Tài liệu Đầu tư trực tiếp nước ngòai (FDI) - Foreign direct investment: Foreign direct investment
Đầu tư trực tiếp nước ngoài là gì?
Đầu tư trực tiếp nước ngoài là hình thức nhà đầu tư (cá nhân hoặc tổ chức) để đạt được quyền kiểm soát doanh nghiệp ở nước ngoài. Hoạt động FDI tạo ra công ty mẹ và công ty con từ đó hình thành ra tập đoàn xuyên quốc gia.
Để được gọi là đầu tư trực tiếp nước ngoài, vụ đầu tư phải đủ lớn để nắm quyền kiểm soát công ty ở nước ngoài. Liên hợp quốc xác định rằng để làm được việc đó, công ty mẹ phải sở hữu 10% hoặc hơn số cổ phiếu thường... Ebook Đầu tư trực tiếp nước ngòai (FDI) - Foreign direct investment
19 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 5976 | Lượt tải: 5
Tóm tắt tài liệu Đầu tư trực tiếp nước ngòai (FDI) - Foreign direct investment, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hoặc quyền biểu quyết của công ty được đâu tư. Nếu ít hơn thì được gọi là đầu tư gián tiếp.
Các hình thức của FDI
Phân chia theo mục đích đầu tư thì FDI được chia theo 4 loại chính:
Đầu tư mới – Greenfield Investment: nhằm xây dựng nhà máy mới hoặc mở rộng nhà máy/ dây chuyền hiện có.
Mua lại và sáp nhập – Merger & Acquisition: Công ty đầu tư mua luôn tài sản của doanh nghiệp nước ngoài.
Đầu tư theo chiều ngang – Horizontal FDI: Đầu tư trong cùng ngành công nghiệp.
Đầu tư theo chiều dọc – Vertical FDI: Đầu tư vào công ty chuyên cung cấp đầu tư vào sản xuất, hoặc chuyên bán đầu ra cho sản phẩm.
Phân chia theo mục tiêu:
FDI nhằm tìm kiếm nguồn lực - Resource-seeking: Đầu tư nhằm đạt được dây chuyền sản xuất và các nguồn lực khác như lao động rẻ hoặc tài nguyên thiên nhiên, mà những nguồn lực này không có ở được đi đầu tư. Đây là FDI thường đầu tư vào các nước đang phát triển như tài nguyên dầu mỏ ở Trung Đông hay vàng, kim cương ở Châu Phi, lao động rẻ ở Đông Nam Á.
FDI tìm kiếm thị trường Market-seeking: Đầu tư nhằm thâm nhập thị trường mới hoặc duy trì thị trường hiện có.
Tìm kiếm hiệu quả - Effficiency-seeking: Đầu tư nhằm tăng cường hiệu quả bằng việc tận dụng lợi thế của tính kinh tế theo quy mô hay phạm vi, hoặc cả hai.
Tìm kiếm tài sản chiến lược - Strategic-Asset-Seeking: Đầu tư nhằm ngăn chặn việc bị mất nguồn lực vào tay đối thủ cạnh tranh. Ví dụ, các công ty sản xuất và khai thác dầu mỏ có thể không cần trữ lượng dầu đó ở thời điểm hiện tại, nhưng vẫn phải tìm cách bảo vệ nó để không rơi vào tay đối thủ cạnh tranh.
Ưu nhược điểm của FDI đối với các nước được đầu tư:
Ưu điểm:
Về nguyên lý, FDI như ông già Noel đi vào mang theo những túi quà lóng lánh. Những túi quà này điểm qua thì có đầu tư tài chính; khả năng tiếp cận công nghệ mới, tiên tiến; khai phá và kích thích xuất khẩu,… Những món quà vô giá với những cậu bé – những doanh nghiệp nhỏ ở Việt Nam vốn chỉ quen chơi những trò chơi nhỏ, manh mún. Chúng ta phần nào “ưa” FDI bởi tác động – ích lợi của nó rất hiện hữu, sờ - nắm - đo đếm – bình phẩm được. Đó là những nhà máy mới, to lớn hiện đại chưa từng thấy, những mạng lưới công nghệ thông tin cao cấp, những khu thương mại khổng lồ, sáng long lanh và lộng lẫy, những người lao động chất lượng cao nói chuyện với nhau bằng ngoại ngữ quốc tế,… - về góc độ xã hội là khả năng tạo việc làm lớn.
Chưa hết, tác động của FDI không dừng lại ở một nhà máy hay một hệ thống, mỗi đơn vị đầu tư này lại có vai trò nhưng một hệ số nhân tác động – tức là sự xuất hiện của nó kéo theo một loạt các hiệu ứng phát triển quy mô vùng. Cùng với những dự án FDI được triển khai sẽ có hàng loạt các dự án lớn nhỏ ăn theo và một hệ thống các dịch vụ phụ trợ. Nhà máy Intel Việt Nam đi vào hoạt động chắc chắn sẽ làm cho cả một khu dân cư xung quanh thay đổi, kèm theo là một loạt các dịch vụ ăn uống, giải trí, vận chuyển,… - một hệ số nhân thực sự.
Nhược điểm:
FDI có thể làm triệt tiêu đi các nguồn lực tự thân ở quốc gia sở tại:
Câu hỏi là FDI có phải luôn tốt như vậy? Rất nhiều nhà kinh tế trong và ngoài nước thực sự băn khoăn về câu hỏi này. Xã hội Mỹ tăng trưởng không phải chỉ nhờ có những Microsoft, Intel, Apple, Goldman Sachs,… mà phần rất lớn động lực tuôn trào từ những người đang từng ngày nỗ lực để trở thành những Bill Gates mới và Steve Jobs mới. Giáo sư Nancy Napier, nhà nghiên cứu hàng đầu về chiến lược tại ĐH Boise State, trong một lần trao đổi với chúng tôi đã chia sẻ mối lo lắng của những người làm chiến lược về sức sáng tạo và năng động trong các doanh nghiệp quy mô vừa và nhỏ đang ngày càng giảm, làm cho nước Mỹ ngày càng già và kém vận động. Sức sáng tạo, tính năng động đó chính là những người khởi nghiệp. Nó quan trọng đến nỗi Jack Welch huyền thoại của GE từng tuyên bố muốn chẻ nhỏ, tái cơ cấu tập đoàn này để có thể tiến lên với tinh thần của một doanh nghiệp nhỏ.
Những doanh nghiệp nhỏ - những doanh nghiệp khởi sự có ý nghĩa vô cùng quan trọng với sức tăng trưởng và khả năng đổi máu của toàn nền kinh tế. Bằng chứng với những người chủ khởi nghiệp đầu tiên của Trung Nguyên hay FPT có lẽ cũng đủ - họ định nghĩa lại sức mạnh của Việt Nam.
Thế thì FDI, nguồn vốn luôn được ta tôn sùng có một hạn chế: sự xuất hiện của nó giống như sự xuất hiện của những doanh nghiệp lớn đã trực tiếp cạnh tranh những khoảng đất màu mỡ có thể nuôi mầm những tinh thần khởi nghiệp. Phía nào yếu thế hơn, câu trả lời dành cho độc giả. Nhà máy ViBird của tập đoàn Nguyễn Hoàng – người chủ sau 8 năm vẫn tự cho rằng “Tôi đang khởi nghiệp” – sẽ ra sao nếu Dell đầu tư xây dựng nhà máy lắp ráp máy tính ở Việt Nam. Chỉ là câu hỏi “nếu như” nhưng cũng có thể khiến NHG Group rùng mình.
Tăng trưởng kinh tế nóng-FDI là những khoản nợ quốc gia:
Bùng nổ đầu tư vào thị trường trường mới nổi
Theo dự báo của Viện Tài chính quốc tế (trụ sở tại Washington, Hoa Kỳ), năm nay đầu tư nước ngoài (gián tiếp và trực tiếp) sẽ tiếp tục ngập tràn các thị trường mới nổi với khoảng 469 tỷ USD. Nếu tính cả 2 năm 2005 và 2006, thì con số sẽ lên đến mức kỷ lục: khoảng 1.500 tỷ USD – tăng gần 100% so với số lượng của ba năm trước đó cộng lại. Lượng tiền khổng lồ trên đã thúc đẩy tăng trưởng của các nước thụ hưởng nhưng cũng tạo ra các phản ứng phụ khiến cho các thị trường này bị thương tổn, dẫn đến sự đổ vỡ.
“Đó là cái giá phải trả cho sự thành công” - Claudio Loser, cựu quan chức Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF), nhận xét. Standard & Poor’s, một tổ chức đánh giá tín dụng và nghiên cứu các rủi ro trong đầu tư, cho rằng Latvia và Romania có thể sẽ hạ cánh không được nhẹ nhàng cho lắm. Thâm hụt tài khoản vãng lai quá lớn sẽ gây nguy hiểm cho viễn cảnh đầu tư của Bulgaria và Estonia. Còn theo Desmond Lachman, một chuyên viên của Viện Doanh nghiệp Hoa Kỳ, đã xuất hiện các yếu tố có thể dẫn đến sụp đổ thị trường. Ông nói: “Thế giới đang đầy rẫy các mối hiểm nguy.”
Tại sao lại có sự bùng nổ trong đầu tư nước ngoài? Như chúng ta đều biết kinh tế toàn cầu đang tăng trưởng cao nhất trong vòng 10 năm trở lại đây. Hơn nữa, lãi suất cho vay của một số nước đang rất thấp và thủ tục vay rất dễ. Đây là những yếu tố tạo lực đẩy các dòng tiền đổ vào các nước có nền kinh tế mới nổi, nơi chi phí lao động khá rẻ và hàng hóa ngày càng lên giá, tạo cơ hội cho nhà đầu tư nước ngoài kiếm được lời nhiều. Nói cho công bằng, các nước thu nhận đầu tư nước ngoài đã hưởng những mối lợi không hề nhỏ: tạo thêm công ăn việc làm, thu thêm thuế và cải thiện được cơ sở hạ tầng.
Như Thổ Nhĩ Kỳ chẳng hạn, nhờ đầu tư nước ngoài tăng mà tăng trưởng kinh tế năm 2006 của nước này đạt tới 6,1%, một mức tăng kỷ lục. Đồng lira của nước này lên giá và lạm phát giảm, đáp ứng được các điều kiện để IMF cho vay 10 tỷ USD. Nhưng thách thức chính nằm ở chỗ làm thế nào để quản lý tốt các nguồn vốn từ nước ngoài chảy vào. Nếu để chúng vào ào ạt, lạm phát sẽ tăng kéo theo giá động sản, bất động sản tăng. Song kiểm soát chúng một cách gắt gao thì “thời kỳ vui vẻ” có thể sẽ sớm chấm dứt. William Rhodes, Phó chủ tịch cao cấp Citigroup tại New York, cho rằng một số thị trường mới nổi đang trở nên quá nóng, cần rất thận trọng trong các bước đi để tránh đổ vỡ.
Lạm phát cao, nội tệ lên giá
Trong thực tế, một số nước đang tìm cách chỉnh hướng do nhận thức được nguy cơ về việc thu nhận quá nhiều tiền nước ngoài. Năm ngoái, Thái Lan can thiệp sâu rồi đã phải rút lại các biện pháp kiểm soát vốn nước ngoài khi TTCK Bangkok sụt giảm xuống mức tồi tệ nhất trong vòng 16 năm trở lại đây. “Việc kiểm soát vốn thường rất nhạy cảm vì có thể tạo ra hiệu ứng tiêu cực đối với đầu tư và nền kinh tế” -Irene Cheung, nhà kinh tế làm việc tại chi nhánh ngân hàng ABN AMRO ở Singapore, cho biết. Còn ở Trung Quốc - thị trường mới nổi lớn nhất thế giới - hiện đang phải vật lộn nhằm ngăn bớt các đầu tư quá mức vào xây dựng nhà máy và mua bất động sản, trong khi vẫn phải kìm giữ không cho đồng nhân dân tệ tăng giá.
Theo dự báo của Viện Tài chính quốc tế, năm 2007 Trung Quốc có thể thu hút đến gần 1/5 tổng số vốn đầu tư tư nhân nước ngoài. Zhou Xiaochuan, Thống đốc Ngân hàng Trung ương Trung Quốc, đã bày tỏ mối quan ngại tình trạng “bong bóng” dễ bùng nổ đang xuất hiện tại các TTCK Trung Quốc khi nó đã tăng trưởng hơn 80% trong vòng 12 tháng trở lại đây.
Tương tự, nền tài chính của một số nước châu Mỹ Latin cũng sẽ gặp khó khăn. Các nhà đầu tư nước ngoài đã đổ khá nhiều tiền của vào các nước này khiến giá nội tệ của một số nước tăng. Chỉ trong vòng một năm, tiền peso Colombia lên giá 10% và tiền real Brazil lên gần 6%. Điều này dễ gây thiệt hại cho các nhà xuất khẩu, trong đó có các nhà xuất khẩu chuối và hoa của Colombia. Công ty sản xuất giày dép Alpargatas của Brazil đã phải sa thải bớt công nhân do bị mất thị trường xuất khẩu. Chính phủ Brazil đã đề ra một số biện pháp nhằm tìm cách khống chế, không để cho đồng real tăng giá quá cao.
Ngân hàng Trung ương Colombia cho biết sẽ hạn chế các khoản cho vay của các ngân hàng thương mại nhằm ngăn chặn tình trạng, mà Tổng thống Álvaro Uribe mô tả như “sự đầu cơ” các luồng vốn. Ngân hàng trung ương ở nhiều nước Đông Âu cũng đang đối mặt với lạm phát vì nhiều nhà đầu tư nước ngoài đã đổ tiền xây dựng nhà máy và mua bất động sản tại đây. Giá hàng tiêu dùng tại Latvia đã tăng cao nhất kể từ năm 2001 trở lại đây. Trong khi đó giá nhà đất tại Bulgaria đã vọt lên hơn 60%, so với cách đây 24 tháng.
Ana Mates, một nhà phân tích tín dụng tại Standard & Poor’s (London, Anh), cho biết trước viễn cảnh đầu tư nước ngoài tiếp tục tăng, kinh tế của một số nước sẽ trở nên rất nóng. Đối với châu Á, có lẽ đây là thách thức khó vượt qua nhất. Bởi các ngân hàng trung ương châu lục này đang phải vật lộn cùng một lúc với hai khó khăn: lạm phát cao và nội tệ lên giá. Ngân hàng nhiều nước châu Á đang đối phó tình hình này bằng cách vay tiền với lãi suất cao. Nhưng nếu làm như vậy, các nhà đầu tư nước ngoài lại đổ thêm tiền vào và giá nội tệ lại vọt lên.
Thực trạng FDI ở Việt Nam
Tăng trưởng FDI từ giai đoạn 1988-2007:
Biểu đồ tăng trưởng FDI trong nước cho thấy giai đoạn 1988-2007, những năm 2006, 2007 có tăng trưởng đột biến về FDI.
29-12-1987,Luật đầu tư nước ngoài được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa VIII, kỳ họp thứ 2 thông qua. FDI đã chính thức có mặt ở Việt Nam kể từ năm 1988.
Tháng 7 năm 1995, nước ta có 3 sự kiện quan trọng diễn ra trong một tháng. Đó là chúng ta ra nhâp ASEAN, kí hiệp định khung về hợp tác kinh tế với EU và bình thường hóa quan hệ với Mỹ. Có lẽ chưa từng có và khó có thể lặp lại ba sự kiện lớn như vậy diễn ra trong cùng một tháng. Những sự kiện này đã tạo ra những cơ hội to lớn cho nền kinh tế Việt Nam nói chung, lĩnh vực FDI nói riêng. Vào tháng 2/1997, cuộc khủng hoảng tài chính châu Á đã lan rộng ra nhiều nước, gây thiệt hại nặng nề đối với nền kinh tế nhiều nước, gây thiệt hại nặng nề đối với các nền kinh tế vốn được coi là “sự thần kỳ Đông Á". Việt Nam khi đó vẫn nằm ngoài "rìa" vòng xoáy của cuộc khủng hoảng. Nên trong giai đoạn 1995-1997, chúng ta đã có rất nhiều cơ hội để thu hút FDI. Nhưng đáng tiếc là chúng ta chưa biết nắm bắt nó để làm lợi cho đất nước. Do nước ta bị động với đối phó nên không những không biến được cơ hội thành hiện thực mà còn chịu tác động tiêu cực, khiến tốc độ tăng trưởng kinh tế chậm lại, vốn FDI cũng do đó mà giảm dần.
7-11-2006: WTO triệu tập phiên họp đặc biệt của Đại Hội đồng tại Geneva để chính thức kết nạp Việt Nam vào WTO. Sau một năm trở thành thành viên chính thức của WTO, Việt Nam đã đạt được những thành tựu lớn về KTXH, đã và đang tạo ra môi trường kinh doanh thuận lợi, những cơ hội đầu tư mới cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Việc Việt Nam trở thành thành viên chính thức WTO cũng đã và đang mở ra những cơ hội trong thu hút FDI. Năm 2007, số lượng các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam là 1.445 dự án, tăng gấp đôi so với năm 2006. Tổng số tiền đầu tư (bao gồm cả các khoản đầu tư mới, đầu tư mở rộng) là 20,3 tỷ USD, đây là con số lớn nhất cho tới nay. Những con số này cho thấy sự lớn mạnh ngạc nhiên của đầu tư nước ngoài vào Việt Nam trong năm 2007. Đó là do những nguyên nhân chính sau:
+ Trước hết, việc gia nhập WTO đã tạo điều kiện để các doanh nghiệp Việt Nam tham gia thị trường xuất khẩu hàng hóa quốc tế một cách bình đẳng, góp phần khắc phục trở ngại về thị trường mà lâu nay các doanh nghiệp Việt Nam, kể cả doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thường gặp phải. Điều đó đã tạo điều kiện thu hút nhiều hơn các nhà đầu tư nước ngoài đến đầu tư tại Việt Nam để xuất khẩu ra thế giới.
+ Thứ 2, Việt Nam cam kết mở cửa 11/12 ngành dịch vụ, gồm 110 phân ngành theo quy định của WTO, trong đó có một số ngành quan trọng như: dịch vụ viễn thông, bảo hiểm, ngân hàng, chứng khoán, vận tải, bảo hộ sở hữu trí tuệ... Điều này đã tạo điều kiện thu hút FDI vào lĩnh vực kinh doanh dịch vụ tại Việt Nam và tạo điều kiện cho các nhà đầu tư nước ngoài yên tâm đầu tư lâu dài ở Việt Nam.
+Thứ ba, việc gia nhập WTO cũng đòi hỏi Việt Nam tiếp tục xây dựng môi trường pháp lý hoàn chỉnh và minh bạch hơn. Việt Nam đã cam kết kể từ khi gia nhập WTO sẽ tuân thủ toàn bộ các hiệp định quan trọng của WTO liên quan đến chính sách tài chính, tiền tệ, doanh nghiệp nhà nước, quyền kinh doanh, trợ cấp, các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại (TRIMs), tuân thủ nguyên tắc không phân biệt đối xử của WTO (trừ một số ngoại lệ), loại bỏ toàn bộ các biện pháp hạn chế số lượng nhập khẩu, bãi bỏ chế độ hai giá, bãi bỏ áp dụng tỉ lệ xuất khẩu bắt buộc đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài... Điều này (được thể hiện trong Luật Đầu tư và Luật Doanh nghiệp mới cùng các văn bản hướng dẫn) sẽ thúc đẩy mở cửa các ngành kinh tế và tăng tính hấp dẫn của Việt Nam đối với các nhà đầu tư nước ngoài.
+Thứ tư, việc gia nhập WTO tạo điều kiện thúc đẩy nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế của doanh nghiệp và của sản phẩm Việt Nam. Đồng thời, việc sử dụng cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO cũng tạo thêm lòng tin cho các nhà đầu tư nước ngoài hoạt động tại Việt Nam.
=> Có thể khẳng định rằng, việc Việt Nam trở thành thành viên chính thức của WTO tiếp tục có tác động lớn làm cho dòng vốn FDI tăng cao trong năm 2007 và sẽ tiếp tục tăng trưởng. Bên cạnh sự tăng lên mạnh mẽ về số lượng dự án đầu tư nước ngoài cũng như về vốn đăng ký mới, các dự án đầu tư mới trong thời gian tới sẽ hướng dần đến những ngành, lĩnh vực công nghệ cao, công nghệ nguồn, gia tăng xuất khẩu, tạo việc làm, các dự án sản xuất các sản phẩm, dịch vụ có sức cạnh tranh, các dự án xây dựng kết cấu hạ tầng.
2. Đầu tư trực tiếp theo lĩnh vực đầu tư :
Trong giai đoạn từ 1988 đến tháng 9/2007, đã có 8.058 dự án FDI được triển khai ở Việt Nam. Lượng vốn đầu tư trong gần 20 năm đạt đến con số 72,86 tỉ USD nhưng cho đến thời điểm 9/2007 mới chỉ thực hiện được khoảng 42,5% – một hiệu suất không hề cao. Nếu bổ ra theo các ngành công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ thì càng thấy rõ.
Bảng trên cho thấy có rất ít vốn đổ vào ngành nông nghiệp, nhiều nhất và vượt trội là vốn đầu tư vào ngành công nghiệp. Lượng vốn đầu tư vào mảng dịch vụ chỉ bằng một nửa.
* Nguyên nhân ít vốn đổ vào ngành nông nghiệp so với các ngành khác:
Thứ nhất, chưa có chiến lược thu hút và quy hoạch sử dụng FDI cho phát triển nông nghiệp và nông thôn. Chưa có cơ chế chọn lựa đề xuất các dự án FDI ưu tiên trong ngành, mong muốn của ngành chưa thể hiện thành chính sách ưu đãi. Chưa có cơ quan của ngành theo dõi và giúp đỡ giải quyết vướng mắc trong quá trình xúc tiến và thực hiện các dự án FDI. Chưa có cơ chế phối hợp ngành - địa phương.
Thứ hai, cơ sở hạ tầng và tay nghề ở khu vực nông thôn chưa đủ để hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài. Rủi ro khi đầu tư vào nông nghiệp và khu vực nông thôn cao. Các doanh nghiệp trong lĩnh vực nông nghiệp và nông thôn chưa đủ năng lực để chủ động kêu gọi FDI theo ý đồ phát triển sản phẩm và thị trường của riêng mình.
Thứ ba, những nguyên nhân bắt nguồn từ thủ tục hành chính, chính sách chung của Nhà nước. Chưa thực sự ưu đãi cho đầu tư, đặc biệt là đầu tư nước ngoài vào khu vực nông nghiệp và nông thôn. Chính sách đất đai, thuế và các chế độ ưu đãi đầu tư trong nông nghiệp và các vùng nông thôn chưa rõ và chưa thống nhất.
* Trong khi đó ngành công nghiệp: Quy hoạch khu công nghiệp của Việt Nam hiện rất tốt; đưa ra nhiều khu công nghiệp để thu hút các nhà đầu tư nước ngoài. Đối với các nhà đầu tư nước ngoài, khu công nghiệp là một công cụ tốt đối với họ, mọi thứ đều có sẵn ở đó, chính sách một cửa, sẵn điện, đất. Các nhà đầu tư nước ngoài dễ dàng ký được hợp đồng, đỡ nhức đầu. Nếu đầu tư ra ngoài khu công nghiệp sẽ phức tạp hơn.
Đầu tư trực tiếp theo các hình thức đầu tư:
Qua các hình thức đầu tư trên, ta thấy hình thức đầu tư 100% vốn nước ngoài là có Vốn đầu tư FDI lớn nhất là hơn 44 tỉ USD, sau đó là tới hình thức đầu tư liên doanh có vốn đầu tư là trên 21 tỉ USD, hợp đồng hợp tác kinh doanh trên 4,4 tỉ USD. Đó là do:
Việt Nam khuyến khích các hình thức đầu tư nước ngoài như hợp tác kinh doanh, liên doanh và doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. Cho phép bên nước ngoài đầu tư vào Việt Nam bằng tiền nước ngoài, tiền Việt Nam có nguồn gốc từ đầu tại Việt Nam; thiết bị, máy móc, nhà xưởng, công trình xây dựng; giá trị quyền sở hữu công nghiệp, bí quyết kỹ thuật, quy trình công nghệ, dịch vụ kỹ thuật.
Chính phủ cũng có thể chấp thuận cho các nhà đầu tư nước ngoài góp vốn bằng các hình thức khác. Phần góp vốn của bên nước ngoài vào vốn pháp định không dưới 30%...
Đầu tư trực tiếp nước ngoài theo các đối tác đầu tư:
Trong các nước đầu tư FDI vào Việt Nam từ 1988-2007 thì có các nước có vốn đầu tư trên 4tỉ USD là Hàn Quốc, Singapore, Đài Loan, Nhật Bản, Hồng Kông và BritishVirginIslands.
Đây là một số đối tác truyền thống khác như Hàn Quốc, Hồng Kông, Singapore, Đài Loan… Ngoài ra còn có sự gia tăng đầu tư của các tập đoàn, các công ty Nhật Bản, BritishVirgnIslands, Hoa Kì… Cho thấy sự quan tâm của các nhà đầu tư lớn trên Thế giới.
5. Đầu tư trực tiếp theo các địa bàn đầu tư
Thực tế, từ trước tới nay, những địa phương này đều là trọng điểm về thu hút đầu tư nước ngoài nhưng để tạo ra sự đột biến về thu hút đầu tư, các địa phương này đã có sự đổi mới mạnh mẽ trong chính sách và xúc tiến đầu tư. Hà Nội được xem là một điển hình về đổi mới cơ chế; trong khi đó, thành phố Hồ Chí Minh, Bình Dương lại có những chương trình xúc tiến rất hiệu quả.
Theo đánh giá của các nhà đầu tư, ngoài các yếu tố hấp dẫn về thị trường, nhân lực, hạ tầng, thì trong thời gian gần đây, Hà Nội đã có một bước chuyển biến mạnh mẽ về thủ tục đầu tư, nhất là về đất đai, kết nối hạ tầng với các tỉnh miền Bắc đang được hoàn chỉnh. Nguồn vốn đầu tư vào Hà Nội dự kiến sẽ tiếp tục tăng lên, hiện đang có rất nhiều nhà đầu tư lớn trình dự án đầu tư tại Hà Nội. Ngoài ra, TP Hà Nội cũng đã chuẩn bị một số dự án lớn về đầu tư hạ tầng, như phát triển đô thị Bắc sông Hồng, dự án về công nghệ cao... để kêu gọi các nhà đầu tư.
Tuy nhiên:
Chúng ta không nên “khoe khoang” con số vốn đăng ký FDI mà cần phải quan tâm đến con số vốn thực hiện cũng như thực trạng ngày càng doãng ra giữa hai con số này. Nếu khoảng cách giữa hai con số này ngày càng gia tăng thì không thể nói là thu hút FDI thành công, dù vốn đăng ký có lên tới hàng trăm tỷ USD.
Trong hai năm 2006 - 2007, dòng vốn FDI liên tiếp thiết lập rồi tự phá kỷ lục về vốn đăng ký. Nếu trước kia những dự án 1 tỷ USD chỉ là “trong mơ”, thì hiện nay nhà đầu tư đã sẵn sàng mang tới những dự án từ 1 - 5 tỷ USD. Nhưng thực tế có không ít dự án lớn đã đổ bể và không ít dự án sai tiến độ, chậm giải ngân. Đây cũng là cơ sở để nhiều người lo ngại rằng, chúng ta đang bị “loá mắt” trước số lượng FDI mà quên mất chất lượng hay thực tế thực hiện. Việc theo đuổi chính sách khuyến khích, đồng thời coi trọng chất lượng các dự án FDI là hai mặt có quan hệ hữu cơ. Trong điều kiện hoạt động đầu tư trong nước đang gia tăng nhanh chóng, việc lựa chọn dự án FDI cần bảo đảm hiệu quả KT- XH trong mối quan hệ giữa nội lực và ngoại lực - Gs. Ts Nguyễn Mại nhấn mạnh. Bộ trưởng Bộ Kế hoạch – Đầu tư Võ Hồng Phúc chia sẻ: Vốn đăng ký càng nhiều thì khoảng cách giữa vốn đăng ký và thực hiện sẽ ngày càng bị dãn rộng. Và khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế vẫn là điều đáng phải bàn lại.
Đằng sau việc tốc độ giải ngân thấp chính là những tồn đọng lâu nay của nền kinh tế như cơ sở hạ tầng, công nghệ phụ trợ yếu kém, lao động tay nghề chưa cao. Mà như lo ngại của Gs.Ts Nguyễn Mại: Nếu không cải thiện được hệ thống cơ sở hạ tầng như điện, giao thông vận tải trong thời gian tới, thì vốn đăng ký FDI sẽ chỉ tăng trên giấy. Môi trường đầu tư của nước ta đã được cải thiện khá nhiều trong thời gian qua, song chừng đó là chưa đủ. Nhiều chuyên gia kinh tế khẳng định, sở dĩ nhiều nền kinh tế lớn chưa đầu tư nhiều vào Việt Nam có nguyên nhân chủ yếu là do những vướng mắc về cơ sở hạ tầng- những vấn đề đáng lẽ có thể giải quyết được nhưng lại đang giải quyết quá chậm. Thực tế là với hơn 8.500 dự án còn hiệu lực trong 20 năm qua, chỉ có khoảng 50% dự án được triển khai, tổng vốn đầu tư thực hiện đạt 30 tỷ USD, chiếm 36,1% vốn đăng ký. Ngay cả những nhà đầu tư hàng đầu hiện nay như , Đài Loan, Hàn Quốc tỷ lệ vốn thực hiện so với vốn đăng ký cũng rất khiêm tốn, chỉ xấp xỉ 30%.
Những thành tựu và hạn chế của FDI ở Việt Nam trong thời gian qua:
Thành tựu:
Theo Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Võ Hồng Phúc, đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) thời gian qua đạt được 5 thành tựu nổi bật.
Thứ nhất, dòng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam ngày càng gia tăng, góp phần bổ sung nguồn vốn đầu tư phát triển kinh tế-xã hội.
Tính từ năm 1988 đến nay, Việt Nam đã thu hút 9.500 dự án đầu tư nước ngoài với tổng vốn đăng ký khoảng 98 tỷ USD. Đặc biệt, năm 2007 thu hút đầu tư nước ngoài vượt ngưỡng hơn 20 tỷ USD, tăng gần 70% so với năm 2006, chiếm trên 20% tổng vốn đầu tư nước ngoài trong 20 năm qua.
Thứ hai, quá trình thu hút đầu tư nước ngoài đóng góp tích cực vào thành công của công cuộc đổi mới trong 21 năm qua. Hiện khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài chiếm khoảng 16% GDP, đóng góp vào ngân sách Nhà nước vượt 1,5 tỷ USD trong năm 2007; đồng thời thu hút 1,2 triệu lao động trực tiếp và hàng triệu lao động gián tiếp.
Thứ ba, đầu tư nước ngoài đã góp phần tích cực thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động theo hướng công nghiệp hóa - hiện đại hóa. Về cơ cấu, khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài chiếm khoảng 37% giá trị sản xuất công nghiệp của cả nước. Về cơ cấu vùng, đầu tư nước ngoài tập trung chủ yếu ở các vùng kinh tế trọng điểm đã góp phần làm cho các vùng này thực sự là vùng kinh tế động lực để lôi kéo sự phát triển chung và các vùng phụ cận.
Thứ tư, đầu tư nước ngoài là cầu nối quan trọng giữa kinh tế Việt Nam với nền kinh tế thế giới, thúc đẩy phát triển thương mại, du lịch và tạo điều kiện quan trọng để Việt Nam hội nhập ngày càng chủ động và sâu hơn vào đời sống kinh tế thế giới.
Thứ năm, đầu tư nước ngoài có tác động đến kinh tế trong nước, thúc đẩy các doanh nghiệp nâng cao khả năng cạnh tranh, đổi mới phương thức quản trị doanh nghiệp cũng như phương thức kinh doanh; đồng thời nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế.
Thông qua đầu tư nước ngoài, nhiều nguồn lực trong nước như lao động, đất đai, lợi thế địa kinh tế, tài nguyên được khai thác và sử dụng có hiệu quả hơn.
Hạn chế:
Mặc dù đã đạt mức tăng trưởng cao, nhưng kết quả thu hút đầu tư nước ngoài trong năm qua vẫn chưa tương xứng với tiềm năng, vẫn thấp hơn mức đạt được của năm 1996 (8,8 tỷ USD). Môi trường đầu tư và kinh doanh tuy đã tiếp tục được cải thiện nhưng vẫn có những dự án vì những lý do nào đó, sau khi nhà đầu tư khảo sát tại Việt Nam đã thôi không đầu tư nữa hoặc chuyển sang đầu tư nước khác.
Việt Nam là một trong số rất ít các nước đang phát triển được các nhà đầu tư nước ngoài đánh giá cao về các lợi thế đầu tư, đặc biệt là trên 4 phương diện: sự ổn định chính trị, vị trí địa lý, khả năng khống chế tỷ lệ lạm phát và quản lý tỷ giá. Tuy nhiên, Việt Nam cũng là một trong các quốc gia còn yếu trong việc bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, hiệu quả của các dịch vụ hành chính, cơ sở hạ tầng, hệ thống thuế và khung pháp luật cho hoạt động đầu tư nước ngoài, một số nhà đầu tư có tâm lý chờ đợi các văn bản hướng dẫn thi hành các luật mới. Ngoài ra, các tình trạng đình công chưa được ngăn chặn kịp thời; tình trạng tranh chấp kéo dài và triển khai dự án chậm chưa được xử lý dứt điểm cũng gây ảnh hưởng xấu đối với môi trường đầu tư.
Một điều nữa là chính sách thu hút ĐTNN của các nước trong khu vực quả thật có những điểm hấp dẫn hơn. Nếu nhìn lại, có thể thấy trong vấn đề này Trung Quốc có lợi thế hơn ta khi thị trường trong nước của họ lớn hơn ta rất nhiều. Đấy cũng là lý do khiến một số nhà đầu tư rút khỏi Việt Nam để chuyển hướng sang Trung Quốc.
- Tỷ lệ các dự án đầu tư nước ngoài có sử dụng công nghệ cao, công nghệ nguồn còn thấp. Trong số các đối tác nước ngoài, thì Châu Âu và Hoa Kỳ đầu tư chưa lớn và chưa tương xứng với tiềm năng của họ.
- Nhìn chung, tiến độ thực hiện dự án còn chậm so với luận chứng kinh tế kỹ thuật của dự án. Những dự án được cấp trước thời kỳ khủng hoảng tài chính khu vực vẫn không triển khai hoặc mới chỉ triển khai một số ít hạng mục. Nhiều dự án bất động sản vẫn dậm chân tại chỗ do vướng cơ chế chính sách. Một số dự án gặp vướng mắc kéo dài chưa được xử lý dứt điểm gây ảnh hưởng xấu đến môi trường đầu tư. Kết quả là chênh lệch giữa vốn đăng ký và vốn thực hiện còn lớn; tốc độ tăng vốn thực hiện chưa cao.
- Một số doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài không thực hiện đúng những quy định của luật pháp về việc sử dụng lao động là người Việt Nam; như kéo dài thời gian học nghề, trả lương thấp hơn mức lương tối thiểu do Nhà nước quy định, không thực hiện đúng chế độ bảo hiểm xã hội, kéo dài thời gian lao động trong ngày, thậm chí có những hành động xử phạt trái với pháp luật và đạo lý. Trong khi đó, nhiều người lao động không nắm được quy định của pháp luật, cộng thêm việc thiếu các tổ chức công đoàn, các cán bộ của Bên Việt Nam không bảo vệ được quyền lợi chính đáng của người lao động..., đó chính là những nguyên nhân chủ yếu xảy ra các tranh chấp về lao động trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
- Tỷ lệ các dự án giải thể trước thời hạn vẫn còn ở mức cao, nhất là các dự án được cấp phép trong những năm trước khủng hoảng.
- Chủ trương phân cấp đầu tư trong thời gian qua đã cho thấy đây là một chính sách đúng đắn cần được phát huy và mở rộng, nhưng cũng đã bộc lộ những vấn đề mới, như việc ban hành văn bản vượt khuôn khổ pháp luật, việc quản lý về đầu tư nước ngoài tại các địa phương còn khác nhau, không được xử lý một cách thống nhất, cạnh tranh trong thu hút đầu tư giữa các địa phương đã ảnh hưởng đến lợi ích chung..
Các giải pháp để tăng cường thu hút và sử dụng vốn FDI hiệu quả trong giai đoạn tới:
Về pháp luật, chính sách:
- Chuẩn bị các điều kiện để triển khai thực hiện tốt Luật Doanh nghiệp và Luật Đầu tư chung; Cần sớm ban hành các Nghị định và Thông tư hướng dẫn hai Luật nói trên để tạo ra sân chơi bình đẳng cho các nhà đầu tư bất luận trong hay ngoài nước, đặc biệt là bảo đảm tính minh bạch và tiên liệu trước được trách nhiệm giải trình để các nhà đầu tư an tâm đầu tư; tuyên truyền, phổ biến nội dung của các Luật mới; kịp thời hướng dẫn cụ thể về chuyển đổi thủ tục hành chính, củng cố, hoàn thiện tổ chức bộ máy quản lý ĐTNN phù hợp với quy định của Luật mới. Coi trọng việc giữ vững sự ổn định, không làm ảnh hưởng đến hoạt động của các doanh nghiệp FDI khi áp dụng các Luật mới.
- Ban hành chính sách ưu đãi, khuyến khích mọi thành phần kinh tế, nhất là kinh tế tư nhân và đầu tư nước ngoài đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng, kinh doanh bất động sản đáp ứng nhu cầu và thực tế hội nhập kinh tế quốc tế.
- Bổ sung cơ chế, chính sách xử lý các vấn đề pháp lý liên quan đến việc thực hiện các cam kết của nước ta trong lộ trình AFTA và các cam kết đa phương và song phương trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, nhất là trong mở cửa lĩnh vực dịch vụ (bưu chính viễn thông, vận chuyển hàng hóa, y tế, giáo dục và đào tạo.v.v).
- Đẩy mạnh việc đa dạng hóa hình thức đầu tư để khai thác thêm các kênh đầu tư mới như cho phép thành lập công ty hợp danh, ĐTNN theo hình thức mua lại và sáp nhập (M&A)... Sớm ban hành Quy chế công ty quản lý vốn (holding company) để điều hành chung các dự án. Tổng kết việc thực hiện thí điểm cổ phần hoá các doanh nghiệp ĐTNN để nhân rộng
Về quản lý nhà nước trong hoạt động ĐTNN:
- Đẩy mạnh việc triển khai phân cấp quản lý nhà nước giữa Chính phủ và chính quyền tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; chú trọng vào công tác hướng dẫn, kiểm tra, giám sát việc thực hiện chính sách pháp luật của các địa phương tránh tình trạng ban hành chính sách ưu đãi vượt khung; giảm dần sự tham gia trực tiếp của cơ quan quản lý trung ương vào xử lý các vấn đề cụ thể, trong đó nhiệm vụ giám định đầu tư và hậu kiểm được tăng cường; đào tạo và bồi dưỡng cán bộ quản lý từ trung ương đến địa phương thông qua tổ chức tập huấn, đào tạo ngắn hạn.
- Tiếp tục thực hiện nghiêm túc Chỉ thị 13 của Thủ tướng Chính phủ, trong đó có việc tiến hành đều đặn chương trình giao ban Vùng; duy trì, nâng cao chất lượng các cuộc đối thoại với cộng đồng các nhà đầu tư, kịp thời giải quyết các khó khăn vướng mắc trong hoạt động kinh doanh của nhà đầu tư.
- Thực hiện có hiệu quả cơ chế một cửa và giải quyết kịp thời các vấn đề vướng mắc phát sinh giúp các doanh nghiệp triển khai dự án thuận lợi; khuyến khích họ đầu tư chiều sâu, mở rộng sản xuất để đạt hiệu quả kinh tế - xã hội cao hơn. (Đây là cách tốt nhất chứng minh có sức thuyết phục về môi trường ĐTNN ở Việt Nam đối với các nhà ĐTNN tiềm năng).
- Hỗ trợ, thúc đẩy các doanh nghiệp Việt Nam đầu tư ra nước ngoài bằng cơ chế chính sách khuyến khích, ưu đãi trong lập qũy, vay vốn đầu tư ; đơn giản hóa thủ tục hành chính trong việc cấp phép, mở rộng chế độ đăng ký cấp phép.
- Tiếp tục đẩy mạnh việc ứng dụng công nghệ tin học vào công tác quản lý nhằm nâng cao hiệu quả điều hành hoạt động ĐTNN ở cả trung ương lẫn địa phương.
Đổi mới và đẩy mạnh hoạt động XTĐT:
- Tiếp tục tăng cường và đổi mới công tác vận động xúc tiến đầu tư chú trọng ._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 12401.doc