Lời mở đầu
Việt Nam chúng ta hiện nay là một nước đang phát triển, nền kinh tế mới được chuyển đổi từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường nên vẫn còn gặp nhiều kho khăn, mặt khác nền kinh tế nước ta vẫn còn rất nghèo nàn và lạc hậu. Do đó mà nhà nước ta đã đề ra phương hướng phát triển kinh tế đất nước là thực hiện công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước, nhanh chóng đưa đất nước hội nhập vào nền kinh tế thế giới.
Như chúng ta đã biết, tăng trưởng kinh tế là một nhân tố qu
33 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1339 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
an trọng quyết định tới sự phát triển hay tụt hậu của một nền kinh tế ,từ đó nó quyết định mức sống của người dân một nước. Một đất nước có tốc độ tăng trưởng cao (GDP cao ) tức là năng suất lao động của người dân nước đó cao ,do đó mà mức sống của họ cũng cao hơn .Hàng hoá và dich vụ được cung cấp không những đáp ứng được đủ nhu cầu trong nươc mà còn đem xuất khẩu và ngược lại . Có rất nhiều nhân tố ảnh hưởng tới tăng trưởng của một quốc gia như vốn, tài nguyên thiên nhiên, trình độ lao động, tri thức công nghệ, trong đó vốn đóng một vai trò hết sức quan trọngđặc biệt là đói với những nước đang phát triển như nước ta hiện nay. Vốn có thể được huy động từ những nguồn vốn trong nước nhưng cũng có thể huy động vốn cho nền kinh tế bằng cách thu hút đầu tư nước ngoài.
Trong tình hình đó thì Việt Nam ta hiện nay chỉ là một nước có tốc độ tăng trưởng và phát triển ở mức trung bình. Mặc dù có rất nhiều điều kiện thuận lợi như: tài nguyên thiên nhiên phong phú, lưc lượng nhân công dồi dào... Ngoài ra nước ta còn là một nước có tình hình chính trị và trật tự an ninh ổn định nhất trong khu vực , kinh tế tương đối phát triển. Chính phủ ta đang thực hiện nâng cấp, xây mới và phát triển các cơ sở hạ tầng. Đây chính là môi trường thuận lợi để thu hút được nhiều các dự án đầu tư . Nhưng bên cạnh những thuận lợi thì vẫn còn tồn tại nhiều khó khăn và hạn chế, đó là :nguồn vốn vẫn còn hạn hẹp, công tác đào tạo cán bộ vẫn chưa thực sự chất nên trình độ nhân lực không cao, về mặt kĩ thuật thì còn rất lạc hậu, tri thức công nghệ còn thấp nên chưa áp dụng được khoa học công nghệ vào sản xuất, do đó mà năng suất lao động còn thấp vẫn chưa đáp ứng đủ nhu cầu tiêu dùng trong nước, vẫn còn phải nhập khẩu một số mặt hàng thiết yếu .
Mà đầu tư nước ngoài lại là giải pháp tốt nhất để nước ta có thể giải quyết được những mặt hạn chế còn tồn đọng trong nền kinh tế hiện nay. Do đó nhà nước ta đã đề ra nhiều chính sách để khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam. Bởi đầu tư nước ngoài sẽ cung cấp cho ta một nguồn vốn lớn, điều đó có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với sự nghiệp phát triển kinh tế đất nước, nó sẽ đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng GDP, giúp ta tranh thủ về vốn và qua đó học hỏi được những kinh nghiệm quản lý kinh tế của các nước bạn. Từ đó cho thấy đầu tư nước ngoài là con đường ngắn nhất để nước ta khắc phục được những mặt hạn chế của nền kinh tế.
Thu hút đầu tư nước ngoài là một chính sách lớn của Đảng và nhà nước ta trong giai đoạn hiện nay. Đây cũng là một đề tài hấp dẫn đối với nhiều nhà phân tích kinh tế, còn đối với bản thân em là một sinh viên kinh tế cũng mong muốn được đóng góp một chút hiểu biết của mình về vấn đề này. Vì vậy mà em đã chọn đề tài “đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam” với hi vọng sẽ hiểu rõ hơn về nền kinh tế nước nhà.
Với hiểu biết còn hạn chế nên bài viết còn nhiều sai sót , em rất mong sự đóng góp ý kiến của cô cũng như các bạn trong lớp.Em xin chân thành cảm ơn cô giáo đã tận tình hướng dẫn em hoàn thành bài viết này!
Phần nội dung
Đầu tư có hai loại : đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp. Nhưng ở đây chúng ta chỉ đi sâu nghiên cứu lĩnh vực đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam.
Vậy đầu tư trực tiếp là gì ?
1/ Quan niệm về đầu tư trực tiếp và vai trò của nó đối với công nghiệp hoá ,hiện đại hoá ở Việt Nam.
Theo các nhà hoạch định kinh tế thì các khoản đầu tư thuộc quyền sở hữu và được điều hành bởi một thực thể nước ngoài gọi là đầu tư nước ngoài trực tiếp .Vậy vai trò của nó là gì ?
1.1/ Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài là nguồn vốn quan trọng bổ sung cho nguồn vốn đầu tư phát triển và là một trong những điều kiện tiên quyết để Việt Nam thực hiện và đẩy nhanh sự nghiệp công nghiệp hoá ,hiện đại hoá đất nước.
Từ khi ban hành luật đầu tư nước ngoài vào Việt Nam cho đến nay, vốn đầu tư nước ngoài thực hiện tại Việt Nam tăng , xây dựng cơ bản của các dự án đầu tư nước ngoài cũng tăng . Đối với một nền kinh tế có quy mô như nước ta thì đây là lượng vốn đầu tư không nhỏ , nó có vai trò như “chất xúc tác - điều kiện “ để việc đầu tư của ta đạt hiệu quả.Vốn đầu tư xây dựng cơ bản từ các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài cao hơn hẳn số vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước cùng thời kì,vốn ngân sách nhà nước dành cho xây dựng cơ bản chỉ bằng 82,4% vốn từ các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài dành cho lĩnh vực này.
Vốn đầu tư nước ngoài là nguồn vốn bổ sung quan trọng giúp Việt Nam phát triển một nền kinh tế bền vững, cân đối theo yêu cầu của công cuộc CNH,HĐH.
Hoạt động đầu tư nước ngoài đã đóng góp một phần quan trọng vào tổng GDP ,tạo nguồn thu ngân sách lớn cho đất nước. Tuy phần lớn doanh nghiệp đầu tư nước ngoài đang trong thời kì hưởng ưu đãi về thuế nhưng nguồn thu ngân sách từ khu vực này liên tục gia tăng (1996:263 triệu USD ,1997:340 triệu 1998:370 triệu ) chiếm khoảng 6-7% tổng thu thuế và phí của ngân sách nhà nước (nếu tính cả nguồn thu từ dầu khí thì tỉ lệ này đạt 20%).
Về định tính, sự hoạt động của đồng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài như là một trong những động lực gây phản ứng dây chuyền làm thúc đẩy sự hoạt động của đồng vốn trong nước và một chuyên gia kinh tế đã tính toán được rằng cứ một đồng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài hoạt động sẽ làm cho bốn đồng vốn trong nước hoạt động theo.
1.2/ Hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài góp phần tạo ra năng lực sản xuất mới, ngành nghề mới, sản phẩm mới, công nghệ mới, phương thức sản xuất kinh doanh mới, làm cho nền kinh tế nước ta từng bước chuyển biến theo nền kinh tế thị trường hiện đại, góp phần chuyển dịnh cơ cấu kinh tế theo hướng CNH:
Khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài luôn có chỉ số phát triển cao hơn chỉ số phát triển của các thành phần kinh tế khác và cao hơn hẳn chỉ số phát triển chung của cả nước. Còn tỉ trọng của khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài trong tổng sản phẩm trong nước cũng có xu hướng tăng lên tương đối ổn định (1997= 9,07%; 1998=10,12%; 1999=10,3%).
Đối với ngành công nghiệp các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoàikhông những chiếm tỉ trọng cao mà còn có xu hướng tăng lên đáng kể trong tổng giá trị sản xuất của toàn ngành. Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài luôn tạo ra hơn 25% giá trị sản xuất của toàn ngành công nghiệp. Tỉ trọng giá trị sản xuất của khu vực này tăng từ 26,73% (năm 1996) lên 34,73% (năm 1999).
Trong ngành công nghiệp khai thác, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đang có vị trí hàng đầu với tỉ trọng 79% giá trị sản xuất của toàn ngành. Đặc biệt giá trị của ngành sản xuất dầu thô và khí tự nhiên chủ yếu do các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tạo ra.
Còn trong công nghiệp chế biến, tỉ trọng giá trị sản xuất của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chiếm khoảng 22%và có xu hướng ngày càng tăng từ : 20,1%(năm 1996) lên 25,3%(năm 1998).
Các công nghệ đang sử dụng trong lĩnh vực dầu khí, viễn thông, hoá chất... đều thuộc loại công nghệ hiện đại và các công nghệ này thực sự đã góp phần tạo nên bước ngoặt tích cực trong quá trình phát triển kinh tế của nước ta. Đa số công nghệ sử dụng trong các ngành công nghiệp điện tử, hoá chất, ô tô, xe máy, vật liệu xây dựng đều là những dây chuyền tự động hoá tương đối hiện đại. Một số sản phẩm điện tử ,vi mạch, người máy công nghiệp được sản xuất bằng công nghệ tiên tiến. Các khách sạn, văn phòng cho thuê đều được trang bị các thiết bị hiện đại đạt tiêu chuẩn quốc tế.
Đối với ngành nông nghiệp : đầu tư nước ngoài góp phần làm nâng cao năng lực sản xuất cho ngành nông nghiệp, chuyển giao cho lĩnh vực này nhiều giống cây, giống con, tạo ra nhiều sản phẩm chất lượng cao, góp phần thúc đẩy quá trình đa dạng hoá sản xuất nông nghiệp và khả năng cạnh tranh của nông lâm sản hàng hoá. Vốn đầu tư nước ngoài còn góp phần làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông lâm nghiệp theo yêu cầu của nền kinh tế CNH, HĐH. Nếu như trứoc đây đầu tư nước ngoài chủ yếu tập trung vào lĩnh vực chế biên gỗ, lâm sản... thì những năm gần đây nhiều dự án đã đầu tư vào lĩnh vực sản xuất giống, trồng trọt, sản xuất thức ăn chăn nuôi, mía đường, trồng rừng, sản xuất nguyên liệu giấy, chăn nuôi...
Một vấn đề nữa rất quan trọng là nếu như trước đây, các doanh nghiệp Việt Nam chỉ biết kinh doanh thụ động theo sự chỉ định kế hoạch của cấp trên, không cần đầu tư, cải tiến, không cần tìm hiểu thị trường, quảng cáo, tiếp thị, sản phẩm sản xuất ra không bị cạnh tranh... thì sự xuất hiện của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã thực sự trở thành nhân tố tác động mạnh làm thay đổi căn bản phương thức sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp Việt Nam theo hướng tích cực và ngày càng thích nghi với nền kinh tế thị trường.
Sự xuất hiện của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã đương nhiên đặt các doanh nghiệp Việt Nam trong hoàn cảnh bắt buộc tham gia vào cuộc cạnh tranh về mọi mặt để xác định khả năng tồn tại hay phá sản. Để có thể tồn tại được, các doanh nghiệp Việt Nam chỉ còn con đường là phải thay đổi một cách căn bản về công nghệ, phương thức sản xuất kinh doanh, trình độ của người lao động...Theo phản ứng dây chuyền như trên, một mặt tạo cho các doanh nghiệp Việt Nam có điều kiện tiếp cận và bắt nhịp được vào quỹ đạo của sự phát triển. Đầu tư nước ngoài thực sự đã trở thành lực lượng có điều kiện để giải những bài toán khó mà các nhà đầu tư trong nước thường gặp và khó giải quyết. Khi đầu tư trực tiếp nước ngoài hoạt động, phát huy hiệu quả những sẽ tạo ra môi trường thuận lợi, cùng các yếu tố hấp dẫn thu hút các nhà đầu tư trong nước bỏ vốn đầu tư sản xuất kinh doanh, mà còn cho du nhập vào Việt Nam những phương thức kinh doanh mới trong việc tiếp thị mua bán hàng hoá, dịch vụ, du lịch, tạo ra sự cạnh tranh trên thị trường cũng như hình thành nên một số loại thị trường mới như thị trường lao động, thị trường bất động sản, thị trường vốn, thị trường dịch vụ, thị trường nguyên vật liệu...
1.3/ Hoạt động của các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài đã tạo ra một số lượng lớn chỗ làm việc trực tiếp và gián tiếp có thu nhập cao, đồng thời góp phần hình thành cơ chế thúc đẩy việc nâng cao năng lực cho người lao động Việt Nam. Con số người lao động Việt Nam làm việc tại các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng mạnh. Số lao động làm việc trong các bộ phận có liên quan đến hoạt động của các dự án đầu tư nước ngoài bằng khoảng 39% tổng lao động bình quân hàng năm trong khu vực nhà nước.
Thu nhập của những người lao động làm việc trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tương đối cao khoảng 200USD/tháng. Đây là yếu tố hấp dẫn đối với lao động Việt Nam do đó đã tạo ra sự cạnh tranh nhất định trên thị trường lao động. Tuy nhiên, lao động làm việc trong các doanh nghiệp này đòi hỏi cường độ lao động cao, kỉ luật lao động nghiêm khắc... đúng với yêu cầu lao động trong nền sản xuất hiện đại, trong một số lĩnh vực còn yêu cầu cao về trình độ, tay nghề, học vấn, ngoại ngữ...Sự hấp dẫn về thu nhập cùng với đòi hỏi cao về trình độ là những yếu tố tạo nên cơ chế buộc người lao động Việt Nam có ý thức tự tu dưỡng rèn luyện tự nâng cao trình độ và tay nghề để có thể đủ điều kiện tuyển chịn vào làm việc tại các doanh nghiệp loại này. Theo các đánh giá của chuyên gia số công nhân làm việc tại các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đều được bồi dưỡng trưởng thành và tạo nên một đội ngũ công nhân lành nghề, đáp ứng được yêu cầu lao động đối với nền sản xuất tiên tiến.
Về đội ngũ cán bộ quản lý kinh doanh: trước khi bước vào cơ chế thị trường, chúng ta chưa có nhiều nhà doanh nghiệp giỏi có khả năng tổ chức sản xuất kinh doanh có hiệu quả trong môi trường cạnh tranh. Khi các dự án đầu tư nước ngoài hoạt động, các nhà đầu tư nước ngoài đưa vào Việt Nam những chuyên gia giỏi, đồng thời áp dụng những chế độ quản lý, tổ chức, kinh doanh hiệ đại nhằm thực hiện dự án có hiệu quả. Đây chính là điều kiện tốt một mặt để các doanh nghiệp Việt Nam tiếp cận học tập và nâng cao trình độ, kinh nghiệm quản lý, mặt khác để liên doanh có thể hoạt động tốt, nhà đầu tư nước ngoài cũng buộc phải đào tạo cán bộ quản lýcũng như lao động Việt Nam đến một trình độ đủ để đáp ứng được yêu cầu kĩ thuật, công nghệ đang sử dụng trong các dự án. Như vậy dù không muốn thì các nhà đầu tư nước ngoài cũng phải tham gia vào công tác đào tạo nguồn nhân lực Việt Nam.
1.4/Đầu tư trực tiếp nước ngoài thúc đẩy quá trình mở cửa và hội nhập của nền kinh tế Việt Nam với thế giới, nó là một trong những phương thức đưa hàng hoá sản xuất tại Việt Nam xâm nhập thị trường nước ngoài một cách có lợi nhất.
Các nhà đầu tư nước ngoài thông qua thực hiệ dự án đầu tư đã trở thành “cầu nối”, là điều kiệ tốt nhất để Việt Nam nhanh chóng tiếp cận và tiến hành hợp tác được với nhiều quốc gia, nhiều tổ chức quốc tế, cũng như những trung tâm kinh tế kĩ thuật, công nghệ mạnh của thế giới.
Một vấn đề nữa không kém phần quan trọng là hoạt động của đầu tư trực tiếp nước ngoài đã giúp Việt Nam mở rộng hơn thị phần ở nước ngoài. Đối với những hàng hoá xuất khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, vô hình chung đã biến các bạn hàng truyền thống của các nhà đầu tư nước ngoài tại Việt Nam thành bạn hàng của Việt Nam, nhờ có những lợi thế trong hoạt động thị trường thế giới nên tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài cao hơn tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu của cả nước và cao hơn hẳn kim ngạch xuất khẩu của các doanh nghiệp trong nước.
Về chủng loại hàng hoá xuất khẩu, nếu không kể đầu thô, ưu điểm hơn hẳn các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài so với hàng hoá xuất khẩu của doanh nghiệp trong nước là ở chỗ chúng chủ yếu là hàng công nghiệp chế biến và chế tạo, trong đó có nhiều sản phẩm thuộc công nghệ cao như bảng mạch in điện tử, máy thu hình, video, người máy...
Tóm lại, hoạt động của đầu tư trực tiếp nước ngoài vừa qua đã góp phần làm chuyển biến nền kinh tế Việt Nam theo hướng của một nền kinh tế CNH. Đối với Việt Nam, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đóng vai trò như lực khởi động, như một trong những điều kiện đảm bảo cho sự thành công của công cuộc CNH, HĐH. Một số dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài đã góp phần làm vực đạy một số doanh nghiệp Việt Nam đang trong điều kiện khó khăn, sản xuất đình đốn , có nguy cơ phá sản. Không những thế nó còn góp phần hình thành nhiều ngành nghề sản xuất mới, cũng như nhiều sản phẩm mới. Vì khả năng thu hồi vốn và có lãi phụ thuộc hoàn toàn vào kết quả sản xuất kinh doanh nên các nhà đầu tư nước ngoài thường tính toán cân nhắc kĩ lưỡng khi đưa vào Việt Nam những thiết bị, kĩ thuật, công nghệ tiên tiến hiện đại hoặc ở mức thấp nhất cũng còn có khả năng phát huy được hiệu quả nhất định. Đầu tư trực tiếp nước ngoài là một trong những kênh đưa nền kinh tế Việt Nam hội nhập thế giới tương đối có hiệu quả. Là khu vực hấp dẫn tạo ra nhiều việc làm và nâng cao năng lực cho người lao động Việt Nam. Là môi trường lý tưởng dể chúng ta học hỏi, tiếp thu kinh nghiệm quản lý, khả năng tổ chức sản xuất kinh doanh của nền kinh tế thị trường hiện đại. Là điều kiện tốt nhất để Việt Nam mở rộng thị trường cả trong và ngoài nước.
2/ Tình hình đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam từ năm 1988 đến nay:
a/ Giai đoạn 1988-1996:
Từ khi Luật Đầu tư nước ngoài được ban hành năm 1987 tới tháng 8 năm 2001, Việt Nam đã cấp giấy phép cho 3625 dự án đầu tư với tổng số vốn đầu tư đạt khoảng 46,5 tỷ USD ( kể cả tăng vốn cho các dự án đã cấp giấy phép đầu tư ). Trong đó đã có 33 dự án hết hạn với tổng số vốn đầu tư 0,3 tỷ USD và 705 dự án giải thể với tổng số vốn khoảng 9 tỷ USD. Như vậy hiện còn 2892 dự án có hiệu lực với số vốn đầu tư đạt 37,2 tỷ USD.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài trong hơn một thập kỷ qua có thể được nhìn nhận qua hai giai đoạn với hai xu hướng phát triển khác biệt nhau. Giai đoạn trước năm 1996, đầu tư trực tiếp nước ngoài tiếp tục gia tăng cả về dự và số vốn đầu tư, đạt mức kỷ lục là 8,6 tỷ USD về tổng số vốn đăng ký vào năm 1996. Trong giai đoạn này, tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt khoảng 50%/năm. Đầu tư trực tiếp nước ngoài đã tăng đáng kể từ mức 37 dự án với tổng số vốn đầu tư đăng ký là 371,8 triệu USD năm 1988 lên 326 dự án với tổng số vốn đầu tư đăng ký là 8640 triệu USD năm 1996.
Ta có bảng dự liệu sau về nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài được cấp giấy phép trong giai đoạn 1988-1996:
Đơn vị tính: triệu USD
Năm
Số dự án
Tổng vốn đăng ký
(triệu USD)
Vốn pháp định
( triệu USD)
1988
37
371,8
288,4
1989
68
582,5
311,5
1990
108
839
407,5
1991
151
1322,3
663,6
1992
197
2165
1418
1993
269
2900
1468
1994
343
3765,6
1729
1995
370
6530,8
2986,6
1996
326
8640,3
2940,8
Ngồn: niên giám thống kê, tổng cục thống kê.
b/ Giai đoạn từ năm 1996 đến nay:
Kể từ năm 1997 đến nay đặc biệt từ khi cuộc khủng hoảng tài chính-tiền tệ khu vực vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam liên tục giảm mạnh do Việt Nam còn phải đương đầu với nhiều vấn đề khó khăn và thực tế số dự án và vốn đầu tư giải thể trong giai đoạn 1996-2000 tăng cao hơn nhiều so với giai đoạn trước. Từ năm 1997 đến năm 2000 vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài giảm trung bình khoảng 24%/năm. Đầu tư nước ngoài trực tiếp đã giảm đáng kể từ mức vốn đầu tư đăng ký khoảng 8,6 tỷ USD năm 1996 xuống còn 1,6 tỷ USD năm 2002 . Ngoài ra trong giai đoạn này còn có một xu hướng khác rất đáng lo ngại đó là số dự án và vốn đầu tư giải thể tăng cao hơn nhiều so với giai đoạn trước. Tổng số vốn đầu tư giải thể trong giai đoạn 1997-2000 khoảng 5,26 tỷ USD so với 2,69 tỷ USD của 8 năm trước đó cộng lại.
Ta có bảng dữ liệu về nguồn vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam trong những năm 1997-2002: Đơn vị: triệu USD
Năm
Tổng vốn đăng kí
Vốn
pháp định
Số dự án
1997
4649,1
2334,4
345
1998
3897
1805,6
275
1999
1568
693,3
311
2000
2012,4
1525,6
371
2001
2535,5
1062,5
523
2002
1557,7
721,4
754
Tổng
12807,7
8142,8
2579
Ngồn: niên giám thống kê, tổng cục thống kê.
Phần lớn số vốn đầu tư nước ngoài đến từ châu á. Trong đó đầu tư nước ngoài của Đài Loan, Hồng Kông, Nhật Bản, Singapore, Hàn Quốc, Malaixia, và Thái Lan chiếm khoảng 60% về vốn đăng ký và 63% về vốn thực hiện. Phần còn lại là vốn đầu tư từ các nước châu Âu(khoảng 20%), châu Mĩ (khoảng 13%), và châu Đại Dương (khoảng 3%). Các nước công nghiệp như Mỹ, Tây Âu, và Nhật Bản thường đầu tư vào các ngành như dầu khí, ôtô, bưu chính viễn thông. Ngược lại, các nhà đầu tư ở các nước công nghiệp mới ở đông á và ASEAN thường tập trung vào các ngành công nghiệp nhẹ, chế biến thực phẩm và xây dựng khách sạn.
Ta có bảng số liệu về nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài được cấp giấy phép trong năm 2003 phân theo đối tác đầu tư :
Đơn vị tính: triệu USD
Nền kinh tế
Số dự án
Vốn đăng kí
Vốn pháp định
Singapore
307
6245,5
2158,5
Nhật Bản
425
3785,4
1989,1
Hồng Kông
432
3987,2
1771,7
Hàn Quốc
690
3858,6
1840,9
Pháp
191
2594,1
1354,8
Quần đảo Virgin-Anh
195
2177,5
984,3
Hà Lan
56
1200,1
682,1
Liên bang Nga
79
1635,6
1101,6
Hoa Kỳ
199
1644,7
719,2
Malaixia
149
1360
642,1
Thái Lan
171
2119,9
561,6
Australia
126
1310,2
606,9
Đài Loan
952
5617,2
2457,6
Tổng
3261
3748,2
16770,4
Nguồn: bộ kế hoạch và đầu tư.
Đầu tư nước ngoài chủ yếu tập trung vào các ngành như công nghiệp, xây dựng, khách sạn du lịch, văn phòng nhà cho thuê, phát triển cơ sở hạ tầng. Tính đên hết năm 2002, tổng số vốn đầu tư nước ngoài đạt khoảng 20 tỷ USD, trong đó ngành công nghiệp đạt gần 10,5 tỷ USD (chiếm khoảng 50% tổng vốn thực hiện), ngành xây dựng đạt 1,78 tỉ UDS ( chiếm khoảng 8,9% ), công nghiệp dầu khí đạt gần 3,5 tỉ USD ( chiếm khoảng 17,5%), ngành khách sạn và du lịch đạt 2,44 tỉ USD (chiếm khoảng 12,2%). Các ngành có tỉ lệ vốn thực hiện trên 50% như tài chính ngân hàng, giao thông và bưu điện, dầu khí và các dịch vụ khác. Các ngành khác có tỉ lệ vốn thực hiện đạt từ 30-40%.
Ta có bảng dữ liệu về đầu tư nước ngoài phân theo ngành tính đến tháng 12/2002:
(đơn vị : triệu USD)
Ngành
Số dự án
Vốn đăng ký
Vốn pháp định
Thuỷ sản
114
380,4
199,2
Công nghiệp
2689
19422,4
10014,2
Dầu khí
56
4200,4
3478,3
Xây dựng
330
4709,8
1781,2
Khách sạn, du lịch
228
5013,5
2155,9
GTVT&Bưu điện
158
3676,8
2441,0
Tài chính &Ngân hàng
35
248,1
220,9
Văn hoá, y tế, giáo dục
140
607,6
246,5
Dịch vụ khác
390
7702,1
2619,8
Nông lâm
354
1433,3
678,9
Tổng
4447
43194
20357,6
Nguồn: niên giám thống kê năm 2002, tổng cục thống kê.
Cơ cấu vốn đầu tư nước ngoài đã thay đổi theo hướng tăng dần tỉ trọng công nghiệp nặng và công nghiệp chế biến. Trong giai đoạn đầu mở cửa, phần lớn số vốn đầu tư đổ vào ngành dầu khí, giao thông vận tải-bưu điện, khách sạn-du lịch, dịch vụ tư vấn giải trí và quảng cáo. Các dự án đầu tư trong giai đoạn này thường có quy mô nhỏ. Tuy nhiên, vốn đầu tư nước ngoài đã dần chuyển sang các hoạt động thuộc ngành công nghiệp chê tạo, kể cả những ngành sử dụng nhiều lao động như dệt may, da giày, và những ngành sử dụng nhiều vốn như lắp ráp ôtô, phân bón, hoá chất, hoá dầu.
Mặc dù các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài đã xuất hiện ở 60 tỉnh thành phổ trên cả nước, xong mức độ phân bổ dự án không đồng đều, phần lớn vốn đầu tư nước ngoài tập trung ở các thành phố lớn như thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Hải Phòng, Đồng Nai, Bà Rịa-Vũng Tàu, Bình Dương. Tổng số vốn dăng kí của 6 tỉnh thành phố này chiếm 70% tổng số vốn dăng kí của cả nước. Thành phố Hồ Chí Minh và thành phố Hà Nội là hai thành phố đi đầu trong cả nước về thu hút vốn đầu tư nước ngoài chiếm khoảng 50% tổng vốn dăng kí của cả nước. Xu hướng tập trung đầu tư nước ngoài ở các tỉnh, thành phố lớn có ít thay đổi qua hơn một thập kỉ qua. Nguyên nhân chủ yếu là do điều kiện về cơ sở hạ tầng, nguồn nhân lực, thị trường tiêu thụ và thu nhập ở các tỉnh thành phố lớn thuận lợi và phát triển hơn so với các thành phố khác.
3/ Kết quả đạt được:
Qua hơn một thập kỉ, đầu tư nước ngoài đã có những tích cực tới sự phát triển kinh tế của Việt Nam trên một số mặt chủ yếu sau:
a/ Về vốn đầu tư:
Đầu tư nước ngoài đã bổ sung nguồn vốn quan trọng cho đầu tư phát triển kinh tế của Việt Nam. Tính đến 20/3/2004 cả nước có khoảng 4462 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài còn hiệu lực với tổng số vốn đăng kí hơn 42 tỉ USD, trong đó đã thực hiện gần 25 tỉ USD. Nếu tính cả lượng vốn đã được giải ngân của các dự án đã hết hạn thì tổng số vốn của các dự án đầu tư nước ngoài đã thực hiện đựơc lên tới 28 tỉ USD trong đó vốn của nước ngoài đạt khoảng 25 tỉ USD. Từ năm 1988 đến 2003 có khoảng 2100 lượt dự án tăng vốn đăng kí với vốn tăng thêm trên 9 tỉ USD. Riêng 3 năm 2001-2003 lượng vốn bổ sung của các dự án đầu tư nước ngoài đạt gần 3 tỉ USD băng 47,6% tổng số vốn đầu tư đăng kí mới. Còn đối với vốn đầu tư xây dựng cơ bản năm 2004 lượng vốn thực hiện được đạt khoảng 2100 tỷ đồng tăng 22% so với kế hoạch đề ra. Đây là một tỉ lệ khá cao so với các nước đang phát triển trên thế giới. Ngồn vốn này đã góp phần tích cực trong việc hình thành, mở rộng và hiện đại hoá các ngành, lĩnh vực quan trọng của nền kinh tế như: dầu khí, hoá dầu, bưu chính viễn thông,điện tử, ôtô, xe máy, hoá chất, phân bón dệt may, dày dép, chế biến nông sản, thực phẩm chế biến thức ăn gia súc, khách sạn du lịch…. Năng lực tăng thêm của những ngành,lĩnh vực do đầu tư nước ngoài tạo ra đã góp phần tăng cao năng lực cạnh tranh của hàng hoá Việt Nảmtên thị trường quốc tế, thay thế hàng nhập khẩu, đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, tạo ra thê và lực mới cho phát triển kinh tế. Thông qua đầu tư nước ngoài, nhiều nguồn lực trong nước( lao động, đất đai, tài nguyên…) được khai thác và sử dụng tương đối hiệu quả.
b/Đối với GDP:
Đầu tư nước ngoàI đã góp phần quan trọng cho sự tăng trưởng GDP trong thập kỉ qua. Tính riêng thời kì 1996-2000, tố độ tăng GDP của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài cao hơn 2,5 lần so với tốc độ tăng GDP của nền kinh tế . Khu vực đầu tư nước ngoài có tỉ lệ đóng góp GDP tăng dần qua các năm từ 2% năm 1992 lên 3,6% năm 1993; 7,7% năm 1996; 8,6% năm 1997; 9% năm 1998; 13,3% năm 2000. Tuy nhiên, theo ước tính của ngân hàng thế giới còn có khoảng hơn một triệu lao động gián tiếp do khu vực này tạo ra như hoạt động thầu phụ, xây dựng …Đầu tư nước ngoài cũng tác động tích cực đến các cân đối lớn của nền kinh tế như cân đối ngân sách, cải thiện cán cân vãng lai, cán cân thanh toán thông qua luồng vốn chuyển vào Việt Nam và mở rộng nguồn thu ngoại tệ gián tiếp.
c/ Đối với kim ngạch xuất khẩu:
Kim ngạch xuất khẩu của đầu tư nước ngoài tăng nhanh khoảng 36,5%. Năm2003, kim ngạch xuất khẩu của các doanh ngiệp có vốn đầu tư nước ngoài trong cả nước đạt 6,2 tỷ USD, tăng 36,5% so với năm 2002. Trong thời kỳ 1991-1995 kim ngạch xuất khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài mới chỉ đạt 1 tỷ USD thì trong những năm 1996-2000 là 10,6 tỷ USD chiếm 23% kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Trong những năm gần đây, kim ngạch xuất khẩu của cả nước tăng dần từ 25% năm 2000 lên 30% năm 2003. Nếu tính cả dầu thô thì tỉ trọng này đạt khoảng 51% tổng kim ngạch xuất khẩu . Hoạt động xuất khẩu của khu vực đầu tư nước ngoài đã góp phần mở rộng thị trường trong nước, thúc đẩy các hoạt động dịch vụ phát triển nhanh, tạo cầu nối cho các doanh nghiệp trong nước tiếp cận thị trường quốc tế và nâng cao chất lượng của hàng hoá Việt Nam trên thị trường xuất khẩu.
d/Đối với cơ cấu ngành:
Hoạt động đầu tư nước ngoài đã dần chuyển sang các ngành công nghiệp nặng, công nghiệp chế biến và xây dựng kết cấu hạ tầng. Tỷ trọng vốn thực hiện trong ngành công nghiệp(trừ dầu khí) và xây dựng trên tổng vốn thực hiện đã tăng tương ứng từ 29,6% và 5,6% trong thời kì 1991-1995 lên 40,5% và 14,5% trong thời kì 1996-2003. Điều này đã góp phần quan trọng cho việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá hiện đại hoá.
Khu vực đầu tư nước ngoài hiện tạo ra gần 40% tổng giá trị sản xuất công nghiệp của cả nước, chiếm khoảng 36,5% tổng sản phẩm quốc nội. Tốc độ tăng giá trị sản xuất công nghiệp của khu cực này đạt trung bình 21,8% một năm và góp phần đưa giá trị tăng trưởng giá trị sản xuất công nghiệp của cả nước lên 13% một năm. Rõ ràng đầu tư không chỉ góp phần làm tăng nhu cầu, tức tăng thị trường cho công nghiệp mà còn mở rộng quy mô sản xuất và nâng cao khả năng cạnh tranh cho các sản phẩm. Ngoài ra đầu tư nước ngoài còn tạo ra nhiều ngành nghề sản phẩm mới, hình thành và làm tăng đáng kể năng lực của các ngành công nghiệp, đặc biệt như: dầu khí, bưu chính viễn thông, hoá chất hoá dầu, điện tử, tin học, ôtô…
e/ Đối với ngân sách nhà nước:
Phần lớn các doanh nghiệp có đầu tư nước ngoài đang trong thời kì hưởng ưu đãi về thuế, nhưng nguồn thu từ các doanh nghiệp này vào ngân sách nhà nước liên tục tăng: năm 1994 đạt 128 triệu USD; 1995 đạt 195 triệu USD; 1996 đạt 263 triệu USD; 1997 đạt 340 triệu USD; 1998 đạt370 triệu USD… chiếm 13% tổng thu thuế và lệ phí của ngân sách nhà nước góp phần làm giảm thâm hụt ngân sách nhà nước trong những năm qua.
f/ Đối với vấn đề giải quyết việc làm cho người lao động:
Các dự án có vốn đầu tư nước ngoài đi vào hoạt động đã trực tiếp tạo ra hơn 300 ngàn việc làm mới cho 665000 người lao động và gián tiếp tạo ra hơn một triệu việc làm trong các ngành xây dựng và dịch vụ khác có liên quan, tạo ra khối lượng hàng hoá xuất khẩu giá trị hàng trăm triệu USD, góp phần cải thiện cán cân thanh toán của đất nước.Đầu tư nước ngoài đã kích thích việc đào tạo cán bộ kĩ thuật, cán bộ quản lí và công nhân lành nghề, thúc đẩy nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường, góp phân đưa nền kinh tế nước ta hội nhập với nền kinh tế thế giới. Đồng thời đầu tư nước ngoài cũng tạo điều kiện cho chúng ta học tập những phương thức quản lý kinh doanh mới, tạo ra sức ép cạnh tranh thúc đẩy các doanh nghiệp trong nước đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm…
4/Những vấn đề đang đặt ra và những thách trở ngại đối với hoạt động thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam:
Bên cành những tích cực và lợi ích do đầu tư nước ngoài đem lai thì hoạt động đầu tư nước ngoài thời gian qua đã đặt ra nhiều bức bách cần phải có biện pháp giải quyết cụ thể nhăm nâng cao vai trò và tác động tích cực của đầu tư nước ngoài đối với sự phát triển kinh tế, đó là:
Các nhà đầu tư nước ngoài cho rằng môi trường đầu tư ở Việt Nam chưa hấp dẫn, mức độ rủi ro tương đối cao hơn so với các nước khác trong khu vực. Dòng FDI vào Việt Nam tuy có tăng lên nhưng tốc độ tăng giảm dần. Tình hình này là do cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Đông Nam á, suy thoái kinh tế ở Nhật và một số nước khác. Ngoài ra Việt Nam còn chịu sự cạnh tranh gay gắt giữa các đối tác trong vấn đề thu hút dòng vốn đầu tư nước ngoài. Khác với các nước đang phát triển ở châu á như Trung Quốc, NICK và một số nước ở ASEAN, Việt Nam là một nước đi sau về phát triển nền kinh tế thị trường và thời gian mở cửa, hội nhập với nền kinh tế khu vực và thế giới. Do vậy Việt Nam sẽ gặp rất nhiều khó khăn, thử thách trong vấn đề thu hút nguồn vốn FDI từ bên ngoài. Về mặt này sức ép cạnh tranh đối với Việt Nam sẽ lớn hơn, do các yếu tố của nền kinh tế thị trường chưa phát triển đầy đủ, cơ sở hạ tầng còn hạn chế, hệ thống luật pháp chưa được hoàn thiện, con người chưa được chuẩn bị đầy đủ …
Đầu tư nước ngoài được lợi trong việc bảo hộ khỏi canh tranh trong và ngoài nước trong các lĩnh vực như: lắp ráp ôtô, xe máy, hóa chất, xi măng, điện tử…Do đó mà có một câu hỏi không dễ dàng giải quyết là liệu mức đầu tư như những năm qua trong các ngành này có tiếp tục được như vậy hay không nếu như không có sự bảo hộ này.
Một tỷ trọng nhỏ vốn đầu tư tập trung vào những hoạt động định hướng xuất khẩu và chủ yếu tập trung vào việc chế biến các sản phẩm sơ chế. Trong ngành chế tạo, vốn đầu tư tập trung vào các nganh dệt,da và may mặc với quy mô tương đối nhỏ. Các ngành này chỉ cần ít vốn đầu tư, các ngành khác mà có thể thu hút số lượng lớn vốn đầu tư nước ngoài như cơ sở hạ tầng, công nghiệp nặng, bất động sản, dường như chậm tiến triển và đã đạt tới điểm bão hoà.
Khoảng 60% luồng vốn đầu tư nước ngoài dưới hình thức liên doanh và 10% dưới hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh với các doanh nghiệp trong nước( chủ yếu là các doanh nghiệp nhà nước) trong khi đó các doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài ._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- B0165.doc