lời nói đầu
Trong bối cảnh nền kinh tế thế giới đang vận động theo xu hướng quốc tế hoá và khu vực hoá, các quốc gia tiến hành mở cửa và hội nhập vào nền kinh tế thế giới. Để tiến hành hội nhập một cách nhanh chóng vào nền kinh tế thế giới, hoạt động kinh doanh quốc tế đã xuất hiện nhiều phương thức khác nhau trong đó đầu tư quốc tế là một xu hướng tất yếu. Trong giai đoạn đầu của quá trình thực hiện chính sách “mở cửa” nền kinh tế, Việt Nam đã ban hành “luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam” nă
68 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1398 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Hà Nội: thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
m 1987 với nhiều ưu đãi tạo thuận lợi cho các chủ đầu tư nước ngoài. Nhận thấy được những tác động tích cực của đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với nền kinh tế Việt Nam, chúng ta đã có nhiều cải cách: thay đổi cơ chế quản lý, hoàn thiện môi trường luật pháp, môi trường kinh tế... nhằm tạo điều kiện cho dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam ngày càng nhiều và có hiệu quả (luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam đã được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam sửa đổi, bổ sung 4 lần nhằm từng bước hoàn thiện và tạo hành lang pháp lý vững chắc cho việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài). Thực tiễn, đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam đã có những bước tiến đáng kể, đặc biệt là từ năm 1991, khi môi trường đầu tư của Việt Nam đã bớt rủi ro hơn và được hoàn thiện hơn.
Hà Nội là thủ đô của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, là trung tâm kinh tế- xã hội của cả nước. Từ khi luật đầu tư nước ngoài đi vào áp dụng và thực hiện, Hà Nội là một trong những thành phố đứng đầu cả nước trong việc kêu gọi và thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, kết quả và hiệu quả của vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đã đem lại không ít thành tựu cho thành phố. Bên cạnh đó, quá trình thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Hà Nội cũng gặp không ít khó khăn và bất cập cần giải quyết: số dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Hà Nội liên tục tăng trong giai đoạn 1989-1996, nhưng từ năm 1997 trở lại đây dòng vốn này liên tục giảm xuống mặc dù thành phố và các cơ quan hữu quan đã có nhiều biện pháp nhằm hoàn thiện môi trường đầu tư và khuyến khích đầu tư tại Hà Nội. Đề tài: "Đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Hà Nội: thực trạng và giải pháp" đi tìm hiểu thực trạng đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Hà Nội giai đoạn 1989-2000, từ đó, phân tích nguyên nhân của xu hướng giảm đầu tư trực tiếp nước ngoài trong thời gian gần đây, đồng thời đưa ra một số giải pháp từ phía thành phố và từ phía các doanh nghiệp trên địa bàn nhằm tăng cường thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Hà Nội trong thời gian tới.
Đề tài sử dụng phương pháp tổng hợp, đồ thị, toán học và thống kê toán, kết hợp để sử lý nguồn số liệu được Sở Kế hoạch và Đầu tư Hà Nội cung cấp để nghiên cứu. Bên cạnh đó, phương pháp điều tra, phương pháp thực chứng, mô hình SWOT và lý thuyết sức hấp dẫn của thị trường cũng được sử dụng để nghiên cứu đề tài này.
Ngoài lời nói đầu và kết luận, đề tài này được trình bày theo ba chương:
Chương I: Lý luận chung về đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Chương II: Thực trạng đầu tư trực tiếp nước ngoài giai đoạn 1989-2000.
Chương III: Một số giải pháp và kiến nghị nhằm tăng cường thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Hà Nội đến năm 2010.
chương I lý luận chung về đầu tư trực tiếp nước ngoài
“Kinh doanh là việc thực hiện một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi” (theo luật doanh nghiệp- năm1999). Xuất phát từ khái niệm về kinh doanh trên đây chúng ta có thể hiểu về kinh doanh quốc tế như sau: kinh doanh quốc tế là toàn bộ các hoạt động giao dịch kinh doanh có liên quan từ hai quốc gia trở lên nhằm thoả mãn các mục tiêu của các doanh nghiệp, của cá nhân, chính phủ và các tổ chức kinh tế xã hội tham gia kinh doanh.
Hoạt động kinh doanh quốc tế xuất hiện cùng với sự ra đời và phát triển của Chủ nghĩa trọng thương (từ thế kỷ XV). Giai đoạn đầu, kinh doanh quốc tế chỉ đơn thuần là hoạt động xuất nhập khẩu (thương mại quốc tế thời kỳ chủ nghĩa trọng thương) nhưng cùng với sự phát triển của chủ nghĩa tư bản, đặc biệt là sự phát triển của chủ nghĩa tư bản tài chính và sự xuất hiện của các rào cản thương mại thì kinh doanh quốc tế cũng xuất hiện những phương thức, loại hình mới. Một trong những phương thức hoàn thiện nhất của kinh doanh quốc tế đó là: đầu tư quốc tế. Đầu tư quốc tế là một quá trình kinh doanh, trong đó vốn đầu tư được di chuyển từ quốc gia này sang quốc gia khác nhằm mục đích sinh lời. Như vậy, quá trình đầu tư quốc tế là sự di chuyển của các dòng vốn vượt ra khỏi biên giới quốc gia nhằm khai thác những lợi thế của quốc gia sở tại, thu lợi cho chủ đầu tư. Hoạt động đầu tư quốc tế được tiến hành theo hai hình thức đó là: đầu tư trực tiếp (FDI) và đầu tư gián tiếp FPI sự khác nhau cơ bản của hai hình thức này là: FDI tạo tài sản cho quốc gia tiếp nhận vốn đầu tư. Trong phạm vi của đề tài này, chúng ta đi tìm hiểu về đầu tư trực tiếp nước ngoài.
I. Đầu tư trực tiếp nước ngoài
1. Đầu tư trực tiếp nước ngoài
1.1.Khái niệm
Đầu tư trực tiếp nước ngoài là một loại hình di chuyển vốn quốc tế, trong đó người chủ sở hữu vốn đồng thời là người trực tiếp quản lý và điều hành hoạt động sử dụng vốn. Sự ra đời và phát triển của đầu tư trực tiếp nước ngoài là kết quả tất yếu của quá trình quốc tế hoá và phân công lao động quốc tế.
Trên thực tế có nhiều cách nhìn nhận khác nhau về đầu tư nước ngoài. Theo hiệp hội luật quốc tế (1966) “Đầu tư nước ngoài là sự di chuyển vốn từ nước của người đầu tư sang nước của người sử dụng nhằm xây dựng ở đó xí nghiệp kinh doanh hoặc dịch vụ”. Cũng có quan điểm cho rằng “Đầu tư nước ngoài là sự di chuyển vốn từ nước của người đầu tư sang nước của người sử dụng nhưng không phải để mua hàng hoá tiêu dùng của nước này mà dùng để chi phí cho các hoạt động có tính chất kinh tế xã hội”. Theo luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam ban hành năm 1987 và được bổ xung hoàn thiện sau 4 lần sửa đổi (1989, 1992, 1996, 2000) “ Đầu tư trực tiếp nước ngoài là việc các tổ chức và cá nhân nước ngoài đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền nước ngoài hoặc bất kỳ tài sản nào được chính phủ Việt Nam chấp nhận để hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hoặc thành lập xí nghiệp liên doanh hay xí nghiệp 100% vốn nước ngoài”.
Như vậy, đầu tư trực tiếp nước ngoài là hoạt động di chuyển vốn của các cá nhân và tổ chức nhằm xây dựng các cơ sở, chi nhánh ở nước ngoài và làm chủ toàn bộ hay từng phần cơ sở đó. Xuất phát từ khái niệm, chúng ta có thể rút ra một số đặc điểm của đầu tư trực tiếp nước ngoài như sau:
Một là, các chủ đầu tư nước ngoài phải góp một số vốn tối thiểu vào vốn pháp định, tuỳ theo luật đầu tư nước ngoài (tại Việt Nam, khi liên doanh, số vốn góp của bên nước ngoài phải lớn hơn hoặc bằng 30% vốn pháp định).
Hai là, quyền quản lý xí nghiệp phụ thuộc vào mức độ góp vốn. Đối với doanh nghiệp liên doanh và hợp đồng hợp tác kinh doanh thì quyền quản lý doanh nghiệp và quản lý đối tượng hợp tác tuỳ thuộc vào mức vốn góp của các bên khi tham gia, còn đối với doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài thì người nước ngoài (chủ đầu tư) toàn quyền quản lý xí nghiệp.
Ba là, lợi nhận của nhà đầu tư nước ngoài phụ thuộc vào kết quả hoạt động kinh doanh và được phân chia theo tỷ lệ góp vốn.
Bốn là, đầu tư trực tiếp nước ngoài được thực hiện thông qua việc xây dựng doanh nghiệp mới, mua lại toàn bộ hoặc từng phần doanh nghiệp đang hoạt động hoặc sát nhập các doanh nghiệp với nhau.
Năm là, đầu tư trực tiếp nước ngoài không chỉ gắn liền với di chuyển vốn mà còn gắn với chuyển giao công nghệ, chuyển giao kiến thức và kinh nghiệm quản lý và tạo ra thị trường mới cho cả phía đầu tư và phía nhận đầu tư.
Sáu là, đầu tư trực tiếp nước ngoài hiện nay gắn liền với các hoạt động kinh doanh quốc tế của các công ty đa quốc gia.
1.2. Các hình thức của đầu tư trực tiếp nước ngoài
Đầu tư trực tiếp nước ngoài có thể được phân chia theo nhiều tiêu thức khác nhau.
Nếu căn cứ vào tính pháp lý của đầu tư trực tiếp nước ngoài có thể chia FDI thành các loại: hợp đồng hợp tác kinh doanh, doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. Ngoài ra còn có thêm các hình thức đầu tư khác đó là hợp đồng xây dựng - kinh doanh - chuyển giao (BOT), xây dựng - chuyển giao - kinh doanh (BTO), xây dựng - chuyển giao (BT). Trong các hình thức trên thì doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài là hình thức pháp nhân mới và luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam gọi chung là xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Nếu căn cứ vào tính chất đầu tư có thể chia đầu tư trực tiếp nước ngoài thành hai loại: đầu tư tập trung trong khu công nghiệp - khu chế xuất và đầu tư phân tán. Mỗi loại đầu tư đều có ảnh hưởng tới chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu công nghiệp của từng quốc gia.
Nếu căn cứ vào quá trình tái sản xuất có thể chia đầu tư trực tiếp nước ngoài thành đầu tư vào nghiên cứu và triển khai, đầu tư vào cung ứng nguyên liệu, đầu tư vào sản xuất, đầu tư vào tiêu thụ sản phẩm...
Nếu căn cứ vào lĩnh vực đầu tư có thể chia đầu tư trực tiếp nước ngoài thành các loại: đầu tư vào công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ...
Theo luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, các hình thức đầu tư nước ngoài vào Việt Nam gồm ba hình thức sau:
Hợp đồng hợp tác kinh doanh
Hợp đồng hợp tác kinh doanh là văn bản ký kết giữa hai hoặc nhiều bên để cùng nhau tiến hành một hoặc nhiều hoạt động kinh doanh tại Việt Nam trên cơ sở quy định trách nhiệm và phân chia kết quả kinh doanh cho mỗi bên mà không thành lập pháp nhân mới. Thời hạn cần thiết của hợp đồng hợp tác kinh doanh do các bên hợp tác thoả thuận phù hợp với tính chất, mục tiêu kinh doanh. Hợp đồng hợp tác kinh doanh được người có thẩm quyền của các bên hợp doanh ký.
Doanh nghiệp liên doanh
Theo luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam và nghị định 24/2000/NĐCP ngày 31/07/2000 của chính phủ Việt Nam thì: doanh nghiệp liên doanh là doanh nghiệp được thành lập tại Việt Nam trên cơ sở hợp đồng liên doanh được ký kết giữa các bên (bên nước ngoài và bên Việt Nam). Doanh nghiệp liên doanh có tư cách pháp nhân, các bên tham gia liên doanh cùng góp vốn, cùng tham gia quản lý, cùng phân chia lợi nhuận, rủi ro theo tỷ lệ góp vốn của mỗi bên vào vốn pháp định của liên doanh.
Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài
Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài là doanh nghiệp hoàn toàn thuộc sở hữu của các tổ chức, các nhân nước ngoài do họ thành lập và quản lý. Xí nghiệp này là một pháp nhân mới ở Việt Nam dưới hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn. Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh hoàn toàn do chủ sở hữu chịu trách nhiệm.
1.3. Tính tất yếu khách quan của đầu tư trực tiếp nước ngoài
Trong lịch sử thế giới, đầu tư nước ngoài đã từng xuất hiện ngay từ thời tiền tư bản. Các công ty của Anh, Hà Lan, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha là những công ty đi đầu trong lĩnh vực này dưới hình thức đầu tư vốn vào các nước châu á để khai thác đồn điền và cùng với ngành khai thác đồn điền là những ngành khai thác khoáng sản nhằm cung cấp nguyên liệu cho các nghành công nghiệp ở chính quốc.
Trong thế kỷ XIX, do quá trình tích tụ và tập trung tư bản tăng lên mạnh mẽ, các nước công nghiệp phát triển lúc bấy giờ đã tích luỹ được những khoản tư bản khổng lồ, đó là tiền đề quan trọng đầu tiên cho việc xuất khẩu tư bản. Theo nhận định của Lênin trong tác phẩm “chủ nghĩa đế quốc, giai đoạn tột cùng của chủ nghĩa tư bản” thì việc xuất khẩu nói chung đã trở thành đặc trưng cơ bản của sự phát triển mới nhất về kinh tế thời kỳ “đế quốc chủ nghĩa”. Tiền đề của việc xuất khẩu tư bản là “tư bản thừa” xuất hiện trong các nước tiên tiến. Nhưng thực chất của vấn đề đó là một hiện tượng kinh tế mang tính tất yếu khách quan, khi mà quá trình tích tụ và tập trung đã đạt đến một mức độ nhất định sẽ xuất hiện nhu cầu đầu tư ra nước ngoài. Đó chính là quá trình phát triển của sức sản xuất xã hội đến độ đã vượt ra khoải khuôn khổ chật hẹp của một quốc gia, hình thành lên quy mô sản xuất trên phạm vi quốc tế. Thông thường, khi nền kinh tế ở các nước công nghiệp đã phát triển, việc đầu tư ở trong nước không còn mang lại nhiều lợi nhuận cho các nhà tư bản, vì thế, lợi thế so sánh ở trong nước không còn nữa. Để tăng thêm lợi nhuận, các nhà tư bản ở các nước tiên tiến đã thực hiện đầu tư ra nước ngoài, thường là vào các nước lạc hậu hơn vì ở đó các yếu tố đầu vào của sản xuất còn rẻ hơn nên lợi nhuận thu được thường cao hơn. Chẳng hạn như vào thời điểm đầu thế kỷ XX, lợi nhuận thu được từ các hoạt động đầu tư ở nước ngoài ước tính khoảng 5%trong một năm, cao hơn đầu tư ở trong các nước tiên tiến. Sở dĩ như vậy là vì trong các nước lạc hậu, tư bản vẫn còn ít, giá đất đai tương đối thấp, tiền công hạ và nguyên liệu rẻ. Mặt khác, các công ty tư bản lớn đang cần nguồn nguyên liệu và các tài nguyên thiên nhiên khác, đảm bảo cung cấp ổn định và đáng tin cậy cho việc sản xuất của họ. Điều này vừa tạo điều kiện cho các công ty lớn thu được lợi nhuận cao, vừa giúp họ giữ vững vị trí độc quyền.
Theo Lênin thì “xuất khẩu tư bản” là một trong năm đặc điểm kinh tế của chủ nghĩa tư bản, thông qua xuất khẩu tư bản, các nước tư bản thực hiện việc bóc lột đối với các nước lạc hậu và thường là thuộc địa của nó. Nhưng cũng chính Lênin khi đưa ra “chính sách kinh tế mới” đã nói rằng: những người Cộng sản phải biết lợi dụng những thành tựu kinh tế và khoa học kỹ thuật của Chủ nghĩa Tư bản thông qua hình thức “tư bản nhà nước”. Theo quan điểm này nhiều nước đã “chấp nhận” phần nào sự bóc lột của chủ nghĩa tư bản để phát triển kinh tế, như thế có thể còn nhanh hơn là tự thân vận động hay đi vay vốn để mua lại những kỹ thuật của các nước công nghiệp phát triển. Mặt khác, mức độ “bóc lột” của các nước tư bản còn phụ thuộc vào điều kiện kinh tế, chính trị của nước tiếp nhận đầu tư tư bản. Nếu như trước đây, hoạt động xuất khẩu tư bản của các nước đế quốc chỉ phải tuân theo pháp luật của chính họ thì ngày nay các nước tiếp nhận đầu tư đã là các quốc gia độc lập có chủ quyền, hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài phải tuân theo pháp luật, sự quản lý của chính phủ sở tại và thông lệ quốc tế. Nếu các chính phủ của nước sở tại không phạm những sai lầm trong quản lý vĩ mô thì có thể hạn chế được những thiệt hại của hoạt động thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Muốn thực hiện đầu tư trực tiếp nước ngoài vào một nước nào đó, nước nhận đầu tư phải có các điều kiện tối thiểu như: cơ sở hạ tầng đủ đảm bảo các điều kiện cần thiết cho hoạt động sản xuất và hình thành một số ngành dịch vụ phụ trợ phục vụ cho nhu cầu sản xuất và đời sống. Chính vì vậy, các nước phát triển thường chọn nước nào có điều kiện kinh tế tương đối phát triển hơn để đầu tư trước. Còn khi phải đầu tư vào các nước lạc hậu, chưa có những điều kiện tối thiều cho việc tiếp nhận đầu tư nước ngoài thì các nước đi đầu tư cũng phải dành một phần vốn cho việc xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng và một số lĩnh vực dịch vụ khác ở mức tối thiểu đủ đáp ứng yêu cầu của sản xuất và một phần nào đó cho quộc sống sinh hoạt của bản thân những người nước ngoài đang sống và làm việc ở đó.
Sau mỗi chu kỳ kinh tế, nền kinh tế của các nước công nghiệp phát triển lại rơi vào một cuộc suy thoái kinh tế. Chính lúc này, để vượt qua giai đoạn khủng hoảng và tạo những điều kiện phát triển, đòi hỏi phải đổi mới tư bản cố định. Thông qua hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài, các nước công nghiệp có thể chuyển các máy móc, thiết bị cần thay thế, sang các nước kém phát triển hơn và sẽ thu hồi một phần giá trị để bù đắp những khoản chi phí khổng lồ cho việc mua các thiết bị máy móc mới. Những thành tựu khoa học kỹ thuật ngày càng phát triển mạnh mẽ và nhanh chóng đi vào áp dụng trong sản xuất và đời sống, các chu kỳ kinh tế ngày càng rút ngắn lại, vì vậy, yêu cầu đổi mới máy móc, thiết bị ngày càng cấp bách hơn. Ngày nay, bất kỳ trung tâm kỹ thuật tiên tiến nào cũng cần phải có thị trường tiêu thụ công nghệ loại hai, có như vậy mới đảm bảo thường xuyên đổi mới kỹ thuật - công nghệ mới.
Nguyên tắc lợi thế so sánh cho phép hoạt động đầu tư nước ngoài lợi dụng được những ưu thế tương đối của mỗi nước, đem lại lợi ích cho cả hai bên: bên đầu tư và bên tiếp nhận đầu tư. Những thuận lợi về kỹ thuật của các công ty cho phép nó so sánh với các công ty con của nó ở những vị trí khác nhau do việc tận dụng tư bản chuyển dịch cũng như chuyển giao các công nghệ sản xuất của nước ngoài tới những lơi mà giá thành thấp.
Xu thế quốc tế hoá đời sống kinh tế xã hội, kết quả của quá trình phân công lao động xã hội mở rộng trên phạm vi toàn thế giới đã lôi kéo tất cả các nước và các vùng lãnh thổ từng bước hoà nhập vào nền kinh tế thế giới. Trong xu thế đó, chính sách biệt lập đóng cửa là không thể tồn tại vì chính sách này kìm hãm quá trình phát triển của xã hội. Một quốc gia hay vùng lãnh thổ khó tách biệt khỏi thế giới vì những thành tựu khoa học kỹ thuật đã kéo con người ở khắp nơi trên thế giới xích lại gần nhau hơn và dưới tác động của quốc tế hoá khác buộc các nước phải mở cửa với bên ngoài. Vì vậy, đầu tư trực tiếp nước ngoài là một trong những hình thức kinh doanh quốc tế hữu hiệu nhất hiện nay, đã và đang trở thành phổ cập như một phương thức tiến tạo.
Ngày nay, việc huy động vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào một quốc gia hoặc một vùng lãnh thổ đã và đang trở thành phương thức hữu hiệu nhất, một yếu tố quan trọng bậc nhất trong cơ cấu ngân sách phát triển của một quốc gia, một hình thức quan trọng và phổ biến trong mối quan hệ kinh tế quốc tế. Đầu tư trực tiếp nước ngoài sẽ bù đắp sự thiếu hụt về vốn, công nghệ và lao động giữa các nước đang phát triển và các nước phát triển. Một nước đang phát triển sẽ khai thác tiềm năng vốn có của mình một cách có hiệu quả hơn khi nhận được nguồn vốn và công nghệ từ các nước phát triển thông qua viêc liên doanh, hợp doanh và các dạng đầu tư BOT, BT, BTO.... Mặt khác, các nước phát triển sẽ thu được lợi nhuận cao hơn khi bỏ vốn đầu tư ra nước ngoài - nơi có chi phí đầu vào thấp hơn trong nước. Đầu tư trực tiếp nước ngoài còn góp phần cải thiện mối quan hệ chính trị giữa các quốc gia, các quan hệ về hợp tác thương mại, vấn đề môi trường, các quan hệ văn hoá xã hội khác, tạo lên tiếng nói chung giữa các cộng đồng và khu vực. Như vậy, đầu tư trực tiếp nước ngoài là một tất yếu khách quan.
2. Điều kiện thực hiện đầu tư trực tiếp nước ngoài
Kinh doanh quốc tế có nhiều hình thức như: xuất nhập khẩu, đầu tư, hợp đồng hợp tác... các hình thức đó sẽ được các chủ thể tham gia kinh doanh quốc tế áp dụng cho từng trường hợp thâm nhập thị trường và tuỳ khả năng của các chủ thể. Câu hỏi đặt ra cho các chủ thể kinh doanh quốc tế đó là: khi nào đi đầu tư trực tiếp nước ngoài?, các chủ thể kinh doanh quốc tế quyết định thâm nhập thị trường nước ngoài theo phương thức đầu tư trực tiếp trong các trường hợp sau:
Một là, chi phí vận tải cao. Khi xuất khẩu hàng hoá để thâm nhập thị trường nước ngoài, người xuất khẩu phải chịu nhiều chi phí khác nhau như: chi phí bảo hiểm, chi phí vận tải, thuế quan.... Trong đó, chi phí vận tải chiếm một phần lớn trong phần chênh lệch giữa giá trong nước và giá sản phẩm đó ở thị trường nước ngoài. Chi phí vận tải lớn sẽ làm cho giá hàng hoá trên thị trường quốc tế cao, giảm sức cạnh tranh của hàng hoá trên thị trường nước ngoài. Vì vậy, các doanh nghiệp sẽ tiến hành đầu tư trực tiếp nước ngoài nhằm hạ giá thành sản phẩm nhờ ở gần thị trường tiêu thụ.
Hai là, xuất khẩu công nghệ lạc hậu nhằm kéo dài chu kỳ sống của công nghệ và sản phẩm. Các nước trên thế giới có trình độ phát triển khác nhau và chia thành ba nhóm nước: các nước phát triển, các nước đang phát triển và các nước chậm phát triển. Các nước phát triển có trình độ khoa học công nghệ vượt rất xa so với hai nhóm nước còn lại, vì vậy, một công nghệ lạc hậu ở các nước phát triển có thể vẫn là công nghệ mới hoặc công nghệ đang được sử dụng tối ưu ở các nươc đang phát triển và chậm phát triển. Quá trình chuyển giao công nghệ lạc hậu ở các nước phát triển sang các nước đang phát triển và chậm phát triển thông qua hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài sẽ kéo dài chu kỳ sống của công nghệ cũng như chu kỳ sống của sản phẩm do công nghệ đó sản xuất ra.
Ba là, tranh thủ sự ưu đãi của nước sở tại. Trên thế giới hiện nay, các quốc gia đều có xu hướng khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài tại nước mình thông qua các chính sách ưu đãi các chủ đầu tư. Các chính sách khuyến khích thu hút đầu tư đó thể hiện sự ưu đãi về thuế, thủ tục hành chính, ưu đãi về hoạt động kinh doanh.... Hiện nay, xu hướng tự do hoá thương mại đang trở lên “thịnh hành”, nhưng một số quốc gia vẫn áp dụng chính sách bảo hộ thương mại thông qua hai công cụ thuế quan và phi thuế quan. Vì vậy, xu hướng đầu tư trực tiếp nước ngoài nhằm vượt qua các rào cản thương mại và tranh thủ sự ưu đãi của chính phủ nước sở tại là một tất yếu.
Bốn là, sự dư thừa vốn của các quốc gia phát triển. Các quốc gia này có tốc độ tăng trưởng cao, thu nhập trên đầu người cao, vì vậy, sự tích luỹ tư bản là rất lớn. Theo quan điểm phát triển thì: một quốc gia không thể giàu có khi phần còn lại của thế giới nghèo đói, do đó, các nhà đầu tư tiến hành đầu tư quốc tế khi có sự dư thừa vốn trong quốc gia nhằm tạo động lực phát triển cho các quốc gia nghèo.
Năm là, khai thác nguồn lực nước ngoài. Các quốc gia đều có giới hạn về nguồn lực, thậm chí không có nguồn lực. Khi các nguồn lực trong nước khan hiếm các chủ đầu tư có xu hướng vươn ra thị trường nước ngoài nhằm khai thác nguồn lực sẵn có của nước sở tại như: tài nguyên thiên nhiên, lao động rẻ.... Vì vậy, họ tiến hành đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Ngoài các trường hợp trên, các chủ thể kinh doanh quốc tế còn tiến hành đầu tư trực tiếp nước ngoài trong trường hợp: do cạnh tranh tại nước chủ nhà quá gay gắt hoặc các chủ đầu tư theo đuổi đối thủ cạnh tranh và theo đuổi khách hàng tại nước sở tại.
3. Đầu tư nước ngoài đối với các nước đang phát triển
Trong 3 thập kỷ vừa qua nền kinh tế thế giới đã chứng kiến một sự tăng trưởng đáng kể về luồng FDI. Tổng FDI trung bình hàng năm theo giá thị trường hiện nay, tăng lên 10 lần, từ 104 tỉ USD vào những năm của thập kỷ 60 lên đến khoảng 1173 tỉ USD vào cuối những năm của thập kỷ 80. FDI đã tiếp tục tăng và đạt 1940 tỉ USD năm 1992. Tuy nhiên cần chú ý rằng phần tăng này chủ yếu ở các nước phát triển chứ không phải ở các nước đang phát triển. Các nước phát triển chiếm từ 68% trong những năm 60 lên đến 80% vào cuối những năm 90 trong tổng số của phần tăng lên của FDI.
Sau một gia đoạn tương đối đình trệ diễn ra sau các cuộc khủng hoảng nợ và một cuộc suy thoái cho tới những năm 80 (từ năm 1981 - 1985 FDI đến các nước đang phát triển thực tế giảm 4% một năm), đầu tư vào các nước đang phát triển đã khôi phục mạnh mẽ. Trong những năm cuối thập kỷ 80, FDI tăng 17% một năm và tiếp tục trong những năm 90. Theo báo cáo của Liên Hợp Quốc về đầu tư Thế giới năm 1994, tổng đầu tư FDI vào các nước đang phát triển đạt số kỷ lục là 70 tỷ USD năm 1993, tăng 125% trong ba năm đầu của thập kỷ 90. Ngược lại FDI vào các nước phát triển lại giảm mạnh trong những năm 90. Trong năm 1991, FDI vào các nước phát triển giảm 31% và tiếp tục giảm thêm 16% năm 1992. Kết quả là năm 1992 các nước đang phát triển chiếm 32% tổng FDI, trong khi tỷ trọng trung bình là 24% trong những năm 70. Tỷ trọng này tiếp tục tăng, đạt 40% năm 1993. Nếu xu hướng này tiếp tục, khối lượng FDI hàng năm vào các nước đang phát triển có thể vượt các nước phát triển trong thời gian không xa.
Chính sách thu hút và quản lý FDI của các nước đang phát triển đã thay đổi mạnh mẽ trong thập kỷ trước. Hiện nay các chính phủ đều khuyến khích FDI theo một cách thức chưa từng có trong lịch sử. Việc chuyển các chính sách kinh tế hướng về thị trường và các chính sách tự do hoá kinh tế đã thu hút và hấp dẫn hơn đối với các nhà đầu tư. Những cố gắng của chính phủ các nước nhằm thu hút các nhà đầu tư nước ngoài đặc biệt các dự án vào cơ sở hạ tầng và công trình phúc lợi theo hình thức BOT hay BTO đang tăng nhanh. Việc thực hiện tư nhân hoá và cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước cũng là một phương thức quan trọng để thu hút các nhà đầu tư nước ngoài. Trong xu hướng này các nước Châu Mỹ La Tinh dẫn đầu các nước đang phát triển. Từ năm 1988 đến năm 1992 khối lượng FDI trị giá khoảng 8,1 tỷ USD đã được đưa vào các nước Châu Mỹ La Tinh bởi hình thức mua cổ phần của các doanh nghiệp Nhà nước. Khối lượng này chiếm 16% tổng FDI đầu tư vào các quốc gia này. Các nước Đông Âu cũng đã thu hút khối lượng đầu tư lớn vào lĩnh vực này khoảng 5,2 tỷ USD trong khoảng thời gian từ năm 1988 đến năm 1992 tương ứng với 43% tổng khối lượng đầu tư vào khu vực. Đầu tư trực tiếp nước ngoài của toàn thế giới đạt tới 450 tỷ USD vào năm 1995, trong đó hai phần ba tập trung vào các nước Châu á. Theo báo cáo của UNCTAĐ tầm vóc ngày càng lớn và tính năng động của các nước Châu á đã làm cho Châu á trở thành thị trường đầu tư quan trọng đối với các công ty đa quốc gia. Tuy nhiên, hiện nay ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ trong khu vực đã làm cho dòng đầu tư vào các nước Châu á chậm lại, đầu tư giữa các nước trong khu vực giảm sút.
ảnh hưởng chung của đầu tư trực tiếp nước ngoài đến nước nhận đầu tư có thể phân chia thành 3 nhóm: kinh tế, chính trị, xã hội. Không chỉ các nước đang phát triển mà ngay cả các nước công nghiệp tiên tiến cũng rất quan tâm đến ảnh hưởng của FDI trên cả 3 phương diện này.
Các vấn đề văn hoá xã hội được xem xét chủ yếu là việc tạo ra các rào chắn về văn hoá xã hội. Những vấn đề xã hội như vậy đặc biệt nẩy sinh ở những nơi có sự khác biệt về nền tảng văn hoá, kinh tế xã hội giữa nước đầu tư và nước tiếp nhận đầu tư. Sự khác biệt này có thể giải thích được cho việc tạo ra những “ khu biệt lập”, “rào chắn” hay “tính nước ngoài” của đầu tư. Khía cạnh xã hội chính trị của đầu tư trực tiếp nước ngoài rất quan trọng và được quan tâm đúng mức trước khi đánh giá tác động chung của đầu tư nước ngoài tới các nước nhận đầu tư.
Những ảnh hưởng về kinh tế của FDI có thể được chia thành ảnh hưởng ở tầm vĩ mô và ở tầm vi mô. ảnh hưởng ở tầm vĩ mô bao gồm những ảnh hưởng sơ cấp và ảnh hưởng thứ cấp. Những ảnh hưởng sơ cấp có liên quan tới tăng trưởng, sản lượng, việc làm, cán cân thanh toán, tỷ giá hối đoái, thương mại, kỹ thuật, đào tạo, quản lý,... Những ảnh hưởng thư cấp chủ yếu là những ảnh hưởng trong nội bộ ngành và liên quan đến cách thức mà FDI hội nhập và không hội nhập với nền kinh tế trong nước thông qua thị trường trong nước, cũng như việc khuyến khích phát triển ngành nghề, các vùng mới. Trường hợp này phổ biến đối với FDI vào các ngành dịch vụ như : ngân hàng, bảo hiểm, môi giới. Những ảnh hưởng ở tầm vi mô của FDI có liên quan tới những thay đổi về cơ cấu trong các tổ chức hoạt động kinh tế. Những tổ chức này phải tiến hành công việc kinh doanh trong môi trường có tính cạnh tranh cao hơn.
Sự ảnh hưởng tổng hợp của những ảnh hưởng ở tầm vi mô và ở tầm vĩ mô cũng như những ảnh hưởng mang tính chiếm lược tới nền kinh tế của nước nhận đầu tư được thể hiện qua các chi phí và lợi ích trong tương lai có liên quan đến đầu tư. Lợi ích đối với các nước nhận đầu tư có thể khoản tiền thu từ thuế, giảm sản phẩm, nâng cao chất lượng sản phẩm sản xuất, tăng năng xuất lao động, tăng sản lượng và việc làm. FDI có thể gây ra áp lực thu hút những nguồn lực dư thừa và nâng cao hiệu quả của những nguồn lực này thông qua việc thay đổi phân đối phân bổ các nguồn lực.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài đóng vai trò quan trọng đối với các nước đang phát triển. Để tăng trưởng và phát triển kinh tế các nước đang phát triển gặp rất nhiều khó khăn về vốn, công nghệ, thị trường cũng như các kinh nghiệm và những kiến thức trong quản lý. Do vậy trong các chính sách phát triển của mình, các nước đang phát triển đều tạo ra môi trường thuận lợi thu hút các công ty đa quốc gia thực hiện đầu tư dưới hình thức FDI. Phần lớn các nước đang phát triển thu hút được lượng FDI đều có những đặc điểm hấp dẫn các nhà đầu tư, chẳng hạn như thị trường trong nước lớn, lao động được đào tạo và chi phí lao động thấp, cơ sở hạ tầng thuận lợi, có các chính sách quản lý vĩ mô hợp lý, có sự ổn định về tình hình chính trị... Một vài nước có nguồn tài nguyên thiên nhiên tuy nhiên chỉ có một số nước có nguồn tài nguyên dồi dào. Ngược lại có nhiều nước không hấp dẫn được các nhà đầu tư. Điển hình nhất là trong nhóm này là các nước có xung đột vũ trang, tình hình chính trị không ổn định. Nhiều nước có quy mô dân số nhỏ, chất lượng lao động thấp, yếu kém về cơ sở hạ tầng, yếu kém trong quản lý vĩ mô nền kinh tế. Đây không phải là những vấn đề dễ dàng vợt qua cho nên nhiều nước sẽ còn khó khăn trong thu hút vốn đầu tư nước ngoài.
II. những nhân tố ảnh hưởng tới khả năng thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
Hiện nay, trên thị trường đầu tư quốc tế đang diễn ra sự cạnh tranh gay gắt giữa các nhà đầu tư có nguồn vốn lớn cũng như giữa các nước tiếp nhận đầu tư. Dòng vốn đầu tư quốc tế di chuyển tới một quốc gia phụ thuộc vào các yếu tố sau:
1. Chính sách của các quốc gia
Đầu tư quốc tế nói riêng và kinh doanh quốc tế nói chung có liên quan tới nhiều quốc gia tham gia vào quá trình di chuyển vốn quốc tế.
Thứ nhất, chính sách của nước xuất khẩu vốn. Khi xem xét chính sách của nước xuất khẩu vốn tác động tới hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài chúng ta phải đi tìm hiểu xem chính sách của quốc gia đó có tạo điều kiện thuận lợi cho dòng vốn di chuyển ra khỏi quốc gia hay không. Chính sách thúc đẩy xuất khẩu vốn đầu tư của các quốc gia phụ thuộc vào nền kinh tế của quốc gia đó. Một quốc gia có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, GDP trên đầu người lớn sẽ dẫn tới sự tích luỹ vốn tạo sự dư thừa vốn đầu tư của quốc gia đó, do đó, chính phủ sẽ có chính sách thúc đẩy xuất khẩu vốn để đem lại thu nhập lớn hơn cho quốc gia. Ngược lại, chính phủ sẽ ban hành nhiều chính sách thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài hơn là các chính sách khuyến khích xuất khẩu vốn. Bên cạnh đó, sự cạnh tranh gay gắt tại thị trường nội địa cũng là một trong những nguyên nhân dẫn tới chính phủ ban hành chính sách khuyến khích xuất khẩu vốn nhằm giảm bớt cường độ cạnh tranh trên thị trường nội địa. Ngoài ra, chính sách của chính phủ cũng hướng luồng vốn xuất khẩu vào các khu vực khác nhau tuỳ thuộc vào mối quan hệ chính trị, ngoại giao của quốc gia xuất khẩu vốn với khu vực và quốc gia nhập khẩu vốn. Một minh chứng cụ thể đó là Nhật Bản, những thập niên vừa qua nền kinh tế Nhật Bản tăng trưởng với tốc độ “thần kỳ”, sự tích luỹ tư bản lớn, chính phủ Nhật Bản đã có nhiều chính sách phù hợp khuyến khích các nhà đầu tư Nhật Bản đầu tư ra nước ngoài nhằm mở rộng thị trường tiêu thụ, khai thác tài nguyên thiên nhiên sẵn có tại các quốc gia sở tại. Do quan hệ ngoại giao giữa Nhật Bản và các nước Đông._. á, Đông Nam á thân thiện,và có sự tương đồng về văn hoá, cho nên dòng vốn đầu tư của Nhật Bản vào các quốc gia này chiếm một tỷ trọng rất lớn.
Thứ hai, chính sách của nước nhập khẩu vốn. Chính sách của quốc gia nhập khẩu vốn tác động rất lớn tới quyết định đầu tư của chủ đầu tư nước ngoài, chính sách đó bao gồm: chính sách khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài, chính sách về quản lý ngoại tệ, các quy định trong hoạch toán kế toán, chín sách thương mại... Chính sách khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài là vấn đề tiên quyết khi chủ đầu tư quyết định đầu tư, một chính sách khuyến khích đầu tư phù hợp sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các chủ đầu tư khi tiến hành đầu tư trên địa bàn, ngược lại, một chính sách khuyến khích đầu tư bất hợp lý sẽ tạo rào cản lớn, tạo một trường đầu tư không thuận lợi đối với các chủ đầu tư. Chính sách quản lý ngoại tệ tại một quốc gia tác động trực tiếp tới tâm lý của nhà đầu tư nước ngoài; một quốc gia quản lý ngoại hối theo nguyên tắc thả nổi theo thị trường sẽ dẫn đến sự thay đổi liên tục của tỷ giá hối đoái tuỳ theo nhu cầu thị trường, do đó các chủ đầu tư sẽ có tâm lý rụt rè, lo sợ trong hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài tại quốc gia đó; một quốc gia quản lý ngoại hối theo nguyên tắc: thả nổi có điều tiết hoặc cố định sẽ tạo tâm lý yên tâm hơn cho các chủ đầu tư nước ngoài. Chính sách thương mại liên quan tới hoạt động xuât nhập khẩu của các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài, hạn ngạch xuất nhập khẩu thấp và các giào cản thương mại khác xẽ gây khó khăn cho các dự án đó bởi vì hầu hết các dự án FDI khi đi vào hoạt động đều liên quan tới xuất nhập khẩu: xuất nhập khẩu máy móc thiết bị, nguyên vật liệu, sản phẩm... Chính sách thương mại bất hợp lý sẽ là rào cản lớn đối với hoạt động của một dự án FDI. Ngoài ra, chính sách thuế, chính sách ưu đãi và các chính sách vĩ mô khác cũng ảnh hưởng tới sự di chuyển vốn FDI vào một quốc gia. Vì vậy, một quốc gia cần kết hợp một cách hài hoà giữa các hoạt động quản lý nhằm tạo sự thống nhất trong việc đề ra và thực hiện các chính sách tạo điều kiện thuận lợi cho việc mở rộng thu hút FDI. ở việt nam gần đây, nhà nước đã ban hành nhiều chính sách ưu đãi thuận lợi nhằm mở rộng thu hút FDI như: chính sách về thuế, chính sách về quản lý hành chính, chính sách thương mại, chính sách quản lý ngoại hối... Nhưng hiện nay một số chính sách quản lý và điều tiết thị trường tại Việt Nam đang gây không ít khó khăn cho các nhà đầu tư nước ngoài. Quy định về chương trình nội địa hoá đối với các dự án công nghiệp nặng chưa mang tính hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nước ngoài.
Như vậy, chính sách của các quốc gia khi tham gia vào quá trình di chuyển vốn quốc tế sẽ quyết định trực tiếp đối với dòng vốn và dòng vốn ra của hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài. Ngoài ra, trong xu hướng kinh tế thế giới hiện nay, chính sách của các tổ chức, các liên minh, liên kết cũng ảnh hưởng không nhỏ tới hoạt động FDI.
2. Sự thích nghi của sản phẩm và công nghệ của chủ đầu tư đối với thị trường nội địa
Mỗi quốc gia đều có sự khác biệt với phần còn lại của thế giới, sự khác biệt đó có thể là về văn hoá, trình độ phát triển kinh tế và khoa học công nghệ... sự khác biệt về văn hoá như: lối sống, phong tục tập quán, sẽ dẫn tới nhu cầu về các sản phẩm là khác nhau giữa các quốc gia. Bên cạnh đó, trình độ phát triển kinh tế và khoa học công nghệ ở một quốc gia cũng khác nhau do sự quy định bởi trình độ phát triển của lực lượng sản xuất tại quốc gia đó. Xuất phát từ sự khác nhau như trên, các chủ thể kinh doanh quốc tế khi thâm nhập thị trường nước ngoài có thể sử dụng hai chiến lược marketing khác nhau như: chiến lược thích nghi hoá hoặc chiến lược tiêu chuẩn hoá sản phẩm. Tuỳ từng thị trường, tuỳ từng sản phẩm, tuỳ khả năng của doanh nghiệp mà áp dụng các chiến lược cho hợp lý và có hiệu quả.
Khi tiến hành đầu tư trực tiếp nước ngoài các chủ đầu tư cần phải nghiên cứu sự thích nghi của sản phẩm và công nghệ khi đem đi đầu tư đối với thị trường sở tại. Hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài tất yếu diễn ra sự chuyển giao công nghệ, một công nghệ phù hợp sẽ giúp cho các dự án đầu tư đạt được hiệu quả như mong muốn. Một công nghệ phù hợp là phải phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất tại nước sở tại, khai thác tối đa những lợi thế của thị trường sở tại, đáp ứng những yêu cầu của nước sở tại. Một công nghệ tốt, hiện đại vẫn chưa đủ nếu như sản phẩm do công nghệ đó sản xuất ra không phù hợp với thị trường nội địa. Công nghệ phù hợp quyết định sự khai thác các yếu tố đầu vào còn sự phù hợp của sản phẩm đối với thị trường sở tại sẽ quyết định doanh thu và lợi nhuận của dự án. Như vậy, sự phù hợp của sản phẩm và công nghệ của chủ đầu tư đối với thị trường sở tại ảnh hưởng trực tiếp tới dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài di chuyển vào quốc gia đó. ở Việt Nam thời gian qua, hoạt động đầu tư gắn liền với chuyển giao công nghệ. Qúa trình chuyển giao công nghệ qua các dự án FDI thời gian qua tại Việt Nam còn nhiều vấn đề bất cập nhưng phần nào cũng là một tất yếu. Công nghệ sản xuất từ những năm 60,70 nhưng đáp ứng được yêu cầu giải quyết việc làm cho người lao động, phù hợp với trình độ của người lao động việt nam. Tuy nhiên, một vấn đề đặt ra là do quá trình thẩm định công nghệ và trình độ của người thẩm định công nghệ không tương xứng dẫn đến sự du nhập các công nghệ lạc hậu không phù hợp với việt nam. Các dự án FDI vào Việt Nam phần lớn xuất khẩu sản phẩm nhờ lợi thế so sánh là giá lao động rẻ, tuy nhiên, để tiêu thụ sản phẩm trên thị trường nội địa các chủ đầu tư đều phải thích nghi sản phẩm của mình.
3. Khả năng của công ty khi đầu tư
Một công ty tham gia kinh doanh quốc tế đòi hỏi phải phân tích kỹ lưỡng môi trường bên ngoài và môi trường bên trong doanh nghiệp để từ đó quyết định chiến lược kinh doanh quốc tế, quyết định phương thức thâm nhập thị trường một cách có hiệu quả. Phân tích môi trường bên ngoài giúp cho công ty chỉ ra được cơ hội và thách thức đối với mình khi tham gia kinh doanh quốc tế còn phân tích môi trường bên trong công ty (khả năng của công ty) sẽ chỉ ra được điểm mạnh, điểm yếu của mình làm giúp công ty tận dụng cơ hội, giảm bớt các thách thức trên thị trường quốc tế.
Xem xét khả năng của công ty khi đi đầu tư là xem xét những yếu tố về nguồn lực, kinh nghiệm quản lý và các chức năng tác nghiệp. Nguồn lực của công ty là khả năng về vốn và công nghệ của công ty đó. Một công ty có khả năng rồi rào về vốn, công nghệ liên tục đổi mới và phát triển sẽ tạo cho công ty một sức mạnh rất lớn khi đầu tư ra nước ngoài, ngược lại công ty sẽ không có khả năng để vươn ra thị trường nước ngoài bằng hình thức đầu tư trực tiếp. Kinh nghiệm quản lý của công ty cũng là một sức mạnh không nhỏ quyết định sự thành công của công ty khi môi trường kinh doanh thay đổi, kinh nghiệm quản lý của các nhân viên tốt sẽ tạo sự thích ứng trong quản trị kinh doanh của công ty đối với các thị trường khác nhau. Các chức năng tác nghiệp: quản lý, marketing, quản trị nhân lực, kế toán tài chính... sẽ giúp cho hoạt động của công ty trên thị trường sở tại thuận lơị, đạt hiệu quả cao trong quá trình đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Như vậy, khả năng của công ty sẽ quyết định công ty có đi đầu tư hay không và đầu tư vào thị trường nào để đạt được lợi nhận tối ưu với khả năng vốn có của công ty.
4. Sức hấp dẫn của thị trường nước tiếp nhận đầu tư
Một trong những mục đích của các nhà đầu tư khi tiến hành đầu tư tại một nước nào đó là khai thác những lợi thế so sánh của thị trường nội địa. Thị trường ở mỗi nước khác nhau có sức hấp dẫn khác nhau đối với các chủ đầu tư khi tiến hành đầu tư trực tiếp nước ngoài. Một thị trường hấp dẫn sẽ kích thích mở rộng thu hút vốn FDI, khi phân tích sức hấp dẫn của thị trường nước sở tại các chủ đầu tư thường chú ý đến các yếu tố sau:
Thứ nhất, quy mô, cấu trúc và giới hạn của thị trường. Quy mô của thị trường lớn hay nhỏ quyết định lượng hàng hoá bán ra và lợi nhuận của cả đời dự án, cầu trúc của thị trường quyết định chủng loại sản phẩm và đoạn thị trường tiềm năng của dự án FDI còn giới hạn của thị trường sẽ giúp cho chủ đầu tư xác định vị trí tối ưu để đặt địa điểm cho dự án. Một thị trường có quy mô rộng lớn, cấu trúc đa dạng, giới hạn lớn cho việc mở rộng đầu tư sẽ có sức cuốn hút lớn đối với các chủ đầu tư nước ngoài.
Thứ hai, luật pháp của nước sở tại và các rào cản thâm nhập thị trường. Hoạt động kinh doanh quốc tế nói chung và đầu tư trực tiếp nói riêng chịu sự ảnh hưởng trực tiếp bởi môi trường luật pháp. Môi trường luật pháp quy định lĩnh vực đầu tư, hình thức đầu tư, thời hạn đầu tư của các dự án; môi trường luật pháp đòi hỏi các chủ đầu tư phải thích ứng các dự án của mình phù hợp với những quy định một cách bắt buộc. Môi trường luật pháp phù hợp, khuyến khích sẽ tạo điều kiện hướng dòng vốn FDI vào các lĩnh vực một cách có hiệu quả, kích thích các chủ đầu tư đầu tư vào thị trường đó. Ngoài ra các rào cản thâm nhập thị trường nước sở tại cũng sẽ là một nhân tố quyết định khi chủ đầu tư cân nhắc đầu tư. Một thị trường có tiềm năng lớn, khả năng phát triển cao và ổn định nhưng rào cản thâm nhập lớn sẽ dẫn đến lợi nhuận của dự án thấp không có sức lôi cuốn các nhà đầu tư so với thị trường có tiềm năng, khả năng phát triển kém hơn nhưng rào cản nhập cuộc nhỏ hơn.
Thứ ba, sự phát triển của thị trường và sự cạnh tranh trên thị trường. Sự phát triển của thị trường nhanh sẽ mở rộng doanh thu của dự án, tạo tiền đề cho dự án thu được lợi nhuận, đẩy nhanh thời gian thu hồi vốn đầu tư, ngược lại khả năng thu hồi vốn của dự án chậm, ít khả thi. Cường độ cạnh tranh trên thị trường nước sở tại sẽ cho thấy khả năng chiếm lĩnh thị trường của sản phẩm dự án như thế nào, cường độ cạnh tranh trên thị trường nước sở tại càng gay gắt, thị phần của sản phẩm dựa án càng nhỏ, khả năng phát triển của dự án thấp, thời gian thu hồi vốn chậm, hiệu quả đầu tư không cao.
Thứ tư, vị thế của thị trường sở tại. Thị trường sở tại có vai trò rất lớn trong việc quyết định trong việc phát triển sản xuất khi dự án đi vào hoạt động. Vị trí của thị trường thuận lợi cho việc cung ứng đầu vào, tiêu thụ sản phẩm và giao lưu thuận tiện với các thị trường khác là địa điểm tối ưu để đầu tư. Mặt khác, thị trường có những lợi thế về điều kiện kinh tế-xã hội, nhân lực,... sẽ giúp cho dự án vận hành trơn tru và có hiệu quả. Vị thế của thị trường sở tại tốt sẽ tạo sức hút không nhỏ đối với các chủ đầu tư nước ngoài.
Thứ năm, hạ tầng cơ sở kỹ thuật. Một quốc gia, một địa phương có cơ sổ hạ tầng kỹ thuật phát triển sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Nếu như khi đầu tư vào một quốc gia nào đó mà các chủ đầu tư phải tự đầu tư để xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật phục vụ cho hoạt động của dự án thì sẽ dẫn tới chi phí ban đầu lớn, giảm lợi nhuận của dự án và ngược lại, lợi nhuận của dự án sẽ lớn hơn.
Như vậy, sức hấp dẫn của thị trường sở tại là sự kết hợp của nhiều yếu tố tạo lên. Sức hấp dẫn của thị trường càng lớn sẽ khuyến khích hoạt động thu hút vốn đầu tư trưc tiếp nước ngoài.
Tóm lại, dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài chịu tác động của rất nhiều nhân tố như: chính sách của các quốc gia, sự thích nghi của sản phẩm và công nghệ của chủ đầu tư đối với thị trường nội địa, khả năng của công ty khi đầu tư, sức hấp dẫn của thị trường nước sở tại... Vì vậy để nâng cao khả năng thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, các quốc gia cần phải kết hợp và tạo mọi điều kiện thuận lợi để cho các yếu tố trên kết hợp một cách tối ưu.
III . Xu hướng của đầu tư trực tiếp nước ngoài trên thế giới
1. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trên thế giới chủ yếu vận động trong nội bộ các nước công nghiệp phát triển nhưng hiện nay tỉ trọng của dòng vốn này giảm dần
Các nước công ngiệp phát triển có trình độ công nghệ cao, cạnh tranh gay gắt nhưng sức mua lớn, môi trường kinh tế tăng trưởng và ổn định. Mặt khác, một nước không bao giờ sản xuất được tất cả các sản phẩm tốt nhất với hiệu quả cao nhất, vì vậy dòng vốn vận động chủ yếu trong nội bộ các nước công nghiệp phát triển. Vào cuối thập kỷ 80 đầu thập kỷ 90, nền kinh tế các nước công nghiệp phát triển đi vào suy thoái, môi trường đầu tư kém thuận lợi, trong khi đó do quá trình quốc tế đời sống kinh tế thế giới, các nước đang phát triển ban hành các chính sách tăng cường thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Kết quả là, xu hướng đầu tư vào các nước phát triển giảm dần, đầu tư vào các nước đang phát triển tăng lên. Ngoài ra, do cuộc cách mạng khoa học công nghệ đã làm cho nhu cầu thay thế và đổi mới công nghệ ở các nước công nghiệp phát triển diễn ra liên tục, do đó công nghệ cũ, công nghệ lạc hậu được đưa sang các nước đang phát triển, và chậm phát triển để thực hiện hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài, đây cũng là một nhân tố làm tăng dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các nước đang phát triển và chậm phát triển.
2. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trên thế giới chủ yếu vận động trong nội bộ các nước cùng khu vực
Xu hướng này xuất hiện là do quá trình hình thành các liên kết kinh tế-chính trị trong các khu vực như: khu vực ASEAN, khu vực tự do Bắc Mĩ (NAFTA), EU,... Các liên minh, liên kết này có những chính sách phát triển kinh tế thống nhất và khuyến khích đầu tư cùng khối, cùng khu vực. Ngoài ra, các nước cùng khu vực có sự tương đồng về văn hoá cho nên dòng vốn chu chuyển giữa các quốc gia cùng khu vực chiếm tỷ trọng rất lớn.
3. Có sự thay đổi lớn về tương quan lực lượng các chủ đầu tư lớn trên thế giới
Từ sau chiến tranh thế giới thứ hai, các chủ đầu tư lớn tập trung ở các nước Anh, Mĩ, nhưng từ năm 1980 đến nay vai trò của các chủ đầu tư Anh, Mĩ giảm dần. Trong khi đó sự phát triển mạnh mẽ về kinh tế và sự tăng giá của các đồng tiền, vai trò của các chủ đầu tư Nhật, Đức, Pháp,...có xu hướng tăng lên (đặc biệt là các chủ đầu tư Nhật Bản).
4. Có sự thay đổi về cơ cấu và lĩnh vực đầu tư
Hiện nay, hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài vào một số ngành có xu hướng tăng như: công nghiệp chế biến, công nghệ cao, dịch vụ, ngành sử dụng nhiều vốn. Còn các ngành như: thực phẩm, khai thác tài nguyên thiên nhiên, sử dụng nhiều lao động có xu hướng giảm dần. Các chủ đầu tư thường tập trung vào các dự án có quy mô nhỏ, tài nguyên chất lượng, có sự ưu đãi của Chính phủ và tận dụng thị trường nước sở tại.
5. Khu vực Đông và Đông Nam á đang trở thành nơi hấp dẫn đầu tư trực tiếp nước ngoài
Khu vực Đông và Đông Nam á có tốc độ tăng trưởng kinh tế khá cao và ổn định. Các quốc gia trong khu vực ban hành chính sách khuyến khích đầu tư nước ngoài tạo ra môi trường đầu tư ổn định, thông thoáng. Ngoài ra, sự tăng giá của đồng Yên Nhật và chính sách đầu tư ra nước ngoài của Nhật Bản cũng góp phần không nhỏ trong việc làm tăng dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào khu vực này.
IV. kinh nghiệm thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài của một số địa phương
Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam từ năm 1989, trải qua hơn 10 năm, thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài tại một số địa phương đã đạt được kết quả khá khả quan. Từ những thành tựu của hai tỉnh Đồng Nai và Bình Dương chúng ta có thể rút ra một số kinh nghiệm như sau:
1. Bình Dương- trong quy hoạch phát triển kinh tế xã hội đã xác định hình thành các khu công nghiệp và cụm công nghiệp nhằm mở rộng thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài
Bình Dương là một tỉnh nằm trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, cạnh Thành phố Hồ Chí Minh là trung tâm kinh tế văn hoá khoa học kỹ thuật lớn và tỉnh Đồng Nai có truyền thống lịch sử lâu đời về phát triển công nghiệp. Chính nhờ điều kiện vị trí thuận lợi đó mà Bình Dương thừa hưởng những lợi thế khu vực để phát triển công nghiệp, trong đó hoạt động thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài là yếu tố vô cùng quan trọng. Tỉnh Bình Dương trong quy hoạch phát triển kinh tế- xã hội đã xác định hình thành các khu công nghiệp và cụm công nghiệp địa phương nhằm tăng cường thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài. Bên cạnh đó, Bình Dương cũng đã tiến hành cụ thể hoá các chính sách, quy định, luật pháp của nhà nước phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội của địa phương nhằm tạo điều kiện cho các chủ đầu tư nước ngoài khi đầu tư vào địa bàn tỉnh. Đặc biệt, các cơ quan quản lý nhà nước về đầu tư nước ngoài tại Bình Dương đã cải cách, tinh giảm các thủ tục hành chính, rút ngắn thời gian cấp giấy phép nhằm tạo điều kiện cho các chủ đầu tư nước ngoài ( tại Bình Dương, quý một vừa qua đã áp dụng cơ chế cấp giấy phép cho chủ đầu tư nước ngoài chỉ một ngày kể từ khi nhận được hồ sơ hợp lệ).
Với những biện pháp phù hợp, khai thác lợi thế về địa lý, tính đến hết tháng 12 năm 2000 tỉnh Bình Dương đã cấp giấy phép cho 381 dự án đầu tư nước ngoài với tổng số vốn đầu tư đăng ký là 2 tỷ 535 triệu USD. Tính riêng hai tháng đầu năm 2001 đã có 14 dự án được cấp giấy phép đầu tư với tổng số vốn đăng ký là 36,99 triệu USD và một dự án tăng vốn 621000 USD. Trong tổng số 381 dự án đầu tư nước ngoài có 171 dự án đầu tư vào khu công nghiệp với tổng số vốn đầu tư là 957,27 triệu USD. Đầu tư trực tiếp nước ngoài trên địa bàn tỉnh chủ yếu vào ngành công nghiệp với tỷ trọng 97% tổng số dự án và 88% tổng vốn đầu tư, số còn lại là các dự án đầu tư vào kinh doanh phát triển hạ tầng khu công nghiệp, dịch vụ, du lịch và nông nghiệp.
2. Đồng Nai - khai thác triệt để lợi thế và truyền thống để tiến hành xây dựng các khu công nghiệp và các cụm công nghiệp địa phương nhằm thu hút đầu tư trực tiếp đầu tư trực tiếp nước ngoài
Đồng Nai có lợi thế so sánh về địa lý, thuộc vùng ít bị bão lụt thiên tai, cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội và dịch vụ tương đối khá (tiếp giáp Thành phố Hồ Chí Minh, Bà Rịa Vũng Tầu, Bình Dương), điều kiện đất đai thuận lợi cho việc xây dụng các công trình với chi phí thấp. Bên cạnh đó có sự thống nhất cao giữa các cấp, các ngành trong nội bộ tỉnh, thực thi một cách nhất quán các biện pháp thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài, các khó khăn (nếu có) cùng chung sức giải quyết; công khai quy hoạch, công khai quy trình thủ tục, tổ chức quản lý theo cơ chế một cửa, một đầu mối tập trung qua Sở kế hoạch và đầu tư và ban quản lý khu công nghiệp, hạn chế phải qua nhiều tầng nấc trung gian, giải quyết kịp thời các kiến nghị của doanh nghiệp, tạo được lòng tin cho các chủ đầu tư. Nguồn nhân lực tại chỗ tương đối dồi dào kết hợp với việc sử dụng đội ngũ tri thức và lực lượng lao động ngoài tỉnh tương đối thông thoáng nên đã có khả năng đáp ứng phần lớn nhu cầu tuyển dụng của nhà đầu tư.
Đồng Nai là tỉnh có truyền thống phát triển công nghiệp từ thời ngụy quân ngụy quyền, khu công nghiệp Biên Hoà 1 có trước năm 1975. Đến năm 2000, Đồng Nai đã tiến hành quy hoạch 17 khu công nghiệp và các cụm công nghiệp địa phương, trong đó có 10 khu công nghiệp đã được chính phủ phê duyệt và thực hiện quy chế khu công nghiệp với diện tích 2752 ha. Uỷ ban nhân dân tỉnh, các sở, ban ngành trên địa bàn Đồng Nai đã gắn quy hoạch phát triển kinh tế, quy hoạch lãnh thổ với việc phát triển khu công nghiệp và cụm công nghiệp triên địa bàn. Việc gắn quy hoạch khu công nghiệp và cụm công nghiệp địa phương đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc xây dựng các công trình cơ sở hạ tầng cũng như cung cấp dịch vụ tới tận hàng rào các khu công nghiệp.
Đến năm 2000, Đồng Nai đã cấp giấy phép đầu tư cho 277 dự án với số vốn đăng ký đạt 4,6 tỷ USD. Đặc điểm chính của vốn FDI tại Đồng Nai là 96,5% vào lĩnh vực công nghiệp- xây dựng và 79% số dự án vào khu công nghiệp . Chính phủ đã phê duyệt thành lập 10 khu công nghiệp với diện tích cho thuê là 935% ha đạt 48,2% tổng diện tích đất dùng cho thuê. Trong 321 dự án được cấp giấy phép đầu tư vào các khu công nghiệp có 222 dự án có vốn FDI với tổng số vốn đăng ký là 4126 triệu USD.
Tóm lại, từ kinh nghiệm của hai tỉnh Đồng Nai và Bình Dương chúng ta có thể rút ra một số bài học như sau: phát huy triệt để lợi thế so sánh về địa lý của tỉnh thông qua việc phối kết hợp với các tỉnh lân cận; xây dựng các khu công nghiệp tập trung gắn với quy hoạch phát triển kinh tế cũng như quy hoạch lãnh thổ của tỉnh nhằm tạo điều kiện thuận lợi trong thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Chương II Thực trạng đầu tư trực tiếp nước ngoài tại hà nội giai đoạn 1989 đến nay
I. những lợi thế và bất lợi của hà nội trong thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Theo mô hình SWOT, trong hoạt động kinh doanh quốc tế các chủ thể cần tiến hành phân tích môi trường bên ngoài và môi trường bên trong trước khi đưa ra chiến lược kinh doanh. Khi phân tích môi trường bên ngoài chúng ta sẽ chỉ ra cơ hội và thách thức khi tham gia kinh doanh quốc tế trên thị trường đó. Phân tích môi trường bên trong sẽ chỉ ra mặt mạnh , mặt yếu của tổ chức, từ đó đề ra chiến lược và các biện pháp nhằm phát huy mặt mạnh, giảm thiểu mặt yếu, tận dụng những cơ hội trên thị trường, đẩy lùi các thách thức và rủi ro. Hà Nội là thủ đô của cả nước là một thủ đô của cả nước, là một thành phố lớn, tuy nhiên ở thời điểm hiện nay, thành phố có nhiều lợi thế nhưng cũng có không ít bất lợi trong thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài.
1. Những lợi thế của Hà Nội
Xuất phát từ đặc điểm và vị thế hiện nay của Hà Nội, chúng ta có thể thấy Hà Nội có những lợi thế sau:
Về địa lý, Hà Nội nằm trong tam giác phát triển Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh với những thuận lợi về giao thông và phát triển kinh tế. Hà Nội là đầu mối giao thông kinh tế quan trọng thuận tiện cho việc vận chuyển nguyên vật liệu, hàng hoá tiêu thụ trên thị trường nội địa và xuất nhập khẩu. Hà Nội là khởi điểm cho các đường giao thông huyết mạch của cả nước: quốc lộ 1 nối liền Bắc - Nam, đia qua các tỉnh miền Trung, Tây Nguyên; quốc lộ 3 nối liền với Thái Nguyên và các tỉnh phía Tây bắc. Hàng hoá xuất nhập khẩu được vận chuyển dễ dàng qua sân bay Nội Bài hoặc vận chuyển ra cảng Hải Phòng qua quốc lộ 5. Ngoài ra, một thuận lợi không nhỏ của Hà Nội, đó là: thành phố nằm ở trung tâm đồng bằng Bắc Bộ với diện tích rộng lớn, dân số đông tạo một thị trường tiêu thụ quy mô lớn thuận tiện cho công tác vận chuyển và cung ứng.
Về kinh tế xã hội, Hà Nội là chung tâm chính trị văn hoá, khoa học kỹ thuật, trung tâm lớn về kinh tế, giao dịch quốc tế của cả nước. Trong những năm gần đây thành phố là một trong những trung tâm kinh tế năng động nhất của cả nước: tốc độ tăng trưởng GDP khá cao ( trung bình giai đoạn 1996-2000 là 10,6%/năm- cao hơn mức trung bình của cả nước), giá trị sản xuất công nghiệp tăng bình quân 15,16%/ năm, thương mại- du lịch và các loại hình dịch vụ khác đạt tốc độ tăng trưởng 13,36%/ năm, kim ngạch xuất khẩu trên địa bàn tăng trưởng 14,91%/ năm; thu nhập bình quân đầu người liên tục tăng với tốc độ trung bình 15%/ năm. Các chỉ tiêu kinh tế ổn định và tăng trưởng khá (đặc biệt là tăng trưởng thu nhập bình quân đầu người) trong những năm qua trên địa bàn thành phố đã tạo ra một nền kinh tế năng động, tạo sức mua hàng hoá lớn thúc đẩy hoạt động sản xuất và đầu tư. Ngoài ra, Hà Nội tập chung nhiều cơ quan của Trung ương, các tổng công ty lớn và các trường đại học lớn của cả nước (đại học quốc gia Hà Nội, đại học Bách khoa Hà Nội...) tạo lên một trung tâm về văn hoá. Hà Nội là thành phố có truyền thống văn hoá lâu đời, có lịch sử 990 năm, có nhiều di tích lịch sử văn hoá lâu đời tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển kinh doanh dịch vụ du lịch.
Về cơ sở hạ tầng, Hà Nội là một thành phố có cơ sở hạ tầng tương đối hoàn thiện. Hệ thống mạng lưới giao thông được nâng cấp và tu sửa liên tục, đặc biệt thành phố được sự ưu đãi rất lớn của chính phủ nhằm phát triển thủ đô thành trung tâm kinh tế - xã hội hàng đầu. Trong những năm gần đây, Hà Nội được nhà nước đầu tư một số lượng lớn vốn đầu tư để phát triển cơ sở hạ tầng đô thị cũng như phát triển kinh tế: năm 1997 vốn đầu tư của nhà nước cho thành phố là 1827,2 tỷ đồng, năm 1998 là 1875 tỷ đồng, năm 1999 là 2020 tỷ đồng vốn đầu tư này chủ yếu được sử dụng nâng cấp cơ sở hạ tầng đô thị, xây dựng các tuyến đường nối Hà Nội với các trung tâm kinh tế khác bên cạnh đó nhà nước còn đầu tư xây dựng các công trình vui chơi giải trí trên địa bàn và ưu đãi về hành chính cho thành phố trong quản lý đầu tư trực tiếp nước ngoài (cho phép thành phố tự xây dựng danh mục thu hút FDI). Việc đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng và ưu đãi của chính phủ đối với thành phố đã tạo điều kiện thuận lợi cho Hà Nội mở rộng thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Về đội ngũ lao động, Hà Nội có đội ngũ lao động lành nghề, có bằng cấp và trình độ. Thành phố tập chung nhiều trường đại học lớn, có uy tín, hàng năm sinh viên tốt nghiệp các trường đại học đều muốn ở lại thành phố làm việc. Ngoài ra, thành phố còn tập trung nhiêu tổng công ty lớn, nhiều ngành công nghệ mũi nhọn của đất nước (công nghệ thông tin, công nghệ tin học, công nghệ phần mềm...). Vì vậy, ở Hà Nội tập trung nhiều lao động lành nghề, kỹ thuật cao, tạo lên sức mạnh “chất xám” của thành phố. Lực lượng lao động như vậy sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài tuyển dụng nhằm đẩy nhanh tiến độ triển khai các dự án trên địa bàn.
Ngoài những lợi thế trên Hà Nội còn có lợi thế về cung cấp các dịch vụ kỹ thuật phụ trợ cho sản xuất kinh doanh như: dịch vụ điện nước, điện thoại, dịch vụ vận chuyển, giao nhận... các loại hình dịch vụ này đang được thành phố đầu tư cải tạo nhằm xây dựng hệ thống cung cấp dịch vụ kỹ thuật ngày càng thuận tiện và hiện đại.
2. Những bất lợi của Hà Nội
Theo quan điểm triết học duy vật biện chứng thì: trong một thể thống nhất luôn tồn tại hai mặt đối lập. Vì vậy ngoài những lợi thế trên Hà Nội cũng có không ít bất lợi khi thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, đó là:
Hệ thống đường xá còn nhiều hạn chế, thiếu hệ thống đường vành đai. Một thực tế hiện nay ở Hà Nội, đường xá được đầu tư nâng cấp tu sửa thường xuyên nhưng rất hẹp và nhanh xuống cấp. Đường xá hẹp gây nhiều phiền hà: thường xuyên tắc đường, các phương tiện giao thông cỡ lớn ít được tham gia giao thông trong nội thành, vì vậy, sẽ gây khó khăn cho các donh nghiệp (với cùng một lượng hàng phải vận chuyển nhiều sẽ làm tăng chi phí vận chuyển, giá thành sản phẩm). Thực trạng đường xá giao thông cũng cho thấy sự phối kết hợp giữa các cơ quan ban ngành của Thành phố không tốt: một con đường vừa hoàn thành lại đào lên để lắp đặt các hệ thống cung cấp điện, nước, điện thoại, thoát nươc..., không những mất mỹ quan của con đường mà còn gây khó khăn cho các phương tiện tham gia giao thông. Thành phố thiếu hệ thống đường vành đai, vì vậy để vận chuyển hàng hoá từ các khu công nghiệp, từ các doanh nghiệp đi tiêu thụ hoặc ra cảng biển Hải Phòng, cảng hàng không Nội Bài đều phải đi qua thành phố (nội thành) trong khi đó, các phương tiện cỡ lớn (xe chở contener) chỉ được tham gia giao thông trong khoảng thời gian nhất định, do đó, gây khó khăn trong việc tập kết hàng hoá và vận chuyển tới nơi tiêu thụ.
Quy chế riêng về thủ đô mới được ban hành chưa có pháp lệnh, luật về thủ đô. Đây cũng là một bất lợi cho Hà Nội trong thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, bởi vì: một dự án đầu tư vào thành phố sẽ có nhiều cấp can thiệp, tạo lên sự ràng buộc cứng nhắc trong khuôn khổ, tạo khó khăn không nhỏ cho các chủ đầu tư khi tiến hành xây dựng dự án và xin giấy phép đầu tư.
Quy hoạch chi tiết của thành phố chưa được thông qua gây khó khăn cho các chủ đầu tư trong việc lựa chọn địa điểm đặt dự án và quy mô xây dựng. Bên cạnh đó, hệ thống cơ sở hạ tầng tuy được đầu tư xây dựng nhưng chưa hoàn hảo, có nhiều dự án các chủ đầu tư phải tự đầu tư để xây dựng cơ sở hạ tầng đến nơi đặt dự án, làm tăng chi phí triển khai dự án, giảm lợi nhuận của cả đời dự án. Việc cung cấp các dịch vụ phụ trợ thời gian qua cũng còn nhiều tồn tại, đơn cử: năm 1999 công ty liên doanh Orion - Hanel bị “cúp” điện tổng cộng 70 lần, năm 2000 số lần bị mất điện đột ngột, không được báo trước có giảm đi còn 50 lần song cũng gây thiệt hại không nhỏ cho công ty.
Chi phí lao động cao, theo quy định của chính phủ Việt Nam về mức lương tối thiểu tại doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thì: tại Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh áp dụng mức 45 USD/ tháng, trong khi đó mức lương tối thiểu ở các tỉnh khác là 40 USD/ tháng. Mặt khác, do mức sống của người dân Hà Nội hiện nay, mức lương mà các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài phải trả cho người lao động luôn lớn hơn mức lương tối thiểu. Vì vậy, chi phí nhân công cao sẽ dẫn đến giá thành sản phẩm cao làm giảm sức cạnh tranh của hàng hoá. Về chi phí lao động, Hà Nội không có lợi thế khi so sánh với các địa phương khác.
Ngoài ra, vị thế cũng là một bất lợi cho Hà Nội trong thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Hà Nội nằm sâu trong nội địa, vì vậy, khi xuất khẩu hàng hoá các doanh nghiệp phải chịu chi phí vận chuyển đến cảng Hải Phòng, các dự án thường lựa chọn ở các tỉnh giáp Hà Nội mà không đầu tư vào trung tâm. Với vị thế của Hà Nội chỉ thuận tiện cho phát triển dịch vụ.
Tóm lại, Hà Nội có nhiều lợi thế nhưng cũng không ít bất lợi khi thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài. Để mởi rộng thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào địa bàn trong thời gian tới, Uỷ ban Nhân dân thành phố, các sở, ban, ngành cần phân tích kỹ lưỡng những lợi thế và bất lợi của Hà Nội, từ đó đề ra những giải pháp cụ thể nhằm triệt để khai thác lợi thế, giảm thiểu bất lợi.
II. tình hình đầu tư trực tiếp nước ngoài tại hà nội giai đoạn 1989- 2000
1.Tình hình FDI tại hà nội giai đoạn 1989- 2000
1.1. Số lượng và quy mô dự án
Hà Nội với vai trò là thủ đô, trung tâm đầu não chính trị, trung tâm văn hoá, khoa học kỹ thuật, trung tâm lớn về kinh tế và giao dịch quốc tế của cả nước, trong hơn 10 năm qua, kể từ khi ban hành luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, Hà Nội luôn là một trong những thành phố đứng đầu cả nước về thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Định hướng thu hút và sử dụng vốn đầu tư nước ngoài của đảng luôn được thành phố vận dụng hợp lý trong từng thời kỳ. Đến nay, Hà Nội đã mở rộng quan hệ hợp tác đầu tư với 36 quốc gia và hàng trăm công ty tập đoàn lớn trên thế giới.
Bảng 1: Tình hình đầu tư nước ngoài vào Hà Nội trong giai đoạn 1989- 2000.
(đơn vị: 1000 USD)
STT
Năm
Số dự án
Vốn đầi tư đăng ký
Vốn thực hiện
% vốn thực hiện/ vốn đằng ký
1
1989
4
48170
700
1,45
2
1990
8
295.088
12.582
4,26
3
1991
13
126.342
28.444
22,51
4
1992
26
301.000
54.962
18,26
5
1993
43
8._.uồn vốn này chiếm tỷ trọng đáng kể trong GDP của cả nước nói chung và Hà Nội nói riêng. Hiện nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài chiếm 54% tổng số vốn đầu tư của Thành phố. Các dự án đầu tư nước ngoài đi vào hoạt động trở thành một bộ phận không thể tách rời trong chỉnh thể nền kinh tế nước ta và đem lại những hiệu quả kinh tế- xã hội, tạo việc làm cho người lao động, làm ra sản phẩm tiêu dùng trong nước và xuất khẩu,...
Trong thời gian gần đây, số dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài vào vốn đăng ký vào Hà Nội và cả nước có giảm sút. Nhưng đó không thể coi là căn cứ xác đáng để đánh giá bi quan tình hình đầu tư trực tiếp nước ngoài vào nước ta. Quan trọng hơn cả là chúng ta phải chuẩn bị đủ thế và lực, phải có sự tỉnh táo để lựa chọn đối tác, đem lại hiệu quả cao nhất cho sự phát triển kinh tế đất nước. Trước tình hình như vậy và triển vọng trong tương lai, nghị quyết Đại hội Đảng bộ Thành phố lần thứ 13 đã xác định mục tiêu cơ bản của Thành phố Hà Nội đến năm 2005 và các năm tiếp theo với các chỉ tiêu chủ yếu sau:
Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân hàng năm là 10-11%.
GDP bình quân đầu người tăng 11%/năm.
Tốc độ tăng giá trị sản xuất công nghiệp là 14,5-15,5%.
Tốc độ tăng giá trị cung cấp dịch vụ là 9-10%/năm.
Tốc độ tăng giá trị sản xuất nông nghiệp là 3,5-4%/năm.
Tốc độ kim ngạch xuất khẩu hàng năm là 16-18%.
Định hướng đến năm 2010, tổng sản phẩm xã hội (GDP) của Hà Nội tăng 2.7 lần, thu nhập bình quân của nhân dân tăng 2 lần so với năm 2000. Tốc độ tăng trưởng GDP hàng năm khoảng 10 - 11%, tốc độ tăng giá trị sản xuất công nghiệp bình quân đạt 14 - 15%/năm, dịch vụ đạt 10-10,5%/năm, nông nghiệp đạt 2,5 - 3%/năm, xuất khẩu đạt 16 - 18%/năm.
Nghị quyết của Đảng bộ Thành phố cũng đã nhấn mạnh nhiệm vụ hàng đầu là phát triển kinh tế theo hướng công nghiệp hóa - hiện đại hoá. Những nội dung cơ bản của nhiệm vụ này là căn cứ quan trọng, định hướng cho mục tiêu, nhiệm vụ phát triển các hoạt động kinh tế đối ngoại của Thành phố nói chung và đầu tư trực tiếp nước ngoài nói riêng. Để thực hiện những mục tiêu kinh tế xã hội đã đề ra đầu thế kỷ XXI, Thành phố hà nội định hướng thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào hà nội đến năm 2010 sẽ là 13,4 tỷ USD với việc phân chia giai đoạn như sau:
* Giai đoạn 5 năm (2001 - 2005) thu hút vốn đầutư trực tiếp nước ngoài tăng trưởng hơn so với giai đoạn 1996 - 2000, cụ thể:
vốn đầu tư đăng ký đạt 4800 triệu USD (tăng trưởng 4,5% so với giai đoạn 1996 - 2000), nhịp độ tăng trung bình qua các năm từ 12 -18%.
Vốn đầu tư thực hiện đạt 2350 triệu USD (tăng trưởng 9% so với giai đoạn 1996 - 2000), nhịp độ tăng trung bình qua các năm từ 16 -25%.
* Giai đoạn 5 năm (2006-2010) thu hút vốn đầu tư tăng trưởng hơn nhiều so với giai đoạn 2001 - 2005, cụ thể:
Vốn đầu tư đăng ký đạt 8600 triệu USD (tăng trưởng 56% so với giai đoạn 2001 - 2005), nhịp độ tăng trung bình qua các năm từ 15 -22%.
Vốn đầu tư thực hiện đạt 3280 triệu USD (tăng trưởng 43% so với giai đoạn 2001 - 2005), nhịp độ tăng trung bình qua các năm từ 12 -18%.
Cơ cấu đầu tư chuyển dịch theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá đô thị. Việc thu hút và sử dụng các nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài được tấp chung vào lĩnh vực: công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu, thay thế nhập khẩu; du lịch, dịch vụ nhằm tăng thu ngoại tệ. ưu tiên cho những dự án sản xuất có công nghệ và kỹ thuật tiên tiến, thu hút nhiều lao động, những dự án lớn đầu tư tập trung như các trung tâm thương mại, các khu vui chơi giải trí cũng như các dự án kinh doanh dịch vụ có hiệu quả cao; những dự án giao thông công cộng; xây mới, cải tạo nâng cấp cơ sở hạ tầng đô thị như: đường xá, cầu vượt, bến cảng hoặc những dự án góp phần nâng cao đời sống văn hoá, tinh thần của nhân dân thủ đô.
Thành phố hà nội tập chung khuyến khích phát triển các dự án lớn, có tầm cỡ chiến lược. Hiện tại thành phố khuyến khích đầu tư vào các khu công nghiệp tập chung như:
Khu công nghiệp nội bài có diện tích 100 ha.
Khu công nghiệp sài đồng A có diện tích 420 ha.
Khu công nghiệp sài đồng B có diện tích 96 ha.
Khu công nghiệp đài tư có diện tích 40 ha.
Khu công nghiệp thăng long có diện tích 128 ha.
Và ba khu đô thị mới là:
- Khu đô thị bắc thăng long có diện tích 273 ha.
Khu đô thị nam thăng long có diện tích 392 ha.
Khu đô thị sông hồng có diện tích 6 ha.
Và nhiều khu vui chơi giải trí sẽ được hình thành như: công viên lênin, công viên mễ trì, các trung tâm thi đấu thể thao như đua ô tô, mô tô, đua ngựa,...
Bảng 14: Cơ cấu phân bổ vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Hà nội đến năm 2010
Ngành
Tỷ trọng đến năm 2010 (%)
Công nghiệp
41
Phát triển đô thị
9
Giao thông - bưu điện
18
Bất động sản
15
Nông lâm nghiệp
4
Tài chính - ngân hàng
6
Các ngành khác
7
( Nguồn: uỷ ban nhân dân thàn phố hà nội).
Trong những năm tới, hà nội khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài vào một số dự án trọng điểm như:
Tuyến đường cầu vượt đô thị xuyên tâm (BOT):500 triệu USD.
M-POWER (BOT) :150 triệu USD.
Trường đua xe máy sóc sơn :100 triệu USD .
Tổ hợp vui chơi du lịch sóc sơn :65 triệu USD .
Trung tâm giao dịch chứng khoán thương mại : 35 triệu USD .
Tổ hợp sản xuất đĩa CD ,CD-ROM và VCD :60 triệu USD.
Xử lý rác thải công nghiệp :50 triệu USD .
Học viện đại học quốc tế :25 triệu USD .
Mạng lưới xe buýt công cộng :150 triệu USD .
đường vành đai (BOT) :200 triệu USD .
3. Phương hướng thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
Bên cạnh những tiến bộ đạt được, công tác đầu tư thực tế còn chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển ngày càng cao của thủ đô, mũi nhọn trong các lĩnh vực đầu tư nước ngoài chưa được phát triển rõ nét. Các hoạt động như: xuất nhập khẩu, hợp tác đầu tư, du lịch, tiếp nhận viện trợ,...vẫn còn tình trạng manh múm, chưa thực sự là động lực quan trọng trong việc phát triển kinh tế xã hội của thủ đô. Do đó, trong công tác chỉ đạo, điều hành hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài hiện nay, Đảng bộ thành phố hướng vào những vấn đề trọng tâm sau:
3.1. Thành phố phải hoàn thiện chiến lược phát triển kinh tế xã hội, quy hoạch sử dụng đất để có căn cứ chủ động trong xây dựng kế hoạch và các dự án thu hút vốn đầu tư và tại trợ nước ngoài, đẩy mạnh xuất nhập khẩu hàng hoá hàng năm
Trước đây, chiến lược phát triển kinh tế - xã hội trong các niên độ để làm cơ sở cho việc chủ động xây dựng các dự án kêu gọi đầu tư tài trợ nước ngoài chưa được hoạch định rõ ràng, nên phần lớn các dự án được triển khai do các nhà đầu tư đề xuất, còn quy hoạch mặt bằng toàn thành phố và chi tiết các khu vực thì lại triển khai sau khi có đề xuất đó. Bởi vậy, những cơ quan tham mưu của thành phố thường phải chạy theo để thực hiện dự định của các nhà đầu tư. Tình trạng đó hiện nay tuy đã từng bước được chấn chỉnh nhưng thành phố vẫn cần thiết phải tiếp tục hoàn thiện chiến lược phát triển trung về kinh tế - xã hội trong các giai đoạn 5 năm đến năm 2010 và quy hoạch sử dụng đất thì mới có thể thực sự trong việc chuẩn bị mặt bằng, cung ứng các dịch vụ hạ tầng kỹ thuật, chuẩn bị cán bộ, huy động vốn đối ứng và sử lý các vấn đề kinh tế - xã hội có liên quan đến tổ chức triển khai dự án có vốn đầu tư nước ngoài.
3.2. Công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động xuất nhập khẩu, đầu tư và tiếp nhận tài trợ từ nước ngoài trên địa bàn thành phố phải có một cơ chế điều hành đảm bảo tính tập trung, thống nhất
Tình trạnh hoạt động xuất khẩu, đầu tư và tiếp nhận tài trợ nước ngoài trên địa bàn thành phố phân tán, không tập trung theo một định hướng và mục tiêu thống nhất đang là vấn đề phức tạp, liên quan đến trách nhiệm chỉ đạo nhiều ngành, nhiều cấp từng trung ương đến địa phương. Do đó, cần phải có một cơ chế điều hành rõ ràng đảm bảo cho sự thống nhất hành động trong chỉ đạo điều hành giữa các cơ quan ở trung ương và Thành phố, giữa các cơ quan quản lý nhà nước ở các lĩnh vực.
Các đơn vị kinh tế đóng trên địa bàn phải quán triệt những chương trình mục tiêu, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội hàng năm của Thành phố, đồng thời cần có những biện pháp để vừa hỗ trợ cho các đơn vị thực hiện các nhiệm vụ kinh doanh xuất nhập khẩu, triển khai các dự án đầu tư trực tiếp nhận viện trợ từ nước ngoài, mặt khác, tạo điều kiện cho công tác quản lý của Thành phố chặt chẽ và xây dựng được kế hoạch đầu tư phát triển vững chắc, sát với yêu cầu của công nghiệp hoá - hiện đại hoá ở thủ đô trong những năm tới.
3.3. cải cách các thủ tục hành chính, hình thành cơ chế, chính sách đồng bộ nhằm phát huy tiềm năng hỗ trợ và khuyết khích các thành phần kinh tế tham gia vào các lĩnh vực kinh tế đối ngoại
Mặc dù Thành phố đã có những đổi mới bước đầu theo tinh thần nghị quyết 38/CP nhưng các thủ tục hành chính để triển khai một dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài vẫn còn rườm rà, qua nhiều khâu, làm phí tổn nhiều thời gian công sức của nhà đầu tư và giảm sức hấp dẫn của môi trường đầu tư. Khi nhược điểm này được phát hiện thì sự khắc phục chậm và kém hiệu quả. Bên cạnh đó, các chính sách phát huy năng lực của đội ngũ chuyên gia giàu kinh nghiệm ở các cấp, các ngành trên địa bàn chưa được cụ thể hoá. Nhưng vấn đề này nếu không được quan tâm giải quyết tốt cũng gây trở ngại không ít đến môi trường đầu tư, làm tăng thêm những rủi ro, hạn chế trong quá trình hợp tác đầu tư, kinh doanh đối với các đối tác nước ngoài.
3.4. xây dựng các biện pháp, chính sách cụ thể để từng bước đào tạo, đào tạo lại đội ngũ công chức, viên chức làm công tác kinh tế đối ngoại; nâng cao năng lực xây dựng tổ chức và thực hiện dự án hợp tác đầu tư kinh doanh với nước ngoài ở các cấp, các ngành có liên quan của thành phố
II. một số giải pháp và kiến nghị nhăm tăng cường thu hút vốn FDI vào hà nội đến năm 2010.
Để đạt được mục tiêu thu hút 13,4 tỷ USD trong giai đoạn 2001 - 2010 và ngăn trặn được xu thế giảm vốn FDI vào Hà Nội trong thời gian tới, uỷ ban nhân dân thành phố, các cơ quan, ban ngành, các doanh nghiệp trên địa bàn hà nội cần thực hiện các giải pháp sau:
1.giải pháp từ phía Thành phố và các cơ quan pháp lý
Thứ nhất, thực hiện tốt luật đầu tư nước ngoài mới sửa đổi, tiếp tục cải cách thủ tục hành chính, giảm bớt phiền hà cho nhà đầu tư, luật đầu tư nước ngoài sửa và đổi bổ sung đã được áp dụng từ tháng 7 năm 2000 có một số quy định mới, vì vậy, thành phố cần tuyên truyền rộng rãi đến các cơ quan, ban ngành, đoàn thể trên địa bàn nhằm rút họ tìm hiểu sâu và áp dụng đúng trong các hoạt động liên quan đến đầu tư nước ngoài. Một thực trạng hiện nay ở hà nội nói riêng và các nước nói chung, các cán bộ có thẩm quyền chưa am hiểu sâu về luật pháp đã dẫn tới sự sử lý, chỉ đạo sai lệch, có khi ngược với những quy định trong luật. Vì vậy, việc mở các cuộc thi tìm hiểu và tập huấn luật đầu tư nước ngoài tại thành phố sẽ góp phần không nhỏ trong việc xúc tiến mở rộng thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại hà nội.
Về thủ tục hành chính, thành phố cần tinh giảm các thủ tục hành chính, các thủ tục cấp giấy phép hiện quy về một mối, giảm bớt các thủ tục không cần thiết. Thành phố nên áp dụng thủ tục “một cửa, một dấu” trong việc cấp giấy phép đầu tư nhằm đem lại thuận lợi cho các chủ đầu tư. Tại các khu công nghiệp tập chung, nên áp dụng theo cơ chế “một cửa, tại chỗ” để hỗ trợ nhà đầu tư giảm thiểu thời gian, công sức và chi phí đi lại liên hệ công tác với cơ quan, ban ngành ở địa phương cũng như ở trung ương; nhà đầu tư chỉ cần liên hệ với một cơ quan là ban quản lý khu công nghiệp còn các việc xin ý kiến các sở, ngành ở tỉnh, các bộ ở Trung ương là do ban quản lý chủ động liên hệ, thực hiện (cơ chế này đã được áp dụng và tỏ ra có hiệu quả tại bình dương và đồng nai). Cải cách hành chính trong công tác hướng dẫn, xét duyệt, thẩm định cấp giấy phép đầu tư, tạo điều kiện thuận lợi để các nhà đầu tư nhận được giấy phép đầu tư trong thời gian hợp lý (quy định trong luật đầu tư nước ngoài). Tuy nhiên, việc tinh giảm thủ tục hành chính trong cấp giấy phép đầu tư không có nghĩa là giảm tới mức ngắn nhất khi cấp giấy phép (tại bình dương, quý I vừa qua đã áp dụng cơ chế cấp giấy phép cho các nhà đầu tư chỉ có một ngày kể từ khi nhận được hồ sơ hợp lệ), bởi vì: với một thời gian quá ngắn sẽ làm cho công tác thẩm định phải tiến hành nhiều công việc, không đánh giá được hết những tác động của dự án đối với kinh tế - xã hội của địa phương cũng như hiệu quả của dự án. bên cạnh đó, khi nhận được giấy phép trong thời gian quá ngắn các chủ đầu tư sẽ có tâm lý chủ quan và đánh giá không tốt về hoạt động thẩm định. Vì vậy, thời gian ngắn nhất chưa hẳn đã là giải pháp tối ưu mà vấn đề mấy chốt ở đây là phải đề cao tính hiệu quả của hội đồng thẩm định cấp giấy phép đầu tư. Ngoài ra, thành phố cũng cần cải thiện các thủ tục về thuế đất, giải phóng mặt bằng và bồi thường... để tạo điều kiện thuận lợi cho các dự án FDI đây nhanh tiến độ triển khai dự án. thành phố cần soát xét lại giá cho thuê đất, giải quyết dứt điểm vấn đề đền bù, giải phóng mặt bằng đang gây ách tắc đối với việc triển khai dự án, xem xét việc chấm dứt cơ chế góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất; chuyển sang chế độ cho thuê đất, cho phép doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được vay tín dụng tại các tổ chức tín dụng hoạt động tại việt nam; xây dựng quy chế hoạt động tài chính của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Thứ hai, khai thác hơn nữa lợi thế của Hà Nội để tạo nhiều cơ hội thuận lợn kêo gọi đầu tư trực tiếp nước ngoài. Trong thời gian tới, thành phố cần xem xét một cách kỹ lưỡng, phân tích những lợi thế và bất lợi của mình để từ đó tìm ra những biện pháp hữu hiệu phát huy lợi thế, giảm thiểu bất lợi trong thu hút FDI. Thành phố cần có kế hoạch, xây dựng các dự án kết hợp với các địa phương phụ cận nhằm phát huy lợi thế trung tâm của mình và giúp các địa phương khác có kế hoạch hợp lý tạo thị trường cung cấp các yếu tố đầu vào cũng như tiêu thụ sản phẩm của các dự án FDI tại Hà Nội; nguồn nhân lực của địa phương có trình độ cao, vì vậy, Hà Nội cần xây dựng danh mục các dự án kêu gọi đầu tư đòi hỏi kỹ thuật công nghệ cao nhằm triệt để khai thác tiềm lực “chất xám” của mình; Uỷ ban nhân dân Thành phố cần có chính sách khuyến khích và có kế hoạch phối hợp với các trường đại học, các viện nghiên cứu tham gia vào hoạt động xúc tiến đầu tư, xây dựng quy hoạch chi tiết Thành phố, lập các dự án kêu gọi vốn FDI và đào tạo nguồn nhân lực cho các dự án FDI tại Hà Nội. Thành phố nên xây dựng trang Web và sử dụng mạng Internet trong công tác truy cập, giới thiệu, tuyên truyền, vận động đầu tư đến tất cả các quốc gia trên toàn cầu.
Thứ ba, cần xúc tiến công tác quy hoạch thành phố về giao thông, cấp nước, môi trường, cây xanh và các khu phố cổ, khu phụ cận, khu côngnghiệp khu đô thị mới, khu trung tâm văn hoá thể thao, khu vui chơi giải trí,... đặt trong quy hoạch tổng thể, đồng bộ và toàn diện. Công tác quy hoạch Thành phố phải có định hướng, chiến lược lâu dài, phù hợp, rõ ràng nhằm định hướng hoạt động đầu tư nước ngoài. Bên cạnh đó, Thành phố cần quy hoạch và có định hướng cụ thể ngành, lĩnh vực đầu tư nhằm hướng các luồng vốn vào một cơ cầu kinh tế phù hợp với chiến lược của Thành phố. Việc quy hoạch và định hướng chi tiết, cụ thể sẽ giúp cho thành phố có những chính sách và chiến lược phù hợp khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài vào lĩnh vực trọng tâm.
Thứ tư, thành phố cần có kế hoạch cân đối nguồn vốn ngân sách để xây dựng hoàn thiện các công trình hạ tầng kỹ thuật đến tận nơi dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài. Cơ sở hạ tầng kỹ thuật là một phần của quá trình triển khai của một dự án đầu tư quốc tế. Những năm trước đây, hầu như các dự án đầu tư nước ngoài trên địa bàn muốn đi vào triển khai và hoạt động đều phải tự tiến hành xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật, vì vậy, chi phí triển khai lớn sẽ làm cho lợi nhuận của dự án giảm đi các chủ đầu tư hạn chế đầu tư. Thành phố cần tập chung chỉ đạo thực hiện các dự án đầu tư phát triển hệ thống hạ tầng đô thị, các khu công nghiệp các hệ thống giao thông nối mạng liên hoàn giữa các khu công nghiệp và các khu đô thị, xây dựng khu vui chơi giải trí hấp dẫn khách du lịch để cải thiện môi trường đầu tư, nâng khả năng sản xuất. Bên cạnh đó, Thành phố cần thực hiện tốt công tác cải tạo, nâng cấp và xây dựng hoàn thiện hạ tầng cơ sở bên ngoài hàng rào đối với khu vực thu hút dự án đầu tư nước ngoài bằng nguồn ngân sách nhà nước. phố hợp với bộ Tài chính, Bộ Công nghiệp có kế hoạch hoàn trả lại số tiền chi phí ứng trước để xây dựng hạ tầng cơ sở của nhà đầu tư.
Thứ năm, thành phố cần có chính sách ưu đãi hơn đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và các bên hợp doanh về các loại hình dịch vụ, thuế, phí, lệ phí,... tạo môi tường cạnh tranh và hoạt động sản xuất kinh doanh bình đẳng với các doanh nghiệp trong nước. sự phân biệt đối xử của thành phố giữa các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài với các doanh nghiệp trong nước thông qua việc cung cấp dịch vụ, phí, lệ phí,... sẽ tạo khó khăn cho doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài do chi phí đầu vào tăng sẽ dẫn đến nâng giá thành sản phẩm, giảm lợi nhuận, giảm tính cạnh tranh của hàng hoá. Một môi trường chính sách không phù hợp sẽ tác động rất lớn đến hoạt động kinh doanh quốc tế nói chung và đầu tư nước ngoài nói riêng. Vì vậy, khi không có sự phân biệt đối xử giữa hai loại hình doanh nghiệp sẽ tạo một “sân chơi” bình đẳng, tạo sự cạnh tranh lành mạnh thúc đẩy hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài. Trong thời gian tới, thành phố cần tiếp tục lộ trình điều chỉnh giá, phí các hàng hóa, dịch vụ để cơ bản áp dụng một mặt bằng thống nhất cho các doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Thứ sáu, đối với các dự án tồn đọng lâu, khả năng thực hiện kém, Thành phố có thể áp dụng các biện phát như chuyển nhượng cho các nhà đầu tư nước ngoài khác hoặc cho các công ty cổ phần của việt nam có khả năng tài chính để đền bù và xây dựng dự án đó với tiến độ nhanh hơn. với các dự án đang thực hiện dở dang, thành phố cần phân tích một cách kỹ lưỡng khả năng tài chính của chủ đầu tư để xác định khả năng thực hiện của dự án như thế nào nhằm đưa ra giải pháp thích hợp nhằm hoàn thiện các dự án còn dở dang đó. Ngoài ra, thành phố có thể cho phép các dự án được chuyển mục tiêu hoạt động phù hợp với điểu kiện kinh doanh đã thay đổi.
Thứ bảy, thành phố cần có kế hoạch đào tạo và nâng cao kỹ năng nghề nghiệp của cán bộ tham gia hội đồng tư vấn nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động thẩm định, đảm bảo cho dự án đi vào hoạt động có hiệu quả. Theo quyết định số 14/1999/ QĐ-UB của ủy ban nhân dân thành phố về ban hành “quy định thống nhất một đầu mối về tổ chức thực hiện việc hình thành hồ sơ, thẩm định dự án, xét duyệt cấp giây phép đầu tư và quản lý nhà nước các dự án đầu tư nước ngoài trên điạ bàn hà nội” thì hội đồng tư vấn của Thành phố bao gồm: chủ tịch uỷ ban nhân dân thành phố, phó chủ tịch thường trực uỷ ban nhân dân thành phố, phó chủ tịch hội đồng nhân dân thành phố, giám đốc sở kế hoạch và đầu tư, giám đốc sở ( ban, ngành) chủ quản của chủ đầu tư việt nam và thủ trưởng các cơ quan liên quan - một hội đồng có kinh nghiệm và có trình độ cao. tuy nhiên, do chưa thấy được tầm quan trọng của hoạt động thẩm định cho nên thời gian qua một số dự án đã được cấp giấy phép rút giấy phép quá thời hạn quá nhiều do chủ đầu tư không có khả năng tài chính, dự án hoạt động không có hiệu quả. Vì vậy, thành phố cần mở các lớp tập huấn cho các cơ quan có liên quan đến đầu tư trực tiếp nước ngoài nhằm làm cho họ thấy được trách nhiệm quan trọng của mình khi tham gia hội đồng tư vấn, nâng cao hiệu quả hoạt động thẩm định, tạo hiệu quả cao cho các dự án.
Bên cạnh những giải pháp trên, thành phố cần phố hợp với các tổ chức quốc tế, công ty tư vấn, công ty luật nước ngoài tổ chức các diễn đàn quốc tế nhằm tư vấn, xúc tiến, vận động các nhà đầu tư, các doanh nghiệp nước ngoài đầu tư vào Hà Nội, đặc biệt là các dự án: BOT, BTO, BT và các dự án FDI có quy mô lớn.
2. giải pháp từ phía các doanh nghiệp
đứng trên góc độ vi mô, các doanh nghiệp trên địa bàn hà nội đóng góp một phần không nhỏ đẩy mạnh thu hút FDI. Vì vậy, trong thời gian tới các doanh nghiệp trên địa bàn cần:
Một là, thay đổi cung cách quản lý phù hợp với điều kiện của kinh tế thị trường, phù hợp với cung cách quản lý hiện đại để khi liên doanh không bị bỡ ngỡ. đất nước ta mới chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập chung sang nền kinh tế thị trường, cho nên cung cách quản lý lạc hậu vẫn ăn sâu trong tiềm thức của mọi người tạo sự “không ăn nhập” trong phương thức quản lý các doanh nghiệp lên doanh. Vì vậy, việc thay đổi cung cách quản lý của các doanh nghiệp sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp tiến hành liên doanh có hiệu quả, thu hút vốn liên doanh với nước ngoài. đặc biệt, các doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực tài chính- ngân hàng cần thực hiện các biện pháp: đơn giản hóa các khâu trung gian, tạo sự thông thông thoáng trong hoạt động quản lý vốn... nhằm tạo uy tín, cải thiện hình ảnh của mình trước các nhà đầu tư, thúc đẩy hoạt động liên doanh trong lĩnh vực này để tiếp thu kinh nghiệm quản lý và điều hành.
hai là, đổi mới công tác bố trí cán bộ việt nam tham gia vào các cương vị lãnh đạo trong công ty liên doanh phải qua tuyển chọn, đủ năng lực quản lý, có sức khoẻ, ngoại ngữ tốt, trình độ học vấn, bằng cấp tương đương với các nhà đầu tư nước ngoài. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp cần đào tạo và đào tạo lại độ ngũ lao động hiện có của doanh nghiệp nhằm mục tiêu: khi liên doanh các lao động này có thể tiếp thu, nắm bắt nhanh với khoa học công nghệ mới; tạo điều kiện cho liên doanh tuyển dụng, đẩy nhanh tốc độ triển khai dự án trên địa bàn.
ba là, năng động và tự chủ trong tìm kiếm đối tác liên doanh. Trong thời gian qua, hầu hết các doanh nghiệp trên địa bàn thành phố đều thụ động trong việc tìm kiếm đối tác liên doanh với nước ngoài, do đó, việc tìm hiểu, đánh giá khả năng của đối tác không đúng dẫn đến việc liên doanh đổ vỡ hoặc không hiệu quả. Vì vậy, trong thời gian tới các doanh nghiệp trên địa bàn thành phố cần phải năng động hơn trong việc tìm kiếm đối tác, thúc đẩy hoạt động liên doanh có hiệu quả.
Bên cạnh đó, các doanh nghiệp trên địa bàn cần tiến hành quản lý kinh doanh có hiệu quả nhằm tạo sự sôi động trong nền kinh tế, đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế trên địa bàn nhằm tạo môi trường kinh tế hấp dẫn đối với vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. đặc biệt, các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài và các bên hợp doanh cần có những biện pháp cụ thể nâng cao hiệu quả hoạt động của mình nhằm tạo lòng tin cho các nhà đầu tư nước ngoài khi tiến hành đầu tư ở hà nội.
3. kiến nghị với nhà nước
3.1. hoàn thiện pháp luật
Nhà nước nên sửa đổi bổ sung một số điều khoản trong các văn bản pháp luật liên quan đến đầu tư nước ngoài để tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp như: các vấn đề về quyền được thế chấp tài sản gắn với giá trị quyền sử dụng đất tại các ngân hàng hoạt động tại việt nam, miễn giảm thuế giá trị gia tăng đối với các thiết bị máy móc để tạo tài sản cố định, sửa đổi thuế thu nhập cá nhân đối với người lao việt nam làm việc trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
3.2.Đổi mới, đẩy nhanh công tác vận động xúc tiến đầu tư
Chính phủ nên thành lập bộ phần xúc tiến đầu tư tại các bộ, ngành, tổng công ty, các cơ quan đại diện của nước ta tại một số địa bàn trọng điểm ở nước ngoài để chủ động thu hút đầu tư nước ngoài. Ngân sách nhà nước cần dành một khoản kinh phí thoả đáng cho công tác vận động, xúc tiến đầu tư. Chuyển hướng xúc tiến đầu tư sang các đối tác tây âu, bắc mỹ, bắc âu nhằm tranh thủ tiềm lực vốn, công nghệ, kỹ thuật hiện đại để nâng cao năng lực cạnh trạnh của nền kinh tế.
3.3. nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài
Nhà nước nên xây dựng quy chế phố hợp chặt chẽ giữa các bộ, uỷ ban nhân dân tỉnh trong việc quản lý hoạt động đầu tư nước ngoài theo đúng thẩm quyền trách nhiệm của từng cơ quan quản lý nhà nước. các bộ, ban ngành và địa phương cần thực hiện quản lý nhà nước về đầu tư theo đúng chức năng, thẩm quyền đã quy định theo luật. Triệt để và kiên quyết trong việc quy định rõ ràng, minh bạch các thủ tục hành chính ở mọi khâu, mọi cấp; công khai các quy trình, thời hạn, chách nhiệm xử lý các thủ tục hành chính, duy trì thường xuyên các quộc gặp gỡ với cộng đồng các nhà đầu tư. Thường xuyên tổ chức các đoàn khảo sát, nghiên cứu thị trường, có mục tiêu, hiệu quả thích thực, tích cực vận động và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tham gia các hội chợ triển lãm quốc tế trong và ngoài nước, làm phong phú và đa dạng hoá các loại hình dịch vụ.
Với những giải pháp và kiến nghị đưa ra trên đây, hy vọng hà nội với vị thế là thủ đô nước việt nam và là trung tâm chính trị - kinh tế - văn hoá của cả nước trong thời gian tới sẽ là địa phương thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đứng đầu cả nước, khắc phục được tình trạng suy giảm vốn đầu tư, đồng thời cải thiện môi trường đầu tư nước ngoài để thu hút dòng vốn FDI vào Thành phố.
Kết luận
đầu tư trực tiếp nước ngoài ngày càng đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế của cả nước đi đầu tư và nước tiếp nhận đầu tư, nó trở thành một bộ phận không thể thiếu của nền kinh tế đất nước. hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài thời gian qua diễn ra khá sôi động và mạnh mẽ tham gia vào hầu hết các ngành kinh tế mà hà nội có thế mạnh như: công nghiệp điện tử, công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng, công nghiệp chế biến... các hoạt động này góp phần đổi mới nền kinh tế của hà nội, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá, nâng cao năng lực vốn đầu tư cho phát triển kinh tế, trang bị công nghệ mới, hiện đại nâng cao trình độ quản lý kinh tế, phát triển các ngành nghề mới.
Tuy nhiên, trong thời gian gần đây, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào hà nội liên tục xút giảm, chưa tương xứng với vị trí và khả năng của Thành phố mà nguyên nhân chủ yếu là do môi trường đầu tư tại hà nội còn có một số thiếu sót nhất định. việc mở rộng huy động nguồn lực nước ngoài thông qua khuyến khích đầu tư trực tiếp sẽ góp phần đáng kể tới sự phát triển kinh tế - xã hội của thành phố. để mở rộng thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trong thời gian tới, hà nội cần nghiêm túc đánh giá hoạt động thu hút vốn FDI trong thời gian qua, từ đó đưa ra giải pháp và định hướng trong thời gian tới. Xu hướng FDI vào hà nội trong thời gian tới tuỳ thuộc rất nhiều vào việc cải thiện môi trường đầu tư của thành phố, môi trường đầu tư có được cải thiện hay không còn tuỳ thuộc vào những hành động cụ thể từ phía Thành phố và từ phía các doanh nghiệp trên địa bàn. với phương châm “vốn đầu tư trong nước là chủ yếu, vốn đầu tư nước ngoài là quan trọng”, trong thời gian tới, nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài sẽ được huy động và sử dụng có hiệu quả, phù hợp nhằm đạt được mục tiêu kinh tế - xã hội của thành phố.
Bài viết đã đi phân tích thực trạng và tìm ra nguyên nhân của sự xuy giảm vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại hà nội thời gian qua, từ đó đưa ra một số giải pháp từ phía Thành phố và từ phía các doanh nghiệp trên địa bàn và đưa ra một số kiến nghị với nhà nước nhằm tăng cường thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại hà nội trong thời gian tới. do chưa hề tham gia quản lý nhà nước về đầu tư trực tiếp nước ngoài và thời gian tiếp xúc với đầu tư trực tiếp nước ngoài còn hạn chế cho nên bài viết không tránh khỏi những sai sót về cách tiếp cận vấn đề. người viết rất mong nhận được sự tham gia đóng góp ý kiến của các thầy cô, các cô, các chú trên sở kế hoạch và đầu tư hà nội và tất cả các bạn. để đi tìm hiểu sâu hơn về vấn đề này, tác giả mong muốn được sự giúp đỡ của các thầy cô, các cô, các chú trên sở kế hoạch và đầu tư hà nội để thực hiện đề tài mới nhằm cải tạo môi trường đầu tư trực tiếp nước ngoài tại hà nội.
Danh mục tài liệu tham khảo
TS. Đỗ Đức Bình, Giáo trình kinh doanh quốc tế, Nhà xuất bản giáo dục, năm 1997.
GS.TS. Tô Xuân Dân, Giáo trình kinh tế học quốc tế, Nhà xuất bản Thống kê, năm 1998.
GS.TS. Tô Xuân Dân, TS. Nguyễn Thị Hường, TS. Nguyễn Thường Lạng, Giáo trình quản trị dự án đầu tư quốc tế và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, Nhà xuất bản Thống kê, năm 1998.
TS. Vũ Chí Lộc, Giáo trình đầu tư nước ngoài, Nhà xuất bản Giáo dục, Năm 1997.
Võ Đại Lược, Đầu tư nước ngoài và phát triển kinh tế, Nhà xuất bản Thống kê, năm 1997.
PGS. TS. Võ Thanh Thu, Quản trị dự án đầu tư trong nước và quốc tế, Nhà xuất bản Thống kê, năm 1996.
TS. Bùi Anh Tuấn, Tạo việc làm cho người lao động qua đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam, Nhà xuất bản Thống kê, Năm 2000.
Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, năm 2000.
Văn kiện đại hội Đảng Thành phố Hà Nội lần thứ XIII, Nhà xuất bản Hà Nội, năm 2001.
Uỷ ban nhân dân Thành phố Hà Nội- Hà Nội tiềm năng và cơ hội đầu tư nước ngoài, Nhà xuất bản Hà Nội, năm 1998.
Viện nghiên cứu thế giới, Việt Nam chính sách thương mại và đầu tư, Nhà xuất bản thế giới, năm 1997.
Vũ Văn Lý, Báo Đầu tư số 44 (684) ra ngày 12/4/2001- Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Hà Nội: Cần những giải pháp mạnh.
Nguyễn Thu Thuỷ, Tạp chí Kinh tế và Phát triển số 31 tháng 7- 8/1999, Tình hình đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Hà Nội: thách thức và giải pháp.
Phạm Mạnh Dũng, Tạp chí Kinh tế và Dự báo số 7/2000, Những nội dung chủ yếu của luật sửa đổi, bổ xung một số điều của luật đầu tư nước ngoài năm 2000.
Nguyễn Thu Thuỷ, Tạp chí Nghiên cứu kinh tế số 258, tháng 11/2000, Tình hình đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Hà Nội: thách thức và giải pháp.
Lê Minh Tuấn, Tạp chí tài chính số 7/2000, Luật sửa đổi, bổ sung luật đầu tư nước ngoài năm 2000.
Uỷ ban nhân dân Thành phố Hà Nội, Quyết định về việc ban hành “Quy định thống nhất một đầu mối về tổ chức thực hiện việc hình thành hồ sơ, thẩm định dự án, xét duyệt cấp giấy phép đầu tư và quản lý nhà nước các dự án đầu tư nước ngoài trên địa bàn Thành phố Hà Nội”- 23/03/1999.
Báo cáo tổng kết, Phòng đầu tư nước ngoài và Quản lý dự án, Sở Kế hoạch và Đầu tư Hà Nội, Năm 1998, 1999, 2000.
Đánh giá kết quả đầu tư trực tiếp nước ngoài của Hà Nội (1989- 2000), Sở Kế hoạch và Đầu tư Hà Nội - 03/2001.
Tài liệu của “ Hội thảo về xúc tiến và triển khai dự án đầu tư nước ngoài cho các tỉnh phía Bắc tại Hà Nội” ESCAP/Bộ Kế hoạch và Đầu tư/ Uỷ ban nhân dân Thành phố Hà Nội- 03/2001.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- DA2032.doc