Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào khu công nghiệp, khu chế xuất - Thực trạng và giải pháp

Lời nói đầu Thành lập khu vực tập trung để thu hút vốn, khuyến khích sản xuất và các dịch vụ sản xuất, phục vụ xuất khẩu và thị trường trong nước với những ưu đãi đặc biệt đang là sự quan tâm của nhiều nước trên thế giới. Trong gần 4 thập kỷ qua, các nước đang phát triển, nhất là các nước Châu á đã thu được những kết quả nhất định trong việc áp dụng mô hình kinh tế này như là những thực thể kinh tế năng động nhất, phản ánh những biện pháp kinh tế đặc biệt nhằm tăng cường xu thế hướng ngoại đẩy

doc89 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1388 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào khu công nghiệp, khu chế xuất - Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
mạnh tăng trưởng kinh tế, phát triển quá trình quốc tế hoá, khu vực hoá kinh tế. ở Việt Nam, sau khi Nhà nước ban hành Luật Đầu tư nước ngoài, hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài đã thu được những kết quả quan trọng trong việc thu hút vốn đầu tư, tạo công ăn việc làm, gia tăng nguồn hàng xuất khẩu... góp phần tích cực thực hiện chiến lược kinh tế- xã hội của đất nước. Là một bộ phận của hoạt động đầu tư trực tiếp, các khu công nghiệp, khu chế xuất được thành lập ở nước ta đang trở thành mô hình tổ chức kinh tế linh động, gắn kinh tế ngành với kinh tế lãnh thổ, là nhân tố quan trọng góp phần thúc đẩy hoạt động kinh tế đối ngoại, tạo ra bước chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Thời gian vừa qua, tình hình kinh tế- chính trị trên thế giới biến động đã gây ảnh hưởng rất lớn tới sự vận động của dòng đầu tư trực tiếp, trong khi các khu công nghiệp, khu chế xuất ở Việt Nam cũng không ngừng thay đổi. Vì vậy, đầu tư trực tiếp nước ngoài vào khu công nghiệp, khu chế xuất, vốn là nội dung hoạt động quan trọng nhất, quyết định sự thành công hay thất bại của các khu trong hoàn cảnh đầu tư trong nước còn hạn hẹp, trở nên rất phức tạp. Đồng thời, đặt ra một câu hỏi cần được quan tâm và giải đáp: làm thế nào để thu hút ngày càng mạnh mẽ đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các khu công nghiệp, khu chế xuất đã được thành lập? Để góp phần nhỏ bé của mình vào việc nghiên cứu các vấn đề liên quan đến hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài vào khu công nghiệp, khu chế xuất, sau một thời gian nghiên cứu, người viết mạnh dạn chọn đề tài:" Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào khu công nghiệp, khu chế xuất - Thực trạng và giải pháp" để viết khoá luận tốt nghiệp với hy vọng khoá luận sẽ phần nào có ích cho những người quan tâm. Khoá luận không đề cập đến hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài trong một hay một vài khu cụ thể, mà xem xét, đánh giá hoạt động này một cách tổng thể trên toàn bộ các khu trong khoảng thời gian gần mười năm trở lại đây, kể từ khi khu chế xuất đầu tiên được thành lập cho đến thời điểm hiện tại. Trong khi nghiên cứu vấn đề, khoá luận đã sử dụng phương pháp duy vật biện chứng, đi từ những nội dung có tính chất lý luận đến các vấn đề thực tiễn, trên cơ sở đó đưa ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện vấn đề đang nghiên cứu. Ngoài ra, các phương pháp so sánh, phân tích tổng hợp, lấy ví dụ... cũng được sử dụng để làm nổi bật vấn đề. Khoá luận được trình bày với kết cấu gồm 3 chương: Chương I: Tổng quan về khu công nghiệp, khu chế xuất - Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào khu công nghiệp, khu chế xuất. Chương II: Thực trạng đầu tư trực tiếp nước ngoài vào khu công nghiệp, khu chế xuất ở Việt Nam trong thời gian qua. Chương III: Giải pháp tăng cường thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào khu công nghiệp, khu chế xuất ở Việt Nam. Bản khoá luận này được hoàn thành với sự giúp đỡ, hướng dẫn và chỉ bảo tận tình của các chuyên gia Vụ Quản lý khu công nghiệp, khu chế xuất Việt Nam, TS Vũ Chí Lộc. Người viết xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành đối với sự chỉ bảo tận tình và những ý kiến đóng góp của các Thầy, đã giúp đỡ người viết hoàn tất đề tài trong thời gian vừa qua. Khoá luận đã đề cập đến một vấn đề khá lớn và tương đối phức tạp, đòi hỏi nhiều thời gian và kinh nghiệm thực tiễn. Do điều kiện thời gian nghiên cứu chưa nhiều, khả năng có hạn nên khoá luận khó tránh khỏi những khiếm khuyết. Rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến và chỉ dẫn của thầy, cô giáo và những người có quan tâm đến vấn đề này. Hà Nội, tháng 12 năm 2000. Nguyễn Hoàng Hải. Chương I: Tổng quan về Khu Công Nghiệp, Khu Chế Xuất - Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào KCN, KCX I. Vài nét về khu công nghiệp, khu chế xuất. 1. Khái niệm: 1.1 Khu chế xuất: a. Cơ sở lí luận: Sự hình thành và phát triển khu chế xuất trên thế giới xuất phát từ những thay đổi trong môi trường kinh tế- kĩ thuật của nền kinh tế toàn cầu sau chiến tranh thế giới lần thứ II, và nhất là trong thập kỉ 60. Sau chiến tranh thế giới lần thứ II, sự phát triển nhanh chóng của các nước công nghiệp phát triển gặp phải những khó khăn gay gắt về nguồn nhân công tiền công thấp ở trong nước và nguồn nguyên liệu cho công nghiệp vốn trước đây được tước đoạt một cách tự do từ các nước thuộc địa, nay đã giành được độc lập. Mặt khác, do trình độ công nghệ còn bị hạn chế, nền kĩ thuật tự động hoá chưa đủ sức giải quyết được những khó khăn này của các nước phát triển. Trong khi đó, các nước đang phát triển vừa mới thoát ra khỏi ách đô hộ thực dân của chủ nghĩa đế quốc lại rơi vào tình trạng khó khăn trong phát triển kinh tế, thất nghiệp gia tăng, thiếu vốn đầu tư và ngoại tệ để khai thác nguồn tài nguyên thiên nhiên, xây dựng nền kinh tế dân tộc. Mặt khác, do thiếu vốn, thiếu kĩ thuật công nghệ tiên tiến, thiếu cán bộ quản lí và công nhân lành nghề có trình độ cao nên các nước đang phát triển khó có điều kiện kiến tạo đầy đủ ngay một lúc trên phạm vi cả nước những điều kiện và yếu tố để có được những sản phẩm công nghiệp chế tạo đủ sức cạnh tranh trên thị trường thế giới. ở đây có điểm gặp nhau về nhu cầu phát triển kinh tế của các nước phát triển và các nước đang phát triển. Sự thôi thúc tìm kiếm nguồn nhân công giá rẻ và nguyên liệu đã thúc đẩy các nước phát triển di chuyển các cơ sở sản xuất công nghiệp dùng nhiều lao động, tài nguyên ra nước ngoài, đến gần các nguồn lực đó. Còn các nước đang phát triển, thấy được lợi thế và hạn chế của mình, đã cố gắng tạo ra một môi trường kinh tế thích hợp để thu hút đầu tư từ bên ngoài nhằm giải quyết những bế tắc kinh tế của mình và thực hiện chiến lược công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu. Khu chế xuất được thành lập trên cơ sở kiến tạo những điều kiện, yếu tố thuận lợi về pháp lý và kĩ thuật hạ tầng trên một địa bàn hạn chế phù hợp với khả năng về tài chính, quản lý; là một sách lược khôn khéo, linh hoạt và rất có ý nghĩa cả về phương diện vận dụng tư duy lý thuyết kinh tế vào thực tiễn các quan hệ kinh tế quốc tế của các nước đang phát triển. Khu chế xuất cũng chính là hình thức tạo ra những điều kiện để có thể lợi dụng và phát huy nhanh chóng các lợi thế so sánh của một nước hay một vùng bằng cách tham gia tích cực vào phân công lao động quốc tế. Rõ ràng, xét về mặt lợi ích và hiệu quả theo nguyên lý của lí thuyết lợi thế so sánh, khu chế xuất là nơi hội tụ về quyền lợi của các nước đang phát triển và các công ty xuyên quốc gia, người nắm giữ phần lớn nguồn đầu tư trực tiếp của nước ngoài hiện nay trên thế giới. b. Định nghĩa: Với tính chất là khu chuyên sản xuất hàng xuất khẩu, đứng ngoài chế độ mậu dịch và thuế quan của một nước, ngày nay có nhiều cách hiểu khác nhau về khu chế xuất, và do đó, có nhiều định nghĩa khác nhau về mô hình kinh tế này. - Định nghĩa của Hiệp hội các khu chế xuất thế giới( WEPZA): Theo điều lệ hoạt động của WEPZA, khu chế xuất bao gồm tất cả các khu vực được Chính phủ các nước cho phép như cảng tự do, khu mậu dịch tự do, khu công nghiệp tự do hoặc bất kì khu vực ngoại thương hoặc khu vực khác được WEPZA công nhận. Định nghĩa này về cơ bản đồng nhất khu chế xuất với khu vực miễn thuế. Theo định nghĩa này, có thể xếp Hồng Kông và Singapo vào các khu chế xuất. - Định nghĩa của Tổ chức phát triển công nghiệp Liên hợp quốc( UNIDO): Theo UNIDO, khu chế xuất là "khu vực được giới hạn về hành chính, có khi về địa lý, được hưởng một chế độ thuế quan cho phép tự do nhập khẩu trang bị và sản phẩm nhằm mục đích sản xuất sản phẩm xuất khẩu. Chế độ thuế quan được ban hành cùng với những qui định luật pháp ưu đãi, chủ yếu về thuế nhằm thu hút đầu tư nước ngoài." Khái niệm khu chế xuất bao hàm viêc thành lập các nhà máy hiện đại trong một khu công nghệp và một loạt những ưu đãi nhằm khuyến khích việc đầu tư của các nhà kinh doanh nước ngoài vào nước sở tại. Với định nghĩa hẹp nói trên của UNIDO, về bản chất hoạt động kinh tế khu chế xuất khác với khu mậu dịch tự do, cảng tự do. Bởi hoạt động chính trong khu chế xuất là sản xuất công nghiệp, mặc dù trên thực tế các hoạt động kinh doanh cũng được thực hiện tại một số khu chế xuất. - Định nghĩa củaViệt Nam: Theo Qui chế khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao- ban hành kèm theo Nghị định số 36/ CP ngày 24/ 4/ 1997, khu chế xuất là "khu chuyên sản xuất hàng xuất khẩu, thực hiện các dịch vụ cho sản xuất hàng xuất khẩu và hoạt động xuất khẩu, có ranh giới địa lý xác định, không có dân cư sinh sống; do Chính phủ hoặc Thủ tướng chính phủ quyết định thành lập”. Như vậy, về cơ bản, khu chế xuất ở Việt Nam cũng được hiểu theo như định nghĩa hẹp của UNIDO. 1.2 Khu công nghiệp: a. Khu công nghiệp- sự cải biên cần thiết của khu chế xuất cổ điển. - Hạn chế của mô hình khu chế xuất cổ điển: Có thể thấy rằng, khu chế xuất là một trong những công cụ hành chính để tạo ra thể chế thương mại tự do cho các nghành công nghiệp chế biến xuất khẩu. Sự thành công của các khu chế xuất, đặc biệt là ở các nước Châu á như Đài Loan, Hàn Quốc, Singapore, Hồng Kông, Malaixia, đặc khu kinh tế Trung Quốc... trong hơn 3 thập kỉ qua đã đóng góp tích cực vào trào lưu phổ thông hoá công cụ thúc đẩy xuất khẩu này. Theo các chuyên gia kinh tế, sở dĩ khu chế xuất được thành lập nhiều và thu được nhiều thành công lớn ở các nước Châu á, vì đây là khu vực có lực lượng lao động dồi dào, giá nhân công thấp, lại nằm trên các tuyến đường hàng hải nối liền các cảng và trung tâm thương mại sôi động vào bậc nhất thế giới. Các khu chế xuất châu á chiếm gần 70% số lao động trong các khu chế xuất trên toàn thế giới và tuy chỉ chiếm một phần nhỏ lượng xuất khẩu của một nước, nhưng tổng kim nghạch xuất khẩu của Đài Loan, Hàn Quốc, Malaixia gộp lại chiếm 80% lượng xuất khẩu của các khu chế xuất trên thế giới. Song sự thành công của những nước nói trên với các khu chế xuất thực sự rất khó lặp lại ở các nước đang phát triển khác.Có nhiều nguyên nhân dẫn đến điều này: + Một là, có quá nhiều khu chế xuất được thành lập ở các nước, tạo nên thị trường dư thừa khu chế xuất tập trung với một mật độ cao trong một khu vực có nhiều điều kiện kinh tế, xã hội, địa lý giống nhau. Tình trạng đó dẫn đến sự cạnh tranh gay gắt thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài giữa các khu chế xuất, buộc các nước này phải có nhiều nhân nhượng lớn hơn về tài chính và các yếu tố sản xuất khác, trong khi chưa tạo được môi trường kinh doanh ưu đãi và cơ sở hạ tầng tốt cho đầu tư. + Hai là, khi thành lập các khu chế xuất, ngoài mục tiêu xuất khẩu, các nước đều hi vọng sẽ tạo được nhiều công ăn việc làm, lợi dụng được kĩ thuật nước ngoài, tạo mối liên kết và cung cấp đầu vào cho nền kinh tế bản địa. Trên thực tế, các mục tiêu này của khu chế xuất rất khó thực hiện. Theo báo cáo của Ngân hàng thế giới khả năng tạo việc làm, chuyển giao công nghệ và tạo mối liên kết với các cơ sở sản xuất trong nước của các khu chế xuất là rất hạn chế, trong khi đó, đóng góp của các khu chế xuất trong tổng kim nghạch xuất khẩu các nước cũng rất khiêm tốn, chỉ ở mức 4-5%. + Ba là, do yêu cầu tăng xuất khẩu hàng hoá và nguồn thu ngoại tệ về cho đất nước, đồng thời phải bảo hộ nền sản xuất trong nước, nên các nước đều buộc xí nghiệp khu chế xuất phải xuất khẩu toàn bộ sản phẩm ra thị trường thế giới. Chính vì vậy nên khu chế xuất thường được bố trí là một khu vực lãnh thổ khép kín, có hàng rào bao quanh để thuận tiện cho quản lý hải quan. Chính yêu cầu xuất khẩu đặt các nhà đầu tư trong khu chế xuất trước những khó khăn trong việc tìm kiếm thị trường xuất khẩu sản phẩm của khu chế xuất vốn có nhiều loại tương đồng, với đặc trưng chung là hàng công nghiệp nhẹ và công nghiệp điện tử. Trong khi đó thị trường trong nước có dung lượng lớn và là điểm hi vọng của các nhà đầu tư thì hầu như bị khép lại trước các xí nghiệp khu chế xuất. Hơn nữa, việc không cho tiêu thụ hàng hoá của các khu chế xuất, mà chủ yếu là của các công ty nước ngoài trên thị trường nội địa, không tạo nên môi trường kinh doanh có tính cạnh tranh cao giữa các loại sản phẩm - yếu tố chính để đa dạng hoá và nâng cao chất lượng hàng sản xuất trong nước. Điều đó có tác động tiêu cực đối với khả năng tăng năng lực xuất khẩu của đất nước nói chung. Có thể thấy nguyên tắc "mở ngoài, đóng trong" đối với các khu chế xuất có thể làm chậm tiến trình cải cách thương mại cần thiết trên phạm vi cả nước, không còn thích hợp với quan hệ hợp tác kinh tế quốc tế và nhu cầu đầu tư phát triển trong nước giai đoạn mới. vì vậy, để khắc phục những hạn chế trên đây của mô hình khu chế xuất cổ điển, nhiều nước đã chuyển sang phát triển mô hình kinh tế uyển chuyển, năng động hơn, trong đó thị trường trong nước được tính đến như một yếu tố hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nước ngoài, đó chính là khu công nghiệp tập trung. Khu công nghiệp - mô hình kinh tế khắc phục những hạn chế của mô hình khu chế xuất cổ điển. Khu công nghiệp là mô hình kinh tế linh hoạt hơn do các nhà đầu tư nước ngoài - đối tượng đầu tư chủ yếu vào khu công nghiệp - tận dụng được thị trường nội địa như một yếu tố hấp dẫn đối với hàng hoá của doanh nghiệp trong khu. Đây là vấn đề hết sức quan trọng, thực sự thu hút các nhà đầu tư nước ngoài vì đối với họ thị trường nội địa còn là một thị trường mới, có dung lượng lớn, trong khi đó thị trường thế giới đã trở nên bão hoà đối với các loại sản phẩm của các doanh nghiệp khu công nghiệp vốn giống nhau cả về chủng loại và chất lượng. Hơn nữa, việc mở cửa thị trường nội địa cũng phù hợp với xu hướng tự do hoá mậu dịch trên thế giới và khu vực... Việc tiêu thụ hàng hoá của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài nói chung và doanh nghiệp khu công nghiệp nói riêng tại thị trường trong nước góp phần tích cực đẩy lùi và ngăn chặn hàng nhập lậu từ bên ngoài tràn vào , đây cũng là yếu tố kích thích cạnh tranh, nâng cao chất lượng hàng sản xuất trong nước, từ đó nâng cao khả năng xuất khẩu hàng hoá ra thị trường thế giới. Do không bị sức ép phải xuất khẩu toàn bộ sản phẩm ra nước ngoài, khu công nghiệp có thể được các nhà đầu tư trong nước quan tâm do có môi trường và điều kiện kinh doanh dễ dàng hơn so với khu chế xuất. b. Định nghĩa: Tuỳ điều kiện từng nước mà Khu công nghiệp có những nội dung hoạt động kinh tế khác nhau. Nhưng tựu trung lại, hiện nay trên thế giới có hai mô hình phát triển Khu công nghiệp, cũng từ đó hình thành hai định nghĩa khác nhau về khu công nghiệp. - Định nghĩa 1: Khu công nghiệp là khu vực lãnh thổ rộng có nền tảng là sản xuất công nghiệp, đan xen với nhiều hoạt động dịch vụ, kể cả dịch vụ sản xuất công nghiệp, dịch vụ sinh hoạt, vui chơi giải trí, khu thương mại, văn phòng, nhà ở... Khu công nghiệp theo quan niệm này về thực chất là khu hành chính - kinh tế đặc biệt như khu công nghiệp Batam Indonesia, các công viên công nghiêp ở Đài Loan, Thái Lan và một số nước Tây Âu. - Định nghĩa 2: Khu công nghiệp là khu vực lãnh thổ có giới hạn nhất định, ở đó tập trung các doanh nghiệp công nghệp và dịch vụ sản xuất công nghiệp, không có dân cư sinh sống. Đi theo quan niệm này, ở một số nước như Malaixia, Indonesia, Thái Lan, Đài Loan đã hình thành nhiều khu công nghiệp với qui mô khác nhau. - Định nghĩa của Việt Nam: Theo Qui chế khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao - ban hành kèm theo Nghị định số 36/ CP ngày 24/ 4/ 1997, khu công nghiệp là "khu tập trung các doanh nghiệp khu công nghiệp chuyên sản xuất hàng công nghiệp và thực hiện các dịch vụ cho sản xuất công nghiệp, có ranh giới địa lý xác định, kông có dân cư sinh sống; do Chính phủ hoặc Thủ tướng chính phủ quyết định thành lập. Trong khu công nghiệp có thể có doanh nghiệp chế xuất". Như vậy, khu công nghiệp ở Việt Nam được hiểu giống với định nghĩa hai. 1.3 Sự giống và khác nhau giữa KCN, KCX: a. Giống nhau: - Một là, qui mô khu chế xuất và khu công nghiệp gần như nhau, khoảng một vài trăm ha. Thí dụ diện tích khu chế xuất Tân Thuận là 300 ha, khu chế xuất Linh Trung là 60 ha, khu chế xuất Hải Phòng là 100 ha; diện tích khu công nghiệp Biên Hoà là 365 ha, khu công nghiệp Nội Bài là 100 ha, khu công nghiệp Sài Đồng là 97 ha... - Hai là, các doanh nghiệp trong khu chế xuất và khu công nghiệp chủ yếu có qui mô vừa và nhỏ, thường dưới 5 triệu đôla, với số lao động khoảng từ 300 đến 400 người. Những ngành nghề đặc trưng trong khu chế xuất và khu công nghiệp là: điện tử, sợi dệt, may mặc, chế biến thực phẩm, hàng tiêu dùng, cơ khí chế tạo, các ngành không gây ô nhiễm môi trường hoặc gây ô nhiễm ít có thể xử lí bằng các biện pháp và phương tiện trong khu... - Ba là, đối tượng đầu tư trong khu chế xuất và khu công nghiệp là các tổ chức kinh tế và cá nhân Việt Nam, người Việt Nam định cư ở nước ngoài và người nước ngoài cư trú lâu dài ở Việt Nam, các tổ chức kinh tế và cá nhân ở nước ngoài. - Bốn là, về hình thức đầu tư, trong khu chế xuất và khu công nghiệp được thành lập doanh nghiệp 100% vốn của nhà đầu tư, doanh nghiệp liên doanh, hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hợp tác kinh doanh. - Năm là, để xây dựng và kinh doanh cơ sở hạ tầng khu chế xuất và khu công nghiệp, có thể dùng phương thức trong nước tự đầu tư hoặc kêu gọi đầu tư trực tiếp của nước ngoài theo hình thức doanh nghiệp liên doanh hoặc doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. - Sáu là, để quản lí Nhà nước đối với khu chế xuất và khu công nghiệp, Thủ tướng Chính phủ thành lập Ban quản lí. Ban quản lí khu chế xuất và khu công nghiệp là cơ quan thực hiện dịch vụ quản lí "một cửa" cho các nhà đầu tư. b. Khác nhau: - Thứ nhất, về mục tiêu hoạt động, doanh nghiệp khu chế xuất phải xuất khẩu toàn bộ sản phẩm ra thị trường ngoài nước, còn doanh nghiệp khu công nghiệp được tiêu thụ sản phẩm tại thị trường trong nước và xuất khẩu. - Thứ hai, do xuất phát từ mục tiêu khác nhau, nên có một số điều kiện ưu đãi dành cho các doanh nghiệp trong khu chế xuất và khu công nghiệp cũng khác nhau. Theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đầu tư nước ngoài ban hành vào tháng 7 năm 2000 và Nghị định số 24/ 2000/ NĐ- CP ngày 31 tháng 7 năm 2000 qui định chi tiết thi hành Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, điều kiện ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp dành cho doanh nghiệp khu công nghiệp và doanh nghiệp khu chế xuất như sau: + đối với doanh nghiệp khu chế xuất, bất kể là của chủ đầu tư trong hay ngoài nước đều được hưởng mức ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp cao và như nhau, doanh nghiệp sản xuất thuế thu nhập doanh nghiệp là 10%, được miễn 4 năm kể từ khi kinh doanh có lãi và giảm 50% trong 4 năm tiếp theo; doanh nghiệp dịch vụ thuế thu nhập doanh nghiệp là 15%, được miễn 2 năm kể từ khi kinh doanh có lãi và giảm 50% trong 3 năm tiếp theo. + đối với doanh nghiệp khu công nghiệp, doanh nghiệp sản xuất thuế thu nhập doanh nghiệp là 10% (với điều kiện xuất khẩu từ 80% sản phẩm trở lên) được miễn 4 năm kể từ khi kinh doanh có lãi và giảm 50% trong 4 năm tiếp theo, là 15% (với điều kiện xuất khẩu trên 50% sản phẩm) được miễn 2 năm kể từ khi kinh doanh có lãi và giảm 50% trong 3 năm tiếp theo; doanh nghiệp dịch vụ thuế thu nhập doanh nghiệp là 20%, được miễn 1 năm kể từ khi kinh doanh có lãi và giảm 50% trong 2 năm tiếp theo. 2. Mục tiêu và đặc điểm của khu công nghiệp, khu chế xuất: 2.1 Mục tiêu: Sự hình thành và phát triển của các khu công nghiệp, khu chế xuất trên thế giới gắn liền với những mục tiêu của các nước thành lập khu công nghiệp, khu chế xuất và những mục tiêu của nhà đầu tư nước ngoài. 2.1.1 Mục tiêu của nhà đầu tư nước ngoài: - Giảm chi phí sản xuất sản phẩm bằng cách tận dụng các yếu tố sản xuất rẻ ở các nước đang phát triển. Sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế các nước phát triển, nhất là từ đầu những năm 60, đã vấp phải khó khăn về nguồn lao động ở các nước đó. Khi tại các nước này, nguồn nhân công tiền công thấp ngày càng khan hiếm, giá lao động, chi phí bảo hiểm xã hội ngày một tăng, đã thúc đẩy các công ty xuyên quốc gia nhanh chóng quyết định chuyển các ngành công nghiệp có hàm lượng lao động sống cao sang các nước đang phát triển. Thêm vào đó, do giá đất ngày càng cao, sự phát triển của các ngành dùng nhiều nguyên liệu, công nghiệp tiêu chuẩn hóa như cơ khí chế tạo, sản xuất cấu kiện... không đòi hỏi trình độ công nghệ cao tại các nước tư bản phát triển tỏ ra không còn hiệu quả do các khoản chi phí vận chuyển nguyên liệu nhập khẩu từ bên ngoài ngày càng tăng, làm giảm khả năng cạnh tranh của họ trên thị trường thế giới. Điều này có thể giúp chúng ta lí giải vì sao các công ty xuyên quốc gia lại thường đầu tư vào những ngành công nghiệp nhẹ, chế biến, lắp ráp như dệt, may mặc, điện tử, sản xuất kim khí ở các khu công nghiệp, khu chế xuất của các nước đang phát triển. - Tránh hàng rào thuế quan do chính sách bảo hộ mậu dịch của các nước đang phát triển, tận dụng các chính sách ưu đãi về tài chính, nhất là về thuế và các ưu đãi khác của các nước này nhằm tăng cường lợi ích của các công ty xuyên quốc gia. - Bảo vệ môi trường của các nước phát triển. Sự phát triển ồ ạt các ngành công nghiệp, nhất là các ngành công nghiệp nhiều phế thải đã gây nên tình trạng ô nhiễm môi trường không kiểm soát nổi ở các nước phát triển, làm cho chi phí bảo vệ môi trường ngày càng tăng. Xu hướng chung của các công ty xuyên quốc gia là muốn chuyển các ngành công nghiệp này sang các nước đang phát triển để bảo vệ môi trường nước họ và giảm chi phí sản xuất. - Tạo địa bàn hoạt động và thực hiện chiến lược phát triển lâu dài. Khi đầu tư ra nước ngoài, trong đó có đầu tư vào khu công nghiệp, khu chế xuất, các công ty tư bản nước ngoài muốn mở rộng địa bàn hoạt động, tạo chỗ đứng, chuẩn bị cho những bước đi lâu dài trong chiến lược phát triển của họ. Đầu tư của các nước phương Tây, Nhật Bản, Đài Loan và Hồng Kông vào Trung Quốc là điển hình của xu hướng đó. 2.1.2 Mục tiêu của các nước thành lập: Trong khi các công ty tư bản nước ngoài tìm kiếm lợi ích của mình thông qua các động cơ không cần che giấu đó, thì các nước tiếp nhận đầu tư cũng cố gắng đạt được những mục tiêu chiến lược của mình thông qua việc thành lập các khu công nghiệp, khu chế xuất. ở đây khó có thể đề cập đến mục tiêu của từng nước đang phát triển, bởi lẽ mỗi nước trong mỗi khu vực có những điều kiện và mục tiêu phát triển kinh tế riêng. Song nếu phân tích từ giác độ vĩ mô, có thể tóm lại mục tiêu cơ bản và thống nhất của các nước này như sau: - Thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Đây là mục tiêu quan trọng nhất của khu công nghiệp, khu chế xuất. Với tính chất là "vùng lãnh thổ" hoạt động theo một qui chế riêng trong môi trường đầu tư chung của cả nước, khu công nghiệp, khu chế xuất trở thành công cụ hữu hiệu thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài để mở mang hoạt động sản xuất kinh doanh trong khu và đạt tới tốc độ tăng trưởng kinh tế chung của cả nền kinh tế. Các nước chủ nhà, trong nhiều trường hợp, đã thông qua khu công nghiệp, khu chế xuất như một cầu nối trung gian để thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào các phần lãnh thổ còn lại của đất nước. - Mở rộng hoạt động ngoại thương. Thông qua việc thành lập khu công nghiệp, khu chế xuất, nước chủ nhà muốn đẩy mạnh hoạt đông ngoại thương với các nước. Sau khi giành được độc lập sau chiến tranh thế giới lần thứ II, nhiều nước đang phát triển ở Châu á - Thái Bình Dương muốn đẩy mạnh công nghiệp hoá, xây dựng nền kinh tế độc lập của mình. Họ vấp phải khó khăn không thể vượt qua do thiếu nguồn ngoại tệ. Thành lập khu chế xuất để tăng nhanh xuất khẩu hàng hoá và thu ngoại tệ là con đường mà nhiều nước theo đuổi. Những nước xưa nay vốn dựa vào hoạt động xuất khẩu và chuyển khẩu để phát triển kinh tế như Singapo, Hồng Kông thường thông qua việc mở khu chế xuất, bảo đảm những biện pháp quản lý đặc biệt và điều kiện ưu đãi nhằm thu hút phương tiện và nguồn hàng các nước đến để thực hiện dịch vụ xuất khẩu và chuyển khẩu. Đối với nước đang phát triển khác, việc lập ra các khu công nghiệp, khu chế xuất để thu hút vốn đầu tư và kĩ thuật tiên tiến của nước ngoài, mở rộng công nghiệp xuất khẩu, từ đó tạo ra những mặt hàng xuất khẩu có giá trị lớn là điều quan tâm nhất. Theo hướng này, ở nhiều nước Châu á - Thái Bình Dương, xuất khẩu hàng công nghiệp sản xuất ở khu công nghiệp, khu chế xuất chiếm tỉ trọng đáng kể trong tổng kim ngạch xuất khẩu ở các nước đó. - Tạo công ăn việc làm. Khuyến khích toàn dụng lao động là một trong những mục tiêu quan trọng của các nước đang phát triển. Sau chiến tranh thế giới lần thứ II, sự bùng nổ dân số và tình trạng thất nghiệp đã làm cho bức tranh kinh tế của các nước này càng trở nên ảm đạm. Trong khi các nước mới dành được độc lập dư thừa sức lao động thì tình trạng thiếu nguồn lao động, đặc biệt là lao động tiền công thấp ở các nước tư bản phát triển đặt các nước này trước sự lựa chọn sử dụng nguồn lao động dồi dào trong đội quân thất nghiệp khổng lồ ở các nước đang phát triển. Mở mang khu công nghiệp, khu chế xuất để tạo ra nhiều hơn chỗ làm việc là mục tiêu chung của các nước đang phát triển. Thực tiễn cho thấy, khu công nghiệp, khu chế xuất là công cụ hữu hiệu thực hiện chiến lựoc lâu dài về toàn dụng lao động ở các nước đó. - Du nhập kĩ thuật, công nghệ tiên tiến và học tập kinh nghiệm quản lý của các công ty tư bản nước ngoài. Vào những năm của thập kỷ 70 và 80, để tránh bị tụt hậu về kinh té, đặc biệt là trong sản xuất công nghiệp và tăng sức cạnh tranh hàng xuất khẩu trên thị trường thế giới, các nước đang phát triển muốn mau chóng phát triển khoa học kĩ thuật của mình, nâng cao trình độ quản lý kinh tế đất nước. Xây dựng khu công nghiệp, khu chế xuất để thu hút vốn đầu tư nước ngoài, từ đó tạo điều kiện nhập khẩu kĩ thuật, công nghệ của các công ty tư bản nước ngoài, học tập kinh nghiệm quản lý kinh tế của họ là biện pháp hữu hiệu mà nhiều nước từng áp dụng. ở Đài Loan, khi xây dựng khu chế xuất Cao Hùng, thu hút các bí quyết kĩ thuật hiện đại trong các ngành điện tử, sản xuất hàng tiêu dùng là nhiệm vụ trọng tâm được đặt lên hàng đầu. Phát triển hợp tác và trao đổi kĩ thuật phục vụ cho công cuộc bốn hiện đại hoá là mục tiêu luôn được quan tâm của Trung Quốc, đặc biệt ở các đặc khu kinh tế được thành lập trong những năm cuối thập kỷ 70 đầu thập kỷ 80 và các khu khai phát, khu công nghiệp kỹ thuật cao được thành lập trong những năm gần đây. - Làm cầu nối hội nhập nền kinh tế trong nước với kinh tế thế giới, thúc đẩy sự phát triển kinh tế trong nước. Trước hết, hàng tiêu dùng từ các khu công nghiệp cung cấp cho thị trường nội địa ở thành thị và nông thôn đủ sức cạnh tranh và ngăn chặn hàng nhập lậu từ nước ngoài, đồng thời góp phần tăng sản xuất hàng xuất khẩu. Còn khu chế xuất, với tính chất là khu vực sản xuất hàng xuất khẩu, hoạt động của khu chế xuất chủ yếu hướng ra thị trường thế giới. Vì vậy, có thể xem khu công nghiệp, khu chế xuất như là một cửa ngõ khai thông nền kinh tế trong nước với kinh tế khu vực và thế giới. Mặt khác, khu công nghiệp, khu chế xuất vốn là một bộ phận cấu thành của kinh tế trong nước, tạo nên sức hút với nhà đầu tư nước ngoài. Tạo ra năng lực sản xuất mới, thu hút lao động trong nước vào làm việc ở các khu công nghiệp, khu chế xuất, phát triển mối liên kết với các doanh nghiệp trong nước nằm ngoài khu công nghiệp, khu chế xuất thông qua các hợp đồng gia công, cung cấp nguyên liệu giữa các xí nghiệp này là thực tế diễn ra ở nhiều khu công nghiệp, khu chế xuất, đặc biệt là các đặc khu kinh tế Trung Quốc, khu công nghiệp, khu chế xuất ở Hàn Quốc và Đài Loan. Dù được thành lập trong những điều kiện khác nhau, với tính chất và thời điểm khác nhau, nhưng những mục tiêu của khu công nghiệp, khu chế xuất đều gắn liền với mục tiêu phát triển kinh tế của từng quốc gia. Chính vì vậy, liều lượng và tính chất ưu tiên đối với mục tiêu cụ thể của từng nước cũng rất khác nhau, thể hiện qua những ưu đãi mà Chính phủ các nước này dành cho khu công nghiệp, khu chế xuất. Thí dụ, trong khi Đài Loan, Hàn Quốc, Malaixia, Philipin dường như đặt lên hàng đầu mục tiêu xuất khẩu và tạo việc làm, Xrilanca và ấn Độ chú trọng vào việc thu hút vốn, thì Trung Quốc lại ưu tiên nhiều hơn cho mục tiêu thúc đẩy, lôi kéo sự phát triển nền kinh tế khu vực ngoài khu công nghiệp, khu chế xuất. ở Việt Nam, thu hút vốn đầu tư nước ngoài, tăng nhanh xuất khẩu để có thu nhập ngoại tệ, góp phần thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, tạo công ăn việc làm cho người lao động là nhiệm vụ quan trọng nhất của hoạt động đầu tư trực tiếp. Việc thành lập các khu công nghiệp, khu chế xuất ở Việt Nam là biện pháp tích cực để thực hiện mục tiêu chiến lược đó. Song để có các khu công nghiệp, khu chế xuất thành công, điều cơ bản của các nước chủ nhà là phải gắn mục tiêu của các khu với mục tiêu của các công ty xuyên quốc gia - đối tượng đầu tư chủ yếu của các khu. Nói cách khác hai bên phải tìm được điểm gặp nhau, đó chính là lợi ích của các bên mà khu công nghiệp, khu chế xuất là công cụ thực hiện. Lợi ích đó chỉ có thể đạt được trong môi trường đầu tư do các nước chủ nhà tạo ra để sẵn sàng đón nhận đầu tư của các công ty xuyên quốc gia. 2.2 Đặc điểm: Các khu công nghiệp, khu chế xuất đều là công cụ thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài để tạo ra những năng lực sản xuất mới, hiện đại đáp ứng nhu cầu về hàng hoá của thị trường trong nước và thế giới. Với cơ cấu được hình thành trên cơ sở kĩ thuật và công nghệ tiên tiến, khu công nghiệp, khu chế xuất bao gồm những đặc điểm sau: - Thứ nhất, trong khu chế xuất và khu công nghiệp được thành lập các doanh nghiệp chuyên sản xuất hàng công nghiệp (đối với khu công nghiệp) hàng xuất khẩu (đối với khu chế xuất), và các doanh nghiệp thực hiện các dịch vụ cho sản xuất công nghiệp (đối với khu công nghiệp) cho sản xuất hàng xuất khẩu và hoạt động xuất khẩu (đối với khu chế xuất), là những doanh nghiệp cơ bản đáp ứng yêu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. - Thứ hai, việc hình thành khu chế xuất và khu công nghiệp tạo nên sự thay đổi một cách căn bản về hạ tầng kĩ thuật trong và ngoài khu, là cơ sở để hình thành các khu vực đô thị, các thành phố công nghiệp trong tương lai. - Thứ ba, khu chế xuất và khu công nghiệp góp phần vào việc tạo ra hiệu quả kinh tế - xã hội, trước hết là giải quyết công ăn việc làm cho người lao động, tăng thu nhập và nâng cao phúc lợi cho khu vực lãnh thổ có các khu này. - Thứ tư, tạo nên sự liên kết với các cơ sở kinh tế trong nước, trước hết là khu vực quanh khu chế xuất._. và khu công nghiệp. Như vậy, việc thành lập khu chế xuất và khu công nghiệp cùng có tác động nhiều mặt đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, từ việc tổ chức cơ cấu lại kinh tế vùng lãnh thổ, bố trí dân cư, phát triển hạ tầng kiến trúc, bảo vệ môi trường đến việc nâng cao mức sống nhân dân II. Quan hệ giữa việc phát triển khu công nghiệp, khu chế xuất ở Việt Nam với việc tăng cường thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. 1. Khu công nghiệp, khu chế xuất- sự phát triển tất yếu của hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài. Bước vào thập kỉ cuối cùng của thế kỉ 20, tình hình kinh tế thế giới và quan hệ kinh tế giữa các nước, các khu vực có những biến chuyển nhanh chóng và sâu sắc do tác động của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật và công nghệ, cũng như tình hình chính trị thế giới. Để nhanh chóng thích ứng với những biến đổi ấy, ở nhiều nước đã diễn ra quá trình cơ cấu lại kinh tế theo hướng tận dụng tốt nhất những lợi thế so sánh của mình trong phân công lao động quốc tế, đồng thời mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế với tất cả các nước. Phù hợp với xu thế chung của quan hệ kinh tế quốc tế đó, ở nước ta cải cách kinh tế theo hướng "mở cửa" đã đạt được những thành tựu quan trọng. Vào thời điểm khi nền kinh tế đang đi dần vào thế ổn định, vấn đề tăng nhanh vốn đầu tư để duy trì và tăng tốc độ tăng trưởng kinh tế, khắc phục nguy cơ tụt hậu về phát triển giữa nước ta và các nước được đặt ra hết sức cấp bách. Khuyến khích đầu tư trong nước, đồng thời thu hút vốn đầu tư nước ngoài là giải pháp chính cho vấn đề nói trên. Nhưng khi nguồn đầu tư trong nước còn hạn chế, hơn nữa lại chưa tạo ra được môi trường để huy động tối đa nguồn vốn đó, thì nguồn lực bên ngoài chiếm tỷ trọng lớn hơn và đáp ứng cho việc xây dựng các công trình quan trọng có ý nghĩa quyết định đối với công nghiệp hoá và chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài là một trong những bộ phận quan trọng nhất của chính sách "mở cửa". Thêm vào đó Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, được Quốc hội CHXHCN Việt Nam ban hành ngày 29 tháng 12 năm 1987 và đã qua nhiều lần sửa đổi, đã tạo môi trường pháp lý cho hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài. Theo Luật đầu tư, Nhà nước Viêt Nam cam kết bảo đảm lợi ích của các nhà đầu tư nước ngoài trong đầu tư vốn, bảo đảm cho tiền vốn và tài sản của họ không bị quốc hữu hoá hoặc bị tịch thu trong quá trình hoạt động; khuyến khích đầu tư thông qua các điều kiện ưu đãi về thuế, bao gồm miễn, giảm thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài và các điều kiện thuận lợi khác về cư trú, đi lại ở Việt Nam... Luật đầu tư nước ngoài bảo đảm đối xử công bằng đối với tất cả các đối tác nước ngoài, khuyến khích họ đầu tư vào tất cả các hình thức, từ hợp đồng hợp tác kinh doanh, doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp 100% vốn của các nhà đầu tư nước ngoài; hợp đồng xây dựng- kinh doanh- chuyển giao để xây dựng, khai thác các công trình hạ tầng... Cũng theo Luật đầu tư nước ngoài, hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài chịu sự quản lý của Uỷ ban Nhà nước về hợp tác và đầu tư - nay là Bộ Kế hoạch và Đầu tư, cơ quan giúp Chính phủ thực hiện quản lý Nhà nước về hoạt động đầu tư nước ngoài. Nội dung quản lý bao gồm: xúc tiến đầu tư, hình thành dự án; thẩm định, cấp giấy phép đầu tư; quản lý doanh nghiệp sau khi được cấp giấy phép đầu tư. Với nền tảng pháp lý nói trên, với những mục tiêu cơ bản: thu hút vốn, kĩ thuật, tạo việc làm, mở rộng thị trường và học tập kinh nghiệm quản lý tiên tiến của thế giới, hoạt động đầu tư trực tiếp đã thu được những kết quả quan trọng và gia tăng với tốc độ nhanh chóng. Tính đến thời điểm cuối năm 1994, tổng số dự án được cấp giấy phép hoạt động là 1.190 với tổng vốn đăng ký là 10.700 triệu đôla. Nhịp độ thu hút vốn đầu tư nước ngoài nhanh, năm 1994 tăng gấp 9,7 lần năm 1988, trong đó riêng năm 1994 bằng 53% của 6 năm trước đó cộng lại. Tuy đã đạt được mức tăng trương tương đối cao trong những năm đầu thực hiện Luật đầu tư, nhưng dòng đầu tư trực tiếp nước ngoài "chảy vào" nước ta vẫn gặp phải trở ngại rất lớn là cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội kém phát triển, cơ chế quản lý và thủ tục đầu tư còn quá phức tạp, phiền hà, chịu nhiều ảnh hưởng của cơ chế hành chính quan liêu, bao cấp, nói "một cửa" nhưng trên thực tế là nhiều cửa. Trong khi đó, khi gọi vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, chúng ta mới chỉ chú trọng vào những mục tiêu chính của mình, đặc biệt là xuất khẩu và tạo công ăn việc làm, mà chưa đẩy mạnh vấn đề xây dựng môi trường đầu tư tốt, nhất là một hệ thống chính sách toàn diện, đồng bộ; một cơ chế quản lý thích hợp giải quyết nhanh mọi thủ tục và yêu cầu của nhà đầu tư; một cơ sở hạ tầng đáp ứng được yêu cầu cơ bản của sản xuất công nghiệp để thu hút đầu tư nước ngoài và trong nước sản xuất hàng xuất khẩu đủ sức cạnh tranh trên thị trường thế giới và hàng cung cấp cho thị trường trong nước. nhằm thúc đẩy sản xuất hướng về xuất khẩu khi trong nền kinh tế và cơ chế quản lý đầu tư trực tiếp nước ngoài cũng như sự hiểu biết về thị trường thế giới còn hạn chế, ở nước ta khu công nghiệp và khu chế xuất được sử dụng như những công cụ để thu hút đầu tư nước ngoài, là biện pháp tăng năng lực xuất khẩu bằng cách tạo ra môi trường đầu tư tự do, điều kiện thương mại tự do và cung cấp cơ sở hạ tầng tốt, thuận lợi với một cơ chế quản lý phù hợp. Như vậy, việc thành lập khu công nghiệp, khu chế xuất để tăng năng lực xuất khẩu, thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài nhằm khai thác có hiệu quả các nguồn lực trong nước, tận dụng tối đa lợi thế so sánh của nước ta trong nền kinh tế thế giới và khu vực, góp phần vào công cuộc công nghiệp hóa- hiện đại hóa theo hướng hướng vào xuất khẩu là một tất yếu khách quan, là bước phát triển có tính chất lôgic của các chính sách phát triển kinh tế đất nước nói chung và hợp tác đầu tư nước ngoài nói riêng. 2. Sự cần thiết xây dựng và phát triển hệ thống khu công nghiệp, khu chế xuất ở Việt Nam để thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài. Đối với những nền kinh tế có trình độ phát triển thấp như nước ta, việc tạo ra những sản phẩm công nghiệp xuất khẩu đủ sức cạnh tranh trên thị trường thế giới là điều không dễ dàng, đơn giản. Muốn có dược như vậy, phải có những điều kiện và yếu tố cần thiết, trước hết là vốn, kỹ thuật công nghệ tiên tiến, đội ngũ cán bộ quản lý và công nhân lành nghề có trình độ cao để sản xuất hàng hoá với giá cả và chất lượng tốt, có khả năng cạnh tranh cao. Khu công nghiệp, khu chế xuất được coi là công cụ quan trọng và hữu hiệu nhất để thu hút vốn đầu tư và kỹ thuật, sản xuất hàng hoá cung cấp cho thị trường trong nước và xuất khẩu, đồng thời là cửa ngõ khai thông ra thị trường thế giới. ở Việt Nam, cần thiết phải phát triển mạnh hệ thống khu công nghiệp, khu chế xuất để thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài là vì: - Trong việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, đầu tư của các nước phát triển, trước hết là của các công ty xuyên quốc gia và tập đoàn tư bản lớn là nguồn đầu tư quan trọng nhất. Trong cuộc cạnh tranh bành trướng thị trường, các công ty xuyên quốc gia có xu hướng di chuyển một bộ phận năng lực sản xuất công nghiệp, thường là ngành công nghiệp có hàm lượng lao động, vật chất cao, không đòi hỏi trình độ thật tinh vi đến gần những nơi có nguồn nguyên liệu và nhân công rẻ, cước phí vận chuyển không quá lớn và có những điều kiện ưu đãi. ở những nơi này, các công ty xuyên quốc gia vừa không bị hạn chế bởi hàng rào quan thuế bảo hộ mậu dịch và các thủ tục hành chính quản lý phức tạp của nước chủ nhà, vừa phát huy được hiệu quả đầu tư do giảm chi phí sản xuất. Khu công nghiệp, khu chế xuất chính là môi trường thuận lợi nhất giúp cho các công ty xuyên quốc gia đầu tư sản xuất hàng xuất khẩu. - Sự yếu kém về kết cấu hạ tầng kỹ thuật và xã hội trên những vùng rộng lớn của đất nước đã hạn chế khả năng tăng trưởng kinh tế và thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài của cả nước nói chung và của từng vùng nói riêng. Mặc dù chúng ta đã có nỗ lực to lớn trong xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng nhưng do khả năng nguồn vốn hạn hẹp, nên trong một thời gian ngắn không thể khắc phục nhược điểm này trên qui mô toàn quốc, mà cần thiết phải có các biện pháp đặc biệt đối với từng khu vực, từng vùng, trước hết là ở những địa bàn có nhiều điều kiện phát triển công nghiệp, nhằm khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài chuyển vốn, phương tiện kỹ thuật để sản xuất hàng hoá, tạo môi trường liên kết với nền kinh tế trong nước. Khu công nghiệp, khu chế xuất là một địa bàn nhỏ hẹp có thể tập trung mọi điều kiện cần thiết để tạo ra cơ sở hạ tầng đạt trình độ quốc tế, với chi phí thấp đáp ứng đòi hỏi của các nhà đầu tư nước ngoài. - Trở lại thời kỳ 1991- 1994, xuẫt khẩu nước ta đã đạt được tốc độ tăng trưởng cao, chủ yếu là do xuất khẩu dầu mỏ ngày càng tăng trong khi gạo, hàng hải sản, nông sản và hàng may mặc vẫn duy trì ở mức xuất khẩu khá. Song dự trữ dầu mỏ có hạn, khả năng xuất khẩu gạo và nông sản nguyên dạng cũng có giới hạn bởi diện tích đất trồng trọt, nên muốn tiếp tục tăng trưởng xuất khẩu phải có những chuyển biến về cơ cấu xuất khẩu theo hướng tăng các mặt hàng công nghiệp chế tạo. Phát triển công nghiệp chế tạo vừa nâng cao hiệu quả xuất khẩu, tận dụng được ưu thế lao động rẻ, vừa góp phần nâng cao sức cạnh tranh của hàng xuất khẩu Việt Nam trên thị trường thế giới. Xây dựng và phát triển hệ thống khu công nghiệp, khu chế xuất ở nước ta sẽ có tác dụng tăng cường thu hút vốn đầu tư từ các nhà đầu tư trong nước và các nhà đầu tư nước ngoài, qua đó có thể xây dựng được một số lượng lớn các doanh nghiệp chế biến và chế tạo trong các khu, thực hiện chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu và nâng cao năng lực xuất khẩu. - Luật đầu tư nước ngoài là cơ sở pháp lý quan trọng tạo ra môi trường thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài. Tuy vậy những qui định về quản lý và thủ tục hành chính đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài vẫn còn phức tạp, rườm rà, đã hạn chế tính năng động, linh hoạt của các doanh nghiệp trước những biến đổi của thị trường. Khu công nghiệp, khu chế xuất cho phép áp dụng qui chế riêng với những qui định pháp lý rõ ràng, cụ thể; thủ tục hành chính, trước hết là thủ tục hải quan, thuế tương đối đơn giản, thông thoáng, dễ áp dụng nên hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài. Hơn nữa đối với việc quản lý khu công nghiệp, khu chế xuất, chúng ta có điều kiện áp dụng chế độ dịch vụ "một cửa", theo đó các chủ doanh nghiệp trong khu chỉ cần tiếp xúc với một đầu mối là Ban quản lý khu công nghiệp, khu chế xuất để giải quyết mọi công việc; còn phía mình, cơ quan Nhà nước các cấp có thể phối hợp thông qua đầu mối này trong quá trình quản lý khu công nghiệp, khu chế xuất mà không tạo nên nhiều tầng nấc quản lý, giảm nhẹ thủ tục cho các chủ doanh nghiệp. - Khu công nghiệp, khu chế xuất được xây dựng thành công sẽ trở thành một mô hình kinh tế năng động, có hiệu quả cao. Các khu có khả năng đón nhận nhiều nguồn đầu tư lớn vào nhiều lĩnh vực, trước hết là vào các ngành công nghiệp truyền thống, đã tiêu chuẩn hoá, sử dụng nhiều lao động. Các khu cũng là nơi đào tạo cán bộ quản lý có trình độ cao, am hiểu phương pháp quản trị kinh doanh hiện đại theo cơ chế thị trường và thông lệ quốc tế, cung cấp cán bộ kỹ thuật và công nhân lành nghề có chuyên môn kỹ thuật cho các ngành kinh tế. Vì vậy, khu công nghiệp, khu chế xuất là giải pháp có hiệu quả đối với vấn đề thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, tạo công ăn việc làm. Tóm lại, với vị trí địa lý thuận lợi, trên một địa bàn nhỏ, nhưng có mật độ cao các doanh nghiệp chuyên sản xuất hàng công nghiệp (hàng xuất khẩu đối với khu chế xuất) và thực hiện các dịch vụ cho sản xuất công nghiệp (các dịch vụ cho sản xuất hàng xuất khẩu và hoạt động xuất khẩu đối với khu chế xuất) khu công nghiệp, khu chế xuất có tác dụng như một cầu nối gắn thị trường trong nước với thị trường thế giới, là nhân tố quan trọng trong việc thu hút vốn đầu tư nói chung và đầu tư trực tiếp nước ngoài nói riêng để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế đất nước và đưa nền kinh tế nước ta hội nhập với nền kinh tế thế giới. Với những lý do trên, việc xây dựng và phát triển hệ thống khu công nghiệp, khu chế xuất ở Việt Nam là một yêu cầu khách quan đối với việc tăng cường thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, phát triển kinh tế nước ta. CHƯƠNG II Thực trạng đầu tư trực tiếp nước ngoài vào khu công nghiệp, khu chế xuất ở Việt Nam trong thời gian qua. I. Tình hình các khu công nghiệp, khu chế xuất cho đến hết quí II năm 2000: 1. Sự thành lập và qui hoạch khu công nghiệp, khu chế xuất: 1.1 Sự thành lập khu công nghiệp, khu chế xuất: - Qui mô và số lượng các khu công nghiệp, khu chế xuất: Đến tháng 6/ 2000, đã có 67 khu công nghiệp, khu chế xuất được thành lập (không kể khu công nghiệp Dung Quất rộng 14000 ha nằm ở vùng Trung Bộ). Tổng diện tích đất tự nhiên của các khu công nghiệp, khu chế xuất là 11.023 ha, trong đó diện tích đất công nghiệp có thể cho thuê là 7.290 ha. Như vậy, qui mô bình quân của một khu là 164,5 ha. Khu công nghiệp có diện tích lớn nhất (không kể khu công nghiệp Dung Quất mà thực chất là khu kinh tế tổng hợp với diện tích 14.000 ha) là khu công nghiệp Phú Mỹ I tại Bà Rịa- Vũng Tàu với diện tích 954,4 ha, còn khu công nghiệp có qui mô nhỏ nhất là khu công nghiệp Bình Chiểu tại thành phố Hồ Chí Minh với diện tích 28 ha. So với các khu công nghiệp, khu chế xuất châu á - thường có diện tích từ 10,5 đến 425 ha mà phần lớn là từ 100 đến 200 ha thì khu công nghiệp, khu chế xuất của Việt nam thuộc loại khá lớn về diện tích. - Phân loại khu công nghiệp, khu chế xuất: Trong 67 khu được thành lập nói trên, có 63 khu công nghiệp, 3 khu chế xuất và đặc biệt là 1 khu công nghệ cao. Diện tích đất tự nhiên và đất công nghiệp của các khu công nghiệp, khu chế xuất và khu công nghệ cao. Số lượng Diện tích đất tự nhiên (ha) Diện tích đất công nghiệp (ha) Tổng cộng Khu công nghiệp Khu chế xuất Khu công nghệ cao 67 63 3 1 11.023 9.313 510 200 7.715 7.191 374 150 Như vậy, khu công nghiệp chiếm số lượng áp đảo, chỉ có 3 khu chế xuất trong khi có tới 63 khu công nghiệp. Có thể kể đến một số khu công nghiệp lớn, có diện tích trên 200 ha như khu công nghiệp Daewoo-Hanel ở Hà Nội, khu công nghiệp Phú Mỹ I thuộc tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu (954,4 ha), khu công nghiệp Nhơn Trạch I, II, III thuộc tỉnh Đồng Nai (với diện tích tương ứng là 430, 350, 368 ha), khu công nghiệp Hiệp Phước I ở thành phố Hồ Chí Minh (332 ha)... Ba khu chế xuất hiện nay là: khu chế xuất Tân Thuận và khu chế xuất Linh Trung ở thành phố Hồ Chí Minh, khu chế xuất Hải Phòng ở thành phố Hải Phòng. Khu công nghệ cao Hoà Lạc thuộc địa phận tỉnh Hà Tây là khu công nghệ cao duy nhất hiện nay ở Việt Nam. Đây là "khu tập trung các doanh nghiệp kĩ thuật cao và các đơn vị hoạt động phục vụ cho phát triển công nghệ cao gồm nghiên cứu-triển khai khoa học, công nghệ, đào tạo và các dịch vụ liên quan, có ranh giới địa lý xác định; do Chính phủ hoặc Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập. Trong khu công nghệ cao có thể có doanh nghiệp chế xuất." (theo Qui chế khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao ban hành kèm theo Nghị định số 36/CP ngày 24/ 4/ 1997 của Chính phủ) - Phân bố khu công nghiệp, khu chế xuất tại các vùng: Số các khu đã được thành lập tại các vùng. Vùng Số khu công nghiệp Diện tích (ha) Vùng núi Bắc Bộ Vùng Tây Nguyên Vùng đồng bằng sông Cửu Long Vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ Vùng kinh tế trọng điểm Trung Bộ ( chưa kể khu công nghiệp Dung Quất) Vùng kinh tế trọng điểm Nam Bộ Các vùng khác 2 0 6 10 7 33 9 139 0 649,6 1307 628,6 7110 1188,8 Các khu công nghiệp, khu chế xuất phân bố không đều theo lãnh thổ: tập trung chủ yếu tại 3 vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, Trung Bộ, Nam Bộ và đồng bằng sông Cửu Long (chiếm 56/ 64 khu). Trong khi đó, vùng Tây Nguyên chưa có một khu công nghiệp hay khu chế xuất nào. Vùng núi Bắc Bộ có 2 khu công nghiệp, đó là khu công nghiệp Thụy Vân thuộc tỉnh Phú Thọ được thành lập năm 1997 và khu công nghiệp Sông Công thuộc tỉnh Thái Nguyên mới được thành lập năm 1999 với diện tích nhỏ so với mặt bằng chung của cả nước. Tại những vùng này, việc xây dựng khu công nghiệp, khu chế xuất là rất khó khăn do vị trí địa lý kém thuận lợi, cơ sở hạ tầng chưa phát triển. Về diện tích, vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc có 10 khu với tổng diện tích 1.307 ha, chiếm 11,86%; vùng kinh tế trọng điểm phía Nam có 33 khu với tổng diện tích 7.110 ha, chiếm 64,5%; vùng kinh tế trọng điểm miền Trung có 7 khu với diện tích 628,6 ha, chiếm 5,7% tổng diện tích các khu công nghiệp, khu chế xuất đã được thành lập. Như vậy, các khu công nghiệp, khu chế xuất tập trung chủ yếu tại 3 vùng kinh tế trọng điểm không chỉ về mặt số lượng mà còn cả về mặt diện tích. Ngoài ra, tại vùng kinh tế trọng điểm Trung Bộ, Chính phủ đã quyết định thành lập khu công nghiệp Dung Quát( thực chất là khu kinh tế tổng hợp với diện tích 14.000 ha) và nghiên cứu xây dựng mô hình kinh tế mở Chu Lai. 1.2 Qui hoạch khu công nghiệp, khu chế xuất đến năm 2000. Đến nay, đã có 96 khu công nghiệp, khu chế xuất được xác định trong qui hoạch đến năm 2010. Số các khu công nghiệp, khu chế xuất tại các vùng theo qui hoạch. Vùng Số khu công nghiệp, khu chế xuất Vùng núi Bắc Bộ Vùng Tây Nguyên Vùng đồng bằng sông Cửu Long Vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ Vùng kinh tế trọng điểm Trung Bộ Vùng kinh tế trọng điểm Nam Bộ Các vùng khác 3 3 8 16 10 39 17 Trong đó, số khu công nghiệp, khu chế xuất được xác định trong qui hoạch được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tháng 8/ 1996 là 35 khu. Số khu công nghiệp, khu chế xuất được thành lập trước tháng 8/ 1996 là 16 và số khu công nghiệp, khu chế xuất được bổ sung (bổ sung qui hoạch hoặc đã được Thủ tướng chấp nhận về chủ trương) là 45. Đã có 67 khu công nghiệp, khu chế xuất được thành lập trên cả nước nên trong khoảng thời gian sắp tới, sẽ có thêm 29 khu mới. Nhìn chung qui hoạch phát triển khu công nghiệp, khu chế xuất phù hợp với định hướng phát triển kinh tế- xã hội của cả nước và từng vùng, tham gia tích cực vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Nói cách khác, đây là chủ trương hoàn toàn đúng đắn, nhằm mục tiêu tạo đà tăng trưởng cho công nghiệp, tăng nguồn hàng xuất khẩu, tạo việc làm và từng bước thực hiện việc phát triển công nghiệp theo qui hoạch, tránh phát triển các cơ sở công nghiệp một cách tự phát, tiết kiệm đất, thu hút và sử dụng hiệu quả vốn đầu tư phát triển hạ tầng, hạn chế ô nhiễm do chất thải công nghiệp, thúc đẩy các cơ sở sản xuất, dịch vụ cùng phát triển. Thực tế thời gian qua cho thấy khu công nghiệp, khu chế xuất được hình thành từ khu vực chưa có các yếu tố hạ tầng và doanh nghiệp công nghiệp, hoặc trên cơ sở qui hoạch lại các doanh nghiệp đã được thành lập từ trước đó. Ngoài ra có một số khu công nghiệp để sắp xếp lại các cơ sở công nghiệp qui mô vừa và nhỏ của địa phương, tạo điều kiện qui hoạch, tổ chức lại sản xuất công nghiệp, kết cấu hạ tầng và xử lý môi trường ở các tỉnh. 2. Đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng trong khu công nghiệp, khu chế xuất: - Qui mô xây dựng cơ sở hạ tầng các khu công nghiệp, khu chế xuất: Tổng vốn đầu tư đăng ký xây dựng cơ sở hạ tầng các khu công nghiệp, khu chế xuất, tính đến đầu năm 2000, vào khoảng 1.148,1 triệu đôla và 24.429 tỷ đồng. Cụ thể như sau: + Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài có tổng vốn đầu tư đăng ký là 12 triệu USD. + Doanh nghiệp liên doanh có tổng vốn đầu tư đăng ký là 879,5 triệu USD. + Doanh nghiệp Việt Nam có tổng vốn đầu tư đăng ký là 256,6 triệu USD và 24.429 tỷ đồng. Đến hết tháng 12/ 1999 có 56 khu công nghiệp, khu chế xuất triển khai đầu tư xây dựng hạ tầng. Các khu này đã thực hiện được 396,5 triệu USD và 1.133 tỷ đồng vốn xây dựng hạ tầng, chỉ bằng 25% tổng số vốn đầu tư đăng ký hoặc dự toán được duyệt. Vì vậy, đẩy nhanh thực hiện vốn xây dựng hạ tầng trong thời gian trước mắt đang là vấn đề cấp thiết đối với hệ thống các khu công nghiệp, khu chế xuất Việt Nam. Về qui mô bình quân, một khu có diện tích là 164,5 ha với vốn đầu tư xây dựng hạ tầng theo dự kiến trong hồ sơ dự án là 28,8 triệu USD (bình quân khoảng 175.000 USD/ ha). Theo số liệu tổng kết của WEPZA, một khu công nghiệp hay một khu chế xuất điển hình có diện tích khoảng 100 ha với vốn đầu tư ban đầu xây dựng hạ tầng khoảng 50 triệu USD, tạo việc làm cho 10.000 lao động và tạo ra giá trị xuất khẩu và GDP khoảng 200 triệu USD. Cũng theo WEPZA, qui mô khu đó đem lại hiệu quả cao nhất, vì phát huy nhanh vốn đầu tư xây dựng hạ tầng, dễ đảm bảo các điều kiện hoạt động cho khu như điện, nước, thông tin, giao thông vận tải, dễ vận động đầu tư vào khu mà không gây những hậu quả lớn về môi trường, về kinh tế - xã hội do tích tụ với mật độ lớn các doanh nghiệp và số lao động làm việc thường xuyên trong khu. Như vậy, đa phần các khu công nghiệp, khu chế xuất ở Việt Nam trước mắt chưa thể gọi là "điển hình". - Tiến độ đầu tư xây dựng hạ tầng khu công nghiệp, khu chế xuất. Nhìn chung, tiến độ đầu tư xây dựng hạ tầng khu công nghiệp, khu chế xuất chậm. Ngoài một số khu công nghiệp, khu chế xuất đã xây dựng xong hoặc cơ bản đã xây dựng xong cơ sở hạ tầng như khu công nghiệp Nomura Hải Phòng, khu công nghiệp Đà Nẵng ở Đà Nẵng, khu chế xuất Tân Thuận và khu chế xuất Linh Trung ở thành phố Hồ Chí Minh, khu công nghiệp Amata và khu công nghiệp Biên Hoà II ở Đồng Nai, khu công nghiệp Việt Nam - Singapore và khu công nghiệp Việt Hương ở Bình Dương, giai đoạn I khu công nghiệp Nội Bài Hà Nội... với đầy đủ các hạng mục công trình hạ tầng như hệ thống giao thông nội khu, hệ thống cấp thoát nước, hệ thống đường dây và trạm điện, hệ thống xử lý chất thải, nhất là hệ thống xử lý nước thải, cây xanh và công trình công cộng trong khu, các khu công nghiệp còn lại đang trong quá trình đền bù, giải phóng mặt bằng, trong đó một số đang san lấp mặt bằng, chuẩn bị xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng. Riêng khu công nghiệp Dung Quất có diện tích 14.000 ha, nằm trên địa phận 2 tỉnh Quảng Nam và Quảng Ngãi, bao gồm nhiều khu công nghiệp nhỏ, một số khu đô thị, khu dân cư và các công trình công cộng... đã được khởi công tháng 1 năm 1998. Xây dựng khu công nghiệp Dung Quất đòi hỏi có nguồn vốn đầu tư rất lớn, dự tính nguồn đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng sẽ từ nhiều nguồn khác nhau như vốn Ngân sách, đầu tư theo hình thức BOT, vốn đầu tư của tư nhân trong nước và nước ngoài. Đến thời điểm hiện nay, các chủ đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng đang tập trung đầu tư di dân, tái định cư và giải phóng mặt bằng, xây dựng hệ thống giao thông, cấp điện, nước, thông tin liên lạc, chuẩn bị cho việc xây dựng nhà máy lọc dầu số 1- công trình đầu tiên và cũng là công trình trọng điểm của khu công nghiệp này. Như đã nói ở trên, chủ đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng khu công nghiệp, khu chế xuất đa phần là các doanh nghiệp Việt Nam. Các doanh nghệp Việt Nam (chủ yếu là doanh nghiệp quốc doanh) đầu tư hạ tầng đến nay đã thực hiện được 1.697 tỷ đồng, mà nguồn vốn để xây dựng hạ tầng chủ yếu là từ nguồn tín dụng ưu đãi và từ tiền thuê đất ứng trước của các nhà đầu tư thứ cấp (đối với một số ít khu) và một phần nhỏ là vốn tự có của doanh nghiệp. Do vậy, doanh nghiệp trong nước xây dựng hạ tầng thường được tập trung vốn ít hơn, vừa đầu tư, vừa khai thác đem vào kinh doanh dẫn đến việc xây dựng hạ tầng chậm và có chất lượng không bằng các khu công nghiệp do doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài xây dựng. Việc đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng khu công nghiệp, khu chế xuất của các doanh nghiệp Việt Nam đều thực hiện theo hình thức cuốn chiếu, chủ đầu tư phân kỳ công tác xây dựng cơ sở hạ tầng trên cơ sở vốn đầu tư hạn hẹp. Vì thế, hầu hết các khu công nghiệp, khu chế xuất này hiện nay đều chưa có cơ sở hạ tầng hoàn chỉnh (trừ khu công nghiệp Biên Hoà II đã được xây dựng xong cơ sở hạ tầng và đã cho thuê được hơn 90% diện tích đất có thể cho thuê). 3. Thu hút đầu tư vào khu công nghiệp, khu chế xuất. Có thể xem xét và đánh giá tình hình thu hút đầu tư vào khu công nghiệp, khu chế xuất trong thời gian qua bằng các chỉ tiêu cơ bản sau: số dự án đầu tư tại các khu công nghiệp, khu chế xuất; tỷ lệ cho thuê đất trong khu công nghiệp, khu chế xuất; tổng vốn đầu tư đăng ký tại các vùng. - Số dự án đầu tư tại các khu công nghiệp, khu chế xuất. Đến đầu quí III năm 2000, số dự án đầu tư tại các khu công nghiệp, khu chế xuất là 1.092 với tổng vốn đầu tư đăng ký 9.362,7 triệu đôla và 26.841,8 tỷ đồng (bao gồm cả các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng và các dự án sản xuất công nghiệp). Trong đó: + Có 1.025 dự án đầu tư vào lĩnh vực sản xuất, dịch vụ trong các khu công nghiệp, khu chế xuất, với vốn đầu tư đăng ký 8.202,6 triệu đôla và 15.552,8 tỷ đồng. Trong số 1.025 dự án loại này, có 623 dự án có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. + Có 67 dự án đầu tư vào xây dựng và kinh doanh cơ sở hạ tầng khu công nghiệp, khu chế xuất, với tổng vốn đầu tư đăng ký 1.160 triệu đôla và 11.289 tỷ đồng. Số dự án đầu tư tại các khu công nghiệp, khu chế xuất có xu hướng tăng theo thời gian. Tính riêng 6 tháng đầu năm 2000, có thêm 178 dự án thuộc lĩnh vực sản xuất, dịch vụ với tổng vốn đầu tư đăng ký 486,6 triệu đôla và 1.712,8 tỷ đồng đầu tư vào các khu công nghiệp, khu chế xuất. Điều này phần nào cho thấy, đầu tư trên cả nước nói chung và đầu tư vào các khu công nghiệp, khu chế xuất nói riêng đang có dấu hiệu tăng trưởng, sau một thời gian dài tăng chậm, thậm chí trì trệ do tác động của nhiều nguyên nhân khác nhau. Chẳng hạn như cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ trong khu vực, cạnh tranh mãnh liệt giữa các nước đang phát triển để thu hút vốn đầu tư trực tiếp từ các nước khác, môi trường đầu tư còn nhiều tồn tại ở trong nước... - Tỷ lệ cho thuê đất trong khu công nghiệp, khu chế xuất. Với phương thức kinh doanh vừa đầu tư xây dựng hoàn thiện cơ sở hạ tầng, vừa tranh thủ kêu gọi, thu hút đầu tư, đến nay các khu công nghiệp, khu chế xuất đã cho thuê được 2.432 ha, chiếm khoảng 32% tổng diện tích đất công nghiệp có thể cho thuê của các khu (tính cả doanh nghiệp Việt Nam có sẵn trong khu). Một số khu đã cho thuê được nhiều đất như khu công nghiệp Biên Hoà II thuộc tỉnh Đồng Nai (đã cho thuê 243 ha trên tổng số đất có thể cho thuê là 261 ha, tương đương với tỉ lệ 93.1%), khu công nghiệp Gò Dầu thuộc tỉnh Đồng Nai (đã cho thuê 104 ha trên tổng số đất có thể cho thuê là 136 ha, tương đương với tỉ lệ 76.47%), hai khu chế xuất Tân Thuận và Linh Trung ở thành phố Hồ Chí Minh (đã cho thuê 57,71% với khu chế xuất Tân Thuận và 60.23% với khu chế xuất Linh Trung). Có 3 khu đã cho thuê gần hết diện tích đất công nghiệp giai đoạn I và hiện nay đang thực hiện giai đoạn II đó là khu công nghiệp Việt Nam- Singapore, khu công nghiệp Việt Hương (đều thuộc tỉnh Bình Dương) và khu công nghiệp Sài Đồng B ở Hà Nội. Phân loại khu công nghiệp, khu chế xuất theo tỷ lệ cho thuê đất. Tỉ lệ đất cho thuê/Diện tích đất công nghiệp (%) Số khu Đã cho thuê từ 80% trở lên Đã cho thuê từ 50 - 80% Đã cho thuê từ 30 - 50% Đã cho thuê từ 10 - 30% Đã cho thuê từ 01 - 10% Chưa cho thuê được đất Tổng cộng 4 5 13 15 11 19 67 Một trong những chỉ tiêu quan trọng để đánh giá sự thành công của các khu công nghiệp, khu chế xuất - theo UNIDO - là tỷ lệ đất cho thuê của khu.Trong khi hiện nay, các khu ở Đài Loan; khu Masan, Iri của Hàn Quốc; khu Penang của Malaixia... có tỷ lệ đất cho thuê đều đạt hơn 80%, thì ở các khu của các nước Châu á khác, tỷ lệ này thường chưa đến 50%. Việt Nam chỉ đạt mức 32% (tính tới thời điểm hiện nay), một con số phản ánh rõ tình trạng hoạt động chưa hiệu quả của hệ thống khu công nghiệp, khu chế xuất. Có tới 19 khu chưa cho thuê được đất, 11 khu chỉ cho thuê được dưới 10% và 15 khu chỉ cho thuê được dưới 30%. Tình hình phát triển và hoạt động của các khu đã có những biểu hiện phá vỡ cân đối, thành lập quá nhiều khu trong khi khả năng thu hút đầu tư hạn chế, không phát huy được hiệu quả vốn đầu tư xây dựng hạ tầng. Hay nói cách khác, hệ thống khu công nghiệp, khu chế xuất phát triển có sự lệch lạc giữa "chất" và "lượng". Có nhiều loại hình doanh nghiệp xin thuê đất để đầu tư trong khu. Trước hết là doanh nghiệp Việt Nam mà chủ yếu là các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế quốc doanh - được thành lập từ trước khi khu được thành lập, nhằm thực hiện chủ trương xây dựng khu công nghiệp, khu chế xuất trên cơ sở qui hoạch các doanh nghiệp có trước; hoặc các doanh nghiệp xin đầu tư mới vào các khu trong năm 1997, 1998, 1999, 2000 (điển hình là các doanh nghiệp trong các khu công nghiệp ở thành phố Hồ Chí Minh, Bình Dương); các doanh nghiệp di chuyển từ nội thành ra theo chủ trương qui hoạch doanh nghiệp có khả năng gây ô nhiễm. Ngoài doanh nghiệp trong nước, còn có loại hình doanh nghiệp liên doanh có vốn đầu tư nước ngoài và doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài. Loại hình doanh nghiệp này thừa đủ khả năng thuê lại đất của công ty phát triển hạ tầng với giá thường cao hơn so với giá thuê đất nằm ngoài khu (do hệ thống kết cấu hạ tầng đã được đầu tư). Điều này cũng giải thích vì sao phần lớn doanh nghiệp khu công nghiệp, khu chế xuất được thành lập trong những năm gần đây là doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Còn số doanh nghiệp trong nước thuộc các thành phần kinh tế thành lập và hoạt động trong các khu chưa nhiều ngoài các doanh nghiệp hoạt động trước khi thành lập khu. - Tổng vốn đầu tư đăng ký tại các khu công nghiệp, khu chế xuất tính theo vùng. Tổng vốn đầu tư đăng ký tại các khu tính theo vùng đến đầu năm 2000 (không kể các dự án đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng khu công nghiệp, khu chế xuất) Vùng Vốn FDI (triệu USD) Vốn đầu tư trong nước (tỷ đồng) Vùng núi Bắc Bộ Vùng Tây Nguyên Vùng đồng bằng sông Cửu Long Vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ Vùng kinh tế trọng điểm Trung Bộ Vùng kinh tế trọng điểm Nam Bộ 0 0 214,25 425 177,6 5372,67 0 0 0 0 427,8 12181,6 Có thể thấy sự phân bố không đều theo vùng lãnh thổ của khu công nghiệp, khu chế xuất đã gây nên hệ quả tất yếu là vốn đầu tư chỉ tập trung chủ yếu ở ba vùng kinh tế trọng điểm và vùng đồng bằng sông Cửu Long (chiếm tới 56 trên tổng số 67 khu của cả nước). Vùng Tây Nguyên chưa có một khu nào được thành lập nên chưa thu hút dược vốn đầu tư. Tình cảnh tương tự cũng diễn ra với vùng núi Bắc Bộ, khi hai khu công nghiệp duy nhất (khu công._.c này chưa được quan tâm đúng mức bằng các chính sách thoả đáng. Việc tiến hành ở từng khu gần như tự phát, dựa chủ yếu vào sáng kiến và kinh phí của các công ty xây dựng hạ tầng. Sự phối hợp xúc tiến và vận động đầu tư giữa Ban quản lý khu, cơ quan quản lý Nhà nước cấp tỉnh, thành phố, doanh nghiệp phát triển hạ tầng... còn rời rạc. Các phái đoàn, hiệp hội, đoàn doanh nghiệp của các nước đến thăm Việt Nam thường được các Bộ, ngành và cơ quan Trung ương tập trung giới thiệu đến các tỉnh, thành phố lớn thăm quan và tìm kiếm cơ hội đầu tư, trong khi ở các địa phương khác lại không có cơ hội này và phải bỏ tiền ra để đi nước ngoài giới thiệu và tìm kiếm nhà đầu tư. Bên cạnh đó, công tác xúc tiến và vận động đầu tư mới chỉ hướng mạnh vào các nước Châu á,"bỏ quên" các nước Châu Âu và Bắc Mỹ. Trong thời gian tới, nếu muốn thu hút nhiều hơn nữa các dự án đầu tư nước ngoài, cần phải đa dạng hoá công tác này bằng nhiều hình thức vận động như thông qua báo, đài, đi vận động trực tiếp... sang các khu vực quan trọng đã có và triển vọng sẽ có nhiều dự án đầu tư ở nước ta. 2.5 Những điểm yếu trong quản lý Nhà nước đối với khu công nghiệp, khu chế xuất. Quản lý Nhà nước thông qua cơ chế "một cửa, tại chỗ" đã khẳng định tính tích cực và được các nhà đầu tư hoan ngênh. Tuy nhiên qua thực tế áp dụng vẫn còn nhiều điều phức tạp. Một là, do nhận thức về vị trí, vai trò của khu công nghiệp, khu chế xuất, Ban quản lý khu công nghiệp, khu chế xuất chưa đúng nên sự phối hợp giữa Ban quản lý với các Sở, ban, ngành của tỉnh còn có nhiều bất cập. Chính quyền địa phương ở nhiều tỉnh, thành phố chưa thực sự quan tâm đến phát triển các khu. Hai là, trên một địa bàn tỉnh, thành phố đã hình thành 2 bộ máy quản lý về đầu tư, cụ thể là 2 bộ phận cấp phép đầu tư, 2 bộ phận theo dõi dự án, 2 bộ phận quản lý lao động, 2 bộ phận quản lý thương mại...; một bên là Ban quản lý với cơ chế uỷ quyền, một bên là các Sở, ban ngành. Nhiều Ban quản lý được thành lập với đầy đủ bộ máy biên chế, cơ sở vật chất nhưng từ nhiều năm nay mới chỉ cấp được vài giấy phép đầu tư trong khi đó ở các Sở vẫn tồn tại bộ máy có thể đảm đương tốt nhiệm vụ. Điều đó đã làm bộ máy hành chính cồng kềnh hơn, không phù hợp với chủ trương tinh giảm biên chế, cải tổ bộ máy Quản lý Nhà nước đối với khu công nghiệp, khu chế xuất. Khắc phục được khó khăn này, nhà đầu tư nước ngoài sẽ yên tâm hơn khi bỏ vốn đầu tư vào các khu. III. Một số giải pháp để tăng cường thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào khu công nghiệp, khu chế xuất ở Việt Nam. 1. Chú trọng công tác qui hoạch phát triển và xây dựng khu công nghiệp, khu chế xuất. Công tác qui hoạch phát triển và xây dựng khu công nghiệp, khu chế xuất có vai trò rất quan trọng trong việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các khu. Thời gian vừa qua, chúng ta chủ yếu chú trọng vào xây dựng những khu công nghiệp, khu chế xuất có qui mô lớn với cơ sở hạ tầng hiện đại, nhưng chưa chú trọng hình thành và phát triển những cụm công nghiệp nhỏ tại các địa phương. Hay nói cách khác, hình thức đầu tư phát triển khu công nghiệp, khu chế xuất chưa đa dạng. Do đó, dẫn đến tình trạng các khu công nghiệp, khu chế xuất lớn thiếu vốn đầu tư và thu hút đầu tư kém hiệu quả, việc xây dựng chậm và manh mún, cơ sở hạ tầng không đồng bộ, tỷ lệ lấp kín khu công nghiệp, khu chế xuất thấp; trong khi tại các địa phương tình trạng ô nhiễm môi trường do các cơ sở sản xuất thủ công phân tán ngày càng trở nên trầm trọng. Theo tính toán sơ bộ, để lấp đầy tất cả các khu đã được thành lập, phải thu hút được khoảng 6.000 doanh nghiệp với tổng số vốn đầu tư 20 - 25 tỷ USD. Vì vậy, trong những năm tới phải thu hút thêm khoảng 5450 doanh nghiệp mới với tổng số vốn đầu tư đăng ký 18 - 23 tỷ, trong đó chủ yếu là nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Với tốc độ thu hút đầu tư nước ngoài của cả nước trong các năm qua, nếu tập trung tất cả các dự án có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các khu thì cũng phải mất 15 - 20 năm nữa, chúng ta mới có thể lấp đầy được các khu. Bên cạnh đó, tình hình phát triển và hoạt động của các khu công nghiệp, khu chế xuất đã có những biểu hiện phá vỡ cân đối, thành lập quá nhiều khu trong khi khả năng thu hút đầu tư hạn chế, không phát huy được hiệu quả vốn đầu tư xây dựng hạ tầng. Vì vậy, đáng lẽ phải thành lập các khu để tránh đầu tư phân tán nhưng ở một số địa phương đã xuất hiện tình trạng đầu tư phân tán do mỗi khu có rất ít dự án. Điều đó dẫn đến sự cạnh tranh giữa các khu và sử dụng vốn đầu tư xây dựng hạ tầng kém hiệu quả. Nếu không tính những khu công nghiệp, khu chế xuất do doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài xây dựng, 53 khu còn lại với tổng diện tích 9.041 ha do các doanh nghiệp trong nước đầu tư xây dựng hạ tầng đòi hỏi một khối lượng vốn đầu tư rất lớn (khoảng 14.000 - 15.154 tỷ đồng) mà chủ yếu dựa vào nguồn vốn vay ưu đãi. Với tổng vốn đầu tư như vậy nếu chia ra theo thời hạn đầu tư xây dựng hạ tầng khu trung bình khoảng 4 năm thì trong kế hoạch hàng năm phải bố trí 3.500 - 3.800 tỷ đồng, chưa kể khối lượng vốn đầu tư cho hệ thống cơ sở hạ tầng ngoài hàng rào các khu đó, khu dân cư, khu thương mại dịch vụ và các khu phụ trợ khác. Để khắc phục những tồn tại liên quan đến công tác qui hoạch phát triển và xây dựng hệ thống khu công nghiệp, khu chế xuất, cần phải tập trung thực hiện một số vấn đề chính sau: - Xem xét thật chặt chẽ việc thành lập các khu công nghiệp, khu chế xuất mới, cần rà soát kỹ tất cả các khu này, tập trung vốn đầu tư hoàn thành xây dựng hạ tầng cho những khu đang xây dựng dở dang, đình hoãn tất cả các khu chưa xây dựng hoặc không có triển vọng thu hút đầu tư. Đối với các địa phương chưa có khu công nghiệp, cần qui hoạch xây dựng khu công nghiệp; nhưng trước hết chưa nên thành lập vội mà nên cho phép UBND tỉnh xây dựng qui hoạch chi tiết khu vực này để kêu gọi đầu tư. Những doanh nghiệp đầu tư vào khu vực qui hoạch được hưởng các ưu đãi như đối với doanh nghiệp khu công nghiệp, khu chế xuất; khi khu vực hội tụ đủ các điều kiện cần thiết sẽ quyết định thành lập khu công nghiệp, khu chế xuất. - Cân nhắc kỹ số lượng của các khu cần xây dựng trong từng giai đoạn cụ thể. Một vấn đề được đặt ra trong bối cảnh phát triển kinh tế đất nước và tăng cường thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài là hiện nay nên thành lập bao nhiêu khu công nghiệp, khu chế xuất ở nước ta? Việc xây dựng khu công nghiệp, khu chế xuất trước hết phải xuất phát từ hiệu quả kinh tế - xã hội, không thể làm theo phong trào hay xuất phát từ nhu cầu chủ quan mang tính cục bộ. Khi một khu mới được hình thành nó có tác động không chỉ đối với sự phát triển khu vực lãnh thổ, mà còn tạo nên những biến đổi trên phạm vi rộng xét dưới giác độ kinh tế và xã hội, đòi hỏi huy động những nguồn lực rất lớn cả về vốn đầu tư, nguồn nhân lực, cung cấp kĩ thuật, quản lý và tổ chức, cơ cấu lại kinh tế khu vực và lãnh thổ. Hơn nữa, nếu quan niệm khu công nghiệp, khu chế xuất là hạt nhân trong các chuỗi qui hoạch đô thị, sẽ được hình thành trong tương lai với hệ thống kết cấu hạ tầng ngoài khu có chất lượng cao, gắn với sự hình thành các khu dân cư, khu thương mại dịch vụ và các khu phụ trợ khác, thì việc ra đời và đưa vào hoạt động của một khu trở nên phức tạp hơn nhiều. Trong từng giai đoạn cụ thể, cần phải đưa ra một con số hợp lý các khu công nghiệp, khu chế xuất được thành lập mới và thực hiện thật nghiêm việc tuân thủ theo qui hoạch khu công nghiệp, khu chế xuất. Đồng thời, nên chú trọng hình thành và phát triển những cụm công nghiệp nhỏ tại các địa phương. Việc xây dựng và phát triển các cụm công nghiệp nhỏ tại các địa phương sẽ tạo điều kiện thuận tiện để kiểm soát môi trường, giải quyết công ăn việc làm cho số lao động dôi dư, tăng thu nhập cho dân chúng quanh vùng, góp phần giảm sức ép về dân số và việc làm ở các đô thị lớn. Và quan trọng hơn cả là góp phần hạn chế số lượng khu công nghiệp, khu chế xuất tại các địa phương; giải quyết tình trạng bổ sung qui hoạch và thành lập các khu mới do áp lực của địa phương mà không xem xét đến tính khả thi của dự án, khả năng thu hút đầu tư nói chung và đặc biệt là đầu tư trực tiếp nước ngoài nói riêng. - Nhà nước cần có chính sách đặc biệt để giúp đỡ các khu phát triển về mặt "chất". Như đã đề cập, đa số các khu hiện nay chưa xây dựng xong cơ sở hạ tầng và còn gặp nhiều khó khăn trong việc huy động vốn đầu tư để hoàn thiện cơ sở hạ tầng. Chính vì vậy, đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các khu còn rất hạn chế. Nhà nước có thể hỗ trợ thông qua một số biện pháp chính sau: + Nhà nước hỗ trợ một phần vốn đầu tư cơ sở hạ tầng (khoảng 40- 50% tổng vốn đầu tư), phần còn lại chủ đầu tư có thể vay tín dụng hoặc huy động dưới nhiều hình thức, hoặc có thể cho chủ đầu tư vay với lãi suất thấp hơn. + Hiện tại thời hạn hoàn vốn vay cho các khoản vốn vay ưu đãi của Chính phủ cho các dự án này là trong vòng 10 năm, một khoảng thời gian rất ngắn. Đề nghị Chính phủ cho thời hạn vay ưu đãi là 20 năm và miễn lãi vay trong thời gian thi công xây dựng cơ sở hạ tầng. + Việc áp dụng 10% thuế giá trị gia tăng đối với công ty phát triển hạ tầng là quá cao, gây khó khăn trong việc xây dựng cơ sở hạ tầng, nhất là hệ thống xử lý nước thải. Đề nghị giảm bớt mức thuế này (có thể là 5%), đồng thời cho phép nộp thuế giá trị gia tăng theo doanh thu từng năm nhằm huy động nguồn vốn ứng trước của các nhà đầu tư, tập trung xây dựng nhanh cơ sở hạ tầng trong các khu... Các biện pháp hỗ trợ này sẽ giúp hệ thống khu công nghiệp, khu chế xuất ở Việt Nam được hoàn thiện về cơ sở hạ tầng bên trong, thực sự hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài bỏ vốn để đầu tư vào các khu. 2. Gắn chặt việc triển khai xây dựng khu công nghiệp với vấn đề lao động và việc xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế- xã hội ngoài hàng rào khu công nghiệp, khu chế xuất. Các nhà đầu tư nước ngoài trước khi quyết định bỏ vốn đầu tư vào khu công nghiệp, khu chế xuất thì họ phải thấy được những yếu tố có lợi cho việc đầu tư của họ. Được cung cấp lao động có tay nghề của nước chủ nhà là một trong những yếu tố đó. Nói cách khác, nếu việc tuyển dụng cung cấp lao động cho các khu công nghiệp, khu chế xuất thuận lợi thì sẽ góp phần đẩy mạnh dòng đầu tư trực tiếp nước ngoài chảy vào các khu. Nhìn chung, việc tuyển dụng cung cấp lao động cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trong khu công nghiệp, khu chế xuất về cơ bản được hình thành gần như tự phát thông qua quan hệ cung cầu trên thị trường lao động, dựa vào sự cung cấp lao động sẵn có trên thị trường và "hưởng thụ" kết quả đào tạo của Nhà nước. Việc cung cấp này cũng đang gặp mâu thuẫn, một mặt thiếu lao động kỹ thuật, có tay nghề, mặt khác trong khi số lao động cần tạo công ăn việc làm ở các địa phương còn hết sức dư thừa, cần giải quyết, thì mức độ thu hút như trên vào các khu công nghiệp, khu chế xuất chưa phải là lớn. Tình hình thiếu lao động kỹ thuật đã có tay nghề được đào tạo không chỉ gay gắt đối với các khu ở Bình Dương, Đồng Nai... mà còn đối với các khu ở Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh. Để giải quyết tình trạng này, chủ doanh nghiệp buộc phải tuyển dụng lao động ngoại tỉnh, và trong hầu hết các trường hợp phải tổ chức đưa đi đào tạo, kể cả ở nước ngoài mới đáp ứng tiêu chuẩn tay nghề để vận hành dây chuyền sản xuất. Do đó, các cơ quan quản lý Nhà nước cần nghiên cứu và thành lập những trung tâm đào tạo lao động lành nghề để cung cấp cho các doanh nghiệp trong khu công nghiệp, khu chế xuất. Hay có thể khuyến khích, hỗ trợ chính các công ty xây dựng cơ sở hạ tầng trong khu đứng ra thành lập, giống như trường hợp của công ty liên doanh xây dựng hạ tầng khu công nghiệp Việt Nam - Singapore. Công ty đã thành lập Trung tâm đào tạo công nhân kỹ thuật lành nghề, hàng năm, thực hiện đào tạo gần 200 công nhân kỹ thuật, cung cấp cho các doanh nghiệp công nghiệp có trình độ công nghệ hiện đại không chỉ trong khu công nghiệp Việt Nam- Singapore mà còn cho cả các doanh nghiệp trong tỉnh Bình Dương và trong vùng. Việc triển khai xây dựng khu công nghiệp, khu chế xuất còn phải gắn chặt với việc xây dựng cơ sở hạ tầng ngoài hàng rào. Hiện nay, kết cấu hạ tầng trong và ngoài hàng rào đã yếu kém lại còn không đồng bộ, đặc biệt việc xây dựng cơ sở hạ tầng ngoài hàng rào chưa được quan tâm giải quyết đúng mức nên cũng làm giảm tính hấp dẫn đối với nhà đầu tư nước ngoài. Các công trình ngoài hàng rào, thường là những công trình đòi hỏi vốn đầu tư lớn như đường giao thông, hệ thống cung cấp điện... chủ yếu mới chỉ trong qui hoạch, chưa được triển khai, cấp vốn xây dựng. Nhiều công trình đã gây nên tốn kém thời gian vì việc điều chỉnh qui hoạch, thoả thuận với các cơ quan hữu quan như công trình đường vào khu công nghiệp Đài Tư và khu công nghiệp Daewoo - Hanel, đường vào các khu ở Bà Rịa - Vũng Tàu, hệ thống đường điện vào khu công nghiệp Nội Bài... Để khắc phục tình trạng này, chính quyền địa phương cần phải quan tâm giải quyết tốt cơ sở hạ tầng kỹ thuật (đường sá, cung cấp điện, nước...) và cơ sở hạ tầng xã hội (trường học, bệnh viện, trung tâm thương mại...) ngoài hàng rào của các khu. Đồng thời, khi thành lập khu mới, các bên cần chú trọng đến vấn đề xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật ngoài hàng rào, trong đó nêu rõ các phương án về nguồn (nguồn vốn, nguồn cung cấp điện, nước), các điểm nối và trách nhiệm của các đơn vị liên quan (giao thông, điện, nước, doanh nghiệp phát triẻn hạ tẩng, cơ quan quản lý địa phương...). Tại Bình Dương, Uỷ ban nhân dân tỉnh đã linh hoạt tìm nguồn vốn đầu tư cho các công trình ngoài hàng rào như các công trình đường giao thông, nhà máy cấp nước được thực hiện theo hình thức BOT để huy động vốn. Sự hỗ trợ của Nhà nước thông qua chủ trương, chính sách ưu đãi trong việc vận động đầu tư vào cơ sở hạ tầng ngoài hàng rào các khu cũng rất quan trọng. Chẳng hạn, vừa qua, Nhà nước có chủ trương hoàn lại vốn của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài xây dựng hệ thống điện ngoài hàng rào. Theo thống kê của Tổng công ty điện lực Việt Nam, số vốn các công trình lưới điện ngoài hàng rào do các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (cả trong và ngoài khu) đã đầu tư là 238 tỷ đồng - một con số không nhỏ. Hiện nay, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đang cùng Bộ Công nghiệp, Bộ Tài chính, Tổng công ty điện lực Việt Nam và các Bộ, ngành liên quan đang giải quyết việc hoàn trả lại số vốn đầu tư này cho các doanh nghiệp. 3. Tăng cường công tác vận động và xúc tiến đầu tư. Xúc tiến, vận động đầu tư vào khu công nghiệp, khu chế xuất là một trong những nội dung quan trọng của công tác quản lý Nhà nước đối với khu công nghiệp, khu chế xuất, đồng thời giữ vai trò quyết định sự thành công của khu. Song trên thực tế, công tác này chưa được quan tâm một cách đúng mức, thiếu hệ thống tổ chức chung của Nhà nước và chưa có chính sách thoả đáng đối với hoạt động này của đầu tư trực tiếp nói chung và đầu tư trực tiếp nước ngoài vào khu công nghiệp, khu chế xuất nói riêng. Đây trước hết thuộc trách nhiệm của cơ quan quản lý Nhà nước, mà trực tiếp là của các Ban quản lý khu công nghiệp, khu chế xuất. Nhưng do thiếu đầu mối quản lý chung, nên ngoài một số cuộc hội thảo về đầu tư trực tiếp nước ngoài, trong đó có lồng nội dung giới thiệu và vận động đầu tư vào các khu đã được thành lập do một số Bộ, ngành tổ chức ở trong và ngoài nước, thời gian qua công tác này được tiến hành gần như tự phát ở từng khu, dựa chủ yếu vào sáng kiến chủ động và kinh phí của các công ty xây dựng hạ tầng khu, trước hết là của chủ đầu tư nước ngoài trong các liên doanh xây dựng hạ tầng. Một trong những biện pháp xúc tiến vận động đầu tư hiệu quả nhất đối với nhà đầu tư nước ngoài là việc giải quyết, xử lý và tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp đang xây dựng hoặc đang sản xuất kinh doanh, trước hết trong những vấn đề trong thủ tục hành chính, thuế, hải quan, xuất nhập khẩu, lao động, xây dựng... Vừa qua việc xử lý đối với một số doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tiến hành chưa được tốt; thêm vào đó việc phản ánh về hoạt động của các doanh nghiệp này trên các phương tiện thông tin đại chúng cũng đã gây không ít hoài nghi về chính sách nhất quán và thiện chí của Nhà nước ta, tác động không tốt tới việc vận động, thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài trong bối cảnh hiện nay. Cái được cơ bản của Nhà nước khi xây dựng khu công nghiệp, khu chế xuất không phải là nguồn thu tài chính trong kinh doanh cho thuê đất, mà chính là những năng lực sản xuất mới và hiệu quả kinh tế- xã hội to lớn thu được sau này (bảo vệ môi trường, tao việc làm và thu nhập cho dân chúng...). Hơn nữa việc giảm giá thuê đất vừa qua theo Quyết định 179/ QĐ- BTC đã làm cho giá thuê lại đất trong các khu công nghiệp, khu chế xuất cao hơn nhiều so với ngoài khu (do phải thực hiện đền bù, giải toả, đầu tư xây dựng hạ tầng lớn và đồng bộ) nên đã làm cho khu công nghiệp, khu chế xuất kém sức hấp dẫn hơn về giá thuê lại đất. Do vậy, vận động đầu tư phải được coi là nhiệm vụ quan trọng nhất trong phát triển hệ thống khu công nghiệp, khu chế xuất. Ngoài Châu á, cần hướng mạnh đầu tư vào các nước Châu Âu, Bắc Mỹ. Để chủ động vận động đầu tư và tiếp thị vào khu công nghiệp, khu chế xuất, cần nghiên cứu thành lập các tổ chức xúc tiến mậu dịch và đầu tư ở một số nước và khu vực quan trọng đã có nhiều dự án đầu tư ở nước ta, ở Châu Âu, Bắc Mỹ và Nhật Bản, đồng thời dành kinh phí thỏa đáng từ Ngân sách Nhà nước cho công tác này, không chỉ dựa vào nỗ lực của doanh nghiệp phát triển hạ tầng hoặc bên nước ngoài trong các liên doanh xây dựng hạ tầng trong các khu. Mặt khác, thời gian vừa qua, cấp lãnh đạo các tỉnh, thành phố chưa chú trọng nhiều đến công tác vận động đầu tư vào các khu trên địa bàn, phó mặc công tác này cho Ban quản lý khu công nghiệp, khu chế xuất cấp tỉnh và doanh nghiệp phát triển hạ tầng. Để nhanh chóng lấp kín các khu đã được thành lập và đạt được mục tiêu đề ra khi thành lập khu trên địa bàn, đòi hỏi các tỉnh, thành phố phải phối hợp chặt chẽ với Ban quản lý khu công nghiệp, khu chế xuất, doanh nghiệp phát triển hạ tầng trong việc vận động định hướng đầu tư vào khu. 4. Hoàn thiện việc ban hành và hướng dẫn thi hành chính sách đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Cơ sở pháp lý chủ yếu điều chỉnh hoạt động khu công nghiệp, khu chế xuất là Nghị định 36/CP ban hành Qui chế khu công nghiệp, khu chế xuất và khu công nghệ cao. Nghị định này được xây dựng trên cơ sở hệ thống pháp luật hiện hành, cốt lõi là Luật đầu tư nước ngoài, Luật khuyến khích đầu tư trong nước, Luật doanh nghiệp và các luật khác. Do tồn tại hai hệ thống luật khác nhau điều chỉnh các doanh nghiệp trong khu công nghiệp (Luật khuyến khích đầu tư trong nước áp dụng với doanh nghiệp trong nước, Luật đầu tư nước ngoài áp dụng với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài), nên đã tạo sự khác biệt trong tổ chức và hoạt động sản xuất kinh doanh giữa các loại hình doanh nghiệp, nhất là điều kiện ưu đãi thuế, giá một số yếu tố đầu vào (điện, nước), dịch vụ... Để cải thiện môi trường đầu tư hấp dẫn hơn cho các nhà đầu tư, đặc biệt là các nhà đầu tư nước ngoài, Chính phủ đã ban hành Nghị định 10/ CP về những biện pháp khuyến khích và bảo đảm hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài với những qui định thông thoáng hơn, ưu đãi hơn cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài nói chung trong đó có các doanh nghiệp khu công nghiệp, khu chế xuất, song vẫn chưa giải quyết được vấn đề phân biệt đối xử giữa hai hệ thống doanh nghiệp. Nhằm từng bước xoá bỏ sự khác biệt về điều kiện kinh doanh giữa doanh nghiệp trong nước với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định 53/ 1999/ QĐ-TTg qui định giảm giá một số hàng hoá, dịch vụ cung cấp cho doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, người nước ngoài, qui định dùng đồng tiền Việt Nam để thanh toán các loại giá dịch vụ, phí và lệ phí. Nhưng việc thực hiện các qui định này diễn ra rất chậm. Vừa rồi, Quyết định này đã không còn hiệu lực. Thay thế cho Quyết định là Nghị định 24/ CP. Nghị định 24/ CP, về cơ bản, có nội dung kế thừa nội dung của Nghị định 12/ CP ngày 18 tháng 2 năm 1997, Nghị định 10/ 1998/ NĐ-CP ngày 23 tháng 1 năm 1998 của Chính phủ, Quyết định số 53/ 1999/ QĐ-TTg ngày 26 tháng 3 năm 1999 của Thủ tướng Chính phủ cũng như các văn bản pháp qui khác có liên quan nhằm nâng cao hiệu lực pháp lý, đảm bảo tính đồng bộ, ổn định của chính sách khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài. Nghị định cũng cập nhật và điều chỉnh một số qui định đã nêu tại một số văn bản pháp qui nói trên nhưng không còn phù hợp để đảm bảo tính nhất quán với các văn bản pháp qui mới được ban hành sau này. Việc áp dụng đem lại hiệu quả như thế nào, thời gian sẽ trả lời, tuy nhiên, sự tuyên truyền, hướng dẫn của các cơ quan quản lý Nhà nước đến các chủ đầu tư và sự theo sát hoạt động của doanh nghiệp, kịp thời tìm ra những điểm chưa phù hợp để điều chỉnh chính sách với các doanh nghiệp là rất cần thiết. Có thể đưa ra vấn đề: nghiên cứu cho phép doanh nghiệp khu công nghiệp, khu chế xuất thuê lại đất của doanh nghiệp phát triển hạ tầng được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất như các doanh nghiệp ngoài khu để tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp huy động vốn sản xuất - kinh doanh và yên tâm đầu tư. Để giải quyết vấn đề này, Quyết định 53/ 1999/ QĐ - TTg đã qui định doanh nghiệp khu công nghiệp, khu chế xuất được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trong thời hạn hợp đồng ký với doanh nghiệp xây dựng và kinh doanh cơ sở hạ tầng khu công nghiệp, khu chế xuất. Tuy nhiên, đến hết năm 1999, các Bộ, ngành liên quan vẫn chưa ban hành văn bản hướng dẫn thực hiện, nên việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho doanh nghiệp thứ cấp mới chỉ được thực hiện cho các khu do doanh nghiệp Việt Nam xây dựng cơ sở hạ tầng; trường hợp doanh nghiệp thứ cấp thuê đất doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài xây dựng và kinh doanh cơ sở hạ tầng thì vẫn chưa có văn bản hướng dẫn nên không thực hiện được. Trong Luật sửa đổi, bổ sung Luật Đầu tư nước ngoài mới nhất và Nghị định số 24/ 2000/ NĐ-CP qui định chi tiết thi hành Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, vấn đề này được đề cập như sau:" Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, các bên hợp doanh thuê đất, thuê lại đất trong khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo hướng dẫn của Tổng cục Địa chính". Nhưng để đi vào thực tế, chủ đầu tư nước ngoài rất cần sự giúp đỡ cụ thể của các cơ quan quản lý Nhà nước. Hoạt động của doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trong khu công nghiệp, khu chế xuất cũng chịu sự điều chỉnh của các luật liên quan khác. Các luật này hiện còn nhiều điểm bất hợp lý, đòi hỏi được sớm nghiên cứu, điều chỉnh, trình Chính phủ ban hành để đơn giản các thủ tục, giảm thời gian và chi phí, tạo thuận lợi cho nhà đầu tư. Chẳng hạn như cơ chế tuyển dụng lao động và tuyển dụng người nước ngoài vào làm việc tại các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Cơ chế này còn phức tạp, chưa đáp ứng được nhu cầu của doanh nghiệp vì qui định tuyển dụng lao động là người nước ngoài đòi hỏi tiêu chuẩn rất cao và không hợp lý (một số nghề nghiệp người lao động ở Việt Nam vẫn có thể đáp ứng được nhưng nhà đầu tư muốn giữ bí mật công nghệ, bí mật kinh tế nên họ cần sử dụng người của chính nước họ). Vì vậy, Bộ Lao động nên nghiên cứu, điều chỉnh và trình Chính phủ ban hành cho phù hợp. Kết luận Khu công nghiệp, khu chế xuất là mô hình kinh tế mà các nước đang phát triển, nhất là các nước Châu á, đã và đang sử dụng như một công cụ để thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.Các khu công nghiệp, khu chế xuất ở Việt Nam được thành lập cũng không nằm ngoài mục tiêu đó. Nhưng trong quãng thời gian xây dựng và đi vào hoạt động của các khu, dòng đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các khu liên tục biến đổi do ảnh hưởng của nhiều nguyên nhân khác nhau. Để các khu có thể hoạt động hiệu quả, góp phần ngày càng lớn vào tăng trưởng kinh tế, khai thác hiệu quả các nguồn lực trong nước, thúc đẩy quan hệ kinh tế đối ngoại... phải có những biện pháp cụ thể nhằm lôi cuốn dòng đầu tư trực tiếp nước ngoài"chảy mạnh" vào các khu. Bài khoá luận này đã đi vào thực trạng của hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các khu công nghiệp, khu chế xuất ở Việt Nam trong thời gian vừa qua, đồng thời rút ra được thành tựu và tồn tại, thuận lợi và khó khăn. Thông qua đó, có đưa ra những giải pháp để khắc phục khó khăn, tăng cường thuận lợi, nhằm từng bước hoàn thiện dần hoạt động này. Nói chung, khoá luận đã cố gắng đi vào vấn đề một cách hệ thống. Tuy nhiên, vì thời gian có hạn, trong khuôn khổ một số trang nhất định và với trình độ của một sinh viên sắp tốt nghiệp còn nhiều hạn chế, khoá luận chắc chắn không tránh khỏi thiếu sót nhất định. Người viết rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến và chỉ dẫn của các thầy cô giáo, các chuyên gia có kinh nghiệm cũng như những người có quan tâm khác. Tài liệu tham khảo. 1. Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. 2. Nghị định số 24/ 2000/ NĐ-CP. 3. Nghị định 10/ CP ngày 23 tháng 1 năm 1998. 4. Nghị định 12/ CP ngày 28 tháng 2 năm 1997. 5. Qui chế khu chế xuất ban hành kèm Nghị định 322/ HĐBT ngày 18 tháng 10 năm 1991. 6. Qui chế khu công nghiệp ban hành kèm Nghị định 192/ CP ngày 28 tháng 12 năm 1994. 7. Qui chế khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao ban hành kèm Nghị định 36/ CP ngày 24 tháng 4 năm 1997. 8. Quyết định số 233/ 1998/ QĐ-TTg ngày 1 tháng 12 năm 1998. 9. Quyết định số 53/ 1999/ QĐ-TTg ngày 26 tháng 3 năm 1999. 10. Công văn số 04/ CP-KCN ngày 16 tháng 3 năm 1999. 11. Công văn số 182/ BQL ngày 4 tháng 9 năm 1999. 12. Báo cáo tình hình phát triển khu công nghiệp, khu chế xuất năm 2000 - Vụ quản lý khu công nghiệp, khu chế xuất thuộc Bộ Kế hoạch và Đầu tư. 13. Bản tổng kết, đánh giá tình hình cấp giấy phép đầu tư của các Ban quản lý khu công nghiệp kể từ khi được uỷ quyền - Vụ quản lý dự án đầu tư nước ngoài thuộc Bộ Kế hoạch và Đầu tư. 14. Hướng dẫn đầu tư vào khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao ở Việt Nam - Nhà xuất bản thống kê. 15. Báo Thời báo Kinh tế các số. Mục lục Chương I: Tổng quan về khu công nghiệp, khu chế xuất - đầu tư trực tiếp nước ngoài vào khu công nghiệp, khu chế xuất I. Vài nét về khu công nghiệp, khu chế xuất. 1 1. Khái niệm. 1 1.1. Khu chế xuất. 1 1.2. Khu công nghiệp. 3 1.3. Sự giống và khác nhau giữa khu công nghiệp, khu chế xuất. 7 2. Mục tiêu và đặc điểm của khu công nghiệp, khu chế xuất. 9 2.1. Mục tiêu. 9 2.2. Đặc điểm. 14 II. Quan hệ giữa việc phát triển khu công nghiệp, khu chế xuất ở Việt Nam với việc tăng cường thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài. 15 1. Khu công nghiệp, khu chế xuất - sự phát triển tất yếu của hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài. 15 2. Sự cần thiết xây dựng và phát triển khu công nghiệp, khu chế xuất ở Việt Nam để thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài. 17 Chương II: Trực trạng đầu tư trực tiếp nước ngoài vào khu công nghiệp, khu chế xuất ở Việt Nam trong thời gian qua I. Tình hình các khu công nghiệp, khu chế xuất cho đến hết quý II năm 2000 21 1. Sự thành lập và quy hoạch khu công nghiệp, khu chế xuất. 21 1.1. Sự thành lập khu công nghiệp, khu chế xuất. 21 1.2. Quy hoạch khu công nghiệp, khu chế xuất đến năm 2010. 24 2. Đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng trong khu công nghiệp, khu chế xuất. 25 3. Thực trạng thu hút đầu tư vào khu công nghiệp, khu chế xuất. 27 II. Đánh giá hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài vào khu công nghiệp, khu chế xuất. 31 1. Cơ cấu đầu tư trực tiếp nước ngoài theo nước 31 2. Cơ cấu đầu tư trực tiếp nước ngoài trong một số ngành, lĩnh vực công nghiệp. 35 3. Cơ cấu đầu tư trực tiếp nước ngoài theo vùng lãnh thổ. 38 III. Quản lý Nhà nước với hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài vào khu công nghiệp, khu chế xuất. 45 1. Cơ sở pháp lý cho doanh nghiệp có đầu tư trực tiếp nước ngoài. hoạt động trong khu công nghiệp, khu chế xuất. 45 2. Những nội dung chính trong quản lý Nhà nước đối với hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài vào khu công nghiệp, khu chế xuất. 47 2.1. Thành lập ban quản lý khu công nghiệp, khu chế xuất - cơ quan thực hiện cơ chế "một cửa" để thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài. 49 2.2. Định hướng cơ cấu ngành trong khu công nghiệp, khu chế xuất. 53 2.3. Phương thức xây dựng cơ sở hạ tầng khu công nghiệp, khu chế xuất bằng nguồn đầu tư trực tiếp nước ngoài. 55 IV. Đánh giá chung hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các khu công nghiệp, khu chế xuất. 57 1. Thành tựu 57 2. Tồn tại. 59 Chương III: Giải pháp tăng cường thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào khu công nghiệp, khu chế xuất. I. Phương hướng hoạt động của các khu công nghiệp, khu chế xuất trong thời gian tới. 62 II. Những thuận lợi và khó khăn cho hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài vào khu công nghiệp, khu chế xuất ở nước ta. 64 1. Thuận lợi. 64 2. Khó khăn. 67 III. Một số giải pháp để tăng cường thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào khu công nghiệp, khu chế xuất ở Việt Nam. 71 1. Chú trọng công tác quy hoạch phát triển và xây dựng khu công nghiệp, khu chế xuất. 71 2. Gắn chặt việc triển khai xây dựng khu công nghiệp, khu chế xuất với vấn đề lao động và việc xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội ngoài hàng rào khu công nghiệp, khu chế xuất. 74 3. Tăng cường công tác vận động và xúc tiến đầu tư. 76 4. Hoàn thiện việc ban hành và hướng dẫn ban hành chính sách đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. 78 Mục lục các bảng minh hoạ Bảng 1: Diện tích đất tự nhiên và đất công nghiệp của các khu công nghiệp, khu chế xuất và khu công nghệ cao 22 Bảng 2: Số các khu đã được thành lập tại các vùng. 23 Bảng 3: Số các khu công nghiệp, khu chế xuất tại các vùng theo qui hoạch. 24 Bảng 4: Phân loại khu công nghiệp, khu chế xuất theo tỷ lệ cho thuê đất. 29 Bảng 5: Tổng vốn đầu tư đăng ký tại các khu tính theo vùng đến đầu năm 2000. 31 Bảng 6: Cơ cấu đầu tư trực tiếp nước ngoài trong một số ngành, lĩnh vực công nghiệp trong các khu công nghiệp, khu chế xuất. 36 Bảng 7: Tình hình thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài tại các khu công nghiệp, khu chế xuất theo vùng lãnh thổ tính đến đầu năm 2000. 38 Bảng 8: Tình hình cấp giấy phép đầu tư của các Ban quản lý khu công nghiệp kể từ khi được uỷ quyền. 52 ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc33816.doc