Đề tài: Đầu tư trực tiếp của các nước ASEAN vào
Việt Nam - Thực trạng và triển vọng.
Lời mở đầu
Ngày nay, các quốc gia trên hành tinh chúng ta trong quá trình phát triển đã từng bước tạo lập nên các mối quan hệ song phương và đa phương, từng bước tham gia vào các liên kết kinh tế quốc tế với nhiều mức độ khác nhau nhằm đưa lại lợi ích thiết thực cho mỗi bên. Chính các liên kết kinh tế quốc tế là sự biểu hiện rõ nét của hai xu hướng khu vực hoá và toàn cầu hoá đang diễn ra hết sức sôi động v
48 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1394 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Đầu tư trực tiếp của các nước ASEAN vào Việt Nam - Thực trạng & triển vọng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
à đặc biệt quan trọng trong những năm qua.
Trong những năm gần đây, Việt Nam đã tiến hành đổi mới kinh tế, phù hợp với xu thế quốc tế hoá nền kinh tế thế giới. Việt nam đã trở thành thành viên chính thức của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam á ASEAN từ ngày 28/07/1995, tham gia Diễn đàn Châu á - Thái Bình Dương APEC từ ngày 17/11/1998 và gia nhập Tổ chức thương mại thế giới WTO. Hiệp hội các quốc gia Đông Nam á có 10 quốc gia: Brunây, Campuchia, Mianma, Lào, Malaixia, Philippin, Xinhgapo, Thái Lan, Indonêxia và Việt Nam. Việc gia nhập ASEAN và khối mậu dịch tự do ASEAN (The Free Trade Area -AFTA) là một cố gắng của Việt Nam trong việc hội nhập với nền kinh tế thế giới, qua đó cải thiện môi trường đầu tư thu hút các nhà đầu tư nước ngoài.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài của các nước ASEAN vào Việt Nam phát triển rất nhanh chóng, hiện đang đóng một vai trò nhất định đối với sự phát triển của nền kinh tế nước ta. Không chỉ các nước tư bản phát triển mà các nước ASEAN đều nhận thấy Việt Nam là một điạ chỉ khá hấp dẫn thu hút các nhà đầu tư nước ngoài. Có thể thấy rằng, Việt nam là một thị trường đông dân, có tài nguyên khá phong phú, nguồn nhân công dồi dào, chi phí lao động rẻ hơn các nước ASEAN khác.
Tuy rằng, qua quá trình thực hiện các dự án đã bộc lộ sự hạn chế về năng lực tài chính và công nghệ của các nhà đầu tư ASEAN. Đây là một yếu tố khách quan. Bản thân các nhà đầu tư ASEAN cũng đang ở trên nấc thang thứ ba của quá trình công nghiệp hoá của Châu á nên cũng là những nước kêu gọi vốn đầu tư nước ngoài. Chính vì thế, để tạo dựng lợi thế thu hút vốn FDI không loại trừ việc từ đó các quốc gia thành viên ASEAN tích cực đẩy mạnh đầu tư trực tiếp ra nước ngoài.
Việt Nam có tiềm năng rất lớn về đất đai, tài nguyên, lao động và thị trường. Môi trường chính trị - kinh tế - xã hội khá ổn định. Tuy nhiên hiệu quả kinh tế, năng xuất lao động xã hội, cơ sở hạ tầng còn thấp kém so với các nước thành viên ASEAN khác. Đề tài “Đầu tư trực tiếp của các nước ASEAN vào Việt nam - thực trạng và triển vọng” do em thực hiện nhằm tìm ra những ưu điểm, những hạn chế, những lĩnh vực - ngành nghề... có khả năng thu hút vốn FDI của các nước ASEAN để có thể xây dựng các danh mục khuyến khích các nhà đầu tư ASEAN theo năng lực sẵn có khi đầu tư trực tiếp vào Việt nam.
Chương 1: Lý luận chung về đầu tư trực tiếp Nước ngoàI
I. khái niệm và cơ sở hình thành của đầu tư trực tiếp nước ngoài
1. khái niệm đầu tư trực tiếp nước ngoài
Theo quỹ tiền tệ quốc tế IMF (International Monetary Fund) : Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI-Foreign Direct Investment) được định nghĩa : là luồng đầu tư thực tế chảy vào để có được một lợi ích quản lý lâu dài trong một doanh nghiệp hoạt động ở một nền kinh tế khác ngoài nền kinh tế của nhà đầu tư.
Định nghĩa được đưa ra với mục đích nhấn mạnh đến vai trò cũng như vị trí của nhà đầu tư và phân biệt FDI với đầu tư gián tiếp của tư nhân va doanh nghiệp (Portfolio Investment) là hoạt động mua bán tài sản, cổ phiếu ở nước ngoài để thu lợi nhuận (nhưng ở mức không quá lớn, chưa đạt đến tỷ lệ cổ phần khống chế để buộc phải đứng ra điều hành một dự án đầu tư). Do đó, nhà đầu tư không trực tiếp tham gia quản lý doanh nghiệp.
Cũng với mục đích trên, Tổ chức thương mại thế giới WTO (World Trade Organization) cũng đưa ra định nghĩa của mình như sau : Đầu tư trực tiếp nước ngoài xuất hiện khi một nhà đầu tư nước này thiết lập tài sản ở một nước khác với ý định quản lý tài sản đó và vai trò quản lý này là cái để phân biệt với đầu tư gián tiếp.
Đối với Việt Nam, nếu căn cứ vào mức độ tham gia quản lý quá trình thực hiện đầu tư và phát huy tác dụng của các kết quả đầu tư, đầu tư trực tiếp nước ngoài được hiểu như sau :
Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI - Foreign Direct Investment) : là hình thức đầu tư trong đó người bỏ vốn đầu tư và người sử dụng vốn là một chủ thể. Có nghĩa là các doanh nghiệp, các cá nhân người nước ngoài (các chủ đầu tư) trực tiếp tham gia vào quá trình quản lý, sử dụng vốn đầu tư và vận hành các kết quả đầu tư nhằm mục đích thu hồi vốn và sinh lợi.
Về thực chất, FDI là sự đầu tư nhằm xây dựng các cơ sở, chi nhánh ở nước ngoài và làm chủ toàn bộ hay từng phần cơ sở đó. Đây là hình thức đầu tư mà chủ đầu tư nước ngoài đóng góp một số vốn đủ lớn vào lĩnh vực sản xuất hoặc dịch vụ và cho phép họ trực tiếp tham gia điều hành đối trọng mà họ bỏ vốn. Để làm rõ hơn khái niệm trên, ta có thể nêu ra đây một số đặc trưng chủ yếu cũng như mối quan hệ của đầu tư trực tiếp nước ngoài như sau:
* Chuyển vốn từ nước đầu tư sang nước nhận đầu tư kèm theo việc chuyển giao công nghệ.
* Thiết lập quyền sở hữu tài sản và quyền quản lý (hoặc đồng quản lý) của nhà đầu tư đối với doanh nghiệp của họ ở nước nhận đầu tư, kèm theo việc chuyển giao kỹ năng quản lý doanh nghiệp.
* Nhằm mục đích sinh lời, nhà đầu tư được hưởng lợi nhuận hoặc chịu mọi rủi ro trong kinh doanh, được quyền sử dụng lợi nhuận để mở rộng kinh doanh hoặc chuyển về nước.
2. cơ sở hình thành đầu tư trực tiếp nước ngoài
Trong lịch sử thế giới, Đầu tư Trực tiếp của Nước ngoài đã từng xuất hiện ngay từ thời tiền Tư bản thông qua con đường xâm chiếm thuộc địa . Các Công ty của Anh, Hà Lan, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha là những Công ty đi đầu trong lĩnh vực này dưới hình thức đầu tư vốn, kỹ thuật vào các nước thuộc địa để khai thác đồn điền và cùng với nó là những ngành khai thác khoáng sản nhằm cung cấp các nguyên liệu cho các ngành công nghiệp ở chính quốc. Hoạt động đầu tư trong thời kỳ này chủ yếu phục vụ lợi ích cho các nước Tư bản- Thực dân, mà cụ thể là các công ty và các nhà Tư bản kếch xù, thậm chí có nơi họ vơ vét, bóc lột đến cùng kiệt, chỉ một phần nhỏ lưọi ích được đem lại cho nước bản địa, chủ yếu chỉ nhằm duy trì và bảo đảm cho bộ máy khai thác thuộc địa ở bản xứ. Khi Chủ nghĩa Tư bản bước sang giai đoạn mới, đánh dấu bằng sự kiện "Công xã Pari" thì hoạt động đầu tư ra nước ngoài của các nước công nghiệp phát triển càng có qui mô to lớn hơn.
Từ sau những năm 50 khi phong trào giải phóng dân tộc phát triển mạnh, hàng loạt các nước thuộc địa, nửa thuộc địa thoát khỏi ách đô hộ của chế độ thực dân và bắt tay vào xây dung nền kinh tế độc lập của mình, nhưng thiếu rất nhiều thứ cần thiết khác như vốn, công nghệ, kinh nghiệm quản lý.
Cùng với sự phát triển của phong trào giải phóng dân tộc và sự ra đời của phe XHCN, các nước Tư bản giàu có không thể tiếp tục bành trướng sang các nước chậm phát triển bằng con đường xâm lược, nô dịch như trước đây mà phải bằng con đường chung sống hoà bình, hợp tác cùng có lợi, trong đó có hợp tác đầu tư và đầu tư trực tiếp nước ngoài đã trở thành một trong những cơ hội phát triển cho những nước có mong muốn tự khẳng định mình.
Trước sự bùng nổ của FDI, nhiều nước đang phát triển đã tiến hành nhiều chiến lược “mở cửa”, tích cực thu hút nguồn vốn này, tham gia vào cạnh tranh thị trường quốc tế, thúc đẩy kinh tế tăng trưởng. Một ví dụ điển hình là các nước trong khu vực, đặc biệt là các nước NICs (Newly Industrializing Countries) những năm khởi đầu (thập kỷ 60-70) đều phải dựa vào vốn nước ngoài (vốn ODA và FDI) để Công nghiệp hoá- Hiện đại hoá đất nước, thực hiện chiến lược “hướng về xuất khẩu” thành công đã tạo nên sự phát triển nhanh chóng của các nước này, trở thành những con rồng Châu á như Hàn Quốc, Đài Loan, Singapore, Hồng Kông.
Khái quát lược sử hình thành của FDI cho chúng ta thấy rõ hơn bản chất của FDI. Có thể nói bản chất sâu xa hay nguyên nhân hình thành của nó xuất phát từ lợi ích kinh tế. Hoạt động FDI là một hoạt đông kinh tế quốc tế, chính vì vậy mục tiêu của nó cũng như các hoạt động kinh tế khác suy cho cùng là lợi nhuận. Theo Lênin thì “Xuất khẩu Tư bản” là một trong năm đặc điểm kinh tế của Chủ nghĩa Đế quốc và đã trở thành đặc trưng cơ bản của sự phát triển mới nhất về kinh tế trong thời kỳ “Đế quốc Chủ nghĩa”. Tiền đề của việc xuất khẩu Tư bản là “Tư bản thừa” xuất hiện trong các nước tiên tiến. Nhưng thực chất vấn đề đó là một hiện tượng kinh tế mang tính tất yếu khách quan, khi mà quá trình tích tụ và tập trung đã đạt đến một mức độ nhất định sẽ xuất hiện nhu cầu đầu tư ra nước ngoài, đưa sức sản xuất xã hội vượt ra khỏi khuôn khổ chật hẹp của một quốc gia, hình thành nên qui mô sản xuất trên phạm vi quốc tế.
ii. vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài
Trong thời đại và bối cảnh thế giới ngày nay, trên cơ sở đảm bảo đem lại lợi ích cho cả hai bên, vai trò của hoạt động FDI được hiểu là do sự tác động đồng thời của bản thân hoạt động đầu tư đôí với cả nước đi đầu tư và nước tiếp nhận đầu tư. Trong khuôn khổ bài viết này, xin được đề cập tới vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với các nước đang phát triển khi ở vị trí của nước nhận đầu tư, cũng như các nước phát triển khi ở vị trí nước đi đầu tư.
đối với nước đi đầu tư
Thứ nhất, nước đi dầu tư có thể tận dụng được lợi thế so sánh của nước nhận đầu tư. Đối với các nước đi đầu tư, họ nhận thấy tỷ suất lợi nhuận đầu tư ở trong nước có xu hướng ngày càng giảm, kèm theo hiện tượng thừa tương đối tư bản. Bằng đầu tư ra nước ngoài, họ tận dụng được lợi thế về chi phí sản xuất thấp của nước nhận đầu tư (do giá lao động rẻ, chi phí khai thác nguyên vật liệu tại chỗ thấp bởi các nước nhận đầu tư là các nước đang phát triển, thường có nguồn tài nguyên phong phú nhưng do hạn chế về vốn và công nghệ nên chưa được khai thác, tiềm năng còn rất lớn) để hạ giá thành sản phẩm, giảm chi phí vận chuyển đối với việc sản xuất hàng thay thế nhập khẩu của nước nhận đầu tư, nhờ đó mà nâng cao hiệu quả của vốn đầu tư.
Thứ hai, kéo dài chu kỳ sống của sản phẩm thông qua chuyển giao công nghệ. Thông qua đầu tư trực tiếp, các công ty của các nước phát triển chuyển được một phần các sản phẩm công nghiệp (phần lớn là máy móc thiết bị) ở giai đoạn cuối của chu kỳ sống của chúng sang nước nhận đầu tư để tiếp tục sử dụng như sản phẩm mới ở các nước này, hoặc ít ra cũng như các sản phẩm đang có nhu cầu trên thị trường nước nhận đầu tư, nhờ đó mà tiếp tục duy trì được việc sử dụng các sản phẩm này, tạo thêm lợi nhuận cho nhà đầu tư. Với sự phát triển như vũ bão của khoa học kỹ thuật như ngày nay thì bất cứ một trung tâm kỹ thuật tiên tiến nào cũng cần phải luôn luôn có thị trường tiêu thụ công nghệ loại hai, có như vậy mới đảm bảo thường xuyên thay đổi công nghệ, kỹ thuật mới.
Thứ ba, thông qua đầu tư trực tiếp nước ngoài, các nhà đầu tư có thể mở rộng thị trường, tránh được hàng rào bảo hộ mậu dịch của nước nhận đầu tư khi xuất khẩu sản phẩm là máy móc, thiết bị sang đây (để góp vốn) và xuất khẩu sản phẩm sản xuất tại đây sang các nước khác (do chính sách ưu đãi của các nước nhận đầu tư nhằm khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài, chuyển giao công nghệ và sản xuất hàng xuất khẩu của các cơ sở có vốn đầu tư nứoc ngoài), nhờ đó mà giảm được giá thành sản phẩm, tăng sức cạnh tranh với hàng nhập từ các nước.
Thứ tư, đầu tư trực tiếp nước ngoài sẽ khuyến khích xuất khẩu ở nước đi đầu tư. Cùng với việc đem tiền đi đầu tư sản xuất ở các nước khác và nhập khẩu sản phẩm đó về nước sẽ làm cho nhu cầu đồng nội tệ tăng. Điều này sẽ ảnh hưởng đến tỷ giá hối đoái của đồng nội tệ so với đồng ngoại tệ theo chiều hướng giảm dần. Sự giảm tỷ giá hối đoái này sẽ có tác dụng khuyến khích các nhà sản xuất trong nước tăng cường xuất khẩu, nhờ đó tăng thu ngoại tệ cho đất nước.
2. đối với nước nhận đầu tư
Thứ nhất, đầu tư sẽ vừa tác động đến tổng cầu, vừa tác động đến tổng cung của nền kinh tế. Về mặt cầu, vì đầu tư là bộ phận lớn và hay thay đổi chủ chi tiêu nên những thay đổi thất thường về đầu tư có ảnh hưởng lớn đến sản lượng va thu nhập về mặt ngắn hạn. Về mặt cung, khi thành quả của đầu tư phát huy tác dụng, các năng lực mới đi vào hoạt động thì tổng cung, đặc biệt là tổng cung dài hạn tăng lên, kéo theo sản lượng tiềm năng tăng theo, do đó giá cả sản phẩm giảm xuống. Sản lượng tăng, giá cả giảm cho phép tăng tiêu dùng. Tăng tiêu dùng đến lượt mình lại kích thích sản xuất hơn nữa. Sản xuất phát triển là nguồn gốc cơ bản để tăng tích luỹ, phát triển kinh tế- xã hội, tăng thu nhập cho người lao động, nâng cao đời sống của mọi thành viên trong xã hôi.
Thứ hai, đầu tư sẽ tác động đến tốc độ tăng trưởng kinh tế. Đầu tư nước ngoài sẽ giải quyết phần nào tình trạng thiếu vốn cho phát triển kinh tế- xã hội do tích luỹ nội bộ thấp, đặc biệt sẽ phá vỡ “cái vòng luẩn quẩn” của các nước kém phát triển :
Tiết kiệm, đầu tư thấp
Tích luỹ vốn thấp
Thu nhập bình quân thấp
Năng suất thấp
Bởi chính nó, cái “vòng luẩn quẩn”, đã làm hạn chế quy mô đầu tư và đổi mới kỹ thuật trong điều kiện nền khoa học kỹ thuật cũng như lực lượng sản xuất trên thế giới phát triển mạnh mẽ. Đồng thời qua đó cho chúng ta thấy chỉ có “mở cửa” ra bên ngoài mới tận dụng được tối đa lợi thế so sánh của nước mình để từ đó mà phát huy và tăng cường nội lực của chính mình. Các nước NICs trong gần 30 năm qua nhờ nhận được trên 50 tỷ USD đầu tư nước ngoài cho phát triển kinh tế cùng với một chính sách kinh tế năng đông và có hiệu quả đã trở thành những con rồng châu á.
Thứ ba, đầu tư sẽ làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Kinh nghiệm của các nước trên thế giới cho thấy, con đường tất yếu có thể tăng trưởng nhanh với tốc độ mong muốn (9-10%) là tăng cường đầu tư nhằm tạo ra sự phát triển nhanh ở khu vực công nghiệp và dịch vụ. Đầu tư sẽ góp phần giải quyết những mất cân đối về phát triển giữa các vùng lãnh thổ, đưa những vùng kém phát triển thoát khỏi tình trạng đói nghèo, phát huy tối đa những lợi thế so sánh về tài nguyên, địa thế,kinh tế, chính trị … Cơ cấu ngành, cơ cấu công nghệ, cơ cấu sản phẩm và lao động, cơ cấu lãnh thổ sẽ được thay đổi theo chiều hướng ngày càng đáp ứng tốt hơn các nhu cầu phát triển kinh tế- xã hội của đất nước.
Thứ tư, đầu tư sẽ làm tăng cường khả năng khoa học- công nghệ của quốc gia. Thông qua đầu tư trực tiếp , các công ty (chủ yếu là các công ty đa quốc gia) đã chuyển giao công nghệ từ nước mình hoặc các nước khác sang nước nhận đầu tư. Mặc dù còn nhiều hạn chế do những yếu tố khách quan và chủ quan chi phối, song điều không thể phủ nhận được là chính nhờ sự chuyển giao này mà các nước chủ nhà nhận được những kỹ thuật tiên tiến (trong đó có những công nghệ không thể mua được bằng quan hệ thương mại đơn thuần) cùng với nó là kinh nghiệm quản lý, đội ngũ lao động được đào tạo, rèn luyện về nhiều mặt (trình độ kỹ thuật, phương pháp làm việc, kỷ luật lao động …).
III. các nhân tố chủ yếu ảnh hưởng đến đầu tư trực tiếp nước ngoài
môi trường chính trị
Đối với nhân tố chính trị, đây là một vấn đề được quan tâm đầu tiên của các nhà đầu tư nước ngoài khi có ý định đầu tư vào một nước mà đối với họ còn có nhiều khác biệt. Khi đó một đất nước với sự ổn định và nhất quán về chính trị cũng như an ninh và trật tự xã hội được đảm bảo sẽ bước đầu gây cho họ được tâm lý yên tâm tìm kiếm cơ hội làm ăn cũng như có thể định cư lâu dài. Môi trưòng chính trị ổn định là điều kiện tiên quyết để kéo theo sự ổn định của các nhân tố khác như kinh tế, xã hội. Đó cũng chính là lý do tại sao các nhà đầu tư khi tiến đầu tư vào một nước lại coi trọng yếu tố chính trị đến vậy.
môi trường kinh tế
Đối với nhân tố kinh tế, bất cứ quốc gia nào dù giàu hay nghèo, phát triển hoặc đang phát triển đều cần nguồn vốn nước ngoài để phát triển kinh tế trong nước tuỳ theo những mức độ khác nhau. Những nước có nền kinh tế năng động, tốc độ tăng trưởng cao, cán cân thương mại và thanh toán ổn định, chỉ số lạm phát thấp, cơ cấu kinh tế phù hợp… thì khả năng thu hút vốn đầu tư sẽ cao.
Ngoài ra, với các nhà đầu tư thì một quốc gia có lợi thế về vị trí địa lý, thuận lợi cho lưu thông thương mại, sẽ tạo ra được sức hấp dẫn lớn hơn. Nó sẽ làm giảm chi phí vận chuyển, cũng như khả năng tiếp cận thị trường lớn hơn, rộng hơn. Còn tài nguyên thiên nhiên, đối với những nước đang phát triển thì đay là một trong những lợi thế so sánh của họ. Bởi nó còn chứa đựng nhiều tiềm năng do việc khan hiếm vốn và công nghệ mà việc khai thác và sử dụng còn hạn chế, đặc biệt là những tài nguyên làm nguyên nhiên liệu quý giá chẳng hạn như dầu mỏ, khí đốt … đó là những nguồn sinh lời hấp dẫn thu hút nhiều mối quan tâm của những tập đoàn đầu tư lớn trên thế giới.
môi trường văn hoá - xã hội
Môi trường văn hoá- xã hội ở nước nhận đầu tư cũng là một vấn đề được các nhà đầu tư rất chú ý và coi trọng. Hiểu được phong tục tập quán, thói quen, sở thích tiêu dùng của người dân nước nhận đầu tư sẽ giúp cho nhà đầu tư thuận lợi hơn trong việc triển khai và thực thi một dự án đầu tư. Thông thường mục đích đầu tư là nhằm có chỗ đứng hoặc chiếm lĩnh thị trường của nước sở tại với kỳ vọng vào sực tiêu thụ tiềm năng của nó. Chình vì vậy mà trong cùng một quốc gia, vùng hay miền nào có sực tiêu dùng lớn, thu nhập bình quân đầu người đi kèm với thị hiếu tiêu dùng tăng lên sẽ thu hút được nhiều dự án đầu tư hơn.
Ngoài ra, để đảm bảo cho hoạt động đầu tư được hiện thực hoá và đi vào hoạt động đòi hỏi quốc gia tiếp nhận đầu tư phải đảm bảo một cơ sở hạ tầng đủ để đáp ứng tốt nhất những nhu cầu đầu tư kể từ lúc bắt đầu xây dựng, triển khai dự án cho đến giai đoạn sản xuất kinh doanh khi dự án đi vào hoạt động. Đó là cơ sở hạ tầng công cộng như Giao thông - Liên lạc…, các dịch vụ đảm bảo cho sinh hoạt và sản xuất như Điện, nước …, cũng như các dịch vụ khác phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh như Tài chính- Ngân hàng.
môi trường pháp lý
Pháp luật và bộ máy hành pháp có liên quan chi phối hoạt động của nhà đầu tư từ khi bắt đầu tìm kiếm cơ hội đầu tư cho đến khi dự án kết thúc thời hạn hoạt động. Đây là cấu thành có tác động trực tiếp cũng như gián tiếp đến hoạt động đầu tư. Nếu môi trường pháp lý cùng bộ máy vận hành nó tạo nên sự thông thoáng, cởi mở và phù hợp với thông lệ quốc tế, cũng như sức hấp dẫn và đảm bảo lợi ích lâu dài cho nhà đầu tư thì cùng với các cấu thành khác sẽ tạo nên một môi trường đầu tư có sức thu hút mạnh đối với các nhà đầu tư nước ngoài.
iv. các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoàI
1. các hình thức phổ biến
Đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài, mỗi nước đều có cơ sở lý luận và quan điểm phù hợp với đặc điểm hoàn cảnh riêng của mình. Điều này cho phép họ tìm thấy ở mỗi lý luận những khía cạnh riêng, những hạn chế riêng của FDI. Đây là điều vô cùng quan trọng giúp chọ họ có những quan điểm và vận dụng cụ thể hơn trong việc xây dựng chiến lược về FDI của riêng mình. Từ cách tiếp cận trên, trong thực tiễn FDI có nhiều hình thức tổ chức khác nhau. Nhưng những hình thức áp dụng phổ biến là :
* Hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng (BCC- Business Cooperation on an Contractual Basis).
* Doanh nghiệp liên doanh (JV - Joint - venture Enterprise ).
* Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài (100% Foreign- invested Enterprise).
* Hợp đồng xây dựng - vận hành - chuyển giao (BTO - Built - Transfer - Operation Contract).
* Khu chế xuất, khu công nghiệp tập trung, đặc khu kinh tế.
Các hình thức tại việt nam
Theo Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt nam được Quốc hội khoá IX, kỳ họp thứ 10 thông qua ngày 12/11/1996, ở Việt Nam có các hình thức đầu tư sau :
* Hợp đồng hợp tác kinh doanh (BBC) : đây là một loại hình đầu tư trong đó các bên tham gia hợp đồng ký kết thoả thuận để tiến hành một hoặc nhiều hoạt động sản xuất kinh doanh ở Việt Nam, trên cơ sở quy định rõ đối tượng, nội dung kinh doanh, nghĩa vụ, trách nhiệm và phân chia kết quả kinh doanh cho các bên tham gia. Theo hình thức này thì mỗi bên hợp doanh vẫn có tư cách pháp nhân riêng, không hình thành một pháp nhân mới.
* Doanh nghiệp liên doanh (JVC) : được thành lập trên cơ sở hợp đồng liên doanh được ký giữa một bên hoặc nhiều bên nước ngoài để kinh doanh tại Việt Nam. Doanh nghiệp liên doanh được thành lập theo hình thức công ty trách nhiêm hữu hạn, có tư cách pháp nhân theo pháp luật Việt Nam. Tỷ lệ góp vốn của bên nước ngoài do các bên liên doanh thoả thuận với nhau. Theo Luật Đầu tư nước ngoài của Việt nam, vốn góp của bên nước ngoài không thấp hơn 30% vốn pháp định của doanh nghiệp liên doanh và trong quá trình hoạt động không được giảm vốn pháp định.
* Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài : là doanh nghiệp thuộc sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài (tổ chức hoặc cá nhân người nước ngoài) do nhà đầu tư nước ngoài thành lập tại nước chủ nhà, tự quản lý và chịu trách nhiệm về kết quả sản xuất kinh doanh. Doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài được thành lập theo hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn có tư cách pháp nhân theo pháp luật Việt Nam.
* Hợp đồng xây dựng - kinh doanh- chuyển giao (BOT) : là văn bản ký kết giữa cơ quan Nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam và nhà đầu tư nước ngoài để xây dựng kinh doanh công trình kết cấu hạ tầng kỹ thuật (như cầu đường, sân bay, bến cảng … tại Việt Nam) trong một khoảng thời gian nhất định. Với hình thức này, các chủ đầu tư chịu trách nhiệm tiến hành xây dựng, kinh doanh công trình trong một thời gian đủ để thu hồi vốn đầu tư và có lợi nhuận hợp lý. Sau khi dự án kết thúc, toàn bộ công trình sẽ được chuyển giao cho nước chủ nhà mà không thu bất cứ khoản tiền nào.
* Hợp đồng xây dựng - chuyển giao- kinh doanh (BTO) : với hình thức này, sau khi xây dựng xong, nhà đầu tư chuyển giao công trình cho nước chủ nhà. Chính phủ nước chủ nhà giành cho nhà dầu tư quyền kinh doanh công trình đó trong thời gian nhất định để thu hồi đủ vốn đầu tư và có lợi nhuận hợp lý.
* Hợp đồng xây dựng - chuyển giao (BT) : với hình thức này, sau khi xây dựng xong, chủ đầu tư chuyển giao công trình cho nước chủ nhà. Nước chủ nhà sẽ tạo điều kiện cho nhà đầu tư nước ngoài thực hiện dự án khác để thu hồi đủ vốn đầu tư và có lợi nhuận hợp lý.
* Đầu tư vào Khu công nghiệp, khu chế xuất và khu công nghệ cao. Quan hệ trao đổi hàng hoá giữa các doanh nghiệp trong thị trường Việt Nam với các doanh nghiệp chế xuất được coi là quan hệ xuất nhập khẩu và phải theo các quy định của pháp luật xuất nhập khẩu. Các doanh nghiệp trong khu chế xuất được hưởng chế độ ưu đãi như nhau : trong khu chế xuất áp dụng chế độ tự do thuế quan, tự do mậu dịch. Tuy nhiên các doanh nghiệp trong khu công nghiệp được điều chỉnh theo luật khác nhau : các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thì theo Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, các doanh nghệp Việt Nam thì theo Luật doanh nghiệp.
Tuy nhiên trên thực tế ở Việt Nam mới chỉ thấy chủ yếu là ba hình thức BBC, JVC và doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. Các dự án kêu gọi đầu tư theo các hình thức khác như BOT, BTO … đang được xúc tiến và hy vọng sẽ hấp dẫn và thu hút được các nhà đầu tư nước ngoài.
IV. Xu hướng vận động của FDI :
- Hầu hết FDI được thực hiện trong những khu vực có tương đối nhiều vốn của thế giới ( trong khối OECD ). Như vậy dòng FDI lạI không chảy từ nơI nhiều vốn sang nơI hiếm vốn mà lạI chảy chủ yếu trong khu vực các nước công nghiệp phát triển. Vì mục đích của đầu tư là tìm kiếm lợi nhuận nên tiền vốn chỉ chảy đến nơI nào có khả năng làm cho đồng tiền sinh sôI nảy nở thêm chứ không chảy đến nơI làm cho chúng cạn kiệt đi. Vì thế, các nước công nghiệp phát triển ( thuộc khối OECD ) là nơI có môI trường đầu tư tốt, đồng vốn được sử dụng có hiệu quả, quay vòng nhanh và ít rủi ro. Những nước nghèo, tuy thiếu vốn nhưng lạI sử dụng vốn kém hiệu quả, kinh doanh nhỏ, manh mún khó chen chân vào thị trường thế giới. Bỏ vốn vào các nước này, rủi ro lớn nên kém hấp dẫn. Vì vậy nếu ở đầu thế kỷ, trên 70% vốn đầu tư đổ vào các nước chậm và đang phát triển, thì sau chiến tranh thế giới thứ 2 khu vực Tây Âu là nơI thu hút nhiều vốn đầu tư nhất. Ngày nay 80% tổng vốn FDI hướng vào các nước tư bản phát triển. Hiện nay, Mỹ trở thành nước nhập khẩu tư bản lớn nhất thế giới và Mỹ cũng trở thành con nợ lớn nhất thế giới, tính đến cuối năm 1991 nợ nước ngoàI của Mỹ lên đến 670 tỷ USD.
- FDI chủ yếu được thực hiện trong nộ bộ khu vực. Do những ưu thế về khoảng cách địa lý vầ các diều kiện tương đồng, nên FDI chủ yếu được thực hiện giữa các nước trong cùng khu vực. Chẳng hạn, các nước NICs là các chủ đầu tư lớn ở các nước trong khu vực Châu á - TháI Bình Dương, nhất là vùng Đông Nam á.
- Có sự thay đổi lớn trong trong tương quan lực lượng giữa các nước chủ đầu tư quốc tế. Nếu ở đầu thế kỷ 20 Anh, Pháp, Mỹ, Đức, Hà Lan là những nước dẫn đầu thế giới về xuất khẩu vốn ra nước ngoàI thì đến giữa thế kỷ, Mỹ nhảy lên đứng đầu thế giới về khối lượng tư bản đầu tư ra nước ngoàI, sau đó đến Anh và Pháp. Còn từ thập niên 70 trở về đây Nhật Bản, CHLB Đức vươn lên vượt qua Anh, Pháp trong lĩnh vực xuất khẩu vốn đầu tư và đe doạ vị trí số 1 của Mỹ. Đến thập kỷ 90 Nhật Bản đã vượt lên chiếm vị trí hàng đầu sau đó đến Pháp và đẩy Mỹ xuống hàng thứ 3 trong xuất khẩu FDI cả về khối lượng lẫn tỷ trọng.
Trong những năm gần đây, trong hàng ngũ các chủ đầu tư của thế giới đã xuất hiện một số nước đang phát triển có tốc độ đâù tư ra ngoàI khá cao. Tuy rằng, lượng FDI của các chủ mới này chỉ chiếm khoảng 2% tổng số vố đầu tư quốc tế nhưng nó đạI diện cho xu thế đI lên. Nổi bật trong số đó là các nước NICs ở Châu á.
- Lĩnh vực đầu tư cũng có những thay đổi sâu sắc. ở đầu thế kỷ, các nước đầu tư ra ngoàI thường hướng vào các lĩnh vực truyền thống như khai thác tàI nguyên thiên nhiên, phát triển nông nghiệp và một số ngành chế biến nông sản – chủ yếu là hướng vào các ngành cần nhiều lao động để khai thác nhân công rẻ và nguồn tàI nguyên thiên nhiên ở các nước này. Ngày nay, lĩnh vực đầu tư đã có những thay đổi sâu sắc. Các chủ đầu tư thường tập trung vào lĩnh vực dịch vụ chủ yếu là thương mạI và tàI chính. Số còn lạI của tư bản xuất khẩu chủ yếu tập trung vào các ngành có hàm lượng công nghệ kỹ thuật cao như nghành đIện tử, chế tạo ô tô… Riêng đối với các nước chậm phát triển, các chủ đầu tư thường hướng vào:
+ Các dự án vừa và nhỏ, những ngành nhanh thu hồi vốn để giảm tới mức tối đa sự rủi ro.
+ Các dự án cho phép lợi dụng triệt để các điều kiện ưu đãI mà các nước tiếp nhận đầu tư dành cho họ
+ Các ngành khai thác tàI nguyên chiến lược như quặng sắt, than, dầu mỏ…
+ Các ngành có thị trường tiêu thụ ngay tạI nước sở tại.
+ Các ngành sử dụng nhiều nhân công và khó cơ giới hoá.
- Đông á và Đông Nam á trở thành khu vực hấp dẫn đầu tư nước ngoàI vì khu vực này nằm trong vùng kinh tế phát triển năng động nhất thế giới trong những năm gần đây. Mặt khác, khu vực này có nhiều hấp dẫn với các nhà đầu tư như giá nhân công rẻ, môI trường đầu tư ngày càng được cảI thiện và so với các nước phát triển thì khu vực này có mức độ cạnh tranh thấp hơn.
Chương II: Thực trạng đầu tư trực tiếp nước ngoàI của các nước ASEAN vào Việt Nam giai đoạn 1988- 1998:
I. Tình hình đầu tư trực tiếp nước ngoàI tạI Việt Nam giai đoạn 1988-1998:
Tính đến hết năm 1997, tổng số dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài được cấp giấy phép là 2257 triệu USD, với tổng số vốn đăng ký là 31.438 triệu USD. Đầu tư trực tiếp nước ngoài đóng một vai trò quan trọng vào công cuộc đổi mới và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Cụ thể là đầu tư vào lĩnh vực sản xuất chiếm 80% tổng vốn đầu tư, vào nhiều ngành kinh tế như bưu điện, viễn thông, thăm dò và khai thác dầu khí, điện, điện tử, hoá chất, sản xuất và lắp ráp xe máy, ôtô, ứng dụng công nghệ sinh học trong trông trọt và chăn nuôi... Đóng góp của đầu tư nướcngoài vào GDP ngày càng tăng: năm 1993 là 5,6 %, năm 1994 là 7,5%, năm 1995 là 8,3 %, năm 1996 là 10 %, năm 1997 là 13 %. Ngoài ra các dự án FDI thu hút hơn 27 vạn lao động Việt Nam vào công việc và tạo ra hàng chục vạn việc làm khác có liên quan. Điều này đã kích thích và năng cao chất lượng cũng như cường độ lao động Việt Nam. Đầu tư nước ngoài còn tăng cường khả năng xuất nhập khẩu và đổi mới công nghệ của Việt Nam.
Tính đến ngày 19/10/1998 các dự án đầu tư nước ngoài vào Việt Nam đang hoạt động có tổng số vốn đăng ký là 3223,5 triệu USD và riêng 10 tháng đầu năm 1998 đã có 1,81 tỷ USD đầu tư trực tiếp vào Việt Nam.
Sau đây là 10 nước và lãnh thổ đứng đầu về FDI tại Việt Nam.
Nước, vùng lãnh thổ
Số dự án
Vốn
đầu tư
Tỷ trọng (%)
Vị trí
Singapo
181
6447
20
1
Đài loan
309
4268
13,3
2
Hồng kông
184
3734
11,6
3
Nhật bản
213
3500
11,4
4
Hàn quốc
191
3154
9,8
5
Pháp
96
1465
4,6
6
Malayxia
59
1370
4,3
7
Mỹ
70
1230
3,8
8
Thái lan
78
1109
3,4
9
BV.island Anh
55
1089
3,3
10
Nguồn: SCCI Bộ Kế hoạch đầu tư.
Thực tế cho thấy, số vốn đầu tư được cấp giấy phép qua các năm nhìn chung gia tăng nhưng giảm sút ở năm 1997 đặc biệt là năm 1998. Vốn thực hiện, doanh thu, kim ngạch xuất khẩu và chỉ tiêu nộp ngân sách của các dự án FDI gia tăng hàng năm, nhưng đến năm 1998, do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ nên giảm sút rất nhiều.
Bảng: Tình hình thực hiện đầu tư FDI tại Việt Nam 1988 - 1998
Đơn vị tính: Triệu USD
Chỉ tiêu
91
92
93
94
95
96
97
1-5/98
Vốn thực hiện
206
380
1112
1939
2672
2607
3250
921
Doanh thu
149
208
449
956
1869
2450
3266
1100
Xuât khẩu
52
112
257
352
440
786
1500
689
Nộp NSNN
128
195
263
315
130
Số dự án được cấp giấy phép năm 1997 giảm so với năm 1996 ( từ 501 dự án xuống còn 479 dự án ), vốn đăng ký giảm mạnh ( từ 9212 triệu USD xuống còn 5548 triệu USD ) và hết tháng 10 năm 1998 mới thu hút được 1,81 tỷ USD vốn đầu tư.
II. Khái quát chung về ASEAN và quan hệ kinh tế giữa Việt Nam và ASEAN:
1 . Khái quát về hiệp hội các quốc gia Đông Nam á ( viết tắt là ASEAN).
Hiệp hội các quốc gia Đông Nam á -ASEAN thành lập tại Bangkok năm 1967 gồm 6 nước thành viên: Brunây, Indonêxia, Malayxia, Philipin, Singapo và Thái Lan với mục tiêu là đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế, tiến bộ xã hội, phát triển văn hoá trong khu vực, tăng cường sự hợp tác giúp đỡ lẫn nhau về hoà bình và ổn định khu vực. Ngày 28 tháng 7 năm 1995 Việt Nam đã được kết nạp làm thành viên chính thức của ASEAN. Mới đây tháng 4 năm 1999 tại Hà Nội đã tổ chức kết nạp Vương quốc Campuchia làm thành viên đầy đủ của ASEAN, hoàn thành ý tưởng về một ASEAN gồm tất cả 10 quốc gia khu vực.
Khu vực ASEAN được coi là khu vực kinh tế năng động nhất trên thế giới. Tốc độ tăng trưởng kinh tế rất cao và duy trì trong một thời gian dài. Tỷ trọng của ASEAN trong GDP thế giới đã tăng từ 2,4 % vào năm 1970 lên trên 5 % năm 1995 và dự báo sẽ đạt 5,7 % năm 2000. Vị trí của ASEAN trong thương mại quốc tế tăn._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- B0184.doc