A Đặt Vấn Đề
Chúng ta đang trong công cuộc đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng đất nước việt nam giàu mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh, phấn đấu duy trì mức tăng trưởng kinh tế ít nhất 7% năm và đạt tỷ lệ tích luỹ nội bộ nền kinh tế trên 30% GDP. Để đạt được mục tiêu này, một mặt cần huy động tối đa các nguồn lực và sáng tạo của mọi thành phần kinh tế trong nước, mặt khác tăng cương hoạt động hợp tác quốc tế và khu vực, trong đó có đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Việt
43 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1463 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Đầu tư trực tiếp nước ngoài trong phát triển nông nghiệp Việt Nam giai đoạn 1998 - 2003, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nam luôn coi khu vực có nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài là một bộ phận không thể tách rời của nền kinh tế. Quan điểm thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài là nhất quán, lâu dài và được cụ thể hoá trong các quy định của luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam và các văn bản có liên quan. Thực tế trong những năm qua, đầu tư trực tiếp nước ngoài đã đóng góp một phần không nhỏ cho sự nghiệp phát triển kinh tế của Việt Nam. Đầu tư trực tiếp nước ngoài góp phần bổ sung nguồn vốn cho đất nước để thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội, giải quyết việc làm, đồng thời mang lại công nghệ hiện đại, kinh nghiệm quản lý và tạo ra một số ngành sản xuất mới cho Việt Nam
Tuy nhiên cơ cấu phân bổ vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài chưa hợp lý giữa các ngành, hiện nay các dự án FDI chủ yếu tập trung vào ngành công nghiệp, trong khi đó đầu tư cho nông nghiệp còn quá ít cả về số lượng dự án và vốn đầu tư nước ngoài, còn là một nước nông nghiệp, ngành nông nghiệp chiếm một vị trí quan trọng trong nền kinh tế thì việc đầu tư như thế chưa khai thác hết tiềm năng của nó. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào nông nghiệp đã chiếm một tỷ lệ thấp, không tập trung vào các mục tiêu tăng trưởng kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn. Thực trạng này một phần do chính sách đầu tư trực tiếp nước ngoài trong lĩnh vực nông, lâm. thuỷ sản chưa có sức hấp dẫn với các nhà đầu tư một phần khác do cơ sở hạ tầng nông thôn nước ta thấp kém. Trong điều kiện nguồn vốn trong nước có hạn thì thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc khắc phục tình trạng thiếu vốn trong sản xuất nông nghiệp.
Xuất phất từ tình hình đó mà em chọn đề tài "Đầu tư trực tiếp nước ngoài trong phát triển nông nghiệp Việt Nam giai đoạn 1998 - 2003"
Đề tài được sự hướng dẫn, góp ý tận tình của Th.S phan thị thu Hiền tuy đã có sự cố gắng hết mình của bản thân nhưng đề tài không thể không tránh khỏi những thiếu sót, vì vậy kính mong thầy cô góp ý cho đề tài được hoàn thiện hơn.
B Giải Quyết Vấn Đề
Chương I: Những vấn đề lý luận chung.
I Đầu tư phát triển ngành nông nghiệp
1 Vai trò và đặc điểm của ngành nông nghiệp việt nam
1.1 Vai trò của nông nghiệp trong nền kinh tế việt nam.
Nông nghiệp là một bộ phận kinh tế chiếm tỷ trọng lớn trong nền kinh tế quốc dân, nông nghiệp nước ta vẫn là mặt trận hàng đầu có tầm quan trọng chiếm lược. Vì vậy đối với nông nghiệp, nông thôn, nông dân, nhà nước ta luôn luôn quan tâm và có các chính sách hỗ trợ hoặc ưu đãi thích hợp trong từng thời kỳ cho phù hợp với tính chất và đặc thù của sản xuất có nhiều rủi ro và năng suất lao động thấp.Nông nghiệp là một trong những ngành kinh tế quan trọng và phức tạp, nó không chỉ là ngành kinh tế đơn thuần mà còn là hệ thống sinh vật kỹ thuật, bởi vì một mặt cơ sở để phát triển nông nghiệp là việc sử dụng tiềm năng sinh vật cây trồng, vật nuôi.chúng phát triển theo qui luật sinh vật nhất con người không thể ngăn cản các quá trình phát sinh, phát triển và diệt vong của chúng mà phải trên cơ sở nhận thức đúng đắn các qui luật để có các giải pháp tác động nhằm thích nghi với chúng.Nông nghiệp giữ vai trò to lớn trong việc phát triển kinh tế nhất là ở các nước đang phát triển. ở những nước này còn nghèo đại bộ phận sống bằng nghề nông. Tuy nhiên ngay cả những nước có nền công nghiệp phát triển cao, mặc dù tỷ trọng GDP nông nghiệp không lớn,nhưng khối lượng nông sản của các nước này khá lớn và không ngừng tăng lên giữ vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Các nhà kinh tế học thuộc nhiều trường phái khác nhau đều thống nhất rằng điều kiện tiên quyết cho sự phát triển là tăng cung lương thực cho nền kinh tế quốc dân, bằng sản xuất lương thực hoặc nhập khẩu, có thể lựa chọn con đường nhập khẩu lương thực để giành nguồn lực làm việc khác sẽ có lợi hơn.điều đó rất phù hợp với điều kiện của nước ta bởi việt nam còn là một nước nông nghiệp đại đa số sống bằng nghề nông. Không chỉ cung cấp lương thực cho đời sống, nông nghiệp còn là nguồn cung cấp các yếu tố đầu vào cho công nghiệp và cho khu vực thành thị như: lao động, các nguyên vật liệu ...
Khu vực nông nghiệp là nguồn cung cấp vốn lớn nhất cho sự phát triển kinh tế, nhất là giai đoạn đầu của công nghiệp hoá, bởi vì đây là khu vực lớn nhất cả về lao động và sản phẩm quốc dân.nguồn vốn từ nông nghiệp có thể tạo ra bằng nhiều cách như tiết kiệm của nông dân đầu tư vào các hoạt động phi nông nghiệp thuế nông nghiệp, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ...tuy nhiên vốn để phát triển ngành nông nghiệp chủ yếu là từ nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Nông nghiệp và nông thôn là thị trường tiêu thụ lớn các hàng hoá công nghiệp, các sản phẩm công nghiệp bao gồm tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu dùng được tiêu thụ chủ yếu dựa vào thị trường trong nước mà trước hết là khu vực nông nghiệp và nông thôn.
Nông nghiệp được xem là ngành đem lại nguồn thu nhập ngoại tệ lớn, các loại nông, lâm, thuỷ sản dễ dàng gia nhập thị trường quốc tế hơn so với các hàng hoá công nghiệp vì vậy ở các nước đang phát triển nguồn xuất khẩu để có ngoại tệ chủ yếu dựa vào các loại nông sản, lâm sản, thuỷ sản, xu hướng chung của các nước trong qúa trình phát triển ở giai đoạn đầu giá trị xuất khẩu nông, lâm, thuỷ sản chiếm tỷ trọng cao trong tổng kim ngạch xuất khẩu nhưng nó giảm dần cùng với sự phát triển cao của nền kinh tế...
1.2 Đặc điểm của sản xuất nông nghiệp
Nông nghiệp là một trong hai ngành sản xuất vật chất chủ yếu của xã hội, khác với công nghiệp sản xuất nông nghiệp có những đặc điểm riêng bởi sự chi phối của điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội những đặc điểm đó là:
Sản xuất nông nghiệp được tiến hành trên địa bàn rộng lớn, phức tạp, phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên nên mang tính khu vực rõ rệt vì vậy việc lựa chọn và bố trí cây trồng, vật nuôi, ứng dụng kỹ thuật canh tác phải phù hợp với điều kiện từng vùng nhằm mang lại hiệu quả cao nhất.
Trong nông nghiệp ruộng đất là tư liệu sản xuất chủ yếu không thể thay thế được, nó là tư liệu chủ yếu khác với các loại đất đai trong công nghiệp, giao thông... chỉ là cơ sở làm nền móng trên đó xây dựng các nhà máy công xưởng, hệ thống đường giao thông...
Đối tượng của sản xuất nông nghiệp là cơ thể sống cây trồng vật nuôi, các loại cây trồng, vật nuôi phát triển theo quy luật sinh vật nhất định, chúng rất nhạy cảm với các yếu tố ngoại cảnh, mọi sự thay đổi về điều kiện thời tiết khí hậu đều tác động trực tiếp đến sự phát triển và phát dục của cây trồng vật nuôi, đến kết quả thu hoạch sản phẩm cuối cùng.
Sản xuất nông nghiệp mang tính chất thời vụ cao bởi vì thời gian lao động tách rời thời gian sản xuất của các loại cây trồng nông nghiệp, mặt khác do sự biến thiên về điều kiện thời tiết khí hậu, mỗi loại cây trồng có sự thích ứng nhất định với điều kiện thời đó dẫn đến những mùa vụ khác nhau.
Quy mô sản xuất nhỏ lẻ không có khả năng sản xuất hàng hoá năng suất lao động thấp, hiệu quả sản xuất kinh doanh hàng hoá hạn chế việc sử dụng nguồn lực chưa hiệu quả và hợp lý.
Ngoài ra còn một số đặc điểm khác nhau khả năng áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào hoạt động sản xuất nông nghiệp thấp, cơ sở vật chất nghèo nàn, kết cấu hạ tầng nông nghiệp còn yếu kém, lao động thuần nông còn chiếm tỷ trọng lớn...nhà nước đang chủ trương công nghiệp hoá hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn để đưa nông nghiệp nước ta lên sản xuất hàng hoá. Chúng ta cần tìm kiếm mọi cách để phát huy những thuận lợi và hạn chế những khó khăn, đảm bảo nông nghiệp phát triển vững chắc.
2 Các lĩnh vực đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành nông nghiệp việt nam.
Phát triển nông nghiệp và nông thôn không chỉ về mặt kinh tế mà cả về mặt xã hội, an ninh quốc phòng và bảo vệ môi trường, trong kinh tế không chỉ phát triển nông nghiệp mà cả công nghiệp va dịch vụ. Trong nông nghiệp không chỉ phát triển trồng trọt, mà cả chăn nuôi, lâm nghiệp, thuỷ sản.
Việc phát triển một cách toàn diện nông thôn là một tất yếu khách quan để đáp ứng nhu cầu cho mọi hoạt động kinh tế xã hội của công đồng nông thôn. Mỗi vùng mỗi ngành riêng lẻ không thể tự mình có thể phát triển được một cách bình thường mà phải có sự tác động hỗ trợ của các vùng, các ngành mới có hiệu quả. Nông nghiệp không thể phát triển được có hiệu quả nếu không có công nghiệp và dịch vụ hỗ trợ, sự tách rời giữa nông nghiệp lâm nghiệp và thuỷ sản sẽ đẻ ra tình trạng phá rừng tăng diện tích đồi núi trọc như trong thực tế đã xảy ra. Mặt khác nông thôn có nhiều nguồn lực đất đai mặt nước, khoáng sản khác nhau, có nguồn lực lao động rất dồi dào có nguồn lực cơ sở vật chất và kỹ thuật đa dạng. Muốn sử dụng có hiệu quả một cách có hiệu quả các nguồn lực trên thì chúng ta phải phát triển đồng bộ các lĩnh vực:
+Nông nghiệp: Đối với bất kì quốc gia nào thì ngành nông nghiệp luôn luôn giữ một vị trí quan trọng và không thể thiếu được vì nông nghiệp là ngành sản xuất vật chất mà sản phẩm của nó đáp ứng nhu cầu sống còn của loài người là nhu cầu ăn. Do vậy, từ những nước công nghiệp phát triển cao cho tới những quốc gia chậm phát triển đều cho rằng nông nghiệp là một trong các ngành sản xuất cơ bản và có những sự ưu tiên nhất định so với các ngành khác. Hiện nay, nông nghiệp được xem xét là ngành sản xuất bao gồm nông nghiệp thuần, lâm nghiệp và ngư nghiệp và việc xem xét nghiên cứu nó không chỉ dừng lại ở lĩnh vực sản xuất mà còn trên cả lĩnh vực chế biến và tiêu thụ nông sản.
Riêng với Việt Nam, nước ta là nước nông nghiệp với 4000 năm lịch sử gắn liền với một nền văn minh nông nghiệp. Đến nay, tuy chúng ta đang đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá nhưng vai trò của ngành nông nghiệp vẫn được đảm bảo và nhấn mạnh. Việc xác định vị trí của nông nghiệp trong chiến lược phát triển chung của toàn bộ nền kinh tế có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với nước ta vì nó là cơ sở cho ta xác định các kế hoạch cụ thể đi kèm với các chính sách về đầu tư, phân bổ các nguồn lực, bố trí lao động…cũng như việc xác định các biện pháp nhằm thực hiện các chính sách đó. Trải qua hơn 10 năm đổi mới chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, ngành nông nghiệp nước ta đã đóng góp vai trò hết sức to lớn trong sự phát triển kinh tế –xã hội của đất nước.
+Lâm nghiệp: Do nạn khai thác lâm sản bừa bãi, phương thức phá rừng trồng cây nông nghiệp và trồng lại cây rừng không khoa học làm cho rừng bị phá hoại nghiêm trọng. Hàng năm diện tích rừng của chúng ta bị thu hẹp khoảng 1 vạn ha. độ che phủ ở nhiều vùng giảm 20% trong khi mức cần thiết cho cân bằng sinh thái, theo các nhà khoa học là 40-45%, ít nhất cũng phải là 30% diện tích đất trống đồi núi trọc, sa mạc hoá tăng lên. Nếu diện tích đất này mở rộng không những làm môi trường sinh thái bị huỷ hoại và sự sống bị lụi tàn mà còn làm thay đổi chế độ mưa. chế độ ánh sáng, chế độ nhiệt, gió...Khí hậu thời tiết thay đổi thất thường mưa lũ lớn , khôhạn kéo dài, những hiện tượng này xảy ra ngày càng nhiều hơn, với mức độ trầm trọng hơn biểu hiện của sự mất cân bằng sinh thái. Trong quá trình công nghiệp hoá ngành lâm nghiệp cần phải có vị trí thích đáng trong cơ cấu kinh tế nông thôn, nhưng đến nay kinh tế lâm nghiệp mới sản xuất được 3,8% tổng sản phẩm xã hội, 5,1% thu nhập quốc dân và dưới 7% kim ngạch xuất khẩu. Do đó phải đầu tư phát triển ngành lâm nghiệp tiến hành phủ xanh đất trông, đồi núi trọc bằng các loại cây rừng, cây lâu năm, cây ăn quả đồng thời trồng rừng đầu nguồn rừng phòng hộ, bảo vệ môi trường và tạo ra giá trị kinh tế xã hội cao.
+ Ngư nghiệp: ngư nghiệp phát triển tạo ra nhiều việc làm cho lao động nông thôn trong các lĩnh vực nuôi trồng, đánh bắt, chế biến, lưu thông buôn bán thuỷ hải sản và làm các dịch vụ kinh tế kỹ thuật phục vụ cho ngành này như, sản xuất giống, sản xuất thức ăn các loại cho thuỷ hải sản nuôi trồng, đóng tàu thuyền, sản xuất ngư cụ cung ứng vật tư kỹ thuật...tỷ trọng ngành ngư nghiệp có chiều hướng tăng dần trong tổng gía trị sản lượng nông, lâm, ngư nghiệp là sự biểu hiện của sự tiến bộ trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, ngành ngư nghiệp có biểu hiện tăng trưởng và phát triển cả nuôi trồng và đánh bắt, tạo ra những mặt hàng tươi sống, đông lạnh, sơ chế và chế biến có giá trị cao là một xu hướng tiến bộ trong chuyển dich cơ cấu kinh tế nông lâm ngư nghiệp nhằm khai thác tiềm năng thuỷ hải sản nội địa, các vùng mặt nước ven biển dài hơn 3000 km và nguồn hải sản ven bờ và xa bờ thuộc hải phận của nước ta theo công ước về biển quy định.
II Đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với ngành nông nghiệp.
1. Khái niệm:
Đầu tư trực tiếp nước ngoài là loại hình di chuyển vốn quốc tế, trong đó chủ sở hữu vốn đồng thời trực tiếp quản lý và điều hành hoạt động sử dụng vốn. Sự ra đời và phát triển của đầu tư trực tiếp nước là kết quả của quá trình quốc tế hoá và phân công lao động quốc tế.
Theo luật đầu tư nước ngoài tại việt nam ban hành năm 1987 và theo luật bổ xung hoàn thiện sau 4 lần sửa đổi ( 1989, 1992, 1996, 2000 ): " đầu tư trực tiếp nước ngoài là việc các tổ chức và cá nhân nước ngoài đưa vào việt nam vốn bằng tiền nước ngoài hoặc bất kỳ tài sản nào được chính phủ việt nam chấp nhận để hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hoặc thành lập doanh nghiệp liên doanh hay doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài."
2. Vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với sự phát triển nông nghiệp nông thôn.
2.1 Đầu tư tác động đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Đầu tư trực tiếp nước ngoài là yếu tố có ảnh hưởng quyết định đế sự tăng trưởng kinh tế nói chung, hoạt động đầu tư còn tác động mạnh mẽ đến sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế thông qua việc điều chỉnh cơ cấu đầu tư.
ở đây, chính sách đầu tư có ý nghĩa quyết định đối với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở các quốc gia. Theo kinh nghiệm của các nước trên thế giới, con đường tất yếu để có thể tăng trưởng nhanh theo tốc độ mong muốn là phải tăng cường đầu tư, tạo ra sự phát triển nhanh chóng ở khu vực công nghiệp và dịch vụ. Tuy nhiên, trong điều kiện nước ta hiện nay, nông nghiệp vẫn được coi là ngành sản xuất chính, là nền tảng cơ sở cho sự phát triển của công nghiệp thì đầu tư trong lĩnh vực nông nghiệp có vai trò quan trọng. Với một nền nông nghiệp xuất phát điểm thấp, đầu tư trong nông nghiệp hiện nay chính là nhằm đổi mới tư duy sản xuất nông nghiệp nhỏ lẻ, chuyển nền nông nghiệp từ chỗ sản xuất tự cung, tự cấp sang sản xuất hàng hoá, đáp ứng nhu cầu phát triển mới của xã hội mà trước hết là đảm bảo nhanh chóng thực hiện CNH - HĐH. Để thực hiện mục tiêu đó, bước đầu tiên là phải đầu tư cho chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi theo hướng đạt hiệu quả cao mà thực chất là chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn.
Trên phương diện lãnh thổ, đầu tư có tác dụng giải quyết những sự mất cân đối về phát triển giữa các vùng và tiểu vùng. Đầu tư có thể phát huy được lợi thế so sánh tương đối về vị trí, điều kiện tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên và các nguồn lực khác của những vùng kém phát triển, đưa các vùng này thoát khỏi tình trạng trì trệ, đói nghèo. Đầu tư cũng giúp những vùng giàu tiềm năng phát triển nhanh hơn, làm bàn đạp thúc đẩy và hỗ trợ các vùng xung quanh cùng phát triển.
2.2 Đầu tư tăng cường khả năng khoa học, công nghệ
Đầu tư là điều kiện tiên quyết cho sự phát triển và tăng cường khả năng công nghệ của nước ta hiện nay. Các quốc gia muốn tránh được nguy cơ tụt hậu luôn coi công nghệ là một mũi nhọn trong mục tiêu vươn lên phát triển mình. Do tính chất và mức độ ảnh hưởng sâu rộng của khoa học công nghệ tới mọi lĩnh vực kinh tế, xã hội nên đầu tư trong lĩnh vực này cũng chính là đầu tư cho phát triển.
Theo đánh giá của các chuyên gia, trình độ công nghệ của Việt Nam lạc hậu nhiều thế hệ so với thế giới và khu vực, hiện đang ở nhóm 90 nước yếu nhất về công nghệ. Trong nông nghiệp, việc áp dụng những tiến bộ khoa học, kỹ thuật còn yếu kém hơn nhiều so với các ngành khác. Để sản xuất nông nghiệp có giá trị kinh tế cao, mục tiêu trước mắt là tập trung đầu tư cho phát triển công nghệ nhằm cơ giới hoá sản xuất, cải tiến về giống, về kỹ thuật, nâng cao hơn nữa năng suất, chất lượng sản phẩm.
Trong mục tiêu chung cơ bản trở thành nước công nghiệp vào năm 2020, Việt Nam cần nhanh chóng triển khai một chiến lược đầu tư hợp lý gắn với khả năng về vốn cho phát triển khoa học công nghệ, đưa những thành tựu trong lĩnh vực này vào áp dụng trong sản xuất và kinh tế, xã hội.
2.3 Vốn đầu tư cho nông nghiệp
Đi lên công nghiệp hoá hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn nhu cầu về vốn đầu tư rất lớn, theo tính toán của sơ bộ của bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn từ nay đến năm 2001 mỗi năm cần khoảng 30000 tỷ đồng và giai đoạn 2010-2020 mỗi năm cần 35000-40000 tỷ đồng đó là chỉ mới tính cho các vùng chuyên canh nông, lâm, ngư nghiệp, công nghiệp và dịch vụ chưa kể đến vốn đầu tư cho các ngành ngoài các vùng chuyên canh và các hoạt động sự nghiệp khác. Để đáp ứng nhu cầu vốn cho nông nghiệp và nông thôn thì ngoài các nguồn vốn trong nước ra thì vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài có vai trò rất quan trọng cho việc phát triển các lĩnh vực trong nền kinh tế nước ta giai đoạn hiện nay.
2.4 Cải thiện môi trường sinh thái
Nước ta mới bắt đầu đi lên công nghiệp hoá mà đã phải đối mặt với nguy cơ về môi trường sinh thái vì vậy trong thời gian tới phát triển nông lâm, ngư nghiệp với mức độ tăng trưởng cao phải gắn với bảo vệ môi trường, tạo ra nền nông nghiệp bền vững bằng những giải pháp đồng bộ. Do đó vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài có vai trò rất lớn trong việc cải thiện môi trường sinh thái thông qua các dự án như: xử lý chất thải, nước thải, khí thải, không làm phương hại đến con người, cây trồng, vật nuôi.
2.5 Mở rộng thị trường nông nghiệp và nông thôn.
Trong nền kinh tế hàng hoá thị trường là bà đỡ tạo điều kiện cho kinh tế nông nghiệp và nông thôn phát triển. Cho đến nay thị trường nông nghiệp và nông thôn mới bắt đầu hình thành chưa đồng bộ, còn nhiều hạn chế đối với sản xuất cho nên trong thời gian tới nước ta cần mở rộng thị trường nông thôn ở các vùng các địa bàn sản xuất khác nhau với nội dung đa dạng về nhiều mặt để phục vụ sản xuất, từ thị trường tư liệu sản xuất đến thị trường sản phẩm nông, lâm, ngư nghiệp và ngành nghề nông thôn. Muốn vậy thì chúng ta phải có biện pháp thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào khu vực nông nghiệp để mở rộng thị trường nông nghiệp.
2.6 Nâng cao chất lượng cơ sở hạ tầng trong nông nghiệp và nông thôn.
Để đảm bảo cho nông nghiệp tăng trưởng và phát triển theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá cần hết sức quan tâm đến việc tăng cường cơ sở hạ tầng ở nông thôn và về lượng và chất:
Về hệ thống thuỷ lợi cần tiếp tục xây dựng các công trình đầu mối, hoàn chỉnh hệ thống kênh mương nội đồng, đẩy nhanh tốc độ kiên cố hoá kênh ở những nơi có điều kiện, để vừa tránh lãng phí đất và nước tưới tiêu, giảm chi phí thuỷ lợi...
Hệ thống giao thông nông thôn cần được xây dựng và nâng cấp... phát triển giao thông nông thôn là yêu cầu cấp thiết phục vụ sản xuất nông sản hàng hoá và mở mang công nghiệp dịch vụ nông thôn.
Mạng lưới thông tin liên lạc ở nông thôn cũng cần có bước phát triển mới: mở thêm các trạm bưu điện xã, các trạm truyền thanh và mạng lưới điện thoại...
Mạng lưới điện nông thôn gần đây có phát triển nhưng đến nay trong cả nước mới có 60,4% số xã và 53,2% số hộ nông dân có điện, cần tiếp tục mở rộng mạng lưới điện nông thôn để phục vụ sản xuất nông nghiệp, công nghiệp dịch vụ và sinh hoạt ở nông thôn.
Để có thể nâng cao chất lượng cơ sở hạ tầng thì vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào nông nghiệp có vai trò rất quan trọng để tạo ra các công trình phục vụ cho sản xuất nông nghiệp.
3. Các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài
Theo luật đầu tư nước ngoài của Việt Nam (đã sửa đổi ) các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài gồm 4 hình thức:
Hợp đồng hợp tác kinh doanh: là văn bản ký kết giữa hai bên hay nhiều bên ( gọi tắt là các bên hợp doanh ) quy định tránh nhiệm và kết quả kinh doanh cho mỗi bên ( nước ngoài và nước sở tại ) để tiến hành kinh doanh ở nước chủ nhà ( nước sở tại ) mà không thành lập pháp nhân.
Xí nghiệp liên doanh: là xí nghiệp được thành lập ở nước chủ nhà trên cơ sở hợp đồng liên doanh ký kết giữa bên hoặc các bên nước ngoài để đầu tư kinh doanh tại nước chủ nhà.
Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài: là doanh nghiệp thuộc sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài thành lập tại nước chủ nhà, tự quản lý và tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh.
BOT ( xây dựng-vận hành-chuyển giao ): là văn bản ký kết giữa các nhà đầu tư nước ngoài với cơ quan có thẩm quyền của nước chủ nhà để đầu tư xây dựng, mở rộng nâng cấp khai thác công trình kết cấu hạ tầng trong một thời gian nhất định ( thu hồi và có lợi nhuận hợp lý ) sau đó chuyển giao không bồi hoàn toàn bộ công trình cho nước chủ nhà.
4 Những nhân tố ảnh hưởng tới khả năng thu hút vốn FDI
Môi trường pháp lý: các chính sách của các nước nhập khẩu vốn ảnh hưởng trực tiếp đến quyết định đầu tư của chủ đầu tư nước ngoài như: chính sách khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài, chính sách về quản lý ngoại tệ, các quy hoặch trong hạch toán kế toán, chính sách thương mại...
- Chính sách khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài là vấn đề tiên quyết khi chủ đầu tư quyết định đầu tư, một chính sách khuyến khích đầu tư phù hợp sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các chủ đầu tư khi tiến hành đầu tư trên địa bàn, ngược lại nó sẽ là rào cản lớn khiến các nhà đầu tư e ngại và chần chừ trong việc quyết định đầu tư.
- Chính sách quản lý ngoại tệ tại một quốc gia tác động trực tiếp đến tâm lý của nhà đầu tư nước ngoài. Một quốc gia quản lý ngoại hối theo nguyên tắc thả nổi theo thị trường sẽ dẫn đến sự thay đổi liên tục của tỷ giá hối đoái tuỳ theo nhu cầu thị trường, do đó các chủ đầu tư sẽ có tâm lý rụt rè, lo sợ trong hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài tại quốc gia đó. Còn nếu chính sách quản lý ngoại hối theo nguyên tắc thả nổi nhưng có điều tiết hoặc cố định sẽ tạo tâm lý yên tâm hơn cho các nhà đầu tư.
- Chính sách thương mại liên quan đến hoạt động xuất nhập khẩu của các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài, hạn ngạch xuất nhập khẩu và các rào cản thương mại khác ảnh hưởng rất lớn đến các dự án đó bởi hầu hết các dự án FDI khi đi vào hoạt động thường liên quan đến xuất nhập khẩu máy móc thiết bị, nguyên vật liệu sản phẩm... chính sách thương mại bất hợp lý sẽ là rào cản lớn đối với hoạt động của một dự án FDI.
Ngoài ra các chính sách thuế, chính sách ưu đãi và các chính sách vĩ mô khác cũng ảnh hưởng tới sự di chuyển vốn FDI vào một quốc gia. Vì vậy một quốc gia cần kết hợp một cách hài hoà giữa các hoạt động quản lý nhằm tạo ra sự thống nhất trong việc đề ra và thực hiện các chính sách tạo điều kiện thuận lợi cho việc mở rộng thu hút FDI.
Môi trường chính trị xã hội cũng là một nhân tố quan trọng ảnh hưởng tới việc thu hút vốn FDI. Nếu như môi trường chính trị xã hội ổn định sẽ tạo tâm lý cho các nhà đầu tư nước ngoài. Một quốc gia mà luôn có sự bất ổn về chính trị xã hội khiến cho các nhà đầu tư không dám bỏ vốn vào đầu tư bởi nguy cơ thua lỗ rất lớn, sự ổn định về chính trị xã hội ở việt nam thời gian qua là một lợi thế lớn thu hút vốn FDI vào nước ta.
Sức hấp dẫn của môi trường đầu tư ở nước tiếp nhận:
- Nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú là một yếu tố thu hút đầu tư nước ngoài, bởi nó ảnh hưởng rất nhiều tới nguồn cung cấp yếu tố đầu vào cho các dự án FDI. Việt nam có nguồn tài nguyên khá phong phú thu hút sự quan tâm của rất nhiều nhà đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên việc quản lý khai thác cần được cân nhắc cẩn thận để tránh tình trạng khai thác bừa bãi làm cạn kiệt nguồn tài nguyên.
- Cơ sở hạ tầng kỹ thuật: một quốc gia nếu có cơ sở hạ tầng kỹ thuật phát triển sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh, bởi khi đó chủ đầu tư sẽ bớt được một phần chi phí ban đầu, ngoài ra nếu cơ sở hạ tầng tốt sẽ tạo điều kiện cho việc tiếp nhận khoa học công nghệ hiện đại..
- Hệ thống luật pháp của nước sở tại và các rào cản thâm nhập thị trường ảnh hưởng trực tiếp tới hoạt động đầu tư nước ngoài. Môi trường luật pháp quy định lĩnh vực đầu tư hình thức đầu tư, thời hạn đầu tư của các dự án... Môi trường luật pháp phù hợp, khuyến khích sẽ tạo điều kiện hướng dòng vốn FDI vào các lĩnh vực một cách có hiệu quả, kích thích chủ đầu tư, đầu tư vào thị trường đó.
- Nguồn lao động cũng ảnh hưởng không nhỏ tới việc thu hút FDI bởi nó là một trong những yếu tố đầu vào quan trọng của các dự án. Một quốc gia có nguồn lao động dồi dào giá rẻ... sẽ thu hút được các nhà đầu tư , tuy nhiên trình độ lao động đòi hỏi ngày càng cao vì thế buộc các nước phải quan tâm nhiều đến việc đào tạo đội ngũ lao động có trình độ mới mong thu hút được nhiều vốn FDI...
5. Một số chỉ tiêu đánh giá hiệu quả của FDI trong nông nghiệp
Để đánh giá một dự án sử dụng vốn FDI thì cần xét đến nhiều khía cạnh cả kinh tế và xã hội. Nhưng chủ yếu dựa vào một số chỉ tiêu sau đây:
Những đóng góp của nó cho nền kinh tế quốc dân như tốc độ tăng trưởng kinh tế, tỷ trọng đóng góp trong GDP và một số mục tiêu kinh tế của nhà nước và chủ đầu tư, nếu những đóng góp này càng lớn thì chứng tỏ hiệu quả của dự án FDI cao.
Số việc làm tạo ra cho xã hội nhờ việc thực hiện dự án này mang lại. Các dự án FDI càng có quy mô lớn thì số lao động được sử dụng càng lớn. Nó góp phần giải quyết công ăn việc làm cho người dân, giảm bớt gánh nặng cho chính phủ. Ngoài ra dự án hoạt động hiệu quả sẽ góp phần cải thiện đời sống của người lao động.
Những đóng góp của dự án FDI vào việc phát triển khoa học công nghệ và nâng cao trình độ quản lý của nước tiếp nhận vốn đầu tư. Nếu nhờ việc thực hiện các dự án FDI mà trình độ khoa học của nước tiếp nhận có những tiến bộ rõ rệt thì chứng tỏ hiệu quả của dự án lớn...
Ngoài ra còn một số chỉ tiêu khác như vấn đề môi trường, cơ sở hạ tầng mà dự án đem lại và các tác động khác...
III Tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành nông nghiệp việt nam.
1 Sự cần thiết của FDI đối với nông nghiệp việt nam
Đi lên công nghiệp hoá hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn nhu cầu về đầu tư rất lớn. Theo tính toán sơ bộ của bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn từ nay đến năm 2010 mỗi năm cần đầu tư khoảng 30000 tỷ đồng và giai đoạn 2010-2020, mỗi năm cần 35000-40000 tỷ đồng. Đó là chỉ tính cho vùng chuyên canh nông lâm ngư nghiệp, công nghiệp, dịch vụ, cơ sở hạ tầng nông thôn chưa kể vốn đầu tư ngoài các vùng chuyên canh và các hoạt động sự nghiệp khác. Để đáp ứng nhu cầu về vốn cho nông nghiệp và nông thôn cần có những chính sách và giải pháp hữu hiệu để huy động vốn từ nhiều nguồn: ngân sách nhà nước, các nguồn vốn tín dụng trong nước và ngoài nước, vốn tự có...
Để thực hiện mục tiêu tăng trưởng nông nghiệp 4,5-5% thì tỷ lệ đầu tư cho nông nghiệp phải đảm bảo khoảng 25-30% tổng đầu tư cho toàn bộ nền kinh tế. Trong khi đó nguồn vốn từ ngân sách có hạn và chỉ tập trung vào xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn là chủ yếu. Dó đó để tăng nguồn vốn cho sản xuất nông nghiệp nhà nước cần có các chính sách khuyến khích các nhà đầu tư bỏ vốn vào sản xuất nông nghiệp, đặc biệt là các nhà đầu tư nước ngoài, nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ( FDI ) đã có những tác động đáng kể cho phát triển nông nghiệp.
Nông lâm là ngành sản xuất vật chất quan trọng năm 2003 vẫn chiếm gần 22% GDP của nền kinh tế việt nam. Hàng năm sử dụng gần 20 triệu ha đất và rừng, thu hút trên 72% lực lượng lao đông xã hội, thế nhưng đây cũng là ngành khó thu hút các nhà đầu tư trực tiếp của nước ngoài nhất, tính đến năm 2002 toàn ngành mới có 354 dự án đầu tư với số vốn đăng ký 1433,3 triệu USD, trong đó chỉ có 678,9 triệu USD vốn pháp định chiếm tỷ lệ rất bé trong tổng số vốn FDI của cả nước.
Đầu tư vào nông nghiệp ở nước ta chưa hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài vì sinh lợi chậm, nhiều rủi ro... Do đó nhà nước cần có những chính sách hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài bỏ vốn vào các dự án đầu tư trong nông nghiệp, góp phần thực hiện mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp.
2 Cơ cấu kinh tế trong nông nghiệp việt nam
Trong quá trình đổi mới, chuẩn bị bước vào công nghiệp hoá, cơ cấu kinh tế nông nghiệp bước đầu đã có sự dịch chuyển, thể hiện ở tỷ trọng giá trị sản lượng giữa các ngành nông nghiệp, lâm nghiệp và ngư nghiệp. Tuy nhiên mức độ chuyển dịch chưa đáng kể.
2.1 Cơ cấu ngành nông nghiệp
Bảng1: cơ cấu giá trị sản lượng nông nghiệp
Chỉ tiêu
1998
1999
2000
2001
2002
2003
Giá trị sản lượng nông nghiệp
100
100
100
100
100
100
Trồng trọt
75,2
75,7
74,4
74,95
73,3
73
Chăn nuôi
24,6
24,3
25,6
25,05
26,7
27
Tỷ trọng giá trị sản xuất trồng trọt giảm dần còn tỷ trọng sản xuất chăn nuôi thì tăng dần, đây là một tiến bộ của sự chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp theo hướng công nghiệp hoá trong đó:
+ Cơ cấu trồng trọt bắt đầu chuyển dịch theo hướng giảm tỷ trọng cây trồng hàng năm ( lúa, hoa màu ) và tăng tỷ trọng cây lâu năm ( cây công nghiệp: ca fê, chè, điều, tiêu, cây ăn quả ) được thể hiện ở bảng 2
Bảng 2 cơ cấu giá trị sản lượng ngành trồng trọt ( % )
Chỉ tiêu
2000
2001
2003
Toàn ngành trồng trọt
110
110
110
Cây lương thực
66,2
65,3
65
Rau, đậu
6,2
6,2
6,2
Cây công nghiệp
16,3
17,9
18,1
Cây ăn quả
8
7,8
7,8
Cây khác
0,3
0,3
0,3
Sản phẩm phụ của trồng trọt
2,9
2,6
2,6
Như vậy tỷ trọng cây lương thực có xu hướng giảm, tỷ trọng giá trị rau, đậu không tăng, tỷ trọng cây công nghiệp tăng là phù hợp với yêu cầu công nghiệp hoá.
+ Cơ cấu chăn nuôi: chăn nuôi trâu bò chiếm tỷ trọng lớn và tiếp tục phát triển, chăn nuôi lợn tăng nhanh, chăn nuôi gia cầm cũng tăng nhưng tỷ trọng chăn nuôi nói chung còn thấp. Vấn đề đặt ra đối với ngành chăn nuôi là giá thành chăn nuôi còn cao vì chi phí chăn nuôi cao, trong khi giá bán sản phẩm thấp và sức mua của thị trường trong nước còn thấp, còn xuất khẩu thì chưa tạo ra được thế cạnh tranh.
2.2 Cơ cấu ngành lâm nghiệp
Cơ cấu ngành lâm nghiệp bao gồm các nội dung sau:
+ Bảo tồn rừng tự nhiên khoanh nuôi khôi phục rừng tái sinh nhằm bảo vệ môi trường, bảo vệ dạng sinh học, bảo vệ động thực vật quý hiếm. Phát triển rừng ở vùng đồi núi và vùng đồng bằng ven biển,
+ Khai thác tài nguyên rừng: lâm sản,gỗ tre, nứa, song, mây, cây thuốc...
+ Chế biến lâm sản.
Thời gian qua hoạt động lâm nghiệp mới tập trung chủ yếu vào khai thác còn việc bảo vệ trồng mới rừng tuy có làm ._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- C0271.doc