Lời nói đầu
Sau hơn 15 năm thực hiện đường lối đổi mới kinh tế của Đảng, chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế từ kinh tế kế hoạch sang nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của Nhà nước, đất nước ta đã đạt được những thành tựu quan trọng trong mọi lĩnh vực. Nền kinh tế nước ta đã từng bước thoát ra khỏi khủng hoảng và đạt tốc độ tăng trưởng cao trong nhiều năm liền.
Cùng với đường lối phát triển kinh tế đúng đắn, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chính sách kinh tế
94 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1484 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Đầu tư phát triển theo hình thức BOT trong nước tại Tổng Công ty xây dựng Sông Đà. Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hợp lí nhằm khuyến khích mọi thành phần kinh tế trong và ngoài nước đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh để làm giàu cho mình và cho xã hội.
Thực hiện chủ trương của Đảng, để hạn chế sức ép cho ngân sách nhà nước trong việc đầu tư phát triển kinh tế, Chính phủ đã ban hành những văn bản pháp quy để khuyến khích mọi thành phần kinh tế trong nước sử dụng vốn và năng lực quản lý sản xuất kinh doanh của mình tham gia thực hiện các dự án phát triển cơ sở hạ tầng. Một trong những văn bản quan trọng đó là Quy chế đầu tư theo hình thức hợp đồng B.O.T (Xây dựng - Kinh doanh - Chuyển giao) áp dụng cho đầu tư trong nước. Hình thức đầu tư B.O.T là hình thức đầu tư quen thuộc đối với các nhà đầu tư nước ngoài nhưng đối với các nhà đầu tư nước ta, đây là hình thức đầu tư mới và vẫn còn rất nhiều những vướng mắc liên quan đến hình thức đầu tư này.
Là một doanh nghiệp hàng đầu trong lĩnh vực xây dựng thuỷ điện ở nước ta, Tổng công ty xây dựng Sông Đà đã xây dựng nhiều công trình thuỷ điện lớn của đất nuớc như thuỷ điện Thác Bà, thuỷ điện Hoà Bình, thuỷ điện Yaly...Thực hiện chủ trương, đường lối khuyến khích đầu tư trong nước của Đảng và Nhà nước, đồng thời mở ra một hướng đi mới cho mình, trên cơ sở năng lực cũng như kinh nghiệm trong lĩnh vực xây dựng thuỷ điện, Tổng công ty Xây dựng Sông Đà đã lập dự án trình Chính phủ xin phép đầu tư xây dựng nhà máy thuỷ điện Cần Đơn theo hình thức đầu tư B.O.T trong nước vào năm 1998. Dự án đã được Chính phủ phê duyệt, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã cấp giấy phép đầu tư xây dựng theo hình thức đầu tư B.O.T trong nước, Tổng công ty Xây dựng Sông Đà đã trở thành doanh nghiệp trong nước đầu tiên được cấp phép đầu tư xây dựng một nhà máy thuỷ điện theo hình thức đầu tư B.O.T trong nước. Song song với việc thực hiện dự án Cần Đơn, Tổng công ty Xây dựng Sông Đà cũng đang lập hồ sơ xin phép xây dựng một số thuỷ điện khác theo hình thức đầu tư B.O.T trong nước như thuỷ điện Nà Lơi (Lai Châu), thuỷ điện Ry Ninh II (Gia Lai)...Qua nghiên cứu, tìm hiểu tình hình thực hiện các dự án B.O.T tại Tổng công ty Xây dựng Sông Đà trong thời gian thực tập, em đã chọn đề tài :
“ Đầu tư phát triển theo hình thức B.O.T trong nước tại Tổng công ty xây dựng Sông Đà : thực trạng và giải pháp".
Việc phát triển hình thức đầu tư B.O.T trong nước không những chỉ có ý nghĩa đối với Tổng công ty Xây dựng Sông Đà mà còn có ý nghĩa quan trọng đối với công cuộc phát triển kinh tế của nước ta. Vì vậy, trong chuyên đề, này em xin làm rõ một số vấn đề lí luận về đầu tư phát triển và đầu tư theo hình thức hợp đồng B.O.T trong nước, phản ánh thực trạng triển khai các dự án B.O.T tại Tổng công ty xây dựng Sông Đà, qua đó đề xuất một số giải pháp để việc thực hiện các dự án thuỷ điện B.O.T trong nước ở Tổng công ty Xây dựng Sông Đà diễn ra nhanh hơn và có hiệu quả hơn.
Nội dung chính của đề tài gồm 3 chương :
Chương I : Những vấn đề lí luận về đầu tư phát triển và đầu tư theo hình thức hợp đồng B.O.T trong nước.
Chương II : Thực trạng các dự án thuỷ điện đầu tư theo hình thức B.O.T trong nước tại Tổng công ty Xây dựng Sông Đà.
Chương III : Một số giải pháp thúc đẩy việc thực hiện các dự án thuỷ điện đầu tư theo hình thức đầu B.O.T trong nước tại Tổng công ty Xây dựng Sông Đà.
Em xin chân thành cảm ơn cô giáo Phạm Thị Thêu đã tận tình hướng dẫn, các bác, các cô, các chú, các anh chị trong phòng Kế hoạch - Đầu tư, Tổng công ty Xây dựng Sông Đà đã tạo điều kiện cho em trong thời gian tìm hiểu nghiên cứu đề tài.
Hà Nội, tháng 5 năm 2002.
Chương I
những vấn đề lí luận về đầu tư phát triển và đầu tư theo hình thức hợp đồng b.o.t
trong nước.
Khái niệm và bản chất của đầu tư.
Khái niệm chung :
Đầu tư là sự hy sinh các nguồn lực ở hiện tại ( tiền, sức lao động, của cải vật chất...) nhằm đạt được những kết quả có lợi hơn cho người đầu tư trong tương lai.
Trên góc độ tài chính, có thể định nghĩa : đầu tư là một chuỗi các hoạt động chi tiêu để chủ đầu tư nhận về một chuỗi dòng thu nhằm hoàn vốn và sinh lời.
Trên góc độ tiêu dùng, đầu tư là một hình thức hạn chế hoặc hy sinh tiêu dùng hiện tại để thu về một mức tiêu dùng lớn hơn trong tương lai.
Bản chất của các loại đầu tư.
Xuất phát từ bản chất và phạm vi lợi ích do hoạt động đầu tư đem lại, chúng ta có thể phân biệt các loại đầu tư như sau:
Đầu tư tài chính ( đầu tư tài sản tài chính).
Là loại đầu tư trong đó người có tiền bỏ tiền ra để cho vay hoặc mua các chứng chỉ có giá để hưởng lãi suất định trước (gửi tiền tiết kiệm vào ngân hàng, mua trái phiếu...) hoặc lãi suất tuỳ thuộc vào kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty phát hành ( mua cổ phiếu...).
Đầu tư tài sản tài chính không tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế (nếu không xét đến quan hệ quốc tế trong lĩnh vực này) mà chỉ làm tăng giá trị tài sản tài chính của tổ chức hay cá nhân đầu tư.
Với sự hoạt động của hình thức đầu tư tài chính, vốn bỏ ra đầu tư được lưu chuyển dễ dàng, khi cần có thể rút ra một cách nhanh chóng (rút tiền tiết kiệm, chuyển nhượng trái phiếu, cổ phiếu cho người khác...). Điều đó khuyến khích người có tiền bỏ tiền ra để đầu tư. Để giảm mức độ rủi ro, họ có thể phân tán vốn đầu tư vào nhiều nơi. Đây là một nguồn cung cấp vốn quan trọng cho đầu tư phát triển.
2.2. Đầu tư thương mại:
Là hoạt động đầu tư trong đó người có tiền bỏ tiền ra để mua hàng hoá và sau đó bán với giá cao hơn nhằm thu lợi nhuận do chênh lệch giá khi mua và khi bán. Loại đầu tư này cũng không tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế (nếu không xét đến ngoại thương) mà chỉ làm tăng tài sản tài chính của người đầu tư trong quá trình mua đi bán lại, chuyển giao quyền sở hữu hàng hoá giữa người bán với người đầu tư và người đầu tư với khách hàng của họ. Tuy nhiên, đầu tư thương mại có tác dụng thúc đẩy quá trình lưu thông của cải vật chất do đầu tư phát triển tạo ra, từ đó thúc đẩy đầu tư phát triển, tăng thu cho ngân sách, tăng tích luỹ vốn cho phát triển sản xuất, kinh doanh dịch vụ nói riêng và cho nền sản xuất xã hội nói chung.
2.3. Đầu tư tài sản vật chất :
Là những hoạt động chi dùng vốn để mua sắm những tài sản vật chất (máy móc, thiết bị, tài sản lưu động ...), làm tăng năng lực sản xuất kinh doanh và các hoạt động xã hội khác, là điều kiện chủ yếu để tạo việc làm, nâng cao đời sống của các thành viên trong xã hội.
Loại đầu tư này được gọi chung là đầu tư phát triển.
Đầu tư phát triển.
Khái niệm.
Đầu tư phát triển là hoạt động sử dụng các nguồn lực tài chính, nguồn lực vật chất, lao động, trí tuệ... để xây dựng, sửa chữa nhà cửa, cấu trúc hạ tầng, mua sắm trang thiết bị và lắp đặt trên nền bệ, bồi dưỡng, đào tạo nguồn nhân lực, thực hiện chi phí thường xuyên gắn liền với sự hoạt động của các tài sản này nhằm duy trì năng lực hoạt động của các cơ sở đang tồn tại và tạo năng lực mới cho nền kinh tế xã hội, tạo việc làm và nâng cao đời sống của các thành viên trong xã hội.
Đầu tư phát triển là một bộ phận cơ bản của đầu tư, là quá trình chuyển hoá vốn bằng tiền thành vốn hiện vật, là quá trình chi dùng vốn nhằm tạo ra những yếu tố cơ bản của sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và đời sống.
Đặc điểm của đầu tư phát triển.
Hoạt động đầu tư phát triển đòi hỏi một số vốn lớn và nằm khê đọng trong
suốt quá trình thực hiện đầu tư.
Thời gian để tiến hành một công cuộc đầu tư cho đến khi các thành quả của
nó phát huy tác dụng thường kéo dài, trong khoảng thời gian đó thường có nhiều biến động xảy ra.
Thời gian cần hoạt động để có thể thu hồi vốn đã bỏ ra với các cơ
sở vật chất kĩ thuật phục vụ sản xuất kinh doanh kéo dài và do đó không tránh khỏi sự tác động của hai mặt tích cực và tiêu cực của các yếu tố không ổn định về tự nhiên, xã hội, chính trị, kinh tế...
Thời gian vận hành các kết quả đầu tư kéo dài, nhiều khi là vĩnh viễn.
Các thành quả của hoạt động đầu tư là các công trình xây dựng sẽ hoạt
động ngay tại nơi mà nó đươc tạo dựng nên. Do đó, các yếu tố về tự nhiên, kinh tế, xã hội có những ảnh hưởng to lớn đến quá trình thực hiện đầu tư cũng như tác động đến quá trình vận hành sau này của các kết quả đầu tư.
- Hoạt động đầu tư luôn chứa đựng nhiều rủi ro. Do đó, cần phải nhận dạng và đánh giá sự tác động của các yếu tố rủi ro, từ đó có kế hoạch phòng ngừa và đối phó với các loại rủi ro có thể ảnh hưởng tới dự án đầu tư.
Phân loại các hoạt động đầu tư.
Trong công tác quản lí và kế hoạch hoá các hoạt động đầu tư, người ta phân
loại hoạt động đầu tư theo các tiêu thức khác nhau. Mỗi tiêu thức phân loại đáp ứng những nhu cầu quản lí và nghiên cứu kinh tế khác nhau. Những tiêu thức phân loại thường được sử dụng là :
Phân loại theo bản chất của các đối tượng đầu tư :
Theo tiêu thức này, các hoạt động đầu tư bao gồm đầu tư cho các đối
tượng vật chất ( nhà xưởng, công trình, máy móc, thiết bị...) , đầu tư cho các đối tượng tài chính ( các tài sản tài chính như cổ phiếu, trái phiếu, các loại chứng khoán khác...) và đầu tư cho các đối tượng phi vật chất ( đầu tư tài sản trí tuệ và nguồn nhân lực như đào tạo, nghiên cứu khoa học, y tế...).
Trong các loại đầu tư trên, đầu tư đối tượng vật chất là điều kiện tiên quyết, cơ bản làm tăng tiềm lực của nền kinh tế, đầu tư tài chính là điều kiện quan trọng để thu hút vốn đầu tư từ mọi tầng lớp dân cư cho đầu tư các đối tượng vật chất, còn đầu tư tài sản trí tuệ và nguồn nhân lực là điều kiện tất yếu để đảm bảo cho đầu tư các đối tượng vật chất tiến hành thuận lợi và đạt hiệu quả kinh tế xã hội cao.
3.2. Phân loại theo cơ cấu tái sản xuất.
Hoạt động đầu tư được phân loại thành đầu tư chiều rộng và đầu tư chiều sâu. Trong đó đầu tư theo chiều rộng là hình thức đầu tư nhằm gia tăng về qui mô, số lượng các cơ sở kinh tế, xã hội..., hoạt động đầu tư này đòi hỏi vốn lớn, nằm khê đọng lâu, thời gian thực hiện đầu tư và thời gian cần hoạt động để thu hồi vốn dài, tính chất kĩ thuật phức tạp, độ mạo hiểm cao. Còn đầu tư theo chiều sâu không tập trung vào việc gia tăng quy mô, số lượng, mà tập trung vào việc nâng cao trình độ, mức độ hiện đại của các đối tượng đầu tư.
Đầu tư theo chiều sâu không đòi hỏi vốn lớn như đầu tư theo chiều rộng, thời gian thực hiện không lâu, độ mạo hiểm thấp hơn so với đầu tư theo chiều rộng.
3.3. Theo phân cấp quản lí.
Quy chế quản lí đầu tư và xây dựng ban hành kèm theo nghị định số 52/ 1999/ NĐ- CP ngày 8/7/1999 của Chính phủ phân thành 3 nhóm A, B, C tuỳ theo tính chất và quy mô của dự án. Trong đó dự án nhóm A do Thủ tướng Chính phủ quyết định , dự án nhóm B, C do Bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Uỷ ban nhân dân Tỉnh, Thành phố trực thuộc Trung ương quyết định.
3.4. Theo lĩnh vực hoạt động trong xã hội của các kết quả đầu tư.
Theo tiêu thức này, người ta phân chia các hoạt động đầu tư thành đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, đầu tư phát triển khoa học kĩ thuật, đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng và xã hội... Các hoạt động đầu tư này có quan hệ tương hỗ lẫn nhau. Đầu tư phát triển khoa học kĩ thuật và cơ sở hạ tầng tạo điều kiện cho đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả cao, còn đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh đến lượt mình lại tiềm lực cho đầu tư phát triển khoa học kĩ thuật, cơ sở hạ tầng và các hoạt động đầu tư khác phát triển.
3.5. Phân loại theo đặc điểm hoạt động của các kết quả đầu tư.
Các hoạt động đầu tư được phân chia thành:
- Đầu tư cơ bản nhằm tái sản xuất các tài sản cố định.
- Đầu tư vận hành nhằm tạo ra các tài sản lưu động cho các cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ mới hình thành, tăng thêm tài sản lưu động cho các cơ sở hiện có, duy trì sự hoạt động của các cơ sở vật chất, kĩ thuật.
Đầu tư cơ bản quyết định đầu tư vận hành, đầu tư vận hành tạo điều kiện cho các kết quả của đầu tư cơ bản phát huy tác dụng. Không có đầu tư vận hành thì kết quả của đầu tư cơ bản không hoạt động được, không có đầu tư cơ bản thì đầu tư cơ bản không có đối tượng phục vụ.
Đầu tư vận hành chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng vốn đầu tư, đặc đIểm kĩ thuật của quá trình thực hiện đầu tư không phức tạp. Đầu tư vận hành cho các cơ sở sản xuất kinh doanh có thể thu hồi vốn nhanh sau khi đưa các kết quả đầu tư vào hoạt động.
3.6. Phân loại theo giai đoạn hoạt động của các kết quả đầu tư trong quá trình tái sản xuất xã hội.
Theo cách phân loại này, hoạt động đầu tư phát triển được phân loại thành đầu tư thương mại và đầu tư sản xuất. Đầu tư thương mại có thời gian thực hiện đầu tư và hoạt động của các kết quả đầu tư để thu hồi vốn đầu tư ngắn, vốn vận động nhanh, độ mạo hiểm thấp do trong thời gian ngắn, tính bất định không cao. Đầu tư sản xuất đòi hỏi thời gian dài, vốn đầu tư lớn, thời gian thu hồi vốn chậm, độ mạo hiểm cao, phải chịu tác động của nhiều yếu tố bất định trong tương lai không thể dự đoán hết và dự đoán chính xác được (dự báo cung cầu, giá cả đầu vào và đầu ra, cơ chế chính sách, sự phát triển khoa học kĩ thuật, thiên tai...)
Trong thực tế, người có tiền đầu tư thích bỏ vào lĩnh vực kinh doanh thương mại. Tuy nhiên, trên giác độ nền kinh tế, loại hoạt động đầu tư này không tạo ra của cải vật chất một cách trực tiếp, những giá trị gia tăng do hoạt động đầu tư này đem lại chỉ là sự phân phối lại thu nhập giữa các ngành, địa phương, các tầng lớp dân cư trong xã hội.
3.7. Phân loại theo thời gian thực hiện và phát huy tác dụng để thu hồi đủ vốn bỏ ra của các kết quả đầu tư.
Có thể phân chia hoạt động đầu tư thành đầu tư ngắn hạn (như đâù tư thương mại), đầu tư trung hạn và đầu tư dài hạn (các lĩnh vực đầu tư sản xuất, đầu tư phát triển khoa học kĩ thuật, cơ sở hạ tầng...).
3.8. Phân loại theo quan hệ của chủ đầu tư.
Hoạt động đầu tư có thể phân chia thành đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp.
Đầu tư gián tiếp là loại hình đầu tư trong đó người bỏ vốn không trực tiếp tham gia điều hành, quản lí quá trình thực hiện và vận hành các kết quả đầu tư. Đó là việc các Chính phủ thông qua các chương trình tài trợ không hoàn lại hoặc có hoàn lại với lãi suất thấp cho các Chính phủ của các nước khác vay để phát triển kinh tế, xã hội; là việc các cá nhân, tổ chức mua các chứng chỉ có giá như cổ phiếu, trái phiếu...để hưởng lợi tức (đầu tư tài chính).
Đầu tư trực tiếp : là loại đầu tư trong đó người bỏ vốn trực tiếp tham gia quản lí, điều hành quá trình thực hiện và vận hành kết quả đầu tư.
3.9. Phân loại đầu tư theo nguồn vốn :
Vốn huy động trong nước bao gồm :
+ Vốn ngân sách Nhà nước.
+ Vốn của doanh nghiệp.
+ Tiền tiết kiệm của dân cư.
Vốn huy động từ nước ngoài bao gồm :
+ Vốn đầu tư gián tiếp.
+ Vốn đầu tư trực tiếp.
Cách phân loại này cho thấy tình hình huy động vốn từ mỗi nguồn và vai trò của mỗi nguồn vốn đối với sự phát triển kinh tế xã hội của từng nghành, từng địa phương và toàn bộ nền kinh tế.
3.10. Phân loại đầu tư theo vùng lãnh thổ (theo tỉnh và vùng kinh tế của đất nước).
Cách phân loại này phản ánh tình hình đầu tư của từng tỉnh, từng vùng kinh tế và ảnh hưởng của đầu tư đối với tình hình phát triển kinh tế xã hội ở từng địa phương.
4.Vai trò của đầu tư phát triển trong nền kinh tế.
Các lí thuyết kinh tế đều coi đầu tư phát triển là nhân tố quan trọng để phát triển kinh tế, là chìa khoá của sự tăng trưởng. Vai trò này của đầu tư phát triển được thể hiện ở những mặt sau:
4.1.Đầu tư vừa tác động đến tổng cung,vừa tác động đến tổng cầu.
4.1.1. Về mặt cầu :
Tổng cầu của nền kinh tế là khối lượng hàng hoá và dịch vụ mà các tác nhân trong nền kinh tế sẽ sử dụng tương ứng với giá cả, thu nhập và một số biến số đã biết.
AD = C + I + G + X- IM
Trong đó :
AD : tổng cầu của nền kinh tế.
C : cầu về hàng hoá và dịch vụ tiêu dùng.
I : cầu về hàng hoá đầu tư.
G : chi tiêu của Chính phủ.
X : cầu về hàng hoá và dịch vụ xuất khẩu.
IM : cầu về hàng hoá và dịch vụ nhập khẩu.
Đầu tư là một yếu tố chiếm tỷ trọng lớn trong tổng cầu của toàn bộ nền kinh tế. Theo số liệu của Ngân hàng thế giới, đầu tư thường chiếm khoảng 24- 28% trong cơ cấu tổng cầu của tất cả các nước trên thế giới. Đối với tổng cầu, tác động của đầu tư là ngắn hạn. Với tổng cung chưa kịp thay đổi, sự tăng lên của đầu tư làm tổng cầu tăng theo, do đó làm tăng sản lượng cân bằng.
4.1.2. Về mặt cung :
Tổng cung là toàn bộ khối lượng sản phẩm mà các doanh nghiệp sẽ sản xuất và bán ra trong một thời kì tương ứng với giá cả, khả năng sản xuất và chi phí sản xuất nhất định.
Khi thành quả của đầu tư phát triển phát huy tác dụng, các năng lực mới đi vào hoạt động, thì tổng cung, đặc biệt là tổng cung dài hạn tăng lên, kéo theo sản lượng tiềm năng tăng theo.. Sản lượng tăng, giá cả giảm cho phép tăng tiêu dùng. Tăng tiêu dùng đến lượt mình lại tiếp tục kích thích sản xuất hơn nữa, sản xuất phát triển là nguồn gốc cơ bản để tăng tích luỹ, phát triển kinh tế xã hội, tăng thu nhập cho người lao động, nâng cao đời sống của các thành viên trong xã hội.
4.2. Đầu tư có tác động hai mặt tới sự ổn định kinh tế.
Sự tác động không đồng đều về mặt thời gian (độ trễ thời gian) của hoạt động đầu tư đối với tổng cầu và đối với tổng cung của nền kinh tế làm cho mỗi sự thay đổi của đầu tư, dù là tăng hay giảm đều cùng một lúc vừa là yếu tố duy trì sự ổn định, vừa là yếu tố phá vỡ sự ổn định của nền kinh tế mọi Quốc gia.
Cơ chế tác động này diễn ra như sau : Khi tăng đầu tư, cầu của các yếu tố đầu tư tăng làm cho giá cả của các hàng hóa có liên quan tăng (giá chi phí vốn, giá công nghệ, lao động, vật tư...) đến một mức độ nào đó dẫn đến tình trạng lạm phát. Đến lượt mình, lạm phát làm cho sản xuất đình trệ, đời sống của người lao động gặp nhiều khó khăn do tiền lương ngày càng thấp hơn, thâm hụt ngân sách, kinh tế phát triển chậm lại. Mặt khác, tăng đầu tư làm cho cầu của các yếu tố có liên quan tăng, sản xuất của các ngành này phát triển, thu hút thêm lao động, giảm tình trạng thất nghiệp, nâng cao đời sống người lao động giảm tệ nạn xã hội, tất cả những tác động này tạo điều kiện cho sự phát triển kinh tế.
Khi giảm đầu tư cũng dẫn đến tác động hai mặt tới nền kinh tế, nhưng theo chiều hướng ngược lại so với các tác động trên. Vì vậy, trong việc điều tiết vĩ mô nền kinh tế, cần thấy hết tác động hai mặt này để đưa ra các chính sách nhằm hạn chế các tác động xấu, phát huy tác động tích cực, duy trì được sự ổn định của toàn bộ nền kinh tế.
4.3. Đầu tư tác động tới tăng trưởng kinh tế.
Để đánh giá mức độ gia tăng trong tổng sản lượng Quốc gia, các nhà kinh tế thường bắt đầu với việc ước tính tỷ lệ tích luỹ và khối lượng sản phẩm đầu ra thuần tuý được tạo ra từ đầu tư thuần. Người ta đã đưa ra chỉ tiêu để lượng hoá lượng vốn cần thiết để tăng sản lượng đầu ra thêm 1 đơn vị mỗi năm trong mỗi khu vực hay toàn bộ nền kinh tế. Giá trị tính được này gọi là tỷ số vốn- sản lượng gia tăng (ICOR).
Tỷ số I COR bằng khối lượng vốn gia tăng cần thiết để tạo ra 1 đơn vị gia tăng trong tổng sản lượng quốc gia.
Mức tăng vốn đầu tư
Mức tăng GDP
ICOR=
Từ đó suy ra :
Mức tăng vốn đầu tư
ICOR
Mức tăng GDP =
Nếu ICOR không thay đổi, mức tăng GDP hoàn toàn phụ thuộc vào vốn đầu tư. Kết quả nghiên cứu của các nhà kinh tế cho thấy : muốn giữ tốc độ tăng trưởng ở mức trung bình thì tỷ lệ đầu tư phải đạt được từ 15-25% so với GDP tuỳ thuộc vào tỷ số ICOR của mỗi nước.
4.4. Đầu tư và sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Cơ cấu kinh tế là một phạm trù kinh tế phản ánh cấu trúc nội tại về kinh
tế của các ngành trong toàn bộ nền kinh tế.
Kinh nghiệm của các nước trên thế giới cho thấy con đường tất yếu để có thể tăng trưởng nhanh là tăng cường đầu tư nhằm tạo ra sự phát triển nhanh ở khu vực công nghiệp và dịch vụ. Đối với các ngành nông, lâm, ngư nghiệp do hạn chế về đất đaivà các khả năng sinh học, để đạt được tốc độ tăng trưởng từ 5 đến 6% là rất khó. Như vậy, chính sách đầu tư quyết định quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở các quốc gia nhằm đạt được tốc độ tăng trưởng nhanh của toàn bộ nền kinh tế.
Về cơ cấu lãnh thổ, đầu tư có tác dụng giải quyết những vấn đề mất cân đối về phát triển giữa các vùng lãnh thổ, đưa những vùng kém phát triển thoát khỏi tình trạng đói nghèo, phát huy tối đa những lợi thế so sánh về tài nguyên, địa thế, kinh tế, chính trị... của những vùng có khả năng phát triển nhanh hơn, làm bàn đạp thúc đẩy những vùng kinh tế khác phát triển.
4.5. Đầu tư ảnh hưởng đến sự phát triển khoa học kĩ thuật và công nghệ.
Công nghệ là trung tâm của công nghiệp hoá, là chìa khoá cho sự phát triển
kinh tế. Đầu tư là điều kiện tiên quyết của sự phát triển và tăng cường khả năng công nghệ của mỗi doanh nghiệp và toàn bộ nền kinh tế.
Trên thực tế có hai cách để có công nghệ là tự nghiên cứu phát minh và nhập công nghệ từ nước ngoaì. Dù là tự nghiên cứu hay nhập công nghệ từ nước ngoài thì đều cần phải có tiền, cần có vốn đầu tư. Mọi phương án đổi mới công nghệ không gắn với nguồn vốn đầu tư sẽ là những phương án không khả thi.
5. Nguồn vốn đầu tư.
5.1. Bản chất của nguồn vốn đầu tư.
Vốn đầu tư là tiền tích luỹ của xã hội, của các cơ sở sản xuất, kinh doanh dịch vụ, là tiền tiết kiệm của dân và vốn huy động từ các nguồn khác được đưa vào sử dụng trong quá trình tái sản xuất xã hội nhằm duy trì năng lực sẵn có và tạo năng lực mới cho nền sản xuất xã hội.
5.2. Vốn đầu tư của quốc gia : được hình thành từ hai nguồn cơ bản đó là vốn huy động trong nước và vốn huy động từ nước ngoài.
Vốn đầu tư trong nước được hình thành từ các nguồn sau đây:
+ Vốn tích luỹ từ ngân sách.
+ Vốn tích luỹ của các doanh nghiệp.
+ Vốn tiết kiệm dân cư.
Vốn huy động từ nước ngoài bao gồm vốn đầu tư trực tiếp và vốn đầu tư
gián tiếp.
Vốn đầu tư trực tiếp là vốn của các doanh nghiệp, các cá nhân người nước ngoài đầu tư sang các nước khác và trực tiếp quản lí hoặc tham gia quản lí quá trình sử dụng và thu hồi vốn.
Vốn đầu tư gián tiếp là vốn của các chính phủ, các tổ chức quốc tế, các tổ chức phi chính phủ được thực hiện dưới các hình thức viện trợ không hoàn lại, có hoàn lại, cho vay ưu đãi với thời hạn dài và lãi suất thấp, vốn viện trợ chính thức của các nước công nghiệp phát triển (ODA).
5.3. Nguồn vốn đầu tư của các cơ sở :
Đối với các cơ quan quản lí Nhà nước, các cơ sở hoạt động phúc lợi công
cộng thì vốn đầu tư do ngân sách cấp (tích luỹ từ ngân sách và viện trợ qua ngân sách), vốn viện trợ không hoàn lại trực tiếp cho cơ sở và vốn tự có của cơ sở (bản chất cũng là tiền thừa tích luỹ từ phần thừa do dân đóng góp không dùng đến).
Đối với các doanh nghiệp quốc doanh, vốn đầu tư được hình thành từ nhiều nguồn hơn bao gồm vốn ngân sách (lấy từ nguồn tích luỹ của ngân sách), vốn khấu hao cơ bản, vốn viện trợ qua ngân sách, vốn tự có của doanh nghiệp, vốn vay, vốn huy động từ nguồn phát hành trái phiếu, cổ phiếu, vốn góp liên doanh liên kết với các cá nhân và tổ chức trong và ngoài nước và các hình thức huy động vốn khác theo quy định của Luật doanh nghiệp.
Đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, nguồn vốn đầu tư bao gồm vốn tự có, vốn vay, vốn cổ phần, vốn liên doanh, liên kết với các cá nhân và tổ chức trong nước, ngoài nước. Đối với các công ty cổ phần, vốn đầu tư ngoài các nguồn trên còn bao gồm tiền thu được do phát hành trái phiếu (nếu có đủ điều kiện theo quy định của Luật doanh nghiệp).
5.4. Nội dung của vốn đầu tư.
Để tiến hành mọi công cuộc đầu tư phát triển đòi hỏi phải xem xét các
khoản chi phí sau đây :
Chi phí để tạo ra các tài sản cố định mới hoặc bảo dưỡng sự hoạt động của
các tài sản cố định có sẵn.
Chi phí để tạo ra hoặc tăng thêm các tài sản lưu động.
Chi phí chuẩn bị đầu tư.
Chi phí dự phòng cho các khoản chi phí phát sinh không dự kiến trước được.
Trong mỗi nội dung trên đây lại bao gồm nhiều khoản chi tuỳ thuộc vào vị trí, chức năng, bản chất và công dụng của mỗi khoản đầu tư.
III. đầu tư theo hình thức hợp đồng B.O.T trong nước.
1. Khái niệm
Khái niệm B.O.T (Xây dựng -Kinh doanh - Chuyển giao) xuất hiện từ năm 1920, bắt đầu là ở Hoa Kỳ và Canađa. B.O.T là hình thức đầu tư được sử dụng để thực hiện các dự án đầu tư của Chính phủ trong việc xây dựng cơ sở hạ tầng và công nghiệp (giao thông, cấp thoát nước, điện, dầu khí...). Ngay từ khi mới ra đời, hình thức đầu tư B.O.T đã thu hút được sự quan tâm của các nhà đầu tư và đồng thời hiệu quả kinh tế - xã hội mà nó đem lại cũng hết sức to lớn. Ưu điểm nổi trội của hình thức B.O.T là Nhà nước không phải bỏ vốn mà các nhà đầu tư phải tự bỏ vốn sở hữu của mình, chịu hoàn toàn trách nhiệm về dự án trong suốt thời gian dự án được thực hiện. Điều này đã giảm được sức ép về vốn đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng cho ngân sách Nhà nước và lại vừa phát huy được tính chủ động và sáng tạo của các nhà đầu tư. Tuy nhiên, vốn chủ sở hữu của nhà đầu tư thường không thể đáp ứng đủ tổng vốn đầu tư của dự án mà thường chỉ chiếm một tỷ lệ nhất định nào đó ( thông thường là 30% tổng vốn đầu tư). Vì vậy các nhà đầu tư thường phải vay tín dụng từ các ngân hàng, các tổ chức tài chính trong nước và quốc tế. Chính điều này đã khiến cho dự án đầu tư theo hình thức B.O.T phải thực sự được tính toán cẩn thận và xác định là có hiệu quả thì các ngân hàng, tổ chức tài chính mới có thể cho vay. Như vậy, hình thức đầu tư B.O.T đã kết hợp được rất nhiều bên có khả năng tham gia dự án mà không cần đến vốn từ ngân sách Nhà nước, nhưng vẫn đảm bảo dự án được thực hiện có hiệu quả và theo đúng chủ trương đường lối phát triển kinh tế của Chính phủ các nước.
Trên thế giới hình thức đầu tư B.O.T đã được áp dụng từ lâu nhưng ở Việt Nam, hình thức đầu tư B.O.T mới chỉ xuất hiện từ đầu thập kỉ 90, nhưng trong tương lai, người ta hy vọng nó sẽ đóng một vai trò quan trọng trong việc khắc phục tình trạng yếu kém của cơ sở hạ tầng nước ta hiện nay.
Khởi đầu cho việc ra đời của hình thức đầu tư B.O.T ở Việt Nam là việc ban hành "Quy chế đầu tư theo hình thức Hợp đồng Xây dựng - Kinh doanh - Chuyển giao" kèm theo Nghị định số 87/CP ngày 23/11/1993 nhưng quy chế này là áp dụng cho đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Sau một thời gian được áp dụng, những dự án đầu tư được thực hiện theo quy chế trên chưa đáp ứng được yêu cầu cấp bách đặt ra trong việc xây dựng, cải tạo cơ sở hạ tầng ở nước ta. Chính vì vậy, đến ngày 15/8/1998, Nghị định trên đã được thay bằng Nghị định 62/1998/NĐ-CP với nhiều điểm mới hấp dẫn hơn đối với các nhà đầu tư nước ngoài như mở rộng phạm vi điều chỉnh, quy định rõ ràng hơn về trách nhiệm các bên, đơn giản hóa các thủ tục và áp dụng những mức ưu đãi cao nhất cho chủ đầu tư.
Đối với đầu tư trong nước, ngày 18/6/1997 Chính phủ ban hành Nghị định 77/CP về quy chế đầu tư theo hình thức B.O.T trong nước. Tiếp theo là hai Thông tư số 12/BKH/QLKT ngày 27/8/1997 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư và số 06/BXD-CSKD ngày 25/9/1997 của Bộ Xây dựng được ban hành hướng dẫn một số điều của quy chế đầu tư theo Nghị định 77/CP. Những văn bản trên đây là những căn cứ pháp lý để thực hiện những dự án đầu tư theo hình thức B.O.T trong nước, mở ra một hình thức kinh doanh mới đối với các thành phần kinh tế của nước ta.
Dự án Xây dựng - Kinh doanh - Chuyển giao (viết tắt theo tiếng Anh là B.O.T - Building - Operation - Transfer) là dự án đầu tư xây dựng công trình, tổ chức quản lý và kinh doanh có thu phí các dịch vụ sử dụng công trình với thời hạn dự tính thu hồi đủ vốn và thu được lợi nhuận. Sau khi kết thúc thời hạn hợp đồng thì công trình đó được chuyển giao không bồi hoàn cho Nhà nước để tiếp tục quản lý và sử dụng.
Như vậy, quy trình để thực hiện một dự án đầu tư theo hình thức BOT trải qua 3 giai đoạn chính :
- Xây dựng công trình: ở giai đoạn này, nhà đầu tư sử dụng vốn của mình và vốn đi vay để đầu tư xây dựng công trình, tổ chức xây dựng và quản lý việc xây dựng công trình theo thiết kế đã được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền phê duyệt. Đối với mỗi dự án B.O.T, theo quy định của pháp luật Việt Nam, vốn góp của doanh nghiệp B.O.T (doanh nghiệp làm chủ đầu tư, tổ chức quản lý xây dựng và kinh doanh một hoặc một số dự án B.O.T) phải đạt mức tối thiểu bằng 30% tổng mức vốn đầu tư thực hiện dự án, số vốn còn lại sẽ là vốn vay hoặc một phần là vốn góp của ngân sách Nhà nước.
- Kinh doanh: Sau khi xây dựng xong công trình, doanh nghiệp B.O.T sẽ tiến hành vận hành công trình và thu phí sử dụng công trình (hoặc bán sản phẩm của công trình) trong một khoảng thời gian thỏa thuận trong hợp đồng. Thời gian vận hành công trình mà doanh nghiệp B.O.T được phép khai thác tùy thuộc vào từng dự án, thường là từ 10-50 năm. Ví dụ, thời gian vận của dự án đường hầm qua eo biển Anh-Pháp lên tới 55 năm. Trong khi lập dự án, chủ đầu tư luôn tính toán để thời gian này đủ để vận hành đảm bảo thu hồi vốn và có lãi cho mình.
- Chuyển giao công trình: Sau khi kết thúc thời gian vận hành công trình, doanh nghiệp B.O.T sẽ tiến hành các thủ tục bàn giao (không bồi hoàn vì doanh nghiệp đã thu hồi đủ vốn đầu tư và có lãi) công trình cho cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Dĩ nhiên, trước khi bàn giao công trình, doanh nghiệp B.O.T phải thực hiện đầy đủ công việc bảo dưỡng, sửa chữa máy móc thiết bị của công trình, đảm bảo công trình sẽ tiếp tục vận hành trong trạng thái tốt nhất có thể.
Như vậy, thực hiện dự án đầu tư theo hình thức B.O.T được coi như thực hiện bằng hợp đồng giữa Nhà nước và các thành phần kinh tế trong nước, trong đó cả hai bên đều có lợi. Nhà nước có lợi là thực hiện được mục tiêu, kế hoạch phát triển một số lĩnh vực trọng tâm của nền kinh tế mà không phải dùng đến vốn ngân sách, còn bên thực hiện dự án thì có thể thu được lợi nhuận từ dự án.
2. Trình tự đầu tư dự án B.O.T trong nước.
Theo Quy chế đầu tư theo hình thức hợp đồng xây dựng - kinh doanh - chuyển giao (B.O.T) áp dụng cho đầu tư trong nước và 2 Thông tư hướng dẫn một số điều trong quy chế, quá trình đầu tư dự án theo hình thức B.O.T trong nước gồm các bước sau :
Công bố danh mục các dự án B.O.T trong nước.
Hàng năm, căn cứ vào quy hoạch và mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, Chính phủ, ủy ban nhân dân tỉnh thành phố trực thuộc Trung ương sẽ công bố danh mục các dự án B.O.T để kêu gọi đầu tư, khuyến khích doanh nghiệp và cá nhân đề xuất dự án đầu tư để đưa vào danh mục dự án B.O.T. Phạm vi công bố dự án B.O.T trên các phương tiện thông tin đại chúng phụ thuộc vào tính chất và quy mô của dự án đầu tư, nếu là dự án thuộc nhóm A thì được công bố trên phạm vi cả nước còn nếu là dự án nhóm B và C thì được công bố trong phạm vi địa phương.
Danh mục các dự án B.O.T được xác định căn cứ vào quy hoạch phát triển vùng hay ._.ngành và mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội dài hạn hay ngắn hạn. Các dự án B.O.T phải phù hợp với quy hoạch phát triển vùng hay ngành vì mỗi vùng, ngành đều có những đặc điểm về tự nhiên, kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội hay có tính đặc thù nào đó. Do vậy, không phải dự án nào thực hiện ở đâu cũng được mà chỉ có thể thực hiện ở những địa phương nhất định hoặc trong một ngành nhất định nhằm mục tiêu phát triển địa phương đó hay ngành đó. Nếu các dự án B.O.T không được hình thành từ mục tiêu, quy hoạch đã xác định thì sẽ dẫn đến đầu tư sai lầm, làm giảm hiệu quả của dự án, gây lãng phí tiền của và công sức cho xã hội, thậm chí còn cản trở quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Danh mục các dự án B.O.T trong nước bao gồm các dự án đầu tư xây dựng và kinh doanh các công trình kết cấu hạ tầng kinh tế -xã hội, sản xuất kinh doanh dịch vụ công cộng và thuộc các lĩnh vực ưu tiên, khuyến khích thực hiện của Nhà nước như sau:
Quốc lộ, đường liên tỉnh, liên huyện.
Cầu, cầu cảng, bến cảng biển và cảng sông, bến phà, bến xe.
Kho tàng và phương tiện bảo quản hàng hóa, chợ hoặc trung tâm thương mại.
Khai thác và cung cấp nước sạch.
Hệ thống xử lý chất thải, nước thải ở thành phố, khu công nghiệp tập trung, khu dân cư.
Sản xuất và phân phối sử dụng điện.
Khu công viên, vui chơi, giải trí; trung tâm thể thao văn hóa.
Trường học, trường đào tạo dạy nghề, bệnh viện, phòng khám chữa bệnh.
Xây dựng nhà ở.
Sản xuất kinh doanh dịch vụ công cộng.
Các lĩnh vực khác có lợi cho nền kinh tế.
Đây là những lĩnh vực cần được ưu tiên phát triển bởi vì đó là những lĩnh vực thuộc kết cấu hạ tầng của nền kinh tế, xã hội, chúng có tác dụng thúc đẩy các lĩnh vực khác phát triển. Chính những yêu cầu, đòi hỏi của nền kinh tế sẽ tạo đà cho sự phát triển, mở rộng các dự án B.O.T trong nước.
Đăng ký thực hiện các dự án B.O.T trong nước
Căn cứ vào danh mục các dự án B.O.T được công bố và khả năng về tài chính cũng như chuyên môn kỹ thuật của mình, doanh nghiệp, cá nhân muốn đầu tư thực hiện dự án B.O.T sẽ gửi đến cơ quan Nhà nước có thẩm quyền một bộ hồ sơ xin đăng ký thực hiện dự án B.O.T bao gồm:
Bản tự giới thiệu về khả năng chuyên môn, tài chính, kỹ thuật, kinh nghiệm; giới thiệu các nhà thầu dự định thuê để thực hiện các dịch vụ có liên quan.
Phương án huy động vốn.
Giấy tờ cam kết của các ngân hàng hoặc các nhà cấp vốn khác để thực hiện dự án B.O.T.
Báo cáo kết quả kinh doanh, bảng tổng kết tài sản của năm trước đối với doanh nghiệp đang hoạt động.
Ngoài ra, nếu cần thiết, doanh nghiệp, cá nhân còn phải cung cấp một số thông tin khác về năng lực tài chính, khả năng huy động vốn hay năng lực tổ chức quản lý của mình cho cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ký kết hợp đồng B.O.T. ở đây, cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ký kết hợp đồng B.O.T chính là Bộ quản lý ngành, ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương được Thủ tướng Chính phủ chỉ định đứng ra ký kết hợp đồng B.O.T và là cơ quan thực hiện quản lý Nhà nước hoạt động cuả công trình B.O.T đối với các dự án nhóm A, hoặc là ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương hay ủy ban nhân dân quận, huyện được ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chỉ định là cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ký kết hợp đồng B.O.T đối với các dự án nhóm B và C.
Cấp giấy xác nhận đủ năng lực thực hiện dự án B.O.T.
Sau khi nhận được bộ hồ sơ xin đăng ký thực hiện dự án B.O.T do doanh nghiệp, cá nhân muốn thực hiện dự án nộp, cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ký kết hợp đồng B.O.T sẽ xem xét và đánh giá khả năng thực hiện dự án B.O.T. Nếu chấp nhận bộ hồ sơ này là có cơ sở, cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ký kết hợp đồng B.O.T sẽ thông báo cho doanh nghiệp, cá nhân dưới hình thức giấy xác nhận đủ năng lực thực hiện dự án B.O.T còn nếu không chấp nhận thì phải nêu rõ lý do vì sao không chấp nhận. Giấy xác nhận đủ năng lực thực hiện dự án B.O.T là một điều kiện bắt buộc trong hồ sơ xin phép thành lập doanh nghiệp B.O.T mới, hay hồ sơ xin bổ sung đăng ký ngành nghề kinh doanh.
Xét duyệt hay đấu thầu chọn doanh nghiệp B.O.T hoặc thành viên sáng lập doanh nghiệp B.O.T.
Căn cứ vào danh mục các dự án B.O.T được công bố và hồ sơ xin đăng ký thực hiện dự án B.O.T của doanh nghiệp, cá nhân, cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ký kết hợp đồng B.O.T sẽ quyết định cho doanh nghiệp, cá nhân đó được thực hiện dự án. Nhưng trước khi quyết định, họ phải kiểm tra tính trung thực của các hồ sơ tài liệu cũng như mọi năng lực của doanh nghiệp, cá nhân xin thực hiện dự án B.O.T thông qua các chuyên gia kế toán về các phương diện chuyên môn, tài chính, kỹ thuật cũng như kinh nghiệm của doanh nghiệp hoặc của nhà thầu, về phương án huy động vốn, báo cáo kết quả kinh doanh và bảng tổng kết tài sản của năm trước nhằm đảm bảo cho việc thực hiện thành công dự án. Trong các điều kiện trên, vấn đề quan trọng hàng đầu là phải đảm bảo huy động đủ và kịp thời số vốn cần thiết có nghĩa là tổng số vốn đầu tư của doanh nghiệp B.O.T và số vốn được các nhà cấp vốn cam kết cung cấp ngang bằng với số vốn thực hiện dự án B.O.T, đồng thời doanh nghiệp phải có đủ cán bộ có trình độ kỹ thuật và trình độ quản lý có kiến thức, kinh nghiệm quản lý xây dựng và khai thác công trình.
Nếu chỉ có một doanh nghiệp hoặc một cá nhân xin thực hiện dự án B.O.T thì cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ký kết hợp đồng B.O.T sẽ căn cứ vào các tiêu chuẩn để xét duyệt doanh nghiệp B.O.T còn nếu có hai doanh nghiệp, nhóm doanh nghiệp, cá nhân trở lên cùng muốn thực hiện một dự án B.O.T thì sẽ phải tổ chức đấu thầu để chọn doanh nghiệp B.O.T hoặc thành viên sáng lập doanh nghiệp B.O.T.
Thành lập doanh nghiệp B.O.T mới hoặc bổ sung đăng ký ngành nghề kinh doanh.
Sau khi doanh nghiệp B.O.T hoặc thành viên sáng lập doanh nghiệp B.O.T được chọn, họ phải tiến hành làm các thủ tục về thành lập và đăng ký kinh doanh đối với doanh nghiệp B.O.T theo quy định của pháp luật. Nếu doanh nghiệp B.O.T là doanh nghiệp đã thành lập (doanh nghiệp Nhà nước, doanh nghiệp tư nhân, hợp tác xã, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, doanh nghiệp của các tổ chức chính trị xã hội) thì doanh nghiệp phải thực hiện bổ sung đăng ký kinh doanh. Còn nếu doanh nghiệp B.O.T mới sẽ được thành lập theo loại hình doanh nghiệp nào thì phải tiến hành các thủ tục đăng ký kinh doanh theo các quy định pháp luật về loại hình doanh nghiệp đó và các quy định có liên quan.
Đồng thời, sau khi được chọn làm chủ đầu tư thực hiện dự án B.O.T, doanh nghiệp B.O.T sẽ phải tiến hành lập báo cáo nghiên cứu khả thi và tiến hành các công việc chuẩn bị đầu tư. Đây là công việc rất quan trọng đối với một dự án B.O.T nói riêng và một dự án đầu tư nói chung vì báo cáo nghiên cứu khả thi sẽ tiến hành nghiên cứu chi tiết mọi khía cạnh liên quan đến dự án, từ khả năng, tiến độ thực hiện dự án, năng lực tài chính, trình độ khoa học, kỹ thuật và công nghệ cho đến những tác động môi trường sinh thái cũng như xã hội do dự án gây ra. Báo cáo nghiên cứu khả thi sẽ được trình Cơ quan có thẩm quyền phê duyệt và sau khi có ý kiến thông qua của các Bộ, ngành có liên quan nó sẽ được chính thức phê duyệt. Để có thể nhanh chóng tiến hành xây dựng công trình, doanh nghiệp B.O.T cũng phải tiến hành làm các thủ tục đền bù, di dân, xin cấp đất và giải phóng mặt bằng với chính quyền địa phương. Đây là bước chuẩn bị để doanh nghiệp B.O.T có thể nhận được đất xây dựng đường, điện và các khu phụ trợ, nhà ở cho công trình chính.
Đàm phán và thỏa thuận nội dung hợp đồng B.O.T và các hợp đồng phụ.
Cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ký kết hợp đồng B.O.T sẽ cùng với doanh nghiệp B.O.T tiến hành đàm phán và thỏa thuận nội dung hợp đồng B.O.T về các vấn đề chủ yếu sau: tính chất, quy mô của công trình, thời hạn của hợp đồng và dự án, yêu cầu thiết kế kỹ thuật công trình, các vấn đề về cấp, cho thuê, bàn giao đất xây dựng công trình, bảo vệ môi trường hay chế độ ưu đãi, quyền thế chấp và cầm cố tài sản. Đặc biệt hợp đồng B.O.T phải quy định rõ quyền và nghĩa vụ của các bên ký kết hợp đồng trong việc thực hiện xây dựng, vận hành công trình cũng như chế độ kiểm tra, giám sát công trình. Nội dung của hợp đồng B.O.T sẽ được trình các Bộ, ban, ngành có liên quan (Bộ Công nghiệp, Bộ Kế hoạch và đầu tư, Bộ Tư pháp...) để xin ý kiến đóng góp trước khi hợp đồng được ký kết chính thức.
Đồng thời với việc đàm phán về hợp đồng B.O.T, doanh nghiệp B.O.T cũng có thể tiến hành đàm phán và chuẩn bị ký kết thêm các hợp đồng phụ như hợp đồng tiêu thụ sản phẩm, hợp đồng cung cấp nguyên liệu, nhiên liệu, hợp đồng xây lắp, hợp đồng quản lý, vận hành, duy tu, bảo dưỡng và các hợp đồng khác tùy theo đặc điểm của từng dự án.
Lập, duyệt thiết kế kỹ thuật, tổng dự toán công trình và làm thủ tục xin phép và cấp giấy phép đầu tư.
Căn cứ vào thiết kế kỹ thuật sơ bộ trong báo cáo nghiên cứu khả thi đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt, doanh nghiệp B.O.T sẽ tiến hành lập hồ sơ thiết kế kỹ thuật trình cơ quan chuyên môn thẩm định về thiết kế kỹ thuật (cơ quan chức năng của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ký kết hợp đồng B.O.T). Hồ sơ thiết kế kỹ thuật bao gồm: đơn trình thẩm định thiết kế kỹ thuật, tóm tắt dự án đầu tư và văn bản phê duyệt dự án đầu tư, bản sao các văn bản thỏa thuận của cơ quan quản lý Nhà nước về phòng chống cháy nổ, bảo vệ môi trường, danh mục tiêu chuẩn kỹ thuật xây dựng, thiết kế được chấp nhận, các văn bản xác định tư cách pháp lý của tổ chức thiết kế, thuyết minh tổng hợp thiết kế kỹ thuật, tài liệu khảo sát địa hình, địa chất, thủy văn, khí hậu, môi trường, động đất ở khu vực xây dựng và các bản vẽ về công trình. Sau khi được cơ quan chuyên môn thẩm định, thiết kế kỹ thuật sẽ được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ký kết hợp đồng B.O.T phê duyệt. Đối với các dự án có quy mô lớn, thời gian xây dựng công trình tương đối dài với nhiều hạng mục công trình khác nhau, thiết kế kỹ thuật sẽ được chia thành nhiều giai đoạn để trình phê duyệt từng giai đoạn một.
Căn cứ vào tổng dự toán trong báo cáo nghiên cứu khả thi, cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cũng sẽ phê duyệt tổng dự toán cùng một lúc với thiết kế kỹ thuật sau khi tổng dự toán được thẩm định.
Để có thể chính thức được thực hiện dự án B.O.T, doanh nghiệp B.O.T phải hoàn tất các thủ tục xin cấp giấy phép đầu tư. Giấy phép đầu tư là cơ sở pháp lý quan trọng nhất để chủ đầu tư được tiến hành triển khai xây dựng, quản lý và vận hành công trình. Tùy thuộc vào từng loại dự án (A, B, C) mà cấp có thẩm quyền sẽ cấp giấy phép đầu tư dự án B.O.T sau khi nghiên cứu, xem xét và chấp thuận hồ sơ xin phép đầu tư của doanh nghiệp.
Ký kết hợp đồng B.O.T và các hợp đồng phụ.
Hợp đồng B.O.T được ký kết chính thức sau khi nội dung của hợp đồng được các Bộ, ban, ngành có liên quan nhất trí và dự án B.O.T được cấp giấy phép đầu tư. Hợp đồng B.O.T có hiệu lực kể từ khi được ký kết chính thức và chấm dứt hiệu lực với một trong các lý do: kết thúc thời hạn đã ghi trong hợp đồng, thay đổi về luật gây bất lợi cho doanh nghiệp B.O.T và các bên không đồng ý về biện pháp điều chỉnh, doanh nghiệp B.O.T mất khả năng thanh toán, doanh nghiệp B.O.T không được cấp giấy chứng nhận về giao đất hoặc thuê đất đúng thời hạn... Sau khi hợp đồng B.O.T được ký kết đối với các dự án nhóm A, doanh nghiệp B.O.T phải đặt cọc một khoản tiền bằng 0,5% tổng số vốn đầu tư tại ngân hàng do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ký kết hợp đồng B.O.T chỉ định, còn đối với dự án nhóm B và C thì khoản tiền này bằng 1% tổng số vốn đầu tư. Số tiền trên chỉ được rút ra sau khi đã khởi công và đầu tư xây dựng công trình B.O.T đạt trên 1% tổng số vốn đầu tư của dự án và được gộp thành vốn thực hiện dự án B.O.T. Đồng thời, công trình xây dựng của dự án B.O.T cũng được miễn giấy phép xây dựng và có thể được triển khai sau khi hợp đồng B.O.T được ký kết, được cấp giấy chứng nhận về thuê đất hoặc giao đất.
Tùy thuộc vào từng dự án B.O.T, các hợp đồng phụ như hợp đồng tiêu thụ sản phẩm, hợp đồng xây lắp, hợp đồng cung cấp nguyên, nhiên liệu, thiết bị, máy móc... cũng sẽ được ký kết chính thức sau khi đàm phán giữa các bên kết thúc.
Xây dựng công trình
Đây là giai đoạn dự án được chính thức xây dựng, thi công những hạng mục chính của công trình B.O.T. Trong giai đoạn này, doanh nghiệp B.O.T có thể quyết định tự thực hiện khảo sát, thiết kế, thi công xây lắp hay đấu thầu, chỉ định thầu để thực hiện các công việc trên. Đồng thời doanh nghiệp B.O.T và các nhà thầu phụ thực hiện dự án B.O.T được miễn thuế nhập khẩu đối với thiết bị, máy móc, phương tiện vận tải chuyên dụng, nguyên, nhiên, vật liệu, vật tư... sử dụng cho khảo sát, thiết kế, thi công xây dựng công trình B.O.T; được ưu tiên sử dụng các công trình công cộng như đường giao thông và được ưu tiên cung cấp các dịch vụ công ích như điện, nước... để xây dựng công trình.
Trong suốt quá trình xây dựng công trình, doanh nghiệp B.O.T cùng với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ký kết hợp đồng B.O.T thực hiện việc giám sát kỹ thuật và chất lượng công trình: theo dõi, giám sát thi công và nghiệm thu các hạng mục công trình và toàn bộ công trình theo đúng thiết kế đã được phê duyệt. Trước khi công trình có thể được đưa vào sử dụng, công trình phải được nghiệm thu toàn bộ và kịp thời khắc phục những sai sót trong việc xây dựng, nghiệm thu công trình.
Vận hành, khai thác công trình.
Đây là giai đoạn dài nhất và là giai đoạn mà chủ đầu tư có thể thu hồi vốn đầu tư và thu lợi nhuận từ công trình B.O.T. Trong giai đoạn này, doanh nghiệp B.O.T có thẩm quyền quản lý và kinh doanh theo cơ cấu tổ chức và phương thức quản lý do mình quyết định. Mức giá, phí của sản phẩm, dịch vụ và các khoản thu khác do doanh nghiệp B.O.T quyết định nhưng phải phù hợp với điều kiện cụ thể của thị trường, không được vượt quá khung giá do Nhà nước quy định và nếu sản phẩm hay dịch vụ này do Nhà nước độc quyền cung ứng và phân phối thông qua các Tổng công ty Nhà nước thì mức giá, phí của sản phẩm, dịch vụ sẽ được thỏa thuận và ghi trong hợp đồng mua bán sản phẩm nhưng không được vượt quá mức giá quy định của Nhà nước.
Trong giai đoạn vận hành, khai thác công trình, để doanh nghiệp B.O.T có thể sớm hoàn vốn và thu lãi từ công trình B.O.T, Chính phủ cho phép doanh nghiệp B.O.T được hưởng những ưu đãi như: miễn, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp trong một số năm đầu vận hành công trình, miễn tiền thuê đất thực hiện xây dựng công trình, thế chấp tài sản, quyền sử dụng đất để vay vốn thực hiện dự án B.O.T, miễn thuế nhập khẩu máy móc thiết bị của dự án...
Chuyển giao công trình.
Sau khi hết thời hạn vận hành, khai thác công trình đã ghi trong hợp đồng B.O.T, doanh nghiệp B.O.T phải chuyển giao không bồi hoàn cho Nhà nước tiếp tục quản lý và sử dụng. Nhưng trước khi công trình được chuyển giao, doanh nghiệp B.O.T phải tiến hành các công việc kiểm kê tài sản và định giá lại giá trị tài sản cố định, bảo dưỡng và sửa chữa máy móc, thiết bị của công trình, đảm bảo công trình khi được chuyển giao sẽ tiếp tục hoạt động trong tình trạng tốt nhất.
Trình tự đầu tư các dự án BOT trong nước.
Công bố danh mục các dự án B.O.T trong nước
Đăng ký thực hiện các dự án B.O.T trong nước
Cấp giấy xác nhận đủ năng lực thực hiện dự án B.O.T
Xét duyệt hay đấu thầu chọn doanh nghiệp B.O.T
Lập và duyệt thiết kế kỹ thuật, tổng dự toán công trình
Đàm phán và thỏa thuận về nội dung hợp đồng B.O.T
Đàm phán về các hợp đồng phụ
Thành lập doanh nghiệp B.O.T hay bổ sung đăng ký kinh doanh
Làm thủ tục xin phép và cấp giấy phép đầu tư
Ký các hợp đồng phụ
Ký hợp đồng B.O.T
Xây dựng công trình
Vận hành, khai thác công trình
Chuyển giao công trình
3. Ưu điểm của hình thức đầu tư B.O.T trong nước.
3.1. Giảm sức ép về vốn đầu tư cho ngân sách Nhà nước
Có thể nói, phát triển cơ sở hạ tầng là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu đối với bất cứ quốc gia nào trên thế giới, đặc biệt là đối với những nước có cơ sở hạ tầng yếu kém như nước ta. Nhưng việc phát triển cơ sở hạ tầng này lại không hề đơn giản chút nào vì vốn đầu tư cho việc này thường rất lớn và thời gian thu hồi vốn đối với những công trình lớn có thể lên tới hàng chục năm, không một nhà đầu tư tư nhân nào muốn thực hiện những dự án như thế. Do đó, vốn đầu tư cho những công trình cơ sở hạ tầng thường là vốn ngân sách Nhà nước. Đối với một nước có nguồn vốn ngân sách Nhà nước luôn trong tình trạng khó khăn như nước ta, vốn cho việc bảo dưỡng, sửa chữa cơ sở hạ tầng còn chưa đủ chứ chưa nói gì đến vốn để xây dựng những công trình mới. Giữa lúc đó, các dự án đầu tư theo hình thức B.O.T được xem là một trong những biện pháp hàng đầu nhằm huy động vốn xây dựng cơ sở hạ tầng, nếu không ngân sách Nhà nước không thể lấy đâu ra số vốn đầu tư khổng lồ cho những công trình đó. Chẳng hạn dự án đường hầm cảng Sydney (úc) dài 2,3 km có tổng số vốn đầu tư 550 triệu USD, dự án nhà máy điện Shajiao (Trung Quốc) có tổng số vốn đầu tư 517 triệu USD hay dự án đường cao tốc Bắc-Nam của Malaixia có tổng vốn đầu tư là 1,8 tỷ USD và một trong những dự án lớn nhất là dự án đường hầm qua eo biển Anh - Pháp có tổng số vốn đầu tư lên tới 9,2 tỷ USD. Với hình thức đầu tư B.O.T, Chính phủ có thể huy động được vốn từ các thành phần kinh tế trong nước cũng như vốn từ các tổ chức tín dụng nước ngoài, bù lại Chính phủ có những chính sách ưu đãi dành cho chủ đầu tư để dự án có thể thu hồi vốn nhanh và thu lợi nhuận cao. Để thực hiện được dự án B.O.T, vốn góp của chủ đầu tư phải chiếm một tỷ lệ nhất định tổng vốn đầu tư (ở Việt Nam tỷ lệ này là 30%), ngoài ra vốn thực hiện dự án còn có thể là vốn góp của ngân sách Nhà nước (nếu có) hay vốn vay ngân hàng. Trong thực tế, nguồn vốn chủ yếu được sử dụng để thực hiện dự án là vốn vay ngân hàng (có thể chiếm tới 80-90% vốn đầu tư dự án B.O.T). Ví dụ dự án đường hầm qua eo biển Anh-Pháp có tổng vốn đầu tư 9,2 tỷ USD với vốn vay ngân hàng hơn 7,4 tỷ USD, hay dự án nhà máy điện Shajiao (Trung Quốc) có tổng vốn đầu tư 517 triệu USD với 500 triệu USD là vốn vay từ 17 ngân hàng quốc tế.
Như vậy, thông qua hình thức đầu tư B.O.T, ngân sách Nhà nước sẽ được giảm áp lực về vốn đầu tư cho phát triển cơ sở hạ tầng, dành vốn đầu tư vào những dự án cần thiết trước mắt trong những lĩnh vực thiết yếu khác của nền kinh tế.
3.2. Phát huy năng lực của mọi thành phần kinh tế trong nước.
Mỗi một thành phần kinh tế trong nước đều có những ưu thế nhất định về vốn, trình độ khoa học kỹ thuật, năng lực quản lý... Chính vì vậy, Nhà nước cần quan tâm và khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia vào công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa của đất nước. Bằng hình thức đầu tư B.O.T, các doanh nghiệp, cá nhân sẽ dựa trên khả năng về vốn cũng như kinh nghiệm, kỹ thuật, quản lý của mình để tìm, lập và xin phép thực hiện dự án B.O.T. Điều này là hết sức cần thiết vì theo tính toán của ngân hàng thế giới, số vốn nằm trong dân chúng chưa được huy động đầu tư phát triển kinh tế ở Việt Nam vào khoảng 3-4 tỷ USD, nếu số vốn này được sử dụng vào việc phát triển sản xuất kinh doanh thì nền kinh tế nước ta sẽ có những bước phát triển đáng kể. Hơn nữa, rất nhiều doanh nghiệp nước ta, đặc biệt là các Tổng công ty lớn, có đội ngũ cán bộ công nhân viên có trình độ kỹ thuật cao, có nhiều kinh nghiệm cũng như các phương tiện xe máy, thiết bị hiện đại có khả năng tham gia thực hiện những dự án lớn của đất nước. Và chỉ có thông qua việc thực hiện những dự án B.O.T, các doanh nghiệp trên mới tận dụng, phát huy được năng lực sẵn có của mình, đồng thời lại có thể nâng cao được trình độ kỹ thuật, trình độ tay nghề cũng như trình độ về quản lý của cán bộ công nhân viên doanh nghiệp mình.
3.3. Xây dựng, phát triển cơ sở hạ tầng.
Mục tiêu đầu tiên của hình thức đầu tư B.O.T chính là xây dựng, phát triển cơ sở hạ tầng mà không phải dùng vốn ngân sách Nhà nước. Các dự án B.O.T khi được hoàn thành sẽ đóng góp vào việc mở rộng và nâng cấp hệ thống đường bộ, sân bay, bến cảng, đường sắt cũng như hệ thống cấp thoát nước và cung cấp điện cho nền kinh tế. Đây là những lĩnh vực hết sức quan trọng đối với nền kinh tế vì nó thể hiện trình độ phát triển của mỗi quốc gia. Sự yếu kém của những lĩnh vực đó là nguyên nhân chính kìm hãm sự phát triển của một quốc gia, gây cản trở cho quá trình hội nhập vào nền kinh tế khu vực cũng như toàn cầu. Thông qua hình thức đầu tư B.O.T, Nhà nước vừa không phải cấp vốn đầu tư, vừa xây dựng được cơ sở hạ tầng cho nền kinh tế và sau một khoảng thời gian nhất định thì được chuyển giao không bồi hoàn công trình B.O.T để tiếp tục quản lý và sử dụng.
3.4. Tạo công ăn việc làm cho người lao động..
Đối với những nước có lực lượng lao động dồi dào như nước ta thì việc làm thế nào để có thể giải quyết được công ăn việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp luôn là vấn đề được Nhà nước ưu tiên hàng đầu. Một trong những biện pháp có thể áp dụng để giải quyết vấn đề trên là khuyến khích, phát triển các dự án đầu tư theo hình thức B.O.T trong nước. Việc thực hiện dự án B.O.T không những giải quyết được vấn đề công ăn việc làm cho doanh nghiệp làm chủ đầu tư mà còn tạo việc làm cho nhân dân địa phương nơi dự án được thực hiện. Như vậy, có thể nói hình thức đầu tư B.O.T là một hình thức đầu tư có ý nghĩa rất lớn trong việc giải quyết công ăn việc làm cho người lao động trong tình trạng dư thừa lực lượng lao động ở nước ta hiện nay.
3.5. Cải thiện môi trường sản xuất và đầu tư, thúc đẩy phát triển kinh tế địa phương.
Một trong những nguyên nhân khiến các nhà đầu tư nước ngoài ít đầu tư vào Việt Nam là môi trường đầu tư ở Việt Nam không được hấp dẫn so với nhiều nước khác trong khu vực cũng như trên thế giới, đặc biệt là điều kiện về cơ sở hạ tầng. Chính vì vậy, việc thực hiện các dự án B.O.T sẽ giúp cho việc nâng cấp, mở rộng cơ sở hạ tầng, cải thiện môi trường sản xuất và đầu tư, tạo điều kiện thu hút hơn nữa đầu tư trong nước cũng như đầu tư nước ngoài, góp phần thúc đẩy kinh tế đất nước phát triển. Hơn nữa, các dự án B.O.T sẽ có những tác động tích cực tới sự phát triển kinh tế của địa phương nơi dự án được thực hiện, đặc biệt là những vùng sâu, vùng xa còn có nhiều khó khăn so với các vùng khác. Các dự án B.O.T ngoài việc thực hiện mục tiêu xây dựng cơ sở hạ tầng cho Nhà nước còn giải quyết công ăn việc làm, tăng thu nhập cho người dân địa phương, đồng thời còn góp phần làm tăng tổng giá trị sản xuất của địa phương, tạo điều kiện phát triển sản xuất cho các thành phần kinh tế ở địa phương.
4. Vai trò, ý nghĩa của hình thức đầu tư B.O.T trong nước với nền kinh tế và ngành điện ở Việt Nam.
Ưu điểm lớn nhất của hình thức đầu tư B.O.T trong nước là khả năng huy động được vốn cũng như năng lực về quản lý, về khoa học kỹ thuật của mọi thành phần kinh tế, mọi cá nhân để thực hiện, mở rộng các dự án phát triển cơ sở hạ tầng của đất nước. Do vậy, các dự án B.O.T có vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển kinh tế của đất nước. Các dự án B.O.T được thực hiện bằng khả năng về vốn, kỹ thuật cũng như về quản lý của các nhà đầu tư trong nước là sự phát huy nội lực, khai thác tiềm năng từ nền kinh tế nước nhà. Thông qua thực hiện các dự án theo hình thức đầu tư B.O.T, các nhà đầu tư buộc phải tính toán hiệu quả kinh tế một cách chính xác, do đó phải nghiên cứu, hoàn thiện và áp dụng các phương pháp quản lý tối ưu, phải đầu tư đổi mới kỹ thuật, áp dụng những công nghệ tiên tiến. Như vậy, hình thức B.O.T sẽ góp phần nâng cao trình độ quản lý sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, cá nhân Việt Nam hiện nay cũng như trong tương lai, đồng thời đẩy nhanh tốc độ công nghiệp hóa - hiện đại hóa và sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam.
Hình thức đầu tư B.O.T trong nước còn đặc biệt có ý nghĩa trong việc vừa tháo gỡ khó khăn cho ngân sách Nhà nước về vốn đầu tư cho cơ sở hạ tầng, lại vừa hạn chế được các khoản vay nước ngoài. Có thể nói đây là một ưu thế riêng có của hình thức đầu tư B.O.T trong nước vì nó góp phần ổn định được tỷ giá, giảm thâm hụt cán cân thanh toán và bội chi ngân sách Nhà nước. Và nhất là thông qua việc hạn chế các khoản vay nước ngoài để xây dựng cơ sở hạ tầng, nền kinh tế đất nước cũng giảm được sự phụ thuộc về kinh tế dẫn đến giảm sự phụ thuộc về chính trị, tránh được tình trạng mà hầu hết các nước đang phát triển trong khu vực cũng như trên thế giới đang mắc phải hiện nay.
Việc thực hiện các dự án theo hình thức đầu tư B.O.T còn có ý nghĩa trong việc thực hiện các chủ trương đường lối phát triển kinh tế của Đảng và Nhà nước ta. Nền kinh tế nước ta là nền kinh tế thị trường nên không tránh khỏi sự cạnh tranh giữa các thành phần kinh tế, dẫn đến độc quyền gây cản trở cho sự phát triển kinh tế. Hình thức đầu tư B.O.T ra đời sẽ tạo môi trường cạnh tranh hoàn hảo, ngăn chặn độc quyền vì luôn luôn có sự can thiệp của Nhà nước trong việc thực hiện các dự án B.O.T trong những lĩnh vực nào, hình thức quản lý như thế nào.
Đối với ngành điện, việc thực hiện các dự án B.O.T trong nước phải đi trước một bước vì điện có vai trò rất quan trọng đối với nền kinh tế. Trong những năm vừa qua, đất nước ta đã xây dựng được nhiều nhà máy điện, nhất là các nhà máy thủy điện lớn, song nền kinh tế vẫn ở trong tình trạng thiếu điện, đặc biệt là vào những thời kì cao điểm trong năm. Chính vì vậy, trong tương lai chúng ta phải xây dựng thêm nhiều nhà máy điện vừa và nhỏ bên cạnh những nhà máy lớn đã triển khai để đáp ứng đủ nhu cầu về điện cho các khu công nghiệp, khu chế xuất, các vùng kinh tế mới, khu vực thành thị cũng như khu vực nông thôn. Đây thực sự là một thách thức lớn đối với ngành điện nước ta vì vốn đầu tư cho các dự án điện thường rất lớn, trong khi nợ nước ngoài để đầu tư vào ngành điện đã lên tới 2 tỷ USD. Do đó, khuyến khích các thành phần kinh tế trong nước tham gia đầu tư thực hiện các dự án điện trở thành định hướng mới về chiến lược phát triển của ngành điện trong thời gian tới, trong đó việc thực hiện các dự án điện theo hình thức dự án B.O.T trong nước là một biện pháp có tính khả thi cao trong bối cảnh hiện nay của ngành điện.
Tuy nhiên, ngoài những lợi ích do việc thực hiện các dự án B.O.T đem lại, các nhà đầu tư cũng phải xem xét đến những bất lợi khi thực hiện dự án vì quá trình thực hiện dự án B.O.T phức tạp và mất nhiều thời gian, có nhiều Bộ, ban, ngành và địa phương có liên quan đến việc thực hiện dự án và có nhiều loại hợp đồng cần đàm phán, thỏa thuận và ký kết khi thực hiện dự án. Và đặc biệt là phải xét đến những rủi ro khi thực hiện dự án vì thời gian xây dựng và vận hành dự án thường kéo dài, có thể gây tác động làm giảm hiệu quả của dự án cả về mặt kinh tế và xã hội.
chương II
thực trạng các dự án thuỷ điện đầu tư theo hình thức b.o.t trong nước tại tổng công ty xây dựng sông đà
I. tình hình chung về Tổng công ty Xây dựng Sông Đà.
1. Quá trình hình thành và phát triển của Tổng công ty Xây dựng Sông Đà.
Tổng công ty Xây dựng Sông Đà được thành lập từ năm 1960, tiền thân là Công ty Xây dựng thuỷ điện Thác Bà. Năm 1975, được Nhà nước giao nhiệm vụ xây dựng công trình thuỷ điện Hoà Bình, Tổng công ty được mang tên : “Công ty xây dựng thủy điện Sông Đà”, đến năm 1978 được đổi tên thành “Tổng công ty xây dựng thuỷ điện Sông Đà”. Ngày 15 tháng 11 năm 1995, theo Quyết định số 966/BXD-TCLĐ của Bộ Xây dựng về việc thành lập Tổng công ty Nhà nước, Tổng công ty được thành lập lại với tên gọi là “Tổng công ty Xây dựng Sông Đà”, tên giao dịch quốc tế là: “Song Da Construction Corporation”.
Trải qua 40 năm xây dựng và phát triển, Tổng công ty Xây dựng Sông Đà đã và đang xây dựng các công trình thuỷ điện lớn, quan trọng của nước ta như: Thuỷ điện Thác Bà (108 MW) Hoà Bình (1.920 MW), YaLy (720 MW), Sông Hinh (66 MW), Vĩnh Sơn (10 MW), Hàm Thuận (300 MW)... Ngoài ra, Tổng công ty Xây dựng Sông Đà còn xây dựng nhiều công trình công nghiệp, công trình dân dụng lớn như: Nhà máy giấy Bãi Bằng, Nhà máy xi măng Bút Sơn, Viện xã hội học Campuchia, chợ Đông Hà... và các công trình giao thông tiêu chuẩn quốc tế: Quốc lộ 1A, đường cao tốc Láng Hạ - Hoà Lạc...
Với tổng số cán bộ, chuyên gia, kỹ sư, công nhân kỹ thuật là 17500 người, trên 1400 xe máy thi công hiện đại do Mỹ, Nhật, Phần Lan, Thuỵ Điển, Hàn Quốc, Nga sản xuất và những kinh nghiệm quý báu được tích luỹ qua các công trình, Tổng công ty Xây dựng Sông Đà đã trở thành doanh nghiệp hàng đầu trong ngành xây dựng Việt Nam nói chung cũng như xây dựng thuỷ điện nói riêng.
2. Các lĩnh vực hoạt động sản xuất kinh doanh của Tổng công ty xây dựng Sông Đà.
Tổng công ty Xây dựng Sông Đà là một Doanh nghiệp Nhà nước dưới sự quản lý của Bộ Xây dựng, được Bộ Xây dựng, Bộ Thương Mại và Bộ Lao động Thương binh và Xã hội cho phép hoạt động trên các lĩnh vực sau:
- Xây dựng các công trình thuỷ điện, thuỷ lợi, thuỷ công.
- Xây lắp đồng bộ các xưởng, nhà máy, tổ hợp sản xuất công nghiệp.
- Xây dựng, kinh doanh và phát triển nhà ở, trụ sở cơ quan, khách sạn
- Xây dựng các công trình giao thông: đường bộ, sân bay, bến cảng cầu trên đường bộ...
- Xây dựng các công trình ngầm, các hệ thống giao thông ngầm, gia cố nền móng, xử lý hang và các tầng đá nứt...
- Xây lắp đồng bộ các hệ thống đường dây và trạm điện cao - trung - hạ thế, các hệ thống điện công nghiệp và dân dụng.
- Lắp đặt máy móc và các thiết bị công nghệ.
- Sửa chữa và hoán cải xe máy, sản xuất các phụ tùng cơ khí đúc các sản phẩm thép chịu mòn, chống gỉ, gia công các kết cấu kim loại - Vận tải đường thuỷ - đường bộ: hàng hóa, thiết bị siêu trường - siêu trọng.
- Tư vấn - khảo sát - thiết kế và giám sát thi công các công trình công nghiệp dân dụng, giao thông.
- Sản xuất các sản phẩm công nghiệp và dân dụng.
- Đầu tư xây dựng và khai thác các công trình thuỷ điện.
- Xuất nhập khẩu vật liệu xây dựng, hàng may mặc, thủ công mỹ nghệ, máy móc thiết bị xây dựng...
- Tổ chức hoạt động đưa người Việt Nam đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài.
3. Cơ cấu tổ chức của Tổng công ty Xây dựng Sông Đà.
Tổng công ty Xây dựng Sông Đà là một doanh nghiệp Nhà nước hoạt động chủ yếu trên lĩnh vực xây dựng, bao gồm 23 đơn vị thành viên, trong đó có 17 đơn vị hạch toán kinh doanh độc lập, 3 đơn vị hạch toán phụ thuộc, 3 đơnvị hành chính sự nghiệp. Kể từ khi được thành lập lại (15/11/1995). Căn cứ vào các lĩnh vực được Bộ Xây dựng, Bộ Thương Mại, Bộ Lao động Thương binh và Xã hội cho phép, căn cứ vào tình hình phát triển sản xuất kinh doanh cho phù hợp với xu thế thị trường, Tổng công ty đã hình thành._. sắp tới là Nà Lơi, Nà Loà v.v... , Tổng công ty vẫn chưa hoàn toàn sử dụng hết số lượng xe máy thiết bị hiện có của mình. Vì vậy vào lúc này, Tổng công ty cần tính toán tận dụng tối đa số lượng xe máy thiết bị hiện có, tái đầu tư, cải tiến công nghệ sử dụng một số loại xe máy, thiết bị cũ để tiết kiệm vốn đầu tư, và điều quan trọng nhất là Tổng công ty nên hạn chế đầu tư máy móc thiết bị mới, tránh tình trạng đầu tư tràn lan dẫn tới lãng phí vì không sử dụng hết số đầu xe máy hoạt động. Trong tương lai, với sự phát triển của các công ty thuê mua tài chính ở Việt Nam, Tổng công ty cần nghiên cứu tính toán đến phương án thuê tài chính để tăng cường số lượng xe máy, thiết bị của mình, tránh tình trạng nợ ngân hàng quá nhiều dẫn đến phải trả lãi vay nhiều làm giảm lợi nhuận của Tổng công ty.
5. Giải pháp về tổ chức, quản lý điều hành sản xuất, đào tạo cán bộ công nhân viên.
Hoàn thiện bộ máy tổ chức, quản lý.
Đối với các doanh nghiệp ở nước ta, trình độ về tổ chức, quản lý điều hành sản xuất luôn là một vấn đề yếu kém vì hầu hết các doanh nghiệp vẫn chưa thoát khỏi cơ chế quản lý quan liêu bao cấp, chưa thực sự thích nghi được với cơ chế thị trường. Tổng công ty Xây dựng Sông Đà cũng không phải là một ngoại lệ, những hạn chế về mặt tổ chức, quản lý nhất là quản lý một dự án đầu tư theo hình thức B.O.T là một nguyên nhân quan trọng làm chậm tiến độ thi công công trình thuỷ điện Cần Đơn. Do đó, ngoài việc thành lập công ty B.O.T Cần Đơn thay mặt Tổng công ty trực tiếp điều hành quản lý dự án với một số những quyền hạn và nghĩa vụ nhất định, Tổng công ty cần chấn chỉnh lại bộ máy quản lý, điều hành, sắp xếp lại các phòng ban cho phù hợp với yêu cầu sản xuất kinh doanh, hoàn thiện bộ máy tổ chức của các doanh nghiệp thành viên tham gia thực hiện dự án. Trong việc lựa chọn cán bộ điều hành dự án, Tổng công ty cũng phải lựa chọn các cán bộ có năng lực về quản lý, thi công và có phẩm chất phù hợp với tính chất của dự án B.O.T. Công ty B.O.T nên được tổ chức thành các bộ phận (phòng, ban, tổ v.v... ) theo chức năng, nhiệm vụ rõ ràng và phải ổn định lâu dài để đảm bảo quản lý đầu tư vận hành dự án một cách thuận lợi và có hiệu quả. Ngoài ra, trong quá trình thực hiện các dự án, Tổng công ty cần áp dụng theo mô hình quản lí dự án hiện đại, đảm bảo cho dự án được hoàn thành theo đúng tiến độ, chất lượng và chi phí.
Trong thi công công trình, Tổng công ty cần phối hợp chặt chẽ công ty B.O.T Cần Đơn và các đơn vị thi công với nhau, chỉ đạo các đơn vị đó căn cứ vào mục tiêu, tiến độ thi công phát huy tính độc lập tự chủ trong công việc tránh tình trạng dựa dẫm, bao cấp, nhưng không được vượt quá thẩm quyền giải quyết, việc phối hợp phải được thực hiện tốt giữa các đơn vị từ phân công nhiệm vụ, cho thuê xe máy, cho thuê nhân công cho đến giải quyết những khó khăn vướng mắc nẩy sinh trong khi thi công, đảm bảo khả năng thanh toán và tiến độ thi công công trình, phát huy tính chủ động và tăng cường trách nhiệm của các đơn vị thành viên.
Chấp hành đầy đủ các chế độ, chính sách của Nhà nước.
Trong việc xác định đơn giá và giá trị dự toán cho công trình, nhất là đối với các dự án B.O.T định đầu tư trong tương lai, Tổng công ty cần phải tìm hiểu kỹ càng những vấn đề có liên quan như giá cả, thông tin để tính toán chính xác được hiệu quả của dự án. Tổng công ty có thể thực hiện hạch toán giá thành ở mỗi chi nhánh, xí nghiệp, đội trực thuộc các đơn vị thành viên tham gia thực hiện dự án, làm cơ sở hạch toán sản xuất kinh doanh ở các đơn vị thành viên. Đồng thời, các đơn vị cơ sở trên phải lập kế hoạch giá thành và hạch toán đầy đủ mọi chi phí trong sản xuất trên cơ sở so sánh thu chi thực tế, nâng cao quyền làm chủ, tính chịu trách nhiệm đối với kết quả sản xuất kinh doanh và quyền lợi của người lao động, để từ đó tìm ra những biện pháp tiết kiệm được giá trị dự toán cho công trình. Mặt khác, Tổng công ty phải chấp hành triệt để các chính sách, chế độ của Nhà nước trong các mặt quản lý và hạch toán kinh doanh như chế độ khấu hao, VAT, các chi phí quản lý v.v... hay chế độ ưu đãi đối với dự án B.O.T trong nước.
Nâng cao năng lực đấu thầu, đàm phán ký kết hợp đồng kinh tế.
Trong việc đấu thầu thực hiện dự án B.O.T, thương thảo và ký kết các hợp đồng B.O.T, hợp đồng phụ, Tổng công ty cần tổ chức, xây dựng được bộ máy tiếp thị đấu thầu có đủ năng lực trong chiếm lĩnh, thị trường xây dựng các công trình thuỷ điện theo hình thức B.O.T trong nước, tổ chức tốt việc đàm phán thoả thuận nội dung và ký kết hợp đồng B.O.T, hợp đồng phụ. Đặc biệt việc thương thảo và ký kết hợp đồng cung cấp thiết bị, phụ tùng thay thế và các dịch vụ khác với các tổ chức nước ngoài phải do các cán bộ có năng lực, kinh nghiêm tiến hành đồng thời phải tạo điều kiện thuận lợi để các bộ phận chuyên môn được tham gia góp ý trước khi ký kết hợp đồng. Để làm được điều này, Tổng công ty có thể thành lập một nhóm chuyên về lập hồ sơ đấu thầu, hợp đồng, tổ chức đi học, đào tạo thêm nghiệp vụ công tác nhằm nâng cao năng lực của đội ngũ làm công tác đấu thầu, hợp đồng, tăng cường hiểu biết về luật pháp (nhất là luật pháp quốc tế). Tổng công ty cần quan tâm, chỉ đạo đầu tư con người, phương tiện, điều kiện vật chất cho đội ngũ lập hồ sơ đấu thầu, hợp đồng. Việc xác định lập định mức, đơn giá cho đấu thầu phải phù hợp với thực tế, nội dung hợp đồng phải cụ thể phù hợp với chế độ chính sách của Nhà nước cũng như luật pháp quốc tế đảm bảo hợp đồng phải được ký kết với nội dung đầy đủ tránh xảy ra trường hợp tranh chấp, bị chèn ép từ phía chủ thầu. Ngay đối với từng công việc nội bộ của dự án B.O.T Tổng công ty giao nhiệm vụ và phân công cho các đơn vị thành viên, Tổng công ty cũng cần phải ký kết hợp đồng cụ thể, đầy đủ các điều kiện, điều khoản rõ ràng đảm bảo việc thực hiện nhiệm vụ được tốt và có căn cứ xác định trách nhiệm của các bên khi có những vướng mắc phát sinh ngoài hợp đồng xảy ra. Khâu lập hồ sơ đấu thầu, đàm phán ký kết các hợp đồng cho dự án B.O.T là một khâu quan trọng trong việc chuẩn bị thực hiện dự án, vì vậy nếu khâu này được đầu tư quan tâm đúng mức thì dự án sẽ được đẩy nhanh về tiến độ thi công và có cơ sở vững chắc để đạt được sự thành công của dự án.
Đào tạo và đào tạo lại đội ngũ công nhân lao động, đội ngũ cán bộ lãnh đạo.
Về vấn đề con người, nhằm đáp ứng những yêu cầu mới cao hơn trong công việc trong nền kinh tế thị trường, Tổng công ty cần có chính sách hợp lý sắp xếp đội ngũ lao động. Đối với những cán bộ công nhân viên có tay nghề cao, có điều kiện thuyên chuyển giữa các công trình, Tổng công ty nên bố trí việc làm cho họ, khi yêu cầu của các công trình đòi hỏi nhiều lao động giản đơn, có thể thuê thêm lao động thờivụ. Đối với số lao động hợp đồng thời hạn không xác định hay hợp đồng ngắn hạn có đủ điều kiện tiếp tục nhận thành hợp đồng không xác định chuẩn bị cho lực lượng kế cận, Tổng công ty cũng cần có kế hoạch đào tạo và tái đào tạo, nâng cao trình độ tay nghề cho họ nhằm phát triển được lực lượng lao động chủ yếu là lao động có tay nghề, lao động khoa học kỹ thuật để đảm bảo cho nhu cầu sản xuất kinh doanh, hình thức kinh doanh ngày càng mở rộng của Tổng công ty. Đối với số lao động không có nghề hoặc lớn tuổi, Tổng công ty có thể vận động họ tái định cư sau khi xây dựng xong công trình. Nhưng để việc này được thực hiện tốt, Tổng công ty cần có chính sách đầu tư rõ ràng, thực hiện xây dựng cơ sở hạ tầng, có kế hoạch cho vay vốn làm kinh tế để những người ở lại định cư có thể an tâm, ổn định được cuộc sống của mình.
Ngoài việc đào tạo đội ngũ lao động có đủ trình độ tay nghề đảm nhận được những công việc phức tạp, Tổng công ty cũng cần phải tự đào tạo đội ngũ cán bộ cho chỉ huy và điều hành ở mỗi đơn vị thành viên. Những cán bộ làm giám đốc điều hành dự án phải là những người có trình độ giao tiếp ngoại ngữ, hiểu biết về kinh tế thị trường, có năng lực chỉ huy, quản lý sản xuất, thực hiện độc lập nhiệm vụ và chịu trách nhiệm về hiệu quả của dự án, đặc biệt họ phải có năng lực quản lý một dự án đầu tư theo hình thức B.O.T trong nước nhằm thực hiện chủ trương phát triển số lượng các dự án B.O.T thuỷ điện của Tổng công ty trong thời gian tới. Đối với việc quản lý vận hành nhà máy sau khi kết thúc giai đoạn xây dựng, Tổng công ty phải có kế hoạch đào tạo đội ngũ cán bộ, nhân viên vận hành, quản lý công trình ngay từ khi xây dựng công trình. Tổng công ty cần hợp tác với các đơn vị trong và ngoài nước tổ chức các lớp đào tạo với chủ trương kết hợp lý thuyết với thực tiễn nhằm khai thác, vận hành nhà máy thuỷ điện Cần Đơn được thuận lợi và có hiệu quả ngay từ đầu.
Khi dự án đi vào hoạt động thì vấn đề nhân sự cũng là một vấn đề lớn mà Tổng công ty cần phải quan tâm giải quyết ngay từ bây giờ. Do lĩnh vực vận hành nhà máy thuỷ điện là một lĩnh vực mà Tổng công ty chưa có kinh nghiệm nên Tổng công ty cần có kế hoạch đào tạo cán bộ, kĩ sư và công nhân kĩ thuật để đảm bảo vận hành và khai thác một cách có hiệu quả công trình mà mình làm chủ đầu tư.
III. Một số kiến nghị với các cơ quan hữu quan.
Để các giải pháp từ phía doanh nghiệp thực hiện dự án B.O.T trong nước có thể được thực thi và phát huy hiệu quả, Nhà nước cũng như các Bộ, Ban , ngành có liên quan cần sửa đổi một số văn bản pháp quy cũng như đơn giản hoá khâu thủ tục giấy tờ xin phép đầu tư và hồ sơ xin vay vốn, tạo điều kiện cho việc thi công công trình đảm bảo đúng tiến độ, thực sự đáp ứng được nhu cầu đầu tư phát triển của nền kinh tế nước ta hiện nay.
1. Kiến nghị với các Bộ.
Các thông tư hướng dẫn Quy chế về đầu tư theo hình thức B.O.T trong nước của Bộ Xây dựng, Bộ kế hoạch và Đầu tư cần thống nhất với những điều trong Quy chế tránh việc lúng túng không biết thực hiện theo Thông tư hay Quy chế cho doanh nghiệp cũng như những tranh cãi về việc khác nhau này. Chẳng hạn điều 19, Nghị đinh 77/CP có quy định là “Hợp đồng B.O.T có thể được thảo luận và đàm phán ngay sau khi doanh nghiệp B.O.T hoặc sáng lập viên doanh nghiệp B.O.T được chọn như quy định tại chương II của Quy chế và phải được ký trong vòng 7 ngày kể từ ngày cấp phép đầu tư dự án.” Còn theo hướng dẫn của Thông tư 12-BKH/QLKT tại điều 5 thì “ Hợp đồng B.O.T chỉ được ký kết sau khi thiết kế kỹ thuật được phê duyệt”. Hai văn bản này có sự không thống nhất về điều kiện cần và đủ để ký kết hợp đồng B.O.T và gây khó khăn cho doanh nghiệp B.O.T vì chi phí cho thiết kế kỹ thuật của các dự án nhóm A thường lớn nên doanh nghiệp B.O.T không thể tiến hành lập thiết kế kỹ thuật khi chưa ký được hợp đồng B.O.T với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Vì vậy, thông tư hướng dẫn cần được sửa đổi cho phù hợp với quy chế và tạo điều kiện cho doanh nghiệp B.O.T thực hiện dự án được nhanh chóng, nghĩa là doanh nghiệp B.O.T tiến hành lập thiết kế kỹ thuật công trình B.O.T chỉ sau khi đã ký được hợp đồng B.O.T với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.
Còn trong Nghị định 77/CP, điều 42 quy định “ những cơ quan có thẩm quyền ký kết hợp đồng B.O.T sẽ thẩm định và phê duyệt thiết kế kỹ thuật công trình”. Nhưng trong thông tư số 09/BXD-CSXD lại hướng dẫn “ cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ký kết hợp đồng B.O.T sẽ phê duyệt thiết kế kỹ thuật và tổng dự toán. Nhưng vậy, thông tư hướng dẫn không phù hợp với tính chất của dự án B.O.T vì vốn đầu tư cho dự án là vốn của doanh nghiệp, cá nhân thực hiện dự án B.O.T, nên để đảm bảo lợi ích và quyền tự chủ của doanh nghiệp B.O.T hướng dẫn này nên được sửa thành “cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ký kết hợp đồng B.O.T phê duyệt thiết kế kỹ thuật còn tổng dự toán do doanh nghiệp tự lập và duyệt “.
Về phía bộ Công nghiệp, cơ quan có thẩm quyền ký kết hợp đồng B.O.T đối với các dự án B.O.T ngành điện nhóm A (thuỷ điện Cần Đơn), Bộ Công nghiệp cần có những hướng dẫn cụ thể, hướng dẫn doanh nghiệp, cá nhân thực hiện dự án chuẩn bị các bước để ký kết hợp đồng B.O.T, tạo điều kiện cho doanh nghiệp B.O.T có thể nhanh chóng thoả thuận được nội dung của hợp đồng B.O.T, tiến tới ký kết chính thức. Đồng thời, Bộ Công nghiệp cũng cần phối hợp với doanh nghiệp B.O.T, các Bộ, Ban, ngành, địa phương có liên quan khác hỗ trợ doanh nghiệp B.O.T hoàn thành nhanh chóng các thủ tục chuẩn bị đầu tư, trong việc xây dựng công trình và kinh doanh vận hành theo đúng hợp đồng B.O.T.
Ngoài ra các Bộ, ban, ngành và địa phương có liên quan cần đơn giản hoá các thủ tục xin phép, phẩm định, phê duyệt, cấp giấy phép đầu tư.cho dự án B.O.T, tạo điều kiện cho doanh nghiệp B.O.T rút ngắn được thời gian chuẩn bị, xin cấp phép đầu tư, nhanh chóng tiến hành thi công chính công trình. Điều này cũng rất có ý nghĩa đối với doanh nghiệp B.O.T vì thời gian xin phép đầu tư rút ngắn sẽ làm giảm những rủi ro và tránh cho doanh nghiệp B.O.T những thiệt hại về kinh tế do việc kéo dài giai đoạn xin phép đầu tư gây ra.
2. Kiến nghị với các ngân hàng.
Đối với các dự án B.O.T trong nước hiện nay các ngân hàng đóng vai trò quan trọng trong việc tài trợ chính cho dự án vì thị trường chứng khoán Việt Nam mới đi vào hoạt động, doanh nghiệp B.O.T khó có thể huy động được vốn cho dự án bằng cách phát hành trái phiếu công trình, cổ phiếu. Vì thế vốn vay từ các ngân hàng chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng vốn đầu tư của dự án B.O.T và chủ yếu là vốn vay dài hạn, nhất là đối với các dự án B.O.T có quy mô lớn. Vai trò của ngân hàng trong việc tài trợ cho dự án B.O.T không những chỉ quan trọng đối với một nước đang phát triển như nước ta mà còn quan trọng đối với cả những nước phát triển. Chẳng hạn, các ngân hàng cho dự án B.O.T đường hầm qua eo biển Anh-Pháp vay 7,4 tỷ USD trong số 9,2 tỷ USD tổng vốn đầu tư, hay dự án nhà máy điện Shajiao của Trung Quốc có số vốn vay ngân hàng 500 triệu USD trong số 517 triệu USD tổng số vốn đầu tư của dự án. Còn đối với dự án thuỷ điện Cần Đơn đầu tư theo hình thức B.O.T trong nước, 4 ngân hàng thương mại lớn nhất Việt Nam đã cam kết tài trợ cho dự án hơn 30 triệu USD trong tổng số vốn đầu tư 81,617 triệu USD. Ngoài việc cho dự án vay vốn để thực hiện, ngân hàng còn đóng vai trò làm trung gian mở tài khoản, mua bán ngoại tệ, thanh toán chuyển khoản cho doanh nghiệp B.O.T.
Tăng tốc độ giải ngân.
Dự án thuỷ điện B.O.T Cần Đơn đã được Chính phủ giao cho ngân hàng Nhà nước chỉ đạo các ngân hàng cho vay không phải thế chấp tài sản, không phụ thuộc vào giới hạn 10% vốn điều lệ và quỹ dự trữ của ngân hàng. Thế nhưng, tốc độ giải ngân vẫn còn diễn ra chậm chạp làm cản trở tiến độ thi công công trình. Do vậy, ngân hàng cần hợp tác chặt chẽ với Tổng công ty trong việc giám sát tình hình thực hiện dự án, đồng thời tạo điều kiện giúp đỡ Tổng công ty trong việc lập hồ sơ xin vay vốn để khi dự án cần vốn thì ngân hàng cũng sẽ tiến hành giải ngân kịp thời đảm bảo dự án được liên tục thực hiện, không phải ngừng trệ vì thiếu vốn.
Xây dựng quy chế cho vay hợp lý.
Dự án thuỷ điện B.O.T Cần Đơn là dự án thuỷ điện B.O.T trong nước đầu tiên được Chính phủ ưu tiên trong việc huy động vốn vay, còn đối với các dự án B.O.T trong nước khác trong tương lai, có thể sẽ không có ưu đãi này, do đó các ngân hàng cần xây dựng một quy chế cho vay phù hợp và có những ưu tiên nhất định cho dự án. Yếu tố quyết định để ngân hàng có thể cho các dự án B.O.T vay vốn không nên chỉ căn cứ vào tài sản thế chấp mà là các yếu tố như: hiệu quả kinh tế-xã hội của dự án, khả năng trả nợ của dự án, năng lực, khả năng về tài chính cũng như uy tín của doanh nghiệp B.O.T. Căn cứ vào từng dự án thuộc các ngành, lĩnh vực khác nhau, các ngân hàng nên quy định thời gian cho vay khác nhau, đồng thời lãi suất cũng nên thấp hơn so với các dự án khác và không nên duy trì một mức lãi suất như nhau trong suốt thời gian cho vay vì dự án có mức sinh lời khác nhau ở các thời điểm khác nhau, chẳng hạn, trong những năm đầu lợi nhuận của dự án còn nhỏ nhưng lãi vay lại lớn do dư nợ vay lớn, ảnh hưởng đến tình hình sản xuất kinh doanh của dự án trong thời gian đầu vận hành. Hơn nữa , để hạn chế rủi ro về lãi suất cho ngân hàng, lãi suất cho vay cũng nên được điều chỉnh theo biến động về lãi suất hay giá cả trên thị trường theo một biên độ nào đó hoặc theo sự điều chỉnh lãi suất trần cho vay của ngân hàng Nhà nước.
Tích cực tìm kiếm các dự án B.O.T để tài trợ.
Dự án B.O.T trong nước được thực hiện sẽ đem lại lợi ích cho cả doanh nghiệp thực hiện dự án và cả Nhà nước, cũng như nền kinh tế. Chính vì vậy, các dự án đó cần được phát triển mở rộng hơn nữa. Nhưng để làm được điều này, các ngân hàng nên tích cực tìm kiếm các dự án B.O.T để cho vay, tạo điều kiện cho doanh nghiệp có thể huy động được vốn thực hiện dự án, khắc phục được khó khăn lớn nhất, cản trở việc phát triển của dự án B.O.T trong nước là vấn đề thiếu vốn. Đồng thời, các ngân hàng cần có những ưu tiên hơn nữa đối với các dự án B.O.T và phối hợp chặt chẽ với doanh nghiệp B.O.T trong việc giám sát tình hình thực hiện dự án nhằm đáp ứng kịp thời nhu cầu về vốn cho việc thi công công trình.
Hoàn thiện quy trình thẩm định dự án .
Khi nhận được hồ sơ xin vay vốn đầu tư thực hiện dự án B.O.T, ngân hàng cần nhanh chóng tiến hành thẩm định dự án để có thể quyết định cho vay chính xác. Chính vì vậy, các ngân hàng cần hoàn thiện quy trình thẩm định dự án (kể cả dự án B.O.T) nhằm đánh giá chính xác hiệu quả kinh tế-xã hội của dự án cũng như các vấn đề thiết kế kỹ thuật, thi công công trình. Việc thẩm định dự án B.O.T được tiến hành nhanh chóng với chất lượng cao sẽ góp phần nâng cao hiệu quả vốn vay, giảm rủi ro cho ngân hàng, thúc đẩy việc mở rộng các dự án B.O.T trong nước. Nội dung chính của việc thẩm định dự án B.O.T là việc phân tích và đánh giá các yếu tố ảnh hưởng đến việc thực hiện dự án như: vai trò và sự phù hợp của dự án đối với mục tiêu phát triển kinh tế xã hội, quy hoạch của khu vực cũng như cả nước; năng lực thực hiện đầu tư xây dựng dự án của doanh nghiệp B.O.T như kinh nghiệm, trình độ của cán bộ công nhân viên của doanh nghiệp và thiết bị, máy móc thi công công trình; tiến độ thi công và các biện pháp thi công công trình; tác động môi trường sinh thái, các biện pháp về công nghệ, thiết bị cho dự án; quy mô của dự án với nhu cầu của thị trường về sản phẩm do dự án tạo ra.
3. Chính phủ.
Xây dựng danh mục các dự án B.O.T trong nước.
Trong phạm vi một quốc gia, có rất nhiều những dự án có tính chất, quy mô khác nhau. Trong đó, các dự án B.O.T trong nước đóng một vai trò quan trọng trong việc huy động tiềm lực trong nước để hỗ trợ Nhà nước thực hiện các mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế xã hội. Với tính chất của dự án B.O.T, nó có khả năng phát huy rất hiệu quả trong việc xây dựng các công trình cơ sở hạ tầng của đất nước như đường giao thông, cung cấp điện, cầu, cảng..., những dự án đòi hỏi vốn đầu tư lớn và thời gian thu hồi vốn kéo dài. Do vậy, Chính phủ và các cơ quan có thẩm quyền phải nghiên cứu, xem xét những dự án B.O.T cần ưu tiên thực hiện trước mắt đưa vào danh mục các dự án B.O.T. Danh mục các dự án B.O.T trong nước phải được công bố định kỳ đúng quy định trên các phương tiện thông tin đại chúng, thể hiện được sự quan tâm chú trọng đến việc kêu gọi đầu tư theo hình thức B.O.T trong nước như là một phương thức quan trọng để huy động các thành phần kinh tế trong nước tham gia vào việc phát triển kinh tế đất nước. Tránh tình trạng Quy chế có quy định nhưng trong thực tế thì từ ngày Quy chế được ban hành vẫn chưa có một danh mục các dự án B.O.T trong nước nào được công bố trên các phương tiện thông tin đại chúng, gây khó khăn cho các doanh nghiệp, cá nhân có nhu cầu đầu tư các dự án B.O.T nhưng không biết nên chọn dự án nào và nếu chọn được thì không biết dự án đó có được đầu tư theo hình thức B.O.T hay không.
Quy định tỷ lệ vốn góp phù hợp và hỗ trợ một phần về vốn cho doanh nghiệp B.O.T.
Khó khăn lớn nhất cản trở việc thực hiện các dự án B.O.T trong nước hiện nay là vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp B.O.T phải đạt mức tối thiểu bằng 30% tổng vốn đầu tư dự án. Trong khi đó rất nhiều doanh nghiệp, cá nhân trong nước có khả năng thực hiện dự án một cách có hiệu quả nhưng lại không đảm bảo được tỷ lệ vốn góp như trên. Vì vậy, Chính phủ cần nới rộng quy định về tỷ lệ vốn góp trên tuỳ theo từng loại dự án B.O.T, chẳng hạn nếu là dự án nhóm B, C thì tỷ lệ 30% có thể chấp nhận được nhưng đối với các dự án nhóm A thì tỷ lệ này nên giảm xuống thấp hơn 30% và không được nhỏ hơn một tỷ lệ nhất định nào đó, ví dụ 15%. Điều này có nghĩa là khi xem xét quyết định có giao cho doanh nghiệp, cá nhân trong nước thực hiện dự án hay không, Chính phủ nên chủ yếu căn cứ vào những lợi ích mà dự án có khả năng đem lại, tính khả thi của dự án và phương án huy động vốn của doanh nghiệp có đảm bảo cho việc thực hiện dự án hay không. Ngoài ra, có thể tuỳ từng loại dự án có ý nghĩa đặc biệt, Chính phủ nên hỗ trợ doanh nghiệp trong việc huy động vốn để thực hiện dự án, hoặc là góp một phần vốn vào dự án để thể hiện sự ủng hộ của mình đối với dự án và làm cho dự án có thể huy động được vốn nhanh hơn từ các nguồn khác, hoặc là có những chính sách ưu tiên giúp doanh nghiệp B.O.T thu xếp được vốn cho dự án. Những hỗ trợ về vốn của Chính phủ đã được một số nước thực hiện và thực sự chúng đã góp phần không nhỏ vào thành công của dự án như dự án đường hầm cảng Sydney được Chính phủ úc cho vay không phải trả lãi với số tiền 125 triệu USD tương ứng 23% tổng số vốn đầu tư, hay dự án đường cao tốc Bắc-Nam của Malaixia được Chính phủ cho vay 235 triệu USD tương ứng 13% tổng vốn đâu tư với lãi suất cố định 8%/năm trong 25 năm. Đối với thuỷ điện Cần Đơn, Chính phủ đã giao cho Ngân hàng Nhà nước bảo lãnh các khoản cho vay cho Tổng công ty Xây dựng Sông Đà và không phải theo mức khống chế 10% vốn điều lệ và quỹ dự trữ của các ngân hàng nhằm huy động đủ vốn cho việc thực hiện dự án. Ngoài ra, để các dự án B.O.T khác có thể nhanh chóng huy động được vốn với chi phí nhỏ nhất, Chính phủ cũng cần có những ưu tiên như chỉ định các ngân hàng thương mại cho vay với lãi suất nhỏ hơn lãi suất thị trường.
Xây dựng chính sách ưu đãi phù hợp.
Một trong những đặc trưng của dự án B.O.T là thời gian vận hành dự án B.O.T thường kéo dài, chứa đựng những rủi ro có thể xảy ra đối với chủ đầu tư. Chính vì vậy, Chính phủ cần có những ưu đãi hơn trong việc đảm bảo giá sản phẩm của dự án không làm giảm lợi nhuận cho chủ đầu tư do những biến động trên thị trường hay sự xuất hiện của những công trình có sản phẩm tương tự. Tuỳ thuộc vào từng dự án, Chính phủ nên cho phép thời gian vận hành được kéo dài phù hợp với tính chất của sản phẩm dự án và quy mô vốn đầu tư, đồng thời có những ưu đãi về thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp hay thuế nhập khẩu máy móc thiết bị cho dự án nhưng không nên quy định một mức chung cố định cho tất cả các dự án mà phải quy định chi tiết theo vùng, khu vực hay tính chất của dự án. Những ưu đãi của Chính phủ sẽ góp phần không nhỏ vào thành công của dự án B.O.T và khuyến khích những doanh nghiệp, cá nhân khác tham gia thực hiện các dự án B.O.T trong nước.
Lựa chọn nhà thầu có đủ năng lực tham gia thực hiện dự án.
Ngoài các ưu đãi đối với dự án B.O.T, một yếu tố nữa có khả năng quyết định sự thành công của dự án là việc lựa chọn được nhà đầu tư có đủ năng lực thực hiện. Do tính chất hấp dẫn của hình thức đầu tư B.O.T nên có thể có nhiều nhà đầu tư cùng xin phép đầu tư một dự án, vì vậy cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cần xác định một phương thức lựa chọn nhà đầu tư tốt nhất. Phương thức lựa chọn tối ưu là thực hiện đấu thầu dự án. Người thắng thầu dự án sẽ trở thành nhà thầu có khả năng đáp ứng đầy đủ nhất những yêu cầu nghiêm ngặt mà dự án đặt ra. Do đó, quy trình đấu thầu phải tuân theo một trình tự chặt chẽ, khoa học và được thực hiện nghiêm túc để đảm bảo tính bình đẳng khách quan trong việc lựa chọn nhà thầu. Tất cả những vấn đề về xây dựng (tổng vốn đầu tư, thiết kế kỹ thuật, tiến độ thi công v.v...), kinh doanh (giá bán sản phẩm hay phí dịch vụ, thời gian khai thác v.v...), chuyển giao (trách nhiệm sửa chữa, bảo dưỡng công trình, thủ tục chuyển giao v.v...) phải được nghiên cứu kỹ lưỡng và được ghi rõ trong hồ sơ đấu thầu, làm căn cứ để lựa chọn đúng nhà đầu tư có khả năng thực hiện thành công dự án B.O.T.
Đối với thuỷ điện B.O.T Cần Đơn, Tổng công ty Xây dựng Sông Đà không phải tham gia đấu thầu để lựa chọn chủ đầu tư, nhưng trong quá trình thực hiện dự án Tổng công ty sẽ phải tổ chức đấu thầu để chọn những nhà thầu phụ thực hiện cung cấp vật tư, thiết bị điện, thiết bị cơ điện và thiết bị cơ khí thuỷ công cho công trình. Do đó, Chính phủ cần có những hướng dẫn cụ thể cho doanh nghiệp B.O.T tổ chức đấu thầu với các nguyên tắc phải cung cấp đầy đủ các thông tin cần thiết cho bên dự thầu trước khi đấu thầu một khoảng thời gian phù hợp để chuẩn bị hồ sơ đấu thầu, đảm bảo sự cạnh tranh công bằng giữa các bên dự thầu và lấy giá đấu thầu là căn cứ quan trọng nhất để quyết định nhà thầu phụ nào trúng thầu. Việc đảm bảo thực hiện nghiêm túc quy trình đấu thầu sẽ tạo điều kiện cho việc lựa chọn được những nhà thầu phụ có đủ năng lực tham gia thực hiện dự án B.O.T, không làm tổng dự toán công trình vượt quá tổng vốn đầu tư đã được phê duyệt.
Hoàn chỉnh hệ thống văn bản pháp quy của Nhà nước và các thủ tục hành chính.
Nghị định 77/CP và các Thông tư hướng dẫn của Bộ Xây dựng, Bộ Kế hoạch và Đầu tư cần được sửa đổi cho phù hợp tạo điều kiện cho các doanh nghiệp, cá nhân có nhu cầu tham gia thực hiện dự án B.O.T có thể dễ dàng thực hiện, chẳng hạn như quy định về việc đăng ký thực hiện dự án B.O.T không nhất thiết phải có giấy cam kết của các ngân hàng cũng như những nhà tài trợ cho dự án vì các ngân hàng khó có thể cam kết tài trợ cho dự án khi mà dự án chưa được đăng ký, chọn được chủ đầu tư. Hay các quy định về việc giải toả diện tích đất để thực hiện dự án B.O.T nên được sửa đổi để doanh nghiệp B.O.T tự tổ chức việc thực hiện giải toả, giám sát việc thi công công trình nhằm rút ngắn thời gian chuẩn bị không cần thiết, vì việc giải toả diện tích đất có ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích của doanh nghiệp B.O.T nên doanh nghiệp B.O.T sẽ phải có trách nhiệm nhanh chóng triển khai giải toả, còn nếu giao cho cơ quan khác thực hiện việc này thì sẽ gây ra chậm trễ trong việc giải toả diện tích đất để thực hiện xây dựng công trình.
Bên cạnh việc hoàn thiện các văn bản pháp quy về việc đầu tư thực hiện dự án B.O.T trong nước, Chính phủ cần đơn giản hoá các thủ tục hành chính rườm rà như thủ tục xin phép đầu tư, xin phép cấp đất hay các thủ tục về giải phóng mặt bằng để thực hiện dự án. Những thủ thục trên kéo dài vừa mất nhiều thời gian chuẩn bị cho công trình, vừa lãng phí tiền của, công sức của doanh nghiệp B.O.T. Các quy định về thời gian thông qua nghiên cứu tiền khả thi, khả thi hay thời gian thẩm định dự án B.O.T để được cấp giấy phép đầu tư, ký kết hợp đồng B.O.T đều không được thực hiện đúng như trong Nghị định 77/CP, Thông tư hướng dẫn của Bộ Xây dựng, Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Chẳng hạn như thuỷ điện Cần Đơn, thời gian bắt đầu tiến hành nghiên cứu chuẩn bị thực hiện dự án đến khi dự án được cấp giấy phép đầu tư là hơn 2 năm. Vì vậy, Chính phủ cần lập một cơ quan chức năng đứng ra quản lý chung các dự án đầu tư theo hình thức B.O.T trong nước, làm đầu mối phối hợp các Bộ, Ban, ngành, địa phương có liên quan đến dự án với doanh nghiệp B.O.T trong việc giải quyết những khó khăn vướng mắc trong việc xin phép đầu tư, thực hiện đầu tư, rút ngắn những thời gian không cần thiết trong việc thực hiện các thủ tục hành chính để có thể nhanh chóng triển khai được dự án B.O.T.
Kết luận
Đầu tư theo hình thức B.O.T trong nước là một hình thức đầu tư mới ở nước ta. Đây là một hình thức đầu tư có nhiều ưu điểm,vừa có lợi cho Nhà nước, vừa có lợi cho doanh nghiệp. Qua việc thực hiện các dự án B.O.T trong nước, Nhà nước có thể huy động vốn từ các thành phần kinh tế trong nước, giảm bớt gánh nặng cho ngân sách Nhà nước. Các dự án B.O.T sẽ góp phần đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước đồng thời mang lại lợi ích kinh tế, tạo việc làm, nâng cao trình độ quản lý cho các doanh nghiệp.
Tuy nhiên, đây là một hình thức đầu tư rất mới ở nước ta cho nên còn có nhiều vướng mắc trong quá trình triển khai thực hiện vì những nguyên nhân như hệ thống văn bản pháp quy của Nhà nước chưa hoàn chỉnh, những khó khăn về vốn, về kinh nghiệm quản lý điều hành một dự án B.O.T của các doanh nghiệp, cá nhân trong nước. Nhưng không vì thế mà ta phủ nhận sự cần thiết và vai trò của dự án B.O.T trong nước đối với nền kinh tế nước ta, nhất là trong các lĩnh vực xây dựng cơ sở hạ tầng như đường, điện, nước ...
Do đó, Tổng công ty xây dựng Sông Đà cần khắc phục những khó khăn và vướng mắc trong quá trình chuẩn bị, triển khai thực hiện dự án, nhằm thúc đẩy việc mở rộng thực hiện các dự án B.O.T trong nước và làm cho hình thức đầu tư B.O.T thực sự phát huy hiệu quả đối với doanh nghiệp, đồng thời trở thành một biện pháp có ý nghĩa và phù hợp trong việc đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng ở nước ta.
Đây là một hình thức đầu tư mới đối với nước ta cả về lý luận lẫn thực tiễn, do vậy kết quả của bài viết này chắc chắn còn nhiều hạn chế, em mong nhận được nhiều ý kiến đóng góp, chỉ dẫn của các thầy, cô giáo và các bạn quan tâm đến lĩnh vực này để tiếp tục nghiên cứu và hoàn thiện trong thời gian tới.
danh mục Tài liệu tham khảo.
Nghị định 77/CP về việc ban hành Quy chế Đầu tư theo hình thức hợp đồng B.O.T áp dụng cho đầu tư trong nước ngày 18/06/1997
Thông tư số 12-BKH ngày 27/08/1997, Thông tư số 6-BXD/CSXD ngày 25/09/1997 hướng dẫn một số điều của quy chế đầu tư theo hình tứch hợp đồng B.O.T áp dụng cho đầu tư trong nước.
Nghị định 52/CP ngày 08/07/1999 về việc ban hành Quy chế Quản lý đầu tư và xây dựng.
Giáo trình Lập và Quản lý dự án đầu tư - Đại học Kinh tế Quốc dân.
Quản trị Tài chính doanh nghiệp - Nguyễn Hải Sản - Nhà xuất bản Trẻ.
Giáo trình Kinh tế đầu tư - Đại học Kinh tế Quốc dân.
Giáo trình Kinh tế các nghành sản xuất vật chất - Đại học Kinh tế quốc dân.
Giáo trình Địa lý kinh tế - Đại học Kinh tế Quốc dân.
Tạp chí kinh tế và Dự báo số 7/1996.
Thời báo Kinh tế Việt Nam số 29 ngày 08/03/2000.
Tạp chí Xây dựng số 22 ngày 16/03/2000.
Thời báo tài chính Việt Nam số 27 ngày 03/03/2000.
Báo Đầu tư số 15 ngày 21/02/2000.
Báo cáo nghiên cứu khả thi công trình thuỷ điện Cần Đơn.
Các công văn, tài liệu liên quan đến việc xin phép, chuẩn bị, thực hiện dự án thuỷ điện Cần Đơn.
Mục Lục
Trang
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 29124.doc