Đầu tư trực tiếp nước ngoài phát triển ngành nông nghiệp Việt Nam - Thực trạng & Giải pháp

Lời mở đầu Hiện nay trên thế giới mọi người đều nhìn nhận rằng đầu tư trực tiếp nước ngoài đóng vai trò đặc biệt quan trọng đối với nền kinh tế của các nước và khu vực. Việc huy động vốn FDI để phát triển kinh tế xã hội là tận dụng điều kiện khách quan cực kỳ thuận lợi mà thế giới tạo ra thay vì phải bỏ ra hàng trăm năm để phát triển vượt qua thời kỳ tích luỹ ban đầu lâu dài và gian khổ như Anh, Pháp trước đây hay gần đây như Australia chẳng hạn, các nước đi sau có thể mượn sức những nước đi tr

doc93 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1372 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Đầu tư trực tiếp nước ngoài phát triển ngành nông nghiệp Việt Nam - Thực trạng & Giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ước để thực hiện thành công chiến lược rượt đuổi. Rõ ràng có thể tồn tại khả năng đi xe miễn phí như nhau cho tất cả các nước đi sau. Song vốn đầu tư không bao giờ tự chảy vào các nước lạc hậu. Cơ may tận dụng khả năng đó chỉ thuộc về quốc gia nào có chiến lược khôn ngoan hơn, biết tận dụng hoàn cảnh thế giới tạo ra trong việc huy động nguồn lực phát triển to lớn nói trên. Bên cạnh đó, vấn đề phát triển nhanh và bền vững được đặt ra đối với tất cả các quốc gia. Đối với các nước đi sau có điểm xuất phát thấp về kinh tế, yêu cầu này đặt ra như một đòi hỏi sống còn hoặc là đuổi kịp vượt lên trước hoặc là tụt lại sau và ngày càng xa rời các cơ hội phát triển. Việt Nam cũng nằm trong tình huống của những nước đi sau như thế, khi so sánh các mục tiêu của sự phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa mà chúng ta đang theo đuổi với trình độ thấp nhất thế giới như hiện nay thì yêu cầu nói trên càng trở nên cấp bách. Mục tiêu mà Đảng và chính phủ ta đã đề ra trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội đến năm 2010 là: tăng trưởng kinh tế đạt 7,5 %, đến năm 2010 GDP tăng ít nhất gấp đôi năm 2000 và đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp hoá. Để đạt được mục tiêu đó thì một trong những điều kiện tiên quyết là phải có vốn để thực hiện đồng bộ các vấn đề. Đây là một thách thức lớn đối với một nền kinh tế mà khả năng tích luỹ nội bộ thấp. Do vậy, chúng ta phải tính đến chuyện huy động các nguồn vốn từ bên ngoài mà trong đó vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài có vai trò hết sức quan trọng bổ sung cho vốn đầu tư phát triển, góp phần tạo công ăn việc làm, nâng cao thu nhập cho người dân và tạo nguồn thu cho ngân sách. Nhận thức về tầm quan trọng của đầu tư trực tiếp nước ngoài trong thời kỳ đầu của sự nghiệp CNH,HĐH chính phủ Việt Nam đã liên tục ban hành những chính sách thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Những chính sách đó đã làm cho các nhà đầu tư nước ngoài rất chú ý. Đến nay, nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài được cam kết và đăng ký đạt hơn 40 tỷ USD, vốn thực hiện đạt trên 19 tỷ USD. Tuy nhiên, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài mới chỉ tập trung chủ yếu đối với một số ngành công nghiệp và dịch vụ, còn đối với nông nghiệp vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tuy có tăng lên trong mấy năm gần đây nhưng còn chiếm tỷ trọng rất nhỏ trong tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào nền kinh tế chưa xứng với tiềm năng phát triển của ngành trong nền kinh tế. GDP do nông nghiệp tạo ta vẫn giữ vị trí hàng đầu, trên 50% giá trị xuất khẩu là nông sản, 80% dân số sống ở nông thôn, nguồn sống chính dựa vào nông nghiệp. Cho đến nay vốn đăng ký đầu tư trực tiếp nước ngoài vào nông nghiệp mới chỉ đạt 2620 triệu USD (bằng 6,5 % tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài). Vốn thực hiện mới đạt 51,2% đối với vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Chính vì vậy làm thế nào để thu hút và sử dụng một cách có hiệu quả vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trong nông nghiệp trở thành một vấn đề hết sức quan trọng. Xuất phát từ trực trạng đầu tư trực tiếp nước ngoài trong nông nghiệp Việt Nam và tính cấp thiết của vấn đề này, tôi chọn đề tài"Đầu tư trực tiếp nước ngoài phát triển nghành nông nghiệp Việt Nam thực trạng và giải pháp" cho chuyên đề tốt nghiệp. Chuyên đề gồm ba chương sau: Chương I: Những vấn đề lý luận chung Chương II: Thực trạng đầu tư trực tiếp nước ngoài trong nông nghiệp Chương III: Một số giải pháp thu hút và nâng cao hiệu vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trong nông nghiệp Hoàn thành chuyên đề thực tập này ngoài sự nỗ lực của bản thân, em xin chân thành cảm ơn sâu sắc sự hướng dẫn tận tình của cô giáo T.s Nguyễn Bạch Nguyệt.  Hiện nay trên thế giới mọi người đều nhìn nhận rằng đầu tư trực tiếp nước ngoài đóng vai trò đặc biệt quan trọng đối với nền kinh tế của các nước và khu vực. Việc huy động vốn FDI để phát triển kinh tế xã hội là tận dụng điều kiện khách quan cực kỳ thuận lợi màm năm để phát triển Phát triển vượt qua thời kỳ tích luỹ ban đầu lâu dài và gian khổ như Anh, Pháp trước đây hay gần đây như Australia chẳng hạn, các nước đi sau có thể mượn sức những nước đi trước để thực hiện thành công chiến lược rượt đuổi. Rõ ràng có thể tồn tại khả năng đi xe miễn phí như nhau cho tất cả các nước đi sau. Song vốn đầu tư không bao giờ tự chảy vào các nước lạc hậu. Cơ may tận dụng khả năng đó chỉ thuộc về quốc gia nào có chiến lược khôn ngoan hơn, biết tận dụng hoàn cảnh thế giới tạo ra trong việc huy động nguồn lực phát triển to lớn nói trên. Bên cạnh đó, vấn đề phát triển nhanh và bền vững được đặt ra đối với tất cả các quốc gia. Đối với các nước đi sau có điểm xuất phát thấp về kinh tế,át triển tiềm năng trong nước. Về mặt pháp lý: Đầu tư trực tiếp nước ngoài là hình thức đầu tư vốn của tư nhân do các chủ đầu tư tự quyết định đầu tư, quyết định sản xuất kinh doanh và tự chịu trách nhiệm về lỗ lãi. Hình thức này mang tính khả thi và hiệu quả kinh tế cao, không có những ràng buộc về chính trị. Đầu tư trực tiếp nước ngoài có đặc điểm là: chủ đầu tư nước người phải đóng góp một số vốn tối thiểu vào vốn pháp định, tuỳ theo luật đầu tư của mỗi nước. Ví dụ: luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam quy định tỷ lệ góp vốn tối thiểu của nhà đầu tư nước ngoài là 30% vốn pháp định của dự án, ở các nước khác tỷ lệ này là 20%. Lợi nhuận của các chủ đầu tư nước ngoài phụ thuộc vào kết quả hoạt động kinh doanh và được chia theo tỷ lệ góp vốn trong vốn pháp định. Quyền quản lý xí nghiệp phụ thuộc vào mức độ góp vốn. Nếu chủ đầu tư nước ngoài góp 100% vốn thì chủ đầu tư nước ngoài điều hành quản lý toàn bộ mọi hoạt động đầu tư. Chủ đầu tư tham gia điều hành doanh nghiệp liên doanh tuỳ theo tỉ lệ góp vốn của mình theo luật đầu tư nước ngoài của Việt Nam. Tính tất yếu khách quan của đầu tư trực tiếp nước ngoài Để trở thành một nước công nghiệp hùng mạnh, các nước như Anh và Australia đã phải mất hàng trăm năm. Trong thế giới hiện đại ngày nay, các nước đi sau nhất là các nước đang phát triển đã tận dụng ưu thế của đầu tư trực tiếp nước ngoài để đi tắt đón đầu, rút ngắn quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá . Chính vì vậy, đầu tư trực tiếp nước ngoài càng ngày càng trở thành xu hướng tất yếu trong thế giới hiện đại ngày nay. Tính tất yếu của đầu tư trực tiếp nước ngoài trong thế giới hiện đại Trong thế kỷ XIX, do quá trình tích tụ và tập trung tư bản tăng lên mạnh mẽ, các nước tư bản lúc bấy giờ đã tích luỹ được những khoản tư bản khổng lồ. Khi mà quá trình tích tụ và tập trung đã đạt đến một mực độ nhất định sẽ xuất hiện nhu cầu đầu tư ra nước ngoài. Đó chính là quá trình phát triển của sức sản xuất xã hội đến độ đã vượt ra khỏi khuân khổ chật hẹp của một quốc gia, hình thành nên quy mô sản xuất trên toàn thế giới. Việc tích tụ, tập trung và xuất khẩu tư bản là một hiện tượng kinh tế mang tính tất yếu khách quan của nền kinh tế hiện đại. Sau mỗi chu kỳ kinh tế, nền kinh tế của các nước phát triển lại rơi vào một cuộc suy thoái kinh tế, chính lúc này để vượt qua giai đoạn khủng hoảng tạo ra những điều kiện phát triển đòi hỏi phải đổi mới tư bản cố định. Thông qua hoạt động đầu tư nước ngoài, các nước công nghiệp phát triển có thể chuyển máy móc thiết bị cần thay thế sang các nước kém phát triển hơn và thu hồi được một phần giá trị để bù đắp những khoản chi phí khổng lồ cho việc mua sắm máy móc thiết bị. Bên cạnh đó những thành tựu khoa học kỹ thuật ngày càng phát triển mạnh mẽ và nhanh chóng đi vào ứng dụng trong sản xuất và đời sống, các chu kỳ kinh tế ngày càng rút ngắn lại vì vậy yêu cầu đổi mới máy móc thiết bị ngày càng cấp bách hơn. Do đó các nước tiên tiến tất yếu phải tìm nơi tiêu thụ các công nghệ loại hai, có như vậy mới đảm bảo thường xuyên thay đổi công nghệ kỹ thuật mới. Nguyên tắc lợi thế so sánh mà P.Vernon đã chứng minh rằng không có nước nào mạnh toàn diện và cũng không có nước nào yếu toàn diện. Nếu chúng ta biết hợp tác thì sẽ phát huy được sức mạnh tổng hợp cho tất cả các nước. Qua hàm sản xuất: Y = f(K,L); Giáo sư P. Vernon gợi ý rằng với các nước tư bản phát triển nên tận dụng lợi thế so sánh sao cho tỷ lệ K/L ngày càng cao. Với các nước đang phát triển nên sử dụng lợi thế so sánh với những mặt hàng có hàm lượng lao động cao. Theo nguyên tắc này cho phép hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài lợi dụng được những ưu thế tương đối của mỗi nước, đem lại lợi ích cho cả hai bên, bên đi đầu tư và bên nhận đầu tư. Các doanh nghiệp nước ngoài có lợi thế so sánh về vốn và kỹ thuật, còn các nước nhận đầu tư có lợi thế về lao động dồi dào giá rẻ... Do đó để khai thác được lợi thế so sánh này tất yếu phải có quan hệ kinh tế quốc tế mà trong đó đầu tư trực tiếp nước ngoài là một nhân tố quan trọng. Nhà kinh tế học P. Samuelson cho rằng, để phát triển kinh tế các nước đang phát triển phải có biện pháp thu hút được FDI. Trong lý thuyết "cái vòng luẩn quẩn" và "cú hích" từ bên ngoài, Samuelson cho rằng: "Đa số các nước đang phát triển đều thiếu vốn, mức thu nhập thấp, chỉ đủ sống ở mức tối thiểu, do đó khả năng tích luỹ vốn hạn chế. Những nước dẫn đầu trong cuộc chạy đua tăng trưởng phải đầu tư ít nhất 20% sản lượng vào việc tạo vốn. Trái lại, những nước nông nghiệp nghèo nhất thường chỉ có thể tiết kiệm được 5% thu nhập quốc dân. Hơn nữa, phần nhiều trong khoản tiết kiệm nhỏ bé này phải dùng để cung cấp nhà cửa và những công cụ giản đơn cho số dân đang tăng lên. Phần còn lại hầu như rất ít cho phát triển". Mặt khác, theo Samuelson, ở các nước đang phát triển, nguồn nhân lực bị hạn chế bởi tuổi thọ và dân trí thấp, tài nguyên thiên nhiên khan hiếm, kỹ thuật lạc hậu và gặp trở ngại trong việc kết hợp chúng. Do vậy, ở nhiều nước đang phát triển ngày càng khó khăn và càng tăng "cái vòng luẩn quẩn". Samuelson cho rằng: "Để phát triển kinh tế phải có "cú hích" từ bên ngoài nhằm phá vỡ cái vòng luẩn quẩn". Đó là phải có đầu tư của nước ngoài vào các nước đang phát triển. Theo ông, "nếu có quá nhiều trở ngại như vậy đối với việc đi tìm tiết kiệm trong nước để tạo vốn thì tại sao không dựa nhiều hơn vào các nguồn bên ngoài? Chẳng phải lý thuyết kinh tế đã từng nói với chúng ta rằng, một nước giàu sau khi đã hút hết những dự án đầu tư có lợi nhuận cao cho mình, cũng có thể làm lợi cho chính nó và nước nhận đầu tư bằng cách đầu tư những dự án lợi nhuận cao ra nước ngoài đó sao?... Ngày nay trên thế giới xu hướng quốc tế hoá đời sống kinh tế xã hội mở rộng trên phạm vi toàn thế giới, nó đã lôi kéo tất cả các nước và các vùng lãnh thổ từng bước hoà nhập vào nền kinh tế thế giới. Xu hướng này là một xu hướng tất yếu của lịch sử, nó là sản phẩm của quá trình phân công lao động mở rộng trên phạm vi toàn thế giới. Trong xu thế này, chính sách biệt lập"đóng cửa"là không thể tồn tài và chính sách đó chỉ làm kìm hãm quá trình phát triển kinh tế-xã hội. Một quốc gia không thể tách biệt khỏi thế giới vì những thành tựu của khoa học kỹ thuật đã kéo con người ở khắp nơi trên thế giới xích lại gần nhau hơn và dưới những tác động quốc tế khác buộc các nước phải mở cửa với bên ngoài. Đầu tư trực tiếp nước ngoài xu thế tất yếu trong quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá nền kinh tế nước ta Việt Nam đã trải qua cuộc chiến tranh chống Pháp và chống Mỹ lâu dài, và cho đến khi thống nhất đất nước, nền kinh tế Việt Nam về cơ bản vẫn là một nền kinh tế nghèo nàn, lạc hậu, sản xuất nhỏ, đời sống nhân dân khó khăn, thu nhập bình quân đầu người vào loại thấp nhất thế giới. Chúng ta đang rất cần nhiều thứ cho việc khôi phục và phát triển kinh tế, cải thiện đời sống người lao động. Những năm đầu khi thống nhất đất nước viện trợ của Liên X"và xã hội chủ nghĩa là chủ yếu. Đầu những năm 90 phe xã hội chủ nghĩa tan rã, Việt Nam mất nguồn viện trợ lớn lao này. Nền kinh tế của chúng ta lâm vào tình trạng khủng hoảng, sản xuất đình trệ, hàng hoá khan hiếm lạm phát tăng mạnh đến 3 con số, tình trạng không có việc làm trở nên trầm trọng, đời sống nhân dân đã khó khăn lại càng khó khăn hơn. Để thoát khỏi tình trạng này việc tận dụng thế mạnh của hợp tác quốc tế đối với việc phát triển kinh tế-xã hội của đất nước là một yêu cầu tất yếu. Tận dụng lợi thế của đầu tư trực tiếp nước ngoài cho phép chúng ta đáp ứng được phần nào nhu cầu đầu tư và đáp ứng nhu cầu ngoại tệ của đất nước. Việc tăng cường mở rộng hợp tác quốc tế giúp chúng ta từng bước khôi phục và phát triển kinh tế, đưa đất nước tránh khỏi tình trạng nghèo nàn lạc hậu. Đồng thời đây cũng là cơ hội để các nhà đầu tư nước ngoài khai thác chiếm lĩnh lợi thế so sánh của nước ta và chuyển giao công nghệ hạng 2 từ nước họ sang. Đầu tư trực tiếp nước ngoài là một xu thế không thể chối cãi cũng là con đường ngắn nhất, dễ dàng nhất để nước ta có thể đẩy nhanh phát triển nền kinh tế của mình. Xu hướng quốc tế hoá đời sống xã hội, kết quả của quá trình phân công lao động trên phạm vi toàn thế giới đã lôi kéo tất cả các nước các vùng lãnh thổ tững bước hoà nhập với nền kinh tế thế giới. Trong xu thế đó nếu chúng ta"đóng cửa"nền kinh tế thì chỉ kìm hãm sự phát triển kinh tế mà thôi. Việt Nam chúng ta không thể không hợp tác làm ăn, buôn bán với nước ngoài.Vì khoa học kỹ thuật ngày nay đã kéo loài người xích lại với nhau hơn buộc chúng ta phải mở cửa hợp tác với bên ngoài. Các nhân tố ảnh hưởng đến đầu tư trực tiếp nước ngoài Đầu tư trực tiếp nước ngoài chịu ảnh hưởng bởi rất nhiều nhân tố từ bên trong nước chủ nhà cũng như các yếu tố từ bên ngoài: Các nhân tố bên trong Các nhân tố bên trong của nền kinh tế bao gồm tổng hoà các nhân tố chính trị, kinh tế-xã hội và điều kiện tự nhiên. Thứ nhất: Sự ổn định chính trị tạo môi trường thuận lợi cho sự phát triển kinh tế của đất nước. Nền chính trị ổn định sẽ tạo điều kiện để các nhà đầu tư mở rộng kinh doanh. Đây là cơ sở để phát triển mạnh các ngành trong nền kinh tế. đồng thời, trình độ của nền kinh tế đặc biệt là tốc độ tăng trưởng kinh tế quốc dân cao, thu nhập bình quân đầu người được cải thiện là yếu tố hấp dẫn các nhà đầu tư di chuyển vốn, công nghệ, kinh nghiệm quản lý vào các ngành có khả năng sinh lợi cao để thu lợi ích. Thứ hai: Nguồn nhân lực là nhân tố quan trọng trong sự phát triển và thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Với dân số trẻ và có học vấn khá, dễ tiếp thu khoa học công nghệ, lao động của Việt Nam, nhất là lao động đã qua đào tạo thực sự là một nguồn lực to lớn để phát triển và phát huy nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Thứ ba: Các nguồn tài nguyên thiên nhiên là những nhân tố quan trọng cho sự hấp dẫn của các nhà đầu tư nước ngoài. Nguồn tài nguyên phong phú với trữ lượng lớn, chất lượng cao sẽ là yếu tố thu hút mạnh mẽ nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, ví dụ: (như dầu mỏ ở Iran, ả rập xê út, Cô-oet...). Thứ tư: Môi trường kinh tế vĩ mô ổn định như tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và ổn định lâu bền, kiềm chế được lạm phát, ổn định giá trị nội tệ và tỷ giá hối đoái sẽ là nhân tố trực tiếp ảnh hưởng đến sản xuất kinh doanh và lợi nhuận của các nhà đầu tư nước ngoài. Chính vì vậy nó ảnh hưởng rất lớn đến thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài của nước chủ nhà. Thứ năm: Khuân khổ thể chế và pháp lý thuận tiện như nền kinh tế mở, hướng xuất khẩu, đồng tiền có khả năng chuyển đổi dễ ràng, chương trình tư nhân hoá quy mô lớn, tham gia các khối thương mại khu vực và thế giới, cơ sở hạ tầng vật chất thuận lợi và hiện đại, hoàn thuế quan nhập khẩu, có các biện pháp khuyến khích đầu tư nước ngoài... là các yếu tố ảnh hưởng lớn đến thu hút và sử dụng đầu tư trực tiếp nước ngoài. Thứ sáu: Bên cạnh các yếu tố trên đây, chính sách bảo hộ của chính phủ, chính sách thay thế nhập khẩu, chính sách chống độc quyền, chính sách ngoại thương (thuế quan, hạn ngạch...) của nước chủ nhà đôi khi cũng khiến các nhà đầu tư nước ngoài tìm cách đặt cơ sở sản xuất kinh doanh ngay tại nước chủ nhà để tránh những chính sách này của nước chủ nhà. Các nhân tố bên ngoài Thứ nhất: Tình hình kinh tế xã hội, chính trị của nước đi đầu tư, chính sách đầu tư ra nước ngoài của nước đi đầu tư (như chính sách miễn thuế sản phẩm chế biến tại một số cơ sở chế biến của họ tại nước ngoài) ảnh hưởng rất lớn đến đầu tư trực tiếp nước ngoài. Kinh nghiệm của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực vừa qua cho ta thấy rõ vấn đề này. Thứ hai: Quá trình tự do hoá thương mại và đầu tư làm cho các công ty xuyên quốc gia phải cạnh tranh gay gắt với nhau trong việc tìm kiếm thị trường mới. Do vậy đây chính là động lực để các nhà đầu tư nước ngoài đi đầu tư ở nước khác. Thứ ba: Bên cạnh những yếu tố trên việc các nhà đầu tư nước ngoài phân tán rủi ro bằng cách đầu tư tại nhiều địa điểm khác nhau ở nước ngoài cũng là yếu tố để các nhà đầu tư đầu tư ra nước ngoài. Các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam Trong thực tiễn và theo luật đầu tư trực tiếp nước ngoài của Việt Nam, đầu tư trực tiếp nước ngoài được thực hiện dưới các dạng sau: Doanh nghiệp liên doanh. Đây là doanh nghiệp do các bên nước ngoài và nước chủ nhà cùng góp vốn, cùng kinh doanh, cùng hưởng lợi và chia sẻ rủi ro theo tỷ lệ góp vốn. Doanh nghiệp liên doanh được thành lập theo hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn, có tư cách Biệt quan trọng đối với nền kinh tế của các nước và khu vực. Việc huy động vốn FDI để phát triển kinh tế xã hội là tận dụng điều kiện khách quan cực kỳ thuận lợi mà thế giới tạo ra thay vì phải bỏ ra hàng trăm năm để phát triển vượt qua thời kỳ tích luỹ ban đầu lâu dài và gian khổ như Anh, ác nước đi sau có điểm xuất phát thấp về kinh tế,nh doanh. Đây là loại hình đầu tư trong đó các bên tham gia hợp đồng ký kết thoả thuận để tiến hành một hoặc nhiều hoạt động sản xuất kinh doanh ở nước nhận đầu tư, trên cơ sở quy định rõ đối tượng, nội dung kinh doanh, nghĩa vụ, trách nhiệm và phân chia kết quả kinh doanh cho các bên tham gia. Hợp đồng hợp tác kinh doanh do đại diện có thẩm quyền của các bên hợp doanh ký. Thời hạn có hiệu lực của hợp đồng do các bên thoả thuận và được cơ quan có thẩm quyền của nước nhận đầu tư phê chuẩn. Vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với nền kinh tế Việt Nam Vai trò tích cực của đầu tư trực tiếp nước ngoài với Việt Nam Tác dụng của đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với các nước đang phát triển nói chung và với nước ta nói riêng là rất to lớn, nó vừa có tính tích cực vừa có tính tiêu cực. Vấn đề là ở chỗ các nước đang phát triển phải biết tận dụng những điểm tích cực để phục vụ cho công cuộc công nghiệp hoá của đất nước mình, đồng thời chủ động tỉnh táo phòng ngừa để hạn chế đến mức tối đa những tác động tiêu cực. Đầu tư trực tiếp nước ngoài là nguồn vốn quan trọng bổ sung cho vốn đầu tư phát triển Đầu tư trực tiếp nước ngoài chiếm 26,5% tổng vốn đầu tư xây dựng côư bản toàn xã hội, là nguồn vốn bổ sung quan trọng để Việt Nam thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, bù đắp cho sự thiếu hụt của nguốn vốn trong nước. Hầu hết các nước đang phát triển như nước ta đều có nhu cầu về vốn để thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Tuy nhiên, các nước đang phát triển có tỉ lệ vốn tích luỹ trong nước còn ở mức thấp là một trở ngại lớn cho sự phát triển nền kinh tế-xã hội. Đầu tư trực tiếp nước ngoài góp phần huy động vốn để hỗ trợ cho nhu cầu đầu tư của nền kinh tế. Bên cạnh đó đầu tư trực tiếp nước ngoài còn có những ưu thế hơn hẳn so với các hình thức huy động vốn khác như việc vay vốn nước ngoài đôi khi trở thành gánh nặng cho nền kinh tế. Hoặc như các khoản viện trợ thường đi kèm với các điều kiện về chính trị, can thiệp vào công việc nội bộ của một quốc gia. Điều này ít xảy ra với đầu tư Hiện nay trên thế giới mọi người đều nhìn nhận rằng đầu tư trực tiếp nước ngoài đóng vai trò đặc biệt quan trọng đối với nền kinh tế của các nước và khu vực. Việc huy động vốn FDI để phát triển kinh tế xã hội là tận dụng điều kiện khách quan cực kỳ thuận lợi mà thế giới tạo ra thay vì phải bỏ ra hàng trăm năm để phát triển vượt qua thời kỳ tích luỹ ban đầu lâu dài và gian khổ như Anh, Pháp trước đây hay gần đây như Australia chẳng hạn, các nước đi sau có thể mượn sức những nước đi trước để thực hiện thành công chiến lược rượt đuổi. Rõ ràng có thể tồn tại khả năng đi xe miễn phí như nhau cho tất cả các nước đi sau. Song vốn đầu tư không bao giờ tự chảy vào các nước lạc hậu. Cơ may tận dụng khả năng đó chỉ thuộc về quốc gia nào có chiến lược khôn ngoan hơn, biết tận dụng hoàn cảnh thế giới tạo ra trong việc huy động nguồn lực phát triển to lớn nói trên. Bên cạnh đó, vấn đề phát triển nhanh và bền vững được đặt ra đối với tất cả các quốc gia. Đối với các nước đi sau có điểm xuất phát thấp về kinh tế,ông tin khổng lồ và kỹ năng quản lý của công ty mẹ. Mặt khác các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài có yêu cầu cao về chất lượng nguồn lao động và trả lương với mức cao, quản lý tiên tiến, sử dụng công nghệ hiện đại...Điều đó đã kích thích và đặt ra yêu cầu khách quan cho nhiều người lao động phải tự học tập nâng cao năng lực lao động, trình độ chuyên môn, ngoại ngữ... để có thể tham gia làm việc tại các công ty có vốn đầu tư nước ngoài. Nâng cao năng lực công nghệ Song song với việc tạo nguồn vốn bổ sung, đầu tư trực tiếp nước ngoài còn là một kênh quan trọng để đưa kỹ thuật mới kỹ năng quản lý mới vào các nước đang phát triển. Thông qua đầu tư trực tiếp nước ngoài chúng ta có thể tiếp nhận được những công nghệ này. Qua đó đầu tư trực tiếp nước ngoài có thể thúc đẩy sự đổi mới kỹ thuật của nước nhận đầu tư như góp phần tăng năng suất của các yếu tố sản xuất, thay đổi cấu thành sản phẩm, và xuất khẩu. Thúc đẩy phát triển các nghề mới đặc biệt là những nghề đòi hỏi hàm lượng công nghệ cao. Vì thế nó có tác dụng to lớn đối với quá trình công nghiệp hoặc hiện đại hoá chuyển dịch cơ cấu, tăng trưởng nhanh ở nước ta. Cùng với việc chuyển giao các công nghệ phần "cứng"tiên tiến, đầu tư trực tiếp nước ngoài còn chuyển giao các công nghệ"phần mềm"như kỹ năng quản lý, bí quyết công nghệ... cho Việt Nam. Qua chuyển giao công nghệ làm trình độ công nghệ của nước chủ nhà ngày một cao hơn, từ đó nâng cao dần năng lực của nước chủ nhà. Đến một mức độ nào đó nước chủ nhà không những chỉ tiếp thu công nghệ mà còn"làm chủ"công nghệ và phát minh, cải tiến công nghệ mới điển hình về lĩnh vực này là các nước công nghiệp mới, nổi bật là Hàn Quốc. Đứng về lâu về dài thì đây chính là lợi ích căn bản nhất đối với các nước đang phát triển. Góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Trong điều kiện nền kinh tế mở, các quan hệ kinh tế quốc tế tạo ra động lực và điều kiện cho sự chuyển dịch nhanh cơ cấu kinh tế của các quốc gia. Trong đó đầu tư trực tiếp nước ngoài là một động lực mạnh mẽ có ý nghĩa to lớn đến sự chuyển dịch nhanh cơ cấu kinh tế. Thông qua hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài chúng ta sẽ tham gia ngày càng nhiều vào quá trình phân công lao động quốc tế. Để hội nhập vào nền kinh tế thế giới, tham gia vào quá trình liên kết giữa các nước đòi hỏi Việt Nam phải thay đổi cơ cấu kinh tế của nước mình cho phù hợp với sự phân công lao động quốc tế. Sự chuyển dịch cơ cấu ở Việt Nam sẽ ngày càng tiến bộ hơn phù hợp với trình độ phát triển kinh tế của thế giới. Bên cạnh đó đầu tư trực tiếp nước ngoài lại trực tiếp thúc đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu của Việt Nam. Đầu tư trực tiếp nước ngoài tạo ra động lực và điều kiện để chuyển dịch nhanh cơ cấu kinh tế của nước nhận đầu tư theo hướng tiến bộ.Thông qua đầu tư trực tiếp nước ngoài đã làm xuất hiện nhiều lĩnh vực, ngành nghề mới ở Việt Nam. Cùng với nó đầu tư trực tiếp nước ngoài giúp chúng ta sẽ phát triển nhanh chóng trình độ kỹ thuật công nghệ ở nhiều ngành kinh tế, góp phần thúc đẩy tăng năng suất lao động ở các ngành này và làm tăng tỷ phần của nó trong nền kinh tế. Một tác động khác là đầu tư trực tiếp nước ngoài kích thích phát triển một số ngành và đồng thời một số ngành bị mai một và đi đến chỗ xóa sổ. Ngoài ra đầu tư trực tiếp nước ngoài còn làm phát triển một số vùng nhất định nhất là những vùng có nhiều lợi thế và nhiều năng lực phát triển và được khuyến khích nhiều. Những tác động này đã làm cho cơ cấu nền kinh tế của nước đầu tư thay đổi một cách mạnh mẽ. Một số lợi ích khác của đầu tư trực tiếp nước ngoài Đầu tư trực tiếp nước ngoài góp phần cải thiện căn bản cán cân thanh toán quốc tế. Bởi vì hầu hết các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài là sản xuất sản phẩm"hướng vào xuất khẩu". Đầu tư trực tiếp nước ngoài đã và đang góp vào việc xuất khẩu hàng hoá là khá lớn cho nền kinh tế Việt Nam. Đầu tư trực tiếp nước ngoài góp phần quan trọng vào tổng giá trị sản phẩm quốc nội, tạo nguồn thu ngân sách lớn cho đất nước. Thông qua hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài chúng tư có thể tiếp cận với thị trường thế giới. Bởi vì hầu hết các hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài đều do các công ty đa quốc gia thực hiện mà các quốc gia này có lợi thế trong việc tiếp cận với khách hàng bằng những hoạt động dài hạn dựa trên cơ sở thanh thế, uy tín của họ về chất lượng kiểu dáng của sản phẩm... Với Việt Nam sử dụng đầu tư trực tiếp nước ngoài như một công cụ để hợp tác quốc tế và "kích thích" liên kết kinh tế với các cơ sở kinh tế trong nước. Thông qua tiếp xúc với các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài các doanh nghiệp trong nước mở rộng được quy môvà năng lực kinh doanh của mình. Đầu tư trực tiếp nước ngoài là một trong những hình thức hợp tác đầu tư quốc tế. Thông qua hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài, chúng ta có thêm điều kiện mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế, tăng cường hoạt động ngoại thương. Những tác động tiêu cực của đầu tư trực tiếp nước ngoài Về kinh tế Hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài nhiều khi làm lợi ích của nhà đầu tư nước ngoài vượt qua lợi ích của nước chủ nhà nhận được. Vì để thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài, nước nhận đầu tư phải áp dụng một số ưu đãi cho các nhà đầu tư như: giảm thuế, miễn thuế trong một thời gian khá dài cho phần lớn các dự án đầu tư nước ngoài. Hoặc việc trả tiền của họ cho việc thuê đất, nhà xưởng và một số dịch vụ trong nước thấp, nhiều trường hợp còn thấp hơn so với nhà đầu tư trong nước. Hay trong một số trường hợp được nhà nước bảo đảm thuế quan. Trong nhiều trường hợp, các nhà đầu tư thường tính giá cao cho những nguyên vật liệu, bán thành phẩm, máy móc thiết bị mà họ nhập gây ra chi phí sản xuất cao ở nước chủ nhà và nước chủ nhà phải mua hàng hoá với giá cao do nhà đầu tư nước ngoài sản xuất. Việc làm này đã mang lại nhiều lợi ích cho chủ đầu tư, chẳng hạn như trốn được thuế của nước chủ nhà đánh vào lợi nhuận cao của chủ đầu tư, hoặc để giấu giếm số lợi nhuận thực tế mà họ kiếm được từ đó sẽ hạn chế đối thủ cạnh tranh khác xâm nhập vào thị trường. Ngoài ra, họ còn lợi dụng chỗ sơ hở của pháp luật và thiếu kinh nghiệm trong quản lý của nước chủ nhà để trốn thuế gian lận và vi phạm những quy định về bảo vệ môi trường sinh thái và những lợi ích khác của nước chủ nhà. Về chuyển giao công nghệ Bên cạnh tác động tích cực của chuyển giao công nghệ còn tồn tại nhiều hạn chế và tiêu cực, không chuyển giao đúng quy định như (chuyển giao còn nhỏ giọt, từng phần và thông thường là công nghệ lạc hậu, gây ô nhiễm... với giá cao hơn giá mặt bằng quốc tế). Nguyên nhân này là do: - Vào giai đoạn đầu của sự phát triển, hầu hết các nước đều sử dụng công nghệ sử dụng nhiều lao động. Tuy nhiên sau một thời gian phát triển giá lao động sẽ tăng lên, kết quả là giá thành sản phẩm cao. Vì vậy họ muốn thay thế công nghệ này bằng những công nghệ sử dụng ít lao động, có hàm lượng chất xám cao để hạ giá thành sản phẩm. - Dưới sự tác động của cách mạng khoa học kỹ thuật, máy móc công nghệ nhanh chóng trở thành lạc hậu, vì vậy họ thường chuyển giao những máy móc đã lạc hậu cho các nước nhận đầu tư để đổi mới công nghệ đổi mới sản phẩm nâng cao chất lượng sản phẩm ở chính nước họ. Việc chuyển giao công nghệ lac hậu đã gây ra nhiều thiệt hại cho nước nhận đầu tư như là: - Chi phí sản xuất cao, chất lượng sản phẩm thấp, do đó sản phẩm trong nước khó có thể cạnh tranh trên thị trường quốc tế. - Các nhà đầu tư thường khai tăng giá trị máy móc, rất khó tính được giá trị thực của những máy móc chuyển giao đó, do đó nước đầu tư thường bị thiệt hại trong việc tính tỷ lệ góp trong xí nghiệp liên doanh, và hậu quả bị thua thiệt trong việc chia lợi nhuận. Về cơ cấu Các nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài nhiều khi sản xuất và bán những hàng hoá không thích hợp cho các nước đang phát triển thậm chí đôi khi còn có hại cho sức khoẻ con người và gây ô nhiễm môi trường như khuyến khích sử dụng thuốc lá, thuốc trừ sâu, nước ngọt có ga thay vì sử dụng nước hoa quả, chất tẩy thay thế xà phòng.... Đầu tư trực tiếp nước ngoài làm cơ cấu đầu tư theo ngành và theo lãnh thổ của nước chủ nhà bất hợp lý, gây ra tình trạng đầu tư tràn lan kém hiệu quả và tài nguyên thiên nhiên bị khai thác quá mức. Vì mục đích của nhà đầu tư là kiếm lợi nhuận nên họ đầu tư vào những nơi có lợi nhất, do đó nhiều khi lượng vốn nước ngoài đã làm tăng thêm sự mất cân đối giữa các vùng, giữa nông thôn và thành thị. Sự mất cân đối này có thể gây lên bất ổn về chính trị. Các vấn đề khác Đầu tư trực tiếp nước ngoài gây ra tình trạng phân phối không đều ở nước chủ nhà. Khi các công ty nước ngoài vào nước chủ nhà họ tuyển dụng người lao động địa phương và thường họ tiền lương cao hơn mức trung bình của địa phương. Điều này gây ra sự bất bình đẳng về thu nhập giữa các tầng lớp dân cư và các vùng, đồng thời tạo ra nạn chảy máu chất xám ở nước chủ nhà. Đầu tư trực tiếp nước ngoài thường đẩy các công ty nước chủ nhà đi đến phá sản do các công ty có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài có thế mạnh về tài chính kỹ thuật và có khi còn được hưởng nhiều ưu đãi hơn các công ty bản địa. Trong số các nhà đầy tư trực tiếp của nước ngoài cũng có trường hợp vào để hoạt động tình báo gây rối trật tự trị an, an ninh chính trị. Như trường hợp của chính phủ Xanvado Agiende ở Chi Lê bị lật đổ năm 1973 là một ví dụ về sự can thiệp của công ty xuyên quốc gia (ITT)và chính phủ Mỹ can thiệp vào công việc nội bộ của Chi Lê. Đầu tư trực tiếp nước ngoài cũng có thể ảnh hưởng xấu về mặt xã hội. Những người dân bản xứ làm thuê cho nhà đầu tư có thể bị mua chuộc, biến chất, thay đổi quan điểm, lối sống và nguy hiểm hơn họ có thể phản bội tổ quốc. Các tệ nạn xã hội có thể gia tăng cùng với đầu tư trực tiếp nước ngoài như nạm mại dâm, nghiện hút... Một số vấn đề lí luận ._.chung về ngành nông nghiệp Vị trí, vai trò của ngành nông nghiệp trong nền kinh tế quốc dân Việt Nam Ngành nông nghiệp là một ngành sản xuất vật chất quan trọng trong nền kinh tế quốc dân của mỗi nước. Nó không phải là một hệ thống kinh tế đơn thuần, mà là hệ thống sinh vật-kỹ thuật, bởi vì một mặt là cơ sở để phát triển nông thôn và mặt khác là việc sử dụng những tiềm năng sinh vật, cây trồng, vật nuôi. Chúng phát triển theo quy luật sinh vật nhất định, con người không thể ngăn cản quá trình phát sinh, phát triển, phát dục và diệt vong của chúng mà phải trên cơ sở nhận thức đúng đắn các quy luật, để có những giải pháp tác động, nhằm thích nghi với chúng. Mặt khác quan trọng hơn là phải làm cho người sản xuất có sự quan tâm thoả đáng, gắn lợi ích của họ với sử dụng các quá trình sinh vật đó, nhằm tạo ra nhiều sản phẩm cuối cùng hơn. Nông nghiệp giữ vai trò rất to lớn trong việc phát triển kinh tế Việt Nam với xuất phát điểm thấp, đại bộ phận dân cư chung sống bằng nghề nông. Tuy nhiên, ngay cả những nước có nền công nghiệp phát triển cao, mặc dù giá trị sản phẩm nông nghiệp không lớn, nhưng khối lượng sản phẩm nông nghiệp vẫn không ngừng tăng lên và giữ vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Nông nghiệp có vai trò quan trọng trong việc cung cấp các yếu tố đầu vào cho công nghiệp và cho khu vực thành thị. Trong giai đoạn đầu của công nghiệp hoá ở nước ta, phần lớn lao động sống bằng nông nghiệp, khu vực nông thôn thực sự là nguồn nhân lực dự trữ dồi dào cho khu vực công nghiệp và thành thị. Nhà kinh tế học Lewis đã xây dựng một mô hình chuyển dịch lao động từ khu vực nông thôn sang công nghiệp, ông coi đó là quá trình tạo ra tiết kiệm, thúc đẩy đầu tư và tăng trưởng kinh tế. Mô hình Lewis dựa trên giả thuyết một mặt nguồn cung cấp lao động từ cận biên của khu vực nông nghiệp rất thấp, nên việc chuyển dịnh lao động diễn ra trong một thời kỳ dài với tiền công không thay đổi, sang khu vực công nghiệp với tiền công cao hơn, đời sống tốt hơn. Việc chuyển dịch từ nông nghiệp sang công nghiệp để khắc phục tình trạng lạc hậu về kinh tế. Khu vực nông nghiệp còn cung cấp nguồn nguyên liệu quý cho công nghiệp, chủ yếu là công nghiệp chế biến nông sản, nhằm tạo ra nguồn thu nhập lớn. Song việc cung cấp các yếu tố đầu vào cho công nghiệp là đại lượng biến thiên, ở giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hoá, các yếu tố đầu vào chiếm tỷ trọng lớn và sẽ giảm xuống ở giai đoạn sau nhất là khi công nghiệp (đặc biệt là công nghiệp nặng) đã phát triển ở trình độ cao. Hiện nay trên thế giới mọi người đều nhìn nhận rằng đầu tư trực tiếp nước ngoài đóng vai trò đặc biệt quan trọng đối với nền kinh tế của các nước và khu vực. Việc huy động vốn FDI để phát triển kinh tế xã hội là tận dụng điều kiện khách quan cực kỳ thuận lợi mà thế giới tạo ra thay vì phải bỏ ra hàng trăm năm để phát triển vượt qua thời kỳ tích luỹ ban đầu lâu dài và gian khổ như Anh, Pháp trước đây hay gần đây như Australia chẳng hạn, các nước đi sau có thể mượn sức những nước đi trước để thực hiện thành công chiến lược rượt đuổi. Rõ ràng có thể tồn tại khả năng đi xe miễn phí như nhau cho tất cả các nước đi sau. Song vốn đầu tư không bao giờ tự chảy vào các nước lạc hậu. Cơ may tận dụng khả năng đó chỉ thuộc về quốc gia nào có chiến lược khôn ngoan hơn, biết tận dụng hoàn cảnh thế giới tạo r trong việc huy động nguồn lực phát triển to lớn nói trên. Bên cạnh đó, vấn đề phát triển nhanh và bền vững được đặt ra đối với tất cả các quốc gia. Đối với các nước đi sau có điểm xuất phát thấp về kinh tế,ễ gây ra sói mòn ở vùng đấu dốc, phá rừng, tạo ra một số yếu tố làm nóng bầu khí quyển... Vì thế trong quá trình phát triển sản xuất nông nghiệp, cần tìm những giải pháp để duy trì và tạo ra sự phát triển bền vững của môi trường (như sử dụng công nghệ sạch, công nghệ sinh học trong nông nghiệp, trồng và bảo vệ rừng...). Đặc điểm của sản xuất nông nghiệp Đặc điểm chung Là một ngành sản xuất vật chất chủ yếu của xã hội. Khác với công nghiệp, sản xuất nông nghiệp có những đặc điểm riêng bởi sự chi phối của điều kiện tự nhiên, kinh tế-xã hội. Thứ nhất: Ruộng đất là tư liệu sản xuất không thể thay thế được trong sản xuất nông nghiệp. Đất đai là yếu tố cần thiết cho tất cả các ngành sản xuất, nhưng với mỗi ngành nội dung kinh tế của nó lại rất khác nhau. Trong nông nghiệp đất đai là tư liệu sản xuất không thể thiếu được.Tuy nhiên, ruộng đất bị giới hạn về mặt diện tích, con người không thể tăng thêm theo ý muốn chủ quan, nhưng sức sản xuất của ruộng đất, độ phì nhiêu để tăng sản phẩm trên mỗi đơn vị diện tích là vô hạn. Nghĩa là con người có thể khai thác chiều sâu của ruộng đất, nhằm thoả mãn nhu cầu tăng lên của mình về nông sản phẩm. Chính vì thế, trong quá trình sử dụng phải biết tiết kiệm, tìm mọi biện pháp để cải tạo và bồi dưỡng đất, làm cho ruộng đất ngày càng mầu mỡ hơn, sản xuất ra nhiều sản phẩm trên mỗi đơn vị diện tích, với chi phí thấp nhất, hạn chế việc chuyển ruộng đất sang xây dựng cơ bản Thứ hai: Sản xuất nông nghiệp mang tính thời vụ cao Đây là nét đặc thù mang tính thời vụ cao sản xuất nông nghiệp, bởi vì mỗi loại cây trồng có sự thích ứng nhất định với sự biến thiên về điều kiện khí hậu-thời tiết dẫn đến những mùa vụ khác nhau, Đối tượng của sản xuất nông nghiệp là những loại cây trồng, vật nuôi có vai trò cực kỳ to lớn, là những sinh vật có khả năng hấp thụ và tàng trữ nguồn năng lượng của mặt trời để biến chất vô cơ thành chất hữu cơ, tạo nguồn thức ăn cho con người và vật nuôi. Mặt khác, thời gian lao động tách rời thời gian sản xuất của các loại cây trồng trong nông nghiệp. Như vậy tính thời vụ rất quan trọng đối với người sản xuất nông nghiệp. Tạo hoá đã cung cấp nhiều yếu tố đầu vào thiết yếu cho nông nghiệp như ánh sáng, độ ẩm, lượng mưa, không khí... Lợi thế tự nhiên đã ưu ái rất lớn cho con người, nếu biết lợi dụng hợp lý có thể sản xuất ra những nông sản với chi phí thấp. Để khai thác và lợi dụng nhiều nhất tặng vật của thiên nhiên đối với nông nghiệp đòi hỏi phải khắt khe trong việc thực hiện những khâu công việc trong thời vụ tốt nhất, như thời vụ làm đất, gieo cấy phân bón, làm cỏ tưới tiêu, thu hoạch... Việc thực hiện kịp thời vụ cũng dẫn đến tình trạng căng thẳng về lao động, Đòi hỏi phải có giải pháp tổ chức lao động hợp lý. cung ứng vật tư kỹ thuật kịp thời, trang bị công cụ và máy móc thích hợp, đồng thời phải coi trọng việc bố trí cây trồng hợp lý phát triển ngành nghề dịch vụ, tạo thêm việc làm ở những thời kỳ nông nhàn. Thứ ba: Sản xuất nông nghiệp gắn với cơ thể sống (cây trồng, vật nuôi).Cây trồng, vật nuôi phát triển theo quy luật sinh học nhất định (sinh trưởng, phát triển, phát dục và diệt vọng). Chúng rất nhậy cảm với yếu tố ngoại cảnh, mọi sự thay đổi về thời tiết khí hậu, đều tác động trực tiếp đến sự phát triển và phát dục của cây trồng, vật nuôi, đến kết quả thu hoạch sản phẩm cuối cùng. Cây trồng, vật nuôi với tư cách là một tư liệu sản xuất đặc biệt, được sản xuất trong bản thân nông nghiệp bằng cách sử dụng trực tiếp sản phẩm thu được ở chu trình sản xuất trước làm tư liệu sản xuất cho chu trình sản xuất sau. Để chất lượng giống cây trồng và vật nuôi tốt hơn, đòi hỏi phải thường xuyên chọn lọc, bồi dục, lai tạo để ra những giống mới có năng suất cao, chất lượng tốt. Thứ tư: Sản xuất nông nghiệp mang tính khu vực rõ nét do được tiến hành trên địa bàn rộng lớn, phức tạp còn lệ thuộc nhiều vào điều kiện tự nhiên.ở đâu có đất đai và lao động thì ở đó có thể tiến hành sản xuất nông nghiệp. Song ở mỗi vùng, mỗi quốc gia có điều kiện đất đai và thời tiết khí hậu khác nhau. Lịch sử các loại đất, quá trình khai phá, và sử dụng các loại đất trên các địa bàn có địa hình khác nhau, ở đó cũng diễn ra các hoạt động nông nghiệp cũng không giống nhau. Điều kiện thời tiết khí hậu với lượng mưa, độ ẩm, độ ánh sáng... trên các địa bàn gắn rất chặt chẽ với các điều kiện hình thành và sử dụng đất. Vì vậy, việc lựa chọn và bố trí cây trồng, vật nuôi ứng dụng kỹ thuật canh tác phải phù hợp với điều kiện từng vùng, nhằm tạo điều kiện cho cây trồng, vật nuôi phát triển tốt, đem lại năng suất cao. Một số đặc điểm cơ bản của ngành nông nghiệp Việt Nam Thứ nhất: Điều kiện tự nhiên Việt Nam nằm trong vành đai nhiệt đới Châu á, nhiệt đới ẩm thuộc khu vực gió mùa Đông Nam á, được trải rộng trên 4 vùng lớn phức tạp: trung du, đồng bằng, miền núi, ven biển. Đất đai nông nghiệp, địa bàn nông thôn trải trên nhiều vĩ độ, nhiều độ cao, nhiều vùng khí hậu khác nhau, gắn liền với sự hình thành và cấu tạo của đất. Vì vậy trong quá trình xây dựng và phát triển ngành nông nghiệp chúng ta có nhiều thuận lợi cơ bản đồng thời có những khó khăn lớn. Thời tiết, khí hậu Việt Nam có những thuận lợi rất cơ bản, đó là hàng năm có lượng mưa bình quân theo mùa, cường độ ánh sáng lớn, nhiệt độ trung bình 23oc, hệ sinh thái phong phú và đa rạng. Nhờ những thuận lợi cơ bản đó mà nước ta có thể gieo trồng và thu hoạch quanh năm với nhiều giống cây trồng vật nuôi phong phú có giá trị kinh tế cao như: cây công nghiệp lâu năm (Cao su, cà phê, chè, điều...) cây công nghiệp ngắn ngày (lạc, đậu tương, đay, mía...) cây ăn quả (dừa, cam, bưởi, chuối...). Không những Việt Nam có thể sản xuất những loại cây trồng vật nuôi nhiệt đới gió mùa mà còn có thể nuôi trồng những giống ở xứ lạnh như: xúp lơ, cải bắp, xu hào, cà rốt... Bên cạnh những thuận lợi nêu trên, điều kiện tự nhiên Việt Nam cũng gây nhiều khó khăn lớn như: lượng mưa lớn, mưa nhiều tập trung vào một vài tháng (tuỳ theo vùng) trong năm, gây lũ lụt, ngập úng. Mùa khô thường gây khô hạn thiếu nước không chỉ cho nông nghiệp mà còn ảnh hưởng đến đời sống sinh hoạt của người nhất là các tỉnh ở miền trung Việt Nam. Khí hậu ấm, ẩm ướt dễ phát sinh và lây lan sâu bệnh, dịch bệnh gây ra tổn thất lớn với mùa màng và vật nuôi. Ngoài ra do 3/4 nước ta là đồi núi nên diện tích đất nông nghiệp thấp ít có khả năng mở rộng và đang là những trở ngại lớn trong quá trình phát triển của ngành nông nghiệp. Thứ hai: Nền nông nghiệp Việt Nam chịu nhiều hậu quả do chiến tranh gây ra. Trong nhiều thập kỷ qua, nền nông nghiệp nước ta chịu sự tàn phá nặng nề của chiến tranh.. Nhiều vùng đất, cây cối bị tàn phá bởi chất độc hoá học, nhiều công trình cơ sở vật chất kỹ thuật trong nông nghiệp bị bom đạn tàn phá cần được phục hồi và nâng cấp. Đó là một hạn chế lớn dẫn đến sự phát triển của nông nghiệp. Do đó nông nghiệp cần một lượng vốn lớn để đầu tư khắc phục hậu qủa của chiến tranh. Mặt khác nề nếp quản lý thời chiến cũng ảnh hưởng không nhỏ đến việc quyết định lựa chọn sử dụng các nguồn lực phù hợp với cơ chế thị trường. Thứ ba: Trình độ phát triển nông nghiệp Việt Nam còn lạc hậu. Phần lớn các vùng sản xuất nông nghiệp của Việt Nam chủ yếu độc canh cây lúa, sản phẩm hàng tiêu dùng mới chỉ ở mức sản phẩm thô không qua chế biến. Sản xuất nông nghiệp ở nông thôn còn lạc hậu, manh mún nhất là ở những vùng sâu, vùng xa, điều kiện khó khăn, thị trường còn bấp bênh và không ổn định. Đời sống nông dân còn nghèo, cơ sở hạ tầng thấp, sự hỗ trợ cho nông nghiệp của ngành công nghiệp chế biến chưa cao. Sự hoà nhập và tham gia thị trường quốc tế của nông nghiệp Việt Nam còn chưa cao và không bền vững. Tuy đã có sản phẩm dư thừa để xuất khẩu nhưng hiện nay còn khó khăn trong việc tìm thị trường tiêu thụ. Đây chính là những yếu tố cơ bản làm cho sự phát triển nông nghiệp Việt Nam còn thấp. Thứ tư: Nền nông nghiệp Việt Nam đang trong quá trình chuyển đổi sang nền nông nghiệp theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Từ những năm cuối của thập kỷ 80 dưới ánh sáng của chính sách đổi mới của Đảng và nhà nước nền nông nghiệp Việt Nam được chuyển từ sản xuất tập trung bao cấp sang cơ chế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Hiện nay nền nông nghiệp nước ta bao gồm nhiều thành phần kinh tế như tham gia như: kinh tế quốc doanh, kinh tế tư nhân, kinh tế hợp tác với các nhà đầu tư nước ngoài.... Các thành phần kinh tế được bình đẳng, được khuyến khích phát triển theo luật định. Sự chuyển đổi này đã tạo cho người dân có quyền ra quyết định về sản xuất nông nghiệp phù hợp với mục tiêu, lợi ích của mình. Cơ cấu sản xuất nông nghiệp đang được chuyển dịch theo chiều hướng phù hợp với cơ chế thị trường đồng thời lại chịu sự chi phối riêng do các đặc điểm xã hội, chính trị của Việt Nam. Vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với sự phát triển ngành nông nghiệp Việt Nam Đầu tư trực tiếp nước ngoài góp phần vào sự phát triển của ngành nông nghiệp Việt Nam. Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào nền kinh tế nói chung, vào nông nghiệp nói riêng là một hoạt động kinh tế đối ngoại có vai trò ngày càng to lớn .Đặc biệt là ở những nước nông nghiệp có xuất phát điểm như nước ta thì đầu tư trực tiếp nước ngoài có ý nghĩa to lớn trong việc tạo nguồn vốn đầu tư, tiếp thu khoa học công nghệ tiến bộ vào sản xuất nông nghiệp và là một giải pháp tạo việc làm có hiệu quả trong nông nghiệp nông thôn. Trải qua một thời kỳ dài, nền kinh tế nước ta năm trong cơ chế quản lý kế hoạch hóa tập trung gần như là một nền kinh tế đóng đã làm cho lực lượng sản xuất trong nông nghiệp bị kìm hãm, các hoạt động đối ngoại trong đầu tư chưa có điều kiện mở rộng. Từ sau đại hội Đảng VI và nhất là từ sau năm 1988, thực hiện nghị quyết 10 của Bộ chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng, nông nghiệp Việt Nam đã có những bước phát triển vượt bậc. Cho đến nay nước ta đã là một trong những cường quốc xuất khẩu một số lượng nông sản chủ lực như gạo, cà phê... Tuy nhiên hiện nay nông nghiệp Việt Nam hiện nay vẫn còn trong tình trạng sản xuất manh mún, nhiều tiềm năng phát triển vẫn chưa được khai thác và có hiệu qủa do thiếu vốn đầu tư, trình độ sản xuất còn thấp và chênh lệch khá xa so với các nước trong khu vực bên cạnh đó cơ sở vật chất kỹ thuật và kết cấu hạ tầng nông thôn còn thấp kém. Chính vì vậy việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài là rất cần thiết và đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển nông nghiệp nước nhà. Đầu tư trực tiếp nước ngoài có vai trò quan trọng trong việc tạo nguồn vốn đầu tư cho sản xuất nông nghiệp. Hiện nay, 80% lực lượng lao động nước ta tham gia sản xuất nông nghiệp. Song đa số nông dân nước ta đều trong tình trạng thiếu vốn sản xuất. Do thiếu vốn nên nhiều tiềm năng phát triển nông nghiệp, đặc biệt là ở vùng miền núi, trung du chưa có điều kiện khai thác để sản xuất ra của cải. Mặc dù những năm gần đây Đảng và Chính phủ ta đã có nhiều chủ trương quan trọng ưu tiên đầu tư cho phát triển nông nghiệp song nguồn vốn đầu tư của chính phủ còn hạn hẹp, chưa thể đáp ứng được nhu cầu phát triển của ngành nông nghiệp trong tình hình mới. Chính vì vậy việc tìm đến các đối tác đầu tư nước ngoài để thu hút vốn đầu tư cho nông nghiệp là một biện pháp quan trọng để tạo nguồn vốn đầu tư cho nông nghiệp trong những năm vừa qua và trong những năm tới. Đầu tư trực tiếp nước ngoài là một biện pháp nâng cao trình độ công nghệ sản xuất và chất lượng nguồn nhân lực trong nông nghiệp Mặc dù trong những năm gần đây nông nghiệp nước ta đã đạt được những thành tựu quan trọng, song so với các nước có nền nông nghiệp phát triển trên thế giới và trong khu vực thì nông nghiệp nước ta vẫn còn một khoảng cách khá xa. Năng suất cây trồng, vật nuôi; chất lượng nông sản phẩm của chúng ta đều kém nên sức cạnh tranh của nông sản Việt Nam trên thị trường quốc tế còn thấp. Nguyên nhân của tình trạng này là do công nghệ sản xuất của ta vẫn còn quá thấp kém. Việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào nông nghiệp thông qua trang bị công nghệ khoa học kỹ thuật tiến bộ vào sản xuất sẽ góp phần to lớn trong việc nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm và sức cạnh tranh của hàng nông sản Việt Nam trên thị trường quốc tế và góp phần đào tạo nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong nông nghiệp. Bởi vì, đầu tư trang thiết bị hiện đại cho sản xuất nông nghiệp cần phải có lực lượng lao động có chuyên môn kỹ thuật cao để vận hành nó. Mặt khác khoa học công nghệ ngày càng hiện đại đòi hỏi phải nâng cao năng lực lãnh đạo, quản lý của đội ngũ cán bộ quản lý trong nông nghiệp. Thông qua hợp tác sản xuất kinh doanh với nước ngoài chúng ta có điều kiện thuận lợi để đào tạo nâng cao năng lực, chất lượng một bộ phận lao động kỹ thuật và lao động quản lý trong nông nghiệp. Chính vì vậy thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài là cần thiết để phát triển nền nông nghiệp nước ta cả về chiều sâu lẫn chiều rộng. Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào nông nghiệp tạo điều kiện khai phá thị trường tiêu thụ nông sản phẩm của nước ta Các nhà đầu tư lớn thường có các thị trường truyền thống để tiêu thụ sản phẩm. Do vậy, bằng các hình thức liên doanh liên kết với nước ngoài trong sản xuất nông nghiệp sẽ tạo ra những điều kiện thuận lợi để tìm kiếm thị trường tiêu thụ nông sản phẩm của nước ta trên trường quốc tế. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào nông nghiệp nước ta có thể đầu tư trực tiếp sản xuất thông qua các hợp đồng liên doanh với nước ngoài, có thể đầu tư vào công nghệ chế biến hoặc công nghệ sau thu hoạch bằng các hình thức liên doanh với nước ngoài, các đối tác nước ngoài phải góp phần trách nhiệm trong việc tìm kiếm thị trường tiêu thụ sản phẩm của liên doanh. Có thể nói rằng việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trong nông nghiệp là cần thiết cho sự phát triển ngành nông nghiệp Việt Nam, là hướng đi đúng đắn và phù hợp với một đất nước có truyền thống nông nghiệp lâu đời như Việt Nam. Kinh nghiệm của một số nước trong khu vực về thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài nói chung và phát triển ngành nông nghiệp nói riêng Kinh nghiệm của Philipin Chính sách thuế : Các quy định về thuế luôn là mối quan tâm hàng đầu của các nhà đầu tư vì nó quyết định trực tiếp đến lợi nhuận mà họ sẽ thu được. để thu hút FDI, nhà nước Philipin đã đưa ra chính sách thuế ưu đãi. Đặc biệt từ năm 1991, luật đầu tư mới đã quy định: miễn thuế thu nhập công ty 6 năm kể từ khi có lãi đối với các công ty tiên phong, 4 năm đối với các công ty không tiên phong. Miễn thuế nhập khẩu phụ ting, thiết bị bộ phận rời đi theo cùng với việc miễn thuế nhập khẩu máy móc , thiết bị mua bằng vốn đầu tư. Ngay cả chi phí lao động cũng có thể khấu trừ vào lợi nhuận chịu thuế cuả xí nghiệp. Đặc biệt, chương trình cải cách thuế quan năm 1994 nhằm thúc đẩy sản xuất thông qua tăng cường tính cạnh tranh quốc tế. Hàng loạt những quy định và điều luật được hình thành nhằm giảm thuế quan. Trước tiên thuế quan sẽ được giảm với tư liệu sản xuất, tiếp đến các sản phẩm hóa học và dệt may, cuối cùng là các sản phẩm chế tạo. Đến năm 2004 sẽ thống nhất một loại thuế quan duy nhất 5% đối với tất cả các sản phẩm chế tạo. Các khu vực kinh tế chủ quyền philipin và các xí nghiệp phân bổ trong khu chế biến xuất khẩu còn được hưởng quyền lợi ưu đãi về thuế sau : Miễn thuế giấy phép kinh doanh địa phương. Miễn đánh thuế chuyển lợi nhuận giữa các chi nhánh. Miễn thuế nhập khẩu, phí hải quan, thuế VAT . Bảo đảm chính sách cho các công dân nước ngoài, được phép hồi hương vốn đầu tư và lợi nhuận kiếm được. Các xí nghiệp hoạt động trong vùng vịnh Subic thay vì phải trả tất cả các loại thuế nay họ chỉ phải trả một loại thuế 5% tổng thu nhập từ bán sản phẩm phi xuất khẩu tại địa phương và khoản thuế này sẽ không vượt quá 30% tổng thu nhập của họ từ tất cả các nguồn. Ban hành các luật thu hút FDI: Nhằm khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài, chính phủ ban hành hàng loạt các bộ luật ưu đãi đầu tư nước ngoài như: Luật khuyến khích đầu tư RA 5186; luật điều chỉnh các công việc kinh doanh nước ngoài RA 5455; luật khuyến khích xuất khẩu RA 6135; luật khuyến khích đầu tư phát triển nông nghiệp RA 1159; trong đó luật đầu tư nước ngoài cho phép các nhà đầu tư nước ngoài được đầu tư 100% vốn vào tất cả các ngành kinh tế, trừ một số ngành đã được liệt kê vào danh mục cấm đầu tư nước ngoài. Để tạo ra một môi trường kinh doanh thu hút các nhà đầu tư nước ngoài, tổng thống Phiden Ramos đã thực hiện hàng loạt các biện pháp theo đuổi luật đầu tư nước ngoài mà chính quyền Aquino đã ban hành từ năm 1987, bao gồm tự do hoá ĐTTTNN, loại bỏ tất cả những hạn chế về tham gia vốn nước ngoài. Luật tự do hoá ngoại hối năm 1992 cho phép các nhà xuất khẩu được giữ đồng tiền nước ngoài, tự do hoá giao dịch tiền tệ và mở rộng thời hạn cho thuê đất đai từ 50 năm đến 70 năm đối với các nhà ĐTNN. Chính phủ còn tiến hành cải cách hệ thống tài chính bao gồm cải tổ lại ngân hàng trung ương vốn bị mắc nợ, sáp nhập hai thị trường chứng khoán thành thị trường chứng khoán Philipin. Năm 1994, chính phủ ban hành luật tự do hoá gia nhập thị trường của các ngân hàng nước ngoài. Với luật tự do hoá này, các hoạt động thương mại và đầu tư với các nước mà ngân hàng đặt trụ sở chính tăng đạt tới 57,3 tỷ pêso từ 1995 đến tháng 6 năm 1996. Ngoài ra chính phủ còn chú trọng nâng cấp cơ sở hạ tầng, đào tạo nhân lực và tạo lập các điều kiện hỗ trợ như lựa chọn đối tác và hình thức đầu tư. Kết Quả Với các chính sách thu hút vốn nước ngoài trên đây , Philipin đã thu hút được khối lượng vốn đầu tư ngày càng nhiều, đặc biệt từ thập kỷ 90 trở lại đây. ĐTTTNN đã đóng góp vào sự tăng trưởng kinh tế, FDI đóng góp vào nguồn lực tạo vốn bao gồm xây dựng các nhà máy, mua máy móc mới và nâng cấp CSHT. ĐTTTNN góp phần giảm bớt tình trạng khó khăn trong cán cân thanh toán, trong việc khai thác nguồn tài nguyên thiên nhiên giàu có của philipin. FDI cũng gián tiếp đóng góp vào sự tăng trưởng, nó tác động tích cực đến hoạt động kinh tế vĩ mô, ví dụ như việc làm, xuất khẩu, tiêu dùng. Các hoạt động này đến lượt mình lại thúc đẩy tăng trưởng. Kinh nghiệm Malaysia Sau khi giành được độc lập năm 1957 Malaixia đã tiến hành nhiều biện pháp phát triển nền kinh tế đất nước. Trong đó có các giải pháp thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài được thể hiện qua 2 giai đoạn. Giai đoạn 1957-1970: Với chủ trương đa dạng hoá cơ cấu sản xuất Nông nghiệp khuyến khích sản xuất thay thế nhập khẩu, chính phủ Malaixia đã đưa ra một loạt thể chế, luật lệ để điều chỉnh phương hướng đầu tư. Theo các luật này, nhà nước ưu đãi về thuế cho các doanh nghiệp ở các ngành sản xuất: (1) hiện kém phát triển nhưng đáp ứng được nhu cầu phát triển của nền kinh tế, (2) có tiềm năng và triển vọng phát triển, (3) sản xuất có sử dụng nhiều lao động. Thời gian miễn thuế tuỳ thuộc vào quy mô đầu tư của các dự án. Đầu tư càng lớn càng được ưu đãi và trước hết ưu đãi cho các dự án sản xuất thay thế nhập khẩu, hàng nhập khẩu sử dụng nhiều lao động tại chỗ. Nhờ vậy lượng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Malaixia thời kỳ này được tăng lên đáng kể (năm 1967 đạt 3645 triệu Ringgit) Trong đó tập trung chủ yếu vào ngành Nông nghiệp và khai khoáng. Giai đoạn 1970 đến nay: là giai đoạn công nghiệp hoá dựa hơn vào tài nguyên trong nước và khuyến khích xuất khẩu. ở giai đoạn này Malaixia đã dùng rất nhiều biện pháp để điều chỉnh nền kinh tế trong đó đặc biệt quan trọng là thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Nhà nước khuyến khích tất cả các hoạt động đầu tư mới hoặc mở rộng quy mô sản xuất thuộc lĩnh vực xuất khẩu, nông nghiệp, chế tạo và du lịch. Các biện pháp khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài của Malaixia rất phong phú như: Miễn giảm thuế các loại, khấu trừ khỏi căn cứ tính thuế các chi phí đầu tư, cho thành lập thêm các quỹ phát triển sản xuất, quỹ dự phòng; nhà nước tăng cường đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế. Kết qủa của những biện pháp này là đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Malaixia ngày càng tăng mạnh qua các năm (1994 thu hút gấp 6,41 lần năm 1986) Bảng 1: Đầu tư trực tiếp nước ngoài trong nông nghiệp Malaixia Đơn vị: triệu Ringgit Năm 1986 1987 1988 1989 1990 1991 1992 1993 1994 Tổng vốn FDI 3105 3778 3999 6108 7966 12738 15570 17884 19879 Nông nghiệp 100 100 104 124 284 453 662 287 197 Tỷ trọng (%) 3,23 2,65 2,61 2,03 3,56 3,56 4,25 1,61 1,0 Nguồn: Viện kinh tế nông nghiệp Qua biểu 1 cho ta thấy vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào nông nghiệp tỷ lệ còn rất thấp, năm cao nhất mới đạt 4,25% so với tổng số, tốc độ tăng thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào nông nghiệp qua các năm không đều, điều này thể hiện môi trường đầu tư vào nông nghiệp chưa thật sự hấp dẫn. Chương II: Thực trạng đầu tư trực tiếp nước ngoài trong Nông nghiệp ở Việt Nam thời kỳ 1988-2001 Tình hình đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam Khái quát tình hình đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam trong thời gian qua. Số lượng quy mô, tốc độ tăng của vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài Kể từ khi ban hành Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam đến tháng 6 năm 2001 cả nước đã thu hút được 3592 dự án FDI với tổng vốn đăng ký 41,448 tỷ USD, vốn thực hiện 19,939 tỷ USD. Tính bình quân, mỗi năm chúng ta cấp giấy phép cho 239 dự án với số vốn đăng ký là 41,45 tỷ USD. Bảng2: Tình hình đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam theo hai giai đoạn 92-96 và 97-01 92-96 97-01 1997 1998 1999 2000 2001 DAĐK 1505 1724 345 275 312 332 460 VĐK (tr USD) 23861 14476 4649 3897 1568 1926 2436 QM(tr USD) 15,854 8,397 13,48 14,1 5,03 5,8 5,9 Tốc độ tăng giảm VĐK Liên hoàn _ -16,17 -59,76 22,8 26,48 Định gốc _ -16,17 -66,3 -58,6 -47,6 Trung bình 40,7% -15% Nguồn: Bộ Kế hoạch và đầu tư Nhịp độ thu hút FDI tăng mạnh từ 1988 đến 1995 cả về số dự án lẫn số vốn, đặc biệt là lượng vốn FDI năm 1995 tăng gấp đôi năm 1994. Năm 1996 là đỉnh cao về số lượng FDI thu hút được. Điều này có được là do có 2 dự án với qui mô lớn (hơn 3 tỷ USD/năm) đầu tư vào đô thị ở Hà nội & TPHCM được phê duyệt. Tuy nhiên bắt đầu từ 1997; FDI vào Việt Nam có xu hướng giảm, nhất là trong 2 năm 1998,1999. Nếu như giai đoạn 92-96, tổng vốn đăng ký là 23,861 tỷ USD thì đến giai đoạn 97-01 giảm gần một nửa xuống còn 14,48 tỷ.USD. Nhìn vào bảng ta thấy lượng vốn FDI năm 1997 là 4649,1 triệu USD giảm xuống còn 3897,4 triệu năm 1998 và 1534,76 triệu USD năm 1999. Có thể nói năm 1999 giảm hơn 1/2 so với 1998. Từ 92-96, tốc độ tăng trưởng vốn bình quân hàng năm là 40,7 %, và giai đoạn 97-01 hàng năm lượng vốn thu hút giảm trung bình là 15 %. Sự chững lại và suy giảm này là do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Đông Nam á và suy thoái kinh tế ở Nhật & các nước khác, do cạnh tranh thu hút đầu tư nước ngoài và những hạn chế của môi trường đầu tư. Từ năm 2000 ĐTTTNN đã có dấu hiệu phục hồi khi có 2 dự án thuộc công trình khí Nam Côn Sơn khoảng gần 1tỷ USD. Đến hết năm 2001 đã có 460 dự án được cấp giấy phép. Như vậy cho thấy đã có dấu hiệu của tăng trưởng ĐTNN vào Việt Nam. Tuy nhiên so với những năm đỉnh cao thì lượng vốn FDI còn khiêm tốn. Các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam. Cho đến nay ở VN tồn tại 3 hình thức ĐTTTNN là: liên doanh, 100% vốn nước ngoài, hợp đồng hợp tác kinh doanh và phương thức BOT. Cụ thể như sau: Bảng3: Đầu tư trực tiếp nước ngoài phân theo hình thức đầu tư giai đoạn 1988-2001 Hình thức đầu tư DAcòn hiệu lực VĐK còn hiệulực (tr USD) VTH(tr USD) Tỷ trọng % Liên doanh 1042 21192 11134,7 55,84 100% vốn nước ngoài 1560 11193 5795,4 29 HĐHTKD 130 3796 2965,6 14,87 BOT 4 415 41 0,29 2736 36596 19939 100 Nguồn: Bộ kế hoạch và đầu tư. Qua bảng ta thấy DN liên doanh vẫn là hình thức phổ biến nhất của FDI với tỷ trọng vốn thực hiện là 55,84 %. Đứng thứ hai là hình thức DN 100% vốn nước ngoài chiếm 29 % vốn đăng ký. Thứ ba là hợp đồng hợp tác kinh doanh 14,87 % và cuối cùng là phương thức BOT 0,24%. Sở dĩ hình thức liên doanh là phổ biến vì khi các nhà đầu tư bắt đầu xâm nhập vào Việt Nam, họ còn bỡ ngỡ về điều kiện KT-XH và pháp luật của VN, họ chưa thông đường ngang ngõ tắt trong khi đó các thủ tục hành chính để triển khai dự án thì rườm rà, nhiều khâu nhiều nấc, phải giao dịch với nhiều cơ quan chức năng để hoàn thành các đIều kiện triển khai công tác xây dựng cơ bản cũng như thực hiện dự án đầu tư. Chính vì vậy, các nhà đầu tư lúc đầu thường lựa chọn hình thức liên doanh để phía đối tác VN sẽ đứng ra phụ trách các thủ tục về mặt hành chính, pháp lý một cách nhanh chóng và hiệu quả cao. Tuy nhiên càng ngày hình thức DNLD ngày càng có xu hướng chuyển sang hình thức 100% vốn nước ngoài. Nguyên nhân là vì sau một thời gian hợp tác, các nhà đầu tư đã thông thạo hơn về chính sách, pháp luật, cách thức hoạt động kinh doanh. Mặt khác Nhà nước ta đang từng bước cải thiện bộ máy hành chính theo hướng ngày càng đơn giản, giảm thiểu các khâu rườm rà, nhiều tổ chức tư vấn đầu tư ra đời hỗ trợ các nhà đầu tư thực hiện các thủ tục triển khai, hoạt động sản xuất kinh doanh. Chính vì vậy, vai trò của đối tác VN trong việc phụ trách các thủ tục hành chính bị giảm một cách đáng kể. Mặt khác trong quá trình phát triển các DNLD ở VN đã xuất hiện tình trạng không tương xứng về mặt tiềm lực tài chính, công nghệ, trình độ quản lý. Xu hướng giảm về số lượng dự án và vốn đăng ký đầu tư theo hình thức này chứng tỏ sự hợp tác yếu kém của Việt Nam. Do đó nhà đầu tư nước ngoài muốn nhanh chóng thoát khỏi sự tham gia quản lý của phía VN. Do đó số dự án ĐTTTNN theo hình thức 100% vốn nước ngoài ngày càng tăng. Nếu thời kỳ đầu chỉ có 10% số dự án đăng ký hoạt động theo hình thức 100% vốn nước ngoài thì nay đã tăng lên đến 73% số dự án trong khi tỷ trọng của liên doanh giảm liên tục từ 72.5% (1990) xuống còn 20.6% (1999). Cũng trong thời gian trên 73 trong số 94 dự án chuyển đổi hình thức là từ liên doanh sang hình thức 100% vốn. Các quốc gia và lãnh thổ đầu tư ở Việt Nam. Xét theo quốc gia đầu tư, trong giai đoạn 1988-2001, 15 quốc gia sau dẫn đầu về đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam Bảng4 : Các quốc gia dẫn đầu về đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam giai đoạn 1988-2001 Quốc gia DAĐK VĐK Tỷ trọng DAĐK Tỷ trọng VĐK Singapore 237 6.606 6,6 15,94 Đài Loan 676 4.806 18,82 11,6 Nhật 312 3.984 8,7 9,6 Hàn Quốc 297 3.205 8,3 7,73 Hồng Kông 214 2.854 5,96 6,9 BV Island 115 1.800 3,2 4,34 Hà Lan 41 1.676 1,14 4,04 Pháp 111 1.659 3 4 Nga 37 1.486 1 3,6 Anh 35 1.163 0,98 2,8 ểc 72 772 2 1,86 Thuỵ Sĩ 21 527 0,58 1,3 (Nguồn: Bộ kế hoạch và đầu tư) 15 nước trên đã chiếm 78.57% tổng vốn ĐTTT nước ngoài tại Việt Nam. Singapo là quốc gia dẫn đầu về đầu tư tại Việt Nam với nhóm dự án là lớn nhất với 237 dự._.có tỷ suất lợi nhuận thấp. Tuy dân số đông nhưng quy mô của thị trường tiêu thụ Việt Nam nhỏ, sức mua thấp... Vì vậy việc mở rộng và phát triển thị trường trong nước và xuất khẩu sẽ giúp cho các doanh nghiệp đầu tư vào sản xuất kinh doanh càng có điều kiện phát triển nhanh và thu được nhiều lợi nhuận. Để phát triển mở rộng thị trường chúng ta có thể làm theo một số hướng sau. - Thiết lập hệ thống thị trường đồng bộ, tạo điều kiện cho thị trường đầu tư có hiệu quả, nhanh chóng hoàn thiện các thị trường tài chính, lao động... và phát triển các ngành dịch vụ, tài chính ngân hàng, đáp ứng những đòi hỏi bức bách của hoạt động sản xuất kinh doanh. - ở trong nước, cần tiếp tục khuyến khích hệ thống dịch vụ nông thôn , bãi bỏ sự kiểm soát có tính ngăn sông cấm chợ, bãi bỏ các loại thuế lưu thông đối với các hàng hoá nông, lâm, hải sản trên mọi tuyến lưu thông trong nước; khuyến khích phát triển công nghiệp bảo quản, chế biến các loại nông lâm hải sản đáp ứng nhu cầu đa dạng của thị trường; khuyến khích mọi thành phần kinh tế kể cả tư nhân tham gia tìm kiếm thị trường xuất khẩu, bãi bỏ các thủ tục phiền hà gây khó dễ cho hoạt động xuất khẩu. - Ưu đãi cao cho các nhà đầu tư nước ngoài hoạt động trong lĩnh vực xuất khẩu nông, lâm sản; hỗ trợ, giúp đỡ mở rộng thị trường xuất khẩu các sản phẩm của mình như quảng cáo, ký hiệp định song phương, đa phương, nghiên cứu và tìm kiếm thị trường xuất khẩu sản phẩm. Cải cách và hoàn thiện thủ tục hành chính. Các nhà đầu tư nứơc ngoài khi đầu tư vào nước họ cần một môi trường đầu tư không chỉ thuận lợi cho kinh doanh mà còn cho tâm lý tức là sự thuận tiện. Những trở ngại về thủ tục hành chính đang là một nhân tố cản trở qua trình thu hút FDI. Môi trường đầu tư có được cải thiện hay không, theo ý kiến của đạibộ phận các nhà đầu tư nước ngoài và doanh nghiệp trong nước, chính là có cải cách về bộ máy nhà nước, giảm thiểu được thủ tục hành chính không cần thiết, giảm thiểu chi phí, tiết kiệm thời gian hình thành và triển khai dự án đầu tư. Những năm qua thủ tục hành chính của Việt Nam tuy đã được cải tiến, giảm bớt các thủ tục đăng ký xét, cấp phép đầu tư song các thủ tục vấn còn rườm rà nhất là các thủ tục triển khai sau cấp phép. Việc giải phóng mặt bằng đất và các thủ tục cấp đất còn nhiều khâu, nhiều bước, việc giải phóng mặt bằng ở một số nơi còn khó khăn do thiếu vốn. Chính vì vậy, muốn thu hút được nhiều hơn nữa đầu tư trực tiếp nước ngoài vào nông nghiệp, chúng ta cần phải cải cách thủ tục hành chính liên quan hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài ở những vấn đề sau: - Đơn giản hoá các thủ tục hành chính và thực hiện chế độ một đầu mối duy nhất tiếp nhận hồ sơ, quyết định cấp giấy phép đầu tư, mở rộng phạm vi các dự án thuộc diện đăng ký cấp giấy phép đầu tư, giúp những thủ tục giấy tờ cần thiết và tư vấn về pháp luật. - Phân định rõ quyền lực và trách nhiệm của các cơ quan Nhà nước đối với các công đoạn thẩm định, cấp giấy phép đầu tư và cấp đất cùng các giấy tờ có liên quan khác, giải quyết những vấn đề phát sinh. - Giải quyết nhanh thủ tục cấp đất, giao đất, đền bù, giải phóng mặt bằng giúp các dự án đi nhanh vào hoạt động. Không cho phép các chủ đầu tư được sửa bản thiết kế quá 3 lần điều này buộc chủ đầu tư phải nghiên cứu kỹ từng chi tiết thiết kế trước khi gửi hồ sơ xin giấy phép đầu tư và giấy phép xây dựng. - Các bộ, ngành, địa phương quy định rõ ràng công khai các thủ tục hành chính, giảm bớt những thủ tục không cần thiết, kiên quýet xử lý các trường hợp gây sách nhiễu, cửa quyền, tiêu cực và vô trách nhiệm của cán bộ công quyền. - Kiến nghị bãi bỏ những loại giấy phép quy định không cần thiết với hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài - Thường xuyên tổ chức các cuộc gặp gỡ hội thảo giữa các cơ quan quản lý nhà nước với hiệp hội các doanh nhân nước ngoài trong nông nghiệp để hướng dẫn về pháp luật, chính sách, giải quyết kịp thời các vướng mắc của nhà đầu tư về các thủ tục, chính sách. Đẩy mạnh vận động, xúc tiến đầu tư a) Đổi mới về nội dung và phương thức vận động xúc tiến đầu tư. Đối với danh mục dự án kêu gọi đầu tư đã được phê duyệt, quy hoạch thì cần có chương trình, kế hoạch chủ động vận động, xúc tiến đầu tư một cách cụ thể đối với từng dự án, trực tiếp với từng tập đoàn, công ty đa quốc gia, các nhà đầu tư có tiềm năng và cả Việt kiều tại hải ngoại. b)Chú trọng xúc tiến đầu tư để thu hút các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài mới và các hoạt động hỗ trợ các nhà đầu tư để triển khai hiệu quả các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài đang hoạt động. Giải quyết kịp thời các khó khăn vướng mắc để các doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài đang hoạt động thuận lợi. Biểu dương khen thưởng kịp thời các doanh nghiệp doanh nghiệp, nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài có thành tích xuất sắc trong kinh doanh, có đóng góp thiết thực vào xây dựng đất nước. Đồng thời phê phán, xử lý nghiêm những trường hợp vi phạm pháp luật Việt Nam. - Cần nhấn mạnh vai trò xúc tiến đầu tư của các địa phương, khuyến khích và hỗ trợ các địa phương mở các văn phòng xúc tiến thương mại và đầu tư ở những nước là đối tác lớn và có tiềm năng - Đa dạng hoá các hoạt động xúc tiến đầu tư thông qua các hoạt động đối ngoại của lãnh đạo Đảng và Nhà nước, các diễn đàn quốc tế, các hoạt động xúc tiến đầu tư trong khuôn khổ hợp tác AIA, ASEAN, APEC, các cuộc hội thảo về đầu tư ở trong và ngoài nước; sử dụng tổng hợp các phương tiện xúc tiến đầu tư qua truyền thông đại chúng, mạng INTERNET, tiếp xúc trực tiếp - Đẩy mạnh việc tuyên truyền giới thiệu về hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài để tạo dựng hình ảnh mới về Việt Nam; tạo sự đánh giá thống nhất về đầu tư trực tiếp nước ngoài trong dư luận xã hội. - Các cơ quan đại diện ngoại giao-thương mại Việt Nam có trách nhiệm làm tốt việc vận động xúc tiến đầu tư vào Việt Nam, bố trí cán bộ làm công tác xúc tiến đầu tư ở một số địa bàn trọng điểm. Tăng cường cán bộ làm công tác xúc tiến đầu tư ở các bộ, ngành, địa phương. - Bố trí nguồn tài chính cho hoạt động xúc tiến đầu tư trong kinh phí ngân sách chi thường xuyên hàng năm của các bộ, ngành, địa phương. - Tăng cường công tác nghiên cứu tình hình kinh tế, thị trường đầu tư, chính sách đầu tư ra nước ngoài của các nước, các tập đoàn, các công ty lớn để có chính sách thu hút đầu tư phù hợp; nghiên cứu luật pháp, chính sách, biện pháp thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài của các nước trong khu vực để kịp thời có đối sách thích hợp. - Xây dựng, hoàn thiện hệ thống thông tin về đầu tư trực tiếp nước ngoài làm cơ sở cho việc hoạch định chính sách, quản lý hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài, mở rộng tuyên truyền đối ngoại trên cơ sở sử dụng thông tin hiện đại. Xây dựng và đưa vào hoạt động trang Web về đầu tư trực tiếp nước ngoài để phục vụ việc cung cấp thông tin cập nhật về chủ trương, chính sách pháp luật về đầu tư, giới thiệu các dự án kêu gọi đầu tư, biểu dương những dự án thành công.. Chú trọng công tác đào tạo cán bộ, công nhân kỹ thuật ĐTTTNN có vai trò quan trọng trong tiếp thu kỹ thuật, chuyển giao công nghệ. Để tiếp thu được những khoa học mới này cần phải có đôi ngũ cán bộ, kỹ sư và công nhân lành nghề. Ngoài ra đồng vốn FDI có được sử dụng hiệu quả hay lãng phí cũng do người quản lý nó, nếu quản lý không tốt sẽ không thoát khỏi cảnh nghèo, lạc hậu lại càng lạc hậu hơn.. Vì vậy, nhà nước cần phải có một đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý đầu tư nước ngoài, đội ngũ cán bộ làm việc trong các doanh nghiệp liên doanh có năng lực, đạo đức để đảm bảo lợi ích của bên Việt Nam, của người lao động và lợp tác với các nhà đầu tư nước ngoài trong sản xuất kinh doanh.. Vì vậy cần phải chú trọng hơn nữa cho công tác đào tạo và nâng cao chất lượng lao động theo hướng: - Tăng cường đào tạo cán bộ quản lý, công nhân có tay nghề cao theo hướng vừa trang bị kiến thức cơ bản, vừa đào tạo chuyên sâu. Chúng ta cần phải tập trung đầu tư phát triển các trường dạy nghề để đào tạo lao động có tay nghề cao. để làm được điều này cần khuyến khích hơn nữa phát triển hợp tác quốc tế trong đào tạo nghề, khuyến khích sự tham gia của các doanh nghiệp với các cơ sở đào tạo. - Bên cạnh đào tạo, trang bị kiến thức về kinh tế-chính trị, tinh thông chuyên môn nghiệp vụ, ngoại ngữ để nắm bắt yêu cầu của thời đại. Cần phải bồi dưỡng nâng cao bản lĩnh chính trị vững vàng của những cán bộ, công nhân trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Cùng với việc bồi dưỡng, đào tạo bản lĩnh chính trị, chúng ta cần phải bố trí các tổ chức Đảng, Đoàn trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Đầu tư cải thiện điều kiện cơ sở hạ tầng cho nông nghiệp nông thôn. Cơ sở hạ tầng là một trong những yếu tố quan trọng mà nhà đầu tư rất quan tâm khi tiến hành đầu tư vì nó trực tiếp tác động đến hiệu quả của công cuộc đầu tư. Việc cải thiện cơ sở vật chất kỹ thuật là thật sự cầnthiết mở đường cho việc thu hút và sử dụng vốn đầu tư nước ngoài. Những trở ngại về cơ sở hạ tầng yếu kém , những bất cập của yếu tố quản lý cần sớm khắc phục. Cơ sở hạ tầng "cứng" ở Việt Nam như đường sá, cầu, bến cảng, sân bay, điện nước, thông tin liên lạc đã được ưu tiên thay đổi sâu sắc, góp phần quan trọng vào việc phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam trong những năm qua. Tuy nhiên so với các nước trong khu vực và các nước công nghiệp phát triển thì cơ sở hạ tầng của Việt Nam còn rất lạc hậu (trừ thông tin liên lạc, viễn thông).Việc xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật và kết cấu hạ tầng cho nông nghiệp nông thôn là điều kiện tiên quyết để nông nghiệp phát triển nhanh, hiệu quả. Trong điều kiện hiện nay của Việt Nam những vùng còn có nhiều tiềm năng để phát triển nông nghiệp chủ yếu lại ở các vùng trung du miền núi đất rộng người thưa nhưng cơ sở vật chất kỹ thuật ở nông thôn còn yếu kém, công cụ sản xuất còn thô sơ, đơn giản, hệ thống điện, đường, trường, trạm nhiều nơi còn không có. Chính vì vậy, việc phát triển cơ sở vật chất kỹ thuật ở nông thôn Việt Nam là rất cần thiết và là cơ sở để nâng cao hơn nữa đầu tư trực tiếp nước ngoài trong nông nghiệp. Từ vấn đề này chúng ta có thể có một số giải pháp sau: - Nhà nước cần dành tỷ lệ ngân sách đầu tư cho nông nghiệp cao hơn mức hiện tại và quy định vốn ngân sách này chỉ để xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng cho ngành nông nghiệp. Khuyến khích xây dựng các dự án, chương trình phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn theo hình thức nhà nước và nhân dân cùng làm. Trước mắt cần ưu tiên các công trình đường xá, điện, trường, trạm phục vụ, đáp ứng cho nhu cầu của ngành nông nghiệp. - Phát hành trái phiếu công trình có sự đảm bảo của ngân sách nhà nước để đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng cho ngành nông nghiệp. Trái phiếu loại này có thể phát hành ở 2 cấp, cấp trung ương đối với công trình có quy mô quốc gia và trái phiếu địa phương với các công trình do tỉnh quản lý. - Ngoài việc chúng ta tự đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng nông nghiệp nông thôn, cần thu hút các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào lĩnh vực này đó là: Đổi giá trị quyền sử dụng đất và tài nguyên trong các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài lấy công trình hạ tầng phục vụ phát triển nông nghiệp. Khuyến khích đầu tư nước ngoài vào các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng cho phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn. Nhà nước cần có chính sách ưu đãi đặc biệt đối với các loại dự án này như miễn tiền thuê đất, miễn thuế trong một số năm. Khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư theo hình thức BOT, BT và BTO với nhiều hình thức hơn nữa. - Gắn việc xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật và hệ thống kết cấu hạ tầng với các dự án khai thác tài nguyên, xây dựng vùng nguyên liệu với các chính sách cho các nhà đầu tư khai thác, sản xuất và tiêu thụ sản phẩm - Cùng với việc thu hút các nguồn vốn đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn, chúng ta cần phải phân cấp quản lý và sử dụng các nguồn vốn hiệu quả do đầu tư kết cấu hạ tầng nông nghiệp nông thôn. - Đảm bảo nguyên tắc quản lý vốn tập trung thống nhất, đặc biệt là vốn ngân sách. Sức mạnh quản lý và nguồn thu ngân sách phải tập trung ở trung ương để đảm bảo các công trình hạ tầng được cấp vốn phải phục vụ lợi ích quốc gia hoặc khu vực. - Mở rộng quyền tự chủ về tài chính cho địa phương trong việc bảo đảm mục đích, khả năng kiểm soát thực hiện việc phát triển cơ sở hạ tầng nông nghiệp. Các địa phương phải cân đối thu chi đảm bảo nguồn vốn được giao. Các địa phương phải có kế hoạch xây dựng cơ sở hạ tầng phù hợp với nguồn vốn được giao phù hợp với phát triển nông nghiệp của mình. - Trong quá trình xây dựng kết cấu hạ tầng của mình phải ưu tiên đầu tư vào các vùng khó khăn và đặc biệt khó khăn tập trung dứt điểm một số công trình trọng điểm để tăng khả năng thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Hoàn thiện cơ chế chính sách liên quan đến đầu tư trực tiếp nước ngoài trong nông nghiệp. Chính sách thuế, lệ phí Thuế là một trong những yếu tố mà nhà đầu tư quan tâm bởi nó liên quan trực tiếp đến lợi nhuận mà nhà đầu tư sẽ thu được từ kết quả của hoạt động đầu tư. Chính sách thuế hấp dẫn sẽ là đòn bẩy khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài và ngược lại nếu không sẽ là rào cản hạn chế sự đầu tư đó. Các dự án trong ngành nông nghiệp Việt Nam thường có tỷ suất lợi nhuận thấp, vì vậy việc áp dụng chính sách thuế ưu đãi được các nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài rất quan tâm. Mặc dù thời gian qua Việt Nam đã có nhiều chính sách ưu đãi về thuế cho nông nghiệp, song còn chưa cụ thể đến từng lĩnh vực, và còn nhiều vướng mắc trong quy định và thực hiện. Do đó chúng ta cần tiếp tục cải cách hệ thống thuế phù hợp tình hình phát triển kinh tế-xã hội của đất nước và cam kết quốc tế theo hướng đơn giản hoá các sắc thuế, từng bước áp dụng hệ thống thuế chung cho cả đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài theo những hướng sau - Tiếp tục sửa đổi chế độ hai giá( còn ở mức độ khá cao) đối với người nước ngoài và chi phí hạ tầng để tạo sự cạnh tranh: nhanh chóng đIều chỉnh giá, chi phí hàng hoá, và dịch vụ, từng bước tiến tới một mặt bằng giá, phí giữa doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài về giá máy bay, đường sắt, điện nước, phí tư vấn thiết kế... soát xét lại giá cho thuê đất và bổ sung các chính sách ưu đãi có sức hấp dẫn cao đối với những lĩnh vực cần thu hút vốn FDI. - Tiếp tục nghiên cứu mức khởi điểm chịu thuế thu nhập cá nhân đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài nhằm tạo điều kiện cho doanh nghiệp thực hiện chính sách thay thế dần nhân viên người nước ngoài bằng người Việt Nam. - Cần phải có chính sách thuế ưu đãi thật cụ thể, chi tiết hơn đến từng lĩnh vực sản xuất cây trồng vật nuôi. - Khuyến khích ưu đãi đặc biệt đối với các dự án đầu tư vào nông nghiệp và nông thôn, vùng sâu, vùng xa, các vùng kinh tế khó khăn khác để phát triển công nghiệp chế biến, sản xuất hàng hoá xuất khẩu, sử dụng nhiều lao động, áp dụng công nghệ mới. - Kiện toàn tổ chức thu thuế, về cơ chế hoạt động cũng như năng lực nghiệp vụ của cán bộ thuế bởi chính sách thuế dù có hoàn thiện đến đâu thì kết quả vẫn còn phụ thuộc rất nhiều vào việc thực hiện công tác quản lý thu thuế đối với xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Vấn đề này ở nước ta vẫn còn rất nhiều bất cập. Chính sách tiền tệ tín dụng, bảo hiểm. Hạn chế của Việt Nam trong đầu tư trực tiếp nước ngoài là khả năng góp vốn đặc biệt là trong nông nghiệp. Trong nhiều trường hợp bên Việt Nam muốn vay thêm vốn để đáp ứng vốn đóng góp vào dự án xong chưa có cơ chế ưu đãi nên không thực hiện được. Khó khăn nhất cho các nhà đầu tư là không đảm bảo tài sản thế chấp vay vốn dài hạn. Điều này đòi hỏi chúng ta phải có giải pháp tạo vốn vay ưu đãi với điều kiện vay phù hợp. Ta hoàn toàn có khả năng đáp ứng đưc nhu cầu này dựa trên các cơ sở: -Các nguồn vốn từ khách hàng, quỹ đầu tư, tín dụng với năng lực tạo vốn có thể cung cấp một lượng vốn tương đối lớn cho bên Việt Nam tham gia liên doanh. Vì vậy nhà nước cần có chính sách cụ thể để ưu đãi cho các doanh nghiệp có vốn nước ngoài, dễ dàng tạo lập vốn từ các nguồn nói trên. - Bên cạnh nguồn vốn trong nước, trong phân bổ vốn vay ODA. Nhà nước cần xem xét cho bên Việt Nam vay để tham gia góp vốn liên doanh trong các dự án lớn của ngành nông nghiệp như trồng mía đường, trồng cây công nghiệp dài ngày. - Cần có một cơ chế bảo lãnh thế chấp khi vay vốn nhất là các dự án đặc biệt khuyến khích đầu tư. - Đổi mới và hoàn thiện chính sách tiền tệ liên quan đến hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài theo hướng tiếp tục giảm dần, tiến tới xoá bỏ việc bắt buộc kết hối ngoại tệ khi có đủ điều kiện. Sử dụng linh hoạt, có hiệu quả, có hiệu quả các công cụ, chính sách tiền tệ như tỷ giá, lãi suất theo các nguyên tắc của thị trường có sự quản lý vĩ mô của nhà nước. Chính sách quyền sử dụng đất: Do tình trạng thiếu vốn, Việt Nam góp vốn vào các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chủ yếu bằng giá trị quyền sử dụng đất (chiếm đến 70% tổng giá trị vốn góp của Việt Nam). Tuy nhiên các dự án đầu tư vào nông nghiệp đa phần là ở các địa điểm gần vùng nguyên liệu và ở các địa bàn khuyến khích đầu tư nên giá trị góp vốn của bên Việt Nam là không đáng kể chỉ 20%. Mặt khác còn tồn tại nhiều hạn chế giữa người dân bị giải toả với các doanh nghiệp. Vì vậy chúng ta có thể đưa ra một vài giải pháp cho vấn đề này như sau: - Nhà nước cho phép các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế Việt Nam kể cả tư nhân góp vốn vào các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài bằng quyền sử dụng đất. Chủ trương này cần được ổn định trong nhiều năm tới làm tiền đề cho mục tiêu thu hút vốn nước ngoài. - Khung giá tiền thuê đất, hệ số ngành nghề điều chỉnh tiền thuê đất cần quy định cụ thể cho từng vùng, từng lĩnh vực đầu tư, thể hiện tính ưu đãi đối với lĩnh vực, địa bàn đặc biệt khuyến khích. - Đối với các dự án 100% vốn đầu tư nước ngoài vào Nông nghiệp. Cần xem xét các giải pháp đổi đất lấy công trình cơ sở hạ tầng nông thôn. Nhà nước cho chủ đầu tư nước ngoài thuê đất và thay vì trả bằng tiền, họ trả bằng các công trình hạ tầng như đường xá, điện nước... cho địa phương. - Nhà nước có chính sách hỗ trợ bên Việt Nam trong công tác giải toả và đền bù đất thoả đáng, đặc biệt là việc đền bù đất cho nông dân, đưa đất góp vốn vào thuận lợi : + Nên áp dụng mức thuê đất tối thiểu, thậm chí thuê đất tượng trưng đối với đất chưa canh tác (đất trồng, đất hoang hoá, đồi núi trọc, đất nhiễm chua mặn) trên thực tế chỉ có thể huy động cho trồng rừng + Ngoài tiền đền bù hoa màu bị mất, cần có chính sách đền bù cho diện tích đất đã giao cho nông dân. - Khi kinh tế phát triển, mức độ đô thị hoá vào các khu vực có dự án đầu tư tăng nên giá đất ở nông thôn sẽ có xu hướng ngày càng tăng. Vì vậy, cần quy định việc công bố điều chỉnh giá đất hàng năm. tạo đIều kiện các tổ chức bên Việt Nam được tăng mức vốn đóng góp vào dự án đầu tư sau khi thực hiện điều chỉnh giá sử dụng đất. Huy động vốn trong nước để tăng cường tính hiệu quả của FDI Nguồn vốn đầu tư trong nước đóng vai trò quyết định, nguồn vốn nước ngoài là quan trọng trong quá trình tăng trưởng và phát triển kinh tế đất nước. Đồng thời nguồn vốn trong nước là vốn đối ứng, là"bước đệm"để thu hút và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Thực tế trong thời gian qua trong các doanh nghiệp liên doanh, phần góp vốn của các doanh nghiệp trong nước còn thấp, trung bình chỉ đạt 30%. Hơn nữa trong các doanh nghiệp này hầu như mới chỉ có các doanh nghiệp nhà nước (chiếm 95%) tham gia hợp tác kinh doanh với nước ngoài còn các thành phần kinh tế khác mới chỉ (chiếm có 5%). Vốn trong nước đóng góp ít không những ảnh hưởng đến phần lợi nhuận được chia mà điều quan trọng hơn là về lâu dài quyền chi phối các hoạt động kinh doanh sẽ thuộc về các nhà đầu tư nước ngoài. Để hạn chế sự chi phối của các nhà đầu tư nước ngoài và nâng cao hiệu quả của hợp tác đầu tư chúng ta cần phải huy động nhiều hơn nữa vốn trong nước để đầu tư, hợp tác với nước ngoài nói chung và trong Nông nghiệp nói riêng. Để huy động nguồn vốn này cho hợp tác với nước ngoài thì bên Việt Nam cần có một số biện pháp sau: - Đối với các dự án thông thường, không đòi hỏi cao về chuyên môn nghiệp vụ cần huy động nhiều thành phần kinh tế, nhiều bên Việt Nam tham gia liên doanh. - Đối với các dự án đầu tư quan trọng, đòi hỏi tính chuyên ngành cao thì phía đối tác Việt Nam phải là những tổ chức chuyên ngành, những công ty mạnh. Trong trường hợp cần thiết có thể huy động các tổ chức Việt Nam khác cùng tham gia nhưng tổ chức chuyên ngành phải nắm vai trò chủ đạo. - Khuyến khích các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế và xã hội, các cá nhân trong nước và Việt kiều mua cổ phần tăng vốn đóng góp cho các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài trong nông nghiệp. Thu nhập từ cổ phần có thể được nhà nước miễn thuế lợi tức, thuế thu nhập công ty, thuế thu nhập cá nhân. - Tạo điều kiện cho các doanh nghiệp liên doanh kết hợp với các đối tác mới để tạo liên doanh mới, làm tăng quy mô đầu tư phương thức này có ưu điểm là giảm được nhiều thủ tục hành chính so với hình thành một liên doanh thực hiện dự án mới. - Thành lập các quỹ đầu tư trong nước cũng như cho phép các quỹ đầu tư ngoài nước hoạt động ở Việt Nam để cấp góp vốn cho các bên trong và ngoài nước tham gia liên doanh. Ngoài ra để giúp các doanh nghiệp Việt Nam có điều kiện tích tụ, tập trung và tích luỹ vốn nhanh hơn cần có chính sách ưu đãi như giảm thuế lợi tức, thuế xuất, nhập khẩu với mức hợp lý. Giải pháp trong phạm vi Bộ NN&PTNT - Xây dựng danh mục dự án(tóm tắt dự án) kêu gọi vốn ĐTNN thời kỳ 2001-2005 của ngành nông nghiệp, công bố cùng với chiến lược phát triển ngành trên trang Web của bộ nông nghiệp và PTNT. - Tìm biện pháp khuyến khích các trường dạy nghề trực thuộc Bộ Nông nghiệp và PTNT chú trọng đào tạo lao động theo yêu cầu của cơ chế thị trường; đáp ứng tốt các đòi hỏi của các nhà đầu tư nước ngoàI về chất lượng lao động. - Thống nhất và thông suốt quan điểm về ĐTNN ở các cấp; đối với các dự án ĐTNN chúng ta; nơi tiếp nhận đầu tư chỉ chú ý đến hiệu quả kinh tế của dự án, không nên có ý kiến sâu về hiệu quả tài chính của dự án, tránh gây khó khăn trong việc cấp phép. Kết luận Đẩy mạnh việc thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài và không ngừng nâng cao chất lượng công tác quản lý hoạt động của các doanh nghiệp thuộc khu vực FDI là yêu cầu vừa bức xúc vừa cơ bản lâu dài trong chiến lược phát triển kinh tế đối ngoại của nhà nước ta. Đồng thời đó cũng là đòi hỏi khách quan của một nền kinh tế mở cửa hội nhập thị trường khu vực và thế giới. Thực hiện nhất quán đường lối đổi mới đất nước, thời gian qua, công tác kêu gọi, thu hút nguồn vốn FDI vào các ngành, lĩnh vực của nền kinh tế nói chung, lĩnh vực nông nghiệp nông thôn nói riêng đã thu được những kết quả quan trọng, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành theo hướng phát triển bền vững, hiệu quả và nâng cao sức cạnh tranh của nông sản hàng hoá nước ta trên thị trường thế giới. Trong 13 năm qua (1988-2000) đầu tư trực tiếp nước ngoài đã sản xuất ra được 2089, 9 triệu USD, giá trị xuất khẩu đạt 537,22 triệu USD, nộp ngân sách nhà nước là 88,29 triệu USD. Một điều quan trọng hơn những con số đó là từ một"cú huých"ban đầu, đầu tư trực tiếp nước ngoài bổ sung nguồn vốn quan trọng cho nông nghiệp, (thời kỳ 1995-2000) vốn đầu tư nước ngoài chiếm đến 32,14% tổng vốn đầu tư trong nông nghiệp; Hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài đã thúc đẩy và kích thích nông nghiệp Việt Nam phát triển, tạo ra chỗ làm việc và thu nhập cho gần 4 vạn lao động và gián tiếp tạo thêm hàng chục vạn lao động trong các ngành sản xuất nông nghiệp; Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đã đóng góp vai trò quan trọng trong việc khôi phục và xây dựng mới kết cấu hạ tầng nông nghiệp nông thôn như xây dựng mới các công trình thuỷ lợi, thủy nông; Tạo ra thị trường ổn định để tiêu thụ nông sản nguyên liệu cho nông dân; Cùng với nó đầu tư trực tiếp nước ngoài mang một số tiến bộ kỹ thuật và công nghệ mới vào phát triển nông nghiệp Việt Nam như công nghệ chế biến đường tiên tiến, công nghệ sinh học áp dụng cho trồng trọt... Tuy nhiên, những kết quả nói trên mới chỉ là bước đầu. Tiềm năng nông nghiệp nước ta còn nhiều, nhu cầu thu hút vốn FDI trong những năm tới rất lớn nhưng tình hình hiện nay đang đặt ra nhiều thách thức mới, nhất là tình trạng cạnh tranh ngày càng gay gắt giưã các nước trong khu vực và trên thế giới nhằm giành lợi thế trong việc thu hút nguồn FDI. Bài học rút ra từ những thành công và chưa thành công trong mười năm qua đã chỉ ra sự cần thiết phải khẩn trương tăng cường các biện pháp quản lý và củng cố để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn FDI hơn nữa mặt khác phải không ngừng cải thiện môi trường đầu tư, làm tăng tính hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nước ngoàI trong lĩnh vực nông nghiệp. Cần phải tạo được bước chuyển biến đồng bộ ở tất cả các cấp quản lý trong toàn ngành cả về nhận lẫn tổ chức hoạt động thực tiễn, hướng trọng tâm là nâng cao chất lượng công tác quản lý đối với hoạt động FDI đáp ứng yêu cầu của công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn cả nước trong thời gian tới. Danh mục tài liệu tham khảo Giáo trình Kinh tế đầu tư - PGS.TS Nguyễn Ngọc Mai chủ biên Giáo trình Lập và quản lý dự án đầu tư - TS Nguyễn Bạch Nguyệt chủ biên Giáo trình Kinh tế phát triển - Trường đại học kinh tế quốc dân Giáo trình Kinh tế nông nghiệp - Trường đại học kinh tế quốc dân" Giáo trình Chuyển giao công nghệ trong nền kinh tế thị trường và vận dụngvào Việt Nam - TS Đặng Nhung chủ biên Giáo trình Kinh tế quốc tế - GS. Tô Xuân Dân chủ biên Đầu tư nước ngoài - TS Nguyễn Chí Lộc chủ biên Đầu tư trực tiếp nước ngoài với tăng trưởng kinh tế tại Việt Nam TS Vũ Trường Sơn. Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam cơ sở pháp lý hiện trạng và cơ hội triển vọng - Nguyễn Anh Tuấn,Phan Hữu Thắng,Hoàng Văn Huấn Những giải pháp chính trị,kinh tế nhằm thu hút có hiệu quả đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam - TS Nguyễn Khắc Luân PGS.TS Chu Văn Cấp. Đầu tư trực tiếp nước ngoài của các công ty xuyên quốc gia ở các nước đang phát triển - Học viện quan hệ quốc tế Môi trường đầu tư nước ngoài ở Việt Nam - Con đường đi tới khu đầu tư ASEAN - Nhóm nghiên cứu viện chiến lược- bộ KH&ĐT Vốn đầu tư nước ngoài và phát triển kinh tế ở Việt Nam - TS Lê Văn Châu. Niên giám thống kê 1999,2000, 2001 Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam - Nhà xuất bản chính trị quốc gia Văn kiện đại hội đảng toàn quốc lần thứ VI,VII,VIII,IX Nghị quyết của chính phủ Số 09/2001- NQ-CP Báo cáo chính trị của ban chấp hành trung ương đảng khoá VIII tại đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của đảng Báo cáo của lãnh đạo Bộ kế hoạch và đầu tư tại buổi gặp mặt các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực nông lâm nghiệp 30/3/2001 Báo cáo của bộ trưởng bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn Lê Huy Ngọ tại buổi gặp mặt các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực nông lâm nghiệp 30/3/2001 Báo cáo tình hình và kết quả hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài trong lĩnh vực nông lâm nghiệp và phát triển nông thôn thời kỳ 1998-2001 của bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn Các tạp chí chuyên ngành: Báo Đầu tư các số Kinh tế và dự báo các số 6+7/2000, 10/2000 Kinh tế thế giới 2/2000 Nghiên cứu kinh tế 3/1999,2/2000 Kinh tế Châu á Thái Bình Dương 2/2001, 4/2001 6/2001, 12/2001 Tạp chí TT- GC 4/2001; 7/2001 Tạp chí Tài chính 6/2001 Tạp chí Kinh tế phát triển 48/2001;53/2001 Nghiên cứu kinh tế 3/2000 Thông tin tài chính 2/1999 Thời báo tài chính Việt Nam số 38/1999 Kinh tế nông thôn số 2/1999 Báo thương mại số 66 năm 1999 Kinh tế và dự báo số 10+11/2000 Mục lục Lời nói đầu 1 Chương I: Những vấn đề lý luận chung 3 I. Một số vấn đề lý luận chung về đầu tư trực tiếp nước ngoài ........3 1. Khái niệm, và đặc điểm đầu tư trực tiếp nước ngoài 3 2. Các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam 9 3. Vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với nền kinh tế Việt Nam 11 II. Một số vấn đề lý luận chung về ngành nông nghiệp 17 Vị trí, vai trò của ngành nông nghiệp trong nền kinh tế quốc dân Việt Nam 17 2. Đặc điểm của sản xuất nông nghiệp 19 3. Vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với sự phát triển ngành nông nghiệp Việt Nam 23 III. Kinh nghiệm của một số nước trong khu vực về thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài nói chung và phát triển ngành nông nghiệp nói riêng. 26 1. Kinh nghiệm Philipin 26 2. Kinh nghiệm Malaysia 28 ChươngII: Thực trạng đầu tư trực tiếp nước ngoài trong nông nghiệp Việt Nam thời kỳ 1988-2001 30 I. Tình hìng đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam 30 1. Khái quát tình hình đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam trong thời gian qua 30 2. Kết qủa 36 3. Tồn tại 37 II. Đầu tư trực tiếp nước ngoài trong nông nghiệp 38 Tình hình tiếp nhận, cấp phép và thực hiện đầu tư trực tiếp nước ngoài 38 Đánh giá tình hình đầu tư trực tiếp nước ngoài phát triển ngành nông nghiệp Việt Nam 54 Chương III: Một số giải pháp nhằm tăng cường thu hút và sử dụng có hiệu qủa vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trong nông nghiệp Việt Nam 68 I. Phương hướng và mục tiêu thu hút thực hiện đầu tư trực tiếp nước ngoài trong nông nghiệp 68 1. Các quan điểm của Đảng và chính phủ về đầu tư trực tiếp nước ngoài 68 2. Các mục tiêu, phương hướng đầu tư trực tiếp nước ngoài 69 3. Hướng huy động và sử dụng vốn cụ thể 73 Những thuận lợi và khó khăn trong việc thu hút và sử dụng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào nông nghiệp trong thời gian tới 74 II. Một số giải pháp thu hút và sử dụng hiệu quả nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào nông nghiệp 76 1. Hoàn thiện hệ thống luật pháp tạo môi trường pháp lý hấp dẫn thông thoáng 77 2. Nâng cao chất lượng công tác định hướng quy hoạch 78 3. Nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về đầu tư trực tiếp nước ngoài 79 4. Khai phá mở rộng thị trường nông lâm sản 80 5. Cải cách và hoàn thiện thủ tục hành chính 81 6. Đẩy mạnh vận động xúc tiến đầu tư 82 7. Chú trọng công tác đào tạo cán bộ công nhân kỹ thuật 83 8. Đầu tư cải thiện điều kiện cơ sở hạ tầng nông nghiệp nông thôn 84 9. Hoàn thiện cơ chế chính sách liên quan đến đầu tư trực tiếp nước ngoài trong nông nghiệp 86 10. Huy động vốn trong nước để tăng cường tính hiệu quả của vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài 89 III. Giải pháp trong phạm vi bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn 90 Kết luận 91 Danh mục tài liệu tham khảo 93 ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docB0008.doc
Tài liệu liên quan