Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam

Tài liệu Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam: LỜI MỞ ĐẦU Việt Nam xuất phát từ một nước nông nghiệp lạc hậu,trình độ phát triển KTXHở mức thấp hơn nhiều so với các nước khác. với tốc độ phát triển nhanh chóng của các nước phát triển thì khoảng cách kinh tế ngày càng dãn ra. Vì vậy nhiệm vụ của nước ta trong những năm tới là vượt qua tình trang của một nước nghèo, nâng cao mức sống của nhân dân và từng bước hội nhập vào nền kinh tế thế giới Tính tất yếu của XKTB với hình thức cao của nó là hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài là xu thế p... Ebook Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam

doc49 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1352 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hát triển của thời đại Việt Nam cũng không nằm ngoài quy luật đó vấn đề là thu hút FDI như thế nào Với mục tiêu xây dựng nước ta thành một nước công nghiệp và tiến hành công nghiệp hoá hiện đại hoá với mục tiêu lâu dài là cải biến nước ta thành nước công nghiệp có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại , cơ cấu kinh tế phù hợp cộng với thực hiện mục tiêu ổn định và phát triển kinh tế trong đó việc nâng cao GDPbình quân đầu người lên hai lần như đại hội VIIcua Đảng đã nêu ra.Muốn thực hiện tốt điều đó cần phải có một lượng vốn lớn .muốn có lượng vốn lớn cần phải tăng cường sản xuất và thực hành tiết kiệm. nhưng với tình hình tích của nước ta thì thu hút vốn đầu tư của nước ngoài cũng là một cách tích luỹ vốn nhanh có thể làm được. đầu tư nước ngoài nói chung và đầu tư trực tiếpnói riêng là hoạt động kinh tế đối ngoại có vị trí quan trọng trở thành xu thế của thời đại. đó là kênh chuyển giao công nghệ, thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế , tạo them việc làm và thu nhập ,nâng cao tay nghề của người lao động, năng lực quản lý ,tạo nguồn thu cho ngân sách Trên cơ sở thực trạng của đầu tư nước ngoài vào việt nam ta cũng cần phải chú ý tới vấn đề tiêu cực của đầu tưTTNNcũng không phải là một nước thụ động để mất dần vị thế mà xem vốn ĐTNNlà quan trọng nhưng vốn trong nước trong tương lai là chủ yếu nhận thức đúng vị trí vai trò của đầu tư nước ngoài là hết sức cần thiết. chính phủ cũng ban hành chính sách đầu tư nước ngoài vào Việt Nam đồng thời tao mọi điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài. Chúng ta bằng các biện pháp mạnh về cải thiện môi đầu tư, kinh doanh…để thu hút đầu tư nước ngoài.với phương châm của chúng ta là thực hiện đa dạng hoá, đa phương hoá hợp tác đầu tư nước ngoài trên cơ sở hai bên cùng có lợi và tôn trọng lẫn nhau.bằng những phương pháp cụ thể để huy động và sử dụng có hiệu quả vốn ĐTTTNNtrong tổng thể chiến lược và tăng trưởng kinh tế là một thành công mà ta mong đợi Đề tài “Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam” của em gồm có 4 chương - ChươngI: Một số vấn đề lí luận về đầu tư trực tiếp nước ngoài - Chương II: Thực trạng về đầu tư trực tiếp của nước ngoài vào Việt Nam từ sau khi mở cửa (từ 1998 đến nay) - Chương III: Những nhận xét đánh giá tình hình đầu tư trực tiếp của nước ngoài vào Việt Nam - Chương IV: Những giải pháp thúc đẩy đầu tư nước ngoài theo định hướng phục vụ tốt hơn sự nghiệp CNH – HĐH đất nước CHƯƠNG I MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI I.1.Khái niệm về đầu tư trực tiếp nước ngoài I.1.1. Khái niệm Về mặt kinh tế FDI là một hình thức đầu tư quốc tế được đặc trưng bởi quá trình chuyển dịch tư bản từ nước này qua nước khác,FDI được hiểu là hoạt động kinh dọanh, một dạng hoạt động kinh doanh quan hệ kinh tế có quan hệ quốc tế. về đầu tư quốc tế là đầu tư vốn, tư sản nước ngoài để tiến hành sản xuất kinh doanh dịch vụ với mục đích tim kiếm lợi nhuận và nhưng mục tiêu kinh tế, xã hội nhất định. Về mặt nhận thức: nhân tố nước ngoài ở đây không chỉ thể hiện sự khác biệt quốc tịch hoặc về lãnh thổ cư trú thường xuyên của các bên tham gia đầu tư trực tiếp của nước ngoài mà con thể hiện sự di chuyển tư bản bắt buộc phải vượt qua sự kiểm soát quốc gia. Vì vậy FDI là hoạt động kinh doanh quốc tế dự trên quá trình di chuyển tư bản giữa các quốc gia chủ yếu do pháp nhân và thể nhân thực hiện theo những hình thức nhất định trong đó chủ đầu tư tham gia trực tiếp vào quá trình đầu tư. Một số nhà lý luận cho rằng đầu tư trực tiếp của nước ngoài về hình thức là hình thức kéo dài “chu kì tuổi thọ sản xuất “,”chu kỳ tuổi thọ kỹ thuật “ và “nội bộ hoá di chuyển kỹ thuật “. bản chất kỹ thuật của nước ngoài là do một trong những vấn đề thu hút sự chú ý của nhiều nhà lý luận. tuy còn có sự khác nhau về cơ sở nghiên cứu , về phương pháp phân tích và đối tượng xem xét …nhưng quan diểm culả các nhà lý luận gặp nhau ở chỗ:trong nền kinh tế hiện đại có một số yếu tố yếu tố lien quan đến kĩ thuật sản xuất kinh doanh đã buộc nhà sản xuất phải lưa chon phương thức đầu tư trực tiếp ra nước ngoài như là diều kiện tồn tại và phát triển của mình. I.1.2. đặc điểm của đầu tư trực tiếp của nươc ngoài * Cơ cấu đầu tư thay đổi theo hựớng tập trung vao lĩnh vực công nghiệp chế biến và dịch vụ Sự phát triển kinh tế luôn đặt ra vấn đề là phải dịch chuyển cơ cấu kinh tế theo hựớng hiện đại hoá và phù hợp với xu thế hội nhập với nền kinh tế. dưới tác động của khoa học công nghệ , ngày càng có nhiều ngành kinh tế ra đời và phát triển nhanh chóng, nhiều lĩnh vực sản xuất kinh doanh mới ra đời thay thế cho lĩnh vực sản xuất kinh doanh trước đây.hiện nay có một cơ cấu được coi là hiện đại là cơ cấu kinh tế trong đó các ngành cong nghiệp chế biến và dịch vụ chiếm tỉ trong lớn. tại sao trong cơ cấu đầu tư vẫn lưa chọn tối ưu vao 2 ngành mà không phải là công nghiệp nặng …bởi vì có những nguyên nhân sau:thứ nhất , cùng với sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng, đời sống vật chất ngày một nâng cao vì vậy mà nhu về các loại dịch vụ phục vụ đời sống và kinh doanh tăng lên mạnh mẽ, nhất là dịch vụ kỹ thuật tài chinh, du lich, dòi hỏi ngành dịch vụ phải được phát triển tương ứng. thứ hai, ngành công nghiệp chế biến có nhiều phân ngành mà những phân ngành đó thuộc lĩnh vực mũi nhọn của cuộc cách mạng khoa học- công nghệ như , điện tử,thông tin liên lạc vật liệu mới thứ 3 do đặc tính kỹ thuật của những ngành này dễ dàng thực hiện sự hợp tác.ví dụ như ngành công nghiệp chế tạo có những quy trình công nghệ có thể phân chia ra nhiều công đoạn và tuỳ theo thế mạnh của mỗi nứoc có thể thể hiện một trong nhưng khâu mà hai ngành này cho phép nhà đầu tư thu được lợi nhuận thu được lợi nhuận cao, đỡ gặp rủi ro hơn và nhanh chóng thu hồi vốn đầu tư. Vì vầy mà hầu hết các nước đều tập trung mọi cố gắng điều kiện thuận lợi để thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào hai ngành này . xuất phát từ yêu cầu phát triển một cơ cấu kinh tế hiện đại theo hướng cnh mà chính phủ của nhiều nước đang phát triển đã dành nhiều ưu đãi cho những nước ngoài đầu tư vào hai ngành này, điều đó tạo ra sức mạnh hấp dẫn mạnh mẽ đầu tư trực tiếp nước ngoài. * hiện tượng hai chiều trong đầu tư trực tiếp nước ngoài từ nhưng năm 70 và dầu những năm 80 trở lại đây , đã xuất hiện hiện tượng hai chiều , tức là hiện tượng một nước vừa tiếp nhận đầu tư vừa đầu tư ra nước ngoài. điển hình như mỹ, các nước thuộc nhóm G7, các nước công nghiệp mới nhận vốn đầu tư nhiều và trực tiếp đầu tư lớn. ở các nước níc là những nước tiếp nhận đầu tư trực tiếp nhiều nhất từ mỹ và Nhật Bản. đài loan và hồng kông là hai trong số 10 nước đầu . I.2. Vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài I.2.1. nguồn vốn hỗ trợ cho phát triển kinh tế Tỷ lệ tích luỹ vốn ở nước ta còn ở mức thấp, là một trở ngại lớn cho phát triển kinh tế xã hội. với mục tiêu “xây dựng nền kinh tế độc lập tư chủ, đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp , ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất đồng thời xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp với định hướng xã hội chủ nghĩa với lượng tích luỹ vốn này việt nam sẽ gặp trở ngại. thu hút FDI là một hình thức huy động vốn để hỗ trợ cho nhu cầu đầu tư của nền kinh tế. hơn nữa fdi có nhiều ưu thế so với hình thức huy động khác, ví dụ như vay vốn nước ngoài luôn đi kèm với một mức lãi suất nhất định và đôi khi trở thành gánh nặng cho nền kinh tế, hoặc các khoản viện trợ luôn đi kèm các điều kiện về kinh tế trong khi lien doanh với nước ngoài, việc bỏ vốn đầu tư của các doanh nghiệp trong nước có thể giảm được rủi ro về tài chính.bởi vì :thứ nhất là họ có kinh nghiệm nên hạn chế và ngăn chặn được rủi ro. Hai là trong tình huống xí nghiệp lien doanh giữa họ với chúng ta, có nguy cơ rủi ro thì các công ty mẹ có biện pháp hỗ trợ về sản xuất, tiêu thụ sản phẩm, trợ giúp tài chính. Trong tình huống xấu nhất thì họ sẽ là người cùng chia sẻ rủi ro với các công ty nước sở tại FDI vào việt nam sẽ tạo ra các tác động tích cưc với việc huy động các nguồn vốn khác như oda ngo. Nó tạo ra hình ảnh đẹp đáng tin cậy về việt nam trong các tổ chức và cá nhân nước ngoài.mặt khác ngay trong quan hệ đối nội FDI còn có tác dụng kích thích đối với việc thu hút đầu tư trong nước Tích luỹ vốn ban đầu cho công nghiệp hoá bằng cách khai thác tối đa nguồn vốn trong nước và tranh thủ nguồn vốn hỗ trợ từ bên ngoài là phù hợp với thời đại hiện nay thời đại của sự hợp tác và liên kết quóc tế I.2.2. chuyển giao công nghệ mới Với chiến lược xây dụng nước việt nam thành nước cong nghiệp, theo đuổi con đương CNH, HDH đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, tuy nhiên khoảng cách về phát triển khoa học công nghệ giữa các nước phát triển nhất là việt nam với các nước cong nghiệp phát triển. vì thế một trở ngại rất lớn trên con đường phát triển kinh tế là trình độ kỹ thuật – công nghệ lạc hậu. tuỳ thuộc vào hoàn cảnh của mỗi nước mà có cách đi riêng giải quyết vấn đề này. việc mà các nước đang phát triển tự nghiên cứu để phát triển khoa học kỹ thuật cho kịp với trình độ của các nước phát triển là việc rất khó khăn và tốn kém. Con đường nhanh nhất để phát triển kỹ thuật công nghệ và trình độ sản xuất của các nước trong thời đại ngày nay là phải biết tận dụng những thành tưu kỹ thuật công nghẹ của thế giới tuy nhiên mức độ hiện đại đến đâu tuỳ thuộc vào nhiều yếu tố.trong điều kiện hiênnj nay trên thế giới có nhiều quốc gia có nhu cầu đầu tư ra bên ngoài và thực hiện trong các nước đang phát triển trong đó có việt nam có thể tiếp thu được kỹ thuật công nghệ một cách thuận lợi nhất. nhưng không phải các nước phát triển được đi xe miễn phí mà họ phải trả một khoảng học phí không nhỏ cho việc tiếp nhận chuyển giao công nghệ này. chuyển giao công nghệ cung là một yếu của sự phát triển khoa học công nghệ. bất kì một tổ chức nào muốn thay thế kỹ thuật công nghệ mới cung phải tìm được nơi thải kỹ thuật công nghệ cũ. việc thải những công nghệ cũ này dễ dàng được nhiêu nơi chấp thuận. tuy nhiên các nước phát triển xem các nước đang phát triển như một bãi rác là nơi thải các máy móc lạc hậu …vì vậy việc tiếp nhận công nghệ thong qua kênh fdi còn nhiều vấn đề cần giải quyết thứ nhất khi tiếp nhận máy móc vào lắp đặt xây dựng việt nam có biện pháp kiểm tra chặt chẽ nên đã để cho nước ngoài đưa vào các công nghệ cũ và lạc hậu . thứ hai rất ít có sự khuyếch tán công nghệ từ các ngành tiếp nhận công nghệ sang các ngành khác của nền kinh tế . thứ ba năng lực tiếp nhận của chúng ta còn yếu việc lựa chọn kỹ thuật còn nhiều lung túng chưa có kế hoạch quy hoạch tổng thể đôi khi còn tuỳ tiên hoặc thiếu hiểu biết FDI mang lại cho nước tiếp nhận đầu tư nhửng kỹ thuật công nghệ tiên tiến yếu tố quan trọng để phát triển lực lượng sản xuất I.2.3. thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế Để hội nhập vào nền kinh tế thế giới và tham gia tích cực vào quá trình liên kết kinh tế giữa các nước trên thế giới đòi hỏi từng quốc gia phải thay đổi cơ cấu kinh tế trong nước cho phù hợp với phân công lao động quốc tế bởi lẽ đầu tư nước ngoài ghóp phần thúc đẩy nhanh chóng quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế bởi vì 1)thông qua đầu tư trực tiếp nước ngoài đã làm xuất hiện nhiều lĩnh vực và ngành kinh tế mới ở nước nhận đầu tư 2)giúp vào sự phát triển nhanh chóng trình độ kỹ thuật công nghệ ở nhiều ngành kinh tế ghóp phần thúc đẩy tăng năng suất lao động ở các ngành này và làm tăng tỉ trọng của nó trong nền kinh tế 3)một số ngành được kích thích phát triển bởi đầu tư trực tiếp nước ngoài nhưng cũng có nhiều ngành bị mai một đi rồi dẫn đến chỗ bị xoá bỏ Về cơ cấu ngành kinh tế được thể hiện của các nghành trong gdp tỷ trọng của việt nam trong năm1990 đến nay có sự thay đổi đáng kể các ngành kinh tế đã có sự chuyển biến tích cực tất cả các nhóm nghành đều tăng do có sự tăng cường đầu tư nhiều hơn nhất là trang bị công nghệ,nền sản xuất công nghiệp trong thời gian đã đạt tốc độ nhanh và chiếm tỉ trọng ngày càng tăng trong GDP trong 9 tháng đầu năm 1996 giá trị sản lượng trong khu vực có vốn fdi chiếm 21,7% tổng sản lượng công nghiệp hiện nay khu vực này chiếm 100%về khai thác dầu thô,44%về sản lượng thép hầu hết lĩnh vực lắp ráp ô tô,xe máy và sản xuất bóng hình là do các cơ sở này nắm giữ.qua đây thấy vai trò fdi trong nền sản xuất công nghiệp của việt nam hiện nay FDI thực sự có vai trò to lớn với sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế thong qua việc đầu tư nhiều hơn vào nghành công nghiệp vì ngành công nghiệp có năng suất lao động cao nhất và tỉ trọng lớn trong nền kinh tế nên fdi đã đóng ghóp phần to lớn vào tăng nhanh tốc độ phát triển kinh tế quốc dân Để trở thành quốc gia công nghiệp hoá vào năm 2020và để nền kinh tế việt nam có thể hội nhập với khu vực và trên thế giới một đòi hỏi bức xúc là phải đẩy nhanh hơn nữa quá trình chuyển cơ cấu kinh tế Hoạt động của đầu tư đã giúp việt nam mở rộng hơn thị phần nước ngoài. Ghóp phần làm chuyển biến nền kinh tế việt nam theo hướng của nền kinh tế hang hoá. đối với việt nam vốn fdi đóng vai trò như lực lượng khởi động như những điều kiện đảm bảo cho sự phát triển của công nghiệp hoá hiện đại hoá một số dự án fdi ghóp phần làm vực dậy một số doanh nghiệp việt nam đang trong điều kiện khó khăn sản xuất đình đốn nguy cơ phá sản CHƯƠNG II THỰC TRẠNG THU HÚT ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI Ở VIỆT NAM SAU KHI MỞ CỦA (TỪ 1988 ĐẾN NAY) II.1. Cấp phép đầu tư từ 1988 đến 2007: Tính đến cuối năm 2007, cả nước có hơn 9.500 dự án ĐTNN được cấp phép đầu tư với tổng vốn đăng ký khoảng 98 tỷ USD (kể cả vốn tăng thêm). Trừ các dự án đã hết thời hạn hoạt động và giải thể trước thời hạn, hiện có 8.590 dự án còn hiệu lực với tổng vốn đăng ký 83,1 tỷ USD. Biểu đồ tình hình cấp chứng nhận đầu tư tại Việt Nam có sự biến động (xem tại Phụ lục). Trong 3 năm 1988-1990, mới thực thi Luật Đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam nên kết quả thu hút vốn ĐTNN còn ít (214 dự án với tổng vốn đăng ký cấp mới 1,6 tỷ USD), ĐTNN chưa tác động đến tình hình kinh tế-xã hội đất nước. Trong thời kỳ 1991-1995, vốn ĐTNN đã tăng lên (1.409 dự án với tổng vốn đăng ký cấp mới 18,3 tỷ USD) và có tác động tích cực đến tình hình kinh tế-xã hội đất nước. Thời kỳ 1991-1996 được xem là thời kỳ “bùng nổ” ĐTNN tại Việt Nam (có thể coi như là “làn sóng ĐTNN” đầu tiên vào Việt Nam) với 1.781 dự án được cấp phép có tổng vốn đăng ký (gồm cả vốn cấp mới và tăng vốn) 28,3 tỷ USD. Đây là giai đoạn mà môi trường đầu tư-kinh doanh tại Việt Nam đã bắt đầu hấp dẫn nhà đầu tư do chi phí đầu tư-kinh doanh thấp so với một số nước trong khu vực; sẵn lực lượng lao động với giá nhân công rẻ, thị trường mới, vì vậy, ĐTNN tăng trưởng nhanh chóng, có tác động lan tỏa tới các thành phần kinh tế khác và đóng góp tích cực vào thực hiện các mục tiêu kinh tế-xã hội của đất nước. Năm 1995 thu hút được 6,6 tỷ USD vốn đăng ký, tăng gấp 5,5 lần năm 1991 (1,2 tỷ USD). Năm 1996 thu hút được 8,8 tỷ USD vốn đăng ký, tăng 45% so với năm trước. Trong 3 năm 1997-1999 có 961 dự án được cấp phép với tổng vốn đăng ký hơn 13 tỷ USD; nhưng vốn đăng ký của năm sau ít hơn năm trước (năm 1998 chỉ bằng 81,8% năm 1997, năm 1999 chỉ bằng 46,8% năm 1998), chủ yếu là các dự án có quy mô vốn vừa và nhỏ. Cũng trong thời gian này nhiều dự án ĐTNN được cấp phép trong những năm trước đã phải tạm dừng triển khai hoạt động do nhà đầu tư gặp khó khăn về tài chính (đa số từ Hàn Quốc, Hồng Kông). Từ năm 2000 đến 2003, dòng vốn ĐTNN vào Việt Nam bắt đầu có dấu hiệu phục hồi chậm. Vốn đăng ký cấp mới năm 2000 đạt 2,7 triệu USD, tăng 21% so với năm 1999; năm 2001 tăng 18,2% so với năm 2000; năm 2002 vốn đăng ký giảm, chỉ bằng 91,6% so với năm 2001, năm 2003 (đạt 3,1 tỷ USD), tăng 6% so với năm 2002. Và có xu hướng tăng nhanh từ năm 2004 (đạt 4,5 tỷ USD) tăng 45,1% so với năm trước; năm 2005 tăng 50,8%; năm 2006 tăng 75,4% và năm 2007 đạt mức kỷ lục trong 20 năm qua 20,3 tỷ USD, tăng 69% so với năm 2006, và tăng hơn gấp đôi so với năm 1996, năm cao nhất của thời kỳ trước khủng hoảng. Trong giai đoạn 2001-2005 thu hút vốn cấp mới (kể cả tăng vốn) đạt 20,8 tỷ USD vượt 73% so với mục tiêu tại Nghị quyết 09/2001/NQ-CP ngày 28/8/2001 của Chính phủ [2], vốn thực hiện đạt 14,3 tỷ USD tăng 30% so với mục tiêu. Nhìn chung trong 5 năm 2001-2005, vốn ĐTNN cấp mới đều tăng đạt mức năm sau cao hơn năm trước (tỷ trọng tăng trung bình 59,5%), nhưng đa phần là các dự án có quy mô vừa và nhỏ. Đặc biệt trong 2 năm 2006-2007, dòng vốn ĐTNN vào nước ta đã tăng đáng kể (32,3 tỷ USD) với sự xuất hiện của nhiều dự án quy mô lớn đầu tư chủ yếu trong lĩnh vực công nghiệp (sản xuất thép, điện tử, sản phẩm công nghệ cao,...) và dịch vụ (cảng biển, bất động sản, công nghệ thông tin, du lịch-dịch vụ cao cấp .v.v.). Điều này cho thấy dấu hiệu của “làn sóng ĐTNN” thứ hai vào Việt Nam. II.2. Tình hình tăng vốn đầu tư (1988-2007): Cùng với việc thu hút các dự án đầu tư mới, nhiều dự án sau khi hoạt động có hiệu quả đã mở rộng quy mô sản xuất-kinh doanh, tăng thêm vốn đầu tư, nhất là từ năm 2001 trở lại đây. Tính đến hết năm 2007 có gần 4.100 lượt dự án tăng vốn đầu tư với tổng vốn tăng thêm hơn 18,9 tỷ USD, bằng 23,8% tổng vốn đầu tư đăng ký cấp mới. Thời kỳ 1988-1990 việc tăng vốn đầu tư hầu như chưa có do số lượng doanh nghiệp ĐTNN còn ít. Từ số vốn đầu tư tăng thêm đạt 2,13 tỷ USD trong 5 năm 1991-1995 thì ở giai đoạn 1996-2000 đã tăng gần gấp đôi so với 5 năm trước (4,17 tỷ USD). Giai đoạn 2001-2005 vốn đầu tư tăng thêm đạt 7,08 tỷ USD (vượt 18% so dự kiến là 6 tỷ USD) tăng 69% so với 5 năm trước. Trong đó, lượng vốn đầu tư tăng thêm vượt con số 1 tỷ USD bắt đầu từ năm 2002 và từ năm 2004 đến 2007 vốn tăng thêm mỗi năm đạt trên 2 tỷ USD, mỗi năm trung bình tăng 35%. Vốn tăng thêm chủ yếu tập trung vào các dự án thuộc lĩnh vực sản xuất công nghiệp và xây dựng, đạt khoảng 40,6% trong giai đoạn 1991-1995 ; 65,7% trong giai đoạn 1996-2000, khoảng 77,3% trong thời kỳ 2001-2005. Trong 2 năm 2006 và 2007 tỷ lệ tương ứng là 80,17% và 79,1% tổng vốn tăng thêm. Do vốn đầu tư chủ yếu từ các nhà đầu tư châu Á (59%) nên trong số vốn tăng thêm, vốn mở rộng của các nhà đầu tư châu Á cũng chiếm tỷ trọng cao nhất 66,8% trong giai đoạn 1991-1995, đạt 67% trong giai đoạn 1996-2000, đạt 70,3% trong thời kỳ 2001-2005. Trong 2 năm 2006 và 2007 tỷ lệ tương ứng là 72,1% và 80%. Việc tăng vốn đầu tư mở rộng sản xuất thực hiện chủ yếu tại các vùng kinh tế trọng điểm nơi tập trung nhiều dự án có vốn ĐTNN: Vùng trọng điểm phía Nam chiếm 55,5% trong giai đoạn 1991-1995 ; đạt 68,1% trong thời kỳ 1996-2000 và 71,5% trong giai đoạn 2001-2005. Trong 2 năm 2006 và 2007 tỷ lệ tương ứng là 71% và 65%. Vùng trọng điểm phía Bắc có tỷ lệ tương ứng là 36,7%; 20,4% ; 21,1% ; 24% và 20%. Qua khảo sát của Tổ chức Xúc tiến thương mại Nhật Bản -JETRO tại Việt Nam có trên 70% doanh nghiệp ĐTNN được điều tra có kế hoạch tăng vốn, mở rộng sản xuất tại Việt Nam. Điều này chứng tỏ sự tin tưởng và an tâm của nhà ĐTNN vào môi trường đầu tư-kinh doanh tại Việt Nam. II.3. Quy mô dự án : Qua các thời kỳ, quy mô dự án ĐTNN có sự biến động thể hiện khả năng tài chính cũng như sự quan tâm của các nhà ĐTNN đối với môi trường đầu tư Việt Nam. Quy mô vốn đầu tư bình quân của một dự án ĐTNN tăng dần qua các giai đoạn, tuy có “trầm lắng” trong vài năm sau khủng hoảng tài chính khu vực 1997. Thời kỳ 1988-1990 quy mô vốn đầu tư đăng ký bình quân đạt 7,5 triệu USD/dự án/năm. Từ mức quy mô vốn đăng ký bình quân của một dự án đạt 11,6 triệu USD trong giai đoạn 1991-1995 đã tăng lên 12,3 triệu USD/dự án trong 5 năm 1996-2000. Điều này thể hiện số lượng các dự án quy mô lớn được cấp phép trong giai đoạn 1996-2000 nhiều hơn trong 5 năm trước. Tuy nhiên, quy mô vốn đăng ký trên giảm xuống 3,4 triệu USD/dự án trong thời kỳ 2001-2005. Điều này cho thấy đa phần các dự án cấp mới trong giai đoạn 2001-2005 thuộc dự án có quy mô vừa và nhỏ. Trong 2 năm 2006 và 2007, quy mô vốn đầu tư trung bình của một dự án đều ở mức 14,4 triệu USD, cho thấy số dự án có quy mô lớn đã tăng lên so với thời kỳ trước, thể hiện qua sự quan tâm của một số tập đoàn đa quốc gia đầu tư vào một số dự án lớn (Intel, Panasonic, Honhai, Compal, Piaggio....). II.4. Cơ cấu vốn ĐTNN từ 1988 đến 2007: ĐTNN phân theo ngành nghề: - Lĩnh vực công nghiệp và xây dựng: Từ khi ban hành Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987, Việt Nam đã chú trọng thu hút ĐTNN vào lĩnh vực công nghiệp-xây dựng. Qua mỗi giai đoạn các lĩnh vực ưu tiên thu hút đầu tư, các sản phẩm cụ thể được xác định tại Danh mục các lĩnh vực khuyến khích và đặc biệt khuyến khích đầu tư. Trong những năm 90 thực hiện chủ trương thu hút ĐTNN, Chính phủ ban hành chính sách ưu đãi, khuyến khích các dự án : (i) sản xuất sản phẩm thay thế hàng nhập khẩu, (ii) sản xuất hàng xuất khẩu (có tỷ lệ xuất khẩu 50% hoặc 80% trở lên), (iii) công nghiệp là lĩnh vực thu hút nhiều FDI nhất ảnh:Hoàng Hà sử dụng nguồn nguyên liệu trong nước và có tỷ lệ nội địa hoá cao. Sau khi gia nhập và thực hiện cam kết với WTO (năm 2006), Việt Nam đã bãi bỏ các quy định về ưu đãi đối với dự án có tỷ lệ xuất khẩu cao, không yêu cầu bắt buộc thực hiện tỷ lệ nội địa hoá và sử dụng nguyên liệu trong nước. Qua các thời kỳ, định hướng thu hút ĐTNN lĩnh vực công nghiệp- xây dựng tuy có thay đổi về lĩnh vực, sản phẩm cụ thể nhưng cơ bản vẫn theo định hướng khuyến khích sản xuất vật liệu mới, sản phẩm công nghệ cao, công nghệ thông tin, cơ khí chế tạo, thiết bị cơ khí chính xác, sản xuất sản phẩm và linh kiện điện tử... Đây cũng chính là các dự án có khả năng tạo giá trị gia tăng cao và Việt Nam có lợi thế so sánh khi thu hút ĐTNN. Nhờ vậy, cho đến nay các dự án ĐTNN thuộc các lĩnh vực nêu trên (thăm dò và khai thác dầu khí, sản xuất các sản phẩm công nghệ cao, sản phẩm điện và điện tử, sản xuất sắt thép, sản xuất hàng dệt may...) vẫn giữ vai trò quan trọng đóng góp cho tăng trưởng kinh tế, xuất khẩu và tạo nhiều việc làm và nguồn thu nhập ổn định cho hàng triệu lao động trực tiếp. Cơ cấu đầu tư có chuyển biến tích cực theo hướng gia tăng tỷ trọng đầu tư vào lĩnh vực công nghệ cao, lọc dầu và công nghệ thông tin (IT) với sự có mặt của các tập đoàn đa quốc gia nổi tiếng thế giới: Intel, Panasonic, Canon, Robotech.v.v. Hầu hết các dự án ĐTNN này sử dụng thiết bị hiện đại xấp xỉ 100% và tự động hoá đạt 100% cho sản lượng, năng suất, chất lượng cao, do đó có ảnh hưởng lớn đến các chỉ tiêu giá trị của toàn ngành. Tính đến hết năm 2007, lĩnh vực công nghiệp và xây dựng có tỷ trọng lớn nhất với 5.745 dự án còn hiệu lực, tổng vốn đăng ký hơn 50 tỷ USD, chiếm 66,8% về số dự án, 61% tổng vốn đăng ký và 68,5% vốn thực hiện. STT Chuyên ngành Số dự án Vốn đầu t ư (USD) Vốn thực hiện (USD) 1 CN dầu khí 38 3,861,511,815 5,148,473,303 2 CN nhẹ 2,542 13,268,720,908 3,639,419,314 3 CN nặng 2,404 23,976,819,332 7,049,365,865 4 CN thực phẩm 310 3,621,835,550 2,058,406,260 5 Xây dựng 451 5,301,060,927 2,146,923,027 Tổng số 5,745 50,029,948,532 20,042,587,769 - ĐTNN trong lĩnh vực dịch vụ: Nước ta đã có nhiều chủ trương chính sách, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh doanh dịch vụ phát triển từ khi thi hành Luật Đầu tư nước ngoài (1987). Nhờ vậy, khu vực dịch vụ đã có sự chuyển biến tích cực đáp Du lich - dịch vụ đang có sự gia tăng đáng kể về FDI ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu sản xuất, tiêu dùng và đời sống nhân dân, góp phần đẩy nhanh tăng trưởng kinh tế. Một số ngành dịch vụ (bưu chính viễn thông, tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, vận tải hàng không, vận tải biển, du lịch, kinh doanh bất động sản) tăng trưởng nhanh, thu hút nhiều lao động và thúc đẩy xuất khẩu. Cùng với việc thực hiện lộ trình cam kết thương mại dịch vụ trong WTO, Việt Nam tiếp tục đẩy mạnh thu hút ĐTNN, phát triển các ngành dịch vụ trực tiếp phục vụ sản xuất và xuất khẩu. Trong khu vực dịch vụ ĐTNN tập trung chủ yếu vào kinh doanh bất động sản, bao gồm: xây dựng căn hộ, văn phòng, phát triển khu đô thị mới, kinh doanh hạ tầng khu công nghiệp (42% tổng vốn ĐTNN trong khu vực dịch vụ), du lịch-khách sạn (24%), giao thông vận tải-bưu điện (18%) (xem bảng). TT Chuyên ngành Số dự án Vốn đầu tư (triệu USD) Đầu tư đã thực hiện (triệu USD) 1 Giao thông vận tải-Bưu điện ( bao gồm cả dịch vụ logicstics) 208 4.287 721 2 Du lịch - Khách sạn 223 5.883 2.401 3 Xây dựng văn phòng, căn hộ để bán và cho thuê 153 9.262 1.892 4 Phát triển khu đô thị mới 9 3.477 283 5 Kinh doanh hạ tầng KCN-KCX 28 1.406 576 6 Tài chính – ngân hàng 66 897 714 7 Văn hoá - y tế – giáo dục 271 1.248 367 8 Dịch vụ khác (giám định, tư vấn, trợ giúp pháp lý, nghiên cứu thị trường...) 954 2.145 445 Tổng cộng 1.912 28.609 7.399 Trong năm 2007 tuy vốn đầu tư đăng ký tiếp tục tập trung vào lĩnh vực công nghiệp (50,6%), nhưng đã có sự chuyển dịch cơ cấu đầu tư mạnh vào lĩnh vực dịch vụ, chiếm 47,7% tổng vốn đăng ký của cả nước, tăng 16,5% so với năm 2006 (31,19%) với nhiều dự án xây dựng cảng biển, kinh doanh bất động sản, xây dựng khu vui chơi, giải trí.v.v. - ĐTNN trong lĩnh vực Nông-Lâm-Ngư : Dành ưu đãi cho các dự án đầu tư vào lĩnh vực Nông Lâm ngư nghiệp đã được chú trọng ngày từ khi có luật đầu tư nước ngoài 1987. Tuy nhiên đến nay do nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân rủi ro đầu tư cao trong lĩnh vực này, nên kết quả thu hút ĐTNN vào lĩnh vực Nông – Lâm ngư chưa được như mong muốn. Đến hết năm 2007, lĩnh vực Nông- Lâm- Ngư nghiệp có 933 dự án còn hiệu lực, tổng vốn đăng ký hơn 4,4 tỷ USD, đã thực hiện khoảng 2,02 tỷ USD; chiếm 10,8% về số dự án ; 5,37% tổng vốn đăng ký và 6,9% vốn thực hiện, (giảm từ 7,4% so với năm 2006). Trong đó, các dự án về chế biến nông sản, thực phẩm chiếm tỷ trọng lớn nhất 53,71% tổng vốn đăng ký của ngành, trong đó, các dự án hoạt động có hiệu quả bao gồm chế biến mía đường, gạo, xay xát bột mì, sắn, rau. Tiếp theo là các dự án trồng rừng và chế biến lâm sản, chiếm 24,67% tổng vốn đăng ký của ngành. Rồi tới lĩnh vực chăn nuôi và chế biến thức ăn gia súc chiếm 12,7%. Cuối cùng là lĩnh vực trồng trọt, chỉ chiếm gần 9% tổng số dự án. Có 130 dự án thuỷ sản với vốn đăng ký là 450 triệu USD, Cho đến nay, đã có 50 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư trực tiếp vào ngành nông-lâm-ngư nghiệp nước ta, trong đó, các nước châu Á ( Đài Loan, Nhật Bản, Trung Quốc, Hồng Kông,..) chiếm 60% tổng vốn đăng ký vào ngành nông nghiệp (riêng Đài Loan là 28%). Các nước thuộc EU đầu tư vào Việt Nam đáng kể nhất gồm có Pháp (8%), quần đảo British Virgin Islands (11%). Một số nước có ngành nông nghiệp phát triển mạnh (Hoa Kỳ, Canada, Australi)a vẫn chưa thực sự đầu tư vào ngành nông nghiệp nước ta. Các dự án ĐTNN trong ngành nông-lâm-ngư nghiệp tập trung chủ yếu ở phía Nam. Vùng Đông Nam Bộ chiếm 54% tổng vốn đăng ký của ngành, đồng bằng sông Cửu Long 13%, duyên hải Nam Trung Bộ 15%. Miền Bắc và khu vực miền Trung, lượng vốn đầu tư còn rất thấp, ngay như vùng đồng bằng sông Hồng lượng vốn đăng ký cũng chỉ đạt 5% so với tổng vốn đăng ký của cả nước. STT Nông, lâm nghiệp Số dự án Vốn đăng ký (USD) Vốn thực hiện (USD) 1 Nông-Lâm nghiệp 803 4,014,833,499 1,856,710,521 2 Thủy sản 130 450,187,779 169,822,132 Tổng số 933 4,465,021,278 2,026,532,653 ĐTNN phân theo vùng, lãnh thổ : Qua 20 thu hút, ĐTNN đã trải rộng khắp cả nước, không còn địa phương “trắng” ĐTNN nhưng tập trung chủ yếu tại các địa bàn trọng điểm, có lợi thế, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế của địa phương, làm cho các vùng này thực sự là vùng kinh tế động lực, lôi kéo phát triển kinh tế-xã hội chung và các vùng phụ cận (xem biểu 5). Vùng trọng điểm phía Bắc có 2.220 dự án còn hiệu lực với vốn đầu tư trên 24 tỷ USD, chiếm 26% về số dự án, 27% tổng vốn đăng ký cả nước và 24% tổng vốn thực hiện của cả nước; trong đó Hà Nội đứng đầu (987 dự án với tổng vốn đăng ký 12,4 tỷ USD) chiếm 51% vốn đăng ký và 50% vốn thực hiện cả vùng. Tiếp theo thứ tự là Hải Phòng (268 dự án với tổng vốn đăng ký 2,6 tỷ USD), Vĩnh Phúc (140 dự án với tổng vốn đăng ký 1,8 tỷ USD), Hải Dương (271 dự án với tổng vốn đăng ký 1,7 tỷ USD), Hà Tây (74 dự án với tổng vốn đăng ký 1,5 tỷ USD), Bắc Ninh (106 dự án với tổng vốn đăng ký 0,93 tỷ USD) và Quảng Ninh (94 dự án với tổng vốn đăng ký 0,77 tỷ USD). Vùng trọng điểm phía Nam thu hút 5.293 dự án với tổng vốn đầu tư 44,87 tỷ USD, chiếm 54% tổng vốn đăng ký, trong đó, tp Hồ Chí Minh dẫn đầu cả nước (2.398 dự án với tổng vốn đăng ký 16,5 tỷ USD) chiếm 36,9% tổng vốn đăng ký của Vùng. Tiếp theo thứ tự là Đồng Nai (918 dự án với tổng vốn đăng ký 11,6 tỷ USD) chiếm 25,9% vốn đăng ký của Vùng, Bình Dương (1.570 dự án với tổng vốn đăng ký 8,4 tỷ USD) chiếm 18,8% vốn đăng ký của Vùng; Bà Rịa-Vũng Tàu (159 dự án với tổng vốn đăng ký 6,1 tỷ USD) chiếm 13,6% vốn đăng ký của Vùng; Long An (188 dự án với tổng vốn đăng ký 1,8 tỷ USD) chiếm 4,1% vốn đăng ký của Vùng. Điều này, minh chứng cho việc triển khai thực hiện Nghị quyết 09/2001/NQ-CP ngày 28/8/2001 của Chính phủ và Chỉ thị 19/2001/CT-TTg ngày 28/8/2001 của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường thu hút và nâng cao hiệu quả ĐTNN thời kỳ 2001-2005. [3] Chính vì vậy, ngoài một số địa phương vốn có ưu thế trong thu hút vốn ĐTNN (Hà Nội, tp Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bình Dương, Bà Rịa-Vũng Tàu, Hải Phòng, Quảng Ninh) một số địa phương khác (Vĩnh Phúc, Bắc Ninh, Phú Yên, Hà Tây..) do yếu tố tích cực của chính quyền địa phương nên việc thu hút vốn ĐTNN đã chuyển biến mạnh, tác động tới cơ cấu kinh tế trên địa bàn. Năm 2004 công nghiệp có vốn ĐTNN chiếm 86% giá trị sản xuất công nghiệp của tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu, 81% của tỉnh Vĩnh Phúc, 70% của tỉnh Đồng Nai, 65% của tỉnh Bình Dương, 46% của Thành phố Hải Phòng, 35% của Thành phố Hà Nội và 27% của thành phố Hồ Chí Minh. Đối với Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh đang chuyển dần sang trở thành trung tâm dịch vụ cao cấp của cả vùng (bưu chính, viễn thông, tài chính, ngân hàng..) cũng như hướng thu hút vốn ĐTNN vào các ngành công nghệ cao thông qua một số khu công nghệ cao (Quang Trung, Hòa Lạc) Vùng trọng điểm miền Trung thu hút được 491 dự án với tổng vốn đăng ký 8,6 tỷ USD qua 20 năm thực hiện Luật Đầu tư, chiếm 6% tổng vốn đăng ký của cả nước, trong đó: Phú Yên (39 dự án với tổng vốn đăng ký 1,9 tỷ USD) hiện đứng đầu các tỉnh miền Trung với dự án xây dựng nhà máy lọc dầu Vũng Rô có vốn đăng ký 1,7 tỷ USD. Tiếp theo là Đà Nẵng (113 dự án với tổng vốn đăng ký 1,._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc11394.doc
Tài liệu liên quan