Lời mở đầu
1. Lý do lựa chọn đề tài
Thu hút vốn FDI là một cách tạo vốn có hiệu quả đối với các nước đang phát triển và những nước nghèo trên thế giới(trong đó có nước ta). Để đạt được mục tiêu tăng trưởng kinh tế do Đảng và Chính phủ đề ra trong giai đoạn 2000 -2010 là 7,2%/năm và đưa GDP bình quân đầu người tương đương mức 2000 -3000USD vào năm 2020. Để đạt được mục tiêu đó thì cần giải quyết một cách đồng bộ các vấn đề, trong đó vốn đầu tư là một trong những thách thức lớn và khó giải quyế
101 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1314 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Đầu tư trực tiếp nước ngoài phát triển nông nghiệp Việt Nam - Thực trạng & Giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
t nhất. Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, để đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế 7 - 8%/năm trong 10 năm tới thì nhu cầu vốn đầu tư trong giai đoạn 2001 -2005 cần có 53 -55 tỷ USD, giai đoạn 2006 - 2010 cần 75 tỷ USD. Con số này là một số lượng lớn so với khả năng tích lũy từ nội bộ nền kinh tế Việt Nam, do vậy cần phải tính đến khả năng huy động các nguồn vốn đầu tư từ bên ngoài, đặc biệt là vốn FDI.
Đối với nước ta, tiến trình phát triển kinh tế xã hội theo những yêu cầu mới từ một xuất pháp điểm thấp thì FDI có ý nghĩa và vai trò hết sức quan trọng trong thời kỳ sự nghịêp hoá, hiện đại hoá đất nước. Nhận thức được tầm quan trọng của FDI, Chính phủ ta liên tục ban hành những chính sách thu hút vốn FDI. Những chính sách đó đã làm cho các nhà đầu tư nước ngoài rất chú ý. Tuy nhiên trong thời gian qua, FDI mới chỉ tập trung chủ yếu đối với một số ngành công nghiệp, dịch vụ, còn đối với nông nghiệp, vốn FDI có tăng trong những năm gần đây nhưng còn chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng vốn FDI vào nền kinh tế, chưa xứng với tiềm năng phát triển của ngành trong nền kinh tế.Trong khi đó, GDP do nông nghiệp tạo ra vẫn giữ vị trí hàng đầu, trên 50% giá trị xuất khẩu là nông sản, 80% dân số sống ở nông thôn, nguồn sống chính dựa vào nông nghiệp.
Chính vì vậy làm thế nào để thu hút và sử dụng một cách có hiệu quả vốn FDI trong nông nghiệp trở thành một vấn đề hết sức quan trọng. Xuất phát từ thực trạng FDI trong nông nghiệp và tính cấp thiết của vấn đề này, tôi chọn đề tài: “Đầu tư trực tiếp nước ngoài phát triển nông nghiệp Việt Nam - Thực trạng và giải pháp” làm khoá luận cho mình.
2. Mục đích nghiên cứu
Khoá luận tập trung nghiên cứu những vấn đề sau:
Làm sáng tỏ những lý luận về FDI
Nghiên cứu sự cần thiết thu hút vốn FDI vào trong ngành nông nghiệp
Phân tích tình hình thu hút và sử dụng nguồn vốn FDI trong ngành nông nghiệp ở Việt Nam giai đoạn 1988 – 9/2003
Từ đó đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm tăng cường khả năng thu hút và nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn FDI trong ngành nông nghiệp ở Việt Nam trong thời gian tới.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Khoá luận nghiên cứu tình hình hoạt động FDI vào ngành nông nghiệp Việt Nam ở tầm vĩ mô và đề ra một số giải pháp chủ yếu nhằm tăng khả năng thu hút và nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn FDI trong ngành nông nghiệp Việt Nam trong thời gian tới.
4. Phương pháp nghiên cứu
Khoá luận đã vận dụng kết hợp phương pháp thống kê, phân tích hệ thống, phương pháp đồ thị và các phương pháp nghiên cứu khác như: phương pháp so sánh, phương pháp tổng hợp…để giải quyết các nội dung nghiên cứu của khoá luận. Các phương pháp đó được kết hợp chặt chẽ với nhau dựa trên cơ sở các quan điểm, chính sách kinh tế đối ngoại và chính sách sử dụng nguồn vốn FDI của Đảng và Nhà nước.
5. Bố cục của khoá luận.
Tương ứng với nội dung nghiên cứu, ngoài phần lời mở đầu, kết thúc, tài liệu tham khảo, mục lục, các từ viết tắt, khoá luận được kết cấu như sau:
Chương I: Sự cần thiết thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành nông nghiệp
Chương II: Thực trạng đầu tư trực tiếp nước ngoài phát triển vào ngành nông nghiệp Việt Nam ở giai đoạn 1988 -9/2003
Chương III: Một số giải pháp tăng cường thu hút và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trong ngành nông nghiệp Việt Nam.
Do kiến thức và kinh nghiệm còn hạn chế, thời gian chuẩn bị không nhiều nên khoá luận không tránh khỏi thiếu sót, kính mong thầy cô và các bạn đóng góp ý kiến để em có thể học hỏi, rút kinh nghiệm, hoàn thiện khoá luận cũng như trau dồi kiến thức cho bản thân.
Em xin chân thành cảm ơn Thạc sĩ Nguyễn Xuân Nữ về sự hướng dẫn tận tình trong quá trình viết khoá luận. Em cũng xin cảm ơn các cán bộ công tác tại Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã giúp đỡ, cung cấp các tài liệu cần thiết để em có thể hoàn thành khoá luận này.
Chương I
Sự cần thiết thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào trong ngành nông nghiệp việt Nam
“Kinh doanh là việc thực hiện một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi”(theo luật doanh nghiệp năm 1999). Xuất phát từ khái niệm về kinh doanh trên đây chúng ta có thể hiểu về kinh doanh quốc tế như sau: kinh doanh quốc tế là toàn bộ các hoạt động giao dịch kinh doanh có liên quan từ hai quốc gia trở lên nhằm thoã mãn các mục tiêu của các doanh nghiệp, của cá nhân, chính phủ và các tổ chức kinh tế xã hội tham gia kinh doanh.
Hoạt động kinh doanh quốc tế xuất hiện cùng với sự ra đời và phát triển của Chủ nghĩa trọng thương(từ thế kỷ XV). Giai đoạn đầu, kinh doanh quốc tế chỉ đơn thuần là hoạt động xuất nhập khẩu(thương mại quốc tế thời kỳ chủ nghĩa trọng thương) nhưng cùng với sự phát triển của chủ nghĩa tư bản, đặc biệt là sự phát triển của chủ nghĩa tư bản tài chính và sự xuất hiện của các rào cản thương mại thì kinh doanh quốc tế cũng xuất hiện những phương thức, loại hình mới. Một trong những phương thức hoàn thiện nhất của kinh doanh quốc tế đó là: đầu tư quốc tế. Đầu tư quốc tế là một quá trình kinh doanh, trong đó có vốn đầu tư được di chuyển từ quốc gia này sang quốc gia khác nhằm mục đích sinh lời. Như vậy, quá trình đầu tư quốc tế là di chuyển của các dòng vốn vượt ra khỏi biên giới quốc gia nhằm khai thác những lợi thế của quốc gia sở tại thu lợi cho chủ đầu tư. Hoạt động đầu tư quốc tế được tiến hành theo hai hình thức đó là: đầu tư trực tiếp (FPI) và đầu tư gián tiếp. Sự khác nhau cơ bản của hai hình thức này là: FDI tạo tài sản cho quốc gia tiếp nhận vốn đầu tư. Trong phạm vi của đề tài này, chúng ta đi tìm hiểu về đầu tư trực tiếp nước ngoài.
I. Một số lý luận về đầu tư trực tiếp nước ngoài.
1. Khái niệm, đặc điểm và các nhân tố ảnh hưởng đến đầu tư trực tiếp nước ngoài.
1.1. Khái niệm
Đầu tư trực tiếp nước ngoài là một loại hình di chuyển vốn quốc tế, trong đó người chủ sở hữu vốn đồng thời là người trực tiếp quản lý và điều hành hoạt động sử dụng vốn. Sự ra đời và phát triển của đầu tư trực tiếp nước ngoài là kết quả tất yếu của quá trình quốc tế hoá và phân công lao động quốc tế.
Trên thực tế có nhiều cách nhìn nhận khác nhau về đầu tư nước ngoài. Theo hiệp hội luật quốc tế(1966) “Đầu tư nước ngoài là sự di chuyển vốn từ nước ngoài của người đầu tư sang nước của người sử dụng nhằm xây dựng ở đó xí nghiệp kinh doanh hay dịch vụ”. Cũng có quan điểm cho rằng “Đầu tư nước ngoài là sự di chuyển vốn từ nước của người đầu tư sang nước của người sử dụng nhưng không phải để mua hàng hoá tiêu dùng của nước này mà dùng để chi phí cho các hoạt động có tính chất kinh tế xã hội”. Theo luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam ban hành năm 1987 và được bổ sung hoàn thiện sau 4 lần sửa đổi(1989, 1992, 1996, 2000) “Đầu tư trực tiếp nước ngoài là việc các tổ chức và cá nhân nước ngoài đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền nước ngoài hoặc bất kỳ tài sản nào được Chính phủ Việt Nam chấp nhận để hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hoặc thành lập xí nghiệp liên doanh hay xí nghiệp 100% vốn nước ngoài”.
Như vậy, đầu tư trực tiếp nước ngoài là hoạt động di chuyển vốn của các cá nhân và tổ chức nhằm xây dựng các cơ sở, chi nhánh ở nước ngoài và làm chủ toàn bộ hay từng phần cơ sở đó.
1.2. Đặc điểm
Xuất phát từ khái niệm, chúng ta có thể rút ra một số đặc điểm của đầu tư trực tiếp nước ngoài như sau:
- Một là, các chủ đầu tư nước ngoài phải góp một số vốn tối thiểu vào vốn pháp định, tuỳ theo luật đầu tư nước ngoài (ví dụ: tại Việt Nam, khi liên doanh, số góp vốn của bên nước ngoài phải lớn hơn hoặc bằng 30%)
- Hai là, quyền quản lý xí nghiệp phụ thuộc vào mức độ góp vốn. Đối với doanh nghiệp liên doanh và hợp đồng hợp tác kinh doanh thì quyền quản lý doanh nghiệp và quản lý đối tượng hợp tác tuỳ thuộc vào mức góp vốn của các bên khi tham gia, còn đối với doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài thì người nước ngoài (chủ đầu tư) toàn quyền quản lý xí nghiệp.
- Ba là, lợi nhuận của nhà đầu tư nước ngoài phụ thuộc vào kết quả hoạt động kinh doanh và được phân chia theo tỷ lệ góp vốn.
- Bốn là, đầu tư trực tiếp nước ngoài được thực hiện thông qua việc xây dựng doanh nghiệp mới, mua lại toàn bộ hoặc từng phần doanh nghiệp đang hoạt động hoặc sát nhập các doanh nghiệp với nhau.
- Năm là, đầu tư trực tiếp nước ngoài không chỉ gắn liền với di chuyển vốn mà còn với chuyển giao công nghệ, chuyển giao kiến thức và kinh nghiệm quản lý, đồng thời tạo ra thị trường mới cho cả phía đầu tư và phía nhận đầu tư.
- Sáu là, đầu tư trực tiếp nước ngoài hiện nay gắn liền với các hoạt động kinh doanh quốc tế của các công ty đa quốc gia.
1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến đầu tư trực tiếp nước ngoài
Đầu tư trực tiếp nước ngoài chịu ảnh hưởng bởi rất nhiều nhân tố từ bên trong nước chủ nhà cũng như các yếu tố từ bên ngoài:
a) Các nhân tố bên trong
Các nhân tố bên trong của nền kinh tế bao gồm tổng hoà các nhân tố chính trị, kinh tế – xã hội và điều kiện tự nhiên.
- Thứ nhất: Sự ổn định chính trị tạo môi trường thuận lợi cho sự phát triển kinh tế của đất nước. Nền chính trị ổn định sẽ tạo điều kiện để các nhà đầu tư mở rộng kinh doanh. Đây là cơ sở để phát triển các ngành trong nền kinh tế. Đồng thời, trình độ của nền kinh tế đặc biệt là tốc độ tăng trưởng kinh tế quốc dân cao, thu nhập bình quân đầu người được cải thiện là yếu tố hấp dẫn các nhà đầu tư di chuyển vốn, công nghệ, kinh nghiệm quản lý vào các ngành có khả năng sinh lợi cao để thu lợi ích.
- Thứ hai: Nguồn nhân lực là nhân tố quan trọng trong sự phát triển và thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Với dân số trẻ và có học vấn khá, dễ tiếp thu khoa học công nghệ, lao động của Việt Nam, nhất là lao động đã qua đào tạo thực sự là một nguồn lực to lớn để phát triển và phát huy vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài.
- Thứ ba: Các nguồn tài nguyên thiên nhiên là những nhân tố quan trọng cho sự hấp dẫn của các nhà đầu tư nước ngoài. Nguồn tài nguyên phong phú với trữ lượng lớn, chất lượng cao sẽ là yếu tố thu hút mạnh mẽ nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài.
- Thứ tư: Môi trường kinh tế vĩ mô ổn định như tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và ổn định lâu bền, kiềm chế đựơc lạm phát, ổn định giá trị nội tệ và tỷ giá hối đoái sẽ là nhân tố trực tiếp ảnh hưởng đến sản xuất kinh doanh và lợi nhuận của các nhà đầu tư nước ngoài. Chính vì vậy, nó ảnh hưởng rất lớn đến thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài của nước chủ nhà.
- Thứ năm: Khuôn khổ thể chế và pháp lý thuận tiện như nền kinh tế mở, hướng xuất khẩu, đồng tiền có khả năng chuyển đổi dễ dàng, chương trình tư nhân hoá quy mô lớn, tham gia các khối thương mại khu vực và thế giới, cơ sở hạ tầng vật chất thuận lợi và hiện đại, hoàn thuế quan nhập khẩu, có các biện pháp khuyến khích đầu tư nước ngoài… là các yếu tố ảnh hưởng lớn đến thu hút và sử dụng đầu tư trực tiếp nước ngoài.
-Thứ sáu: Bên cạnh các yếu tố trên đây, chính sách bảo hộ của chính phủ, chính sách thay thế nhập khẩu, chính sách độc quyền, chính sách ngoại thương (như thuế quan, hạn ngạch…) của nước chủ nhà đôi khi cũng khiến các nhà đầu tư nước ngoài tìm cách đặt cơ sở sản xuất kinh doanh ngay tại nước chủ nhà để tránh những chính sách này của nước chủ nhà.
b) Các nhân tố bên ngoài
- Thứ nhất: Tình hình kinh tế xã hội, chính trị của nước đi đầu tư, chính sách đầu tư ra nước ngoài của nước đi đầu tư (như chính sách miễn thuế sản phẩm chế biến tại một số cơ sở chế biến của họ tại nước ngoài) ảnh hưởng rất lớn đến đầu tư trực tiếp nước ngoài. Kinh nghiệm của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực vừa qua cho ta thấy rõ vấn đề này.
- Thứ hai: Quá trình tự do hoá thương mại và đầu tư làm cho các công ty xuyên quốc gia phải cạnh tranh gay gắt với nhau trong việc tìm kiếm thị trường mới. Do vậy đây chính là động lực để các nhà đầu tư nước ngoài đi đầu tư ở nước khác.
-Thứ ba: Bên cạnh những yếu tố trên việc các nhà đầu tư nước ngoài phân tán rủi ro bằng cách đầu tư tại nhiều địa điểm khác nhau ở các nước cũng là yếu tố để các nhà đầu tư đầu tư ra nước ngoài.
2. Các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài
Đầu tư trực tiếp nước ngoài có thể được phân chia theo nhiều tiêu chí khác nhau.
Nếu căn cứ vào tính pháp lý của đầu tư trực tiếp nước ngoài có thể chia FDI thành các loại: hợp đồng hợp tác kinh doanh, doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. Trong các hình thức trên thì doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp vốn 100% vốn nước ngoài là hình thức có thành lập pháp nhân mới và luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam gọi chung là xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Nếu căn cứ vào lĩnh vực đầu tư có thể chia đầu tư trực tiếp nước ngoài thành các loại: đầu tư vào công nghiệp, đầu tư vào nông nghiệp, đầu tư vào dịch vụ….
Theo luật đầu tư nước ngoại tại Việt Nam, các hình thức đầu tư nước ngoài tại Việt Nam gồm ba hình thức sau:
a) Hợp đồng hợp tác kinh doanh
Hợp đồng hợp tác kinh doanh là văn bản ký kết giữa hai hoặc nhiều bên để cùng nhau tiến hành một hoặc nhiều hoạt động kinh doanh tại Việt Nam trên cơ sở quy định trách nhiệm và phân chia kết quả kinh doanh cho mỗi bên mà không thành lập pháp nhân mới. Thời hạn cần thiết của hợp đồng hợp tác kinh doanh do các bên hợp tác thoã thuận phù hợp với tính chất, mục tiêu kinh doanh. Hợp đồng hợp tác kinh doanh được người có thẩm quyền của các bên hợp doanh ký.
b) Doanh nghiệp liên doanh
Theo luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam và nghị định 24/2000/NĐCP ngày 31/072000 của Chính phủ Việt Nam thì: doanh nghiệp liên doanh là doanh nghiệp được thành lập tại Việt Nam trên cơ sở hợp đồng liên doanh được ký kết giữa các bên(bên nước ngoài và bên Việt Nam). Doanh nghiệp liên doanh có tư cách pháp nhân, các bên tham gia liên doanh cùng góp vốn, cùng tham gia quản lý, cùng phân chia lợi nhuận, rủi ro theo tỷ lệ góp vốn của mỗi bên vào vốn pháp định của liên doanh.
c) Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài
Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài là doanh nghiệp hoàn toàn thuộc sở hữu của các tổ chức, cá nhân nước ngoài do họ thành lập và quản lý. Xí nghiệp này là một pháp nhân mới ở Việt Nam dưới hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn. Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh hoàn toàn do chủ sở hữu chịu trách nhiệm.
Ngoài ra đầu tư nước ngoài tại Việt Nam còn được tiến hành theo cơ sở các hình thức hợp đồng sau:
d) Hợp đồng xây dựng – kinh doanh – chuyển giao (BOT): là văn bản ký kết giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam và nhà đầu tư nước ngoài để xây dựng, kinh doanh công trình kết cấu hạ tầng trong một thời hạn nhất định; hết thời hạn, nhà đầu tư nước ngoàI chuyển giao không bồi hoàn công trình đó cho nhà nước Việt Nam.
e) Hợp đồng xây dựng – chuyển giao – kinh doanh (BTO) là văn bản ký kết giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam và nhà đầu tư nước ngoài để xây dựng công trình kết cấu hạ tầng; sau khi xây dựng xong, nhà đầu tư nước ngoài chuyển giao công trình đó cho Nhà nước Việt Nam. Chính phủ Việt Nam dành cho nhà đầu tư quyền kinh doanh công trình đó trong một thời hạn nhất định để thu hồi vốn đầu tư và lợi nhuận hợp lý.
f) Hợp đồng xây dựng – chuyển giao (BT) là văn bản ký kết giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam và nhà đầu tư nước ngoài để xây dựng công trình kết cấu hạ tầng; sau khi xây dựng xong, nhà đầu tư nước ngoài chuyển giao công trình đó cho Nhà nước Việt Nam, Chính phủ Việt Nam tạo điều kiện cho nhà đầu tư nước ngoài thực hiện dự án khác để thu hồi vốn đầu tư và lợi nhuận hợp lý.
II. Tính tất yếu khách quan của việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
1. Tính tất yếu của đầu tư trực tiếp nước ngoài trong thế giới hiện nay
Trong lịch sử thế giới, đầu tư nước ngoài đã từng xuất hiện ngay từ thời tiền tư bản. Các công ty của Anh, Hà Lan, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha là những công ty đi đầu trong lĩnh vực này dưới hình thức đầu tư vốn vào các nước Châu á để khai thác đồn điền và cùng với ngành khai thác đồn điền này là ngành khai thác khoáng sản nhằm cung cấp nguyên liệu cho các ngành công nghiệp ở chính quốc.
Trong thế kỷ XIX, do quá trình tích tụ và tập trung tư bản tăng lên mạnh mẽ, các nước tư bản lúc bấy giờ đã tích lũy được những khoản tư bản khồng lồ. Khi mà quá trình tích tụ và tập trung đã đạt đến một mức độ nhất định sẽ xuất hiện nhu cầu đầu tư ra nước ngoài. Đó chính là quá trình phát triển sức sản xuất xã hội đến độ đã vượt ra khỏi khuôn khổ chật hẹp của một quốc gia, hình thành nên quy mô sản xuất trên toàn thế giới. Việc tích tụ, tập trung và xuất khẩu tư bản là một hiện tượng kinh tế mang tính tất yếu khách quan của nền kinh tế hiện đại.
Sau mỗi chu kỳ kinh tế, nền kinh tế của các nước phát triển lại rơi vào một cuộc suy thoái kinh tế, chính lúc này để vượt qua giai đoạn khủng hoảng nhằm tạo ra những điều kiện phát triển đòi hỏi phải đổi mới tư bản cố định. Thông qua hoạt động đầu tư nước ngoài, các nước công nghiệp phát triển có thể chuyển máy móc thiết bị cần thay thế sang các nước kém phát triển hơn và thu hồi được một phần giá trị để bù đắp những khoản chi phí khổng lồ cho việc mua sắm máy móc thiết bị. Bên cạnh đó những thành tựu khoa học kỹ thuật ngày càng phát triển mạnh mẽ và nhanh chóng đi vào ứng dụng trong sản xuất và đời sống, các chu kỳ kinh tế ngày càng rút ngắn lại vì vậy yêu cầu đổi mới máy móc t hiết bị ngày càng cấp bách hơn. Do đó các nước tiên tiến tất yếu phải tìm nơi tiêu thụ các công nghệ loại hai, có như vậy mới đảm bảo thường xuyên thay đổi công nghệ kỹ thuật mới.
Nguyên tắc lợi thế so sánh mà P.Vernon đã chứng minh rằng không có nước nào mạnh toàn diện và cũng không có nước nào yếu toàn diện. Nếu chúng ta biết hợp tác thì sẽ phát huy được sức mạnh tổng hợp cho tất cả các nước. Qua hàm sản xuất: Y= f (K,L), Giáo sư P.Vernon gợi ý rằng với các nước tư bản phát triển nên tận dụng lợi thế so sánh sao cho tỷ lệ K/L ngày càng cao. Với các nước đang phát triển nên sử dụng lợi thế so sánh với những mặt hàng có hàm lượng lao động cao. Theo nguyên tắc này cho phép hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài lợi dụng được những ưu thế tương đối của mỗi nước, đem lại lợi ích cho cả hai bên, bên đi đầu tư và bên nhận đầu tư. Các doanh nghiệp nước ngoài có lợi thế so sánh về vốn và kỹ thuật, còn các nước nhận đầu tư có lợi thế về lao động dồi dào với giá rẻ… Do đó để khai thác được lợi thế so sánh này tất yếu phải có quan hệ kinh tế quốc tế mà trong đó đầu tư trực tiếp nước ngoài là một nhân tố quan trọng.
Nhà kinh tế học P.Samuelson cho rằng, để phát triển kinh tế các nước đang phát triển phải có biện pháp thu hút được FDI. Trong lý thuyết “ cái vòng lẩn quẩn” và “ cú hích ” từ bên ngoài, Samuelson cho rằng: “ Đa số các nước đang phát triển đều thiếu vốn, mức thu nhập thấp, chỉ đủ sống ở mức tối thiểu, do đó khả năng tích lũy vốn hạn chế. Những nước dẫn đầu trong cuộc chạy đua tăng trưởng phải đầu tư ít nhất 20% sản lượng vào việc tạo vốn. Trái lại, những nước nông nghiệp nghèo nhất thường chỉ có tiết kiệm được 5% thu nhập quốc dân. Hơn nữa, phần nhiều trong khoản tiết kiệm nhỏ bé này phải dùng để cung cấp nhà cửa và những công cụ đơn giản cho số dân đang tăng lên. Phần còn lại hầu như rất ít cho phát triển.”
Mặt khác, theo Samuelson, ở các nước đang phát triển, nguồn nhân lực bị hạn chế bởi tuổi thọ và dân trí thấp, kỹ thuật lạc hậu, tài nguyên khan hiếm và đặc biệt là gặp trở ngại trong việc kết hợp chúng. Do vậy, ở nhiều nước đang phát triển ngày càng khó khăn và càng tăng “ cái vòng lẩn quẩn”.
Samuelson cho rằng: “ Để phát triển kinh tế phải có ‘cú hích’ từ bên ngoài nhằm phá vỡ cái vòng lẩn quẩn”. Đó là phải có đầu tư của nước ngoài vào các nước đang phát triển. Theo ông, “ Nếu có quá nhiều trở ngại như vậy đối với việc đi tìm tiết kiệm trong nước để tạo vốn thì tại sao không dựa nhiều hơn vào các nguồn từ bên ngoài?” Chẳng phải lý thuyết kinh tế đã từng nói với chúng ta rằng, một nước giàu sau khi đã hút hết những dự án đầu tư có lợi nhuận cao cho mình, cũng có thể làm lợi cho chính nó và nước nhận đầu tư bằng cách đầu tư những dự án lợi nhuận cao ra nước ngoài đó sao?....
Ngày nay, xu thế quốc tế hoá đời sống kinh tế xã hội, kết quả của quá trình phân công lao động xã hội mở rộng trên phạm vi toàn thế giới đã lôi kéo tất cả các nước và các vùng lãnh thổ từng bước hoà nhập vào nền kinh tế thế giới. Trong xu thế đó, chính sách biệt lập đóng cửa là không thể tồn tại vì chính sách này kìm hãm quá trình phát triển của xã hội. Một quốc gia hay vùng lãnh thổ khó tách biệt khỏi thế giới vì những thành tựu khoa học kỹ thuật đã kéo con người ở khắp nơi trên thế giới xích lại gần nhau hơn và dưới tác động của quốc tế hoá khác buộc các nước phải mở cửa với bên ngoài. Vì vậy, đầu tư trực tiếp nước ngoài là một trong những hình thức kinh doanh quốc tế hữu hiệu nhất hiện nay, đã và đang trở thành phổ cập như một phương thức tiến tạo.
2. Những lợi ích của đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Việc huy động vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào một quốc gia hay một vùng lãnh thổ đã và đang trở thành phương thức hữu hiệu nhất, một yếu tố quan trọng trong cơ cấu ngân sách phát triển của một quốc gia, một hình thức phổ biến trong quan hệ kinh tế quốc tế vì nó mang lại lợi ích cho hai bên, bên chủ đầu tư và bên nhận đầu tư.
2.1. Đối với chủ đầu tư
- Thứ nhất: FDI giúp mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm, tăng cường bành trướng sức mạnh kinh tế và vai trò ảnh hưởng trên thế giới. Phần lớn các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ở các nước về thực chất hoạt động như là chi nhánh của các công ty mẹ ở chính quốc bằng việc xây dựng các nhà máy sản xuất, chế tạo hoặc lắp rắp ở nước sở tại. Sự mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm của các công ty mẹ ở nước ngoài, đồng thời còn là biện pháp thâm nhập thị trường hữu hiệu tránh được hàng rào bảo hộ mậu dịch của các nước.
- Thứ hai: FDI giúp các công ty nước ngoài giảm chi phí sản xuất rút ngắn thời gian thu hồi vốn đầu tư và thu lợi nhuận cao.
Do sự phát triển không đồng đều về trình độ sản xuất và mức thu nhập… giữa các nước nên đã tạo ra chêch lệch về điều kiện và giá cả các yếu tố đầu vào của sản xuất. Do đó đầu tư nước ngoài cho phép lợi dụng chênh lệch này để giảm bớt chi phí sản xuất, trước hết đó là chi phí lao động; việc tổ chức sản xuất và tiêu thụ sản phẩm ở các nước sở tại cũng giúp các chủ đầu tư giảm được chi phí vận chuyển hàng hoá, tiết kiệm chi phí quảng cáo, tiếp thị …
- Thứ ba: FDI giúp các chủ đầu tư tìm kiếm được nguồn cung cấp nguyên liệu.
Mục tiêu của nhiều dự án đầu tư nước ngoài là nhằm tìm kiếm nguồn nguyên liệu phục vụ cho nhu cầu sản xuất kinh doanh của các chủ đầu tư. Trong khi đó, ở các nước phát triển nguồn tài nguyên có nhiều nhưng không có điều kiện khai thác chế biến do thiếu vốn, công nghệ. Do đó, đầu tư vào các lĩnh vực này sẽ thu được nguyên liệu thô với giá rẻ và qua chế biến sẽ thu được lợi nhuận cao.
- Thứ tư: FDI giúp các chủ đầu tư nước ngoài đổi mới cơ cấu sản xuất, áp dụng công nghệ mới nâng cao năng lực cạnh tranh.
Đổi mới thường xuyên công nghệ là điều kiện sống còn trong cạnh tranh, do đó các nhà đầu tư nước ngoài thường chuyển máy móc, công nghệ đã lạc hậu so với trình độ chung của thế giới để đầu tư sang các nước khác. Điều đó, một mặt giúp các chủ đầu tư thực chất bán được máy móc cũ để thu hồi vốn nhằm đổi mới thiết bị công nghệ, kéo dài được chu kỳ sống của sản phẩm của hãng ở các thị trường mới.
Đối với nước nhận đầu tư.
- Thứ nhất: FDI là nguồn vốn quan trọng bổ sung cho vốn đầu tư phát triển.
FDI, là nguồn vốn bổ sung quan trọng để thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, bù đắp cho sự thiếu hụt của nguồn vốn trong nước, đặc biệt là đối với các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam vì hầu hết các nước này đều có nhu cầu vốn. Hơn nữa, các nước đang phát triển có tỷ lệ vốn tích lũy trong nước ở mức thấp là một trở ngại lớn cho sự phát triển nền kinh tế xã hội. Đầu tư trực tiếp nước ngoài góp phần huy động vốn để hỗ trợ cho nhu cầu đầu tư của nền kinh tế. Bên cạnh đó FDI còn có những ưu thế hơn hẳn so với các hình thức huy động vốn khác như việc vay vốn nước ngoài đôi khi trở thành gánh nặng cho nền kinh tế. Hoặc như các khoản viện trợ thường đi kèm với điều kiện về chính trị, can thiệp vào công việc nội bộ của một quốc gia. Điều này ít xảy ra đối với FDI.
FDI cũng bổ sung sự thiếu hụt về ngoại tệ đối với các nước đang phát triển, bởi vì FDI góp phần làm tăng khả năng cạnh tranh và mở rộng khả năng xuất khẩu của nước nhận đầu tư, thu một phần lợi nhuận từ các công ty nước ngoài, thu ngoại tệ từ các hoạt động dịch vụ cho FDI.
- Thứ hai: FDI góp phần nâng cao năng lực công nghệ.
Song song với việc tạo nguồn vốn bổ sung, đầu tư trực tiếp nước ngoài còn là một kênh quan trọng để đưa kỹ thuật mới, kỹ năng quản lý mới vào các nước đang phát triển. Thông qua FDI chúng ta có thể tiếp nhận được những công nghệ này. Qua đó, FDI có thể thúc đẩy sự đổi mới kỹ thuật của nước nhận đầu tư như góp phần tăng năng suất của các yếu tố sản xuất, thay đổi cấu thành sản phẩm, xuất khẩu. Hơn nữa thúc đẩy phát triển các nghề mới, đặc biệt là những nghề đòi hỏi hàm lượng công nghệ cao. Vì thế nó có tác dụng to lớn đối với quá trình công nghiệp hoá hiện đại hóa, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đặc biệt là đối với các nước nhận đầu tư. Cùng với chuyển giao công nghệ “phần cứng” tiên tiến, đầu tư trực tiếp nước ngoài còn chuyển giao các công nghệ “phần mềm” như kỹ năng quản lý,bí quyết công nghệ….cho nước nhận đầu tư. Qua chuyển giao công nghệ, làm trình độ công nghệ của nước chủ nhà ngày một cao hơn, từ đó nâng cao dần năng lực của nước chủ nhà. Đến một mức độ nào đó nước chủ nhà không những chỉ tiếp thu công nghệ mà còn “làm chủ” công nghệ và phát minh, cải tiến công nghệ mới điển hình về lĩnh vực này là các nước công nghiệp mới, nổi bật là Hàn Quốc. Đứng về lâu dài thì đây chính là lợi ích căn bản nhất đối với các nước nhận đầu tư, đặc biệt là các nước đang phát triển.
- Thứ ba: FDI thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Yêu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế không chỉ là đòi hỏi của bản thân sự phát triển nội tại nền kinh tế mà nó còn là đòi hỏi của xu hướng quốc tế hoá đời sống kinh tế đang diễn ra mạnh mẽ hiện nay. Đầu tư trực tiếp nước ngoài là một bộ phận quan trọng của hoạt động kinh tế đối ngoại thông qua đó các quốc gia sẽ tham gia ngày càng nhiều vào quá trình phân công lao động quốc tế. Để hội nhập vào nền kinh tế thế giới và tham gia tích cực vào quá trình liên kết kinh tế giữa các quốc gia trên thế giới, đòi hỏi từng quốc gia phải thay đổi cơ cấu kinh tế trong nước phù hợp với sự phân công lao động quốc tế. Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế của mỗi quốc gia phù hợp với sự phát triển chung trên thế giới sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài. Chính sách đầu tư trực tiếp nước ngoài lại góp phần thúc đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, bởi vì:
+ Thông qua đầu tư trực tiếp nước ngoài làm xuất hiện nhiều lĩnh vực và ngành kinh tế mới ở nước nhận đầu tư.
+ Đầu tư trực tiếp nước ngoài giúp vào sự phát triển nhanh chóng trình độ công nghệ ở nhiều ngành kinh tế, góp phần thúc đẩy tăng năng suất lao động ở các ngành này và tăng tỷ trọng của nó trong nền kinh tế quốc dân.
+ Một số ngành được kích thích phát triển từ hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài, nhưng cũng sẽ có một số ngành suy giảm.
- Thứ tư: FDI góp phần giải quyết công ăn việc làm.
Thực ra đây là một tác động kép: tạo thêm công ăn việc làm cũng có nghĩa là tăng thêm thu nhập cho người lao động, từ đó tạo điều kiện tăng tích luỹ trong nước. FDI cung cấp việc làm trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đồng thời cũng tạo ra việc làm trong các tổ chức khác khi các nhà đầu tư nước ngoài mua hàng hoá dịch vụ trong các hợp đồng gia công chế biến. Tuy nhiên, sự đóng góp của FDI đối với việc làm còn phụ thuộc vào chính sách và khả năng kỹ thuật của nước đó.
Ngoài những tác động trên đầu tư trực tiếp nước ngoài còn có một số tác động khác đến nước nhận đầu tư như : đóng góp phần đáng kể vào nguồn thu của ngân sách Nhà nước thông qua việc nộp thuế, tiền thu từ việc cho thuê nhà đất…, FDI góp phần vào cải thiện cán cân thanh toán quốc tế; FDI giúp các nước nhận đầu tư có thể tiếp cận với thị trường thế giới…Hơn nữa nó còn góp phần cải thiện mối quan hệ chính trị giữa các quốc gia, các quan hệ về hợp tác thương mại, vấn đề môi trường, các quan hệ văn hoá xã hội khác, tạo lên tiếng nói chung giữa các cộng đồng và khu vực. Như vậy, có thể nói rằng đầu tư trực tiếp nước ngoài là một tất yếu khách quan.
III. Sự cần thiết thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào phát triển ngành nông nghiệp ở Việt Nam
1. Vị trí, vai trò của ngành nông nghiệp trong nền kinh tế quốc dân.
Ngành nông nghiệp là một ngành sản xuất vật chất quan trọng trong nền kinh tế quốc dân của mỗi nước. Nó không phải là một hệ thống kinh tế đơn thuần, mà là hệ thống sinh vật - kỹ thuật, bởi vì một mặt là cơ sở để phát triển nông thôn và mặt khác là việc sử dụng những tiềm năng sinh vật, cây trồng, vật nuôi. Chúng phát triển theo quy luật sinh vật nhất định, con người không thể ngăn cản quá trình phát sinh, phát triển, phát dục và diệt vong của chúng mà phải trên cơ sở nhận thức đúng đắn các quy luật, để có những giải pháp tác động, nhằm thích nghi với chúng. Mặt khác quan trọng hơn là phải làm cho người sản xuất có sự quan tâm thoã đáng, gắn lợi ích của họ với sử dụng các quá trình sinh vật đó, nhằm tạo ra nhiều sản phẩm cuối cùng hơn.
Nông nghiệp giữ vai trò rất to lớn trong việc phát triển kinh tế, nhất là ở các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam. ở những nước này còn nghèo, đại bộ phận sống bằng nghề nông. Tuy nhiên, ngay cả những nước có nền công nghiệp phát triển cao, mặc dù giá trị sản phẩm nông nghiệp không lớn, nhưng khối lượng sản phẩm nông nghiệp vẫn không ngừng tăng lên và giữ vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân.
Nông nghiệp giữ vai trò quan trọng trong việc cung cấp các yếu tố đầu vào cho công nghiệp và cho khu vực thành thị. Trong giai đoạn đầu của công nghiệp hoá, phần lớn dân cư sống bằng nghề nông nghiệp, khu vực nông thôn thực sự là nguồn nhân lực dự trữ dồi dào cho khu vực công nghiệp và thành thị. Nhà kinh tế học Lewis đã xây dựng một mô hình chuyển dịch lao động từ khu vực nông thôn sang khu vực công nghiệp, ông coi đó là quá trình tạo ra tiết kiệm, thúc đẩy đầu tư và tăng trưởng kinh tế. Mô hình Lewis dựa trên giả thiết._. một mặt nguồn cung cấp lao động từ cận biên khu vực nông nghiệp rất thấp, nên chuyển dịch lao động diễn ra trong một thời kỳ dài với tiền công không thay đổi, sang công nghiệp với tiền công cao hơn, đời sống tốt hơn. Việc chuyển dịch từ nông nghiệp sang công nghiệp để khắc phục tình trạng lạc hậu về kinh tế. Khu vực nông nghiệp còn cung cấp nguồn nguyên liệu quý cho công nghiệp, chủ yếu là công nghiệp chế biến nông sản, nhằm tạo ra nguồn thu nhập lớn. Song việc cung cấp các yếu tố đầu vào cho công nghiệp hoá là đại lượng biến thiên, ở giai đầu của công nghiệp hoá, các yếu tố đầu vào chiếm tỷ trọng lớn và sẽ giảm xuống ở giai đoạn sau nhất là khi công nghiệp (đặc biệt là công nghiệp nặng) đã phát triển ở trình độ cao.
Nông nghiệp được coi là ngành đem lại nguồn thu nhập ngoại tệ lớn. Các loại nông, lâm, thuỷ sản dễ dàng gia nhập thị trường quốc tế hơn so với các hàng hoá công nghiệp. Vì thế, ở các nước đang phát triển, nguồn xuất khẩu để có ngoại tệ chủ yếu dựa vào các loại nông, lâm nghiệp, thuỷ sản. Xu hướng chung ở các nước trong quá trình công nghiệp hoá, ở giai đoạn đầu giá trị xuất khẩu nông, lâm nghiệp, thuỷ sản chiếm tỷ trọng cao trong tổng kinh ngạch xuất khẩu và tỷ trọng đó sẽ giảm dần cùng với sự phát triển cao của nền kinh tế.
Hiện nay trên thế giới mọi người đều nhìn nhận rằng đầu tư trực tiếp nước ngoài đóng vai trò đặc biệt quan trọng đối với nền kinh tế của các nước và khu vực. Việc huy động vốn FDI để phát triển kinh tế xã hội là tận dụng điều kiện khách quan cực kỳ thuận lợi mà thế giới tạo ra thay vì phải bỏ ra hàng trăm năm để phát triển vượt qua các thời kỳ tích luỹ ban đầu lâu dài và gian khổ như Anh, Pháp trước đây, các nước đi sau có thể mượn sức của những nước đi trước để thực hiện thành công chiến lược rượt đuổi. Song vốn đầu tư không bao giờ tự chảy vào các nước lạc hậu. Cơ may tận dụng khả năng đó chỉ thuộc về quốc gia nào có chiến lược khôn ngoan hơn, biết tận dụng hoàn cảnh thế giới tạo ra trong việc huy động nguồn lực phát triển to lớn nói trên.
2. Đặc điểm của ngành nông nghiệp ở Việt Nam
2.1 Đặc điểm chung
Là một ngành sản xuất vật chất chủ yếu của xã hội. Khác với công nghiệp, sản xuất nông nghiệp có những đặc điểm riêng bởi sự chi phối của điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội.
- Thứ nhất: Ruộng đất là tư liệu sản xuất không thể thay thế được trong sản xuất nông nghiệp.
Đất đai là yếu tố cần thiết cho tất cả các ngành sản xuất, nhưng mỗi ngành nội dung kinh tế của nó lại rất khác nhau. Trong nông nghiệp đất đai là tư liệu sản xuất không thể thiếu được. Tuy nhiên, ruộng đất bị giới hạn về mặt diện tích, con người không thể tăng thêm theo ý muốn chủ quan, nhưng sản xuất của ruộng đất, độ phì nhiêu để tăng sản phẩm trên mỗi đơn vị diện tích là vô hạn. Nghĩa là con người có thể khai thác chiều sâu của ruộng đất, nhằm thoã mãn nhu cầu tăng lên của mình về nông sản phẩm. Chính vì thế, trong quá trình sử dụng phải biết tiết kiệm, tìm mọi biện pháp để cải tạo và bỗi dưỡng ruộng đất, làm cho ruộng đất ngày càng màu mỡ hơn, sản xuất ra nhiều sản phẩm trên mỗi đơn vị diện tích, với chi phí thấp nhất, hạn chế việc chuyển ruộng đất sang xây dựng cơ bản.
- Thứ hai: Sản xuất nông nghiệp mang tính thời vụ cao.
Đây là nét đặc thù mang tính thời vụ cao sản xuất nông nghiệp, bởi vì mỗi loại cây trồng có sự thích ứng nhất định với sự biến thiên về điều kiện khí hậu -thời tiết dẫn đến những vụ mùa khác nhau. Đối tượng của sản xuất nông nghiệp là những loại cây trồng, vật nuôi có vai trò tích cực to lớn, là những sinh vật có khả năng hấp thụ và tàng trữ nguồn năng lượng của mặt trời để biến chất vô cơ thành chất hữu cơ, tạo nguồn thức ăn cho con người và vật nuôi. Mặt khác, thời gian lao động tách rời thời gian sản xuất của các loại cây trồng trong nông nghiệp. Như vậy tính thời vụ rất quan trọng đối với người sản xuất nông nghiệp. Tạo hoá đã cung cấp những yếu tố đầu vào thiết yếu cho nông nghiệp như ánh sáng, độ ẩm, lượng mưa, không khí….Lợi thế tự nhiên đã ưu ái rất lớn cho con người, nếu biết lợi dụng hợp lý có thế sản xuất những nông sản với chi phí thấp. Để khai thác và lợi dụng nhiều nhất tặng vật của thiên nhiên đối với nông nghiệp đòi hỏi khắt khe trong việc thực hiện những khâu công việc trong thời vụ tốt nhất, như thời vụ làm đất, gieo cấy phân bón, làm cỏ tưới tiêu, thu hoạch….
Việc thực hiện kịp thời vụ cũng dẫn đến tình trạng căng thẳng về lao động đòi hỏi phải có giải pháp tổ chức lao động hợp lý, cung ứng vật tư – kỹ thuật kịp thời, trang bị công cụ, máy móc thích hợp, đồng thời phải coi trọng việc bố trí cây trồng hợp lý, phát triển ngành nghề dịch vụ, tạo thêm việc làm ở những thời kỳ nông nhàn.
-Thứ ba: Sản xuất nông nghiệp gắn với cơ thể sống (cây trồng, vật nuôi). Cây trồng, vật nuôi phát triển theo quy luật sinh học nhất định( sinh trưởng, phát triển, phát dục và diệt vong). Chúng rất nhạy cảm với yếu tố ngoại cảnh, mọi sự thay đổi về thời tiết khí hậu, đều tác động trực tiếp đến sự phát triển và phát dục của cây trồng, vật nuôi, đến kết quả thu hoạch sản phẩm cuối cùng. Cây trồng, vật nuôi với tư cách là một tư liệu sản xuất đặc biệt, được sản xuất trong bản thân nông nghiệp bằng cách sử dụng trực tiếp sản phẩm thu được ở chu trình sản xuất trước làm tư liệu sản xuất cho chu trình sản xuất sau. Để chất lượng giống cây trồng và vật nuôi tốt hơn, đòi hỏi phải thường xuyên chọn lọc, bồi dục, lai tạo để ra những giống mới có năng suất cao, chất lượng tốt.
- Thứ tư: Sản xuất nông nghiệp mang tính khu vực rõ nét do được tiến hành trên địa bàn rộng lớn, phức tạp còn lệ thuộc nhiều vào điều kiện tự nhiên. ở đâu có đất đai và lao động thì ở đó có thể tiến hành sản xuất nông nghiệp. Song ở mỗi vùng, mỗi quốcgia có đất đai và thời tiết khí hậu khác nhau. Lịch sử các loại đất, quá trình khai phá, và sử dụng các loại đất trên các địa bàn có địa hình khác nhau, ở đó cũng diễn ra các hoạt động nông nghiệp cũng không giống nhau. Điều kiện thời tiết khí hậu với lượng mưa, độ ẩm, ánh sáng…. trên các địa bàn gắn rất chặt chẽ với các điều kiện hình thành và sử dụng đất. Vì vậy, việc lựa chọn và bố trí cây trồng, vật nuôi ứng dụng kỹ thuật canh tác phải phù hợp với điều kiện từng vùng, nhằm tạo điều kiện cho cây trồng, vật nuôi phát triển tốt, đem lai năng suất cao.
2.2 Một số đặc điểm cơ bản của ngành nông nghiệp ở Việt Nam
- Thứ nhất: Điều kiện tự nhiên.
Việt Nam nằm trong vành đai nhiệt đới Châu á, nhiệt đới ẩm thuộc khu vực gió mùa Đông Nam á, được trải rộng trên 4 vùng lớn phức tạp: trung du, đồng bằng, miền núi, ven biển. Đất đai nông nghiệp, địa bàn nông thôn trải trên nhiều vĩ độ cao, nhiều độ cao, nhiều vùng khí hậu khác nhau, gắn liền với sự hình thành và cấu tạo của đất. Vì vậy trong quá trình xây dựng và phát triển ngành nông nghiệp chúng ta có nhiều thuận lợi cơ bản đồng thời có những khó khăn lớn.
Thời tiết, khí hậu Việt Nam có những thuận lợi cơ bản, đó là hàng năm có lượng mưa trung bình theo mùa, cường độ ánh sáng lớn, nhiệt độ trung bình 23C, hệ sinh thái phong phú và đa dạng. Nhờ những thuận lợi cơ bản đó mà nước ta có thể gieo trồng và thu hoạch quanh năm với nhiều giống cây trồng vật nuôi phong phú có giá trị kinh tế cao: cây công nghiệp lâu năm (cao su, cà phê, chè, điều…), cây công nghiệp ngắn ngày(lạc, đậu tương, đay, mía…), cây ăn quả (dừa, cam, bưởi, chuối….). Không những Việt Nam có thể sản xuất những loại cây trồng vật nuôi nhiệt đới gió mùa mà có thể nuôi trồng những giống ở xứ lạnh như xúp lơ, cải bắp, xu hào, cà rốt…
Bên cạnh những thuận lợi nêu trên, điều kiện tự nhiên Việt Nam cũng gây nhiều khó khăn lớn như: lượng mưa lớn, mưa nhiều tập trung vào một vài tháng(tuỳ theo vùng) trong năm, gây lũ lụt, ngập úng. Mùa khô thường gây khô hạn thiếu nước không chỉ cho nông nghiệp mà còn ảnh hưởng đến đời sống sinh hoạt của người nhất là ở các tỉnh miền Trung Việt Nam. Khí hậu ấm, ẩm ướt dễ phát sinh và lây lan sâu bệnh, dịch bệnh gây ra tổn thương lớn với mùa màng và vật nuôi. Ngoài ra do 3/4 nước ta là đồi núi nên diện tích đất nông nghiệp thấp ít có khả năng mở rộng và đang là trở ngại lớn trong quá trình phát triển của ngành nông nghiệp.
- Thứ hai: Nền nông nghiệp Việt Nam chịu nhiều hậu quả do chiến tranh gây ra.
Trong nhiều thập kỷ qua, nền nông nghiệp nước ta chịu sự tàn phá nặng nề của chiến tranh. Nhiều vùng đất, cây cối bị tàn phá bởi chất độc hoá học, nhiều công trình cơ sở vật chất kỹ thuật trong nông nghiệp bị bom đạn tàn phá cần được hồi phục và nâng cấp. Đó là một hạn chế lớn dẫn đến sự phát triển của nông nghiệp. Do đó nông nghiệp cần một lượng vốn lớn để đầu tư khắc phục hậu quả của chiến tranh. Mặt khác nề nếp quản lý thời chiến cũng ảnh hừởng không nhỏ đến việc quyết định lựa chọn sử dụng các nguồn lực phù hợp với cơ chế thị trường.
- Thứ ba: Trình độ phát triển ngành nông nghiệp ở Việt Nam còn lạc hậu.
Phần lớn các vùng sản xuất nông nghiệp của Việt Nam chủ yếu độc canh cây lúa, sản phẩm hàng tiêu dùng mới chỉ ở mức sản phẩm thô không qua chế biến. Sản xuất nông nghiệp ở nông thôn còn lạc hậu, manh mún nhất là ở những vùng sâu, vùng xa, điều kiện khó khăn, thị trường còn bấp bênh và không ổn định. Đời sống nông dân còn nghèo, cơ sở hạ tầng thấp, sự hỗ trợ cho nông nghiệp của ngành công nghiệp chế biến chưa cao và không bền vững. Tuy đã có sản phẩm dư thừa để xuất khẩu như hiện nay còn khó khăn trong việc tìm thị trường tiêu thụ. Đây chính là yếu tố cơ bản làm cho sự phát triển nông nghiệp Việt Nam còn thấp.
- Thứ tư: Nền nông nghiệp Việt Nam đang trong quá trình chuyển đổi sang nền nông nghiệp theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Từ những năm cuối của thập kỷ 80 dưới ánh sáng của chính sách đổi mới của Đảng và nhà nước nền nông nghiệp Việt Nam được chuyển từ sản xuất tập trung bao cấp sang cơ chế định hướng xã hội chủ nghĩa. Hiện nay nền nông nghiệp nước ta bao gồm nhiều thành phần kinh tế tham gia như: kinh tế quốc doanh, kinh tế tư nhân, kinh tế hợp tác với các nhà đầu tư nước ngoài….Các thành phần kinh tế được bình đẳng, được khuyến khích phát triển theo luật định. Sự chuyển đổi này đã tạo cho người dân có quyền quyết định về sản xuất nông nghiệp phù hợp với mục tiêu, lợi ích của mình. Cơ cấu sản xuất nông nghiệp đang được chuyển dịch theo chiều hướng phù hợp với cơ chế thị trường đồng thời lại chịu sự chi phối riêng do các đặc điểm xã hội, chính trị của Việt Nam.
3. Vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với sự phát triển ngành nông nghiệp ở Việt Nam
3.1. Đầu tư trực tiếp nước ngoài góp phần vào sự phát triển của ngành nông nghiệp ở Việt Nam
Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào nền kinh tế nói chung, vào nông nghiệp nói riêng là một hoạt động kinh tế đối ngoại có vai trò ngày càng to lớn. Đặc biệt là ở những nước nông nghiệp có xuất phát điểm thấp thì đầu tư trực tiếp nước ngoài có ý nghĩa to lớn trong việc tạo nguồn vốn đầu tư, tiếp thu khoa học công nghệ tiến bộ vào sản xuất nông nghiệp và là một giải pháp tạo việc làm có hiệu quả trong nông nghiệp nông thôn.
Trải qua một thời kỳ dài, nền kinh tế nước ta nằm trong cơ chế quản lý kế hoạch hoá tập trung gần như là một nền kinh tế đóng đã làm cho lực lượng sản xuất trong ngành nông nghiệp bị kìm hãm, các hoạt động đối ngoại trong đầu tư chưa có điều kiện mở rộng. Từ sau đại hội Đảng VI và nhất là từ sau năm 1988, thực hiện nghị quyết của Bộ chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng, ngành nông nghiệp Việt Nam đã có những bước phát triển vượt bậc. Cho đến nay nước ta đã là một trong những cường quốc xuất khẩu một số lượng nông sản chủ lực như gạo, cà phê….Tuy nhiên hiện nay nông nghiệp Việt Nam vẫn trong tình trạng sản xuất manh mún, nhiều tiềm năng phát triển vẫn chưa được khai thác và có hiệu quả do thiếu vốn đầu tư, trình độ sản xuất còn thấp và chênh lệch khá xa so với các nước trong khu vực. Bên cạnh đó cơ sở vật chất kỹ thuật và kết cấu hạ tầng nông thôn còn thấp kém. Chính vì vậy việc thu hút FDI là rất cần thiết và đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển nông nghiệp nước nhà.
3.2 Đầu tư trực tiếp nước ngoài có vai trò quan trọng trong việc tạo nguồn vốn đầu tư cho sản xuất nông nghiệp.
Hiện nay 80% lực lượng lao động nước ta tham gia sản xuất nông nghiệp. Song đa số nông dân nước ta đều trong tình trạng thiếu vốn sản xuất. Do thiếu vốn nên nhiều tiềm năng phát triển nông nghiệp, đặc biệt là ở vùng miền núi, trung du chưa có điều kiện khai thác để sản xuất ra của cải. Mặc dù những năm gần đây Đảng và Chính phủ ta đã có nhiều chủ trương quan trọng ưu tiên đầu tư cho phát triển nông nghiệp song nguồn vốn đầu tư của chính phủ còn hạn hẹp, chưa thể đáp ứng được nhu cầu phát triển của ngành nông nghiệp trong tình hình mới. Chính vì vậy việc tìm đến các đối tác đầu tư nước ngoài để thu hút vốn đầu tư cho nông nghiệp trong những năm vừa qua và trong những năm tới là thật sự quan trọng. Đặc biệt là cần nguồn vốn FDI vào các dự án lai tạo giống ; dự án sản xuất phân bón, thuốc trừ sâu ; dự án chế biến ; vào lĩnh vực nuôi trồng…
3.3 Đầu tư trực tiếp nước ngoài là một biện pháp nâng cao trình độ công nghệ sản xuất và chất lượng nguồn nhân lực trong nông nghiệp.
Mặc dù trong những năm gần đây nông nghiệp nước ta đã đạt được những thành tựu quan trọng, song so với các nước có nền nông nghiệp phát triển trên thế giới và trong khu vực thì nông nghiệp nước ta vẫn còn một khoảng cách khá xa. Năng suất cây trồng, vật nuôi, chất lượng nông sản phẩm của chúng ta đều kém nên sức cạnh tranh của nông sản Việt Nam trên thị trường quốc tế còn thấp. Nguyên nhân của tình trạng này là do công nghệ sản xuất của ta vẫn còn quá thấp kém, cơ sở vật chất chưa tốt.
Việc thu hút vốn FDI vào nông nghiệp thông qua trang bị công nghệ khoa học kỹ thuật tiến bộ vào sản xuất sẽ góp phần to lớn trong việc nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm và sức cạnh tranh của hàng nông sảnViệt Nam trên thị trường quốc tế và góp phần đào tạo nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong nông nghiệp. Bởi vì, đầu tư trang thiết bị hiện đại cho sản xuất nông nghiệp cần phải có lực lượng lao động có chuyên môn kỹ thuật cao để vận hành nó. Mặt khác khoa học công nghệ ngày càng hiện đại đòi hỏi phải nâng cao năng lực lãnh đạo, quản lý của đội ngũ cán bộ quản lý trong nông nghiệp. Thông qua hợp tác sản xuất kinh doanh với nước ngoài chúng ta cần có điều kiện thuận lợi để đào tạo nâng cao năng lực, chất lượng một bộ phận lao động kỹ thuật và lao động quản lý trong nông nghiệp. Chính vì vậy thu hút FDI là cần thiết để phát triển nền nông nghiệp nước ta cả về chiều rộng lẫn chiều sâu.
3.4. Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành nông nghiệp tạo điều kiện khám phá thị trường tiêu thụ nông sản phẩm của nước ta.
Các nhà đầu tư lớn thường có thị trường tiêu thụ truyền thống để tiêu thụ sản phẩm. Do vậy, bằng các hình thức liên doanh liên kết với nước ngoài trong sản xuất nông nghiệp sẽ tạo ra những điều kiện thuận lợi để tìm kiếm thị trường tiêu thụ nông sản phẩm của nước ta trên trường quốc tế. Vốn FDI vào nông nghiệp nước ta có thể đầu tư trực tiếp sản xuất thông qua các hợp đồng liên doanh với nước ngoài, có thể đầu tư vào công nghệ chế biến hoặc công nghệ sau thu hoạch bằng các hình thức liên doanh với nước ngoài, các đối tác nước ngoài phải góp phần trách nhiệm trong việc tìm kiếm thị trường tiêu thụ sản phẩm của liên doanh.
Có thể nói rằng việc thu hút vốn FDI trong nông nghiệp là cần thiết cho sự phát triển ngành nông nghiệp Việt Nam, là hướng đi đúng đắn và phù hợp với một đất nước có truyền thống nông nghiệp lâu đời như Việt Nam.
Chương II
Thực trạng đầu tư trực tiếp nước ngoài vào phát triển ngành nông nghiệp ở Việt Nam thời kỳ 1988 -9/2003
I. Tình hình đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam
1. Tình hình đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam trong thời gian qua.
1.1 Số lượng, quy mô, tốc độ tăng của vốn FDI
Kể từ khi ban hành Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam đến tháng 9 năm 2003 cả nước đã thu hút được 4.159 dự án còn hiệu lực (trừ dự án giải thể trước thời hạn và dự án kết thúc đúng hạn) với tổng vốn đăng ký trên 40 tỷ USD(kể cả vốn tăng thêm), tổng vốn thực hiện là 23,618 tỷ USD (chỉ tính các dự án còn hiệu lực).
Bảng 1: Tình hình FDI tại Việt Nam theo giai đoạn 1988 -09/2003
Năm
Chỉ tiêu
1988 -1990
1995
1996
1997
1998
1999
2000
2001
2002
09/2003
DAĐK
208
1159
308
250
178
226
265
435
644
476
VĐK (triệu USD)
1582
16242
8640
4649
3897
1568
2014
2536
1558
1194
QM = VĐK/DAĐK
(triệu USD)
7,60
14,01
28,05
18,60
21,89
6,94
7,6
5,83
2,42
2,51
Tốc độ tăng, giảm VĐK
Liên hoàn
(%)
-
-46,19
-16,18
-59,76
28,44
25,92
-38,56
-23,36
Định gốc (%)
-
-46,19
-54,90
-81,85
-76,69
-70,65
-81,97
-86,18
Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư
Nhịp độ thu hút FDI tăng mạnh bắt đầu 1991 -1995 cả về số lượng dự án lẫn số vốn dự án. Năm 1996 là đỉnh cao về số lượng dự án FDI(308 dự án) thu hút được và số vốn đăng ký (8640 triệu USD). Điều này có được do có 2 dự án với quy mô lớn(hơn 3 tỷ USD/năm) đầu tư vào đô thị Hà Nội và TPHCM được phê duyệt.
Tuy nhiên bắt đầu từ 1997, FDI vào Việt Nam có xu hướng giảm, nhất là trong 2 năm 1998,1999 giảm cả về số lượng dự án và số vốn đăng ký. Nhìn vào bảng ta thấy lượng vốn FDI năm 1997 là 4649,1 triệu USD giảm xuống còn 3897,4 triệu USD năm 1998 và 1568 triệu USD năm 1999. Có thể nói năm 1999 giảm hơn 1/2 so với năm 1998. Sự chững lại và suy giảm này là do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Đông Nam á và sự suy thoái kinh tế Nhật và các nước khác, đồng thời là do cạnh tranh thu hút đầu tư nước ngoài giữa các nước trong khu vực và những hạn chế của môi trường đầu tư. Từ năm 2000 FDI đã có dấu hiệu phục hồi khi có 2 dự án thuộc công trình khí Nam Côn Sơn khoảng gần 1tỷ USD. Đến năm 2001 số dự án tăng lên 435 dự án và năm 2002 là 644 dự án. Năm 2002 là năm có số dự án tăng vốn nhiều nhất kể từ sau cuộc khủng hoảng tài chính trong khu vực. 9 tháng đầu năm 2003 đã thu hút được 476 dự án bằng 81% về số dự án và tăng 5% về vốn đầu tư so với cùng kỳ 2002. Sở dĩ số dự án tăng lên là do chính phủ ban hành một số nghị định (nôỉ bật là nghị định số 24/2000/NĐ -CP), nghị quyết số 09/2001/NQ-CP để cải thiện môi trường đầu tư nhằm nâng cao thu hút vốn FDI.Như vậy cho thấy đã có dấu hiệu của tăng trưởng FDI vào Việt Nam. Tuy nhiên so với những năm đỉnh cao thì lượng vốn FDI còn khiêm tốn.
1.2 Các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam
Cho đến nay Việt Nam tồn tại 3 hình thức FDI, đó là liên doanh, 100% vốn nước ngoài, hợp đồng hợp tác kinh doanh và phương thức BOT.
Bảng 2: FDI phân theo hình thức đầu tư giai đoạn 1988 -9/2003
Hình thức
đầu tư
Số dự án
Tổng vốn
đầu tư
(tỷ USD)
Đầu tư TH
(triệu USD)
Tỷ trọng
(%)
HĐHTKD
157
3,867
5,326,000
23%
LD
1137
18,243
9,683,000
42%
100%
2859
16,891
7,943,000
34%
BOT
6
11,332
704,652
1%
Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư
Qua bảng ta thấy doanh nghiệp liên doanh vẫn là hình thức phổ biến nhất của FDI với tỷ trọng chiếm 42%. Đứng thứ hai là hình thức doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài chiếm 34%. Thứ ba là hợp đồng hợp tác kinh doanh là 23% và cuối cùng là BOT chiếm 1%.
Sở dĩ hình thức liên doanh là phổ biến vì khi các nhà đầu tư bắt đầu xâm nhập vào Việt Nam, họ còn bỡ ngỡ về điều kiện KT - XH và pháp luật của Việt Nam, họ chưa thông đường ngõ tắt trong khi đó thủ tục hành chính để triển khai dự án thì rườm rà, nhiều khâu nhiều nấc, phải giao dịch với các cơ quan chức năng để hoàn thành các điều kiện triển khai công tác xây dựng cơ bản cũng như thực hiện các dự án. Chính vì vậy, các nhà đầu tư lúc đầu thường lựa chọn hình thức liên doanh để phía đối tác Việt Nam sẽ đứng ra phụ trách các thủ tục về mặt hành chính, pháp lý một cách nhanh chóng và hiệu quả cao.
Tuy nhiên càng ngày hình thức doanh nghiệp liên doanh ngày càng có xu hướng chuyển sang hình thức 100% vốn nước ngoài. Nguyên nhân là vì: sau một thời gian hợp tác, các nhà đầu tư thông thạo hơn về chính sách, pháp luật, cách thức hoạt động kinh doanh. Mặt khác Nhà nước ta đang từng bước cải thiện bộ máy hành chính theo hướng ngày càng đơn giản, giảm thiểu các khâu rườm rà, đồng thời có nhiều tổ chức tư vấn đầu tư ra đời hỗ trợ các nhà đầu tư thực hiện các thủ tục triển khai, hoạt động sản xuất kinh doanh. Chính vì vậy, vai trò của đối tác Việt Nam trong việc phụ trách các thủ tục hành chính bị giảm một cách đáng kể. Mặt khác trong quá trình phát triển các doanh nghiệp liên doanh của Việt Nam đã xuất hiện tình trạng không tương xứng về mặt tiềm lực tài chính, công nghệ, trình độ quản lý.Xu hướng giảm về số lượng dự án và vốn đăng ký đầu tư theo hình thức này chứng tỏ sự hợp tác yếu kém của Việt Nam. Do đó các nhà đầu tư nước ngoài muốn nhanh chóng thoát khỏi sự tham gia quản lý của phía Việt Nam.
1.3 Các quốc gia lãnh thổ đầu tư ở Việt Nam
Xét quốc gia đầu tư, trong giai đoạn 1988 – 9/2003, có 10 quốc gia sau dẫn đầu về FDI vào Việt Nam.
Bảng 3: Các quốc gia dẫn đầu về FDI vào Việt Nam giai đoạn 1988 - 9/2003
STT
Nước, vùng
lãnh thổ
Số dự án
TVĐT
(triệu USD)
Vốn pháp
định
Đầu tư thực hiện
1
Singapore
282
7,354
2,477
2,769
2
Đài Loan
1,036
5,691
2,598
2,523
3
Nhật Bản
405
4,453
2,283
3,851
4
Hàn Quốc
605
3,938
1,625
2,282
5
Hồng Kông
282
3,015
1,327
1,762
6
Pháp
131
2,112
1,321
1,043
7
British Virgin Islands
181
2,055
790
1,042
8
Hà Lan
50
1,704
1,134
1,679
9
Thái Lan
117
1,383
480
600
10
Vương Quốc Anh
51
1,195
436
1,178
Nguồn : Bộ Kế hoach và Đầu tư
10 quốc gia trên chiếm trên 75% tổng vốn FDI tại Việt Nam. Singapore là quốc gia dẫn đầu về FDI tại Việt Nam với tổng số dự án lớn nhất là 282 với tổng vốn đầu tư lớn nhất là 7.354 triệu USD. Nhưng Nhật Bản lại là nước dẫn đầu về số vốn đầu tư thực hiện nhiều nhất (3,851triệu USD) mặc dù số dự án không nhiều bằng Singapore, Đài Loan. Trong tổng vốn đầu tư này thì có tới trên 60% tổng số dự án đến từ các quốc gia Châu á. Điều đó cho thấy môi trường đầu tư và khả năng sinh lợi của Việt Nam phù hợp với trình độ, điều kiện của nước châu á. Các nhà đầu tư Châu âu chiếm tỷ lệ khiêm tốn. Mỹ là nước đầu tư lớn nhất thế giới nhưng tỷ phần đầu tư của Mỹ vào Việt Nam còn chưa cao, số lượng tập đoàn lớn đầu tư tại Việt Nam còn chưa nhiều lắm (Năm 2002: 34 dự án và tổng vốn đăng ký là 139,67 triệu USD). Thực trạng trên phản ánh tính hạn chế của môi trường đầu tư tại Việt Nam.
1.4 Tình hình đầu tư trực tiếp nước ngoài theo cơ cấu ngành.
Xét về cơ cấu: vốn FDI chỉ tập trung chủ yếu vào lĩnh vực công nghiệp và xây dựng đạt 15,88 tỷ USD, chiếm 67%. Tiếp là dịch vụ đạt 6,26 tỷ USD, chiếm 26,5%. Số còn lại là trong lĩnh vực nông, lâm nghiệp đạt 1,47 tỷ USD chiếm 6,5% tổng vốn đầu tư.
Qua thực trạng trên ta thấy lượng FDI biểu hiện cơ cấu kinh tế của đất nước ta là công nghiệp - dịch vụ - nông nghiệp. Đây cũng là cơ cấu phù hợp với giai đoạn công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Việt Nam đang có nhu cầu xây dựng kết cấu cơ sở hạ tầng rất lớn. Mặt khác vốn FDI chảy vào công nghiệp xây dựng nhiều vì tỷ suất lợi nhuận cao, độ rủi ro thấp. Tuy là một nước có truyền thống nông nghiệp – một ngành tiềm năng của đất nước ta với 80% lao động trong ngành trong khi đó hiện nay nông nghiệp lại thu hút được lượng vốn FDI rất khiêm tốn so với tiềm năng của mình (chỉ chiếm 6,5% vốn đầu tư). Các nhà đầu tư hiện nay còn dè dặt đầu tư vào lĩnh vực này vì tỷ suất lợi nhuận thấp. Sản xuất nông nghiệp phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên nên độ rủi ro cao, mặt khác lại đòi hỏi diện tích khá lớn, đặc biệt là cơ sở hạ tầng nông thôn lạc hậu gây khó khăn cho quá trình đầu tư.
1.5 Tình hình đầu tư trực tiếp nước ngoài theo cơ cấu vùng kinh tế.
Hiện nay, dòng vốn FDI chảy vào Việt Nam đến với tất cả 61 tỉnh, thành phố trong cả nước. Không ít địa phương miền Bắc Bộ và duyên hải Trung Bộ đã và đang trở thành địa bàn hấp dẫn đối với vốn FDI. Đó là kết quả phấn đấu tích cực của chính quyền các địa phương cùng với sự hỗ trợ mạnh của Bộ Kế hoạch -Đầu tư, nhất là những tỉnh thuộc các vùng sâu, vùng xa, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội còn khó khăn.
Mặc dù nhà nước ta đã đề ra chính sách chuyển dịch cơ cấu vùng kinh tế, thu hẹp khoảng cách giữa các vùng thông qua hoạt động FDI. Tuy nhiên FDI chỉ chảy vào những vùng thuận lợi về cơ sở hạ tầng kỹ thuật, về điều kiện kinh tế xã hội lần lượt như Đông Nam Bộ, Đồng Bằng sông Hồng, Duyên Hải Nam Trung Bộ, đồng bằng sông Cửu Long, Bắc Trung Bộ, Tây Nguyên và Tây Bắc. Trong 8 vùng kinh tế này, FDI chỉ tập trung vào một số địa bàn thuận lợi, chủ yếu vào 5 thành phố và tỉnh sau đạt 15 tỷ USD chiếm trên 60% tổng vốn thực hiện của cả nước, trong đó TPHCM có vốn thực hiện cao nhất, đạt 5,4%USD, chiếm 28,6%; rồi tới Hà Nội vốn thực hiện đạt 3,1 tỷ USD, chiếm 16,2% và Đồng Nai đạt xấp xỉ 3 tỷ USD chiếm 15,5%. Sau đó là Bình Dương chiếm 8,3% , Bà Rịa Vũng Tàu chiếm 5,9% và Hải Phòng chiếm 5,7%. Hầu như lượng vốn FDI tập trung ở phía Nam, nơi có cơ sở hạ tầng tốt hơn, tập quán kinh doanh phù hợp với kinh tế thị trường và bộ máy hành chính đơn giản, bớt rườm rà hơn ngoài Bắc.
Từ các tình hình trên ta thấy vấn đề thu hút FDI theo lãnh thổ kết hợp giữa mục tiêu của Nhà nước và tiềm năng kinh tế vùng sẽ đạt kết quả như mong muốn. Đây là vấn đề mà chúng ta cần phải lưu ý điều chỉnh để đưa ra giải pháp thu hút vốn FDI có hiệu quả hơn.
Cho đến nay có thể đánh giá là khu vực đầu tư nước ngoài đã tăng lên đáng kể cả về số lượng lẫn vốn đầu tư và thực sự trở thành một bộ phận cấu thành của nền kinh tế Việt Nam, vốn FDI chiếm từ trên 25% tổng vốn đầu tư toàn xã hội.
2. Kết quả
Hoạt động FDI ở Việt Nam đã có những đóng góp tích cực trong phát triển kinh tế xã hội và dựa vào sản xuất kinh doanh đã khẳng định rõ nét vai trò vị trí của FDI trong nền kinh tế Việt Nam.
FDI đã bổ sung nguồn lực vốn quan trọng cho đầu tư phát triển. Kể từ khi thi hành Luật ĐTNN tại Việt Nam cho tới nay các dự án FDI đã có vốn thực hiện là 23,6 tỷ USD, trong đó phần góp vốn của bên Việt Nam chiếm khoảng 11 -15%. Hiện nay khu vực FDI chiếm khoảng 25% tổng vốn đầu tư toàn bộ xã hội (thời kỳ 1991- 1995 chiếm trên 1/3 và thời kỳ 1996 - 2000 chiếm khoảng 1/3 tổng vốn đầu tư toàn xã hội), kịp thời bổ sung nguồn vốn quan trọng cho đầu tư phát triển kinh tế – xã hội của đất nước.
FDI góp phần đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế. Khu vực FDI có tỷ lệ đóng góp trong GDP tăng dần qua các năm: năm 1992 đóng góp của khu vực FDI vào GDP là 2%; năm 1996 là 7,4%; năm 2000 là 12,7%; năm 2001 là 13,1%; và năm 2002 là 13,9%. Riêng lĩnh vực công nghiệp, tốc độ tăng trưởng công nghiệp đạt 20% và trong nhiều năm, luôn luôn cao hơn tốc độ tăng trưởng công nghiệp của cả nước và là động lực tăng trưởng công nghiệp của cả nước. FDI hiện tạo ra 35% giá trị sản lượng công nghiệp, góp phần đưa tốc độ tăng trưởng công nghiệp cả nước tăng khoảng 11-13 %/năm. Về kết quả xuất khẩu đạt được trong các năm qua phải kể đến sự đóng góp có hiệu quả của các doanh nghiệp có vốn FDI, thời kỳ 1996 - 2000 đạt trên 10,6 tỷ USD, tăng hơn 8 lần so với 5 năm trước và chiếm 23% kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Khu vực FDI cũng đang tạo việc làm cho khoảng 650 nghìn người, đồng thời thúc đẩy nâng cao trình độ tay nghề cho người lao động.
FDI đă tăng cường chuyển giao công nghệ tiên tiến và kinh nghiệm quản lý cho bên nhận đầu tư.
FDI góp phần mở rộng thị trường trong nước, thúc đẩy các hoạt động dịch vụ phát triển, tạo cầu nối cho các doanh nghiệp trong nước xuất khẩu tại chỗ hoặc tiếp cận thị trường quốc tế.
3. Tồn tại
- Nguồn vốn FDI vào Việt Nam khá lớn nhưng hình thức thu hút chưa phong phú, tỷ lệ thực hiện vốn chưa cao, khả năng góp vốn của Việt Nam còn nhiều hạn chế.
- Hiện tại đã xuất hiện những bất hợp lý về cơ cấu đầu tư từ nguồn vốn FDI, chủ yếu bắt nguồn từ sự yếu kém trong công tác quy hoạch. Vốn FDI tập trung vào dịch vụ nhưng chủ yếu là hoạt động bất động sản trong khi đó các dịch vụ tài chính, ngân hàng, tư vấn, chuyển giao công nghệ còn chưa thực sự mở với đầu tư nước ngoài, vốn trong lĩnh vực thuỷ sản và lâm sản còn quá bé so với tiềm năng của nó. Còn mất cân đối vốn giữa các vùng và địa phương, chỉ chủ yếu tập trung vào các vùng trọng điểm.
- Việc tiếp thu và sử dụng công nghệ, thiết bị máy móc nước ngoài còn hạn chế, chưa góp phần vào hiện đại hoá nền kinh tế. Phần lớn các thiết bị trong các dự án FDI thuộc loại trung bình hay trung bình tiên tiến trong khu vực, ít thiết bị hiện đại, công nghệ cao chủ yếu sử dụng lao động thủ công.
- Khu vực có vốn FDI chưa phát huy được tiềm năng và thế mạnh về xuất khẩu, tỷ lệ đóng góp vào ngân sách còn hạn chế, cơ cấu xuất khẩu chưa đa dạng, chủ yếu tập trung vào ngành may mặc, giày dép, chế biến nông sản phẩm.
- Tuy khu vực có vốn FDI giải quyết việc làm cho người lao động, nhưng chất lượng của đội ngũ lao động còn hạn chế, quan hệ lao động - tiền lương trong khu vực FDI còn nẩy sinh một số hiện tượng phức tạp cần phải sớm xử lý lượng đáng kể chỗ việc làm.
II. Đầu tư trực tiếp nước ngoài trong ngành nông nghiệp ở Việt nam giai đoạn 1988 – 9/2003
1. Tình hình tiếp nhận, cấp phép, thực hiện đầu tư trực tiếp nước ngoài
1.1. Số lượng, quy mô, tốc độ tăng của FDI vào nông nghiệp
Tính từ năm 1988 đến 9/2003, tổng số dự án đăng ký trong toàn ngành có 695 dự án với tổng vốn đăng ký là 5110 triệu USD so với 4159 dự án và trên 40 tỷ USD vốn đầu tư của cả nước. Số dự án thực hiện khoảng 504 với số vốn thực hiện là 1700 triệu USD. Vốn pháp định mà các doanh nghiệp đóng góp là 2346 triệu USD. Bình quân hàng năm ngành nông nghiệp nhận được 33 dự án với số vốn thực hiện khoảng 114 triệu USD. Số liệu cụ thể ở bảng sau:
Bảng 4: Tình hình FDI trong nông nghiệp từ giai đoạn 1988 – 09/2003
Năm
Chỉ tiêu
88-90
91-95
96
97
98
99
00
01
02
09/03
88- 09/03
DAĐK
11
133
37
38
48
69
76
88
112
83
695
VĐK (triệu USD)
69,4
2776,5
605,7
422,1
147,0
331,7
164,6
201,7
215,0
176,6
5110,3
Vốn
pháp định
28,5
1275,5
240,3
162,4
68,2
167,4
86,2
91,4
112,7
113,8
2346,4
QM
(triệu USD)
6,3
20,9
16,4
11,1
3,1
4,8
2,2
2,3
1,9
2,1
7,75
Tốc độ tăng, giảm VĐK
Liên hoàn
(%)
-
-30,3
-65,2
125,6
-50,4
22,5
6,6
-17,9
Định gốc
(%)
-
-30,3
-75,7
-45,2
-72,8
-66,7
-64,5
-70,8
Nguồn :Bộ Kế hoạch và Đầu tư
Như vây, so với toàn bộ các lĩnh vực có._.ục hành chính liên quan đến hoạt động FDI ở những vấn đề sau:
- Đơn giản hoá các thủ tục hành chính và thực hiện chế độ một đầu mối duy nhất tiếp nhận hồ sơ, quyết định cấp giấy phép đầu tư, mở rộng phạm vi các dự án thuộc diện đăng ký cấp giấy phép đầu tư; giúp các đầu tư nước ngoài làm các thủ tục giấy tờ cần thiết và tư vấn về pháp luật.
- Phân định rõ quyền lực và trách nhiệm của các cơ quan Nhà nước đối với các công đoạn thẩm định, cấp giấy phép đầu tư và cấp đất cùng với các giấy tờ có liên quan khác, giải quyết những vấn đề phát sinh.
- Giải quyết nhanh các thủ tục cấp đất, giao đất, đền bù, giải phóng mặt bằng giúp các dự án đi nhanh vào hoạt động. Không cho phép các chủ đầu tư được sữa bản thiết kế quá 3 lần, điều nay buộc chủ đầu tư phải nghiên cứu kỹ từng chi tiết thiết kế trước khi gửi hồ sơ xin giấy phép đầu tư và giấy phép xin xây dựng.
- Các bộ, ngành, địa phương quy định rõ ràng công khai các thủ tục hành chính, giảm bớt những thủ tục không cần thiết, kiên quyết xử lý các trường hợp gây sách nhiễu, cửa quyền, tiêu cực và vô trách nhiệm đối với các cán bộ công quyền, công chức nhà nước.
- Kiến nghị bãi bỏ những loại giấy phép quy định không cần thiết với hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài.
- Thường xuyên tổ chức các cuộc gặp gỡ hội thảo giữa các cơ quan quản lý nhà nước với hiệp hội các doanh nhân nước ngoài trong nông nghiệp để hướng dẫn về pháp luật, chính sách, giải quyết kịp thời các vướng mắc của nhà đầu tư về các thủ tục, chính sách.
2. Nâng cao chất lượng công tác định hướng quy hoạch.
Việc xây dựng kế hoạch quy hoạch là khâu quan trọng nhằm đảm bảo cho nguồn FDI vào phát triển nhà nước theo chiến lược phát triển kinh tế xã hội của Đảng và Nhà nước. Nội dung quy hoạch phải thể hiện được ý đồ thực hiện CNH -HĐH nông nghiệp nông thôn mà trọng tâm hiện nay là thực hiện hai chương trình kinh tế lớn, giải quyết việc làm và xoá đói giảm nghèo.
Chính vì vậy, khi xây dựng quy hoạch, chúng ta phải căn cư vào định hướng kinh tế xã hội trong từng thời kỳ của cả nước, căn cứ vào phát triển ngành nông nghiệp, căn cứ vào quy hoạch phát triển của từng địa phương, xuất phát từ nhu cầu thị trường và khả năng của mình.
Cụ thể là:
- Hướng chủ yếu tập trung thu hút nguồn vốn FDI vào việc phát triển công nghiệp hỗ trợ nông nghiệp chế biến nông sản phẩm gắn với các vùng nguyên liệu và lao động nông thôn, kết hợp nhiều loại quy mô trên cơ sở công nghệ tiên tiến để tăng năng lực chế biến phân bón nông, lâm sản hàng hoá của các vùng, các địa phương đáp ứng nhu cầu xuất khẩu ra nước ngoài và tiêu dùng trong nước, nâng cao khả năng cạnh tranh của nông sản hàng hoá của nước trên thị trường khu vực và thế giới, nâng tỷ trọng hàng xuất khẩu qua chế biến lên 90%.
- Các dự án FDI cần được phân bố hợp lý, đồng đều trên tất cả 7 vùng kinh tế của đất nước thông qua các chính sách và biện pháp khuyến khích, ưu đãi thoả đáng. Vùng sâu, vùng xa và các vùng kinh tế khó khăn đã và đang sẽ là đối tượng luôn được đặc biệt chú ý trong công tác quy hoạch.
- Phải đặt ra yêu cầu cho tất cả các dự án cấp giấy phép nằm trong quy hoạch phát triển, tránh tình trạng cùng một thời điểm có quá nhiều dự án được cấp giấy phép dẫn đến hiện tượng đầu tư tràn lan, kém hiệu quả, công suất khai thác thấp.
- Các cơ quan chủ quản nắm bắt nhanh chóng kịp thời và chuẩn xác nhu cầu thị trường (trong và ngoài nước) làm cơ sở cho việc xây dựng và công bố các dự án gọi vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Trong quy định phải xác định rõ những dự án trong nước tự làm và những dự án gọi vốn FDI, dự kiến quy mô, đối tác, địa điểm và tiến độ thực hiện của các dự án để đảm bảo điều chỉnh đúng hướng, đúng cơ cấu kinh tế, nâng cao hiệu quả đầu tư. Tạo thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài trong việc tìm hiểu cơ hội đầu tư trong nông nghiệp Việt Nam.
3. Nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về FDI
- Các cơ quan cấp giấy phép đầu tư phải thường xuyên rà soát phân loại các dự án FDI đã được cấp giấy phép đầu tư để có những biện pháp thích hợp, kịp thời tháo gỡ cho các doanh nghiệp FDI.
Đối với các doanh nghiệp đã đi vào sản xuất kinh doanh, các Bộ, ngành và Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, trong phạm vi thẩm quyền của mình, cần động viên khen thưởng kịp thời để khuyến khích các doanh nghiệp hoạt động tốt tiếp tục phát triển, đồng thời cần có biện pháp thích hợp để tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiêp, đặc biệt là các vấn đề liên quan đến thị trường tiêu thụ sản phẩm, các nghĩa vụ thuế.
Đối với các dự án đã hoàn thành các thủ tục hành chính và đang trong giai đoạn xây dựng cơ bản, cần theo dõi tiến độ thực hiện, kịp thời phát hiện và tháo gỡ các khó khăn phát sinh như nhập khẩu máy móc thiết bị, các thủ tục hải quan, miễn thuế, đào tạo và tuyển dụng lao động…
Đối với các dự án mới cấp phép, đang triển khai thực hiện các thủ tục hành chính, các Bộ, ngành và Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh tích cực hỗ trợ doanh nghiệp tháo gỡ khó khăn, nhất là trong khâu đền bù, giải phóng mặt bằng để nhanh chóng hoàn thành xây dựng cơ sở, công trình hạ tầng ngoài hàng rào của các doanh nghiệp…để đưa doanh nghiệp vào sản xuất kinh doanh.
Đối với các dự án chưa triển khai hoặc tạm dừng đầu tư: cần tiếp tục kiểm tra xử lý sớm từng trường hợp cụ thể như sau:
+ Các dự án chưa triển khai hoặc tạm dừng nhưng có khả năng tiếp tục đầu tư, cần tập trung hổ trợ tháo gỡ và đôn đốc để có thể triển khai sớm. Riêng đối với một số dự án có khả năng chuyển đổi đối tác, cần tạo điều kiện để các nhà đầu tư nước ngoài khác quan tâm có năng lực được tiếp tục đầu tư.
+ Các dự án không có khả năng triển khai tiếp tục cần tiến hành xem xét, thu hồi giấy phép đầu tư, để dành đất cho các dự án đầu tư mới.
- Tiếp tục thực hiện chủ trương phân cấp quản lý nhà nước về FDI cho Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh trên cơ sở đảm bảo nguyên tắc tập trung, thống nhất quản lý về quy hoạch, cơ cấu, chính sách và cơ chế, trong đó chú trọng phân cấp quản lý nhà nước đối với hoạt động sau giấy phép của các dự án có vốn FDI, tăng cường sự hướng dẫn kiểm tra của các Bộ, ngành Trung ương. Có cơ chế xử lý nghiêm khắc các trường hợp vi phạm pháp luật, chính sách, quy hoạch trong việc thực hiện chủ trương phân cấp quản lý nhà nước về FDI, kể cả việc chấm dứt hiệu lực của các giấy phép đầu tư cấp sai quy định.
4. Khai phá mở rộng thị trường nông lâm sản.
Động lực để các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào Việt Nam là lợi nhuận và thị trường trong nước. Tuy vậy, lợi nhuận của các dự án đầu tư trong nông nghiệp thường có tỷ suất lợi nhuận thấp. Tuy dân số đông nhưng quy mô của thị trường tiêu thụ Việt Nam nhỏ, sức mua thấp….Vì vậy việc mở rộng và phát triển thị trường trong nước và xuất khẩu sẽ giúp cho các doanh nghiệp đầu tư vào sản xuất kinh doanh càng có điều kiện phát triển nhanh và thu được nhiều lợi nhuận. Để phát triển mở rộng thị trừơng chúng ta có thể làm theo một số hướng sau:
- Thiết lập hệ thống thị trường đồng bộ, tạo điều kiện cho thị trường đầu tư có hiệu quả, nhanh chóng hoàn thiện các thị trường tài chính, lao động….và phát triển các ngành dịch vụ, tài chính ngân hàng, đáp ứng những đòi hỏi bức bách của hoạt động sản xuất kinh doanh.
- ở trong nước, cần tiếp tục khuyến khích hệ thống dịch vụ nông thôn, bãi bỏ sự kiểm soát có tính ngăn sông cấm chợ, bãi bỏ các loại thuế lưu thông đối với các hàng hoá nông, lâm, hải sản trên mọi tuyến lưu thông trong nước; khuyến khích phát triển công nghiệp bảo quản, chế biến các loại nông lâm hải sản đáp ứng nhu cầu đa dạng của thị trường; khuyến khích mọi thành phần kinh tế kể cả tư nhân tham gia tìm kiếm thị trường xuất khẩu, bãi bỏ các thủ tục phiền hà gây khó dễ cho hoạt động xuất khẩu.
- ưu đãi cho các nhà đầu tư nước ngoài hoạt động trong lĩnh vực xuất khẩu nông, lâm, hải sản; hỗ trợ, giúp đỡ mở rộng thị trừơng xuất khẩu các sản phẩm của mình như quảng cáo, ký hiệp định song phương, đa phương, nghiên cứu và tìm kiếm thị trường xuất khẩu sản phẩm.
5. Đẩy mạnh vận động, xúc tiến đầu tư
- Trước tiên, đổi mới về nội dung và phương thức vận động xúc tiến đầu tư
Đối với danh mục dự án kêu gọi đầu tư đã được phê duyệt, quy hoạch thì cần có chương trình, kế hoạch chủ động vận động, xúc tiến đầu tư một cách cụ thể đối với từng dự án, trực tiếp với từng tập đoàn, công ty đa quốc gia, các nhà đầu tư có tiềm năng và cả Việt kiều tại hải ngoại.
- Chú trọng xúc tiến đầu tư để thu hút các dự án đầu tư nước ngoài mới và các hoạt động hỗ trợ các nhà đầu tư để triển khai hiệu quả các dự án FDI đang hoạt động. Giải quyết kịp thời các khó khăn vướng mắc để các doanh nghiệp FDI đang hoạt động thuận lợi. Biểu dương khen thưởng kịp thời các doanh nghiêp, nhà đầu tư nước ngoài có thành tích xuất sắc trong kinh doanh, có đóng góp thiết thực vào xây dựng đất nước. Đồng thời phê phán, xử lý những trường hợp vi phạm pháp luật Việt Nam.
- Cần nhấn mạnh vai trò xúc tiến đầu tư của các địa phương, khuyến khích và hỗ trợ các địa phương mở các văn phòng xúc tiến thương mại và đầu tư ở những nước là đối tác lớn và có tiềm năng.
- Đa dạng hoá các hoạt động xúc tiến đầu tư thông qua các hoạt động đối ngoại của lãnh đạo Đảng và Nhà nước, các diễn đàn quốc tế, các hoạt động xúc tiến đầu tư trong khuôn khổ hợp tác như AIA, ASEAN, APEC, các cuộc hội thảo về đầu tư ở trong và ngoài nước; sử dụng tổng hợp các phương tiện xúc tiến đầu tư qua truyền thông đại chúng, mạng Internet , tiếp xúc trực tiếp, …
- Đẩy mạnh việc tuyên truyền giới thiệu về hoạt động FDI để tạo dựng hình ảnh mới về Việt Nam; tạo sự đánh giá thống nhất vể FDI trong dư luận xã hội.
- Các cơ quan đại diện ngoại giao - thương mạiViệt Nam có trách nhiệm làm tốt việc vận động xúc tiến đầu tư vào Việt Nam, bố trí cán bộ làm công tác xúc tiến đầu tư ở một số địa bàn trọng điểm. Tăng cường cán bộ làm công tác xúc tiến đầu tư ở các Bộ, ngành, địa phương.
- Bố trí nguồn tài chính cho hoạt động xúc tiến đầu tư trong kinh phí ngân sách chi thường xuyên hàng năm của các Bộ, ngành, địa phương.
- Tăng cường công tác nghiên cứu tình hình kinh tế, thị trường đầu tư, chính sách đầu tư ra nước ngoài của các nước, các tập đoàn, các công ty lớn để có chính sách thu hút FDI của các nước trong khu vực để kịp thời có đối sách thích hợp.
- Xây dựng, hoàn thiện hệ thống thông tin về FDI làm cơ sở cho việc hoạch định chính sách, quản lý hoạt động FDI, mở rộng tuyên truyền đối ngoại trên cơ sở sử dụng thông tin hiện đại. Xây dựng và đưa vào hoạt động trang Web về FDI để phục vụ việc cung cấp thông tin cập nhật về chủ trương, chính sách pháp luật về đầu tư, giới thiệu các dự án kêu gọi đầu tư, biểu dương những dự án thành công….
6. Chú trọng công tác đào tạo cán bộ, công nhân kỹ thuật.
FDI có vai trò quan trọng trong tiếp thu kỹ thuật, chuyển giao công nghệ. Để tiếp thu được những khoa học kỹ thuật mới này cần phải có đội ngũ cán bộ, kỹ sư và công nhân lành nghề. Ngoài ra đồng vốn FDI có được sử dụng hiệu quả hay lãng phí cũng do người quản lý nó, nếu quản lý không tốt sẽ không thoát cảnh nghèo, lạc hậu lại càng lạc hậu hơn… Vì vậy, Nhà nước cần phải có một đội ngũ cán bộ làm việc trong các doanh nghiệp liên doanh có năng lực, đạo đức để đảm bảo lợi ích cho bên Việt Nam, của người lao động và hợp tác với các nhà đầu tư nước ngoài trong sản xuất kinh doanh. Nhà nước cần phải chú trọng hơn nữa cho công tác đào tạo và nâng cao chất lượng lao động theo hướng:
- Tăng cường đào tạo cán bộ quản lý, công nhân có tay nghề cao theo hướng vừa trang bị kiến thức cơ bản, vừa đào tạo chuyên sâu. Chúng ta cần phải tập trung đầu tư phát triển các trường dạy nghề để đào tạo lao động có tay nghề cao. Để làm được điều này cần khuyến khích hơn nữa phát triển hợp tác quốc tế trong đào tạo nghề, khuyến khích sự tham gia của các doanh nghiệp với các cơ sở đào tạo này.
- Bên cạnh việc đào tạo, trang bị về kiền thức kinh tế – chính trị, tinh thông chuyên môn nghiệp vụ, ngoại ngữ để nắm bắt yêu cầu của thời đại. Cần phải bồi dưỡng nâng cao bản lĩnh chính trị vững vàng của những cán bộ, công nhân trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Cùng với việc bồi dưỡng, đào tạo bản lĩnh chính trị, chúng ta cần phải bố trí các tổ chức Đảng, Đoàn trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
7. Đầu tư cải thiện điều kiện cơ sở hạ tầng cho nông nghiệp nông thôn.
Cơ sở hạ tầng là một trong những yếu tố quan trọng mà nhà đầu tư rất quan tâm khi tiến hành đầu tư vì nó trực tiếp tác động hiệu quả của công cuộc đầu tư.
Việc cải thiện cơ sở vật chất kỹ thuật là thật sự cần thiết mở đường cho việc thu hút và sử dụng vốn đầu tư nước ngoài. Những trở ngại về cơ sở hạ tầng yếu kém, những bất cập của yếu tố quản lý cần sớm khắc phục. Cơ sở hạ tầng “cứng” ở Việt Nam như đường sá, cầu, bến cảng, sân bay, điện nước, thông tin liên lạc đã được ưu tiên thay đổi sâu sắc, góp phần quan trọng vào việc phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam trong những năm qua. Tuy nhiên so với các nước trong khu vực và các nước công nghiệp phát triển thì cơ sở hạ tầng của Việt Nam còn lạc hậu (trừ thông tin liên lạc,viễn thông). Việc xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật và kết cấu hạ tầng cho nông nghiệp nông thôn là điều kiện tiên quyết để nông nghiệp phát triển nhanh, hiệu quả. Trong điều kiện hiện nay của Việt Nam những vùng còn có nhiều tiềm năng để phát triển nông nghiệp chủ yếu ở các vùng trung du miền núi đất rộng người thưa nhưng cơ sở vật chất kỹ thuật ở nông thôn còn yếu kém, công cụ sản xuất còn thô sơ, đơn giản, hệ thống điện, đường, trường, trạm nhiều nơi còn không có. Chính vì vậy, việc phát triển cơ sở vật chất kỹ thuật ở nông thôn Việt Nam là rất cần thiết và là cơ sở để nâng cao hơn nữa FDI vào nông nghiệp. Từ vấn đề này chúng ta có thể có một số giải pháp sau:
- Nhà nước cần dành tỷ lệ ngân sách đầu tư cho nông nghiệp cao hơn mức hiện tại và quy định vốn ngân sách này chỉ để xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng cho ngành nông nghiệp. Khuyến khích xây dựng các dự án, chương trình phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn theo hình thức nhà nước và nhân dân cùng làm. Trước mắt cần ưu tiên các công trình đường xá, điện, trạm phục vụ, đáp ứng cho nhu cầu của ngành nông nghiệp.
- Phát hành trái phiếu công trình có sự đảm bảo của ngân sách nhà nước để đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng cho ngành nông nghiệp. Trái phiếu loại này có thể phát hành ở hai cấp, cấp Trung ương đối với công trình có quy mô quốc gia và trái phiếu địa phương với các công trình do tỉnh quản lý.
- Ngoài việc chúng ta tự đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng nông nghiệp nông thôn, cần thu hút các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào lĩnh vực này đó là: đổi giá trị quyền sử dụng đất và tài nguyên trong các dự án FDI lấy công trình hạ tầng phục vụ phát triển nông nghiệp. Khuyến khích đầu tư nước ngoài vào các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng cho phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn. Nhà nước cần có chính sách đặc biệt ưu đãi đối với các loại dự án này như là miễn tiền thuê đất trong một số năm. Khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư theo hình thức BOT, BTO và BT với nhiều hình thức hơn nữa.
- Gắn việc xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật và hệ thống kết cấu hạ tầng với các dự án khai thác tài nguyên, xây dựng vùng nguyên liệu với các chính sách cho các nhà đầu tư khai thác, sản xuất và tiêu thụ sản phẩm.
- Đảm bảo nguyên tắc quản lý vốn tập trung thống nhất, đặc biệt là vốn ngân sách. Sức mạnh quản lý và nguồn thu ngân sách phải tập trung ở trung ương để đảm bảo các công trình hạ tầng đựơc cấp vốn phải phục vụ lợi ích cho quốc gia.
- Mở rộng quyền tự chủ về tài chính cho địa phương trong việc bảo đảm mục đích, khả năng kiểm soát thực hiện việc phát triển cơ sở hạ tầng nông nghiệp. Các địa phương phải cân đối thu chi đảm bảo nguồn vốn được giao. Các địa phương phải có kế hoạch xây dựng cơ sở hạ tầng phù hợp với nguồn vốn được giao và phù hợp với phát triển nông nghiệp của mình.
- Trong quá trình xây dựng kết cấu hạ tầng của mình phải ưu tiên đầu tư vào các vùng khó khăn và đặc biệt khó khăn tập trung dứt điểm một số công trình trọng điểm để tăng khả năng thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài.
8. Huy động vốn trong nước để tăng cường tính hiệu quả của FDI
Nguồn vốn đầu tư trong nước đóng vai trò quyết định, nguồn vốn nước ngoài là quan trọng trong quá trình tăng trưởng và phát triển kinh tế đất nước. Đồng thời nguồn vốn trong nước là vốn đối ứng, là “bước đệm” thu hút và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn FDI. Thực tế trong thời gian qua trong các doanh nghiệp liên doanh, phần góp vốn của các doanh nghiệp còn thấp, trung bình chỉ đạt 30%. Hơn nữa trong các doanh nghiệp này hầu như mới chỉ có doanh nghiệp nhà nước (chiếm khoảng 95%) tham gia hợp tác kinh doanh với nước ngoài, còn có thành phần kinh tế khác mới chỉ (chiếm 5%). Vốn trong nước đóng góp ít không những ảnh hưởng đến phần lợi nhuận được chia mà điều quan trọng hơn là về lâu dài quyền chi phối các hoạt động kinh doanh sẽ thuộcvề các nhà đầu tư nước ngoài. Để hạn chế sư chi phối của các nhà đầu tư nước ngoài và nâng cao hiệu quả của các nhà đầu tư nước ngoài chúng ta cần phải huy động nhiều hơn nữa vốn trong nước để đầu tư, hợp tác với nước ngoài nói chung và trong nông nghiệp nói riêng. Để huy động nguồn vốn này cho hợp tác với nước ngoài thì bên Việt Nam cần có một số biện pháp sau:
- Đối với các dự án thông thường, không đòi hỏi cao chuyên môn nghiệp vụ thì nên cần huy động nhiều thành phần kinh tế, nhiều bên Việt Nam tham gia liên doanh góp vốn với nhau.
- Đối với các dự án đầu tư quan trọng, đòi hỏi tính chuyên môn cao thì phía đối tác Việt Nam phải là những tổ chức chuyên ngành, những công ty mạnh. Trong trường hợp cần thiết có thể huy động các tổ chức Việt Nam khác cùng tham gia nhưng tổ chức chuyên ngành phải nắm vai trò chủ đạo.
- Khuyến khích các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế – xã hội, các cá nhân trong nước và Việt Kiều mua cổ phần tăng vốn đóng góp cho các dự án FDI trong nông nghiệp. Thu nhập từ cổ phần có thể được nhà nước miễn thuế lợi tức, thuế thu nhập công ty,thuế thu nhập cá nhân.
- Tạo điều kiện cho các doanh nghiệp liên doanh kết hợp với các đối tác mới để tạo liên doanh mới, làm tăng quy mô đầu tư phương thức đầu tư này có ưu điểm là giảm được nhiều thủ tục hành chính so với hình thành một liên doanh thực hiện dự án mới.
- Thành lập các quỹ đầu tư trong nước cũng như cho phép các quỹ đầu tư nước ngoài hoạt động ở Việt Nam để cấp vốn cho các bên trong và ngoài nứơc tham gia liên doanh. Ngoài ra để giúp các doanh nghiệp Việt Nam có điều kiện tích tụ, tập trung và tích luỹ vốn nhanh hơn thì cần phải có chính sách ưu đãi như giảm thuế lợi tức; thuế suất nhập khẩu với mức hợp lý hơn.
III. Giải pháp trong phạm vi bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn
1. Xây dựng các danh mục dự án (tóm tắt dự án) cần kêu gọi vốn ĐTNN trong thời gian tới của ngành nông nghiệp, một cách cụ thể, rõ ràng vê lĩnh vực đầu tư, địa bàn đầu tư để các nhà ĐTNN nắm rõ được đầy đủ các thông tin trước khi đầu tư. Đồng thời, công bố cùng với chiến lược phát triển của ngành trên trang Web của bộ NN&PTNT để nhà ĐTNN dựa trên chiến lược đó mà vạch ra kế hoạch đầu tư.
2. Tìm biện pháp khuyến khích các trường dạy nghề trực thuộc bộ NN&PTNT chú trọng đào tạo lao động theo yêu cầu của cơ chế thị trường; đáp ứng tốt các nhu cầu của nhà đầu tư nước ngoài về chất lượng lao động và đủ trình độ quản lý công nghệ mới, hiện đại.
ở các vùng nông thôn Việt Nam, trình độ dân trí nhìn chung là thấp nên việc đào tạo cán bộ quản lý dự án tốt là rất cần thiết. Do vậy, bộ NN& PTNN cần phải có chính sách riêng cho việc đào tạo cán bộ quản lý dự án, thường xuyên mở các lớp học để bồi dưỡng để các cán bộ quản lý dự án tốt hơn.
Đồng thời, cần có chính sách khuyến khích vật chất đối với người quản lý dự án nhất là cán bộ xã, nông thôn ở các vùng sâu xa, còn nhiều khó khăn để họ yên tâm, tập trung công việc. Kinh nghiệm cho thấy con người quản lý dự án là yếu tố quyết định sự thành bại của dự án.
3. Về mặt tổ chức, sẽ thành lập Ban quản lý các dự án FDI thuộc lĩnh vực nông nghiệp. Các dự án có quy mô lớn của ngành nông nghiệp sẽ tập trung về sự quản lý của ban này, sau đó phân sang các cấp nhưng phải đảm bảo thống nhất thông suốt quan điểm về ĐTNN ở các cấp.
4. Đối với các dự án ĐTNN, chúng ta nên tiếp nhận đầu tư các dự án mà chú ý đến hiệu quả kinh tế của dự án, không nên có ý kiến sâu về hiệu quả tài chính của dự án, tránh gây khó khăn trong việc cấp phép.
5. Cần chú trọng theo dõi tính bền vững và đánh giá tác động của dự án chứ không nên dừng lại theo dõi và đánh giá tình hình thực hiện. Ví dự: đối với các dự án lâm nghiệp có đối tượng là cây rừng có chu kỳ kinh doanh chưa thể đánh giá thành quả của dự án ngay được. Do vậy, đánh giá tác động của dự án hay đánh giá sau dự án và đánh giá tính bền vững của dự án cần được quan tâm đúng mức và tiến hành kỹ lưỡng. Vì vậy, phải có thời gian đánh giá sau dự án và đảm bảo tính bền vững của dự án.
6. Đẩy nhanh quá trình giao đất, rừng và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng cho các đầu tư để họ nhanh chóng thúc đẩy tiến hành sản xuất – kinh doanh. Còn đối với người dân phải có chính sách đền bù thích hợp để họ nhanh chóng di dời.
Kết luận
Đẩy mạnh việc thu hút vốn FDI và không ngừng nâng cao chất lượng công tác quản lý hoạt động của các doanh nghiệp thuộc khu vực FDI là yêu cầu vừa bức xúc vừa cơ bản lâu dài trong chiến lược phát triển kinh tế đối ngoại của nhà nước ta. Đồng thời cũng là đòi hỏi khách quan của một nền kinh tế mở cửa hội nhập thị trường khu vực và thế giới.
Thực hiện nhất quán đường lối đổi mới đất nước, thời gian qua, công tác kêu gọi, thu hút nguồn FDI vào các ngành, lĩnh vực của nền kinh tế nói chung, lĩnh vực nông nghiệp nông thôn nói riêng đã thu được những kết quả quan trọng, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành theo hướng phát triển bền vững, hiệu quả và nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng nông sản nước ta trên thị trường thế giới. Trong 15 năm qua (1988 -2003) FDI đã sản xuất ra 37,373 triệu USD, giá trị xuất khẩu đạt 20,005triệu USD, đóp góp cho ngân sách nhà nước 2,335 triệu USD, tạo ra chỗ làm việc và thu nhập cho trên 61 vạn lao động.FDI bổ sung nguồn vốn cho các ngành , đặc biệt là ngành nông nghiệp chiếm đến khoảng 34% tổng vốn đầu tư trong nông nghiệp. Vốn FDI đã đóng góp vai trò quan trọng trong việc khôi phục và xây dựng mới kết cấu hạ tầng nông nghiệp nông thôn như xây dựng mới các công trình thuỷ lợi thuỷ nông. Đồng thời cũng tạo ra thị trường ổn định tiêu thụ nông sản nguyên liệu cho nông dân. Cùng với nó FDI mang một số tiến bộ kỹ thuật và công nghệ mới vào phát triển nông nghiệp Việt Nam như công nghệ chế biến đường, công nghệ sinh học áp dụng cho trồng trọt…Bên cạnh đó, việc tiếp nhận FDI cũng gây ra những ảnh hưởng tiêu cực như phụ thuộc về vốn, kỹ thuật, thị trường… và nếu không trách nhiệm và kinh nghiệm chúng ta có thể trở thành bãi thãi công nghệ lỗi thời.
Tuy nhiên, những kết quả nói trên chỉ là bước đầu. Tiềm năng nông nghiệp của nứơc ta còn nhiều, nhu cầu thu hút vốn FDI trong những năm tới rất lớn nhưng tình hình hiện nay đang đặt ra nhiều thách thức mới, nhất là tình trạng ngày càng gay gắt giữa các nước trong khu vực và trên thế giới nhằm giành lợi t hế trong việc thu hút nguồn FDI. Bài học rút ra từ những thành công và chưa thành công trong các năm qua đã chỉ ra sự cần thiết phải khẩn trương tăng cường các biện pháp quản lý và củng cố để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn FDI hơn nữa. Mặt khác, phải không ngừng cải thiện môi trừơng đầu tư, làm tăng tính hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực nông nghiệp. Cần phải tạo được bước chuyển biến đồng bộ ở tất cả các cấp quản lý trong toàn ngành, các tổ chức ; hướng trọng tâm là nâng cao chất lượng công tác quản lý đối với hoạt động FDI đáp ứng yêu cầu của công nghiệp hoá hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn cả nước trong thời gian tới.
Danh mục tài liệu tham khảo
Giáo trình Kinh tế đầu tư - PGS.TS Nguyễn Ngọc Mai chủ biên
Giáo trình Lập và quản lý dự án đầu tư -TS Nguyễn Bạch Nguyệt chủ biên
Giáo trình Kinh tế phát triển -Trường đại học kinh tế quốc dân
Giáo trình Kinh tế nông nghiệp -Trường đại học kinh tế quốc dân"
Giáo trình Kinh tế quốc tế - GS. Tô Xuân Dân chủ biên
Đầu tư nước ngoài -TS Nguyễn Chí Lộc chủ biên
Đầu tư trực tiếp nước ngoài với tăng trưởng kinh tế tại Việt Nam -TS Vũ Trường Sơn.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam cơ sở pháp lý hiện trạng và cơ hội triển vọng - Nguyễn Anh Tuấn, Phan Hữu Thắng, Hoàng Văn Huấn
Những giải pháp chính trị, kinh tế nhằm thu hút có hiệu quả đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam -TS Nguyễn Khắc Luân PGS.TS Chu Văn Cấp.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài của các công ty xuyên quốc gia ở các nước đang phát triển - Học viện quan hệ quốc tế
Môi trường đầu tư nước ngoài ở Việt Nam - Con đường đi tới khu đầu tư ASEAN - Nhóm nghiên cứu viện chiến lược -bộ KH&ĐT
Vốn đầu tư nước ngoài và phát triển kinh tế ở Việt Nam -TS Lê Văn Châu.
Niên giám thống kê 1999,2000, 2001,2002
Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam - Nhà xuất bản chính trị quốc gia
Văn kiện đại hội đảng toàn quốc lần thứ VI,VII,VIII,IX
Nghị quyết của chính phủ Số 09/2001 -NQ -CP
Báo cáo chính trị của ban chấp hành trung ương đảng khoá VIII tại đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng
Báo cáo của lãnh đạo Bộ kế hoạch và đầu tư tại buổi gặp mặt các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài 6/2003
Báo cáo tình hình và kết quả hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài trong lĩnh vực nông lâm nghiệp và phát triển nông thôn thời kỳ 1998 -2001 của bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn
Báo cáo tình hình hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài tháng 9/2003 của Bộ KH&ĐT
Các tạp chí chuyên ngành:
Báo Đầu tư các số
Kinh tế và dự báo các số: 6 & 7/2000, 10 & 11/2000, 2/2003, 5/2003
Kinh tế thế giới các số 2/2000, 6/2003
Nghiên cứu kinh tế: 3/1999, 2/2000, 12/2001.
Kinh tế Châu á Thái Bình Dương: 2/2001, 4/2001, 6/2001, 12/2001
Tạp chí Kinh tế phát triển : 48/2001; 53/2001
Kinh tế nông thôn số 2/1999
Thương mại: 2/2002
Các trang WEB:
http: //www.mard.gov.vn
http:// www.hapi.gov.vn
http:// www.vir.com.vn
Các từ viết tắt
FDI (foreign direct investment) : Đầu tư trực tiến nước ngoài.
ODA (official Development Assistance) : Hỗ trợ phát triển chính thức
LD : Liên doanh.
HĐHTKD : Hợp đồng hợp tác kinh doanh.
100% vốn NN : 100% vốn nước ngoài.
TT & CBNS-TP : Trồng trọt và chế biến nông sản – thực phẩm.
LS & CBLS : Lâm sản và chế biến lâm sản.
CN & CBTAGS : Chăn nuôi và chế biến thức ăn gia súc.
ĐCSVN : Đảng cộng sản Việt nam.
ĐBSCL : Đồng bằng sông Cửu Long.
ĐTNN : Đầu tư nước ngoài.
CNH-HĐH : Công nghiệp hoá - hiện đại hoá
NN&PTNT : Nông nghiệp và phát triển nông. thôn.
KH & ĐT : Kế hoạch và đầu tư.
Phụ lục
Danh mục kêu gọi các dự án FDI
vào ngành nông nghiệp từ 2001 - 2005
Nông Lâm Ngư nghiệp & chế biến thực phẩm
Trồng sắn và chế biến bột, tinh bột sắn
Vĩnh Phúc, Kon Tum
LD hoặc 100% vốn NN hoặc HĐHTKD
Chế biến cà phê
Quảng Trị, Bình Phước, Lâm Đồng, Đắc Lắc, Gia Lai, TPHCM
LD hoặc 100% vốn NN
Trồng và chế biến chè xuất khẩu
Vùng núi phía Bắc: Lào Cai, Yên Bái, Lạng Sơn, Tuyên Quang và Lâm Đồng,...
LD
Chế biến dừa xuất khẩu
Phú Yên, Cà Mau, Bình Định, Bến Tre, Trà Vinh
LD hoặc 100% vốn NN
Chế biến nấm XK
Hải Dương, Đồng Tháp
LD hoặc 100% vốn NN
Dự án sản xuất giống bò sữa, bò thịt chất lượng cao (sử dụng công nghệ sinh học cao).
TP Hồ Chí Minh
Chăn nuôi bò sữa và chế biến các SP từ bò sữa
Lạng Sơn, An Giang, Đồng Tháp, Quảng Nam, Bình Thuận, Đắc Lắc, Lâm Đồng, Thanh Hóa, Sơn La,...
LD hoặc 100% vốn NN
Chăn nuôi và chế biến thịt bò chất lượng cao
Nghệ An, An Giang, Quảng Trị, Bình Phước, Quảng Ninh, Vĩnh Phúc, ...
LD
Chăn nuôi, chế biến thịt lợn, gà, vịt
Bình Dương, Hà Nam, Đà Nẵng, Thái Nguyên, Vĩnh Phúc, Hải Dương, Bình Phước, Lạng Sơn, Nghệ An, Hà Tĩnh, An Giang, Đồng Tháp, Bắc Ninh, Tây Ninh, Cần Thơ, Tiền Giang
LD hoặc 100% vốn NN
Trồng dâu, nuôi tằm, ươm tơ
Hà Nam, Nam Định, Hải Phòng, Hải Dương, Hưng Yên, Thanh Hoá, Cần Thơ và các tỉnh miền Trung
LD hoặc 100% vốn NN
Trồng thông và xây dựng nhà máy chế biến nhựa thông
Lạng Sơn, Quảng Trị, Kon Tum
LD
Nhà máy sản xuất thức ăn gia súc
Thái Bình, Lào Cai, Lạng Sơn, Tuyên Quang, Cà Mau, ...
LD hoặc 100% vốn NN
Trồng rừng (tràm bông vàng) và xây dựng nhà máy sản xuất giấy, gỗ
Hoà Bình, Sơn La
Trồng 50.000 ha rừngCông suất nhà máy 50.000 - 100.000 tấn giấy/năm
SX sơn, ván ép và phân hữu cơ từ nguồn vỏ hạt điều
Các KCN Đồng Nai
Vốn ĐT 6,1 triệu USD; 4000 tấn dầu vỏ điều, 2.000 tấn sơn, 30.000m3 ván ép, 1.500 tấn phân hữu cơ/năm
LD hoặc HĐHTKD
Tạo giống cây rừng bằng công nghệ mới
Phú Thọ
Sản xuất 10-15 triệu cây giống/năm
Trồng bông
Sản xuất gỗ ép từ bã mía, tre nứa
Sơn La
10.000 m3/năm; 5 triệu USD
Mở rộng và hiện đại hóa công nghệ sản xuất tinh dầu hồi
TX Lạng Sơn
Dây chuyền c/s 1.000 T/ năm
LD
Trồng và chế biến gừng XK
Lạng Sơn
50.000ha;
LD hoặc 100% vốn NN
Trồng và chế biến quế
Yên Bái, Quảng Ngãi, Kon Tum
LD hoặc 100% vốn NN hoặc HĐHTKD
Nhà máy chế biến bột gạo và tinh bột gạo
H.Châu Phú, An Giang
10.000 tấn SP/năm
LD, 100% vốn NN hoặc HĐHTKD
Trồng cây sâm Khu V và các cây dược liệu khác
h.Đắk Tô, Kon Tum
130ha
LD hoặc HĐHTKD
Trồng lúa chất lượng cao và xây dựng N/M chế biến lương thực
Hà Nam
Lúa chất lượng cao 10.000 - 15.000ha;Nhà máy chế biến lương thực 30.000 tấn SP/năm
LD hoặc 100% vốn NN
Dự án phát triển vùng lúa cao sản gắn với chế biến xuất khẩu
Vùng Tứ giác Hà Tiên và vùng Tây Sông Hậu
80.000 ha
Phát triển đàn lợn giống và chăn nuôi lợn siêu nạc XK
Nam Định
LD
Trồng và chế biến atisô
TP Đà Lạt, Lâm Đồng
120-150 ha
Trồng và sản xuất dược phẩm từ cây canhkina
Lâm Đồng
350 ha
Trồng và chế biến hạt điều xuất khẩu
Phú Yên
Trồng 7.000 - 10.000 ha Chế biến 5.000-7.000 tấn SP/năm
Trồng và chế biến rau quả xuất khẩu
Các tỉnh
Nuôi trồng và chế biến thủy sản XK
Các tỉnh
LD hoặc 100% vốn NN
Công nghiệp giấy
Nhà máy chế biến bột giấy và giấy các loại Lâm Đồng
Lâm Đồng
50.000-100.000 T/ năm;100 triệu USD
LD hoặc 100% vốn NN
Nhà máy giấy Bình Phước
Bình Phước
50.000 T/ năm;150 triệu USD
LD hoặc 100% vốn NN
Nhà máy giấy Nghệ An
Nghệ An
100.000 T/ năm;300 triệu USD
LD với TCty Giấy VN
mục lục
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- B0003.doc