đầu tư phát triển là hạn hẹp. Do vậy, với nhu cầu vốn đầu tư cho phát triển trong những năm tới thì nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài là một kênh giữ vị trí cực kỳ quan trọng và mang tính chiến lược. Nó là nguồn bổ sung vốn cho đầu tư, là một kênh để chuyển giao công nghệ, là một giải pháp tạo việc làm và thu nhập cho người lao động, tạo nguồn thu cho ngân sách Nhà nước và giúp đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế. Có thể nói, đầu tư trực tiếp nước ngoài như một trong các nguồn năng lượng quan trọng khởi động cho cỗ máy kinh tế Việt Nam đi vào quỹ đạo của sự tăng trưởng. Ngày nay, nó đã trở thành một bộ phận hữu cơ của nền kinh tế quốc dân. Từ khi Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam có hiệu lực cho đến hết tháng 12 năm 2000, Nhà nước ta đã cấp giấy phép cho 3254 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài với tổng số vốn đăng ký là 38.553 triệu USD. Tính trung bình mỗi năm chúng ta cấp phép cho 250 dự án với mức 2965,62 triệu USD vốn đăng ký. Trong giai đoạn 1991-1999, vốn đầu tư xây dựng cơ bản của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chiếm 26,51% tổng vốn đầu tư xây dựng cơ bản xã hội. Các doanh nghiệp FDI đã đóng góp vào ngân sách Nhà nước tổng cộng khoảng 1749 triệu USD giai đoạn 1988 - 2000. Năm 2000, khu vực FDI tạo ra doanh thu 5.500 triệu USD, giải quyết công ăn việc làm cho 350.000 lao động và đóng góp 12,7% trong GDP cả nước. Trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2010, Đảng và Nhà nước ta phấn đấu đến năm 2010 đưa mức GDP bình quân đầu người của nước ta lên gấp đôi năm 2000. Để tăng gấp đôi GDP trong khoảng 10 năm đòi hỏi một nhịp tăng trưởng bình quân năm khoảng 7,2% trong cả giai đoạn 2001-2010. Để đạt được mục tiêu tăng trưởng đã đề ra, chúng ta xác định phải huy động được vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài khoảng 10-12 tỷ USD cho giai đoạn 2001-2005 và 14-16 tỷ USD giai đoạn 2006-2010. Đây là một nhiệm vụ hết sức khó khăn trong điều kiện hiện nay khi mà dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam đang chững lại và có biểu hiện suy giảm nhất là từ sau khi cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực nổ ra vào cuối năm 1997. Để huy động được nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài phục vụ cho chiến lược phát triển kinh tế – xã hội, đòi hỏi phải giải quyết rất nhiều vấn đề cả về lý luận cũng như tổng kết kinh nghiệm từ thực tiễn Với nhận thức đó em chọn “ Đầu tư trực tiếp nước ngoài với tăng trưởng và phát triển kinh tế Việt Nam” làm đề tài khoá luận tốt nghiệp của mình,với mong muốn có một cái nhìn toàn cảnh về thực trạng đầu tư trực tiếp nước ngoài ở nước ta những năm qua, đánh giá một cách sâu hơn những tác động của ĐTTTNN đến nền kinh tế và thấy được những vấn đề đang đặt ra đối với hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam, từ đó đề nghị một số giải pháp nhằm thu hút và sử dụng hiệu quả hơn nguồn vốn ĐTTTNN phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế của đất nước. Thông qua nội dung nghiên cứu, em hy vọng có thể vận dụng những kiến thức lý luận và thực tiễn đã tích lũy được để bước đầu làm quen với các phân tích kinh tế, đồng thời cũng mong những phân tích của mình có thể góp một phần nhỏ bé cho sự phát triển kinh tế của đất nước. Nội dung bài viết bao gồm 3 phần chính: Chương I : một số vấn đề lí luận chung về tăng trưởng và phát triển kinh tế Chương II : Thực trạng hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam thời gian qua Chương III : một số giải pháp huy động vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đáp ứng nhu cầu phát triển của nền kinh tế Chương I trình bày những vấn đề cơ bản của tăng trưởng và phát triển kinh tế,của đầu tư quốc tế nói chung và đầu tư trực tiếp nước ngoài nói riêng, tác động của FDI đến tăng trưởng và phát triển kinh tế. Chương II tập trung xem xét thực trạng hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam những năm qua dưới các góc độ khác nhau, tình hình hoạt động của các dự án, đánh giá tác động của ĐTTTNN tới nền kinh tế Việt Nam và phân tích các vấn đề đang đặt ra đối với hoạt động ĐTTTNN ở nước ta. Trong phần này, các phân tích định tính sẽ được kết hợp với các phân tích định lượng, các kết quả mô hình hóa để làm sáng tỏ hơn các nhận định đã đưa ra. Đây cũng là nội dung nghiên cứu chủ yếu của bài viết này. Trong chương III, từ định hướng phát triển kinh tế xã hội nước ta giai đoạn từ nay đến năm 2005 và 2010, chúng ta sẽ xác định nhu cầu vốn ĐTTTNN để đáp ứng yêu cầu phát triển, đồng thời xuất phát từ những vấn đề đặt ra ở các phần trên, đưa ra một số giải pháp nhằm huy động và sử dụng có hiệu quả hơn nguồn vốn ĐTTTNN phục vụ cho sự nghiệp phát triển đất nước. Bài viết của em được hoàn thành dưới sự hướng dẫn tận tình, sự chỉ bảo, góp ý, giúp đỡ nhiệt tình, chu đáo của cô Nguyễn Thị Chiến Em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới cô giáo. Tuy nhiên, do kiến thức lý luận và kinh nghiệm thực tiễn còn non yếu, thời gian nghiên cứu chưa nhiều, cùng với các hạn chế về mặt số liệu nên phần nghiên cứu của em không tránh khỏi những khiếm khuyết và sơ sài. Em mong được sự góp ý chỉ bảo để lần sau em làm được tốt hơn. Hà Nội, ngày Sinh viên đỗ thu hương Chương 1 Một số vấn đề lý luận chung về đầu tư trực tiếp nước ngoài và vai trò của vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài với tăng trưởng và phát triển kinh tế - xã hội 1.1. Những vấn đề chung về tăng trưởng và phát triển kinh tế . 1.1.1 Tăng trưởng và phát triển kinh tế. Ngày nay các quốc gia độc lập, có chủ quyền đều đề ra những mục tiêu phấn đấu cho sự tiến bộ của quốc gia mình. Sự tiến bộ của một đất nước trong một giai đoạn nào đó thường được đánh giá trên hai mặt sự gia tăng về kinh tế và sự tiến hoá về mặt xã hội. Trên thực tế người ta dùng hai thuật ngữ tăng trưởng và phát tiển để phản ánh sự tiến bộ đó. Tăng trưởng kinh tế thường được quan niệm là tăng thêm về qui mô sản lượng của nền kinh tế trong một thời kỳ. Đó là kết quả của tất cả các hoạt động sản xuất, dịch vụ trong nền kinh tế tạo ra. Để biểu thị sự tăng trưởng kinh tế người ta thường dùng mức tăng thêm của tổng sản lượng thời kỳ sau so với thời kỳ trước ( tính toàn bộ hay tính bình quân đầu người ). Sự tăng trưởng thường được so sánh theo các thời điểm liên tục trong một giai đoạn nhất định sẽ cho thấy tốc độ tăng trưởng đó là sự tăng thêm sản lượng nhanh hay chậm so với thời điểm gốc. Phát triển kinh tế là một quá trình lớn lên về mọi mặt của nền kinh tế trong một thời kỳ nhất định. Trong đó bao gồm cả sự tăng thêm về quy mô sản lượng và sự tiến bộ về cơ cấu kinh tế xã hội. Hai mặt này vừa có quan hệ phụ thuộc vừa độc lập tương đối với nhau. Sự phát triển là một quá trình tiến hoá về thời gian do những nhân tố nội tại của bản thân nền kinh tế quyết định, nóilên sự chuyển biến của nền kinh tế từ trạng thái thấp lên mọt trạng thái cao hơn. Tăng trưởng và phát triển kinh tế là hai phạm trù kinh tế dùng để chỉ những biến đổi về lượng và chất của nền kinh tế – xã hội qua những khoảng thời gian nhất định, thường là so sánh năm này và năm khác, một số năm này với một số năm khác. Phát triển kinh tế là quá trình xã hội đạt đến nhằm thoả mãn những nhu cầu mà xã hội ấy coi là cơ bản. Tăng trưởng là sự tăng lên của tổng sản phẩm trong nước ( GDP ), hay tổng sản phẩm quốc gia ( GNP ) hoặc tổng sản phẩm quốc dân và tổng sản phẩm quốc gia tính theo đầu người, còn phát triển kinh tế bao hàm sự tăng trưởng cộng thêm những thay đổi cơ bản của nền kinh tế, sự tăng lên của sản phẩm quốc dân do ngành công nghiệp tạo ra, sự đô thị hoá, sự tham gia của các dân tộc của một quốc gia trong quá trình tạo ra những thay đổi đó. 1.1.2.Các nhân tố ảnh hưởng tới tăng trưởng kinh tế 1.1.2.1. Các nhân tố kinh tế Có thể biểu diễn mối quan hệ giữa các luồng đầu vào với đầu ra bằng hàm số sản xuất Y = f( K, L, R, T ) Trong đó: K là vốn; L là lao động; R là tài nguyên; T là tiến bộ kỹ thuật, công nghệ Đây là những biến số đầu vào của quá trình sản xuất. _Vốn sản xuất (K): Được trực tiếp sử dụng vào quá trình sản xuất hiện tại cùng với các yếu tố sản xuất khác để tạo ra đầu ra. Nó bao gồm: máy móc – thiết bị, phương tiện vận tải, các hạ tầng cơ sở kỹ thuật (không tính các tài nguyên thiên nhiên như: đất đai, khoáng sản...). _ Lao động (L): là yếu tố đầu vào đặc biệt, lượng lao động không chỉ đơn thuần là số lượng( đầu người hay thời gian lao động) mà còn bao gồm chất lượng của lao động – gọi là vốn nhân lực. Đó là con người với trình độ tri thức và những kỹ năng, kinh nghiệm lao động sản xuất nhất định. _ Tài nguyên (r): bao gồm đất đai, các tài nguyên khai thác từ trong lòng đất, từ rừng, biển – những loại này càng dồi dào thì càng làm tăng sản lượng nhanh chóng, nhất là với các nước đang phát triển. _ Những thành tựu kỹ thuật và công nghệ (T): là đầu vào đóng vai trò cực kỳ quan trọng, cho phép tăng nhanh năng suất và sản lượng đầu ra. Bốn nhân tố trên đây và sự phối kết hợp giữa chúng đóng vai trò rất quan trọng đến sự tăng trưởng của đầu ra. 1.1.2.2. Các nhân tố phi kinh tế: Bao gồm các nhân tố: cơ cấu dân tộc, cơ cấu tôn giáo, đặc điểm văn hoá - xã hội, các thể chế chính trị – kinh tế – xã hội. Các nhân tố này gián tiếp tác động tới chiến lược tăng trưởng kinh tế của mỗi quốc gia. Tuy chúng không trực tiếp tác động tới tăng trưởng kinh tế, nhưng không vì thế mà vai trò và sự tác động của chúng đến chiến lược tăng trưởng kinh tế bị hạn chế. Khi nghiên cứu nguyên nhân của sự thần kỳ kinh tế của các nền kinh tế Đông á những năm qua, các nhà kinh tế học đã không thẻ phủ nhận, thậm chí còn rất đề cao nhân tố văn hoá á Đông (mà đúc kết trong đó là tôn giáo, thể chế chính trị – xã hội...) là một trong những nguyên nhân chính tạo ra sự thần kỳ về kinh tế của các nền kinh tế này. Sự phối kết hợp các nhân tố trên đây, kể cả các nhân tố kinh tế lẫn phi kinh tế, có ý nghĩa quan trọng trong việc hoạch định và thực thi chiến lược tăng trưởng kinh tế của mỗi nước. Việc khẳng định tầm quan trọng của từng nhân tố trên đây tuỳ thuộc vào quan niệm của từng nước gắn với những giai đoạn phát triển kinh tế nhất định. Trong bối cảnh hiện nay, khi mà tiến bộ kỹ thuật công nghệ diễn ra vô cùng nhanh chóng và tác động của chúng là khá lớn tới tốc độ tăng trưởng kinh tế của mỗi quốc gia, thì yếu tố kỹ thuật công nghệ cần được đặt lên hàng đầu, và thực tế hiện nay hầu hết các nước đều đã ý thức được vai trò của yếu tố này và tìm cách để có thể tiếp cận và vận dụng hữu hiệu. Tuy nhiên, để có kỹ thuật công nghệ tiên tiến thì cần có vốn lớn và đây luôn là khó khăn lớn mà các nước đang phát triển phải đối mặt trong chiến lược tăng trưởng kinh tế của họ và quả thực nếu như các nước đang phát triển không xử lý hợp lý những mâu thuẫn, khó khanư này thì họ rất khó có cơ hội thoát ra khỏi vòng luẩn quẩn. 1.2. các vấn đề cơ bản về đầu tư trực tiếp nước ngoài 1.2.1. Khái niệm về đầu tư quốc tế Đầu tư quốc tế là những phương thức đầu tư vốn, tài sản ở nước ngoài để tiến hành sản xuất, kinh doanh, dịch vụ với mục đích tìm kiếm lợi nhuận và những mục tiêu kinh tế - xã hội nhất định. Về bản chất, đầu tư quốc tế là hình thức xuất khẩu tư bản, một hình thức cao hơn của xuất khẩu hàng hóa. Đây là hai hình thức xuất khẩu luôn bổ sung cho nhau và hỗ trợ nhau trong chiến lược thâm nhập thị trường của các công ty, tập đoàn nước ngoài hiện nay. Theo các nhà kinh tế, đầu tư quốc tế là yếu tố quan trọng của kinh tế đối ngoại, là sự di chuyển vốn từ quốc gia này sang quốc gia khác theo các dự án đầu tư nhằm mang lại lợi ích cho các bên tham gia. Các hình thức chủ yếu của đầu tư quốc tế được thể hiện qua sơ đồ sau: Sơ đồ 1: Cơ cấu vốn đầu tư quốc tế Đầu tư gián tiếp Đầu tư trực tiếp (FDI) Vốn đầu tư quốc tế Hỗ trợ dự án Hỗ trợ phi dự án Hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) của Chính phủ nước ngoài và các tổ chức quốc tế Đầu tư của tư nhân Tín dụng thương mại Tín dụng thương mại. 1.2.2.khái niệm và các đặc trưng của đầu tư trực tiếp nước ngoài Đầu tư trực tiếp nước ngoài (Foreign Direct Investment - FDI) là một hình thức của tư nước ngoài. Sự ra đời và phát triển của nó là kết quả tất yếu của quá trình quốc tế hóa và phân công lao động quốc tế. Trên thực tế có nhiều cách nhìn nhận khác nhau về đầu tư trực tiếp nước ngoài. Nhìn chung đầu tư trực tiếp nước ngoài được xem xét như một hoạt động kinh doanh ở đó có yếu tố di chuyển vốn quốc tế và kèm theo sự di chuyển vốn là chuyển giao công nghệ, kỹ năng quản lý và các ảnh hưởng kinh tế xã hội khác đối với nước nhận đầu tư. Theo Luật đầu tư nước ngoài Việt Nam, đầu tư trực tiếp nước ngoài có thể được hiểu như là việc các tổ chức, các cá nhân nước ngoài trực tiếp đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền hoặc bất cứ tài sản nào được Chính phủ Việt Nam chấp nhận để hợp tác với bên Việt Nam hoặc tự mình tổ chức các hoạt động sản xuất kinh doanh trên lãnh thổ Việt Nam. Đầu tư trực tiếp nước ngoài có một số đặc điểm chủ yếu sau : - Chủ đầu tư tự quyết định đầu tư, quyết định sản xuất kinh doanh và tự chịu trách nhiệm về lỗ lãi. Hình thức này mang tính khả thi và hiệu quả kinh tế cao, không có những ràng buộc về chính trị, không để lại gánh nặng nợ nần cho nền kinh tế. - Chủ đầu tư nước ngoài điều hành toàn bộ mọi hoạt động đầu tư nếu là doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài hoặc tham gia điều hành doanh nghiệp liên doanh tùy theo tỷ lệ góp vốn của mình. Thông qua hình thức này, nước chủ nhà có thể tiếp nhận được công nghệ, kỹ thuật tiên tiến, học hỏi kinh nghiệm quản lý...là những mục tiêu mà các hình thức đầu tư khác không giải quyết được. - Nguồn vốn này không chỉ bao gồm vốn đầu tư ban đầu của chủ đầu tư dưới hình thức vốn pháp định, nó còn bao gồm cả vốn vay của doanh nghiệp để triển khai hoặc mở rộng dự án cũng như vốn đầu tư từ nguồn lợi nhuận thu được. Như vậy, ta có thể nói rằng FDI là một hình thức mang tính khả thi và hiệu quả kinh tế rất cao, không có những ràng buộc về chính trị, không để lại gánh nặng nợ nần như các hình thức khác. Vì những ưu điểm trên, ngày nay FDI là hình thức đầu tư phổ biến nhất và có hiệu quả nhất trong các loại hình đầu tư. Theo Luật Đầu tư nước ngoài của Việt Nam, đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam gồm có 4 hình thức sau: Hợp đồng hợp tác kinh doanh : là văn bản ký kết giữa hai hoặc nhiều bên để cùng nhau tiến hành một hoặc nhiều hoạt động kinh doanh tại Việt Nam trên cơ sở quy định trách nhiệm và phân chia kết quả kinh doanh cho mỗi bên mà không thành lập một pháp nhân mới. Hợp đồng hợp tác kinh doanh phải được đại diện có thẩm quyền của các bên ký kết. Doanh nghiệp liên doanh : là doanh nghiệp được thành lập tại Việt Nam trên cơ sở hợp đồng liên doanh được ký kết giữa các bên (bên nước ngoài và bên Việt Nam). Doanh nghiệp liên doanh có tư cách pháp nhân, các bên tham gia liên doanh được chia lợi nhuận và chia rủi ro theo tỷ lệ góp vốn của mỗi bên vào phần vốn pháp định của liên doanh. Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài : là doanh nghiệp hoàn toàn thuộc sở hữu của các cá nhân, tổ chức nước ngoài do họ thành lập và quản lý. Nó là một pháp nhân mới của Việt Nam dưới hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn. Đầu tư theo các hình thức BOT, BT, BTO : đây là các hình thức đầu tư đặc biệt thường áp dụng cho các công trình xây dựng cơ sở hạ tầng. Sự ra đời của các phương thức này nhằm tạo thêm nguồn vốn, xúc tiến nhanh chóng việc ưu tiên phát triển cơ sở hạ tầng, đồng thời san sẻ một phần gánh nặng đầu tư cho cơ sở hạ tầng của ngân sách Nhà nước. - Hợp đồng xây dựng - kinh doanh - chuyển giao (BOT) là văn bản ký kết giữa chủ đầu tư nước ngoài với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền để xây dựng cơ sở hạ tầng tại Việt Nam, bên nước ngoài bỏ vốn đầu tư xây dựng công trình và kinh doanh trên công trình đó để thu hồi vốn và có lãi hợp lý, sau đó có nghĩa vụ chuyển giao công trình cho Nhà nước Việt Nam mà không được thu thêm bất kỳ khoản tiền nào khác. - Hợp đồng xây dựng - chuyển giao - kinh doanh (BTO) là văn bản ký kết giữa cơ quan Nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam và nhà đầu tư nước ngoài để xây dựng công trình kết cấu hạ tầng. Sau khi xây dựng xong, nhà đầu tư nước ngoài chuyển giao công trình đó cho nhà nước Việt Nam. Nhà nước Việt Nam cho phép nhà đầu tư quyền kinh doanh trên công trình đó trong một thời gian nhất định để thu hồi vốn đầu tư và lợi nhuận hợp lý. Hợp đồng xây dựng - chuyển giao (BT) là văn bản ký kết giữa cơ quan Nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam và nhà đầu tư nước ngoài để xây dựng công trình kết cấu hạ tầng. Sau khi xây dựng xong, nhà đầu tư nước ngoài chuyển giao công trình đó cho Nhà nước Việt Nam. Chính phủ Việt Nam tạo điều kiện cho nhà đầu tư nước ngoài thực hiện dự án khác để thu hồi vốn đầu tư và thu được lợi nhuận hợp lý. 1.2.3. Tác dụng chủ yếu của FDI Vốn FDI có tác động rất lớn về nhiều mặt đối với cả nước xuất khẩu FDI lẫn nước tiếp nhận FDI. Dưới đây là những tác động chủ yếu đối với hai nhóm nước trên. 1.2.3.1. Tác dụng đối với nước xuất khẩu FDI (nước chủ đầu tư). Đối với nước xuất khẩu FDI, luồng vốn này có những tác động tích cực và mang lại cho họ rất nhiều lợi ích: Thứ nhất, phần lớn các nước chủ đầu tư là những nước công nghiệp phát triển. Khi kinh tế biến động, tỷ suất lợi nhuận ở các nước này có xu hướng giảm và kèm theo là hiện tượng thừa tương đối về tư bản. Bằng hình thức đầu tư trực tiếp, các nước này đã tận dụng được lợi thế của nước nhận đầu tư, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn nói chung cũng như tỷ suất lợi nhuận của vốn FDI nói riêng. Thứ hai, đầu tư quốc tế đã khắc phục được tình trạng lão hoá sản phẩm. Điều này xảy ra là vì thông qua đầu tư quốc tế, các nước chủ đầu tư đã di chuyển một bộ phận sản xuất công nghiệp mà phần lớn là những máy móc cũ, lạc hậu sang nước kém phát triển hơn để tiếp tục sử dụng, kéo dài vòng đời của sản phẩm. Thứ ba, đầu tư quốc tế giúp nước chủ đầu tư mở rộng được thị trường cung cấp nguyên liệu ổn định với giá phải chăng. Hầu hết các nước nhận đầu tư là những nước nghèo, có tài nguyên dồi dào nhưng do bị hạn chế về vốn, kỹ thuật, công nghệ nên những tài nguyên đó chưa được sử dụng có hiệu quả. Thông qua việc đầu tư khai thác vào những ngành đó, nước chủ đầu tư có thể nhập khẩu những nguyên liệu để phục vụ cho sản xuất của nước mình. Thứ tư, đầu tư quốc tế giúp nước chủ đầu tư bành trướng sức mạnh kinh tế và uy tín chính trị trên trường quốc tế. Ngày nay, thông qua việc xây dựng nhà máy sản xuất và tiêu thụ ở nước ngoài, các nước chủ đầu tư có thể mở rộng thị trường, tránh được hàng rào bảo hộ mậu dịch của nước ngoài. Ngoài ra, thông qua hình thức viện trợ, nhiều nước đã đặt điều kiện chính trị-kinh tế để thu hút các nước đang phát triển vào quỹ đạo điều khiển của họ. 1.2.3.2. Tác dụng đối với nước nhận đầu tư. Đối với các nước công nghiệp phát triển, đầu tư quốc tế có một ý nghĩa quan trọng, mang lại lợi ích cho họ ở nhiều mặt như: Giúp các nước này giải quyế được những vấn đề khó khăn về kinh tế-xã hội trong nước như thất nghiệp, lạm phát... Giải thoát cho một số xí nghiệp bên bờ vực phá sản thông qua việc mua lại hay hợp nhất các xí nghiệp đó. Tăng thu ngân sách dưới hình thức các loại thuế để cải thiện tình trạng bội chi ngân sách nếu có. Tạo ra một môi trường cạnh tranh để thúc đẩy sự phát triển kinh tế và thương mại. Đối với nước chậm phát triển, vai trò của đầu tư quốc tế được thể hiện ở những mặt sau: - Giải quyết được nhu cầu vốn thiếu hụt cho các nước này. Trong giai đoạn đầu phát triển kinh tế, các nước chậm phát triển gặp phải một vấn đề nan giải là thiếu vốn đầu tư do tích luỹ nội bộ thấp. Do đó, việc thu hút vốn FDI sẽ giúp họ giải quyết được những khó khăn về vốn và bù đắp các khoản thiếu hụt bằng ngoại tệ trong cán cân thanh toán quốc tế. Thông qua việc thành lập các xí nghiệp mới hoặc làm tăng quy mô của các đơn vị kinh tế, đầu tư quốc tế đã góp phần tạo công ăn việc làm, gải quyết tình trạng thất nghiệp ở các nước này. Giúp các nước chậm phát triển tiếp thu được công nghệ tiên tiến, học hỏi được kinh nghiệm quản lý của các nhà đầu tư nước ngoài. Góp phần cải tiến cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá và đưa nề kinh tế các nước này tham gia phân công lao động quốc tế một cách mạnh mẽ. 1.2.4. Động cơ của FDI. Như ta đã biết, động cơ chung nhất của các nhà đầu tư là tìm kiếm lợi nhuận cao ở những thị trường đầu tư hấp dẫn và an toàn. Tuy nhiên, trong từng thời kì nhất định các nhà đầu tư có thể có các chiến lược đầu tư khác nhau nhưng tựu chung lại đều để phục vụ cho mục đích lâu dài là sự thịnh vượng và phát triển của doanh nghiệp. Động cơ của chiến lược đầu tư trên có thể là chiến lược trong từng thời kì khác nhau của doanh nghiệp (Ví dụ: mở rộng thị phần, tối đa hoá lợi nhuận...). Tựu chung lại, có ba động cơ cụ thể tạo nên ba định hướng khác nhau trong đầu tư trực tiếp nước ngoài. Đó là: Đầu tư định hướng thị trường. Đầu tư định hướng chi phí. Đầu tư định hướng nguồn nguyên liệu. Đầu tư định hướng thị trường là hình thức đầu tư với động cơ mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm của công ty mẹ sang các nước sở tại. Đây là chiến lược bành trướng thị trường của các TNCs (hay MNCs) nhằm vượt qua hàng rào bảo hộ của nước sở tại để kéo dài vòng đời sản phẩm của mình. Trong Marketing, đây chính là chiến lược sản phẩm hiện hữu- thị trường mới của các TNCs. Hình thức đầu tư này xuất phát từ thực tế: việc sản xuất sản phẩm cùng loại ở nước sở tại giúp cho các TNCs không cần đầu tư thiết bị mới lại có thể tận dụng được nguồn nhân công, nguyên liệu rẻ và tiết kiệm được chi phí vận chuyển dẫn đến việc tăng tỉ suất lợi nhuận cho các TNCs. Đầu tư định hướng chi phí là loại hình đầu tư mà động cơ của chủ đầu tư là giảm chi phí thông qua việc tận dụng nguồn lao động và nguyên liệu rẻ hơn của nước sở tại nhằm tăng sức cạnh tranh của sản phẩm, từ đó nâng cao tỉ suất lợi nhuận. Những ngành nghề thích hợp với loại hình đầu tư này là những ngành sử dụng những lao động và những công nghệ cũ, lạc hậu, gây ô nhiễm môi trường và bị cấm sử dụng ở nước chủ đầu tư. Đầu tư định hướng nguồn nguyên liệu chính là hình thức đầu tư theo chiều dọc. ở hình thức đầu tư này, các chính sách ở nước sở tại là một bộ phận cấu thành trong dây chuyền sản xuất kinh doanh của công ty mẹ. Các chi nhánh này có nhiệm vụ khai thác nguồn nguyên liệu tại chỗ của nước sở tại để cung cấp cho công ty mẹ tiếp tục chế biến sản phẩm. Hình thức đầu tư này được áp dụng phổ biến trong các lĩnh vực khai thác tài nguyên thiên nhiên ở nước sở tại. 1.2. 5. Đặc điểm chủ yếu của FDI hiện nay. Một là, FDI trở thành hình thức chủ yếu trong đầu tư nước ngoài vì nó có những ưu điểm vượt trội so với các hình thức đầu tư khác như : FDI mang lại hiệu quả kinh tế cao hơn cho các bên. FDI gắn liền với quá trình sản xuất trực tiếp. FDI thúc đẩy phân công lao động quốc tế và hoạt động của các công ty xuyên quốc gia (Trans-national company – TNCs) cũng như các doanh nghiệp quốc tế. Hai là, FDI tập trung vào những nước phát triển (DCs). Theo tạp chí “Nghiên cứu kinh tế” số 5/2000, nếu những năm 50 - 60 tỉ lệ FDI vào các nước đang phát triển (LDCs) chiếm tới 70% thì sang đầu thập kỉ 90, tỉ lệ này chỉ còn dưới 30%. Như vậy, từ thập kỉ 90, luồng FDI chuyển sang tập trung vào các nước công nghiệp phát triển. Nguyên nhân của sự chuyển hướng FDI là do: Sự phát triển như vũ bão của khoa học kỹ thuật đã dẫn đến sự ra đời của các ngành có hàm lượng khoa học công nghệ cao, tiêu tốn ít năng lượng và nguyên liệu, hứa hẹn một tỷ suất lợi tức cao. Xét về phương diện kỹ thuật, đa số các nước nghèo còn yếu kém về cơ sở hạ tầng, môi trường pháp lý... nên không có lợi thế so với các nước phát triển trong việc thu hút vốn FDI. Môi trường đầu tư của các nước phát triển đã hoàn thiện, chế độ chính trị khá ổn định, trình độ công nghệ và lao động phù hợp với yêu cầu của các chủ đầu tư lớn. Xu thế khu vực hoá và sự hình thành các khối kinh tế – thương mại như EU, NAFTA, AFTA... để tăng cường cạnh tranh quốc tế. Rốt cuộc, FDI tập trung phần lớn vào các nước phát triển qua bảng 1, đặc biệt ở lĩnh vực xuất khẩu. Bảng 1- Tình hình phân bổ FDI theo các nhóm nước Đơn vị tính: tỉ USD NĂM Các nước phát triển (dcs) Các nước đang phát triển (ldcs) Toàn bộ các nước Tiếp nhận Xuất khẩu Tiếp nhận Xuất khẩu Tiếp nhận Xuất khẩu 1983-1987 1988-1992 1990 1991 1992 1993 1994 1995 58,7 139,1 169,8 114,0 114,0 129,3 132,8 203,2 72,6 193,3 222,5 201,9 181,4 192,4 190,9 270,5 18,3 36,8 33,7 41,3 50,4 73,1 87,0 99,7 4,2 15,2 17,8 8,9 21,0 33,0 38,6 47,0 77,1 177,3 203,8 157,8 168,1 207,9 225,7 314,9 76,8 208,5 204,3 210,8 203,1 225,5 230,0 317,0 Nguồn: Vũ Chí Lộc- Giáo trình Đầu tư nước ngoài- NXB Giáo dục 1997, trang 32 Bảng 2- Các nước nhận FDI nhiều nhất trong 2 năm 1998-1999. Đơn vị: tỷ USD Số thứ tự Nước tiếp nhận 1998 1999 1999/1998 (%) 1 Anh 117,1 246,2 210,2 2 Mỹ 132,8 145,7 109,7 3 Đức 60,4 93,0 153,9 4 Pháp 36,5 83,0 227,4 5 Hà Lan 39,1 82,1 210,0 6 Nhật 15,6 20,4 130,8 7 Bỉ 2,1 17,5 833,3 8 Canada 42,3 16,3 38,5 9 Italia 15,6 14,4 92,3 10 Thuỵ Điển 14,0 10,8 77,1 Tổng số 475,5 729,4 153,4 Nguồn: “Kinh tế Việt Nam 1999-2000”- Thời báo Kinh tế Việt Nam, trang 67 Như vậy, FDI vào các nước đang phát triển tuy có tăng nhưng vẫn rất nhỏ so với các nước phát triển như Mỹ, Anh, Đức. Hiện nay, các nước phát triển thu hút được khoảng ba phần tư lượng vốn FDI trên toàn thế giới. Chỉ riêng mười nước ở bảng trên đã thu hút được 475,5 tỉ USD vào năm 1998 và 927,4 tỉ vào năm 1999. Ba là, cơ cấu và phương thức FDI ngày càng đa dạng hơn. Nếu như trước đây, các nước chủ đầu tư thường chỉ quan tâm tới ngành công nghiệp, đặc biệt là công nghiệp khai khoáng thì ngày nay, các chủ đầu tư quan tâm tới cả ba lĩnh vực là công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ. Vậy, trên thực tế cơ cấu đầu tư đã đa dạng hơn trước. Giống như về cơ cấu, phương thức FDI cũng ngày một đa dạng hơn. Ngày nay, không chỉ có phương thức đầu tư theo truyền thống mà còn xuất hiện nhiều hình thức đầu tư mới như mua lại công ty làm ăn thua lỗ, sáp nhập công ty... Bốn là, Đông á và Đông Nam á trở thành khu vực hấp dẫn đầu tư. Mặc dù trên thế giới, luồng vốn FDI có xu hướng tập trung ngày càng nhiều vào các nước phát triển nhưng trong số các nước đang phát triển, khu vực Đông á và Đông Nam á lại trở nên hấp dẫn các nhà đầu tư. Nguyên nhân của hiện tượng này là: Sự ra đời của các khối liên kết kinh tế trên thế giới làm cho lưu lượng hàng hoá trao đổi và hoạt động đầu tư sôi nổi thêm. Trong thập kỉ 90, các nước Đông Nam á và Đông á có mức tăng trưởng kinh tế rất cao và năng động. Chính sự tăng trưởng một cách ngoạn mục này đã khiến đầu tư vào khu vực ngày càng tăng. Nhân tố sức lao động rẻ và nguồn cung cấp nguyên vật liệu ổn định từ các nước trong khu vực trở thành những nhân tố thuận lợi cho việc hạ giá thành sản xuất. Tiềm năng thị trường rộng lớn, sức mua của dân cư dồi dào, cơ sở vật chất kỹ thuật cũng như kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội ngày càng được cải thiện cho phù hợp với yêu cầu khách quan của nền kinh tế. Xu thế này đã tạo nhiều ưu thế cho Việt Nam, nước thành viên quan trọng thuộc khối ASEAN, nhưng cũng đặt nước ta vào sự cạnh tranh khốc liệt với các nước trong khu vực. Do đó, chúng ta cần phải nghiên cứu kỹ lưỡng về mọi mặt để phát huy điểm mạnh và khắc phục những điểm yếu để thu hút được vốn FDI nhiều hơn. 1.2. 6. Các nhân tố chính ảnh hưởng đến thu hút FDI 1.2.6.1. ổn định môi trường kinh tế, chính trị. Chính trị là yếu tố hàng đầu mà mà các nhà đầu tư phải xem xét có nên đầu tư vào một nước nào đó hay không. Nghiên cứu đã cho thấy nền chính trị ổn định sẽ khuyến khích FDI.Rủi ro của các nhà đầu tư nước ngoài có liên quan tới sự bất ổn định chính trị bao gồm tổn hao chi phí khi có sự đổ vỡ chính trị , sự quốc hữu hoá của chính phủ , tỷ lệ hoàn vốn hàng hoá chắc chắn , cung ứng hàng hoá, dịch vụ và nhân lực bị phá vỡ. Sự ổn định kinh tế là điều kiện tiên quyết của mọi ý định và hành vi đầu tư đối với vốn nước ngoài điều này càng có ý nghĩa quan trọng hơn bao giờ hết.Để thu hút dòng vốn đầu tư nước ngoài , nền kinh tế nội địa phải là nơi an toàn cho sự vận động của tiền vốn , sau đó là nơi có khả năng sinh lợi cao hơn những nơi khác. Sự an toàn của vốn đòi hỏi môi trường kinh tế ổn định vững chắc nhưng không phải và không thể là sự ổn định bất động, tức là sự ổn định hàm chứa trong nó khả năng trì trệ kéo dài và dẫn tới khủng hoảng. Một sự ổn định được coi là vững chắc nhưng bất động chỉ có thể là sự ổn định ngắn han. Trong dài hạn, loại ổn định này tiềm chứa trong nó khả năng gây bất ổn định. Bởi vì sự ổn định không đồng nhất với sự trì trệ, mà bản chất sự ổn định kinh tế gắn liền với năng lực tăng trưởng, ổn định trong tăng trưởng, tức là kiểm soát sao cho quá trình tăng trưởng, nhất là các nỗ lực tăng trưởng lâu bền, không gây ra trạng thái “quá nóng” của đầu tư và hậu quả đi liền vứi nó là lạm phát. Theo cách hiểu thông thường thì tăng trưởng kinh tế tức là phá vỡ thế ổn định cũ, nhưng nếu quá trình tăng trưởng được kiểm soát sao cho có thế chủ động tái lập được thế cân bằng mới thì quá trình đó cũng đồng thời là việc tạo ra cơ sở cho sự ổn định vững chắc và lâu bền. 1.2.6.2. Các chính sách kinh tế Chính sách kinh tế trực tiếp giả._.i quyết vốn để đầu tư ví dụ như các quy định về hạn chế sở hữu taì sản hay chuyển giao lợi nhuận, các chính sách của nước chủ nhà khác, các chính sách thương mại có ảnh hưởng tới FDI. Chính sách thương mại và đầu tư có ảnh hưởng tới khả năng nhập khẩu các thiết bị máy móc, nguyên liệu sản xuất và do đó thực sự trở thành mối quan tâm của tất cả các ngành đặc biệt là ngành xuất khẩu mà thường muốn có chi phí sản xuất thấp để tăng tính cạnh tranh. Bên cạnh đó, các chính sách kinh tế cũng phải giải quyết được vấn đề chống lạm phát và ổn định tiền tệ. Để ổn định tiền tệ các quộc gia phải sử dụng các công cụ của thị trường mở và chính sách tỉ giá hối đoái. Mặt khác,hoạt động ngân sách cũng có ý nghĩađặc biệt quan trọng trong việc thực hiệncác mục tiêu nói trên. Một ngân sách thâm hụt triền miên thường đi kèm với tình trạng lạm phát cao và bất ổn định.Trong các công cụ được sử dụng để thực hiện chính sách tiền tệ, hai công cụ lãi suất và tỉ giá hối đoái không chỉ ảnh hưởng tới hoạt động thu hút vốn nước ngoài gián tiếp thông qua vài trò tạo lập ổn định kinh tế mà còn tác động trực tiếp đến dòng chảy của vốn với tư cách là những yếu tố quyết định giá trị đầu tư và mức lợi nhuận thu được tại một thị trường xác định. Nếu mực lãi suất trong nước càng cao so với mực lãi suất quốc tế thì sức hút với dòng chảy vào càng mạnh. Trong điều kiện toàn cầu hoá hiện nay, mức lãi suất tương đối cao còn giúp chính phủ bảo vệ được nguồn lực khan hiếm của mình là vốn , ngăn chặn được nạn đào thoát vốn ra ngoài và huy động được nhiều vốn trong nước hơn. Tuy nhiên việc duy trì lãi suất cao cũng gây ra một tác động đối với mục tiêu huy động vốn. Bởi vì lãi suất cao tức là phí tổn trong đầu tư cao làm giảm dần lợi nhuận của nhà đầu tư. Đối với tỷ giá hối đoái, càng “mềm” thì khả năng thu lợi nhuận từ xuất khẩu càng lớn, sức hấp dẫn vốn nước ngoài càng lớn. Vấn đề là ở chỗ khi một nước có mức tăng trưởng xuất khẩu cao thì khả năng trả nợ của nước đó cũng đảm bảo hơn. Điều đó sẽ làm yên tâm các nhà đầu tư vì độ mạo hiểm khi cho vay hay đầu tư giảm xuống. Một tỷ giá hối đoái phù hợp với tình hình phát triển kinh tế của đất nước sẽ tạo khả năng thúc đẩy xuất khẩu, vì thế có vai trò trực tiếp to lớn đối với việc huy động và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn nước ngoài. Ngoài ra cùng với những chính sách rất quan trọng khác tác động mạnh đến việc ra quy định về quyền sở hữu nước ngoài, thuế, chuyển giao lợi nhuận và các yêu cầu hoạt động cũng như các khuyến khích cho các dự án đầu tư nước ngoài, các quy định của nhà đầu tư. 1.2.6.3. Hệ thống pháp luật Hệ thống pháp luật bao gồm các văn bản luật, các quy định, các văn bản quản lý hoạt động đầu tư ( giải qyuết các thủ tục đầu tư, hướng dẫn đầu tư, đánh giá, thẩm định dự án...). Điều mà các nhà đầu tư quan tâm trong nội dung của các đạo luật là: Có sự đảm bảo pháp lý đối với tài sản tư nhân và môi trường cạnh tranh lành mạnh. Quy chế pháp lý của việc phân chia lợi nhuận, quyền hồi hương lợi nhuận đối với các hình thức vận động cụ thể của vốn nước ngoài tại nước sở tại. Các quy định về thuế, các mức thuế các loại. Nếu như các quy định về mặt pháp lý đảm bảo an toàn về vốn của nhà đầu tư không bị quốc hữu hoá khi hoạt động đầu tư đó không phương hại đến an ninh quốc gia, đảm bảo mức lợi nhuận cao và việc di chuyển lợi nhuận về nước dễ dàng thì khả năng hấp dẫn và thu hút vốn FDI càng cao. Tóm lại, hệ thống pháp luật là thành phần quan trọng của môi trường đầu tư vì nó xác định mức lợi nhuận của các nhà đầu tư và quyết định của họ khi thanh lý tài sản do đầu tư tạo ra bằng một hệ thống đồng bộ các biện pháp kinh tế xã hội và tổ chức kỹ thuật cùng các biện pháp khác nhằm đạt được hiệu quả kinh tế xã hội cao trong những điều kiện cụ thể trên cơ sở vận dụng sáng tạo những quy luật kinh tế khách quan nói chung và các quy luật vận động dặc thù nói riêng. 2.6.4. Cơ sở hạ tầng Một trong những trở ngại lớn đối với quá trình đầu tư là sự nghèo nàn và lạc hậu của hệ thống cơ sở hạ tầng. Kết cấu hạ tầng có ảnh hưởng quyết định đến hiệu quả sản xuất kinh doanh, trong đó đáng kể là ảnh hưởng tới tốc độ chu chuyển vốn. Đây là vấn đè quan tâm hàng đầu của các nhà đâu tư trước khi ra quyết định đầu tư. Hệ thống cơ sở hạ tầng bao gồm cả mạng lưới giao thông, hệ thống thông tin liên lạc và các cơ sở dịch vụ tài chính ngân hàng. Trình độ của các nhân tố này cũng phản ánh trình độ phát triển của mỗi quốc gia, nó tạo ra bộ mặt của đất nước và môi trường cho hoạt động đầu tư. Chính phủ cần khuyến khích ưu đãi các nhà đầu tư nước ngoài theo các hình thức: BTO, BOT, BT để phát triển cơ sở hạ tầng. Dành nhiều ngân sách để phát triển cơ sở hạ tầng cho vùng sâu , vùng xa nhằm tạo ra những địa bàn mới hấp dẫn đầu tư. 1.2.6.5. Cải cách thủ tục hành chính Theo các nhà đầu tư nước ngoài thì hiện nay lực cản lớn nhất đối với nguồn FDI chính là thủ tục hành chính. Vì vậy nếu không phải giải quyết dứt điểm các khó khăn phức tạp do thủ tục rườm rà thì sẽ làm tê liệt mọi ưu thế về môi trường đầu tư. Việc cải cách thủ tục hành chính cần tiến hành theo hướng: Đơn giản hoá các khâu trong thủ tục cấp đất, xét thẩm định dự án, xét duyệt thiết kế xây dựng rút ngắn tối đa thời gian trong các thủ tục này nhằm mục đích tạo điều kiện cho dự án nhanh chóng được đưa vào hoạt động, giảm bớt các thiệt hại do lỡ mất thời cơ, do tồn đọng vốn... Các cơ quan có chức năng thẩm quyền xây dựng các quy định tiêu chuẩn định mức và kiểm tra việc thực hiện, xoá bỏ cơ chế phải xin cấp giấy phép đăng ký kinh doanh sau khi đã được cấp giấy phép đầu tư đối với hoạt động mà giấy phép đầu tư đã cho, thực hiện theo hướng đăng ký mà không phải xin giấy phép. Chính những phức tạp trong thủ tục hành chính như vậy làm tăng chi phí đầu tư, gây chậm trễ tốn kém cho nhà đầu tư. Chấm dứt tình trạng khác biệt giữa luật pháp và thực tế thi hành ở các cơ quan cấp dưới khiến nhà đầu tư nước ngoài hiểu không tốt về luật pháp của nước sở tại, trong những trường hợp có cơ quan cấp dưới cố ý làm sai nguyên tắc hoặc ra những văn bản trái vơí quy định của cấp trên thì phải trực tiếp chịu trách nhiệm trước pháp luật về những thiệt hại mà họ gây ra. Phân định rõ ràng chức năng quyền hạn của cơ quan các cấp để tránh tình trạng chồng chéo lên công việc của nhau. 1.2.7. Đánh giá bản chất và vai trò của FDI đối với các nước đang phát triển Bản chất của FDI là các hoạt động đầu tư ra nước ngoài trên cơ sở khai thác lợi thế so sánh trong phân công lao động quốc tế nhằm tìm kiếm lợi nhuận cao ở phạm vi toàn cầu. Do vậy, FDI là các hoạt động kinh tế và nó có ảnh hưởng như con dao hai lưỡi đối với nước nhận đầu tư. Nếu Chính phủ nước chủ nhà mạnh thông qua các chính sách thu hút FDI hợp lý thì khai thác được tốt mặt tích cực và hạn chế tối đa ảnh hưởng xấu của nó. Ngược lại FDI sẽ là nhân tố gây trở ngại lớn cho những Chính phủ không làm chủ được đường lối phát triển đất nước của mình. Khi phân tích vai trò của FDI thì không những chỉ căn cứ vào mức độ tham gia của nó vào nền kinh tế mà còn phải đánh giá khả năng tiếp nhận của nước chủ nhà. Thật vậy, trong nhiều trường hợp mặc dù tỷ lệ FDI trong tổng vốn đầu tư cao nhưng điều đó không có nghĩa là tác dụng của nó lớn đối với nước nhận đầu tư. Hiệu quả hoạt động FDI còn phụ thuộc rất nhiều vào trình độ phát triển kinh tế của nước nhận đầu tư. Thông thường cứ 1 USD vốn đầu tư của nước ngoài cần phải có 3 - 4 USD vốn đối ứng, nếu đạt được tỷ lệ như vậy thì hoạt động của cả vốn đầu tư trong nước và nước ngoài mới có hiệu quả. Vì thế FDI chỉ đóng vai trò tăng cường vốn đầu tư trong nước mà không phải là yếu tố có tính chất quyết định sự phát triển kinh tế xã hội của nước đang phát triển. Tầm quan trọng lớn nhất của FDI không phải là bổ sung vốn đầu tư nội địa mà là chuyển giao công nghệ, kiến thức kinh doanh, đào tạo tay nghề cho công nhân và cơ hội tiếp cận vào thị trường thế giới của các nước đang phát triển. Tuy nhiên mức độ tác động tích cực của các yếu tố này ở từng nước rất khác nhau, nó phụ thuộc quan trọng vào chiến lược thu hút FDI của nước chủ nhà. Một khía cạnh khác, ở nhiều nước, xét về lâu dài FDI không tạo ra sự phát triển bền vững cho nước chủ nhà. Những hậu quả của nó như đã phân tích trên tác động còn lớn hơn lợi ích mà các nước đang phát triển thu được nếu xét theo tiêu chuẩn của kinh tế phát triển. Vì vậy khi đánh giá vai trò của FDI thì cần phải phân tích ảnh hưởng của nó trên phạm vi kinh tế xã hội. Hơn nữa không có đánh giá chung về vai trò của FDI mà cần phân tích ảnh hưởng của nó trong điều kiện cụ thể từng nước. Từ đó mới tìm ra được điều kiện cần và đủ để sử dụng có hiệu quả FDI trong chiến lược phát triển tổng thể của nước chủ nhà. Để đánh giá một cách đầy đủ về ảnh hưởng của FDI có thể căn cứ vào các yếu tố cơ bản sau: Lưu chuyển ngoại tệ : mức độ góp vốn, cải thiện cán cân thanh toán quốc tế, chuyển lợi nhuận về nước, thực hiện giá chuyển giao, thuế lợi nhuận. Cạnh tranh : mức độ làm phá sản các doanh nghiệp địa phương, thay thế vị trí các cơ sở sản xuất then chốt nội địa. Chuyển giao công nghệ : Chi phí R & D của FDI ở nước chủ nhà, mức độ độc quyền công nghệ và công nghệ phù hợp ở nước sở tại. Sản phẩm : Tỷ lệ tiêu thụ sản phẩm ở trong - ngoài nước và giữa các tầng lớp dân cư trong xã hội, sản phẩm phù hợp. Đào tạo cán bộ và công nhân : Số lượng, trình độ cán bộ và công nhân được đào tạo, số lao động được tuyển dụng. Mối quan hệ với các doanh nghiệp và cơ sở địa phương : Mức độ thiết lập các mối quan hệ với các cơ sở trong nước, liên kết kinh tế, chuyển đổi cơ cấu kinh tế ở nước chủ nhà. Các vấn đề xã hội : Bất bình đẳng trong thu nhập, lối sống, tăng chênh lệch giàu - nghèo trong xã hội. Các yếu tố trên cần được phân tích tổng hợp cả về định tính và định lượng trong mối tương quan với các yếu tố khác tác động đến sự tăng trưởng và phát triển của nước nhận đầu tư. Nếu chỉ phân tích về mặt định tính thì không chỉ ra được mức độ ảnh hưởng của nó đối với các lĩnh vực kinh tế - xã hội của nước nhận đầu tư. Tuy nhiên, phân tích định lượng là vấn đề khó đối với các nước đang phát triển, bởi vì nguồn số liệu ít và thiếu chính xác. Hơn nữa, tốc độ tăng trưởng và phát triển không chỉ do nguyên nhân của FDI mà còn được quyết định bởi nhiều yếu tố quan trọng khác. Do vậy việc xây dựng các giả định và lựa chọn phương pháp nghiên cứu để phân tích ảnh hưởng của FDI đối với nước nhận đầu tư đóng vai trò rất quan trọng. 1.3. FDI với tăng tưởng và phát triển kinh tế 1.3.1.Những mặt tích cực của FDI đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế Ta có mô hình Harrod – Domar như sau: s g =---------- k ở đây : g: tỷ lệ tăng trưởng GDP s: tỷ lệ tiết kiệm trong GDP k: hệ số ICOR Hệ số này cho biết vốn được tạo ra bằng đầu tư là yếu tố cơ bản của sự tăng trưởng kinh tế; tiết kiệm là nguồn gốc của đầu tư Mô hình cho thấy để có tăng tưởng kinh tế cao, thì hoặc là phải tăng tỷ lệ tích luỹ, hoặc là phải duy trì hệ số ICOR thấp, hoặc kết hợp cả hai. Với các nước đang phát triển , do ở giai đoạn đầu, tích luỹ bên trong rất hạn chế, trong lúc nhu cầu vốn để phát triển cao, cho nên bắt buộc phải dựa vào tích luỹ từ bên ngoài. Để có được nguồn vốn nước ngoài, thì các nước đang phát triển đều phải có các hình thức hấp dẫn để thu hút vốn Vào giữa thế kỉ XX, khi việc xuất khẩu tư bản, nhất là FDI phát triển nhanh chóng, các nhà kinh tế học nổi tiếng như Paul.A.Samuelson và R.Nurkse đều cho rằng: muốn phát triển kinh tế, các nước đang phát triển phải có biện pháp thu hút FDI. Trong cuốn kinh tế học (Economics), Pau.A.Samuelson đã lí luận rằng: các nước đang và chậm phát triển (LDCs) có nguồn nhân lực bị hạn chế bởi tuổi thọ và dân trí thấp, kĩ thuật lạc hậu và gặp trở ngại trong việc kết hợp những nhân tố đó. Do đó các nước đang phát triển ngày càng khó khăn và lún sâu vào cái “vòng luẩn quẩn”. Sơ đồ 2- Cái vòng luẩn quẩn của các nước đang phát triển: Thu nhập thấp. Đầu tư thấp. Tiết kiệm thấp. Năng suất lao động thấp. Tốc độ tích luỹ vốn thấp Nguồn: P.A.Samuelson & W.D.Nordhaus: Kinh tế học – NXB CTQG Hà Nội 1997, tập II, trang 655. Trong cuốn “Những vấn đề chung về hình thành vốn ở LDCs”, R. Nurkse đã đưa ra các giải pháp để giải quyết vấn đề về vốn. Thông qua việc phân tích mô hình “vòng luẩn quẩn” nói trên, ông cho rằng: nguyên nhân cơ bản và chủ yếu của LDCs là thiếu vốn. Từ đó, Nurkse đưa ra giải pháp để giải quyết vấn đề thiếu vốn là: mở cửa cho đầu tư trực tiếp nước ngoài. Theo ông, vấn đề mở cửa cho FDI có ý nghĩa sống còn đối với LDCs trong việc tăng trưởng kinh tế, nó giúp cho LDCs có thể vươn tới những thị trường mới, tiếp cận khoa học kỹ thuật hiện đại và phương pháp quản lí có hiệu quả. Ngày nay, các nhà kinh tế đưa ra mô hình nói lên mối quan hệ giữa đầu tư và tăng trưởng kinh tế như sau: Sơ đồ 3- Quan hệ biện chứng giữa đầu tư và tăng trưởng kinh tế Đầu tư tăng . Tích luỹ tăng. Sản lượng đầu ra tăng. Thu nhập tăng . Tăng trưởng kinh tế. Nguồn: P.A.Samuelson & W.D.Nordhaus: Kinh tế học – NXB CTQG Hà Nội 1997, tập II. Rõ ràng là, để tăng trưởng kinh tế, trong khi tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế còn thấp, LDCs phải thu hút được FDI – hình thức đầu tư quan trọng nhất của đầu tư nước ngoài. Trong những năm gần đây đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI đã và đang trở thành yếu tố góp phần quan trọng cho sự tăng trưởng kinh tế của nhiều nước đang phát triển. Khai thác và sử dụng có hiệu quả đầu tư trực tiếp nước ngoài đang là một mục tiêu được ưu tiên hàng đầu ở nhiều nước trên thế giới, nhất là đối với các nước đang phát triển, nơi có nhu cầu rất lớn về vốn đầu tư cho phát triển kinh tế. Chúng ta cùng xem xét những tác động tích cực của FDI tới nền kinh tế các nước nhận đầu tư mà chủ yếu là các nước đang phát triển và chậm phát triển. Tạo nguồn vốn bổ sung quan trọng Trong giai đoạn đầu phát triển kinh tế, các nước chậm phát triển và đang phát triển đều gặp phải vấn đề nan giải là thiếu vốn đầu tư do tích lũy nội bộ thấp hoặc không có tích lũy. Điều đó đã hạn chế đến quy mô đầu tư và đổi mới kỹ thuật gây ra tình trạng mất cân đối trong xuất nhập khẩu, cán cân thanh toán thường xuyên bị thiếu hụt, đất nước thiếu ngoại tệ. Vốn đầu tư là cơ sở để tạo ra công ăn việc làm trong nước, đổi mới công nghệ, kỹ thuật, tăng năng suất lao động...từ đó tạo tiền đề để tăng thu nhập, tăng tích luỹ cho sự phát triển của xã hội. Do đó để có thể phát triển bắt buộc phải tranh thủ nguồn vốn từ nước ngoài. Nó được coi là “cái kích” đột phá vào cái vòng luẩn quẩn của nghèo đói, tạo điều kiện cho nền kinh tế cất cánh. Việc thu hút FDI có thể giải quyết được khó khăn về khả năng tích lũy vốn thấp và bù đắp các khoản thiếu hụt ngoại tệ trong cán cân thanh toán, tức là có thể khắc phục được “lỗ hổng tiết kiệm” và “lỗ hổng thương mại” như trong lý thuyết “hai lỗ hổng” của Cherery và Strout, bởi vì FDI góp phần làm tăng khả năng cạnh tranh và mở rộng khả năng xuất khẩu của nước nhận đầu tư, thu một phần lợi nhuận từ các công ty nước ngoài, thu ngoại tệ từ các hoạt động dịch vụ phục vụ cho FDI. Trong gần 30 năm qua, bằng chính sách năng động và hiệu quả, các nước Nics đã nhận được hơn 50 tỷ USD - đây là nguồn vốn đặc biệt quan trọng giúp các nước này trở thành những con rồng của Châu á. Tỷ lệ mà tư bản nước ngoài đóng góp vào việc xuất khẩu cũng khá lớn đối với những nước đang phát triển như Singapore 72,1%, Braxin 37,2%, Đài Loan 25,6%, Thái Lan 22,7%, Hồng Kông 16,5%. ở nhiều nước đang phát triển, vốn đầu tư nước ngoài chiếm tỷ lệ đáng kể trong tổng vốn đầu tư của toàn bộ nền kinh tế trong đó có một số nước hoàn toàn dựa vào vốn đầu tư nước ngoài, đặc biệt là ở giai đoạn đầu của sự phát triển kinh tế. Ngoài ý nghĩa tăng cường vốn đầu tư nội địa, FDI còn bổ sung đáng kể nguồn thu ngân sách của Chính phủ các nước đang phát triển thông qua thuế và tiền thuê mặt bằng từ các xí nghiệp có vốn đầu tư của nước ngoài. Đây là nguồn ngoại tệ quan trọng để đầu tư các dự án công cộng trong giai đoạn đầu công nghiệp hóa. Đối với các nước công nghiệp phát triển, đầu tư trực tiếp nước ngoài vẫn là nguồn bổ sung vốn quan trọng và có ý nghĩa to lớn trong quá trình phát triển nền kinh tế của những quốc gia này. Bằng chứng là chính các nước công nghiệp phát triển đã thu hút trên 80% tổng lượng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài của thế giới. Giải quyết một phần tình trạng thất nghiệp Thực ra đây là một tác động kép: tạo thêm công ăn việc làm cũng có nghĩa là tăng thêm thu nhập cho người lao động. Từ đó tạo điều kiện tăng tích lũy trong nước, thúc đẩy việc mở rộng quy mô sản xuất, nâng cao năng lực của nền kinh tế, tạo thêm việc làm mới. Việc giảm bớt áp lực về công ăn việc làm còn góp phần giải quyết hàng loạt các vấn đề xã hội khác. Thông qua việc tạo thêm các ngành nghề mới, các xí nghiệp mới hoặc làm tăng quy mô của các đơn vị kinh tế, FDI đã tạo ra công ăn việc làm cho một số lượng lớn người lao động. Chẳng hạn, tính đến năm 1996, lực lượng lao động làm việc trực tiếp trong các dự án FDI ở Trung Quốc là 16 triệu. ở Việt Nam đến năm 2000, con số này là trên 300.000 người, không tính đến lao động gián tiếp (khoảng 1 triệu người theo cách tính của Ngân hàng Thế giới). Nhu cầu về công ăn việc làm đang đặt ra ngày càng bức xúc và do đó những tỷ lệ 54,46%; 23%; 21% số người làm việc cho các xí nghiệp có vốn nước ngoài so với tổng số người có việc làm của các nước Singapore, Braxin, Mêhicô là những con số có ý nghĩa rất lớn. FDI giúp các nước chậm và đang phát triển tiếp thu được công nghệ tiên tiến, học hỏi được kinh nghiệm quản lý của các nhà đầu tư nước ngoài, nâng cao trình độ tay nghề cho đội ngũ lao động Do trình độ phát triển kinh tế xã hội, giáo dục, khoa học kém, các nước đang phát triển có rất ít khả năng phát triển công nghệ mới, hiện đại và tiên tiến. Khả năng tự nhập khẩu công nghệ của các nước này cũng rất hạn chế, thường dưới 1% so với GDP. Trong điều kiện đó, phần lớn công nghệ mới, hiện đại có được ở các nước đang phát triển là đưa từ ngoài vào qua hợp tác đầu tư quốc tế hoặc viện trợ. Thông qua tiếp nhận FDI, các nước đang phát triển tiếp cận được công nghệ hiện đại sau đó cải tiến và phát triển thành công nghệ phù hợp với mình. Các chủ đầu tư nước ngoài thường tổ chức các lớp đào tạo về quản lý cũng như kỹ thuật cho cán bộ và công nhân sở tại để thực hiện các chương trình đầu tư theo dự án. FDI có thể góp phần tăng năng suất các yếu tố sản xuất, thay đổi cấu thành của sản phẩm, thúc đẩy phát triển các nghề mới, đặc biệt là những nghề đòi hỏi hàm lượng công nghệ cao, mang lại kinh nghiệm quản lý, kỹ năng kinh doanh tiên tiến và trình độ tay nghề kỹ thuật cho cán bộ công nhân trong nước. Đứng về lâu dài, đây là lợi ích căn bản nhất đối với nước nhận đầu tư. FDI góp phần cải tiến cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa và đưa nền kinh tế tham gia phân công lao động quốc tế một cách mạnh mẽ. Trước hết đầu tư nước ngoài giữ một vai trò hết sức quan trọng trong việc cải tiến cơ cấu kinh tế. Mặc dù tỷ trọng của đầu tư trực tiếp trong tổng số vốn đầu tư ở một số nước không cao nhưng nó thường chiếm tỷ trọng lớn trong tổng đầu tư tài sản cố định trong một số ngành quan trọng của nền kinh tế. ở những nền kinh tế mới công nghiệp hóa, đầu tư của các công ty đa quốc gia tập trung vào lĩnh vực công nghiệp chế tạo. Sự hoạt động của khu vực FDI cho phép cung cấp các dịch vụ có chất lượng và sản xuất các sản phẩm đáp ứng tiêu chuẩn quốc tế, góp phần nâng cao năng lực xuất khẩu của nền kinh tế, đưa nền kinh tế hội nhập với kinh tế khu vực và thế giới. Với chính sách thu hút FDI theo các ngành nghề định hướng hợp lý, FDI sẽ góp phần tích cực chuyển dịch cơ cấu kinh tế đất nước theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. ở Thái Lan, gần 90% vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào công nghiệp, do đó đã thúc đẩy quá trình sản xuất xuất khẩu sản phẩm công nghiệp. Xem xét tình hình tăng trưởng kinh tế của các nước đang phát triển trên thế giới, có thể rút ra nhận xét: có mối quan hệ tỷ lệ thuận giữa mức tăng trưởng kinh tế với khối lượng vốn đầu tư nước ngoài được huy động và sử dụng; đồng thời sự tăng trưởng kinh tế gắn liền với mức tăng trưởng xuất khẩu. Rõ ràng là hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài đã góp phần tích cực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế ở các nước đang phát triển, là chỗ dựa để khai thác những tiềm năng to lớn ở trong nước nhằm phát triển kinh tế. Để đánh giá vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với phát triển kinh tế, chúng ta có thể tham khảo hai phương trình phản ánh quan hệ giữa tăng trưởng và tiết kiệm do các chuyên gia của Ngân hàng phát triển Châu á (ADB) đưa ra: GR = a0 + a1.AID + a2.FDI + a3.S + a4.CX + a5.CLF S = a6 + a7.FDI + a8.CX + a9.GDPN + a10.GR Trong đó : an > 0 (n=) GR : Nhịp độ tăng trưởng của GDP AID : Vốn chính thức, % của GDP FDI : Đầu tư trực tiếp nước ngoài CX : Tỷ lệ xuất khẩu so với GDP S : Tỷ lệ tiết kiệm so với GDP CLF : Gia tăng lực lượng lao động GDPN : GDP / người Qua nghiên cứu tình hình thực tiễn của nhiều quốc gia đang phát triển Châu á trong những năm của hai thập kỷ 80 và 90, các chuyên gia của ADB đã đưa ra kết quả phân tích như sau: ảnh hưởng nhân quả khi tăng 1% của các nhân tố Chỉ tiêu AID FDI CX CLF GDPN GR S Nhịp độ tăng trưởng 0.047 0.119 0.097 0.137 0.803 Tỷ lệ tiết kiệm -0.016 0.032 0.016 0.4 0.053 Nguồn: Đầu tư trực tiếp nước với tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam - Vũ Trường Sơn- NXB Thống kê 1997 Mặc dù điều kiện số liệu không cho phép chúng ta ước lượng mô hình này đối với nền kinh tế Việt Nam nhưng kết quả trên cũng cho ta thấy vai trò to lớn của FDI đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế. Theo kết quả trên, khi tăng 1% FDI sẽ làm tăng nhịp độ tăng trưởng lên 0.113% và tỷ lệ tiết kiệm tăng 0.032%. Ngoài ra FDI còn có tác động tích cực đến nền kinh tế nước nhận đầu tư ở nhiều mặt khác. Ví dụ, Chính phủ nước chủ nhà có thể sử dụng FDI như là một công cụ để tạo ra sự kích thích và liên kết kinh tế với các cơ sở kinh tế trong nước. Các công ty nước ngoài như đối trọng để cho các doanh nghiệp trong nước tăng tính cạnh tranh của mình. Các doanh nghiệp nội địa cũng mở rộng được quy mô sản xuất nhờ cung cấp nguyên liệu và dịch vụ cho các công ty nước ngoài. . FDI đối với việc sử dụng tài nguyên. Do đặc trưng của vốn FDI là có sự chuyển giao công nghệ và bí quyết kĩ thuật từ nước chủ đầu tư sang nước nhận đầu tư, nên song song với việc chuyển giao công nghệ, tài nguyên ở các nước nhận đầu tư sẽ được sử dụng tiết kiệm và hiệu quả hơn. Tài nguyên ở đây được hiểu là những chi phí đầu vào (input) của một doanh nghiệp. Như vậy với những dây chuyền công nghệ hiện đại hơn, chủ đầu tư sẽ sử dụng ít lao động sống hơn tức là cần ít công nhân hơn nhưng vẫn đảm bảo cho việc hoạt động sản xuất kinh doanh diễn ra bình thường. Điều này làm cho chi phí tiền lương của công ty giảm và lợi nhuận tăng lên. Mặt khác, thông qua vốn FDI, các nguyên nhiên vật liệu trong nước còn được sử dụng hợp lí, có hiệu quả hơn vì những công nghệ mới đã thay thế cho những công nghệ lạc hậu trong nước. Không chỉ có vậy, việc chuyển giao bí quyết kĩ thuật còn giúp các doanh nghiệp hợp lí hoá được đầu vào để tạo được sản phẩm đầu ra tối ưu. Như vậy, thông qua tất cả các nguồn lực (bao gồm cả nhân lực và tài lực) được kết hợp một cách tối ưu và do đó, các tài nguyên này được sử dụng tiết kiệm hơn, hợp lí hơn và có hiệu quả hơn. Cũng nhờ có vốn FDI, chúng ta sử dụng có hiệu quả những lợi thế trong nước mà nhiều năm qua chưa làm do thiếu vốn (như khai thác mỏ, khoáng sản...) .FDI đối với Ngân sách Nhà nước. Các dự án FDI góp phần bổ sung quan trọng cho ngân sách của các quốc gia. Các nguồn thu này từ các khoản như: cho thuê đất, mặt nước, mặt biển hay từ các loại thuế doanh thu, thuế lợi tức, thuế xuất nhập khẩu. ở các nước đang phát triển, do thu hút được vốn FDI, mức đóng góp của các dự án này có xu hướng tăng lên. ở Trung Quốc, năm 1992, tổng thuế từ các dự án FDI chiếm 4.1% tổng thu thuế, và năm 1995 là 11,2% Nguồn: - MOFTEC_Tổng cục thuế Trung Quốc. và con số này đang có xu hướng gia tăng. 2. Những mặt trái của FDI Bên cạnh những tác động tích cực đến tăng trưởng và phát triển kinh tế, các nước nhận đầu tư có thể phải chịu các ảnh hưởng xấu do những mặt trái của FDI đem lại. Có thể kể ra một số điểm chính sau: Chi phí của việc thu hút FDI Để thu hút FDI, các nước nhận đầu tư phải áp dụng một số ưu đãi cho các nhà đầu tư như: giảm thuế, miễn thuế trong thời gian khá dài cho phần lớn các dự án. Hoặc việc trả tiền của họ cho việc thuê đất đai và một số dịch vụ của họ là rất thấp so với các nhà đầu tư trong nước. Hay trong một số lĩnh vực có thể được nhà nước bảo hộ thuế quan. Và như vậy, đôi khi lợi ích của nhà đầu tư vượt lợi ích mà nước chủ nhà nhận được. Mặc dù FDI bổ sung vốn đầu tư cho nước nhận đầu tư nhưng về lâu dài lại làm giảm tỷ lệ tiết kiệm và đầu tư nội địa. Bởi vì các chủ đầu tư nước ngoài thường có ưu thế về vốn, công nghệ và kinh nghiệm quản lý so với các doanh nghiệp trong nước nên họ thường tăng tỷ trọng vốn đầu tư dưới hình thức đầu tư mới hoặc tái đầu tư vào các ngành có tính cạnh tranh cao và dẫn tới vị trí độc quyền. Điều này làm phá sản hàng loạt các doanh nghiệp địa phương, dẫn đến sự phụ thuộc ngày càng chặt chẽ của các chủ đầu tư trong nước vào các công ty nước ngoài. Thâm hụt cán cân thanh toán quốc tế. Trong thời gian lâu dài FDI lại làm tăng sự thâm hụt cán cân thanh toán quốc tế của các nước đang phát triển vì lượng ngoại tệ chuyển về nước dưới dạng lợi nhuận, lãi suất, giá công nghệ nhập khẩu và chi phí quản lý lớn hơn số tiền mà họ chuyển vào trong thời gian đầu dưới hình thức vốn đầu tư. Có thể phân tích ảnh hưởng của FDI đến cán cân thanh toán quốc tế của các nước đang phát triển bằng công thức sau: Bd = (X + I) - (Ck + Cr + R + D) trong đó Bd là mức độ ảnh hưởng, X - Giá trị xuất khẩu do FDI tạo ra, I - lượng ngoại tệ FDI chuyển vào, Ck - giá trị công nghệ nhập, Cr - giá trị nguyên liệu nhập, R - tiền trả giấy phép sử dụng công nghệ nhập, D - lãi cổ phiếu chuyển ra nước ngoài. Mặc dù các nước đang phát triển khuyến khích các công ty nước ngoài đầu tư để xuất khẩu nhưng thực tế các chủ đầu tư nước ngoài lại tìm mọi cách để tiêu thụ sản phẩm ở thị trường trong nước. Thêm vào đó, ở nhiều nước đã cho phép cổ phần hóa các doanh nghiệp FDI và vì vậy trong nhiều trường hợp lượng ngoại tệ mà các chủ đầu tư chuyển vào lại chiếm tỷ lệ nhỏ so với lượng vốn họ huy động từ nội địa. Do vậy cả hai nguồn ngoại tệ làm cải thiện cán cân thanh toán quốc tế của nước chủ nhà là rất hạn chế. Mặt khác, lượng ngoại tệ dành cho nhập khảu công nghệ, nguyên liệu và giấy phép sử dụng công nghệ lại rất lớn do các nước đang phát triển thiếu các yếu tố này. Các nhà đầu tư thường tính giá cao hơn mặt bằng quốc tế cho các nhân tố đầu vào. Các chủ đầu tư nước ngoài thường tính giá cao cho những nguyên vật liệu, bán thành phẩm, máy móc thiết bị mà họ nhập vào để thực hiện đầu tư. Điều nay gây ra chi phí sản xuất cao ở nước chủ nhà và nước chủ nhà phải mua hàng hóa do nhà đầu tư nước ngoài sản xuất với giá cao hơn. Đồng thời, nó còn giúp chủ đầu tư trốn thuế, che giấu lợi nhuận thực. Việc tính giá cao thường xảy ra khi nước chủ nhà thiếu thông tin, trình độ kiểm soát, quản lý, chuyên môn yếu hoặc chính sách của Nhà nước còn nhiều khe hở. Công nghệ và sản phẩm không phù hợp với các nước đang phát triển Các nhà đầu tư thường bị buộc tội là đã chuyển giao công nghệ và kỹ thuật lạc hậu vào nước họ đầu tư. Hầu hết công nghệ chuyển giao cho các nước đang phát triển là nước công nghệ từ phương Tây với đặc trưng sử dụng nhiều vốn, tiết kiệm lao động, ít sử dụng nguyên liệu địa phương và gây ô nhiễm môi trường. Việc chuyển giao công nghệ lạc hậu đã gây ra nhiều thiệt hại cho nước nhận đầu tư như là : khó tính giá trị thực của máy móc thiết bị, chất lượng sản phẩm thấp, chi phí sản xuất cao...Các nhà đầu tư còn bị chỉ trích là sản xuất và bán những hàng hóa không thích hợp cho các nước kém phát triển, thậm chí đôi khi là nước hàng hóa có hại cho sức khỏe con người và gây ô nhiễm môi trường. Những mặt trái khác FDI làm tăng sự phát triển không đều giữa thành thị và nông thôn, mất cân đối giữa các vùng, đồng thời tăng sự bất bình đẳng giữa người giầu và người nghèo. Thật vậy, phần lớn các dự án tập trung ở những khu vực có điều kiện phát triển kinh tế thuận lợi - thường là thành thị, còn các khu vực nông thôn và miền núi thì rất ít dự án. Mặt khác các công ty nước ngoài chỉ tuyển dụng lao động sở tại có trình độ tay nghề, do đó phần lớn lao động ở các nước đang phát triển không tìm được việc làm ở các xí nghiệp nước ngoài. Về phương diện chính trị, FDI là mối lo ngại cho Chính phủ các nước đang phát triển. Trong thực tế nhiều xí nghiệp nước ngoài, đặc biệt là các công ty đa quốc gia có tiềm lực kinh tế lớn họ can thiệp vào đường lối phát triển của nước sở tại dưới nhiều hình thức như hối lộ quan chức hoặc thậm chí lật đổ Chính phủ, như trường hợp điển hình ở Chilê những năm của thập kỷ 70. Việc trình bày những mặt trái của FDI không có nghĩa là phủ nhận những lợi thế cơ bản của nó mà chỉ để nói lên rằng, cần có những biện pháp kiểm soát hữu hiệu để phát huy những mặt tích cực và hạn chế những mặt tiêu cực của FDI. Mức độ thiệt hại mà FDI gây ra cho nước chủ nhà phụ thuộc rất nhiều vào chính sách, năng lực, trình độ quản lý, trình độ chuyên môn của nước nhận đầu tư. Việc kiểm tra hoạt động của doanh nghiệp là nhằm giúp đỡ doanh nghiệp tháo gỡ khó khăn, giải quyết những vấn đề nảy sinh. Kết luận chương 1: Tăng trưởng kinh tế là vấn đề có tính chiến lược của nước ta. Đầu tư phát triển và tăng trưởng kinh tế có quan hệ chặt chẽ với nhau. Vốn đầu tư là một trong những yếu tố hàng đầu quyết định phát triển kinh tế xã hội ở Việt Nam. Trong các nguồn vốn đầu tư phát triển, vốn trong nước đóng vai trò quyết định, vốn ngoài nước đóng vai trò quan trọng.Việc huy động vốn ĐTNN cho đầu tư phát triển có ý nghĩa cực kỳ quan trọng và có tính chất chiến lược.FDI là ... Chương 2 Tình hình thực hiện đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam thời gian qua 2.1. đánh giá tổng quan về FDI tại Việt Nam 2.1.1. Thực trạng cấp giấy phép đầu tư trực tiếp nước ngoài 2.1.1.1. Tình hình chung Từ khi Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam có hiệu lực ._., vừa gây phiền hà, can thiệp sâu vào hoạt động của doanh nghiệp. Trong lĩnh vực này phải nói rằng kiểm tra thì nhiều nhưng chất lượng không đạt yêu cầu vì cán bộ kiểm tra chưa đủ trình độ phát hiện những vi phạm của đơn vị, đặc biệt về lĩnh vực tài chính, về giá xuất nhập khẩu nguyên liệu, giá xuất khẩu thành phẩm đích thực. Trong một thời gian dài các cơ quan quản lý Nhà nước qua tập trung vào khâu cấp phép đầu tư, buông lỏng khâu quản lý sau giấy phép; chưa quan tâm đúng mức đến việc giải quyết dứt điểm và nhanh chóng các vấn dề phát sinh, tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp. Việc quản lý giá đầu vào và đầu ra còn nhiều bất cập làm ảnh hưởng tới lợi ích của doanh nghiệp cũng như của Nhà nước Việt Nam. Sự phối hợp giữa các cơ quan quản lý Nhà nước còn chưa chặt chẽ, việc quản lý sau cấp phép chậm được cải tiến, nhất là đất đai, hải quan, xuất nhập khẩu, thủ tục hành chính còn phiền hà, cấp dưới thực thi pháp luật và các chính sách, chủ trương của Nhà nước thiếu nghiêm túc đã làm nản lòng các nhà đầu tư nước ngoài. 2. Yếu kém về công trình kết cấu hạ tầng Kinh nghiệm của các nước trong khu vực cho thấy, cơ sở hạ tầng có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc thu hút FDI nhất là ở những nơi ít có lợi thế về vị trí địa lý, tài nguyên thiên nhiên, lao động. Đầu tư vào xây dựng cơ sở hạ tầng đòi hỏi nguồn vốn lớn. Đảng và Nhà nước ta đã giành 50-60% tổng vốn đầu tư và hầu hết nguồn vốn ODA để xây dựng cơ sở hạ tầng. Tuy nhiên, nhìn tổng thể, cơ sở hạ tầng kinh tế- kỹ thuật-xã hội và môi trường của Việt Nam còn thấp kém và lạc hậu. Mặc dù áp dụng chính sách ưu đãi về tiền thuê đất và thuế lợi tức nhưng do phải bỏ nhiều chi phí cho các công trình ngoài hàng rào, hoặc chi phí vận chuyển hàng xuất khẩu bằng container đến cảng cửa khẩu khá xa...nên vô hình trung đã triệt tiêu các ưu đãi này. Cơ sở hạ tầng yếu kém sẽ không tạo được sự hấp dẫn thu hút FDI trong thời gian tới. 3. Yếu kém về quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch ngành kinh tế - kỹ thuật Hiện nay đã có nhiều KCN được thành lập. Tuy nhiên cả các KCN đã đi vào hoạt động hoặc đang tiến hành xây dựng, việc quy hoạch chi tiết rất chậm, khiến các nhà đầu tư nước ngoài rất bị động trong việc chọn địa điểm đầu tư. Cả nước cũng như từng ngành, từng địa phương thực sự chưa có quy hoạch cụ thể về hợp tác đầu tư nước ngoài trên cơ sở và trong khuôn khổ quy hoạch tổng thể. Do phạm vi lĩnh vực được khuyến khích đầu tư rộng nên có nơi có lúc cơ cấu đầu tư thiếu sự phù hợp với cơ cấu sản xuất và thị trường. Cơ cấu đầu tư còn thể hiện một mặt là sự manh mún, dàn trải của một số ngành trên nhiều địa phương với mục tiêu thúc đẩy CNH, mặt khác lại quá tập trung nhiều ngành, lĩnh vực vào một số địa phương. Các ngành, các địa phương, các cơ sở kinh doanh chưa có sự phối hợp chặt chẽ trong công tác vận động đầu tư dẫn tới tranh giành dự án hoặc triển khai quá nhiều dự án không có nhu cầu nhiều về số lượng, làm thị trường các sản phẩm này nhanh chóng bị bão hòa. Do quy hoạch và dự báo thiếu chuẩn xác nên đã cấp phép đầu tư sản xuất một số sản phẩm vượt quá nhu cầu như ô tô, khách sạn, bia, nước ngọt có ga..Việc cấp phép trong những năm đầu thiên về dự án thay thế nhập khẩu, tiêu thụ sản phẩm trong nước nên dẫn tới tình trạng cạnh tranh mạnh với sản phẩm của doanh nghiệp trong nước. 4. Yếu kém về cung ứng lao động cho các doanh nghiệp FDI Mặc dù Việt Nam có một lực lượng lao động dồi dào và có thể cung ứng cho các doanh nghiệp FDI và các doanh nghiệp khác đến 1,5 triệu người mỗi năm, nhưng đến nay, lực lượng lao động của ta vẫn bộc lộ nhiều yếu kém. Số công nhân lành nghề rất hiếm. Việc tuyển một công nhân có tay nghề cao tại địa bàn Hà Nội khó khăn hơn nhiều việc tuyển một sinh viên tốt nghiệp đại học. Có những doanh nghiệp FDI thuộc ngành cơ khí không tuyển nổi 1 công nhân kỹ thuật dưới 30 tuổi có tay nghề bậc 5. Hầu hết lao động trực tiếp của các doanh nghiệp FDI đều tuyển từ các vùng nông thôn, chưa qua đào tạo. Các nhà quản lý nước ngoài đều có đánh giá chung là lao động Việt Nam tuy chịu khó và cần cù nhưng kinh nghiệm nghề nghiệp ít, không có tác phong công nghiệp cho nên năng suất lao động rất thấp. 5. Khó khăn về cân đối ngoại tệ cho các doanh nghiệp FDI Ngân hàng Nhà nước chỉ cân đối ngoại tệ cho các doanh nghiệp FDI hoạt động trong lĩnh vực xây dựng và kinh doanh các công trình kết cấu hạ tầng hoặc sản xuất hàng thay thế hàng nhập khẩu thiết yếu. Trong điều kiện Nhà nước và doanh nghiệp đều thiếu ngoại tệ thì quy định trên là phù hợp với tình hình thực tiễn. Tuy nhiên, điều đó gây khó khăn cho các doanh nghiệp FDI cân đối ngoại tệ để nhập khẩu nguyên vật liệu, trả nợ gốc, lãi vay nước ngoài...không đảm bảo cho các doanh nghiệp hoạt động bình thường và cản trở việc tiếp tục huy động nguồn vốn FDI. Đi đôi với việc xem xét những mặt tồn tại, trong ta cũng cần phải chú ý học hỏi kinh nghiệm thu hút và sử dụng vốn FDI của các nước khác, đặc biệt là các nước trong khu vực. Trong xu thế liên kết và hòa nhập nền kinh tế thế giới thành một chỉnh thể thống nhất, hầu hết các nước trên thế giới đều tham gia ngày càng tích cực vào quá trình phân công lao động quốc tế. Trong số các hoạt động kinh tế đối ngoại, đầu tư trực tiếp nước ngoài là một hoạt động có vị trí và vai trò ngày càng lớn và được nhiều quốc gia sử dụng như một chính sách kinh tế quan trọng và lâu dài. Bằng các biện pháp và chính sách thích hợp, nhiều nước đang phát triển đã thu được những thành công to lớn trong việc khai thác và sử dụng đầu tư trực tiếp nước ngoài. Nghiên cứu những kinh nghiệm thu hút và sử dụng đầu tư trực tiếp nước ngoài của các nước trên thế giới, đặc biệt là các nước ở Đông Nam á và Nam á có ý nghĩa quan trọng đối với chúng ta. Tuy nhiên, kinh nghiệm thu hút và sử dụng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài xuất phát từ đặc thù của mỗi nước. Mỗi một hình thức sử dụng vốn bên ngoài có tác dụng hiệu quả đến mục tiêu tăng trưởng kinh tế và phù hợp với cách lựa chọn của mỗi nước. Không thể có sự sao chép và áp dụng máy móc phương pháp của một nước này cho một nước khác. Chúng ta phải bằng mọi cách khắc phục triệt để những tồn tại và hạn chế nêu trên thì mới có thể khai thác và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn FDI phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế đất nước. iI. Xác định nhu cầu vốn FDI cho nền kinh tế Việt Nam giai đoạn từ nay đến năm 2005 1. Hiệu quả đầu tư và thực trạng hệ số ICOR ở nước ta ICOR là chỉ tiêu tổng hợp cho phép đánh giá hiệu quả đầu tư của một nền kinh tế, được tính toán trên cơ sở so sánh đầu tư với mức tăng trưởng kinh tế hàng năm. Theo cách tính thông thường và đơn giản nhất, ICOR bằng tỷ lệ đầu tư toàn xã hội so với GDP chia cho tốc độ tăng trưởng kinh tế hàng năm. Về phương diện lý thuyết, khi hệ số ICOR càng thấp, chứng tỏ nền kinh tế càng có hiệu quả, vốn đầu tư bỏ ra tuy ít nhưng tăng trưởng kinh tế đã đạt mức cao theo mong muốn. Tuy nhiên, trên thực tế, ICOR còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác như nền kinh tế đang ở giai đoạn phát triển nào, đã công nghiệp hóa chưa, đó là nền kinh tế “mở” hay “đóng”, mức độ tác động của bối cảnh quốc tế ra sao, chất lượng quản lý Nhà nướctrong đầu tư cao hay thấp, thực trạng tham nhũng trong đầu tư nhiều hay ít... Đối với những nền kinh tế đang ở giai đoạn CNH-HĐH, thông thường, một hệ số ICOR ở mức cao nhưng thấp hơn 10 phản ánh thực tế đã có sự tùy tiện trong khâu lựa chọn dự án và quyết định đầu tư, thiếu những tính toán cụ thể về khả năng sinh lời hoặc khả năng hoàn vốn của dự án, vấp phải các vấn đề về thị trường tiêu thụ sản phẩm đầu ra, nguyên vật liệu đầu vào, giá cả, sức cạnh tranh...Khi phê duyệt còn nặng về quy mô hình thức, thiên về lợi ích trước mắt, chưa quan tâm thực sự đến hiệu quả và lợi ích lâu dài của các dự án đầu tư. Khai thác hệ quả công thức tính ICOR, người ta có thể dự báo được tiềm năng tăng trưởng kinh tế và dự báo tổng mức vốn đầu tư cần thiết cho một giai đoạn phát triển. Tuy nhiên, khi dự báo tổng nhu cầu vốn đầu tư của nền kinh tế thông qua hệ số ICOR cần tôn trọng phép biện chứng và nguyên tắc thận trọng. Trong giai đoạn 2001-2005, với giả định hệ số ICOR bình quân từ 4 đến 4,5; để thực hiện được mục tiêu tăng trưởng kinh tế trên 7% năm, tổng vốn đầu tư cần thiết được tính bằng tích giữa ICOR (4 hoặc 4,5) với tốc độ tăng trưởng kinh tế (7%), đưa tỷ suất đầu tư bình quân đạt từ 28% đến 31,5% GDP. Tính ra, nhu cầu vốn đầu tư cần thiết cho cả 5 năm 2001-2005 dao động trong khoảng từ 765 nghìn tỷ đồng đến 860 nghìn tỷ đồng, tương đương khảng 55 đến 61 tỷ USD theo giá cố định năm 2000. Về mặt toán học, các tính toán này không sai nhưng xét về kinh tế học, dự báo tổng nhu cầu vốn đầu tư nói trên dựa trên cơ sở 2 số liệu dự báo sẽ chỉ cho ra kết quả đáng tin cậy khi các số liệu dự báo đó (ICOR và tăng trưởng kinh tế) có độ tin cậy cao. Hệ số ICOR của Việt Nam thời gian qua Năm 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 ICOR 3.0 2.6 3.7 3.4 3.1 3.1 3.8 4.7 5.5 4 Nguồn : Thời báo kinh tế Việt Nam 2000-2001 Tình hình đầu tư những năm qua cho thấy có một sự phù hợp khá chặt chẽ giữa đầu tư và kết quả tăng trưởng theo mô hình phát triển kinh tế theo chiều rộng, thiên về số lượng. Khi lựa chọn và quyết định đầu tư, hầu như ta chỉ tập trung vào các dự án lớn, vốn nhiều, ít chú ý đến khả năng sinh lời và khả năng hoàn trả vốn đầu tư của từng dự án, chưa coi trọng mức độ hiện đại của công nghệ, chưa quan tâm tới kết cấu ngành và kết cấu kỹ thuật của vốn đầu tư. Phân tích tác động của các yếu tố tới tăng trưởng kinh tế Việt Nam trong thời gian qua cho thấy nguồn vốn đóng vai trò chủ yếu, yếu tố tiến bộ khoa học công nghệ đóng góp vào tăng trưởng khoảng 1,1%-1,2%, bằng mức của Nhật Bản những năm 1960-1970, và giống như mức của Malaixia (1,1%), Singapore (1,2%), và Inđônêxia (1,25%) trong thập kỷ 80 và những năm đầu thập kỷ 90. Dưới đây là số liệu về tốc độ tăng trưởng các yếu tố của kinh tế Việt Nam giai đoạn 1987-1995 do tổ chức phát triển công nghiệp Liên hợp quốc (UNIDO) tính toán năm 1996: Năm Tốc độ tăng trưởng (%) GDP Lao động Vốn Năng suất 1987 2.4 2.1 3.1 -0.1 1988 6.0 1.8 2.5 3.9 1989 8.0 1.6 5.2 5.0 1990 5.1 4.7 3.5 0.9 1991 6.0 2.2 4.8 2.7 1992 8.7 2.7 8.0 3.8 1993 8.1 2.8 10.4 2.2 1994 8.9 2.9 16.3 0.5 1995 9.5 2.7 15.4 1.6 Đối với các nước khác nhau và ở các giai đoạn phát triển khác nhau, việc tăng trưởng của các yếu tố vốn, lao động, tiến bộ khoa học công nghệ có tác động đến tăng trưởng chung của nền kinh tế không giống nhau. Mô hình hóa mối quan hệ giữa tăng trưởng các yếu tố với tăng trưởng của nền kinh tế nước ta giai đoạn 1987-1995 ta được kết quả dưới đây: Gr(G) = - 0,003 + 0,593´ Gr(L) + 0,41´Gr(C) + 0,996 ´ Gr(P) Trong đó: Gr(G), Gr(L), Gr(C), Gr(P) lần lượt là tốc độ tăng trưởng GDP, lao động, vốn và năng suất lao động. Kết quả trên cho thấy trong giai đoạn 1987-1995, khi các yếu tố khác không đổi, lao động tăng 1% sẽ làm GDP tăng 0,593%; khi vốn tăng 1% thì GDP tăng 0,41% và khi năng suất lao động tăng lên 1% sẽ làm cho GDP tăng 0,996%. Ta thấy rằng khi cùng tăng lên 1% thì sự tăng lên của năng suất và lao động có ý nghĩa lớn hơn đối với tăng trưởng chung của nền kinh tế so với yếu tố vốn. Tuy nhiên, trong giai đoạn 1987-1995, sự tăng trưởng kinh tế chủ yếu là do sự tăng trưởng của vốn (45%), tăng năng suất lao động đóng góp 33% và tăng lao động đóng góp 22%. Vốn đầu tư tăng trưởng khá nhanh trong giai đoạn 1991-1997. Tính theo giá 1995, vốn đầu tư năm 1997 gấp 3,6 lần năm 1991, tăng bình quân 24% năm. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tăng 10,5 lần trong cùng thời gian trên. Số liệu 1991-2000 cho một cơ cấu đầu tư toàn xã hội như sau: Đầu tư cho nông lâm ngư nghiệp : 10,37% tổng vốn đầu tư. Đầu tư cho công nghiệp, xây dựng : 41,85% tổng vốn đầu tư. Đầu tư cho dịch vụ : 47,78% tổng vốn đầu tư, trong đó 15,14% cho giao thông, bưu điện, kho bãi. Do việc đánh giá vốn đầu tư toàn xã hội khác nhau nên việc ước tính hệ số ICOR gặp nhiều khó khăn và có điểm chưa thống nhất. Tuy vậy, có thể thấy rằng những năm gần đây để làm thêm ra một đồng GDP số vốn đầu tư ngày càng nhiều lên, ước tính chung cho cả giai đoạn 1996-2000 con số này là trên bốn (tương ứng tỷ trọng đầu tư trên GDP ở mức bình quân 27,5% và nhịp tăng trưởng GDP là 6,8% bình quân năm), nghĩa là để tăng thêm một đồng GDP cần hơn 4 đồng vốn đầu tư. Thực trạng đầu tư, tăng trưởng và hệ số ICOR phản ánh sát thực mô hình kinh tế thiên về số lượng, cơ cấu kinh tế chứa đựng nhiều yếu tố không bền vững, mất cân đối, cần được xử lý; nền kinh tế đòi hỏi những biện pháp cụ thể, dứt khóat nhằm hạ thấp hệ số ICOR thông qua việc đổi mới thực sự cơ cấu đầu tư, tiến tới một sự chuyển dịch rõ nét trong cơ cấu kinh tế, đẩy mạnh tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế. Mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của Đảng và Nhà nướcta trong giai đoạn tới, làm sao trong giai đoạn chiến lược 2001-2010, ta chỉ cần khoảng 4 - 4,5 đồng vốn đầu tư để tạo ra 1 đồng tăng trưởng GDP. Đây là một hệ số hợp lý, có thể chấp nhận được, đảm bảo tăng trưởng nhanh và bền vững, tạo điều kiện thu hẹp khoảng cách tụt hậu so với thế giới. 2. Mục tiêu và định hướng phát triển của nền kinh tế Với những cách tiếp cận khác nhau, dưới những tiền đề khác nhau về điểm xuất phát năm 2000 của Việt Nam, mức tăng trưởng GDP bình quân năm của các giai đoạn 2001-2010 co giãn trong một khoảng khá rộng tùy thuộc vào các yếu tố nội lực và bối cảnh quốc tế. Để tính toán cho các nước đang phát triển, các chuyên gia quốc tế thường ước tính đối với các yếu tố đầu vào: vốn đóng vai trò lớn hơn, từ 60%-70%, lao động đóng góp 30-40%. Khảo sát tình hình tăng trưởng của các nước khu vực trong vòng 30 năm qua cho thấy có thể lấy mức đóng góp của lao động là 35%, của vốn 65% và TFP trong khoảng từ 2% đến 2,5% để mô phỏng cho Việt Nam. Kết quả mô phỏng cho thấy về trung bình mức tăng trưởng 7%-8% năm cho giai đoạn 2001-2010 đối với Việt Nam có thể coi là mức cơ sở. Dựa trên các kết quả phân tích, đánh giá đó Đảng và Nhà nước đã xác định phương án tăng trưởng cho nền kinh tế đến 2010 với giả thiết hết năm 2000 đất nước ta về cơ bản đã chặn được đà suy giảm tăng trưởng; trong giai đoạn đầu đến 2005 các yếu tố nội lực được phát huy tốt, các yếu tố ngoại lực ở mức trung bình (tương ứng với mức tăng trưởng vốn cố định khoảng 7% bình quân năm, thu hút lao động thêm vào các ngành kinh tế quốc dân khoảng 2,5% năm và đóng góp của khoa học công nghệ vào tăng trưởng khoảng 1,8%), việc thực hiện các thoả thuận AFTA vào năm 2006 có thể hạn chế mức tăng trưởng đến 2010. Nhờ chuyển dịch cơ cấu đầu tư nên hiệu quả vốn tăng dần. Theo phương án này, trong giai đoạn 2001-2005 tốc độ tăng trưởng GDP bình quân năm ở mức 7,0%-7,5%. Trong đó, nông nghiệp 3,3%-3,6%, công nghiệp và xây dựng tăng 9%-10%, dịch vụ tăng 6,3%-6,7%. Giai đoạn 2006-2010 tốc độ tăng trưởng GDP bình quân năm đạt 7%-7,5%, trong đó, nông lâm ngư nghiệp tăng 3,2% - 3,4%, công nghiệp và xây dựng tăng 9,5%-10%, dịch vụ tăng 6,4%-6,8%. Với tốc độ tăng trưởng như trên, đến năm 2005 tỷ trọng các ngành nông lâm ngư nghiệp, công nghiệp và xây dựng, dịch vụ trong GDP tương ứng là 21% - 36,9% - 42,1% và đến 2010 là 17,3% - 39,6% - 43,2%. Để tăng gấp đôi GDP trong khoảng 10 năm đòi hỏi một nhịp tăng trưởng bình quân năm khoảng 7,2% trong cả giai đoạn 2001-2010. Để đạt được mục tiêu tăng trưởng đã đề ra, Đảng và Nhà nước ta xác định phải huy động được vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài khoảng 10-12 tỷ USD cho giai đoạn 2001-2005 và 14-16 tỷ USD giai đoạn 2006-2010. Đây là một nhiệm vụ hết sức khó khăn nhất là trong điều kiện nước ta đang phải chịu ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính-tiền tệ khu vực và dòng vốn đầu tư nước ngoài có xu hướng giảm xuống trong những năm gần đây. Xét về mặt lâu dài, luồng FDI vào Châu á nói chung và vào Việt Nam nói riêng chịu ảnh hưởng của hai yếu tố: sự cạnh tranh của khu vực với bên ngoài và sự cạnh tranh giữa các nước trong khu vực. Với tư cách là nước nhận đầu tư, các nước ASEAN, Trung Quốc và Việt Nam là những đối thủ cạnh tranh nhau. Do có lợi thế so sánh gần giống nhau nên trong chiến lược phát triển kinh tế của mình, các nước này có xu hướng bố trí cơ cấu kinh tế giống nhau với các đặc trưng chủ yếu là các ngành có hàm lượng lao động sống và nguyên liệu cao (khai thác tài nguyên thiên nhiên, công nghiệp hàng tiêu dùng, lắp ráp điện tử...), vì vậy tính chất cạnh tranh trong thu hút đầu tư giữa các nước này là rất lớn, khả năng hấp dẫn đầu tư của các thành viên cộng đồng hoàn toàn tuỳ thuộc vào chính sách và môi trường đầu tư của từng nước. Những nước thu hút đầu tư lớn như Trung Quốc, ấn Độ, Inđônêxia và những nước mới bắt đầu tiếp nhận đầu tư như Mianma, Pakixtan...đang trở thành những đối thủ cạnh tranh gay gắt với Việt Nam trong thu hút FDI. Họ không ngừng cải thiện môi trường đầu tư để nâng cao khả năng cạnh tranh thu hút FDI, làm cho nguồn vốn này vốn dĩ đã không tăng, nay lại bị dàn trải nhiều hơn trong bản đồ FDI thế giới. Chính điều đó có ảnh hưởng rất lớn đối với việc thu hút FDI của Việt Nam trong những năm qua, và ắt hẳn sẽ còn tác động lâu dài trong những năm tới. Những xu hướng vận động của các luồng FDI và khả năng tận dụng cơ hội thu hút FDI của Việt Nam trong những năm tới đến mức nào trước hết phụ thuộc vào chính sách, môi trường kinh doanh của đất nước và bối cảnh phát triển hợp tác khu vực. Khó có thể có được dự báo chắc chắn về khả năng thu hút FDI của Việt Nam trong những năm tới. Từ những phân tích trên đây chỉ ra rằng một triển vọng khả quan về FDI khó có thể trở thành hiện thực nếu Việt Nam không nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế trước sức ép của những biến động kinh tế bất thường khu vực và thế giới. Tuy nhiên, nếu có những giải pháp đúng đắn và đồng bộ, chúng ta hoàn toàn có khả năng đạt được mục tiêu này. Sự ổn định chính trị - xã hội cùng với chính sách nhất quán và lâu dài của Việt Nam trong hội nhập với khu vực và thế giới và những lợi thế vốn có về tài nguyên, con người sẽ vẫn là những thế mạnh của môi trường đầu tư Việt Nam. IIi. Giải pháp huy động và sử dụng hiệu quả vốn fdi đáp ứng yêu cầu phát triển của nền kinh tế Trên cơ sở phân tích những thuận lợi, khó khăn và dựa vào kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2001-2005, các chuyên gia quản lý đầu tư nước dự kiến vốn thực hiện của các dự án đầu tư nước ngoài trong 5 năm tới sẽ có nhu cầu khoảng trên 11 tỷ USD (theo giá năm 2000), chiếm khoảng 18-20% vốn đầu tư toàn xã hội. Trong đó, vốn thực hiện từ các dự án đã cấp phép trước năm 2001 sẽ tiếp tục triển khai (khoảng 4-5 tỷ USD), từ các dự án hoạt động hiệu quả sẽ tăng vốn (khoảng 2 tỷ USD) và vốn thực hiện của các dự án cấp mới (khoảng 4-5 tỷ USD). Để thực hiện được nhiệm vụ này và nâng cao hiệu quả hoạt động trong lĩnh vực đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam, phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế lâu dài của đất nước theo hướng CNH-HĐH, từng bước hội nhập với khu vực và thế giới, cần phải nghiên cứu đề ra một hệ thống các giải pháp trước mắt và lâu dài đồng thời thực hiện các giải pháp đó một cách đồng bộ. Một trong những giải pháp hàng đầu đẩy mạnh công tác thu hút ĐTNN cho giai đoạn 2001-2005 là cần thống nhất nhận thức, xây dựng chiến lược là nâng cao chất lượng quy hoạch thu hút ĐTNN, coi việc quy hoạch ĐTNN như là một bộ phận trong quy hoạch tổng thể các nguồn lực nói chung của cả nước, gắn với quy hoạch ngành, lãnh thổ, từng sản phẩm, dịch vụ chủ yếu, kết hợp ngay từ đầu với an ninh, quốc phòng. Dưới đây sẽ xem xét cụ thể hơn: 1. Những giải pháp trước mắt Tiếp tục triển khai có hiệu quả Nghị định số 10/1998/NĐ-CP của Chính phủ về một số biện pháp khuyến khích và đảm bảo hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam vì trong nghị định này đã giải quyết nhiều vấn đề liên quan đến thủ tục triển khai dự án, cách đánh thuế XNK, thuế lợi tức, cụ thể hóa những ngành, những vùng ưu tiên, ưu đãi đầu tư...nhằm khuyến khích, tạo môi trường thuận lợi cho việc thu hút vốn FDI. Tạo mọi điều kiện thuận lợi để các dự án đã triển khai hoạt động mở rộng, tăng công suất hiện có, tránh cho phép đầu tư vào các ngành còn dư thừa năng lực Xử lý linh hoạt hơn nữa hình thức đầu tư, khuyến khích hình thức doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài đối với những dự án công nghệ cao, công nghệ mới; các dự án có quy mô vốn đầu tư lớn, thời gian hoàn vốn dài, độ rủi ro cao. Cho phép linh hoạt chuyển đổi hình thức đầu tư từ liên doanh thành doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài trong trường hợp thua lỗ kéo dài hoặc mâu thuẫn nghiêm trọng, có nguy cơ đổ vỡ hoặc đang hoạt động bình thường nhưng đối tác trong nước muốn rút vốn đầu tư vào dự án khác có hiệu quả hơn. Các văn bản pháp lý của Nhà nước liên quan đến hoạt động đầu tư FDI cần được dịch ra tiếng Anh ngay từ cấp ban hành và tổ chức thông tin công khai ở tất cả các cấp, các ngành, các đơn vị có liên quan để tránh sự diễn giải và áp dụng tùy tiện gây phiền nhiễu cho các nhà đầu tư nước ngoài. Tiếp tục thành lập các hiệp hội kinh doanh của giới doanh nhân các nước tại Việt Nam, duy trì thường xuyên các cuộc tiếp xúc, hội thảo giữa Chính phủ, cán bộ với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, xử lý kịp thời các vấn đề phát sinh trong quá trình sản xuất kinh doanh của họ. Thành lập một trung tâm đầu mối để giải quyết các vướng mắc có liên quan đến hoạt động của các doanh nghiệp có vốn FDI. Cần đổi mới và đẩy mạnh công tác vận động, xúc tiến đầu tư. Thực hiện giảm tiền thuê đất, đối với những vùng kinh tế khó khăn chỉ thu tiền thuê đất tượng trưng để giữ chủ quyền đất. Khuyến khích và ưu đãi hơn nữa các dự án đầu tư vào lĩnh vực nông-lâm-ngư nghiệp và đầu tư vào vùng núi, vùng sâu, vùng xa. Cho phép các doanh nghiệp ngoài quốc doanh góp vốn liên doanh bằng quyền sử dụng đất. Tổ chức theo dõi, rà soát khâu tổ chức thực hiện luật như: hải quan, thuế, cơ quan quản lý đất.. chống quan liêu, cửa quyền, tránh sự phiền hà và chi phí cho các nhà đầu tư. Kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng ở tất cả các khâu, các cấp. Xử lý nghiêm khắc những hiện tượng tham nhũng, làm trái với quy định pháp luật của các cán bộ thừa hành, góp phần làm trong sạch môi trường đầu tư. áp dụng các biện pháp mạnh mẽ, có hiệu quả để chống nạn buôn lậu, chống hàng giả, hàng nhái, chống gian lận thương mại... 2. Các biện pháp lâu dài Sớm xây dựng một hệ thống luật thống nhất và hoàn chỉnh, ban hành những luật còn thiếu, tạo môi trường pháp lý đầy đủ cho các nhà đầu tư hoạt động. Nghiên cứu tiến tới xây dựng một luật đầu tư chung cho cả các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Chính sách đầu tư cần ổn định và nhất quán, đặc biệt chính sách thuế vì nó ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích của nhà đầu tư nước ngoài. Khắc phục tình trạng chồng chéo, không thống nhất giữa các văn bản pháp luật liên quan đến hoạt động của các doanh nghiệp FDI. Ban hành quy chế tài chính riêng cho các doanh nghiệp FDI để quản lý và giám sát các doanh nghiệp này chặt chẽ hơn. Đồng thời cần có chính sách quy định về chống độc quyền, bán phá giá, chống gian lận thương mại để tránh hiện tượng chuyển giá nội bộ giữa các doanh nghiệp FDI. Đẩy mạnh khâu quy hoạch, nghiên cứu kinh nghiệm của các nước và điều kiện cụ thể của Việt Nam, sớm xây dựng và công bố công khai quy hoạch đầu tư dài hạn của Việt Nam, công bố rộng rãi, rõ ràng các danh mục ngành, lĩnh vực và dự án rất khuyến khích đầu tư, khuyến khích, không khuyến khích và không cho phép ĐTTTNN. Mở rộng hơn nữa các loại hình doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài để mở rộng cơ hội lựa chọn cho các nhà đầu tư. Tiếp tục hoàn thiện thủ tục đầu tư sao cho khoa học, đơn giản và thuận tiện. Bằng những quy định được công bố công khai và các hành động cụ thể tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư. Xét duyệt và công khai chính sách thuế XNK của Việt Nam khi buôn bán với các nước và với các nước AFTA từ đây đến năm 2006 khi Việt Nam thực hiện xong chương trình cắt giảm thuế CEPT. Việc này giúp các nhà đầu tư hoạch định chính sách sản phẩm của mình trong tương lai. Tiếp tục cải tổ khu vực doanh nghiệp nhà nước, tài chính nhân hàng, phát triển khu vực kinh tế tư nhân và phải coi đây là động lực thu hút đầu tư và phát triển. Cải cách hơn nữa nền kinh tế để có đủ điều kiện gia nhập các tổ chức WTO và APEC. Nhà nước cần quan tâm hơn nữa vào phát triển hạ tầng cơ sở vì kinh nghiệm cho thấy muốn thu hút được 1 đồng vốn nước ngoài thì nước chủ nhà phải bỏ ra hơn 2 đồng để phát triển cơ sở hạ tầng. ổn định hơn nữa môi trường kinh tế vĩ mô, giữ vững tốc độ tăng trưởng kinh tế, có chế độ tỷ giá hối đoái uyển chuyển và phù hợp, những chính sách bảo hộ thương mại hữu hiệu.. Hướng hoạt động của các doanh nghiệp FDI cho phù hợp với yêu cầu hội nhập vào khu vực và thế giới của Việt Nam. Đối với những ngành hàng ta có lợi thế so sánh cao như nông sản và các sản phẩm sử dụng nhiều lao động thì nên đầu tư nhiều hơn. Đối với nông nghiệp nên tập trung cho việc xây dựng cơ sở hạ tầng ở nông thôn và đặc biệt là chế biến nông sản, mở rộng đầu mối xuất khẩu nông sản. Đối với các sản phẩm sử dụng nhiều lao động như dệt may, da giày..thì điều quan trọng là thị trường, chất lượng và mẫu mã. Một số mặt hàng ta không có lợi thế so sánh cao thì không nên đầu tư xây dựng mới mà chỉ nên củng cố những dự án đã có để sử dụng hết công suất, đặc biệt là khâu cung ứng nguyên liệu. Các doanh nghiệp có vốn FDI phải hướng mạnh vào xuất khẩu hơn nữa vì sức mua của thị trường Việt Nam còn khá thấp, chưa là động lực tích cực để thúc đẩy hoạt động của các doanh nghiệp, đồng thời nó cũng đúng với kinh nghiệm thực tế của nhiều nước trong khu vực: tăng cường năng lực xuất khẩu phải là mục tiêu số một của các doanh nghiệp FDI. Muốn vậy, nhà nước cần tiếp tục có những hỗ trợ về thuế, giá cả, đơn giản hóa thủ tục xuất nhập khẩu. Chú trọng thu hút các nhà đầu tư mạnh, có những ưu đãi đặc biệt để thu hút đầu tư vào các ngành công nghệ cao, kỹ thuật hiện đại. Cần quan tâm hơn nữa đến đội ngũ trí thức trong và ngoài nước, khơi dậy và phát huy lòng yêu nước, tự hào dân tộc của lực lượng này bởi vì họ có thể làm cầu nối, lựa chọn công nghệ hiện đại và đưa các nhà đầu tư mạnh về Việt Nam. Chú trọng hơn nữa việc đào tạo đội ngũ các nhà quản trị giỏi cho nước nhà để làm đối tác với các nhà đầu tư mạnh. Cần đầu tư thích đáng và có cải cách triệt để trong hệ thống giáo dục và đào tạo. Xây dựng chương trình, cách dạy và cách học sao cho khoa học và phù hợp ở các cấp đặc biệt là các trường dạy nghề, công nhân kỹ thuật nhằm nâng cao chất lượng lao động Việt Nam. Trên đây chỉ là những giải pháp có tính định hướng cơ bản. Để thực hiện được mục tiêu thu hút và sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế đất nước, chúng ta cần phải cụ thể hóa những giải pháp định hướng trên nhằm quản lý và điều hành FDI một cách hữu hiệu, đảm bảo cân bằng giữa các ngành, các vùng cũng như các loại hình đầu tư, phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế xã hội và đóng góp ngày càng nhiều vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Trong quá trình thực hiện phải thực sự sáng suốt, linh hoạt, đảm bảo các chính sách quy định luôn phù hợp với điều kiện cụ thể trong nước và bối cảnh quốc tế của từng giai đoạn, từng thời kỳ. Điều này đòi hỏi sự nỗ lực và quyết tâm của tất cả các cơ quan, bộ ngành, các doanh nghiệp và của mỗi cá nhân vì sự phát triển chung của đất nước Việt Nam. Các kiến nghị đối với ngành ngân hàng để thúc đẩy nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài Về mặt củng cố môi trường pháp lý, NHNN sẽ cụ thể hoá hai bộ Luật về ngân hàng... Trong thời gian tới NHNN sẽ tiếp...Đất nước kết luận Quốc tế hóa đời sống kinh tế là một xu hướng khách quan, là sự phát triển tất yếu của nền sản xuất xã hội, trên cơ sở sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất. Xu hướng này đã lôi kéo tất cả các nước trên thế giới, dù muốn hay không cũng phải từng bước hội nhập vào quỹ đạo của nền kinh tế thế giới. Trong quá trình quốc tế hóa đời sống kinh tế quốc tế, hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài có vị trí và vai trò ngày càng quan trọng, nó đã và đang là nhân tố cơ bản cấu thành và quy định xu hướng phát triển của các quan hệ kinh tế quốc tế. Một mặt, đầu tư nước ngoài hiện là hoạt động cơ bản của quan hệ kinh tế quốc tế, mặt khác nó là nhân tố đẩy nhanh quá trình hội nhập vào nền kinh tế thế giới của các nước đang phát triển. Đầu tư trực tiếp nước ngoài đã đóng góp một phần tích cực trong công cuộc đổi mới kinh tế của Việt Nam hơn 10 năm qua. ý nghĩa của nó không chỉ dừng lại ở những kết quả thống kê về mức sản lượng, doanh thu, giá trị kim ngạch xuất khẩu tỷ lệ đóng góp vào GDP, số chỗ làm việc tạo ra...mà điều quan trọng là từ một “cú hích” ban đầu, ĐTTTNN đã đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam để có thể thoát ra khỏi cái vòng luẩn quẩn, tránh nguy cơ tụt hậu phát triển so với các nước và từng bước hội nhập với kinh tế khu vực và thế giới. Tất nhiên bên cạnh những ưu điểm của ĐTTTNN cũng còn nhiều vấn đề còn phải bàn như hiện tượng chảy máu chất xám, ô nhiễm môi trường, vi phạm quyền lợi của người lao động cả về vật chất lẫn phẩm giá và lòng tự trọng dân tộc...Mặc dù vậy, không thể chối cãi một điều là ĐTTTNN đã trở thành một bộ phận của nền kinh tế quốc dân. Mỗi chính sách kinh tế, mỗi biến động tài chính tiền tệ, mỗi chiến lược phát triển đều có bóng dáng của ĐTTTNN. Đảng và Nhà nước ta xác định sự thành đạt của các nhà đầu tư gắn liền với sự thành công của Việt Nam , mọi mất mát rủi ro của nhà đầu tư cũng là rủi ro mất mát của Việt Nam và đã tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất, thông thoáng nhất cho các nhà đầu tư nước ngoài làm ăn tại Việt Nam nhằm khai thác và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn FDI phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế đất nước. Chúng ta cần nghiên cứu và giải quyết một cách triệt để những vấn đề đang đặt ra và hoàn thiện các chính sách đối với hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài để thu hút ngày càng nhiều vốn đầu tư nước ngoài, phát huy tốt nhất những mặt tích cực và hạn chế tối đa mặt tiêu cực của FDI . Hy vọng rằng cùng với tiến trình phát triển của đất nước, các doanh nghiệp FDI không ngừng hoàn thiện, phát triển và khẳng định mình, góp phần vào tăng trưởng kinh tế, thúc đẩy công cuộc đổi mới đất nước, đưa Việt Nam bước lên tầm cao mới. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc34089.doc
Tài liệu liên quan