Đầu tư trực tiếp nước ngoài

Tài liệu Đầu tư trực tiếp nước ngoài: LỜI MỞ ĐẦU Từ khi Đảng ta thực hiện đổi mới tới nay, nền kinh tế nước ta đã đạt được thành tựu to lớn. Tốc độ tăng trưởng kinh tế trong những năm gần đay luôn ổn định mức cao. Để đạt được những thành tựu đó là nhờ những chình sách, đường lối kinh tế đúng đắn của Đảng và nhà nước. Trong đó, Chính sách thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, đã thực sự đem lại hiệu quả cao. *Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI = Foreign Direct Investment) là hình thức đầu tư dài hạn của cỏ nhân hay công ty nước nà... Ebook Đầu tư trực tiếp nước ngoài

doc24 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1466 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Đầu tư trực tiếp nước ngoài, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
y vào nước khác bằng cách thiết lập cơ sở sản xuất, kinh doanh. Cá nhân hay công ty nước ngoài sẽ được nắm quyền quản lý cơ sở sản xuất kinh doanh này. Thu hút vốn đầu tư nước ngoài đã đem lại cho nước ta nhiều thuận lợi lớn cho phát triển kinh tế. Để phát triển kinh tế yếu tố quan trọng là đồng vốn,nhân lực, khoa học kỹ thuật. Hiện nay nguồn vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam đã có sự tăng trưởng đáng kể, đóng góp không nhỏ vào sự phát triển kinh tế của nước ta trong những năm qua. FDI không ngừng tăng lên với sự đa dạng về nhà đầu tư cũng như số lượng đầu tư vào Việt Nam. Tuy trong những năm gần đây, nước ta đã có một cơ cấu vốn FDI tương đối lớn so với nhiều nước trên thế giới. Nhưng tốc độ tăng nguồn vốn FDI của nước ta vẫn còn thấp, nhất là khối lượng vốn đầu tư chưa thật sự cao. Khả năng thu hút vốn đầu tư của nước ta so với các nước trên thế giới vẫn còn thấp, đặc biệt là so với các nước châu á, Đông Nam á. Việc tăng khả năng thu hút đầu tư nói chung và thu hút vồn FDI nói riêng cần được nhà nước chú trọng, phát triển. Nâng cao nguồn vốn FDI trong tương lai lên, đặc biệt là trong các dự án về các vùng cao, vùng khó khăn. Cùng với đó là một chiến lược sử dụng vốn FDI một cách hợp lí, đúng đắn với sự phát triển và cơ cấu của nền kinh tế quốc dân NỘI DUNG I. QUAN NIỆM VỀ FDI VÀ VAI TRÒ CỦA NÓ 1. Quan niệm về đầu tư nước ngoài Đầu tư nước ngoài là phương thức đầu tư vốn, tài sản ở nước ngoài để tiến hành sản xuất, kinh doanh hay dịch vụ vơí mục đích tìm kiếm lợi nhuận hoặc vì những mục tiêu chính trị, xã hội nhất định. Sơ đồ : Các kênh chính của nguồn vốn đầu tư nước: Vèn ®Çu t­ n­íc ngoµi Vèn trî gióp ph¸t triÓn chÝnh thøc cña chÝnh phñ vµ c¸c tæ chøc quèc tÕ Vèn ®Çu t­ cña t­ nh©n Vèn ®Çu t­ trùc tiÕp Vèn ®Çu t­ gi¸n tiÕp TÝn dông th­¬ng m¹i Vèn hç trî phi dù ¸n Vèn hç trî dù ¸n TÝn dông th­¬ng m¹i Về bản chất đầu tư nước ngoài là hình thức xuất khẩu tư bản , một hình thức cao hơn của xuất khẩu hàng hoá. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ( FDI) Vốn đầu tư FDI là một trong những kênh chính của vốn đầu tư nước ngoài Nguồn vốn FDI là nguồn vốn đầu tư của tư nhân nước ngoài để đầu tư cho sản xuất , kinh doanh và dịch vụ nhằm mục đích thu lợi nhuận. Đây là một nguồn vốn lớn, có ý nghĩa quan trọng trong phát triển kinh tế ở các nước đang phát triển như nước ta. 2. Vai trò của nguồn vốn FDI. Trước hết, nói đến vai trò của FDI đối với các nước đi đầu tư được thể hiện ở một số lợi ích sau : Thông qua đầu tư FDI,các nước đi đầu tư tận dụng được những lợi thế về chi phí sản xuất thấp của các nước nhận đàu tư ( giá nhân công rẻ,chi phí khai thác nguyên vật liệu tại chỗ thấp) để hạ giá thành sản phẩm,giảm chi phi vận chuyển đối với việc sản xuất hàng hoá thay thế nhập khẩu ở các nước tiếp nhận đầu tư.Nhờ đó,mà nâng cao hiệu quả vốn đầu tư. Đầu tư trực tiếp nước ngoài cho phép các công ty có thể kéo dài chu kì sống của sản phẩm đã được sản xuất và tiêu thụ ở thị trường trong nước.Thông qua FDI,các công ty của các nước phát triển chuyển được một phần các sản phẩm công nghiệp ở giai đoạn cuối của chu kì sống sản phẩm sang nươc nhận đầu tư để tiếp tục sử dụng chúng như những sản phẩm mới ở các nước này tạo thêm lợi nhuận cho nhà đầu tư. Giúp các công ty chính quốc tạo dựng được thị trường cung cấp nguyên vật liệu dồi dào,ổn định với giá rẻ. Cho phép chủ đầu tư bành trướng về sức mạnh kinh tế,tăng cường khả năng ảnh hưởng của mình trên thị trường quốc tế, nhờ mở rộng được thi trường tiêu thụ sản phẩm, lại tránh được hàng rào bảo hộ mậu dịch của nước nhận đầu tư, giảm giá thành sản phẩm, tăng sức cạh tranh với các hàng hoá nhập từ các nước khác.Đối với nước tiếp nhận đầu tư( chủ yếu là các nước đang phát triển), nguồn vốn FDI có những tác dụng sau; FDI giải quyết tình trạng thiếu vốn cho phát triển kinh tế, xã hội do tích luỹ nội bộ thấp, cản trở đầu tư và đổi mới kĩ thuật trong điều kiện khoa học, kĩ thuật thế giới phát triển mạnh. Các nước đang phát triên trong gần 30 năm qua đã nhận dược trên 50 tỷ USD đầu tư nước ngoài cùng với chính sách kinh tế năng động, hiệu quả đã trở thành những con rồng Châu á. Cùng với việc cung cấp vốn,thông qua FDI các công ty nước ngoài đã chuyển giao công nghệ từ nước mình hoặc nước khác sang cho nước tiếp nhận đầu tư,do đó các nước tiếp nhận đầu tư có thể nhận được công nghệ,kĩ thuật tiên tiến hiện đại(thực tế,có những công nghệ không thể mua được bằng quan hệ thương mại đơn thuần),những kinh nghiệm quản lý,năng lực marketing,đội ngũ lao động được đào tạo,rèn luyện về mọi mặt(trình độ kỹ thuật,phương pháp làm việc,kỷ luật lao động...). Đầu tư FDI làm cho các hoạt động đầu tư trong nước phát triển,thúc đẩy tính năng động và khả năng cạnh tranh trong nước,tạo điều kiện khai thác có hiệu quả các tiềm năng của đất nước.Điều đó có tác động mạnh mẽ đến chuyển dịch cơ cấu theo hướng tích cực. Với việc tiếp nhận FDI, không đẩy các nước vào cảnh nợ nần,không chịu những ràng buộc về chính trị xã hội. FDI góp phần tăng thu cho ngân sách nhà nước thông qua việc đánh thuế vào các công ty nước ngoài.Thông qua hợp tác với nước ngoài, nước tiếp nhận đầu tư có điều kiện thâm nhập vào thị trưòng thế giới. Như vậy các nước có khả năng tốt hơn trong việc huy động tài chính cho dự án phát triển. Tuy nhiên,theo kinh nghiệm của các nước tiếp nhận đầu tư,bên cạnh những ưu điểm thì FDI cũng có những hạn chế nhất định.Đó là,nếu đầu tư vào nơi có môi trường bất ổn về kinh tế và chính trị,thì nhà đầu tư nước ngoài dễ bị mất vốn.Còn đối với nước sở tại,nếu không có quy hoạch cho đầu tư cụ thể và khoa học thì sẽ dẫn đến chỗ đàu tư tràn lan,kém hiệu quả,tài nguyên thiên nhiên bị khai thác quá mức và nạn ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. II. TÌNH HÌNH FDI TỪ 1988 ĐẾN NAY 1. Tình hình chung nguồn vốn FDI Kể từ khi Luật đầu tư nước ngoài được ban hành (1988) đến hết ngày 28/02/2006, Việt Nam đó thu hỳt được trên 6.090 dự án (cũn hiệu lực) với mức vốn đăng ký đạt hơn 52,3 tỷ USD và vốn thực hiện đạt trên 28 tỷ USD. Các doanh nghiệp FDI đó gúp phần quan trọng trong việc thực hiện cỏc mục tiờu phỏt triển kinh tế - xó hội của đất nước, trở thành một thành phần kinh tế trong hệ thống kinh tế quốc dân. Khu vực đầu tư nước ngoài đó trở thành bộ phận hữu cơ năng động của nền kinh tế, có tốc độ tăng trưởng cao và vị trí ngày càng quan trọng trong nền kinh tế. Đầu tư nước ngoài đóng góp tới 27% kim ngạch xuất khẩu (không kể dầu khí), 33% giá trị sản xuất công nghiệp, 22% vốn đầu tư xó hội và hơn 14% GDP của cả nước, tạo thêm việc làm cho hơn 80 vạn lao động trực tiếp và hàng chục vạn lao động gián tiếp khác. Khu vực FDI đó làm tăng khả năng cung ứng hàng hoá cho thị trường, giảm nhu cầu nhập khẩu hàng hoá thiết yếu, góp phần bình ổn thị trường, nâng cao đời sống xó hội. Mức đóng góp của khu vực đầu tư nước ngoài vào thu ngân sách ngày càng gia tăng về giá trị tuyệt đối và tương đối, tạo khả năng chủ động trong cân đối ngân sách, giảm bội chi. Trong thời gian vừa qua, dũng ngoại tệ vào Việt Nam thông qua FDI vẫn lớn hơn rất nhiều so với dũng ngoại tệ từ Việt Nam đầu tư ra nước ngoài; cộng thêm việc mở rộng nguồn thu gián tiếp từ FDI (qua khách tham quan, tỡm hiểu cơ hội đầu tư, tiền cho thuê đất, tiền lương cho lao động thuộc khu vực đầu tư nước ngoài, tiền cung cấp nguyên vật liệu địa phương và các dịch vụ thu ngoại tệ tại chỗ khác) đó gúp phần cải thiện cỏn cõn thanh toỏn của đất nước. Mặc dù phần lớn doanh nghiệp FDI đang trong thời kỳ hưởng ưu đói về thuế thu nhập doanh nghiệp, nhưng nguồn thu ngân sách từ khu vực FDI liên tục tăng, tính bỡnh quõn chiếm từ 7 - 8% nguồn thu ngõn sỏch (nếu tớnh cả nguồn thu từ dầu khớ, tỷ lệ này đạt gần 30% thu ngân sách). 2. Các giai đoạn đâù tư nguồn vốn FDI vào Việt Nam Trong thập niên 80 và đầu thập niên 90, dòng FDI vào Việt Nam còn nhỏ. Đến năm 1991, tổng vốn FDI ở Việt Nam mới chỉ là 213 triệu đô-la Mỹ. Tuy nhiên, con số FDI đăng ký đã tăng mạnh từ 1992 và đạt đỉnh điểm vào 1996 với tổng vốn đăng ký lên đến 8,6 tỷ đô-la Mỹ. Sự tăng mạnh mẽ của FDI này là do nhiều nguyên nhân. Các nhà đầu tư nước ngoài bị thu hút bởi tiềm năng của một nền kinh tế đang trong thời kỳ chuyển đổi với một thị trường phần lớn còn chưa được khai thác. Thêm vào đó, các nhà đầu tư nước ngoài còn bị hấp dẫn bởi hàng loại các yếu tố tích cực khác như lực lượng lao động dồi dào, giá nhân công rẻ và tỷ lệ biết chữ cao. Bên cạnh những yếu tố bên trong còn có các yếu tố bên ngoài đóng góp vào việc gia tăng của FDI. Thứ nhất là làn sóng vốn chảy dồn về các thị trường mới nổi trong những năm 80 và đầu những năm 90. Trong các thị trường này, Đông Nam Á là một điểm chính nhận FDI. Năm 1990, các nước Đông Nam Á thu hút 36% tổng dòng FDI đến các nước đang phát triển. Thứ hai là dòng vốn nước ngoài vào các nền kinh tế quá độ khối xã hội chủ nghĩa trước đây, nơi mà họ cho rằng đang có các cơ hội kinh doanh mới và thu lợi nhuận. Thứ ba, là các nước mạnh trong vùng (cụ thể là Mã-lai-xi-a, Xin-ga-po, Thái-lan,…) đã bắt đầu xuất khẩu vốn. Là một nền kinh tế đang trong thời kỳ quá độ ở Đông Nam Á, Việt Nam có được lợi thế từ các yếu tố này[1]. Trong khoảng thời gian 1991-1996, FDI đóng một vai trò quan trọng trong việc tài trợ cho sự thiếu hụt trong tài khoản vãng lai của Việt Nam và đã có những đóng góp cho cán cân thanh toán quốc tế của Việt Nam. Trong giai đoạn 1997-1999, Việt Nam đã trải qua một giai đoạn tụt dốc của nguồn FDI đăng ký, cụ thể là 49% năm 1997, 16% năm 1998 và 59% năm 1999, một phần là do khủng hoảng tài chính châu Á. Năm nước đầu tư lớn nhất vào Việt Nam đều từ khu vực châu Á và phải đối mặt với những khó khăn thực sự tại quốc gia của mình. Để bảo đảm cho hoạt động kinh doanh tại nước mình, các nhà đầu tư này đã buộc phải huỷ hoặc hoãn các kế hoạch mở rộng ra nước ngoài. Cuộc khủng hoảng cũng buộc các nhà đầu tư phải sửa đổi thấp đi chỉ tiêu mở rộng sang châu Á. Cuộc khủng hoảng cũng đã dẫn đến việc đồng tiền của các nước Đông Nam Á bị mất giá. Việt Nam, do vậy, cũng trở nên kém hấp dẫn đối với những dự án tập trung vào xuất khẩu. Hơn nữa, các nhà đầu tư nước ngoài cũng nhận ra rằng các dự kiến về nhu cầu của thị trường đã bị thổi phồng. Các bức rào cản cho việc kinh doanh cũng trở nên rõ ràng hơn. Giai đoạn 2000-2005: Giá trị FDI đăng ký tăng trở lại vào năm 2000 với mức 25,8% và 2001 với mức 22,6%, nhưng vẫn chưa được hai phần ba so với năm 1996. FDI đăng ký tăng vào năm 2001 và 2002 là kết quả của dự án đường ống Nam Côn Sơn (2000) với tổng vốn đầu tư là 2,43 tỷ đô-la Mỹ, và Dự án XD-KD-CG Phú Mỹ (2001) với tổng vốn đầu tư là 0,8 tỷ đô-la Mỹ. Năm 2002, FDI đăng ký lại giảm xuống còn khoảng 1,4 tỷ đô-la Mỹ, đạt khoảng 54,5% của mức năm 2001. Các dự án ĐTNN đã đạt doanh thu khoảng 74,061 tỷ USD. Xuất khẩu của khu vực doanh nghiệp có vốn ĐTNN tăng bình quân trên 20%/năm, đã làm cho tỷ trọng của khu vực kinh tế này trong tổng giá trị xuất khẩu cả nước tăng liên tục trong các năm qua. So sánh giá trị xuất khẩu và đóng góp cho GDP như trên với tỷ trọng trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội mới thấy hết hiệu quả của khu vực kinh tế có vốn ĐTNN. Chính vì vậy, cần phải khuyến khích các dự án ĐTNN hoàn thành và đưa vào sử dụng, vì những dự án này sẽ mang lại lợi ích lớn về kinh tế cho đất nước, đẩy mạnh chuyển giao công nghệ, rút ngắn được tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Hiện nay, các doanh nghiệp ĐTNN đang hoạt động có hiệu quả và ngày càng đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế đất nước. Chỉ riêng trong năm 2005 đã đạt tổng doanh thu khoảng 18 tỷ USD (không kể dầu khí), ngang bằng với năm 2004. Hơn nữa, cả vốn và lao động đều được bồi bổ thêm đáng kể. Cụ thể là trong năm 2005, khu vực kinh tế ĐTNN đã thực hiện được 6,338 tỷ USD vốn đầu tư, tăng trên 50% so với năm 2004. Nhờ hiệu quả trong hoạt động sản xuất kinh doanh được tăng cao hơn mà trong năm 2005, chủ đầu tư của 607 dự án trong khu vực ĐTNN đã đề nghị và được các cơ quan có thẩm quyền phê duyệt cho tăng thêm vốn đầu tư để mở rộng quy mô hoạt động, với tổng vốn đầu tư tăng thêm 2,070 tỷ USD, tăng 3,5% so với năm trước. Điều đó cho thấy, nhiều nhà ĐTNN muốn làm ăn lâu dài tại Việt Nam. Theo một báo cáo của Bộ KH&ĐT, trong 5 tháng đầu năm nay, cả nước đã thu hút thêm hơn 2,412 tỷ USD vốn đầu tư đăng ký mới, bao gồm cả vốn bổ sung của những dự án cũ. Trong đó, riêng phần mới cấp phép có 281 dự án, với tổng vốn đăng ký trên 2 tỷ USD, tăng 8,5% về số dự án và tăng 19,5% về vốn so với cùng kỳ năm trước. Lĩnh vực công nghiệp và xây dựng chiếm 74,3% số dự án và 66,1% tổng vốn đăng ký cấp mới; lĩnh vực dịch vụ chiếm tương ứng là 21,1% và 33,4%; phần còn lại thuộc lĩnh vực nông-lâm-thuỷ sản. Đáng chú ý là, trong số dự án mới cấp phép không chỉ có một số dự án có quy mô vốn đầu tư lớn, mà còn gắn liền với việc sẽ chuyển giao công nghệ cao, như Tập đoàn Intel 605 triệu USD, Công ty Tây Hồ Tây 314 triệu USD, Winvest Investment 300 triệu USD, Công ty Panasonic Communication 76,36 triệu USD, Công ty Kho xăng dầu Vân Phong 60 triệu USD… Cũng theo báo cáo trên, doanh thu (không kể dầu khí) của các doanh nghiệp FDI trong tháng 5/2006 ước đạt 2,55 tỷ USD, đưa tổng doanh thu của khu vực FDI trong năm tháng đầu năm 2006 lên 9,8 tỷ USD, tăng 14% so với cùng kỳ năm 2005. Trong 5 tháng đầu năm 2006, giá trị sản xuất công nghiệp của khu vực FDI tiếp tục tăng trưởng với nhịp độ cao, đạt 18% so với cùng kỳ năm trước, vượt trội so với mức tăng trưởng chung 15,9% của toàn ngành công nghiệp. Kim ngạch xuất khẩu hàng hoá của các doanh nghiệp FDI trong 5 tháng đầu năm 2006 tăng 29,5% so với cùng kỳ năm trước, cũng vượt trội so với mức tăng chung của cả nước là 24,3%. Sau một năm, kể từ tháng 5 năm 2005 đến nay, không kể dầu khí, tỷ trọng của doanh nghiệp FDI trong tổng giá trị sản xuất công nghiệp của cả nước (theo giá so sánh năm 1994) đã tăng từ 28,9% lên gần 30,3%; đồng thời tỷ trọng trong tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước cũng tăng từ 32,76% lên 35,77%. Mặt khác, tổng số lao động trực tiếp trong khu vực FDI đã gia tăng từ 819.000 người ở thời điểm cuối tháng 5 năm 2005 lên 1.057.000 người hiện nay. Năm 2006: Đã khép lại với nhiều hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam.Cả nước đã có 797 dự án được cấp giấy phép với tổng vốn đầu tư đăng ký hơn 7,6 tỷ USD,tăng 60,8% về vốn đầu tư đăng ký so với cùng kì năm trước.Qui mô vốn đầu tư trung bình cho môt dự án đạt 9,4 triệu USD / dự án ,cao hơn quy mô bình quân của năm 2005 (4,6 triệu USD / năm). Đó là nét mới của thu hút đầu tư năm 2006. Đã xuất hiện hàng loạt các dự án đầu tư có qui mô lớn do các tập đoàn xuyên quốc gia đầu tư, trong đó Công ty thép Posco là dự án đầu tư có qui mô lớn nhất 1,126 tỷ USD , tiếp theo là Công ty TNHH Intel Products Việt Nam vốn đầu tư trên 1 tỷ USD....Trong năm 2006, có 439 lượt dự án tăng vốn hơn 2,1 tỷ USD tăng 18,9% về vốn so với cùng kỳ năm trước. Vốn FDI thực hiện đạt khoảng 4,1 tỷ USD tăng 24,2% so với năm 2005, trong đó có nhiều dự án có qui mô đầu tư lớn được cấp phép đã tích cựu khai triển thực hiên như các nhà máy của Công ty Hoya Glass Disle, Canon, Matsushita...; dự án Bệnh viện đa khoa Kwang Myung tại Hà Nội, dự án điện thoại CDMA, dư án Intel... Đáng chú ý là số lượng các tỉnh có số vốn FDI đạt trên 100 triệu USD đã tăng lên gấp đôi so với năm 2005. Tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu đã thu hút được 27 dư án đầu tư nước ngoài với số vốn gần 2,2 tỷ USD, nhiều nhất từ trước đến nay và vươn lên dẵn đầu trong thu hut đầu tư FDI. Tp Hồ Chí Minh vẫn giữ vững vị trí tốp đầu trong thu hút FDI với 327 dự án và tổng vốn đầu tư khỏang 2 tỷ USD. đặc biệt tỉnh Hà Tây đã bức phá trong việc thu hút vốn FDI, từ một tỉnh năm ngoái còn lẹt đẹt trong bảng xếp hạng, nhưng năm nay đã vươn lên vị trí thứ 3 với số vốn đầu tư đăng ký lên tới gần 875 triệu USD. Tính chung cả vốn cấp mới và tăng thêm trong quý I năm 2008, cả nước đã thu hút thêm 5.436 triệu USD vôn đầu tư đăng kí, tăng 31% so với cùng kì 2007. CẤP MỚI 3 THÁNG 2008 PHÂN THEO NGÀNH (tính tới ngày 22/03/2008) STT Chuyên ngành Số dự án TVĐT Vốn pháp định I Công nghiệp 79 516,941,200 260,748,500 CN dầu khí 1 1,500,000 1,500,000 CN nặng 21 216,237,000 92,192,000 CN nhẹ 43 260,039,200 130,441,500 CN thực phẩm 4 11,200,000 11,100,000 Xây dựng 10 27,965,000 25,515,000 II Nông-Lâm-Ngư nghiệp 9 5,320,000 4,530,000 Nông-Lâm nghiệp 8 5,120,000 4,330,000 Thủy sản 1 200,000 200,000 III Dịch vụ 59 4,633,715,221 1,666,288,259 Dịch vụ 37 105,200,000 49,855,000 Khách sạn-Du lịch 10 1,872,746,875 742,555,000 Văn hóa-y tế-Giáo dục 2 450,000 450,000 XD hạ tầng KCX-KCN 1 70,000,000 14,000,000 XD Văn phòng-Căn hộ 9 2,585,318,346 859,428,259 Tổng số 147 5,155,976,421 1,931,566,759 Nguồn: Cục Đầu tư nước ngoài - Bộ Kế hoạch và Đầu tư CẤP MỚI 3 THÁNG - 2008 PHÂN THEO HÌNH THỨC ĐẦU TƯ (tính tới ngày 22/03/2008) STT Hình thức đầu tư Số dự án TVĐT Vốn pháp định 1 100% vốn nớc ngoài 113 3,453,043,450 1,483,727,000 2 Liên doanh 25 745,658,752 213,189,759 3 Hợp đồng hợp tác kinh doanh 1 1,500,000 1,500,000 Công ty cổ phần 8 955,774,219 233,150,000 Tổng số 147 5,155,976,421 1,931,566,759 Nguồn: Cục Đầu tư nước ngoài - Bộ Kế hoạch và Đầu tư 2.01 2.59 1.82 1.95 4.2 5.8 10.2 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 tæng vèn ®Çu t­ n­íc ngoµi (tû USD ) III. NHẬN XÉT CHUNG TRONG VIỆC SỬ DUNG NGUỒN VỐN ĐẦU TƯ FDI 1. Thuận lợi Nhiều chuyên gia kinh tế đã phân tích về xu hướng chuyển dịch đầu tư của các công ty xuyên quốc gia từ Trung Quốc sang các nước trong khu vực theo mô hình "Trung Quốc + 1" nhằm phân tán rủi ro và khai thác tối đa những lợi thế của cả khu vực về mặt thị trường, nguồn nhân lực, nguồn tài nguyên... Việt Nam được đánh giá là một trong những "ứng cử viên" sáng giá được nhiều tập đoàn lớn quan tâm do có sự ổn định về chính trị, nguồn nhân lực dồi dào và tương đối có kỹ năng, có nguồn tài nguyên đa dạng và thị trường tiềm năng với hơn 80 triệu dân đang được kết nối với thị trường hơn 500 triệu dân của ASEAN. Nền kinh tế Việt Nam tiếp tục tăng trưởng cao trong năm 2006 với mức tăng GDP trên 8,2%. Giá trị xuất khẩu đạt trên 39,6 tỉ USD, trong đó khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 57,2% kể cả dầu thô (trừ dầu thô đạt 35,6%). Số lượng mặt hàng có giá trị xuất khẩu trên 1 tỉ USD đã tăng lên so với năm 2005 (gồm: dầu thô, dệt may, giày dép, đồ gỗ, hàng điện tử, gạo, cao su). Cơ cấu kinh tế đã có chuyển biến tích cực theo hướng công nghiệp hóa. Trong năm 2006 vị thế của nước ta trên thế giới tiếp tục nâng cao hơn sau khi trở thành thành viên thứ 150 của WTO, tổ chức thành công Hội nghị APEC lần thứ 14 và được Quốc hội Hoa Kỳ thông qua PNTR. Bên cạnhđó là việc triển khai các luật mới và thủ tục đầu tư được đơn giản hóa. Các yếu tố trên không chỉ mở ra triển vọng và động lực mới cho đầu tư của các thành phần kinh tế mà còn củng cố và tạo điều kiện thuận lợi cho cộng đồng các nhà đầu tư nước ngoài, đặc biệt là nhà đầu tư Hoa Kỳ đầu tư vào Việt Nam. Việc hoàn thiện hệ thống luật pháp, chính sách về đầu tư, kinh doanh của nước ta nhằm đáp ứng nhu cầu hội nhập kinh tế quốc tế, tạo môi trường pháp lý bình đẳng, thông thoáng và minh bạch cho các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài cũng là yếu tố quan trọng được cộng đồng quốc tế quan tâm. Đặc biệt, Luật Đầu tư và Luật Doanh nghiệp cùng với Luật Đấu thầu, Luật Cạnh tranh, Luật Sở hữu trí tuệ và một số luật khác được ban hành và có hiệu lực trong năm 2006 đã đánh dấu bước tiến quan trọng trong việc thể chế hoá kinh tế thị trường và đường lối mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta. Chính sách đổi mới, thể chế kinh tế thị trường đang được hoàn thiện, nền kinh tế đạt tốc độ tăng trưởng cao liên tục trong nhiều năm đang là những yếu tố tạo lòng tin cho các nhà đầu tư. Thêm vào đó, quan hệ chính trị giữa Việt Nam với hầu hết các nước đang diễn biến theo chiều hướng tích cực cũng là nhân tố quan trọng tác động trực tiếp đến quan hệ kinh tế, đầu tư. Những yếu tố trên cùng với nỗ lực nhằm nâng cấp kết cấu hạ tầng, cải cách hành chính, tăng cường chống tham nhũng đang tạo điều kiện thuận lợi để nâng cao khả năng cạnh tranh, thúc đẩy làn sóng đầu tư mới của nước ngoài vào nước ta. 2. Khó khăn Luật Đầu tư và Luật Doanh nghiệp năm 2005 đánh dấu sự tiến bộ về môi trường pháp lý đối với đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, việc triển khai thực hiện 2 luật này trong giai đoạn đầu khó tránh khỏi những khó khăn, vướng mắc do có nhiều quy định mới đòi hỏi phải được hướng dẫn cụ thể. Đồng thời, việc phân cấp mạnh mẽ cho các địa phương trong việc cấp giấy chứng nhận đầu tư và quản lý đầu tư nước ngoài đòi hỏi phải khẩn trương kiện toàn tổ chức, bộ máy và nhân sự của các cơ quan quản lý nhà nước về đầu tư của các địa phương để đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ mới. Tuy trong thời gian qua kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội của nước ta đã được quan tâm đầu tư nâng cấp, nhưng thiếu vốn bảo dưỡng và duy trì, vẫn thuộc diện kém phát triển, còn nhiều bất cập, kém hấp dẫn hơn so với nhiều nước trong khu vực, chưa đáp ứng được yêu cầu sản xuất, kinh doanh trong bối cảnh nền kinh tế tăng trưởng nhanh. Tình trạng quá tải, gây ách tắc giao thông; nguy cơ quá tải của hệ thống mạng thông tin viễn thông, cảng biển và cấp - thoát nước đã và đang ảnh hưởng, gây cản trở hoạt động sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp, trong đó có các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Cải cách hành chính tuy đang được đẩy mạnh song chưa đạt kết quả mong muốn. Khâu quy hoạch, xây dựng và công bố danh mục dự án thu hút đầu tư nước ngoài còn chậm và nhiều bất cập. Tình trạng khan hiếm lao động có trình độ tay nghề cao và cán bộ quản lý đang có chiều hướng gia tăng là cản trở lớn đối với việc thu hút các dự án đầu tư có quy mô lớn, sản xuất các sản phẩm, dịch vụ có hàm lượng kỹ thuật cao. Chi phí sản xuất gia tăng do giá cả một số mặt hàng, nhất là giá nhiên liệu tăng đáng kể, chi phí tiền lương tăng sau khi nâng mức lương tối thiểu... đang gây khó khăn cho nhà đầu tư và có nguy cơ làm giảm sự hấp dẫn đối với môi trường đầu tư tại Việt Nam. 3. Thành tựu đạt đươc từ việc sử dụng nguồn vốn FDI ở Việt Nam Thứ nhất, dòng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam ngày càng gia tăng, góp phần bổ sung nguồn vốn đầu tư phát triển kinh tế-xã hội. Tính từ năm 1988 đến nay, Việt Nam đã thu hút 9.500 dự án đầu tư nước ngoài với tổng vốn đăng ký khoảng 98 tỷ USD. Đặc biệt, năm 2007 thu hút đầu tư nước ngoài vượt ngưỡng hơn 20 tỷ USD, tăng gần 70% so với năm 2006, chiếm trên 20% tổng vốn đầu tư nước ngoài trong 20 năm qua. Thứ hai, quá trình thu hút đầu tư nước ngoài đóng góp tích cực vào thành công của công cuộc đổi mới trong 21 năm qua. Hiện khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài chiếm khoảng 16% GDP, đóng góp vào ngân sách Nhà nước vượt 1,5 tỷ USD trong năm 2007; đồng thời thu hút 1,2 triệu lao động trực tiếp và hàng triệu lao động gián tiếp. Thứ ba, đầu tư nước ngoài đã góp phần tích cực thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động theo hướng công nghiệp hóa - hiện đại hóa. Về cơ cấu, khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài chiếm khoảng 37% giá trị sản xuất công nghiệp của cả nước. Về cơ cấu vùng, đầu tư nước ngoài tập trung chủ yếu ở các vùng kinh tế trọng điểm đã góp phần làm cho các vùng này thực sự là vùng kinh tế động lực để lôi kéo sự phát triển chung và các vùng phụ cận. Thứ tư, đầu tư nước ngoài là cầu nối quan trọng giữa kinh tế Việt Nam với nền kinh tế thế giới, thúc đẩy phát triển thương mại, du lịch và tạo điều kiện quan trọng để Việt Nam hội nhập ngày càng chủ động và sâu hơn vào đời sống kinh tế thế giới. Thứ năm, đầu tư nước ngoài có tác động đến kinh tế trong nước, thúc đẩy các doanh nghiệp nâng cao khả năng cạnh tranh, đổi mới phương thức quản trị doanh nghiệp cũng như phương thức kinh doanh; đồng thời nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế. Thông qua đầu tư nước ngoài, nhiều nguồn lực trong nước như lao động, đất đai, lợi thế địa kinh tế, tài nguyên được khai thác và sử dụng có hiệu quả hơn. 4. Hạn chế trong việc sử dụng vốn đầu tư FDI ở Việt Nam Bên cạnh những kết quả đã đạt được, lãnh đạo Bộ Kế hoạch và Đầu tư cũng nhìn nhận vẫn còn một số tồn tại cần tiếp tục giải quyết như: vốn thực hiện tăng qua các năm nhưng chậm nên khoảng cách giữa vốn đăng ký và vốn thực hiện ngày càng giãn ra; đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực nông, lâm, ngư, nghiệp còn thấp; đầu tư từ những nước phát triển có thế mạnh về công nghệ như Hoa Kỳ, một số quốc gia thuộc EU tăng chậm; việc cung cấp nguyên liệu, phụ tùng của các doanh nghiệp trong nước cho các doanh nghiệp nước ngoài còn chậm... Với một quốc gia đang phát triển nhanh như Việt Nam, nhu cầu vốn rất lớn. Tuy nhiên, thực tế hiệu quả sử dụng các nguồn vốn của Việt Nam hiện nay đến đâu? Theo chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan: "Ở Việt Nam, tồn tại một nghịch lí là nước nghèo nhưng không biết tiêu tiền hợp lí, gây lãng phí". Chúng ta chưa quan tâm đầy đủ việc sử dụng hiệu quả các nguồn vốn đầu tư kể cả ngân sách, nguồn đầu tư trong nước cũng như nước ngoài và ODA.  Việc thất thoát ngân sách đã được Chính phủ thừa nhận, Quốc hội bàn thảo, và khiến người dân xót xa. Tiền ngân sách là gì khác ngoài tiền thuế của dân đóng góp? Đầu tư trong nước cũng là một nguồn lực tốt, thậm chí, năm 2006, đầu tư trong nước còn lớn hơn FDI. Hầu hết đầu tư trong nước là các DN tư nhân, các cá nhân, do đó, họ có lợi ích thực, thúc đẩy hiệu quả càng cao càng tốt. Tuy nhiên, hiệu quả sử dụng vốn trong nước vẫn bị hạn chế do tác động chung của các nguồn lực khác: Cơ chế chính sách, vấn đề cơ sở hạ tầng và cả những ưu đãi lớn dành cho DN nhà nước. Đáng ra, tư nhân có thể sử dụng nguồn vốn hiệu quả hơn rất nhiều. Tất nhiên, không phủ nhận sự yếu kém của DN tư nhân trong nước, nhưng một yếu tố quan trọng chính là môi trường kinh doanh còn quá nhiều nhân tố bất ổn, do chính nhà nước tạo ra. Về vốn bên ngoài, chúng ta đã nhận được rất nhiều cam kết, nhưng tốc độ giải ngân còn quá thấp. Cam kết FDI 10-16 tỷ USD nhưng thực tế tỉ lệ giải ngân thấp hơn đáng kể, chỉ 4,1 tỷ USD năm ngoái. Các nhà đầu tư vào nhưng chưa đưa được tiền vào. Nếu để tình trạng này lâu, nguy cơ rõ ràng có thể xảy đến chính là việc các nhà đầu tư ngần ngại trong việc đưa ra các cam kết mới, và cả trong thực hiện các cam kết đã có. Thậm chí họ có quyền rút vốn như đã từng xảy ra. Việt Nam đã mất tới 10 năm để khôi phục đà đầu tư từ những năm 1995, 1996. Vào thời điểm đó, mức cam kết đầu tư vào Việt Nam đã lên tới 8 tỷ USD.  Trên thế giới, nước nào cũng muốn thu hút đầu tư cho phát triển. Tình trạng khát vốn diễn ra ở mọi nơi. Địa bàn chọn lựa đầu tư rất rộng. Nếu Việt Nam khó khăn, làn sóng đầu tư vào nước này sẽ nhỏ dần, thậm chí mất hẳn. Cố gắng lôi lại đà đó không hề dễ dàng.  Về cơ sở hạ tầng, nhiều nhà đầu tư nước ngoài mong đầu tư nhưng bản thân Việt Nam lại chưa tạo điều kiện đầy đủ. Hình thức BOT đã được luật hóa nhưng chưa có hướng dẫn thực sự để DN nước ngoài tham gia. Cách đây chưa lâu, Phần Lan đã mất 5-7 năm để đàm phán tham gia xây dựng hạ tầng, đạt đến kí kết. Họ lại phải mất thêm 2 năm đàm phán về giá cung cấp điện nhưng không có kết quả. Nước này đã rút dự án khỏi Việt Nam. Bài học Phần Lan cần phải tránh.  Việt Nam cũng có thể học bài học Philippine khi nước này quyết định mở cửa thị trường điện để nhà đầu tư nước ngoài vào tham gia. Chỉ trong vài năm, nhu cầu điện đã được đáp ứng cơ bản. Nhờ đó, Philippine đã giảm tải được nguồn vốn lớn mà ngân sách phải bỏ ra cho phát triển hạ tầng điện, dành đầu tư cho lĩnh vực khác. Việc mở cửa thị trường điện nhiều nước khác cũng đã làm rồi.  Chúng ta không thể chỉ dựa riêng vào ngân sách, vào ODA để làm hạ tầng. Phải tin mình và tin các nhà đầu tư để mạnh dạn mở cửa. Không thể quay lưng lại với cơ hội, nhất là khi chúng ta đã có hệ thống pháp lí quốc tế để soi chiếu, có kinh nghiệm hợp tác nhiều năm. Tâm lí e ngại đáng ra không được duy trì lâu như vậy. Giá của sự chờ đợi ấy không đáng. Đối với vốn ODA, Việt Nam chưa thực hiện tốt tất cả các công việc cần thiết để giải ngân tốt hơn. Một phần do phức tạp thủ tục, một phần do quy định khác nhau giữa nhà tài trợ và chính phủ Việt Nam nên khó thống nhất. Sau khi chọn được dự án ODA đã khó, việc chuẩn bị của Việt Nam khi có vốn ODA còn chậm, rõ nhất là chuẩn bị mặt bằng, và không có sẵn vốn đối ứng trong các dự án. Điều kiện con người và kinh tế kỹ thuật đã làm chậm quá trình giải ngân.  IV – CÁC GIẢI PHÁP Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam được ban hành tháng 12/1987 đã tạo ra khuôn khổ pháp lý cơ bản cho các hoạt động đầu tư nước ngoài trực tiếp tại Việt Nam. Trước đòi hỏi của thực tế và sự góp ý của các nhà đầu tư nước ngoài, Luật đã có một số lần được sửa đổi, bổ sung, nổi bật là các lần sửa đổi vào những năm 1996 và năm 2002 nhằm tạo ra một môi trường đầu tư thông thoáng, hấp dẫn hơn để khuyến khích các nhà đầu tư nuớc ngoài đầu tư vào những mục tiêu trọng điểm và những lĩnh vực ưu tiên, nhất là trong ngành công nghiệp chế biến, chế tạo hướng vào xuất khẩu và các vùng kinh tế trọng điểm của đất nước. Bằng việc cho ra đời Luật đầu tư 2005 và Luật Doanh nghiệp 2005 (cùng có hiệu lực từ 1/7/2006) Chính phủ Việt Nam đã tạo ra bước tiến dài trong việc điều chỉnh, cải tiến để tạo thêm hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nước ngoài như được quyền đầu tư kinh doanh tất cả những gì pháp luật không cấm, thay vì chỉ được làm những việc cơ quan Nhà nước cho phép. Nguyên tắc này được áp dụng cho khu vực kinh tế tư nhân trong nước từ năm 2000, nay được áp dụng chung cho cả khu vực nước ngoài. Ngoài ra việc đẩy mạnh tháo gỡ những khó khăn vướng mắc cho các nhà đầu tư nước ngoài, chỉnh sửa thuế thu nhập cá nhân theo hướng hạ thấp mức thuế, đẩy mạnh việc thực hiện cơ chế một cửa, giảm giá dịch vụ viễn thông xuống ngang bằng mức giá tại các nước trong khu vực, nâng cấp cơ sở hạ tầng, mở rộng lĩnh vực đầu tư, cho phép các doanh nghiệp nước ngoài được đầu tư vào một số lĩnh vực trước đây chưa cho phép như viễn thông, bảo hiểm, kinh doanh siêu thị… do vậy đã tạo nên một môi trường đầu tư hấp dẫn hơn. Những biện pháp cải cách trên đã trở thành một trong những yếu tố quan trọng góp phần khôi phục và tăng nhanh ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc12006.doc
Tài liệu liên quan