Tài liệu ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI TẠI THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG: CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI
( FDI : FOREIGN DIRECT INVESTMENT )
Đầu tư nước ngoài và các loại hình đầu tư nước ngoài tại Việt Nam
Khái niệm về đầu tư nước ngoài
Đặc điểm của chủ nghĩa tư bản cạnh tranh tự do hoàn toàn thống trị là việc xuất khẩu hàng hóa sang các nước kém phát triển hơn. Nhưng đến cuối thế kỷ 20, với sự hình thành các tổ chức độc quyền, thì trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa xuất hiện thêm hình thức xuất khẩu mới-xuất khẩu tư bản. Bằng việc xuất kh... Ebook ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI TẠI THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
69 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1410 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI TẠI THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ẩu tư bản, nhà tư bản tổ chức việc sản xuất ở nước ngoài, hàng hóa sản xuất ra của các xí nghiệp nước ngoài sẽ thay thế một phần cho việc xuất khẩu hàng hóa. Xuất khẩu tư bản được thực hiện dưới hình thức đầu tư quốc tế.
Đầu tư quốc tế là một quá trình kinh tế trong đó các nhà đầu tư nước ngoài ( tổ chức hoặc cá nhân) đưa vốn hoặc bất kỳ hình thức giá trị nào vào nước nhận đầu tư để thực hiện các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ nhằm thu lợi nhuận hoặc đạt được các hiệu quả xã hội.
Sự hợp tác đầu tư quốc tế giữa hai bên và nhiều bên là xu hướng có tính chất quy luật trong điều kiện tăng cường quốc tế hoá đời sống kinh tế hiện nay, tuy rằng trên thực tế, sự hợp tác này không đơn giản mà trái lại luôn chứa đựng một sự cạnh tranh gay gắt. Song dù sao trong hợp tác đầu tư, lợi ích của các bên tham gia cũng khá gắn liền với nhau. Nhận thức rõ của xu hướng này và sử dụng nó một cách khôn ngoan là một trong những cách bảo đảm cho sự thành công của một con đường phát triên trong giai đoạn hiện nay của mỗi nước.
Các loại hình đầu tư nước ngoài
Theo quan niệm của OECD thì các nguồn tài trợ cho nước ngoài bao gồm:
Tài trợ phát triển chính thức (ODF): bao gồm viện trợ phát triển chính thức (ODA) và các hình thức ODF khác, song phương cũng như đa phương.
Tín dụng xuất khẩu
Tài trợ tư nhân: bao gồm vay tư ngân hàng quốc tế (WB), vay tín phiếu, đầu tư thị trực tiếp, các nguồn tài trợ tư nhân khác, viện trợ cho không của các tổ chức phi chính phủ.
Như vậy, theo quan niệm của tổ chức này, đầu tư trực tiếp là một trong những nguồn tài trợ tư nhân. Nhưng trong thực tế đầu tư thời gian qua chúng ta thấy rằng, chủ thể của FDI không thể có duy nhất tư nhân mà còn có nhà nước và tổ chức phi chính phủ khác (mặc dù số lượng ít hơn nhiều). Bởi vậy quan niệm như trên chưa thật hoàn toàn đầy đủ.
Theo IMF (1993), đầu tư trực tiếp nước ngoài được định nghĩa là loại “đầu tư phản ánh mục tiêu nhằm đạt được lợi ích lâu dài của một tổ chức sở tại trong một nền kinh tế ( doanh nghiệp nước ngoài hay công ty mẹ ) ở một doanh nghiệp đặt ở một nền kinh tế khác ( doanh nghiệp FDI, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài )”. Lợi ích lâu dài bao hàm quan hệ lâu dài của các nhà đầu tư trực tiếp với doanh nghiệp ( nước ngoài ) và một mức độ ảnh hưởng dáng kể của nhà đâu tư lên việc quản lý doanh nghiệp.
FDI không giống với các hình thức di chuyển vốn khác ở chỗ vai trò của nó không chỉ hạn chế trong việc làm tăng đầu tư ở nước nhận vốn ( chủ nhà ), FDI xuất phát từ quyết định của một doanh nghiệp ở một nước nào đó ( một công ty đa quốc gia ) nhằm tham gia vào sản sản xuất quốc tế, di chuyển địa điểm hoạt động của mình dến một nước chỉ nhà được chọn. Do dó về cơ bàn FDI đem theo cả kiến thức đặc thù cho công ty ( dưới hình thức công nghiệp, kỹ năng quản lý, bí quyết tiếp thị, v..v ) mà nước chủ nhà không thể thuê hoăc hoặc mua được trên thị trường. Các chi nhánh của các công ty đa quốc gia, như là một bộ phận quan trọng trong mạng lưới toàn cầu của công ty mẹ, đã có sẵn các kênh bao tiêu hàng, có kinh nghiệm và chuyên môn trong nhiều lĩnh vực phức tạp của việc phát triển sản phẩm và tiếp thị quốc tế, đồng thời ở vào thế có lợi để tận dụng được những khác biệt giữa các nước về chi phí sản xuất. Hơn nữa, các công ty đa quốc gia có nhiều khả năng đối phó lại với những áp lực bảo hộ ở nước xuất xứ hơn, sao cho có lợi cho việc nhập khẩu từ các chi nhánh của họ. Dựa trên cơ sở này, người ta thường nói rằng FDI cho phép các nhà quản lý và công nhân trong đất nước tiếp nhận được những kiến thức và công nghệ nhanh hơn. Nó cũng cho phép những người mới tham gia học hỏi về thị trường xuất khẩu, kích thích cạnh tranh với các doanh nghiệp trong nước, và đào tạo công nhân.
Về mặt ổn định, có sự khác biệt rõ ràng giữa FDI và các hình thức cấp vốn khác như cho vay ngắn hạn của ngân hàng và đầu tư gián tiếp. Đầu tư gián tiếp chủ yếu bao gồm việc mua các tài sản tài chính. Lợi suất từ việc mua các tài sản tài chính con tuỳ thuộc vào nhiều biến số như tỷ giá, lãi suất và giá cổ phiếu, là cái thường chịu những dao động ngắn hạn. Hơn nữa những tài sản này có thể dễ dàng bán nhanh ( tức nhiên cũng có cái giá của nó ). Ngược lại, FDI như nêu trên là luồng vốn dài hạn dựa trên những cân nhắc lợi nhuận dài hạn, mà một khi đã đầu tư thì không dễ dàng nhanh chóng rút lui. FDI về cơ bản thể hiện ở quyền sở hữu và vận hành các cơ sở sản xuất. Do đó, khi so sánh với đầu tư gián tiếp và những loại luồng đầu tư khác, FDI là nguồn vốn tương đối ổn định.
Đối với hoạt động đầu tư nước ngoài, nhà nước Việt Nam chủ trương khuyến khích mở rộng hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài nhằm góp phần phát huy mọi tìm năng để thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế -xã hội. Để thể chế hóa chủ trương đó và cũng để tạo ra hệ thống khung pháp lý cho việc quản lý, luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam quy định. “Đầu tư trực tiếp nước ngoài là việc nhà đầu tư nước ngoài đưa vào nước ngoài vốn bằng tiền mặt hoặc bất cứ tài sản nào để tiến hành hoạt động đầu tư theo quy định của luật này”.
Với những quy định như đã nêu trong luật thì đầu tư trực tiếp nước ngoài là việc các nhà đầu tư (pháp nhân hoặc tư nhân) đưa vốn (bằng tiền hay bất cứ tài sản nào) vào nước tiếp nhận đầu tư để thực hiện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ nhằm thu lợi nhuận và đạt được những hiệu quả xã hội. Do đó, đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) chính là một loại hình di chuyển vốn quốc tế mà trong đó mỗi người sở hữu đồng thời là người trực tiếp quản lý điều hành hoạt động sử dụng vốn đầu tư. Đối với hình thức đầu tư này, người bỏ vốn sẽ trực tiếp tham gia quản lý điều hành quy trình thực hiện và có thể quyết định toàn bộ mọi hoạt động nếu hình thức là doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài, hoặc tham gia quyết định nếu là doanh nghiệp liên doanh. Nếu theo nghĩa hẹp, FDI là sự đầu tư của các công ty nhằm xây dựng các cơ sở, chi nhánh ở nước ngoài và làm chủ toàn bộ hay từng phần của cơ sở đó, là hình thức đầu tư mà chủ đầu tư nước ngoài đóng góp một số vốn đủ lớn vào lĩnh vực sản xuất hoặc dịch vụ và cho phép họ trực tiếp tham gia điều hành đối tượng mà họ bỏ vốn đầu tư.
Nếu nguồn tài trợ ODF (chủ yếu là ODA) là nguồn tài trợ chính thức có thể cho không, hoặc vay ưu đãi do các quốc gia, các tổ chức quốc tế cung cấp, thì FDI là nguồn đầu tư chủ yếu do các công ty đa quốc gia thực hiện. Việc tiếp nhận nguồn đầu tư này không gây nên tình trạng nợ cho nước chủ nhà, trái lại còn tạo điều kiện cho nước chủ nhà phát triển tiềm năng trong nước. Bên cạnh đó, FDI không chỉ đưa vốn vào nước hưởng đầu tư mà đi cùng với nó là kỹ thuật, là công nghệ và là bí quyết kinh doanh, do đó nâng cao năng lực của nền kinh tế trong nước, tăng sức cạnh tranh trên thị trường trong và ngoài nước.
Xét về bản chất đầu tư nước ngoài là hình thức xuất khẩu tư bản , một hình thức cao hơn của xuất khẩu hàng hóa và đây phải là hình thức xuất khẩu bổ xung và hỗ trợ cho nhau trong chiến lược thâm nhập và chiếm lĩnh thị trường của các công ty, tập nđoàn kinh tế nước ngoài. Nhiều trường hợp, hoạt động buôn bán hàng hóa tại nước sở tại là bước đi tìm hiểu thị trường, tìm hiểu luật lệ để đi đến quyết định đầu tư nước ngoài tại nước sở tại là điều kiện để xuất khẩu máy móc, nguyên vật liệu và khai thác tài nguyên của nước chủ nhà. Để đạt được những mục tiêu này các nhà đầu tư sẽ phải lựa chọn một hình thức doanh nghiệp phù hợp, thành lập và tiến hành kinh doanh. Như vậy, với sự đầu tư trực tiếp nguồn vốn từ nước ngoài sẽ dẫn đến một hậu quả tất yếu là sự hình thành của một loại hình doanh nghiệp mới, đó là các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Chính sách và việc tổ chức thu hút FDI của nước ngoài
Việc tổ chức thu hút vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài
Việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài có thể được coi là một quá trình xây dựng đầu tư trực tiếp nước ngoài nhằm tạo điều kiện không những cho vốn đầu tư nước ngoài, mà cả vốn đầu tư trong nước được đưa vào thực hiện một cách thuận lợi ( với tư cách là phần vốn góp của nước sở tại trong liên doanh ). đứng trên giác độ của một quốc gia, việc thu hút đầu tư trực tiếp của nước ngoài liên quan đến các vấn đề sau:
Xây dựng hệ quan điểm về vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài đối với phát triển kinh tế
Để xây đựng hệ thống quan điểm về vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài, trước hết phải xác định rõ FDI có vai trò như thế nào đối với sự phát triển kinh tế của nước đó.
Xuất phát từ lý luận về xuất khẩu tư bản của V.I.Lênin, từ vai trò nguồn vốn nước nước ngoài của các nhà kinh tế học hiện đại chúng ta thấy, FDI là nguồn vốn bổ sung rất quan trọng cho các nước, nhất là các nước đang phát triển. Thiếu nguồn vốn này, các nước khó có thể vượt khỏi vòng luẩn quẩn của sự đói nghèo để đẩy nhanh sự phát triển kinh tế xã hội. Song vấn đề là ở chỗ, thái độ của nước nhận đầu tư như thế nào và biện pháp xử lý ra sao nhằm phát huy mặt tích cực và hạn chế tối đa những tác động tiêu cực của loại hình đầu tư này.
Từ kinh nghịêm thành công của các nước đang phát triển trong việc thu hút FDI, có thể nói rằng, nhìn chung các nước này đều có thái độ và chính sách ưu đãi với các nhà đầu tư nước ngoài. Họ nhìn hoạt động FDI không phải là hoạt động nhằm bóc lột nguồn lực của nước mình, mà đó là những điều kiện thuận lợi cho việc tăng trưởng kinh tế của đất nước. Chính vì vậy, các nước thường có những chính sách ưu đãi, nhất quán đối với nhà đầu tư, tạo những điều kiện thuận lợi cho hoạt động FDI.
Là nhà đầu tư, họ quan tâm đến những lợi ích và những ưu đãi mà họ có thể thu được từ dự án đầu tư thực hiện ở nước sở tại, các vấn đề liên quan đến việc thành lập và triển khai dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Trong việc lập dự án, nhà đầu tư sẽ quan tâm tới việc phải hoàn thành những gì trong bộ hồ sơ xin cấp giấy phép đầu tư, các ngành, các cấp nào đã tham gia vào việc cấp giấy phép đầu tư, liệu nhà đầu tư có nhận được các thông tin trợ giúp từ phía chính phủ và các tổ chức môi giới hay không, thời gian trung bình để có được một giấy phép đầu tư là bao lâu,…
Trong việc triển dự án đầu tư, nhà đầu tư sẽ quan tâm tới những vấn đề như giải phóng mặt bằng có thuận lợi hay không, việc đưa máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu vào nước sở tại để sản xuất kinh doanh có thuận lợi và khó khăn gì, việc tuyển dụng nhân công ở nước sở tại có sẵn có hay không (điều này có liên quan tới chính sách đào tạo lao động của nước sở tại ), trong một số trường hợp việc tuyển dụng nhân công nước ngoài có gặp khó khăn gì không và những vấn khác liên quan đến những khuyến khích đầu tư.
Đạo tạo đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước trong lĩnh vật đầu tư nước ngoài và đội ngũ cán bộ kinh doanh quốc tế để có thể đáp ứng những yêu cầu của quá trình thu hút vốn nước ngoài như: tham gia thảm định các dự án đầu tư nước ngoài, tham gia hoạch định chính sách đầu tư trên phạm vi khu vật và quốc tế, tham gia kinh doanh với nhà đầu tư nước ngoài.
Tạo lập môi trường đầu tư hấp dẫn
Vấn đề có tính then chốt trong việc tổ chức nhằm thu hút FDI là tạo lập một môi trường đầu tư hấp dẫn.
Môi trường đầu tư là tổng thể các bộ phận mà ở đó chúng tác động qua lại lẫn nhau và chi phối mạnh mẽ đến các hoạt động đầu tư. Buộc các nhà đầu tư, tự điều chỉnh các mục đích, hình thức và phạm vi hoạt động cho thích hợp tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh doanh và đưa đến hiệu quả cao trong kinh doanh.
Người ta có thể phân loại môi trường đầu tư theo nhiều tiêu thức khác nhau và mỗi tiêu thức phân loại đó lại hình thành các môi trường, thành phần khác nhau. Chẳng hạn:
Căn cứ vào phạm vi không gian, có môi trường đầu tư nội bộ doanh nghiệp, môi trường đầu tư trong nước và môi trường đầu tư quốc tế.
Căn cứ vào lĩnh vực, có môi trường chính trị, môi trường luật pháp, môi trường kinh tế, môi trường văn hóa xã hội, cơ sở hạ tầng…
Căn cứ và sức hấp dẫn, có môi trường đầu tư có tính cạnh tranh cao (hấp dẫn nhiều), môi trường đầu tư có tính cạnh tranh trung bình (hấp dẫn vừa), môi trường đầu tư có tính cạnh tranh thấp (hấp dẫn ít) và môi trường không có tính cạnh tranh (không hấp dẫn).
Khi xem xét môi trường đầu tư, các nhà kinh doanh và các nhà quản lý phải thấy một số đặc điểm cơ bản trong quá trình đánh giá và tạo dựng môi trường đầu tư.
Thứ nhất, môi trường đầu tư không phải là cố định mà luôn luôn biến đổi do sự thay đổi của các yếu tố cấu thành. Tính chất của môi trường đầu tư luôn luôn thay đổi là do mối tương quan giữa môi trường đầu tư trong nước và các môi trường đầu tư của các nước khác. Không có một môi trường đầu tư cố định.
Thứ hai, môi trường đầu tư là sự đang xen của các môi trường thành phần và sự tác động qua lại giữa chúng. Điều này đòi hỏi khi phân tích đánh gia môi trường phải xem xét đánh giá một cách tổng thể trong mối quan hệ chặt chẽ và với một mối tương quan cụ thể giữa các môi trường thành phần.
Thứ ba, ngày nay xu thế hội nhập không ngừng gia tăng, các doanh nghiệp không chỉ kinh doanh ở trong nước mà còn phải mở rộng hoạt động ở các thị trường nước ngoài. Do đó, khi đánh giá môi trường đầu tư của một nước cụ thể, không thể so sánh với môi trường đầu tư của các nước khác, đặc biệt là các nước trong khu vực. Bởi vì, các nhà đầu tư nước ngoài có một quyền rất lớn: đó là quyền tự do lựa chọn thị trường đầu tư ở nước này hay nước khác, quyền không đầu tư nếu môi trường không đáp ứng được các yêu cầu của họ, đặc biệt là trong bối cảnh cạnh tranh gay gắt về vốn đầu tư.
Nói đến môi trường đầu tư là nói đến hàng chục yếu tố hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp tác động đến hiệu quả sản xuất - kinh doanh của dự án đầu tư, không kể vốn đầu tư là từ trong nước hay từ ngoài nước. Đó là một môi trường đầu tư chung, “một sân chơi bình đẳng” cho tất cả mọi người không kể quốc tịch và trình độ phát triển.
Chính sách đầu tư nước ngoài
Chính sách đầu tư nước ngoài là một bộ phận trong các chính sách phát triển kinh tế - xã hội của một quốc gia. Chính sách phát triển kinh tế - xã hội của một quốc gia được chia thành chính sách đối nội và chính sách đối ngoại. Theo lĩnh vực áp dụng, chính sách đối ngoại của một quốc gia được chia thành chính sách ngoại giao (lĩnh vực chính trị) và chính sách kinh tế đối ngoại (lĩnh vực kinh tế). Theo nội dung, chính sách kinh tế đối ngoại lại được chia thành chính sách ngoại thương, chính sách đầu tư nước ngoài, chính sách tỷ giá hối đoái và quản lý ngoại hối… Trong mỗi chính sách bộ phận trên lại có hàng loạt các chính sách khác. Chẳng hạn, chính sách đầu tư bao gồm chính sách thu hút đầu tư nước ngoài và chính sách đầu tư ra nước ngoài.
Chính sách đầu tư nước ngoài bao gồm một hệ thống các chính sách, công cụ và biện pháp thích hợp mà nhà nước áp dụng để điều chỉnh các hoạt động đầu tư quốc tế của một quốc gia (bao gồm đầu tư ra nước ngoài và thu hút đầu tư nước ngoài) trong một thời kỳ nhất định nhằm đạt được các mục tiêu đã định trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia đó.
Chính sách đầu tư nước ngoài nhằm điều chỉnh và giải quyết các vấn đề của đầu tư gián tiếp và đầu tư trực tiếp. Nhiệm vụ của nó là phải giúp cho nhà nước đưa ra những quyết sách thích hợp để ứng xử với tình hình đầu tư nước ngoài, phải trả lời được là nên khuyến khích đầu tư ra nước ngoài hay thu hút đầu tư vào trong nước? Tỷ lệ giữa đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếpở khoảng nào là tối ưu? Sử dụng các công cụ nào để khuyến khích đầu tư nước ngoài? Khuyến khích đầu tư nước ngoài vào khu vực nào và ngành kinh tế nào?
Theo tính chất, chính sách đầu tư nước ngoài có thể được phân thành chính sách đầu tư tự do và chính sách hạn chế đầu tư.
Theo nội dung, chính sách đầu tư nước ngoài có thể được chia thành:
Chính sách tài chính và các khuyến khích tài chính;
Chính sách ngành và lĩnh vực đầu tư (chính sách cơ cấu);
Chính sách thị trường;
Chính sách lao động;
Chính sách đất đai;
Chính sách công nghệ…
Chính sách tài chính và các khuyến khích tài chính
Chính sách này bao gồm các chính sách thuế và các khuyến khích khác như tỷ lệ thuế mà các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài phải nộp cho ngân sách nhà nước, thời gian miễn thuế kể từ khi doanh nghiệp kinh doanh có lợi nhuận. Sau kỳ chịu thuế này, các doanh nghiệp có thể được giảm thuế trong một thời gian nào đó.
Luật thuế xuất nhập khẩu cũng là một công cụ để khuyến khích hay hạn chế đầu tư nước ngoài. Nếu một hàng hoá được khuyến khích đầu tư sản xuất bởi các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trong một nước thì có thể được miễn giảm thuế xuất (nhập) khẩu.
Hoàn trả thuế lợi tức. Một khi lợi nhuận được sử dụng để tái đầu tư, nhà đầu tư nước ngoài sẽ được hoàn trả một phần hay toàn bộ thuế lợi tức đã nộp.
Thuế chuyển lợi nhuận về nước. Thông thường, vốn trả nợ cho nước ngoài không phải chịu thuế, song khoản vay mượn này phải được kê khai trong hồ sơ dự án đầu tư xin giấy phép đầu tư. Lợi nhuận chuyển ra nước ngoài cần được xem xét về mức độ đánh thuế của nó.
Thuế thu nhập cá nhân. Thuế thu nhập cá nhân được đánh vào những người có thu nhập cao làm việc trong các dự án đầu tư nước ngoài.
Quy định hình thức và tỷ lệ góp vốn. Nhà đầu tư trong và nước ngoài có thể góp vốn dưới các hình thức khác nhau như: bằng tiền mặt, máy móc, nguyên vật liệu, quyền sở hữu công nghiệp hay giá trị quyền sở hữu đất.
Sự chuyển vốn ra nước ngoài. Thông thường sau khi chịu thuế, nhà đầu tư nước ngoài có thể chuyển về nước những khoản lợi nhuận; giá trị chuyển nhượng công nghệ và dịch vụ; vốn đầu tư thu hồi; gốc và lãi từ các khoản nợ thu được.
Chính sách về cơ cấu đầu tư
Những ngành, lĩnh vực mà các nhà đầu tư nước ngoài được đầu tư tự do, những ngành đòi hỏi một số điều kiện nhất định và những ngành, lĩnh vực được khuyến khích…
Chính sách đất đai
Chính sách này xác định quyền của nhà đầu tư nước ngoài trong quan hệ sở hữu đất đai, thời hạn và giá cả thuê đất.
Chính sách lao động
Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có được phép tự do tuyển dụng lao động hay không và phải tôn trọng các nguyên tắc nào trong mối quan hệ chủ thợ. Thông thường, các nhà đầu tư phải ưu tiên tuyển dụng các lao động tại nước sở tại, đặc biệt là các lao động ở địa phương đặt trụ sở. Việc tuyển dụng lao động có thể thông qua văn phòng tuyển dụng, tư vấn đầu tư hay các tổ chức dịch vụ. Chỉ khi nào những cơ quan trên không cung cấp được cho doanh nghiệp những lao động phù hợp về số lượng và chất luợng thì doanh nghiệp mới trực tiếp đứng ra tuyển dụng.
Khi có nhu cầu sử dụng lao động nước ngoài, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, các bên hợp danh cần giải trình sự cần thiết phải sử dụng lao động nước ngoài có kèm theo chứng chỉ nghề nghiệp của người lao động nước ngoài gửi Sở Lao động – Thương binh và Xã hội tỉnh, thành phố nơi đặt trụ sở của doanh nghiệp để xem xét việc cấp giấy phép lao động theo quy định của pháp luật về lao động.
Vai trò của FDI đối với việc phát triển kinh tế của các nước
Để phát triển kinh tế đòi hỏi phải có vốn. Thực tế cho thấy hầu như tất cả các nước đều thiếu vốn đầu tư. Để khắc phục tình tràng thiếu vốn, các nước sử dụng biện pháp thu hút vốn đầu tư từ bên ngoài, nhất là đầu tư trực tiếp. Do đó đầu tư trực tiếp của nước ngoài (FDI) là một vấn đề được nhiều nước phát triển và đang phát triển rất quan tâm.
Bản chất và đặc điểm của FDI
Bản chất FDI
Trong hợp tác đầu tư quốc tế thường có nhiều nguồn vốn khác nhau. Nhìn chung, vốn nước ngoài đầu tư vào trong nước bằng hai con đường: đường công cộng (official) và đương tư nhân hoặc thương mại (commercial). Hình thức chủ yếu của đường công cộng là viện trợ, bao gồm viện trợ không hoàn lại và cho vay dài hạn với lãi suất thấp từ các tổ chức quốc tế hoặc chính phủ của các nước tiên tiến. Viện trợ không hoàn lại không trở thành nợ nước ngoài, nhưng quy mô nhỏ và thường chỉ giới hạn trong lĩnh vực văn hoá, giáo dục và cứu trợ.
Các hình thức chủ yếu trong đầu tư quốc tế là đầu tư trực tiếp, đầu tư qua thị trường chứng khoán, vay của các định chế kinh tế và các ngân hàng nước ngoài (vay thương mại) và nguồn vốn viện trợ phát chính thức (ODA).
Do vậy thương mại với lãi suất cao nên dễ trở thành gánh nặng về nợ nước ngoài trong tương lai. Đầu tư qua thị trường chứng khoán không trở thành nợ nhưng lại thay đổi đột ngột trong hành động (như: bán chứng khoán, rút tiền về nước) của nhà đầu tư nước ngoài làm ảnh hưởng mạnh đến thị trường vốn, gây biến động tỷ gia và các mặt khác của nền kinh tế vĩ mô. FDI cũng là hình thức đầu tư không trở thành nợ. Đây là vốn có tính chất lâu dài ở bản xứ nên không dễ rút đi trong thời gian ngắn. Ngoài ra, FDI không chỉ đầu tư vốn mà còn đầu tư công nghệ và tri thức khách hàng nên dễ thúc đẩy sự phát triển các ngành công nghiệp hiện đại và phát triển kinh tế.
Đặc điểm chủ yếu của FDI
Hiện nay FDI có những đặc điểm sau đây:
FDI trở thành hình thức chủ yếu trong đầu tư nước ngoài.
Xét về xu thế và hiệu quả thì FDI thể hiện rõ hơn sự chuyển biến về chất lượng trong nền kinh tế thế giới, gắn liền với quá trình sản xuất trực tiếp, tham gia vào sự phân công lao động quốc tế theo chiều sâu và tạo thành cơ sở của sự hoạt động của các công ty xuyên quốc gia và các doanh nghiệp quốc tế
FDI đang và sẽ tăng mạnh ở các nước đang phát triển
Có nhiều lý do giải thích mức độ đầu tư cao giữa các nước công nghiệp phát triển với nhau, nhưng có thể thấy hai nguyên nhân chủ yếu.
Thứ nhất, môi trường đầu tư của các nước phát triển có độ tương hợp cao. Môi trường này hiểu theo nghĩa rộng bao gồm cả môi trường công nghệ và môi trường pháp lý.
Thứ hai, xu hướng khu vực hóa đã thúc đẩy các nước này thâm nhập thị trường của nhau.
Cũng với hai lý do chính đó, ta có thể giải thích được xu hướng tăng lên của FDI ở các nước công nghiệp mới (NICs), các nước ASEAN và Trung Quốc, Ấn Độ. Quá trình tự do hoa kinh tế, chuyển sang kinh tế thị trường ở các nước này cũng như khu vực Đông Âu và Liên Xô đã tạo nên những khoảng trống mới cho đầu tư. Mặc khác, các nhà đầu tư lớn nhất có xu hướng cũng cố khu vực lân cận của mình.
Như vậy, xu hướng tự do hoá và mở cửa nền kinh tế của các nước đang phát triển trong những năm gần đây đã góp phần đáng kể vào sự thay đổi dòng chảy FDI. Năm 1990, tổng số vốn đầu tư của các nước đang phát triển nhận được là 19%, năm 1991 là 25% và năm 1992 khoảng 30%. Trong những năm gần đây tỷ lệ này vẫn có xu hướng tăng lên.
Cơ cấu và phương thức ngày càng đa dạng hơn
về cơ cấu FDI, đặc biệt FDI vào các nước công nghiệp phát triển có những thay đổi như sau:
Vai trò và tỷ trọng của đầu tư vào các ngành có hàm lượng khoa học cao tăng lên. Hơn 1/3 FDI tăng lên hằng năm là tập trung vào các ngành then chốt như điện tử, chế tạo máy tính, chất dẻo và chế tạo máy. Trong khi đó, nhiều ngành công nghiệp truyền thống dùng nhiều vốn và lao động, FDI giảm tuyệt đối hoặc không đầu tư.
Tỷ trọng của các ngành công nghiệp chế tạo giảm xuống trong khi FDI vào các ngành dịch vụ tăng lên. Điều này có liên quan đến tỷ trọng khu vực dịch vụ trong GDP của các nước OECD tăng lên và hàm lượng dịch vụ trong công nghiệp chế tạo cao. Một số lĩnh vực ưu tiên là các dịch vụ thương mại, bảo hiểm, các dịch vụ tài chính và giá trị. Tỷ lệ các nguồn FDI và dịch vụ tăng rất mạnh từ thập kỷ 80: năm 1985, FDI vào dịch vụ tại Mỹ chiếm tỷ trọng 44% (so với 32% năm 1950), vào Nhật Bản là 52% (so với 20% năm 1965)…
Sự gắn chặt chẽ giữa FDI với ODA, thương mại, và chuyển giao công nghệ
FDI và thương mại có liên quan rất chặt chẽ với nhau. Thông thường một chính sách khuyến khích đầu tư nước ngoài được nhằm vào mục đích tiềm năng xuất khẩu của một nước. Mặt khác, các công ty nước ngoài được lựa chọn và địa điểm đầu tư cũng dựa trên cở sở tăng khả năng của sản phẩm trên thị trường quốc tế.
FDI đang trở thành kênh quan trọng nhất của việc chuyể giao công nghệ. Xu hướng hiện nay là FDI và chuyển giao công nghệ ngày càng gắn bó chặt chẽ với nhau. đấy chính là hình thức có hiệu quả nhất của sự lưu chuyển vốn và kỹ thuật trên phạm vi quốc tế. Nhiều đã đạt được thành công trong việc hấp thụ các yếu tố bên ngoài để phát triển kinh tế trong nước là nhờ chú ý đến điều này. Hơn nữa, chuyển giao công nghệ giúp nâng cao năng lực cộng nghệ bản địa. Kinh nghiệm của các nước cho thấy rằng, sự tách rời công nghệ với thương mại quốc tế, trước hết là xuất khẩu đã làm cho năng lực công nghệ quốc gia không được cải thiện, ngược lại có nguy cơ tụt hậu do thiếu sức cạnh tranh.
Sự gắn bó giữa FDI và các nguồn viện trợ và vay nợ khác cũng là một đặc điểm nổi bật của sự lưu chuyển các nguồn và công nghệ trên phạm vi quốc tế trong những năm gần đây. Hơn nữa, xu hướng này sẽ ngày càng trở nên mạnh mẽ hơn. Lý do là trước đây các nguồn viện trợ và cho vay thường nhằm vào mục đích quân sự và chính trị, do đó hiệu quả của nó đối với thúc đẩy phát triển sự phát triển kinh tế của các nước nhận và nước cho rất thấp. Ở các nước chậm phát triển nhất hiện nay viện trợ và cho vay chiếm 90% các nguồn vốn từ bên ngoài bên ngoài. Viện trợ và cho vay trong nhiều trường hợp dẫn đến sự phụ thuộc một chiều hơn là giúp cho các nước nhận có được sự phát triển tự thân và tham gia có hiệu quả và phân công lao động quốc tế. Vì vậy, các nguồn vốn này đã được các chính phủ, các tổ chức quốc tế đặt trong các mối quan hệ với các nguồn vốn tư nhân nhằm nâng cao hiệu quả của việc sử dụng chúng.
Vai trò của FDI đối với việc phát triển kinh tế đất nước
Một số quan điểm về FDI của các nhà kinh tế học
Đầu thế kỷ XX các nhà kinh tế đã bàn nhiều về xuất khẩu tư bản. V.I.Lênin cho rằng:xuất khẩu tư bản là một đặc điểm kinh tế của chủ nghĩa tư bản hiện đại (tức chủ nghĩa tư bản độc quyền). Theo ông, trong giai đoạn cạnh tranh tự do đặt diểm của chủ nghĩa tư bản là xuất khẩu hàng hóa, còn trong giai đoạn hiện đại là xuất khẩu tư bản. Xuất khẩu tư bản có ảnh hưởng đến nguồn vốn đầu tư của các nước xuất khẩu tư bản, nhưng lại giúp các tổ chức độc quyền thu được lợi nhuận cao ở nước ngoài. Ngoài ra, xuất khẩu tư bản còa vai trò bảo vệ chế độ chính trị ở các nước nhập khẩu tư bản và ít nhiều có tác dụng thúc đẩy phát triển kinh tế, kỹ thuật. Song về hậu quả nhân dân oqr các nước nhập khẩu tư bản bị bốc lột nhiều hơn, sự lệ thuộc về kinh tế và kỹ thuật tăng lên, dẫndeens sự phụ thuộc về chính trị là khó tránh khỏi.
Từ phân tích trên, V.L.Lê nin rút ra kết luận “ các nước xuất khẩu tư bản hầu như bao giờ cũng có khả năng thu được một số” khoản lợi” nào có, và tính chất của những khoản lợi này làm sáng tỏ đặc trưng của thời đại tư bản tài chính và độc quyền”.
Vào giữa thế kỹ XX, việc xuất khẩu tư bản, nhất là FDI, phát triển nhanh chóng. Các nhà kinh tế học cho rằng, dể phát triển kinh tế các nước đang phát triển phải có biện pháp thu hút được FDI. Điẻn hình là hai nhà kinh tế học P.Samue lson và R. Nukse. Trong lý thyết “ cái vàng luẩn quẩn”và cút huých” từ bên ngoài, Samuelson cho rằng, đa số các nước đang phát triển đều thiếu vốn, mức thu nhập thấp chỉ đủ sống ở mức tố thiếu, do đó khả năng tích luỹ vốn hạng chế
Mặt khác, theo Samuelon, ở các nước đang phát triển, nguồn nhân lực hạn chế bởi tuổi thọ và dân trí thấp; tài nguyên thiên nhiên khan hiếm; kỹ thuật lạc hậu và gặp trở ngại trong việc kết hợp chúng. Do vậy, ở nhiều nước đang phát triển ngày càng khó khăn và càng tăng” cái vòng luẩn quẩn”.
Samuelson cho rằng: để phát triển kinh tế phải có”cú huých từ bên ngoài nhằm phá vỡ cái vòng luẩn quẩn”. Đó là phải có đầu tư của nước ngoài vào các nước đang phát triển. Theo ông, “nếu có quá nhiều trở ngại như vậy đối với việc đi tìm tiết kiệm trong nước để tạo vốn thì tại sao không dựa nhiều hơn vào các nhuồn bên ngoài? Chẳng phải lý thuyết kinh tế đã từng nói với chúng ta rằng, một nước giàu, sau khi đã hút hết những dự án đầu tư có lợi nhuậnước cao của mình, cũng có thể làm lợi cho chính nó và nước nhận đầu tư bằng cách đầu tư những dự án lợi nhuận cao ra nước ngoài đó sao?”
Sơ đồ 1: vòng luẩn quẩn của các nước đang phát triển
Tiết kiệm và đầu tư thấp
Tốc độ tích luỹ vốn thấp
Thu nhập bình quân thấp
Năng suất lao động thấp
Theo ông R.Nurkse, mở cửa cho FDIcó ý nghĩa đối với các nước đang phát triển có thể vươn đến những thị trường mới, cũng như khuyến khích việc mở rộng kỹ thuật hiện đại và những phương pháp quản lý có hiệu quả. FDI giúp các nước đang phát triển tránh được những đòi hỏi về lãi suất chặt chẽ, về điều kiện thanh toán nợ và những điều hay tác động đến vay nợ quốc tế. Mặc dù FDI là để phục vụ cho việc củng cố hệ thống này, các nước có thu nhập thấpđược chuyên môn hóa sản xuất nguyên liệu và thực phẩm xuất khẩu, được chuyên môn hoá dựa trên nguyên tắt bất di bất dịch của lợi thế trong thương mại quốc tế, dù rằng FDI trước hết phục vụ cho lợi ích của các công nghiẹp xuất khẩu, chứ không phải của nước nhận vốn, và thậm chí phần nào các nước đang phát triển phải chịu sự mất cân bằng không tránh khỏi, nhưng vẫn nên mở cửa hơn là đóng cửa. R.Nurkse cho rằng, FDI đem lại lại lợi ích chung cho cả hai bên, dù chẳng bao giờ cân bằng tuyệt đối nhưng không thể làm khác được vì nó là đòi hỏi tự nhiên, tất yếu của quá trình vận động thị trường. Đầu tư trực tiếp là kết quả hoàn toàn tự nhiên bởi hoạt động tự do của các động cơ kiếm lợi nhuận. Lẽ tất yếu là phương hướng của đầu tư tư nhân chịu tác động lớn của hướng vận động lớn của hướng vận động thị trường.
Vai trò của FDI đối với việc phát triển kinh tế
Qua phân tích quan điểm của nhà kinh điển về vai trò của FDI và đặc điểm của FDI, ta thấy FDI có những thế mạnh của nó. Dù vẫn chịu chi phối của Chính phủ, nhưng FDI ít lệ thuộc vào mối quan hệ chính trị giữa hai bên. Mặt khác, bên nước ngoài trực tiếp tham gia quản lý sản xuất, kinh doanh nên mức độ khả thi của dự án khá cao, đặc biệt la trong việc tiếp cận thị trường quốc tế để mở rộng xuất khẩu. Do quyền lợi gắn chặt với dự án, họ quan tâm đến hiệu quả kinh doanh nên có thể lựa chọn công nghệ thích hợp, nâng cao trình độ quản lý và tay nghề của công nhân. Vì vậy, FDI ngày càng có vai trò Phòng tổ chức hành chính lớn đối với việc thúc đẩy qúa trình phát triển kinh tế ở nước đầu tư và các nước nhận đầu tư. Cụ thể là:
Đối với các nước đầu tư, đầu tư ra nước ngoài giúp nâng cao hiệu quả sử dụng những lợi thế sản xuất ở nơi tiếp nhận đầu tư, hạ giá thành sản phẩm và nâng cao tỷ suất lợi nhuận của vốn đầu tư và xây dựng được thị trường cung cấp nguyên liệu ổn định với giá phải ._.chăng. Mặc dù, đầu tư ra nước ngoài giúp bành trươngsuwcs mạnh kinh tế và nâng cao uy tín chính trị. Thông qua việc xây dựng nhà máy sản xuất và thị trường tiêu thụ ở nước ngoài mà các nước đầu tư mở rộng được thị trường tiêu thụ, tránh được hàng rào bảo hộ mậu dịch của các nước.
Đối với các nước nhận đầu tư. Hiện nay có hai dòng chảy của vốn đầu tư nước ngoài. Đó là dòng chảy vào các nước phát triển và dòng chảy vào các nước đang phát triển.
Đối với các nước kinh tế phát triển, FDI có tác dụng lớn trong việc giải quyết những khó khăn về kinh tế, xã hội như thất nghiệp và lạm phát… Qua FDI, các tổ chức kinh tế nước ngoài mua lại những công ty, doanh nghiệp có nguy cơ bị phá sản giúp cải thiện tình hình thanh toán và tạo công ăn việc làm cho người lao động.
FDI còn tạo điều kiện tăng thu ngân sách dưới hình thức các loại thuế để cải thiện tình hình bội chi ngân sách, tạo ra môi trường cạnh tranh thúc đẩy sự phát triển kinh tế và thương mại, giúp người lao động và cán bộ quản lý học hỏi kinh nghiệm quản lý của các nước khác.
Đối với các nước đang phát triển, FDI giúp đẩy mạnh tốc độ phát triển kinh tế thông qua việc tạo ra những doanh nghiệp mới, thu hút thêm lao động, giải quyết một phần nạn thất nghiệp ở nước này. Theo thống kê của Liên hợp quốc, số người thất nghiệp và bán thât nghiệp của các nước đang phát triển chiếm khoản 35-38% tổng số lao động
FDI giúp các nước đang phát triển khắc phục tình trạng thiếu vốn kéo dài. FDI là phương thức đầu tư phù hớp với các nước đang phát triển, tình tràng tích lũy quá căng thẳng dẫn đến những méo mó về kinh tế không đáng xảy ra.
Theo sau FDI là máy móc thiết bị và công nghệ mới, giúp các nước đang phát triển tiếp cận với khoa học-kỹ thuật mới. Quá trình đưa công nghệ vào sản xuất giúp tiết kiệm chi phí và nâng cao khả năng cạnh tranh của các nước đang phát triển trên thị trường quốc tế.
Cùng với FDI, những kiến thức quản lý kinh tế, xã hội hiện đại được du nhập vào các nước đang phát triển, các tổ chức sản xuất trong nước bắt kịp phương thức quản lý công nghiệp hiện đại, lực lượng lao động quen dần với phong cách làm việc công nghiêpk cũng như hình thành dần đội ngũ những nhà doanh nghiệp giỏi.
FDI giúp các nước đang phát triển mở cửa thị trường hàng hóa nước ngoài và đi kèm với nó là những hoạt động marketing được mở rộng không ngừng.
FDI giúp tăng thu cho ngân sách nhà nước thông qua việc đánh thuế các công ty nước ngoài. Từ đó các nước đang phát triển có nhiều khả năng hơn trong việc huy động nguồn tài chính cho các dự án phát triển.
Tuy nhiên, theo kinh nghiệm của các nước tiếp nhận đầu tư, bên cạnh những ưu điểm thì FDI cũng có những hạn chế nhất định. Đó là:
Nếu đầu tư vào môi trường bất ổn về kinh tế và chính trị thì nhà đầu tư nước ngoài dễ bị mất vốn.
Nếu nước sở tại không có một qui hoạch đầu tư cụ thể và khoa học dẫn tới sự đầu tư tràn lan, kém hiệu quả, tài nguyên thiên nhiên bị khai thác quá mức và nạn ô nhiễm môi trường nghiêm trọng.
Cũng như các nước đang phát triển, để phá “cái vòng luẩn quẩn” và phát triển kinh tế, đòi hỏi Việt Nam phải có biện pháp thu hút vốn đầu tư nước ngoài, nhất là FDI. Ngày 18-04-1977, nước ta thông qua “điều lệ đầu tư nước ngoài”. Ngày 29-12-1987, Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam được Quốc hội thông qua và đến nay được bổ sung ba lần vào ngày 30-06-1990, ngày 23-12-1992 và ngày 12-11-1996. Qua các lần sửa đổi bổ sung Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam ngày càng hấp dẫn hơn đối với các nhà đầu tư nước ngoài và phù hợp với thực tiễn phát triển kinh tế Việt Nam và xu hương thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài của các khu vực.
Sở dĩ Đảng và Nhà nước ta quan tâm tới FDI như vậy, vị đối với nước ta, hình thức này có vai trò rất là quan trọng. Điều này thể hiện ở chỗ:
Giúp đẩy nhanh tốc độ phát triển của nền kinh tế của đất nước. Để đạt được những chỉ tiêu của chiến lược phát triển kinh tế xã hội trong những năm tới, thì tốc độ phát triển bình quân hằng năm phải đạt ít nhất 7% và nhu cầu về vốnước đầu tư có từ 4,2 tỷ USD trở lên cho mỗi năm. Đây là con số không nhỏ đối với nền kinh tế của nước ta, cho nên FDI là nguồn bổ sung quan trọng để phát triển kinh tế ở Việt Nam.
FDI đem lại khả năng mở rộng quy mô sản xuất, xây dựng những doanh nghiệp và cơ sở sản xuất dịch vụ mới làm cho tổng sản phẩm xã hội của Việt Nam tăng lên và cho phép giải quyết được tình trạng thất nghiệp của người lao động. Tính đến hết năm 1997, đã có 2.317 dự án đầu tư nước ngoài được cấp giấy phép. Hiện nay, cả nước có 1.928 dự án đang hoạt động với tổng vốn đăng ký đầu tư là 32,1 tỷ USD, giải quyết việc làm cho hàng vạn lao động, tăng thu ngân sách nhà nước.
Thông đầu tư nước ngoài, nhất là FDI, chúng ta tiếp nhận thành tựu phát triển khoa học-kỹ thuật tiên tiến của thế giới, nhờ đó rút ngắn khoảng cách của ta so với thế giới.
Nhờ có FDI chúng ta sử dụng có hiệu quả những lợi thế của đất nước mà nhiều năm qua không thể thực hiện do thiếu vốn như khai thác dầu mỏ, khoáng sản v.v…
Ngoài ra, trong quá trình tiếp nhận FDI chúng ta học được kinh ngiệm quản lý kinh doanh và cách làm thương mại trong điều kiện kinh tế thị trường của các nước tiên tiến.
Tóm lại, FDI có ý nghĩa cực kỳ quan trọng để đưa nước ta nhanh chóng hội nhập với sự phát triển của thế giới và khu vực.
Tầm quan trọng của các doanh nghiệp có vốn FDI
Doanh nghiệp có vốn FDI
Nguồn gốc của doanh nghiệp có vốn FDI
Một trong những hình thức biểu hiện của đầu tư trực tiếp nước ngoài là các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Đối với Việt Nam đây là một loại hình doanh nghiệp mới, được hình thành kể từ khi luật đầu tư nước ngoài được ban hành đầu tiên vào năm 1988. Mặc dù doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) chiếm một tỷ trọg không lớn ở nhiều quốc gia kể cả các nước NICs ở Châu Á, tuy nhiên ở một số nước ASEAN con số này là khá cao và thực tế đã cho thấy vai trò quan trọng của loại hình doanh nghiệp này đối với đời sống kinh tế của Việt Nam. Trong bối cảnh xu thế toàn cầu hoa, quốc tế hoá nền kinh tế không thê đảo ngược thì các doanh nghiệp FDI thực sự trở thành một bộ phận cấu thành hữu cơ của toàn nền kinh tế, là nhân tố cần thiết, quan trọng tạo dựng những nền tảng cơ bản giúp Việt Nam nói và Đà Nẵng nói riêng từng bước hoà nhập vào thị trường thế giới.
Bắt đầu từ những năm 90, xu thế toàn cầu hóa và khu vực hoá nền kinh tế thế giới được mở rộng, cùng với tự do hoá thương mại, tự do hoá đầu tư xuất hiện đã tạo cơ hội phát triển mạnh mẽ cho các doanh nghiệp FDI phát triển với quy mô ngày càng tăng. Đồng thời do nghịch lý của tự do hoá đầu tư, các doanh nghiệp FDI được coi là phương tiện hữu hiệu để vượt qua hàng rào thuế quan và phi thuế quan. Sự khác nhau về văn hóa, luật pháp và các chính sách của Chính phủ các nước cũng như trình độ phát triển, các doanh nghiệp FDI thực hiện mở rộng quy mô, thực hiện chuyển giao công nghệ và do đó kéo dài chu kỳ sống sản phẩm và dịch vụ. Các doanh nghiệp FDI xuất hiện ở hầu hết các lĩnh vực của nền kinh tế, từ lĩnh sản xuất - chế tạo - lắp ráp, khai thác tài nguyên, dịch vụ như bảo hiểm, kiểm toán, vận tải, tư vấn, tài chính – ngân hàng … cho đên các lĩnh vực nghiên cứu, triển khai và đào tạo. Quy mô của các doanh nghiệp FDI cũng rất đa dạng từ dự án chỉ vài trăm ngàn USD với thời gian hoạt động ngắn cho đến dự án lên tới vài tỷ USD với thời gian dài (99 năm).
Khái niệm doanh nghiệp có vốn FDI
Doanh nghiệp FDI không phải là khái niệm mới trong quan hệ kinh tế quốc tế và trong đời ssống kinh tế thế giới, cho dù ở Việt Nam chi xuất hiện được hơn 10 năm. Các doanh nghiệp FDI có nhiều hình thức tổ chức khác nhau vơi quy luật vận động nội tại và những đặc thù hoạt động và phát triển. Tuy nhiên, các doanh nghiệp FDI cũng được quan niệm theo những cách khác nhau.
Quan niệm thứ nhất: cho rằng doanh nghiệp FDI là một quan hệ bạn hàng lâu dài giữa các bên tham gia trên cơ sở cùng góp vốn và các yếu tố sản xuất khác để tiến hành các hoạt động kinh doanh nhằm đem lại lợi ích cho các bên.
Quan niệm thứ hai: cho rằng doanh nghiệp FDI là một thực thể kinh doanh được thành lập bởi các bên có quốc tịch khác nhau để cùng góp vốn, cùng quản lý, cùng phân chia lợi nhuận và chia sẽ rủi ro.
Quan niệm thứ ba: cho eằng doanh nghiệp FDI bao gồm doanh nghiệp liên doanh và doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài và doanh nghiệp FDI là nước tiếp nhận đầu tư vì được thành lập theo Luạt pháp của nước đó.
Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam quy định”Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài “. Theo nhiều nhà nghiên cứu trong và ngoài nước đánh giá đây là một quy định thông thoáng và có khả năng hấp nhẫn đầu tư cao. Kết hợp với chính sách khác như cho phép người nước ngoài vốn và lợi nhuận ra nước ngoài , rõ ràng tạo ràng ra một môi trường đầu tư thuận lợi, cho phép nhà đầu tư được hưỡng những điều kiện kinh doanh hết sức ưu đãi.
Các hình thức của các doanh nghiệp có vốn FDI
Doanh nghiệp liên doanh: là doanh nghiệp do hai bên hoặc nhiều bên hợp tác thành lập tại Việt Nam trên cơ sở hợp đồng liên doanh hoặc hiệp định ký giữa chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và chính phu nước ngoài hoặc là doanh nghiệp do doanh nghiệp có vố đầu tư nước ngoài hợp tác vóidn Việt Nam hoặc do doanh nghiệp liên doanh hợp tác với nhà đầu tư trên cơ sở hợp đồng liên doanh.
Có thể chia doanh nghiệp liên doanh thành 3 loại hình sau:
Doanh nghiệp liên doanh: là doanh nghiệp được thành lập tại Việt Nam trên cơ sở hợp đồng liên doanh ký giữa Bên hoặc các Bên nước ngoài để đầu tư, kinh doanh tại Việt Nam.
Doanh nghiệp liên doanh mới: là doanh nghiệp được thành lập giữa doanh nghiệp liên doanh đã được phép hoạt động tại Việt Nam hoặc với doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài đã được phép hoạt động tại Việt Nam.
Trong trường hợp đặc biệt,doanh nghiệp liên doanh có thể được thành lập trên cơ sở hiệp định ký kết giữa chính phủ Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam với chính phủ nước ngoài.
Khác với hợp đồng hợp tác kinh doanh, hợp đồng liên doanh dẫn đến sự hình thành một pháp nhân mới. Doanh nghiệp liên doanh được thành lập theo hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn, có tư cách pháp nhân tuân theo pháp luật Việt Nam. Đối với doanh nghiệp liên doanh, các bên tham gia được chia lợi nhuận và chia sẽ rủi ro theo tỷ lệ góp vốn của mỗi bên vào phần vốn pháp định của liên doanh. Theo pháp luật Việt Nam phần góp vốn pháp định của bên nước ngoài không hạn chế về mức cao nhất như một số nước khác, nhưng không được ít hơn 30% vốn pháp định.
Hiện nay, tại Việt Nam doanh nghiệp liên doanh chiếm tới 61% dự án và 70% số vốn đầu tư. Việc các nhà đầu tư nước ngoài quan tâm nhiều đến hình thức thành lập các doanh nghiệp liên doanh chủ yếu là do khi đầu tư vào thị trường mới, các nhà đầu tư nước ngoài chưa hiểu rõ phong tục tập quán, thói quen tiêu dùng, luật lệ kinh doanh, nên muốn liên doanh với các doanh nghiệp trong nước để giúp họ khắc phục mọi khó khăn về thủ tục, thông tin, chia sẻ rủi ro trong quá trình tiến hành thành lập cũng như khi doanh nghiệp đi vào hoạt động. Thêm vào đó,với chính sách khuyến khích đầu tư chiều sâu, đã kích thích các doanh nghiệp trong nước có nhu cầu liên doanh với các đối tác nước ngoài, nhằm sử dụng có hiệu quả hơn mặt bằng, nhà xưởng, máy móc, có điều kiện tiếp nhận công nghệ mới, nâng cao chất lượng, khả năng cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường.
Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài: là doanh nghiệp hoàn toàn thuộc quyền sở hữu cảc các tổ chức, cá nhân nước ngoài, do tổ chức, cá nhân nước ngoài thành lập và tự quản lý. Doanh nghiệp này được thành lập dưới hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn và là một pháp nhân Việt Nam.
Khác với xí nghiệp liên doanh, xí nghiệp 100% vốn nước ngoài hoàn toàn do bên nước ngoài góp vốn, tự quản lý, tự chịu mọi rủi ro, thu mọi lợi nhuận. Nhưng doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài phải chịu sự kiểm soát của nước sở tại và thực hiện mọi nghĩa vụ theo luật định cũng như theo cam kết.
Mặc dù số doanh nghiệp được thành lập theo hình thức 1))% vốn nước ngoài chưa nhiều, nhưng có thể thấy rằng xu hướng gia tăng các dự án đầu tư theo hình thức này đã thể hiện rõ trong thời gian qua. Điều này thể hiện qua việc gia tưng tỷ trọng các doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài trong tổng số dự án được cấp giấy phép. Xu hướng này một mặt phản ánh trạng thái của các nhà đầu tư nước ngoài muốn được tự chủ trong kinh doanh, trong điều hành hoạt động của doanh nghiệp, không bị lệ thuộc vào đối tác Việt Nam, đồng thời tận dụng được nguồn lao động, tài nguyên và thị trường sẵn có. Mặt khác cũng thể hiện một thực tế là khả năng góp vốn, khả năng hợp tác của các tổ chức kinh tế Việt Nam với nước ngoài còn có nhiều hạn chế.
Như vậy, thông qua hoạt động của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài cho phép các nước chủ nhà tăng cường khai thác nguồn vốn bên ngoài, cũng như giải quyết các vấn đề vướng mắc khác. Thực tế ở nhiều nước đang phát triển mà nôit bật là ASEAN, nhở FDI đã giải quyết một phần khó khăn, góp phần thúc đẩy việc thực hiện thành công quá trình công nghiệp hoá đất nước.
Đặc điểm của các doanh nghiệp có vốn FDI
Là một loại hình doanh nghiệp hình thành và phát triển bắt nguồn từ hoạt động đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, nên loại hình doanh nghiệp có những đặc điểm riêng, khác biệt với các loại hình doanh nghiệp khác, cần phải tìm hiểu nghiên cứu kỹ lưỡng, để hạn được những sai lầm không đáng có trong quá trình quản lý hoạt động kinh doanh các doanh nghiệp này.
Loại hình doanh nghiệp và chủ thể của các doanh nghiệp có vốn FDI
Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, dù hình thức đầu tư là doanh nghiệp liên doanh hay doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài nhưng điều được thành lập duới dạnh các công ty trách nhiệm hữu hạng. Do đó trong quá trình hoạt động, cũng như khi thanh lý hợp đồng, xử lý tranh chấp đều tiến hành áp dụng những quy định của loại hình công ty trách nhiệm hữu hạn.
Trong hoạt động của các doanh nghiệp này cá sự tham gia có đối tác nước ngoài, chủ yuế làn công ty đa quốc gia ( chiếm 90% số lượng vốn đầu tư trực tiếp FDI trên thế giới ). Khi đầu tư vào các quốc gia khác các công ty đa quốc gia có thể lựa chọn nhiều hình thức. Nhưng dưới hình thức nào thí chủ đầu tư nước ngoài phải đóng góp một số vốn tối thiểu theo luật đầu tư của mõi nước. Việt Nam quy định chủ đầu tư nước ngoài phải đóng góp một số vốn tối thiểu 30% pháp định của dự án. Quyền quản lý doanh nghệp cũng như mức độ gánh chịu trách nhiệm về hoạt động của doanh nghiệp phụ thuộc vào mức độ góp vốn. nếu chủ đầu tư nước ngoài góp 100% vốn thì doanh nghiệp hoàn toàn do họ quản lý, điều hành. Nhìn chung do nắm ty lệ vốn lớn nên đối tác nước ngoài thường nằm quyền chủ động trong các doanh nghiệp. Bởi vậy cơ cấu tổ chức cũng như quản lý điều hành hoạt động của các doanh nghiệp này chịu ảnh hưởng rõ nét, mang phong cách của các công ty đa quốc gia nước ngoài.
Khi tiến hành đầu tư nước ngoài trực tiếp, động cơ chung của các nhà đầu tư nước ngoài là tìm kiếm một thị trtường hấp dẫn, thuận lợi và an toàn nhằm thu được lợi nhuận cao và đảm bảo nkhả năng phát triẻn lâu dài của doanh nghịêp. Tuy nhiên, do chiến lược phát triển của các doanh nghiệp và mục tiêu của nó ở thị trường nước ngoài là khác nhau, mối quan hệ sẵn có của doanh nghiệp với nước chủ nhà là khác nhau do đó động cơ cụ thể trong từng doanh nghiệp cũng khác nhau. Nhìn chung có 3 động cơ chính sau:
Đầu tư định hướng thị trường: là hình thức đầu tư nhằm mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm của công ty mẹ sang nước sở tại.
Đầu tư định hướng chi phí: là hình thức đầu tư nước ngoài nhằm giảm chi phí sản xuất kinh doanh, thông qua việc tận dụng lao động và tài nguyên rẽ của nước sở tại nhằm tăng sức cạnh tranh của sản phẩm, nâng cao tỷ suất lợi nhuận.
Định hướng nguyên liệu: là hình thứcdt theo chiều dọc. Các doanh nghiệp nước ngoài là một bộ phạn cấu thành trong dây chuyền của công ty mẹ. nó chịu trách nhiệm khai thác nguồn nguên liệu tại chỗ của nước sở tại cung cấp cho công ty mẹ đẻ tiếp tục sản xuất dảnb phẩm hoàn chỉnh.
Lĩnh vực và địa bàn đầu tư của doanh nghiệp có đầu tư FDI
Thời gian qua cơ cáu đầu tư của các doanh nghệp Fdi đã có những sự chuyển dịch khá lớn theo định hướngb và nhu cầu phát triển kinh tế và Việt Nam. Về cơ cấu ngành, nếu trong nhữnh năm đầu khi luật đầu tư nước ngoài ra đời, đa số các doanh nghiệp tẩp trung vài các ngành dầu ( 32,2% ), khách sạn ( 20,6% ) thì hiện nay đầu tư nước ngoài hướng mạnh vào lĩnh vực sản xuất ra của cải vật chất, xây dựng két cấu hạ tầng. Số lưọng các doanh nghiệp đầu tư trực tiếp vào công nghiệp ngày càng tăng lênm, nhiều doanh nghiệp đàu tư chiều sâu nhằm khai thác, nâng cấp năng lực sản xuất hiện có. Đến nay có khoảng 70% số doanh nghiệp các ngành sản xuất vật chất, xây dựng cơ sở hạ tầng, sản xuất hàng tiêu dùng, dịch vụ và hàng xuất nhập khẩu. Cụ thể, công nghiệp: 1.985 dự án, vốn đầu tư 20.878 triệu USD; dịch vụ (giao thông vận tải, bưu điện, khách sạn – du lịch, tài chính – ngân hàng, xây dựng): 679 dự án, vốn đầu tư 14.838 triệu USD. Trong đó Đà Nẵng có 52 dự án (trong đó có 42 dự án công nghiệp và 10 dự án dịch vụ).
Về cơ cấu vùng lãnh thổ, đa số các doanh nghiệp tập trung vào vùng kinh tế trọng điểm là: thành phố Hồ Chí Minh - Đồng Nai – Vũng Tàu, Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh, Đà Nẵng - Huế - Quảng Ngãi. Số lượng và tỷ trọng các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại các vùng có điều kiện kinh tế xã hội khó khăn, miền núi, vùng sâu, vùng xa là rất ít.
Tuy có những chuyển biến tích cực so với những năm đầu thực hiện luật đầu tư, nhưng hiện đa số các doanh nghiệp tạp trung vào các ngành công nghiệp nhẹ, sản xuất gia công, lắp ráp, khách sạn, dịch vụ, du lịch những ngành có tỷ suất sinh lời cao và có khả năng nhanh chóng thu hồi vốn đầu tư. Các ngành kinh tế then chốt, các vùng kinh tế trọng điểm, đặc biệt là những ngành quan trọng đối với đời sống xã hội nhưng sinh lời ít, thu hồi vốn như đầu tư vào cơ sở hạ tầng, nông lâm ngư nghiệp, cơ khí chế tạo, các ngành yêu cầu kỹ thuật cao thì số lượng doanh nghiệp cũng như tỷ trọng vốn đầu tư còn thấp. Nếu có, thường là những doanh nghiệp nhỏ, chủ yếu là thuộc về các chủ đầu tư tại các nước trong khu vực, số lượng các công ty lớn quá ít. Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình trạng này, bắt nguồn từ chính mục đích của nhà đầu tư đó là lợi nhuận. Đây là động lực thúc đẩy họ tiến thành mọi hoạt động đầu tư kinh doanh. Do đó đối với những lĩnh vực, khu vực đầu tư không” hấp dẫn” rất khó có thể thu hút được họ
Vốn đầu tư lớn
Là sản phẩm của các tổ chức kinh tế, các tập đoàn hùng mạnh nên các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, nhìn chung đều là các doanh nghiệp có vốn lớn, có tiềm lực về lực về tài chính tốt hơn các doanh nghiệp nội địa. Trong một số lĩnh vực kinh doanh, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hầu như không có đối thủ trong nước. Ví dụ như trong lĩnh vực khai thác dầu khí, chế tạo và lắp ráp xe máy, kinh doanh mỹ phẩm, nước giải khát. Số lượng các doanh nghiệp tăng với nhịp độ khá nhanh, quy mô bình quân của một doanh nghiệp những năm 188 – 1990 là 10 triệu USD, đến năm 1995 – 1996 quy mô bình quân tăng lên đến 30 triệu USD, số doanh nghiệp có vốn đầu tư trên 30 – 40 triệu USD ngày càng nhiều, cá biệt có những dự án tới hàng trăm triệu USD. Nhưng có một thực tế là tỷ lệ vốn thực hiện không cao chỉ khaỏng 31%. Trong thời gian gần đây do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế Châu Á số vốn trên 10 triệu USD chỉ chiếm khoảng 10%.
Trong các doanh nghiệp này chủ đầu tư nước ngoài có thể góp vốn bằng tiền mặt (ngoại tệ hoặc tiền Việt Nam có nguông gốc đầu tư tại Việt Nam), bằng quyền sở hữu công nghiệp, quy trình công nghệ và bằng máy móc, nhà xưởng, thiết bị, vật tư.
Lao động có trình độ chuyên môn cao, có tay nghề cao:
Tính đến ngày 31-12-2001 các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã tạo cho Việt Nam 380.000 chỗ làm việc trực tiếp và khoảng 1 triệu lao động gián tiếp ( bao gồm công nhân xây dựng và các ngành sản xuất, dịch vụ phụ trợ có liên quan). Như vậy, số lao động làm việc trong các bộ phận có liên quan đến hoạt động của các dự án đầu tư nước ngoài bằng khoảng 39% tổng số lao động bình quân hàng năm của khu vực nhà nước – đây là một kết quả nổi bật của đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Thu nhập bình quân của lao động làm viẹc trong các doanh nghiệp có vốn ĐTNN là 70 USD/tháng (tương đương 980.000 đồng) bằng khoảng 150% mức thu nhập bình quân của lao động trong khu vực nhà nước. Đây là yếu tố hấp dẫn đối với lao động Việt Nam, do đó đã tạoh ra sự cạnh tranh nhất định trên thị trường lao động. Tuy nhiên, lao động làm việc trong các doanh nghiệp này đòi hỏi cường độ lao động cao, kỷ luật lao động nghiêm khắc… đúng với yêu cầu của lao động làm việc trong nền sản xuất hiện đại, trong một số lĩnh vực còn có yêu cầu đối với lực lượng lao động phải có trình độ tay nghề cao, học vấn, ngoại ngữ … Sự hấp dẫn và thu nhập cùng với đòi hỏi cao về trình độ về yếu tố tạo cơ chế buộc người lao động Việt Nam có ý thức tu dưỡng, rèn luyện, nâng cao trình độ và tay nghề để có thể đủ các điều kiện được tuyển chọn vào việc làm việc tại các doanh nghiệp loại này.
Về đội ngũ quản lý, kinh doanh : trước khi bước vào cơ chế thị trtường, chúng ta chưa có nhiều nhà doanh nghiệp giỏ có khả năng tổ chức sản xuất kinh doanh có hiệu quả trong môi trường cạnh tranh. Khi các dự án ĐTNN bắt đầu hoặt động, các nhà ĐTNN đưa vào Việt Nam những chuyên gia giỏi, dồng thời áp dụng những chế độ quản lý, tổ chức kinh doanh hịên đại nhằm thực hiện dự án có hiệu quả, đây chính là diều kiện tốt một mặc để các doanh nghiệp Việt Nam tiếp cận, học tập và nâng cao trình độ, kinh nghiệm quản lý; mặc khác để lao động có hoạt động tốt, nhà ĐTNN cũng buộc phải đào tạo cán bộ quản lý cũng như lao động Việt Nam đến một trình độ đủ để dáp ứng được yêu cầu kỹ thuật, công nghệ đang sử dụng trong các dự án. Như vậy, dù không muốn thì các nhà ĐTNN cũng phải tham gia vào công tác đào tạo nguồn nhân lực Việt Nam. Đến nay, chùng ta có khoảng 6.000 cán bộ quản lý, 25.000 cán bộ kỹ thuật đang làm việc tại các doanh nghiệp có vốn ĐTNN. Họ chủ yếu là những kỹ sư trẻ, có trình độ có thể cùng các chuyên gia nước ngoài quản lý doanh nghiệp, tổ chức sản xuất, kinh doanh có hiệu quả và dủ khả năng để tiếp thu nhanh những công nghệ hiện đại thậm chí cả bí quyết kỹ thuật.
Công nghệ kỹ thuật hiện đại
Công nghệ kỹ thuật là trong những đặc điểm nổi bật của loại hình doanh nghiệp vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Khi các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư tiền vốn, thành lập những doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp 100% vốn tại Việt Nam, thì lợi thế so sánh của họ chính công nghệ - kỹ thuật hiện đại, trình độ quản lý tiên tiến hơn hẳn so với mặc bằng chung của các doanh nghiệp nội địa.Và đây là lĩnh vực được khuyến khích đầu tư, là lợi ích căn bản nhất và các nước tiếp nhận vốn nói chung và Việt Nam nói riêng mong lợi.
Trong những công nghệ - kỹ thuật mà doanh nghiệp đầu tư cá vốn nước ngoài đầu tư, chuyển giao Việt Nam thì luôn nổi lên 2 yếu tố cáu thành chủ yếu đó là: công nghệ dạng cứng ( công nghệ kỹ thuật được thu nhập vào cùng mày móc, thiết bị hoặc tài liệu khoa hạc ) và công nghệ dạng mềm ( chuyên gia kỹ thuật, trí thức, bí quýet kinh doanh, nămg lực tiếp cận thị trường ). Trong hai yếu tố cấu thành này thì công nghệ kinh doanh dạng cứng là phần công nghệ mà các quốc gia tiếp nhận đầu tư có thể dễ dàng và nhanh chóng nhận được. Nhưng chỉ dừng lại ở mức này thôi thì chúng ta chỉ luơn là người dứng sau, trở thành thị trường tiêu thụ sản phẩm nghiên cứu lỗi thời, lạc hậu. những điểm tối ưu trong công nghệ được đầu tư nằm ở công nghệ dạng mềm. Có nắm được yếu tố quan trọng này, chúng mới thực sự nhận được công nghệ kỹ thuật đích thực, hiện đại, có giá trị từ đó có thể hi vọng đạt được những kết quả cao khi áp dụng vào thực tế kinh doanh trong nước, nâng cao năng lực cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Nhưng công nghệ phần mềm rất khó chuyển giao và nói chunhg các nà đầu tư không muốn chuyển giao cho nước nhận đầu tư. Trong khi đó các nhà đầu tư trong nước tỏ ra rất bỡ ngỡ, thiếu kinh nghiệm và lúng túng với việc ký kết các hợp đồng chuyển gioa công nghệ.
Sản phẩm có chất lượng cao, có khả năng cạnh tranh
Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là các doanh nghiệp có công nghệ hiện đại, có tiềm lực về tài chính, sản phẩm tai các doanh nghiệp này được sản xuất, chế tao theo những tiêu chuẩn chấ lượng cao cấp của thế giới do đó họ có lợi thuế hơn hẳn các doanh nghiệp trong nước. Sản phẩm thường có chất lưọng cao hơn, giá thành rẽ hơn mặt bằng chung, nên có ưu chế trong cạnh tranh. Các doanh nghiệp liên doanh, công ty 100% vốn nước ngoài đều là công ty con của các tập đoàn kinh tế, họ có nhiều kinh nghiệm trong quản lý tiêu thụ, trong các hoạt động marketing, trong giới thiệu sản phẩm, có đủ điều kiện cần thiết như uy tín đối với bạn hàng nước ngoài, cho phép sản phẩm nhanh hóng tiếp cận thị trường thế giới. Nhìn chung những sản phẩm này có khả năng xuất khẩu tốt, có thể mạnh trong cạnh tranh ở cả thị trường trong và ngoài nước.
Một vấn đề nữa không kém phần quan trọng là hoạt động của đầu tư trực tiếp nước ngoài đã giúp Việt Nam mở rộng thị trường phần ở nước ngoài. Đối với những hàng hóa xuất khẩu của các doanh nghiệp có vốn ĐTNN, vô hình dung đã biến các bạn hàng truyền thống của các nhà ĐTNN tại Việt Nam thành bạn hàng của Việt Nam.
Kinh nghiệm thu hút FDI
Kinh nghiệm của các nước trong khu vực và quốc tế
Trung Quốc
Về chính sách chung, Trung Quốc huy động vốn FDI thông qua các hình thức như hợp đồng sản xuất liên doanh, 100% vốn đầu tư nước ngoài vào các khu vực đặc biệt.
Chính sách cơ bản để thu hút FDI của Trung Quốc là chính sách Sở Thương mại thuế Trung Quốc ban hành nhiều loại thuế riêng cho hình thức đầu tư: hợp tác, liên doanh, 100% vốn nước ngoài và 14 thành phố ven biển. Liên doanh đóng thuế lợi tức 30% và 10% thêm cho địa phương. với doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài thì thuế lợi tức từ 20 đến 40% và 10% địa phương.
Tại 14 thành phố ven biển, các doanh nghiẹp 100% vốn nước ngoài được giảm thuế lợi tức 15% so với các khu vực khác. Các liên doanh đầu tư 10 năm trở lên được miễn thuế lợi tức hai năm kể từ khi có lãi và giảm 50% thuế cho ba năm tiếp theo. Nếu liên doanh đầu tư vào vùng khó khăn sẽ được giảm tiếp 15% đến 30% trong vòng 10 năm. Nếu liên doanh có sản phẩm xuất khẩu trên 70% được giảm 50% thuế hàng năm. Nếu doanh nghiệp áp dụng công nghệ tiên tiến giảm tiếp 50% trong 3 năm so với các doanh nghiệp cùng loại nhưng không có công nghệ cao. Nếu đầu tư vào 14 thành phố ven biển trong 10 năm thì miễn thuế 2 năm, giảm thuế 3 năm tiếp theo.
Về thuế xuất nhập khẩu Trung Quốc thực hiện miễn thuế nhập khẩu đối với các mặt hàng như: máy móc, thiết bị, bộ phận rời, vật liệu được đưa vào góp vốn liên doanh hoặc máy móc, thiết bị, vật liệu cho bên nước ngoài đưa vào khai thác dầu khí; đưa vào xây dựng phát triển năng lượng, đường sắt, đường bộ; đưa vào các khu chế xuất và 14 thành phố ven biển, các vật liệu, bộ phận rời nhập để sản xuất hàng xuất khẩu. Trung Quốc cũng miễn thuế xuất khẩu cho các mặt hàng xuất khẩu được sản xuất ở các khu chế xuất và 14 thành phố ven biển.
Về thủ tục hành chính, Trung Quốc phân cấp mạnh cho các địa phương về thẫm định dự án và cấp giấy phép đầu tư. Sau khi cho giấy phép đầu tư, các thủ tục liên quan đến triển khai dự án được giải quyết mau lẹ. Các vấn đề giải phóng mặt bằng, cúp điện, nước, giao thông, môi trường được giải quyết dứt điểm. Thực hiện chính sách “một cửa” để tạo kinh doanh thu hút FDI thuận lợi.
Ngoài các chính sách trên, để thông thoáng hơn, Trung Quốc cho thời hạn hợp đồng kéo dài hơn, có thể tới 50 năm.
Thái Lan
Chính phủ Thái Lan khuyến khích các nhà đầu tư hợp tác với các cơ quan nước ngoài khai thác tài nguyên và bảo vệ môi trường, các dự án sử dụng nhiều lao động, Xuất khẩu sản phẩm, sử dụng nguyên liệu thô của Thái Lan, thay thế hàng nhập khẩu được nước ngoài ưu tiên.
Tỷ lệ góp vốn liên doanh không thành điều kiện bắt buộc. Tuy nhiên, các dự cho phép Thai Lan góp vốn trên 50% thì được uỷ ban đầu tư cấp chứng chỉ bảo lãnh.
Về thuế lợi tức, đánh thuế 30% vào các công ty và đối tác đã đăng ký tại thị trường chứng khoáncủa Thái lan và đánh thuế 35% vầo các công ty và các đối tác khác. Tuỳ từng dự án mà có thể dược miễn giảm thuế lợi tức từ 3-8 kể từ khi có lãi.
Về thuế nhập khẩu, các doanh nghiệp được miễn giảm50% thuế nhập khẩu đối với máy móc, thiét bị nhập khẩu vào Thái Lan chưa sản xuất được. Được miễn thuế nhập khẩu đối với các nguyên liệu và linh kiên đưa vào để sản xuất và lắp ráp hàng xuất khẩu. Các doanh nghiệp được xét giảm 90% thuế nhập khảu đối với nguyên liệu nhập vào nếu các thứ nàỷơ Thái Lan chưa sản xuất đựưc.
Về chính sách xuất khẩu, các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu vật tư, phụ tùng, các chi tiết tạm nhậptái xuất, được miễn hoạc giảm thuế lợi tức 5%. Các doanh nghiệp trong khu chế xuất được miễn thuế nhập khẩu đối với nhập tư.
Gần đây, Thái Lan đã thoả thuận miễn thuế nhập khẩu trong tất cả các vùng và các vụ án trong vùgh số 3, nếu không sản xuất tại địa phương.
Về quản lý ngoại hối, nhà đầu tư được chuyển ra nước ngoài các thu nhập, lợi nhuận, nhưng có thể bị hạng chế trong trường hợp để cân đối tình hình thu-chi. Trong trường hợp hạn chế này thì cũng được chuyển ít nhất 15%/năm so với tổng vốn đem vào Thái Lan.
Việc sở hữu đất đai được quy định riêng cho từng loại công ty. mỗi công ty được sở hữu bao nhiêu đất đai do luật quy định. Công nhân lành nghề, kỹ thuật viên và gia đình họ được pháp vào Thái Lan làm việc . Uỷ ban đầu tư chịu trách nhiệm xem xét.
Thái Lan cũng có nhiều lần cải tiến thủ tục cấp giấy phép; thủ tục triển khai dự án theo hướng khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài .
Philippin
Nước này không hạn chế vốn nước ngoài trong liên doanh, có thể đến 100% nếu dự án nằm trong khu chế xuất, và các dự án có sản phẩm xuất khẩu trên 70%. Chính phủ khuyến khích hình thức liên doanh hơn.
Về vốn góp liên doanh, trong đại bộ phận các hoạt động kinh doanh , vốn đầu tư nước ngoài chiếm từ 40% trở xuống, trừ các trường hợp đặc biệt được uỷ ban đầu tư cho phép.
Về chính sách thuế, Philppin đánh._.âng chất lượng cuộc sống cho nhân dân.
Gắn tăng trưởng kinh tế với tiến bộ, công bằng xã hội. Tạo nhiều việc làm cho người lao động, nâng cao trình độ dân trí. Tăng cường đầu tư khu vực nông thôn, miền núi .
Phát huy sức mạnh tổng hợp của mọi thành phần kinh tế đa dạng hóa các loại hình sản xuất kinh doanh: phát huy tốt nội lực, tạo môi trường đầu từ thuận lợi, thông thoáng để thu hút vốn và công nghệ mới từ bên ngoài, tăng cường giao lưu kinh tế với các địa phương trong nước và quốc tế .
Phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, coi trọng ứng dụng những thành tựu khoa học công nghệ mới.
1.2.2. Định hướng phát triển các ngành kinh tế chủ yếu
Công nghiệp
Cơ cấu công nghiệp cần được điều chỉnh hợp lý hơn theo hướng hình thành các công nghiệp chủ lực trên cơ sở phát triển những ngành có lợi thế về thị trường lao động, tăng cường thiết bị và công nghệ tiên tiến, hiện đại tạo ra những sản phẩm có khả năng cạnh tranh trên thị trường. Công nghiệp chế biến hải sản, công nghệ thông tin, công nghiệp cơ khí, đóng mới và sửa chữa tàu thuyền, công nghiệp cảng phục vụ kinh tế biển. Đặc biệt ưu tiên đầu tư phát triển những ngành công nghiệp có giá trị gia tăng lớn về xuất khẩu và hàng tiêu dùng thay thế nhập khẩu.
Hướng phát triển các ngành chính:
Ngành dệt – may – da – giày: củng cố phát triển cả về năng lực sản xuất cũng như chất lượng sản phẩm, mở rộng thị trường trong nước và xuất khẩu, đầu tư đôngf bộ công nghệ n, lựa chọn thiết bị tiên tiến, nâng cao tay nghề công nhân và tổ chức quản lý tốt hoạt dộng sản xuất kinh doanh
Xây dựng từ hai đến ba cơ sở may mặc mạnh. Khuyến khích phát triển các cơ sở may ngoài quốc doanh. Đầu tư một nhà máy sản xuất các phụ kiện cho ngành may. Vừa dáp ứng cho ngành may tại chỗ vừa cung ứng cho các tĩnh lân cận.
Ngành sành sứ, thuỷ tinh, xi măng-vật liệu xây dựng: theo hướng dổi mới công nghệ, thiết bị sản xuất , nâng cao chất lượng sản phẩm, đa dạng hoá chủng loại mẫu mã và tích cực mở rộng thị trường tiêu thụ sán phẩm.
Ngành cơ khí, luyện kim, điện tử: các loại sản phẩm cần chú ý phát triển trong thời gian tới: máy máo phục vụ cho ngành nông lâm thuỷ sản và chế biến, các loại phụ tùng cho ngành công nghiệp nhẹ, công nghiẹp thực phẩm, các cấu kiện kim loại phục vụ xây dựng cơ bản, sản phẩm cơ khí tiêu dùng, hang ngũ kim, khuôn mẫu bằng kim loại phục vụ các ngành sản xuất.
Đầu tư mở rộng, nâng công sức nhà máy cản kéo thép Đà Nẵng. Xây dựng nhà máy sản xuất thép công suất 250-500 nghìn tấn/năm. Đầu tư một nhà máy sản xuất tôn mạ màu và mạ nhôm,
Ngành điện tử cẩn chuyển nhanh sang lắp ráp sản phẩm ở dạng kinh nghiệm rời( IKD) và tiếng tới sản xuất từng phần sản xuất linh nghiệm. Đồng thời mở rộng sang các sản phẩm tin học( máy vi tính ), hệ đièu khiển tự động bằng điện tử để trang bị cho các máy móc sản xuất ngành công nghiệp .
Ngành hoá chất-cao su-giấy: Đầu tư mở rộng và hiện đại hoá Nhà máy bột giặc hoà khánh. Xây dựng mớicơ sở sản xuất hoá dầu, sơn, vẹc ni và chất chống thấm. Đầu tư một nhà máy sản xuất soda. Lắp đặt thêm một dây chuyền sản xuất ôxy tại nhà máy dưỡng khí Đà Nẵng. Hình thành xí nghiệp sản xuất muội than từ dầu cạn phục vụ cho công nghiệp cao su, nhựa. Phát triển các cơ sở sản xuất phân bón tổng hợp phân vi sinh.
Nâng cấp, đồng bộ hoá công nghệ sản xuất xăm lốp ô tô, xe đạp và mô tô. Đầu tư xí nghiệp sản xuất nhựa cứng phục vụ nhu cầu xây dựng cơ bản, trang trí nội thất. Mở rộng sản xuất các sản phẩm từ platic.
Tổ lãnh thổ công nghiệp và hướng phát triển các khu công nghiệp:
Cụm công nghiệp Liên Chiểu với diện tích 373,5 ha. Ngành nghề thu hút: luyện cán thép, ximăng, vật liệu xây dựng, hoá chất, cao su, dịch vụ cảng biển, kho tàng.
Cụm công nghiệp Hoà Khánh: diện tích 423,5 ha. Các loại hình công nghiệp đầu tư: cơ khí lắp rápm hoá chất, nhựa, giấy, sản phẩm sau hoá dầu, sản xuất từ khoáng phi kim loại.
Khu công nghiệp An Đồn: diện tích 63 ha. Thu hút các ngành nghề: dệt và may mặc, giày da và các sản phẩm may da hoặc giả da, sản xuất và lắp ráp thiệt bị điện tử và điện tử, chế biến sản phẩm công nghiệp, thực phẩm và thức uống, sản xuất bao bì, in ấn, sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ, nữ trang, sản xuất đồ nhựa, lắp ráp tủ lạnh và các sản phẩm có liên quan khác.
Khu công nghiệp Hà Khương: diện tích dự kiến quy hoạch là 300 ha. Các loại hình công nghiệp ưu tiên đầu tư: vật liệu xây dựng, cơ khí, hoá chất, nhựa.
Thương mại
Xây dựng Đà Nẵng trở thành trung tâm giao lưu hàng hóa của miền Trung, đẩy mạnh xuất khẩu. Hình thành các kho trung chuyển, các trung tâm thương mại, khu dịch vụ thương mại tổng hợp và trung tâm hội chợ triển lãm quốc tế.
Chuyển đổi cơ cấu hàng hóa xuất khẩu theo hướng tăng tỷ trọng sản phẩm công nghiệp, các sản phẩm có hàm lượng kỹ thuật cao thuộc các ngành công nghiệp da, giày, điện, điện tử, sản phẩm nông lâm hải sản chế biến chất lượng cao va xuất khẩu tại chỗ qua hoặc động du lịch, giảm xuất khẩu các sản phẩm thô hoặc sơ chế.
Nghiên cứu và chuẩn bị để phát triển xuất khẩu dịch vụ kỹ thuật phần mềm.
Xuất khẩu dự kiến tăng bình quân 28%/năm thời kỳ 1996-2000 và kim ngạch xuất khẩu đạt 380 USD vào năm 2000, tăng 25%/năm thời kỳ 2001-2010, đạt 3500 triệu USD vào năm 2010.
Định hướng về nhập khẩu : cần đổi mới, hiện đại hoá thiết bị và công nghệ phục vụ công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Phát triển các chợ và các hợp tác xã thương mại dịch vụ theo hướng:cải tạo và nâng cấp cácchợ hiện có ở các quận, thị trấn, đầu tư xây dựng các chợ ở nông thôn, miền núi theo cụm, vùng.
Hình thành một số trung tâm thương mại ở các quận, mộy số siêu thị thương xá ở khu vực Chợ Cồn, Vĩnh trung, chợ Hàn, Bạch Đằng Đông. Quy hoạch khu hội chợ và triển lãm lớn tại khu vực nội thành.
Du lịch: xây dựng du lịch Đà Nẵng trở thành trung tâm du lịch biển kết hợp với du lịch núi, đa dạng hoá các loại hình du lịch như: nghĩ dưỡng, tắm biển, du lịch sinh thái, tham quan; coi trọng cả du lịch quốc tế và du lịch nội địa. Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá địa phương và dân tộc, giá trị tài nguyên thiên nhiên. Gắn du lịch Đà Nẵng với tổng thể du lịch Huế-Đà Nẵng-Quảng Nam (Hội An-Mỹ Sơn) để thực sự là một trong những trung tâm du lịch cả nước.
Hình thành các khu du lịch quốc tế và du lịch nội địa, các điểm du lịch vệ tinh. Nâng cấp bảo tàng Chàm, tôn tạo những di tích lịch sử văn hoá, danh lam thắng cảnh hiện có. Xây dựng một số khách sạn tiêu chuẩn quốc tế. Tạo thêm nhiều điểm vui chơi giải trí, văn hoá, thể thao hấp dẫn phục vụ khách du lịch và dân cư.
Dịch vụ: phát triển mạnh các hoạt động dịch vụ như cảng biển, sân bay, kho vận, vận tải, bảo hiểm, tài chính, ngân hàng, thông tin, tiếp thị…
Thuỷ sản, nông, lâm nghiệp
Thuỷ sản: hướng phát triển đối với kinh tế ven bờ kể cả các hải đảo là thực hiện phương thức kinh doanh hỗn hợp bao gồm đánh bắt, nuôi trồng, chế biến. Xây dựng các đội tàu mạnh đánh bắt xa bờ, trang bị phương tiện kỹ thuật hiện đại và cơ sở hậu cần nghề cá đảm bảo đánh bắt lâu dài trên biển. Chuyển dần chế biến thủ công, sản phẩm thô sang chế biến các sản phẩm tinh có giá trị cao trong xuất khẩu.
Phát triển nuôi trồng thuỷ sản vên biển. Hình thành các làng cá với các hộ gia đình vừa là dịch vụ du lịch, vừa cung cấp thực phẩm tươi sống có giá trị cao.
Nông nghiệp: phát huy các lợi thế so sánh và các yếu tố cạnh tranh của những vùng nông nghiệp ven đô nhằm đẩy nhanh tốc độ phát triển sản xuất nông nghiệp theo hướng chuyển dịch nhanh cơ cấu kinh tế nông nghiệp và nông thôn đạt hiệu quả kinh tế cao trên một đơn vị diện tích nông nghiệp. Phát triển một ngành nông nghiệp sạch theo hướng đa dạng hóa. Thâm canh cao các cây lương thực chủ yếu với chất lượng luôn cải thiện, đồng thời phát triển nhanh các cây thực phẩm, rau, đậu đỗ, các loại cây ăn quả, hoa,cây cảnh, chăn nuôi “bao gồm cả nuôi trồng thuỷ sản”… với tỷ suất hàng hóa ngày càng cao, đáp ứng yều cầu thị trường, nhất là phục vụ trực tiếp cho nhu cầu của ngay thành phố.
Phát triển mạnh chăn nuôi gia súc và gia cầm, lấy chăn nuôi hộ gia đình làm nòng cốt, coi trọng chất lượng giống gia súc. Mở rộng nuôi bò lai, bò sữa, lợn nạt và nuôi gà theo phương pháp công nghiệp để tăng hiệu quả chăn nuôi đáp ứng yêu cầu thị hiếu tiêu dùng của thị trường.
Lâm nghiệp: bảo vệ, khôi phục rừng tự nhiên, phát triển trồng rừng trên đất trống đồi trọc, trồng cây chống các và rừng cảnh quan ven biển theo phương thức kết hợp cây lâm nghiệp và cây công nghiệp, cây ăn quả dược liệu, chăn nuôi đại gia súc… theo không gian nhiều tầng. Đưa rừng về gần các đô thị, các khu công nghiệp, khu du lịch và nghĩ dưỡng…
Chuyển lâm nghiệp sang bảo vệ xây dựng và phát triển vốn rừng bảo vệ hệ sinh thái bền vững.
Xây dựng rừng Sơn Trà thành vườn rừng quốc gia. Đặc biệt coi trọng việc xây dựng và bảo vệ hệ thống rừng phòng hộ đầu nguồn, đồng thời bảo vệ và xây dựng các khu rừng bảo tồn thiên nhiên khu vực Bà Nà, Hải Vân và các khu di tích lịch sử khác… để phục vụ nghiên cứu khoa học và tham quan du lịch.
Giáo dục, khoa học, y tế, văn hoá, xã hội
Nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo, phát triênt hệ thống trường dạy nghề. Đặc biệt ưu tiên đổi mới công nghệ trong các ngành kinh tế chủ lực.
Xây dựng một hệ thống cơ sở phòng và chữa bệnh hợp lý, đồng bộ, hiện đại nhằm đáp ứng nhu cầu khám chữa bệnh của nhân dân.
Phát triển và nâng cao chất lượng các hoạt động văn hoá thông tin, xã hội hóa công tác thể dục thể thao.
II. Một số giải pháp đẩy mạnh thu hút FDI
Các giải pháp chủ yếu tiếp tục hoàn thiện môi trường đầu tư của FDI ở Đà Nẵng:
Tiếp tục nghiên cứu xây dựng, điều chỉnh, hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan đến đầu tư trực tiếp nước ngoài, tạo điều kiện thuận lưọi cho hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài phát triển theo đúng định hướng của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội phù hợp với yêu cầu chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.
Thứ nhất, nghiên cứu, xây dựng và hoàn thiện các văn bản luật pháp về đầu tư trực tiếp nước ngoài theo hướng: thiết lập một mặt hàng pháp lý cho các đầu tư trong nước và đầu tư trực tiếp nước ngoài nhằm tạo lập môi trường ổn định, bình đẳng cho sản xuất và kinh doanh; đồng thời áp dụng một số quy định về điều kiện đầu tư và ưu đãi phù hợp đối với từng đối tượng, lĩnh vực trong từng thời kỳ.
Khi kinh doanh trong một môi trường bình đẳng với các doanh nghiệp của nước chủ nhà sẽ làm cho các nhà đầu tư nước ngoài (ĐTNN) yên tâm hơn vì họ được nước chủ nhà tôn trọng theo nguyên tắc ngang bằng dân tộc trọng quan hệ quốc tế. Nhằm tạo ra sự bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ giữa các doanh nghiệp trong nước (DNTN) và các doanh nghiệp có vốn ĐTNN cần sửa đổi các quy định được áp dụng khác nhau giữa DNTN và doanh nghiệp có vốn ĐTNN. Trước mắt, rà soát lại tất cả các loại dịch vụ, lệ phí để có sự điều chỉnh hợp lý, thu hẹp khoảng cách giá đối với DNTN và doanh nghiệp có vốn ĐTNN, giữa giá trong nước và giá của các nước trong khu vực. Thực hiện lộ trình giảm chi phí đầu tư và tiến tới chế độ một giá áp dụng thống nhất cho đầu tư trong nước và đầu tư trực tiếp nước ngoài theo Quyết định số 53/1999 QĐ-TTg ngày 26 tháng 03 năm 1999 của Thủ tương Chính phủ. Từ đó tạo sân chơi bình đẳng trong hoạt động kinh doanh cho các DNTN và doanh nghiệp có vốn ĐTNN cũng như tạo môi trường đầu tư cạnh tranh với các nước khu vực.
Thứ hai, tạo cơ sở pháp lý tăng cường khả năng hợp tác đầu tư của các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh với nhà nước và đa dạng hoá hơn nữa các hình thức đầu tư
Tạo điều kiện hơn nữa cho các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh tham gia hợp tác với nước ngoài. Cho phép các dân doanh được góp vốn bằng quyền giá trị quyền sử dụng đất, thành lập công ty cổ phần để huy động góp vốn liên doanh nhằm tăng tỷ lệ tích luỹ đầu tư trong nước và tăng tỷ lệ góp vốn của phía Việt Nam trong hợp tác đầu tư với nước ngoài.
Nghiên cứu cho phép các doanh nghiệp FDI được thí điểm chuyển đổi từ công ty trách nhiệm hữu hạn thành công ty cổ phần được phép ban hành cổ phiếu huy động thêm vốn mở rộng đầu tư, thí điểm thực hiện cho phép nhà ĐTNN mua cổ phần của các DNTN theo một tỷ lệ khống chế nhất định. Tất nhiên hình thức này phải được tiến hành một cách thận trọng cùng với khả năng kiểm tra, kiểm soát cuả nhà nước về kế toán tài chính và ngoại hối đối với doanh nghiệp FDI.
Thứ ba, để khuyến khích và đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp có vốn DTNN cần phải kết hợp đúng đắn giữa chính sách đầu tư, chính sách thương mại và các chính sách khuyến khích hỗ trợ khác. Lấy chính sách đầu tư làm trọng tâm và chính sách thương mại, chính sách tài chính là công cụ quan trọng định hướng các nhà DTNN. Chính sách thương mại cần được công khai và ổn định trong một thời kỳ dài và theo các cam kết của Việt Nam đã ký trong hiệp định thương mại Việt - Mỹ và trong các hiệp định thương mại song phương với 52 nước và vùng lãnh thổ.
Tiếp tục triển khai thực hiện tốt cơ chế một cửa trong công tác xúc iến đầu tư theo đề án thực hiẹn cải cách thủ tục hành chính của trung tâm xúc tiến đầu tư và ban hành chỉ thị của UBND thành phố về những biện pháp cải tiến thủ tục hành chính trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài (đã có dự thảo và được các sở, ban, ngành tham gia); Tổ chức giao ban về đầu tư thương mại, du lịch định kỳ để kịp thời xử lý các trường hợp phát sinh.
Bảo đảm tổ chức triển khai thực hiện tốt các chính sách ưu đãic của Trung ương cũng như của địa phương đã ban hành như chính sách về thuế, giá thuê đất, các vấn đề liên quan đến đất đai, giải toả đền bù, đặc biệt là quyết định 25/2003/QĐ-UBND do UBND Thành phố ban ngày 03-03-2003.
Đề nghị các ngành hữu quan sớm hoàn thành bản đồ quy hoạch quỹ đất và các nguồn tài nguyên dành cho đầu tư phát triển từng ngành, lĩnh vực… để giới thiệu và định hướng cho các nhà đầu tư.
Vận động mở thêm nhiều chuyến bay quốc tế trực tiếp đến Đà Nẵng từ các nước trong khu vực và thế giới… và các chuyến bay nội địa.
Quan tâm đầu tư phát triển các doanh nghiệp địa phương đủ mạnh để trở thành các đối tác tin cậy và có tiềm năng; khuyến khích phát triển các ngành công nghiệp hỗ trợ để tạo môi trường hấp dẫn các nhà đầu tư.
Đồng thời nâng cao chất lượng công tác vận động xúc tiến đầu tư nước ngoài.
Đề nghị UBND Thành phố bố trí ngân sách phù để xây dựng chiến lược xúc tiến đầu tư của thành phố, trong đó xác định rõ các liữnh vực, các đối tác, các địa bàn trọng điểm cần vận động đầu tư. Trên cơ sở đó đề ra các chương trình xúc tiến đầu tư cụ thể hằng năm hàng quý.
Nâng cao chất lượng việc xây dựng danh mục dự án gọi vốn FDI, trong đó các thông tin về mục tiêu, địa điểm hình thức đầu tư, đối tác thực hiện dự án … có độ chính xác và tin cậy cao để làm cơ sở cho việc vận động đầu tư.
Thứ tư, giải quyết kịp thời những khó khăn , vướng mắc về đất đai, giải phóng mặt bằng để đẩy nhanh tiến độ triển khai thực hiện dự án.
Đẩy nhanh tiến dộ đền bù, giải phóng mặt bằng, tạo thuận lợi cho việc khai thác các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài. Uỷ ban nhân dân địa phương kiên quyết tổ chức cưỡng chế thực hiện giải phóng mặt bằng các trường hợp đã được đối xử theo đúng chính sách quy định của Nhà nước nhưng vẫn không chấp hành.
Ban hành các văn bản hướng dẫn về việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho các doanh nghiệp hoạt động trong Khu công nghiệp, Khu chế xuất.
Ban hành các văn bản hướng dẫn việc xử lý trách nhiệm và nghiã vụ của các bên đối với đất góp vốn vào liên doanh trong trường hợp doanh nghiệp chuyển đổi hình thức đầu tư, bị phá sản hoặc giải thể trước thời hạn.
Thứ năm, hệ thống hoá các văn bản pháp luật và các văn bản pháp quy mới nhất còn hiệu lực, tinh giảm và làm rõ các nội dung cần thiết.
Hoạt động đầu tư nước ngoài không những chịu sự điều chỉnh của Luật ĐTNN mà còn liên quan và chịu sự điều chỉnh của một số luật khác như: Luật Đất đai, Luật Dân sự, Luật Bảo vệ môi trường, các nghị định và thông tư hướng dẫn nhiệm vụ v.v… Đây là một trong những khó khăn đối với các nhà ĐTNN trong quá trình tìm hiểu, khai thác thị trường đầu tư kinh doanh tại Việt Nam. Không ít các nhà đầu tư phàn nàn rằng sự đắn đo của họ khi đầu tư vào Việt Nam không phải chỉ vì luật ĐTNN của Việt Nam mà còn một số điều chưa thông thoáng, mà còn do tìm hiểu vận dụng các luật của Việt Nam vào thực tiễn hoạt động đầu tư rất khó khăn và phức tạp. Các văn bản pháp luật chưa ổn định, phải sửa đổi bổ sung liên tục, nhiều điều luật không rõ ràng phải có những văn bản hướng dẫn thực hiện v.v… Vì những lý do trên mà đã làm nản lòng các nhà ĐTNN dẫn đến sự giảm sut đầu tư trong thời gian qua.
Để khắc phục tình trạng đó, ngoài việc hình thành các cơ quan tư vấn pháp luật tư vấn cho các doanh nghiệp có vốn ĐTNN hoặc các cá nhân, tổ chức nước ngoài muốn đầu tư vào. Điển hình như Đà Nẵng đã thành lập Trung tâm xúc tiến đầu tư thuộc Sở Kế hoạch và Đầu tư. Đồng thời thường xuyên rà soát, đối chiếu với các văn bản pháp luật có liên quan, tinh giảm, loại bỏ các nội dung trùng lặp, hệ thống hóa các văn bản pháp quy mới nhất để giới thiệu kịp thời cho các giới ĐTNN nhằm giúp họ dễ dàng nghiên cứu, tìm hiểu và vận dụng trong thực tiễn.
Hoàn thiện các cơ chế, chính sách liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp FDI
Thứ nhất, cần xoá bỏ hạn chế về số lượng đối với ccác mặt hàng thuộc diện không cấm nhập khẩu, các linh kiện, nguyên liệu, sản phẩm trung gian không thuộc diện ưu tiên trọng điểm cho chương trình nội địa hoá.
Hiện nay, những quy luật về nội địa hoá, mua và sử dụng nguyên liệu trong nước của Việt Nam đối với một dự án đầu tư như: ngành sản xuất lắp ráp ôtô, lắp ráp xe máy, điện tử dân dụng, nước giải khác v.v… tuy không vi phạm hiệp định WTO-TRIMs nhưng ngày một khó khăn cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hoạt động trong những ngành yêu cầu tỷ lệ nội quy hoá. Nhiều doanh nghiệp FDI cho rằng tỷ lệ nội quy hoá mà chỉnh phủ Việt Nam đã ra cho họ là quá cao và rất khó thực hiện. Tỷ lệ nội địa hoá đối với các sản phẩm của họ càng cao thì họ càng bị lỗ nhiều vì thuế xuất nhập khẩu đánh vào linh liện rời và cụm linh kiện cao hơn so với hàng nguyên chiếc. Đầu tư mới vào các ngành có yêu cầu tỷ lệ nội địa hóa cao sẽ không được khuyến khích cao. Nên chăng có thể giảm tỷ lệ nội địa hoá, cho phép các nhà đầu tư tự do nhập khẩu các chi tiết linh kiện để hạ giá thành sản phẩm tăng sức cạnh tranh khuyến khích họ xuất khẩu mà không cần có quyết định khống chế mức giá trần của sản phẩm.
Thứ hai, cho phép các doanh nghiệp FDI được quyền huy động hàng hóa không do họ sản xuất để xuất khẩu.
Các doanh nghiệp FDI, đặc biệt là các doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài vốn đã có sẵn mạng lưới tiêu thụ, họ đã quen bạn hàng trên thị trường thế giới, với uy tín và thông tin nhanh nhạy các doanh nghiệp FDI có thể nhanh chóng mở rộng thị trường xuất khẩu và kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam nói chung và Đà Nẵng nói chung.
Một số doanh nghiệp FDI muốn được kinh doanh thương mại thuần tuý là hoàn toàn hợp lý và chính đáng trong bối cảnh hiện nay, đặc biệt khi hiệp định Thương mại Việt - Mỹ kí kết ngày 23 tháng 07 năm 2000.Tuy nhiên, Chính phủ không nên cho phép tràn lan mà trước mắt chỉ cho doanh nghiệp đã đầu tư tại Việt Nam được ít nhất 5 năm, làm nghĩa vụ tài chính đối với nhà nước Việt Nam nghiêm chỉnh được quyền kinh doanh xuất nhập khẩu thuần tuý. điều này không chỉ có lợi cho người tác động mà còn buộc các doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu khẩu Việt Nam phải tự vươn lên khi chúng ta đang trên lộ trình xoá bỏ các biện pháp phi thuế quan.
Thứ ba, tiếp tục xây dựng và kiện toàn hệ thống chính sách thuế phù hợp với điều kiện trong nước và thông lệ quốc tế, đa dạng hoá các sắc thuế, từng bước áp dụng hệ thống thuế thống nhất, không phân biệt sắc thuế áp dụng các thành phần kinh tế, đồng thời đảm bảo tính ổn định, lâu dài của chính sách thuế.
Thứ tư, tiếp tục đổi mới chính sách và kiện toàn hệ thống tài chính, tiền tệ, thông qua việc tạo lập môi trường hành chính lành mạnh, thông thoáng góp phần duy trì các cân đối lớn trong nền kinh tế, vận dụng linh hoạt có hiệu quả các công cụ gián tiếp trong chính sách tiền tệ như:
Xác lập cơ chế điều hành lãi suất ngân hàng theo xu hướng thả nổi có điều tiết lãi suất theo cung - cầu trên thị trường, từng bước bãi bỏ việc khống chế lãi suất trần. Thực hiện chính sách lãi suất theo thời gian ngắn. Phát triển thị trường vốn tiền tệ với các hình thức đa dạng, thích hợp nhằm thu hút các nguồn vốn dài hạn và trung hạn. Tạo điều kiện thuận lợi cho thị trường chứng khoán hoạt động và phát triển, đây là điều kiện cần thiết thúc đẩy hội nhập kinh tế quốc tế.
Tiếp tục hoàn thiện cơ chế quản lý ngoại tệ và điều hành tỷ giá hối đoái theo hướng thị trường, hạ giá trị đồng nội tệ, thực hiện chính sách tỷ giá hợp lý, nhất là khi chương trình ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung (CEPT) trong khuôn khổ các nước ASEAN.
Thứ năm, chú trọng thức hiện chính sách khuyến khích đầu tư có trọng điểm các ngành công nghệ tiên tiến mà Việt Nam có lợi thuế so sánh…
Dành ưu tiên ưu đãi hơn nữa đối với các dự án FDI đầu tư vào các ngành nông – ngư nghiệp, nghành công nghiệp chế biến nông nghiệp - hải sản, ngành điện tử viễn thông và công nghệ sinh học, những dự án đầu tư vào các Khu công nghiệp, Khu chế xuất, các dự án liên doanh đầu tư vào dạy nghề, xử lý ô nhiễm môi trường.
Trên thực tế, hiện tại Việt Nam nói chung và Đà Nẵng nói riêng đang có lợi thế so sánh nhất định trong nông – lâm- ngư nghiệp, dựa trên những ưu thế sẵn có về tự nhiên đất đai (đất đai, vùng biển, khí hậu nhiệt đới) và về lao động (lực lượng dông, giá nhân công thấp).
Tăng cường thu hút vốn FDI vào Đà Nẵng trong thời gian tới
Mở rộng hình thức thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài: ngoài các hình thức đầu tư FDI như luật hiện nay quy định, thì Đà Nẵng nên mở rộng và đa dạng hoá các hình thức hơn nữa để các đối tác nước ngoài có thể tự do lựa chọn cho mình một hình thức kinh doanh thích hợp nhất.
Cải tiến các quy chế đầu tư vào các khu công nghiệp (KCN), khu chế xuất (KCX) ở Đà Nẵng như KCX An Đồn, KCN Hòa Khánh, KCN Liên Chiểu để thu hút mạnh hơn nữa các dự án FDI, cụ thể như:
Giảm gía thuê đất trong các KCN, KCX để đảm bảo cho các chủ đầu tư có lợi, thúc đẩy họ đầu tư vào các KCN, KCX.
Thành phố phải đầu tư đồng bộ để xây dựng kết cấu hạ tầng ngoài hàng rào KCN, KCX nhằm tạo điều kiện thuận lợi giúp cho hoạt động đầu tư, sản xuất kinh doanh của các dự án FDI.
Cần xác định rõ số lượng các lệ phí và phí mà các chủ đầu tư phải có trách nhiệm chi trả, cũng như mức thu của từng loại lệ phí. Tránh tình trạng thu lệ phí quá nhiều, chồng chéo, quá nhiều tổ chức, cơ quan đến thu lệ phí.
Quy hoạch KCN, KCX phải đảm bảo sự phát triển lâu dài của doanh nghiệp. Do đó, diện tích đất sử dụng cho mỗi dự án phải phù hợp trước mắt cũng như phát triển lâu dài của dự án.
Phải để nhà đầu tư tự do lựa chọn địa điểm vị trí dự án (trong KCN hay ngoài KCN).
Tu sửa và xây dựng mới kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội.
Kết cấu hạ tầng giữ vai trò quan trọng, nó tạo điều kiện để thu hút vốn đầu tư nước ngoài, qua đó quyết định sự tăng trưởng kinh tế, tạo ra chuyển đổi căn bản cơ cấu kinh tế đặc biệt là công nghiệp xây dựng và dịch vụ, tạo sự phát triển đồng đều giữa các vùng trong cả nước, tạo việc làm và tăng thu nhập cho người dân. Vì vậy, trong thời gian tới thành phố phải tập trung vốn cho việc tu bổ và xây dựng cơ sở hạ tầng. Thành phố phải đầu tư tập trung vào các vùng trọng điểm quyết định tới tăng trưởng kinh tế.
Thành phố phải nhanh chóng có những ưu đãi rõ ràng cụ thể đối với các hình thức đầu tư BOT, BTO, BT vào các địa bàn trọng điểm để hình thừc nhanh chóng được các nhà đầu tư triển khai và thực hiện, góp phần hôc trợ vốn đầu tư cho ngân sách. Bên cạnh đó khuyến khích đầu tư xây dựng KCN, KCX và đặc biệt trong tương lai không xa thành phố phải nghĩ tới việc thành lập các đặc khu kinh tế để triển khai cơ sở hạ tầng.
Ngoài việc huy dộng FDI cho xây dựng cơ sở hạ tầng, chúng ta phải huy động tối đa vốn ODA và vốn trong nước để đầu tư hổ trợ cho các dự án, đặc biệt là những địa bàn khó khăn. Tiềm năng nông thôn chúng ta còn lứon, nếu thành phố xây dựng hoàn thiện cơ sở hạ tầng cho khu vực này, điều đó sẽ tạo đà thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Quy hoạch thu hút vốn FDI
Sở kế hoạch và đầu tư cấn nhanh chóng lập quy hoạch các ngành, lãnh thổ, cơ cấu kinh tế thống nhất trên phạm vi cả nước. Trước hết, cần khẩn trương quy hoặc KCN, các sản phẩ m quan trọng thuộc các ngành công nghiệp chế biến như: chế biến thực phẩm, dệt, may; công nghiệp chế tạo như cơ khí vật liệu xây dựng, công nghệ thông tin. Trên cớ sở đó sác định các dự án trong nước có thể kêu gọi đầu tư theo ngành và lãnh thổ cũng như sác định yêu cầu tương ứng với công nghệ thiết bị. Hướng dẫn các công ty, các tập doàn lớn tập trung đầu tư vào các khu vực công nghiệp trọng điểm của Đà Nẵng
Nâng cao hiệu quả công tác xúc tiến đầu tư
Nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền, vận động để tạo dụng chíh sác hình ảnh tích cực về thành phố Đà Nẵng trong con mắt nhà đầu tư thông qua việc tăng cường chất lượng và hiệu quả công tác thông tin, tuyên truyền về tiềm năng, cơ hội và môi trường đầu tư tại thành phố thông qua các hội thảo, báo chí, truyền hình và mạng internet.
Đa dạng hoá các hình thức xúc tiến đầu tư, kết hợp xúc tiến thương mại, du lịch với vận động đầu tư; Xây dựng website chuyên về xúc tiến đầu tư kết nối với website của thành phố. Đẩy mạnh việc sử dụng mạng internet trong vận động đầu tư, tiến tới việc hỗ trợ cấp giấy phép qua mạng.
7. Tăng cường công tác huấn luyện đào tạo lại đội ngũ lao động, nâng cao chất lượng nguồn cung cấp lao động cho doanh nghiệp. Quan tâm hơn nữa trong việc tăng thêm thu nhập về tiền lương và chế độ chăm sóc sức khoẻ tới người lao động để phát huy được yếu tô con người trong chiến lược phát triển xuất khẩu hàng hóa trong những năm tới.
Lao động là nhân tố quan trọng, quyết định chất lượng mọi hoạt động của doanh nghiệp. Tuy nhiên, đây đang là một trong những nhân tố chủ yếu, hạn chế sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp có vốn ĐTNN. Tại nhiều doanh nghiệp lực lượng lao động được cung cấp không đủ trình độ, không thích nghi được chế độ làm việc, hiệu quả đạt được không cao. Nước ta là một nước có lực lượng dồi dào, giá nhân công rẻ, nhưng để có thể huy động đủ lực lượng lao động đảm bảo trình độ làm việc trong các KCX, KCN lại là một điều khó khăn.
Nguyên nhân của tình trạng này, một phần xuất phát từ hạn chế trong lĩnh vực, ngành nghề đào tạo, từ chính khả năng đáp ứng của thị trường lao động Đà Nẵng. Nhưng đồng thời là do doanh nghiệp chưa gắn hoạt động của mình với thị trường lao động, với các cơ sở đào tạo, nơi sẽ cung cấp lực lượng lao động cho doanh nghiệp của mình. Bởi vậy, khi tiếp nhận lao động thường chỉ được đào tạo về mặt lý thuyết, chưa chuyên sâu, chuyên môn, chưa có sự hiều biết về ngành nghề, về doanh nghiệp, dẫn đến hiệu quả công việc chưa cao. Nên chăng các doanh nghiệp cần có sự liên kết chặt chẽ với các cơ sở đào tạo, gắn hoạt động đào tạo với quá trình sử dụng, tiến hành các hoạt động tài trợ cho các cơ sở đào tạo để hướng người lao động vào những lĩnh vực cụ thể, qua đó doanh nghiệp có cơ hội tiếp xúc và tuyển chọn ra những lao động giỏi nhất, thích hợp nhất.
Bên cạnh đó cần phải có những biện pháp khắc phục những bất hợp lý về tiền lương, đảm bảo điều kiện lao động, thời gian làm việc, tạo sự bình đẳng giữa các đối tượng lao động trong doanh nghiệp.
Trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, tièn lương cũng là một vấn đề vướng mắc cần giải quyết. Đó là sự bất hợp lý về tiền lương giữa người lao động Việt Nam với người lao động nước ngoài và với mặt bằng chung của khu vực và thế giới. Vì cùng một khối lượng công việc, cùng một vị trí như nhau trong một công ty nhưng nhìn chung các lao động Việt Nam lại được trả lương thấp hơn so với lao động là người nước ngoài. Để xây dựng một mức lương hợp lý nhà nước đã ban hành những quy định về mức lương tối thiểu đối với lao động làm trong các doanh nghiệp có vốn ĐTNN. Thực tế cho thấy nhiều doanh nghiệp đã cố tình vi phạm, trả lương cho lao động dưới mức tối thiểu, hoặc vi phạm các quy định về lao động như tăng giờ làm, cắt giảm điều kiện lao động. Nếu các vướng mắc này nhanh chóng không được giải quyết sẽ gây nên tình trạng không đảm bảo về sức khỏe, ức chế tâm lý trong lao động dẫn đến giảm hiệu xuất lao động, thậm chí có thể dẫn tới những phản ứng gây bất lợi cho doanh nghiệp như đình công đòi tăng tiền lương, giảm giờ làm.
Để tránh tình trạng này, về căn bản các doanh nghiệp phải tuân thủ những quy định về tiền lương, về chế độ đãi ngộ lao động, về điều kiện làm việc cho người lao động. Một mặc đảm bảo sức lao động, phù hợp với mặc bằng xã hội và các nước trong khu vực, cũng như đảm bảo cho sự cạnh tranh của công nghiệp. Có như vậy mới tạo ra tâm lý tích cực, thoải mái yên tâm trong người lao động, từ đó mới đem lại hiệu quả cao trong sản xuất kinh doanh.
8. Các biện pháp hỗ trợ khác
Hỗ trợ các nhà đầu tư tại chỗ trong việc triễn khai thực hiện dự án.
Tổ chức cung ứng tốt các dịch vụ (miễn phí) hỗ trợ các dự án triển khai sau khi cấp phép (thủ tục thành lập công ty, cấp đất, giấy phép xây dựng, đấu thầu, nhập khẩu máy móc thiết bị, tuyển lao động …)
Giải quyết nhanh chóng và hiệu quả những khó khăn vướng mắc của các Doanh nghiệp có vốn ĐTNN trong quá trình sản xuất – kinh doanh.
Khuyến khích và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp có vốn ĐTNN tăng vốn mở rộng sản xuất hoặc đầu tư thêm dự án mới.
Xây dựng các mối quan hệ hiệu quả hỗ trợ công tác xúc tiến đầu tư.
Tăng cường sự phối hợp giữa Trung tâm Xúc tiến Đầu tư với các sở, ban, ngành liên quan của thành phố trong việc xây dựng cơ sở dữ liệu, cung cấp thông tin cho nhà đầu tư, thực hiện hoạt động xúc tiến đầu tư và hỗ trợ nhà đầu tư trong việc xây dựng và triển khai dự án
Phối hợp chặt chẽ với các vụ liên quan thuộc Bộ Kế hoạch và Đầu tư và Trung tâm Xúc tiến Đầu tư miền Trung để tranh thủ sự hỗ trợ của Bộ cho công tác vận động, xúc tiến đầu tư nước ngoài vào thành phố.
Cũng cố mối quan hệ thường xuyên với một số sứ quán và tham tán kinh tế, thương mại Việt Nam ở nước ngoài và các sứ quán, văn phòng kinh tế, thương mại nước ngoài, các tổ chức quốc tế tại Việt Nam.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 16095.doc