quy ước các Ký hiệu viết tắt trong bài
1. VĐT: Vốn đầu tư.
2. VĐT PT: Vốn đầu tư phát triển.
3. NSNN: Ngân sách Nhà nước.
4. DNNN: Doanh nghiệp Nhà nước.
5. CN: Công nghiệp.
6. TTLL: Thông tin liên lạc.
7. DV: Dịch vụ.
8. QLNN: Quản lý Nhà nước.
9. ANQP: An ninh quốc phòng.
10. XH: Xã hội.
11. GD & ĐT: Giáo dục và Đào tạo.
12. NK: Nhập khẩu.
13. Sx: Sản xuất.
14. DC: Dây chuyền.
15. HĐHTKD: Hợp đồng hợp tác kinh doanh.
16. KCN: Khu công nghiệp.
17. 100% vốn NN: 100% vốn Nước ngo
103 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1500 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Đầu tư phát triển ở tỉnh Nam Định - Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ài
Lời mở đầu
Trong những năm qua, tỉnh Nam Định đã cùng với cả nước thực hiện thắng lợi những mục tiêu kinh tế - xã hội, từng bước chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động và cơ cấu đầu tư, đảm bảo các mặt xã hội, giữ vững an ninh quốc phòng, đưa nền kinh tế tỉnh phát triển theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá theo định hướng xã hội chủ nghĩa mà Đảng và Nhà nước đã đề ra. Những thành tựu to lớn tỉnh Nam Định đã đạt được trên tất cả các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội có phần đóng góp quan trọng của việc huy động, sử dụng và quản lý có hiệu quả mọi nguồn vốn cho đầu tư phát triển kinh tế - xã hội.
Bên cạnh những tiềm năng, thế mạnh về điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội đã và sẽ là động lực cho đầu tư phát triển, cũng còn không ít khó khăn mà Đảng bộ, chính quyền và nhân dân tỉnh Nam Định phải cùng nỗ lực vượt qua. Bước vào thế kỷ mới - thế kỷ của tri thức và công nghệ hiện đại, để đáp ứng nhu cầu đầu tư phát triển ngày một tăng và nhu cầu hội nhập kinh tế quốc tế của đất nước, chìa khoá cho sự tăng trưởng và phát triển bền vững chính là vấn đề huy động và sử dụng nguồn vốn đầu tư còn hạn chế trên địa bàn tỉnh một cách tiết kiệm và hiệu quả.
Sau quá trình học tập tại Bộ môn Kinh tế Đầu tư - Trường ĐH Kinh tế quốc dân và đặc biệt là sau thời gian thực tập tại cơ quan thực tế, nhận thức được vai trò và vị trí quan trọng của vốn đầu tư cho phát triển kinh tế - xã hội đất nước cũng như ở địa phương, em đã chọn đề tài: “Đầu tư phát triển ở tỉnh Nam Định - Thực trạng và giải pháp.” để thực hiện luận văn tốt nghiệp. Ngoài phần mở đầu và kết luận, phần nội dung luận văn được chia làm 3 chương:
Chương I: Cơ sở lý luận chung.
Chương II: Tình hình đầu tư phát triển ở tỉnh Nam Định giai đoạn 1998 - 2003.
Chương III: Phương hướng và một số giải pháp thúc đẩy hoạt động đầu tư phát triển tại Nam Định đến năm 2010.
Nội dung luận văn đã đi vào tìm hiểu thực trạng và những kết quả đạt được cùng một số tồn tại và nguyên nhân trong hoạt động đầu tư phát triển kinh tế xã hội tại Nam Định giai đoạn 1998 - 2003; từ đó đề ra một số giải pháp nhằm thúc đẩy và nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư phát triển trên địa bàn tỉnh từ nay đến năm 2010. Mục đích là mang lại cho người đọc cái nhìn tổng quát về hoạt động đầu tư phát triển kinh tế xã hội ở tỉnh Nam Định trong thời gian gần đây. Do trình độ và thời gian có hạn, phạm vi nghiên cứu rộng nên bài viết không tránh khỏi thiếu sót, kính mong có sự góp ý từ nhiều phía để nội dung được đầy đủ và phong phú hơn.
Cháu xin chân thành cảm ơn chú Vũ Anh Cao, cô Đặng Thị Bích Nguyệt cùng các cô chú, các anh chị công tác tại Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Nam Định đã tạo điều kiện cho cháu trong thời gian thực tập tại cơ quan và sự hướng dẫn tận tình của cô giáo - TS. Nguyễn Bạch Nguyệt đã giúp đỡ em hoàn thành bài viết này.
Nam Định, tháng 6 năm 2004.
Sinh viên thực hiện.
Trần Thị Ngọc Hoa
Nội dung
Chương I
cơ sở lý luận chung.
I. Một số vấn đề lý luận về đầu tư và đầu tư phát triển.
1. Đầu tư.
Xuất phát từ phạm vi phát huy tác dụng của các kết quả đầu tư chúng ta có thể có những cách hiểu khác nhau về đầu tư.
Đầu tư theo nghĩa rộng là sự hi sinh các nguồn lực ở hiện tại để tiến hành các hoạt động nào đó nhằm thu về cho người đầu tư các kết quả nhất định trong tương lai lớn hơn các nguồn lực đã bỏ ra để đạt được kết quả đó.
Các nguồn lực có thể là tiền, tài nguyên thiên nhiên, sức lao động và trí tuệ.
Những kết quả có thể là sự tăng thêm các tài sản tài chính (tiền vốn), tài sản vật chất (nhà xưởng, đường xá, các tài sản vật chất khác...), tài sản trí tuệ (trình độ văn hoá, chuyên môn, khoa học kỹ thuật...) và nguồn nhân lực có đủ điều kiện để làm việc với năng suất cao hơn trong nền sản xuất xã hội.
Đầu tư theo nghĩa hẹp chỉ bao gồm những hoạt động sử dụng các nguồn lực ở hiện tại nhằm đem lại cho nền kinh tế - xã hội những kết quả trong tương lai lớn hơn các nguồn lực đã sử dụng để đạt được kết quả đó.
Như vậy nếu xét trên phạm vi quốc gia thì chỉ có hoạt động sử dụng các nguồn lực ở hiện tại để trực tiếp làm tăng các tài sản vật chất, nguồn nhân lực và tài sản trí tuệ hoặc duy trì sự hoạt động của các tài sản và nguồn nhân lực sẵn có mới thuộc phạm trù đầu tư theo nghĩa hẹp (đầu tư phát triển).
2. Đầu tư phát triển.
2.1. Khái niệm đầu tư phát triển.
Đầu tư phát triển là hoạt động sử dụng các nguồn lực tài chính, nguồn lực vật chất, nguồn lực lao động và trí tuệ để xây dựng, sửa chữa nhà cửa và cấu trúc hạ tầng, mua sắm trang thiết bị và lắp đặt chúng trên nền bệ, bồi dưỡng đào tạo nguồn nhân lực, thực hiện các chi phí thường xuyên gắn liền với sự hoạt động của các tài sản này nhằm duy trì tiềm lực hoạt động của các cơ sở đang tồn tại và tạo tiềm lực mới cho nền kinh tế - xã hội, tạo việc làm và nâng cao đời sống của mọi thành viên trong xã hội.
2.2. Đặc điểm của đầu tư phát triển.
Hoạt động đầu tư phát triển có các đặc điểm khác biệt so với các loại hình đầu tư khác là:
+ Hoạt động đầu tư phát triển đòi hỏi một khối lượng vốn lớn và nằm khê đọng trong suốt quá trình đầu tư. Đây là cái giá phải trả khá lớn của đầu tư phát triển.
+ Thời gian để tiến hành một công cuộc đầu tư cho dến khi các thành quả của nó phát huy tác dụng thường đòi hỏi nhiều năm tháng với nhiều biến động xảy ra.
+ Thời gian cần hoạt động để có thể thu hồi đủ vốn đã bỏ ra đối với các cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ sản xuất kinh doanh thường lâu dài và do đó không tránh khỏi sự tác động hai mặt tích cực và tiêu cực của các yếu tố không ổn định về tự nhiên, xã hội, chính trị, kinh tế.
+ Các thành quả của hoạt động đầu tư phát triển có giá trị sử dụng lâu dài nhiều năm, có khi hàng trăm, hàng ngàn năm và thậm chí tồn tại vĩnh viễn như các công trình kiến trúc nổi tiếng thế giới (Kim tự tháp cổ ở Ai Cập, Nhà thờ La Mã ở Rôm, Vạn Lý Trường Thành ở Trung Quốc, ăngco Vát ở Cămpuchia). Điều này nói lên giá trị lớn lao của các thành quả đầu tư phát triển.
+ Các thành quả của hoạt động đầu tư là các công trình xây dựng sẽ hoạt động ở ngay nơi mà nó được tạo dựng nên. Do đó các điều kiện về địa hình tại đó có ảnh hưởng lớn đến quá trình thực hiện đầu tư cũng như tác dụng sau này của các kết quả đầu tư. Thí dụ, quy mô đầu tư để xây dựng nhà máy sàng tuyển than ở khu vực có mỏ than tuỳ thuộc rất nhiều vào trữ lượng than của mỏ. Nếu trữ lượng than của mỏ ít thì quy mô nhà máy sàng tuyển cũng không nên lớn để đảm bảo cho nhà máy hàng năm hoạt động hết công suất với số năm tồn tại của nhà máy theo dự kiến trong dự án. Đối với các nhà máy thuỷ điện, công suất phát điện tuỳ thuộc nhiều vào nguồn nước nơi xây dựng công trình. Sự cung cấp điện đều đặn thường xuyên tuỳ thuộc vào tính ổn định của nguồn nước. Không thể di chuyển nhà máy thuỷ điện như di chuyển những chiếc máy tháo rời do các nhà máy sản xuất ra từ địa điểm này đến địa điểm khác.
Việc xây dựng nhà máy ở nơi có địa chất không ổn định sẽ không đảm bảo an toàn trong quá trình hoạt động sau này, thậm chí cả trong quá trình xây dựng công trình.
+ Mọi thành quả và hậu quả của quá trình thực hiện đầu tư chịu ảnh hưởng nhiều của các yếu tố không ổn định theo thời gian và điều kiện địa lý của không gian.
+ Để đảm bảo cho mọi công cuộc đầu tư đem lại hiệu quả kinh tế - xã hội cao đòi hỏi phải làm tốt công tác chuẩn bị; nghiên cứu phát hiện các cơ hội đầu tư, nghiên cứu tiền khả thi sơ bộ lựa chọn dự án, nghiên cứu khả thi (lập dự án, luận chứng kinh tế - kỹ thuật), đánh giá và quyết định đầu tư (thẩm định dự án).
3. Vai trò của đầu tư phát triển.
Xuất phát từ khái niệm đầu tư phát triển, có thể nhận thấy hoạt động đầu tư phát triển có vai trò rất quan trọng trong sự phát triển kinh tế - xã hội. Các lý thuyết kinh tế khi xem xét bản chất của đầu tư phát triển đều coi đầu tư phát triển là nhân tố quan trọng để phát triển kinh tế, là chìa khoá của sự tăng trưởng. Vai trò này của đầu tư phát triển được thể hiện ở các mặt sau:
3.1. Đối với toàn bộ nền kinh tế quốc gia.
3.1.1. Đầu tư vừa tác động đến tổng cung, vừa tác động đến tổng cầu.
Về mặt cầu: đối với tổng cầu, tác động của đầu tư là ngắn hạn. Khi tổng cung chưa kịp thay đổi, sự tăng lên của đầu tư làm cho tổng cầu tăng lên kéo theo sản lượng cân bằng tăng và giá cả của các đầu vào của đầu tư tăng. Điểm cân bằng cung cầu dịch chuyển.
Về mặt cung: khi thành quả của đầu tư phát huy tác dụng, các năng lực mới đi vào hoạt động thì tổng cung, đặc biệt là tổng cung dài hạn tăng lên, kéo theo sản lượng tiềm năng tăng; do đó giá cả sản phẩm giảm dẫn đến tăng tiêu dùng. Tăng tiêu dùng đến lượt mình lại tiếp tục kích thích sản xuất hơn nữa. Sản xuất phát triển là nguồn gốc cơ bản để tăng tích luỹ, phát triển kinh tế - xã hội, tăng thu nhập cho người lao động, nâng cao đời sống của mọi thành viên trong xã hội.
3.1.2. Đầu tư có tác động hai mặt đến sự ổn định kinh tế.
Sự tác động không đồng thời về mặt thời gian của đầu tư đối với tổng cầu và đối với tổng cung của nền kinh tế làm cho mỗi sự thay đổi của đầu tư - dù là sự tăng hay giảm - đều cùng một lúc vừa là yếu tố duy trì sự ổn định vừa là yếu tố phá vỡ sự ổn định của nền kinh tế của mọi quốc gia.
3.1.3. Đầu tư tác động đến tốc độ tăng trưởng và phát triển kinh tế.
Mối quan hệ giữa đầu tư và tăng trưởng được biểu hiện thông qua hệ số ICOR (hệ số gia tăng vốn - sản lượng).
ICOR
=
Vốn đầu tư
Mức tăng GDP
Từ đó suy ra:
Mức tăng GDP
=
Vốn đầu tư
ICOR
Nếu ICOR không đổi, mức tăng GDP hoàn toàn phụ thuộc vào vốn đầu tư. Kết quả nghiên cứu của các nhà kinh tế cho thấy: muốn giữ tốc độ tăng trưởng ở mức độ trung bình thì tỷ lệ đầu tư phải đạt được từ 15 - 25% so với GDP, tuỳ thuộc vào ICOR của mỗi nước.
3.1.4. Đầu tư và sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Kinh nghiệm của các nước trên thế giới cho thấy con đường tất yếu có thể tăng trưởng nhanh với tốc độ mong muốn (từ 9- 10%) là tăng cường đầu tư nhằm tạo ra sự phát triển nhanh ở khu vực công nghiệp và dịch vụ. Đối với các ngành nông, lâm, ngư nghiệp do những hạn chế về đất đai và các khả năng sinh học, để đạt được tốc độ tăng trưởng từ 5- 6% là rất khó khăn. Như vậy chính sách đầu tư quyết định quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở các quốc gia nhằm đạt được tốc độ tăng trưởng nhanh của toàn bộ nền kinh tế.
Về cơ cấu lãnh thổ, đầu tư có tác dụng giải quyết những mất cân đối về phát triển giữa các vùng lãnh thổ, đưa những vùng kém phát triển thoát khỏi tình trạng đói nghèo, phát huy tối đa những lợi thế so sánh về tài nguyên, địa thế, kinh tế, chính trị... của những vùng có khả năng phát triển nhanh hơn, làm bàn đạp thúc đẩy các vùng khác cùng phát triển.
3.1.5. Đầu tư với việc tăng cường khả năng khoa học và công nghệ của đất nước.
Công nghệ là trung tâm của công nghiệp hoá; đầu tư là điều kiện tiên quyết của sự phát triển và tăng cường khả năng công nghệ của Việt Nam hiện nay. Với trình độ công nghệ lạc hậu, quá trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá của một quốc gia sẽ gặp rất nhiều khó khăn nếu không đề ra được một chiến lược đầu tư phát triển công nghệ nhanh và vững chắc.
Có hai con đường cơ bản để có công nghệ là tự nghiên cứu phát minh ra công nghệ và nhập công nghệ từ nước ngoài. Dù là tự nghiên cứu hay nhập từ nước ngoài đều cần phải có tiền - tức là cần phải có vốn đầu tư. Mọi phương án đổi mới công nghệ không gắn với nguồn vốn đầu tư sẽ là những phương án không khả thi.
3.2. Đối với các cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ.
Đầu tư quyết định sự ra đời, tồn tại và phát triển của mỗi cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ.
Để tạo dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho sự ra đời của bất kỳ cơ sở nào đều cần phải xây dựng nhà xưởng, cấu trúc hạ tầng, mua sắm và lắp đặt thiết bị máy móc trên nền bệ, tiến hành các công tác xây dựng cơ bản và thực hiện các chi phí khác gắn liền với sự hoạt động trong một chu kỳ của các cơ sở vật chất kỹ thuật vừa tạo ra. Các hoạt động này chính là hoạt động đầu tư đối với các cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ đang tồn tại: sau một thời gian hoạt động các cơ sở vật chất kỹ thuật của các cơ sở này hao mòn, hư hỏng. Để duy trì được sự hoạt động bình thường cần định kỳ tiến hành sửa chữa lớn hoặc thay mới các cơ sở vật chất kỹ thuật đã hư hỏng, hao mòn này hoặc đổi mới để thích ứng với điều kiện hoạt động mới của sự phát triển khoa học kỹ thuật và nhu cầu tiêu dùng của nền sản xuất xã hội, phải mua sắm các trang thiết bị mới thay thế cho các trang thiết bị cũ đã lỗi thời, cũng có nghĩa là phải đầu tư.
Đối với các cơ sở vô vị lợi đang tồn tại, để duy trì sự hoạt động, ngoài tiến hành sửa chữa lớn định kỳ các cơ sở vật chất kỹ thuật còn phải thực hiện các chi phí thường xuyên. Tất cả những hoạt động và chi phí này đều là những hoạt động đầu tư.
II. Nguồn vốn đầu tư và nội dung của vốn đầu tư.
1. Bản chất nguồn vốn đầu tư.
Xét về bản chất, nguồn vốn đầu tư chính là phần tiết kiệm hay tích luỹ mà nền kinh tế có thể huy động được để đưa vào quá trình tái sản xuất xã hội. Điều này được cả kinh tế học cổ điển, kinh tế chính trị học Mác - Lênin và kinh tế học hiện đại chứng minh.
Trong tác phẩm “Của cải của các dân tộc” (1776), Adam Smith, một đại diện điển hình của trường phái kinh tế học cổ điển đã cho rằng: “ Tiết kiệm là nguyên nhân trực tiếp gia tăng vốn. Lao động tạo ra sản phẩm để tích luỹ cho quá trình tiết kiệm. Nhưng dù có tạo ra bao nhiêu chăng nữa, nhưng không có tiết kiệm thì vốn không bao giờ tăng lên”.
Sang thế kỷ XIX, khi nghiên cứu về cân đối kinh tế, về mối quan hệ giữa các khu vực của nền sản xuất xã hội, về các vấn đề trực tiếp liên quan đến tích luỹ, C.Mác đã chứng minh rằng: trong một nền kinh tế với hai khu vực, khu vực I sản xuất tư liệu sản xuất và khu vực II sản xuất tư liệu tiêu dùng. Cơ cấu tổng giá trị của hai khu vực đều bao gồm (c+v+m) trong đó c là phần tiêu hao vật chất, (v+m) là phần giá trị mới sáng tạo ra. Khi đó, điều kiện để đảm bảo tái sản xuất mở rộng không ngừng thì nền sản xuất xã hội phải đảm bảo (v+m) của khu vực I lớn hơn tiêu hao vật chất (c) của khu vực II. Tức là:
(v+m)I > cII
Hay nói cách khác:
(c+v+m)I > cII+cI
Điều này có nghĩa rằng, tư liệu sản xuất được tạo ra ở khu vực I không chỉ bồi hoàn tiêu hao vật chất của toàn bộ nền kinh tế (của cả hai khu vực) mà còn phải dư thừa để đầu tư làm tăng quy mô tư liệu sản xuất trong quá trình sản xuất tiếp theo.
Đối với khu vực II yêu cầu phải đảm bảo:
(c+v+m) II < (v+m) I +(v+m) II
Có nghĩa là toàn bộ giá trị mới của cả hai khu vực phải lớn hơn giá trị sản phẩm sản xuất ra của khu vực II. Chỉ khi điều kiện này được thoả mãn, nền kinh tế mới có thể dành một phần thu nhập để tái sản xuất mở rộng. Từ đó quy mô vốn đầu tư cũng sẽ gia tăng.
Như vậy, để đảm bảo gia tăng nguồn lực cho sản xuất, gia tăng quy mô đầu tư, một mặt phải tăng cường sản xuất tư liệu sản xuất ở khu vực I, đồng thời phải sử dụng tiết kiệm tư liệu sản xuất ở cả hai khu vực. Mặt khác phải tăng cường sản xuất tư liệu tiêu dùng ở khu vực II, thực hành tiết kiệm tiêu dùng trong sinh hoạt ở cả hai khu vực.
Với phân tích như trên, chúng ta thấy rằng theo quan điểm của C.Mác, con đường cơ bản và quan trọng về lâu dài để tái sản xuất mở rộng là phát triển sản xuất và thực hành tiết kiệm ở cả trong sản xuất và tiêu dùng. Hay nói cách khác, nguồn lực cho đầu tư tái sản xuất mở rộng chỉ có thể được đáp ứng do sự gia tăng sản xuất và tích luỹ của nền kinh tế.
Quan điểm về nguồn vốn đầu tư lại tiếp tục được các nhà kinh tế học hiện đại chứng minh. Trong tác phẩm nổi tiếng “Lý thuyết tổng quát về việc làm, lãi suất và tiền tệ” của mình, John Maynard Keynes đã chứng minh được rằng: đầu tư chính bằng phần thu nhập mà không chuyển vào tiêu dùng. Đồng thời ông cũng chỉ ra rằng, tiết kiệm chính là phần dôi ra của thu nhập so với tiêu dùng:
Tức là:
Thu nhập = Tiêu dùng + Đầu tư
Tiết kiệm = Thu nhập - Tiêu dùng
Như vậy:
Đầu tư = Tiết kiệm
Theo Keynes, sự cân bằng giữa tiết kiệm và đầu tư xuất phát từ tính chất song phương của các giao dịch giữa một bên là nhà sản xuất và bên kia là người tiêu dùng. Thu nhập chính là phần chênh lệch giữa doanh thu từ bán hàng hoá hoặc cung ứng dịch vụ và tổng chi phí. Nhưng toàn bộ sản phẩm sản xuất ra phải được bán hết cho người tiêu dùng hoặc cho các nhà sản xuất khác. Vì vậy, xét về tổng thể, phần dôi ra của thu nhập so với tiêu dùng mà người ta gọi là tiết kiệm không thể khác với phần gia tăng năng lực sản xuất mà người ta gọi là đầu tư.
Tuy nhiên điều kiện cân bằng trên chỉ đạt được trong nền kinh tế đóng. Trong đó phần tiết kiệm của nền kinh tế bao gồm tiết kiệm của khu vực tư nhân và tiết kiệm của chính phủ. Điểm cần lưu ý là tiết kiệm và đầu tư xem xét trên góc độ toàn bộ nền kinh tế không nhất thiết được tiến hành bởi cùng một cá nhân hay doanh nghiệp nào. Có thể có cá nhân, doanh nghiệp tại một thời điểm nào đó có tích luỹ nhưng không trực tiếp tham gia đầu tư. Trong khi đó, có một số cá nhân, doanh nghiệp lại thực hiện đầu tư khi chưa hoặc tích luỹ chưa đủ. Khi đó thị trường vốn sẽ tham gia giải quyết vấn đề bằng việc điều tiết khoản vốn từ nguồn dư thừa hoặc tạm thời dư thừa sang cho người có nhu cầu sử dụng. Ví dụ, nhà đầu tư có thể phát hành cổ phiếu, trái phiếu (trên cơ sở một số điều kiện nhất định, theo quy trình nhất định) để huy động vốn thực hiện một dự án nào đó từ các doanh nghiệp và hộ gia đình - người có vốn dư thừa.
Trong nền kinh tế mở, đẳng thức đầu tư bằng tiết kiệm của nền kinh tế không phải bao giờ cũng được thiết lập. Phần tích luỹ của nền kinh tế có thể lớn hơn nhu cầu đầu tư tại nước sở tại, khi đó vốn có thể được chuyển sang nước khác để thực hiện đầu tư. Ngược lại, vốn tích luỹ của nền kinh tế có thể ít hơn nhu cầu đầu tư, khi đó nền kinh tế phải huy động tiết kiệm từ nước ngoài. Trong trường hợp này, mức chênh lệch giữa tiết kiệm và đầu tư được thể hiện trên tài khoản vãng lai:
CA = S - I
Trong đó: CA là tài khoản vãng lai (curent account)
S là tiết kiệm của nền kinh tế (save)
I là đầu tư của nền kinh tế (investment)
Như vậy, trong nền kinh tế mở, nếu nhu cầu đầu tư lớn hơn tích luỹ của nội bộ nền kinh tế và tài khoản vãng lai bị thâm hụt thì có thể huy động vốn đầu tư từ nước ngoài. Khi đó đầu tư nước ngoài hoặc vay nợ có thể trở thành một trong những nguồn vốn quan trọng của nền kinh tế. Nếu tích luỹ của nền kinh tế lớn hơn nhu cầu đầu tư trong nước trong điều kiện thặng dư tài khoản vãng lai thì quốc gia đó có thể đầu tư ra nước ngoài hoặc cho nước ngoài vay vốn nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của nền kinh tế.
2. Nguồn vốn đầu tư.
2.1. Vốn đầu tư của đất nước.
Vốn đầu tư của đất nước nói chung được hình thành từ hai nguồn cơ bản là vốn huy động trong nước và vốn huy động từ nước ngoài.
Vốn đầu tư trong nước được hình thành từ các nguồn sau đây:
+ Vốn tích luỹ từ ngân sách.
+ Vốn tích luỹ của các doanh nghiệp.
+ Vốn tiết kiệm của dân cư.
Vốn huy động từ nước ngoài gồm vốn đầu tư trực tiếp và vốn đầu tư gián tiếp.
+ Vốn đầu tư trực tiếp là vốn của các doanh nghiệp, các cá nhân người nước ngoài đầu tư sang các nước khác và trực tiếp quản lý và tham gia quản lý quá trình sử dụng và thu hồi vốn đã bỏ ra.
+ Vốn đầu tư gián tiếp là vốn của các chính phủ, các tổ chức quốc tế, các tổ chức phi chính phủ được thực hiện dưới các hình thức: viện trợ không hoàn lại, có hoàn lại, cho vay ưu đãi, với thời hạn dài và lãi suất thấp, vốn viện trợ phát triển chính thức của các nước (ODA).
2.2. Vốn đầu tư của các cơ sở.
+ Đối với cơ quan quản lý Nhà nước, các cơ sở hoạt động xã hội, phúc lợi công cộng: vốn đầu tư do ngân sách cấp (tích luỹ từ ngân sách và viện trợ qua ngân sách), vốn viện trợ không hoàn lại trực tiếp cho cơ sở và vốn tự có của cơ sở (bản chất cũng tích luỹ từ phần tiền thừa do dân đóng góp không dùng đến).
+ Đối với các doanh nghiệp quốc doanh, vốn đầu tư được hình thành từ nhiều nguồn hơn bao gồm vốn ngân sách (lấy từ phần tích luỹ của ngân sách), vốn khấu hao cơ bản, vốn viện trợ qua ngân sách, vốn tự có của doanh nghiệp, vốn vay, phát hành trái phiếu, vốn góp liên doanh liên kết với các cá nhân và tổ chức trong và ngoài nước và các hình thức huy động vốn khác theo quy định của Luật doanh nghiệp.
+ Đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, nguồn vốn đầu tư bao gồm vốn tự có, vốn vay, vốn cổ phần, vốn liên doanh, liên kết với các cá nhân và tổ chức trong và ngoài nước. Đối với các công ty cổ phần, vốn đầu tư ngoài các nguồn vốn trên đây còn bao gồm tiền thu được do phát hành trái phiếu (nếu có đủ điều kiện theo quy định của Luật doanh nghiệp).
2.3. Mối quan hệ giữa nguồn vốn trong nước và nguồn vốn nước ngoài.
Trong những năm đầu của thập kỷ 50 thế kỷ XX, nhà kinh tế học Nurkse đã nhấn mạnh đến vai trò của đầu tư và vốn đầu tư trong sự phát triển của nền kinh tế. Nurkse cho rằng việc thiếu vốn đầu tư là một nguyên nhân gây ra tình trạng nghèo đói. Ông đã chỉ ra cái vòng luẩn quẩn của sự nghèo đói:
Về phía cung: Một quốc gia có thu nhập thấp sẽ dẫn dến tích luỹ thấp. Tích luỹ thấp dẫn đến thiếu vốn đầu tư. Thiếu vốn đầu tư dẫn đến năng lực sản xuất bị hạn chế và năng suất lao động cũng không thể cao. Năng lực sản xuất thấp dẫn đến thu nhập thấp.
Về phía cầu: Thu nhập thấp làm cho sức mua thấp, sức mua thấp làm cho động lực gia tăng đầu tư bị hạn chế, đầu tư bị hạn chế sẽ dẫn đến năng lực sản xuất thấp và từ đó cũng sẽ lại dẫn đến thu nhập thấp.
Thực tế cho thấy hầu hết các nước nghèo hiện nay trên thế giới chịu cảnh nghèo đói một phần do những nguyên nhân trên. Tức là sự nghèo đói tại các quốc gia này một phần là do thiếu vốn đầu tư và sự đầu tư thích đáng, có hiệu quả. Nguyên nhân của tình trạng đầu tư hạn chế tại các nước này là do hoặc vì thiếu động lực thúc đẩy đầu tư hoặc vì khả năng tích luỹ của nền kinh tế quá nhỏ.
Điều này cho thấy rằng để phát triển và thực hiện xoá đói giảm nghèo thành công thì phải làm sao phá vỡ được cái vòng luẩn quẩn nói trên. Một trong những biện pháp phá vỡ cái vòng đó là xuất phát từ khía cạnh đầu tư. Nền kinh tế phải tạo được tích luỹ để tăng quy mô vốn đầu tư, từ đó tăng năng lực sản xuất và cuối cùng là gia tăng thu nhập.
Tích tụ vốn cho đầu tư là chìa khoá cho sự tăng trưởng kinh tế được thể hiện trong chính sách và chiến lược phát triển tại nhiều quốc gia; trong đó nhấn mạnh đến nhu cầu vốn trong giai đoạn khởi đầu quá trình công nghiệp hoá, và việc sử dụng một lượng vốn lớn từ nước ngoài là có thể chấp nhận được.
Như vậy nguồn vốn cho đầu tư phát triển bao gồm cả nguồn vốn trong nước và nguồn vốn nước ngoài. Hai nguồn vốn này có mối quan hệ chặt chẽ, hỗ trợ nhau cùng phát huy hiệu quả. Đối với các quốc gia đang phát triển còn trong tình trạng nghèo đói, lạc hậu, thiếu vốn trầm trọng thì việc sử dụng nguồn vốn nước ngoài là một giải pháp hữu hiệu để phá vỡ một mắt xích của cái vòng luẩn quẩn. Nguồn vốn nước ngoài đối với các nước này chủ yếu là ODF và FDI. Nguồn vốn tài trợ phát triển chính thức ODF bao gồm viện trợ phát triển chính thức ODA và các hình thức tài trợ phát triển khác được phân bổ qua ngân sách quốc gia nhằm thực hiện các mục tiêu xã hội: y tế, giáo dục, xoá đói giảm nghèo, xây dựng và nâng cấp hạ tầng, đầu tư cho nông nghiệp - nông thôn... Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI được thực hiện thông qua ba hình thức: Hợp đồng hợp tác kinh doanh, thành lập doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. Nhờ có các nguồn vốn đầu tư từ nước ngoài, các quốc gia đang phát triển có thể giải quyết được những vấn đề cấp bách: vốn và công nghệ hiện đại (so với mặt bằng chung trong nước) cho sản xuất kinh doanh, giải quyết việc làm, nâng cao chất lượng cuộc sống cho người dân, phát triển cơ sở hạ tầng, tăng thu nhập cho người lao động... Từ đó phát triển sản xuất, từng bước có tích luỹ và tiết kiệm. Thực tế cho thấy tại các quốc gia này, chỉ riêng khu vực kinh tế có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đã đóng góp một tỷ lệ lớn vào cơ cấu GDP cả nước và thu ngân sách hàng năm.
Việc sử dụng vốn đầu tư nước ngoài mang lại nhiều hiệu quả song cũng có những ràng buộc về chính trị - xã hội đối với các quốc gia tiếp nhận nó; vì vậy đây chỉ được coi là giải pháp tình thế trước mắt. Đó là những điều kiện về lãi suất, thời hạn vay vốn, tính hiệu quả của dự án, thủ tục chuyển giao vốn và thị trường. Đối với nguồn vốn FDI, chủ đầu tư nhằm mục tiêu thu lợi nhuận cao nhất nên nhiều khi gây ra những tác động tiêu cực: cạnh tranh không lành mạnh, chèn ép các nhà đầu tư trong nước, trốn thuế, khai thác tài nguyên bừa bãi; đầu tư không đồng đều: chỉ đầu tư vào những địa điểm có điều kiện tự nhiên - kinh tế - xã hội thuận lợi; chỉ một bộ phận nhỏ người lao động có thu nhập cao càng gây nên chênh lệch về mức sống giữa các tầng lớp dân cư trong xã hội...
Do đó trong chính sách phát triển của mình, các quốc gia phải đảm bảo mối tương quan hợp lý giữa nguồn vốn đầu tư trong nước và nguồn vốn đầu tư nước ngoài. Cần quán triệt nguyên tắc: Vốn trong nước là quyết định, vốn nước ngoài là quan trọng. Nguồn vốn trong nước có những ưu thế là ổn định, bền vững, giảm thiểu được những hậu quả xấu đối với nền kinh tế do những tác động của thị trường tài chính tiền tệ và kinh tế của các nước khác trên thế giới. Việc sử dụng nguồn vốn trong nước được chủ động, đầu tư đồng đều trong các vùng kinh tế, ngành kinh tế, địa phương trong cả nước. Đặc biệt nguồn vốn ngân sách Nhà nước sẽ được sử dụng làm “mồi” để thu hút các nguồn vốn khác tham gia đầu tư phát triển. Sử dụng có hiệu quả nguồn vốn trong nước sẽ tạo môi trường kinh tế - xã hội ổn định, có tác dụng thu hút vốn đầu tư từ nước ngoài.
Trong dài hạn, một quốc gia muốn có tốc tăng trưởng khá trong khi chưa tăng nhanh được hiệu quả đầu tư (do độ trễ trong thực hiện đầu tư) thì phải đẩy mạnh tiết kiệm, huy động các nguồn vốn trong nước cho đầu tư phát triển; nguồn vốn Nhà nước đầu tư vào các lĩnh vực mà các thành phần kinh tế khác không muốn, không đủ khả năng hoặc không được tham gia; đồng thời cải thiện các khâu quản lý và tạo môi trường huy động vốn đầu tư nước ngoài để tận dụng tối đa các lợi thế so sánh của đất nước; nhanh chóng tạo năng lực tích luỹ nội địa cao để đảm bảo vai trò quyết định của vốn đầu tư trong nước đối với tăng trưởng và phát triển.
3. Nội dung của vốn đầu tư.
Để tiến hành mọi công cuộc đầu tư phát triển đòi hỏi phải xem xét các khoản chi phí sau đây:
+ Vốn đầu tư xây dựng cơ bản, tạo nên tài sản cố định trong nền kinh tế. Đây là chi phí đầu tư chủ yếu, bao gồm chi phí cho việc khảo sát quy hoạch xây dựng, chuẩn bị đầu tư, chi phí thiết kế và xây dựng, chi phí mua sắm, lắp đặt thiết bị và các chi phí khác ghi trong tổng dự toán. Chúng chiếm phần lớn vốn đầu tư phát triển và rất được quan tâm trong chi tiêu ngân sách.
+ Vốn sửa chữa lớn tài sản cố định, góp phần tái tạo tài sản cố định trong nền kinh tế. Đây là số vốn quan trọng có ý nghĩa đảm bảo cho quá trình tái sản xuất. Nguồn vốn này lấy từ vốn khấu hao sửa chữa lớn vẫn được hạch toán. Hai khoản đầu tư xây dựng cơ bản và vốn sửa chữa lớn chiếm tới trên 85% tổng vốn đầu tư phát triển.
+ Vốn lưu động bổ sung tăng (+) hoặc giảm (-) trong nền kinh tế. Nguồn vốn lưu động rất quan trọng để đảm bảo tái sản xuất không ngừng mở rộng. Vấn đề phát triển nguồn vốn này càng phải đặc biệt quan tâm khi muốn đẩy mạnh sản xuất.
+ Vốn đầu tư phát triển khác như vốn đầu tư thực hiện thông qua các chương trình mục tiêu quốc gia: xoá đói giảm nghèo, hỗ trợ đồng bào vùng sâu vùng xa... Trong những năm gần đây, khoản mục đầu tư này đã và sẽ tăng lên đáng kể.
III. Mối quan hệ giữa đầu tư và phát triển kinh tế - xã hội.
1. Khái niệm và các nhân tố quyết định sự phát triển kinh tế - xã hội.
1.1. Khái niệm và các chỉ tiêu đánh giá.
Khái niệm: Phát triển có thể hiểu là một quá trình lớn lên (hay tăng tiến) về mọi mặt của nền kinh tế - xã hội trong một thời kỳ nhất định. Trong đó bao gồm cả sự tăng thêm về quy mô sản lượng (tăng trưởng) và sự tiến bộ về cơ cấu kinh tế - xã hội.
Những vấn đề cơ bản nhất của định nghĩa trên bao gồm:
+ Trước hết sự phát triển bao gồm sự tăng thêm về khối lượng của cải vật chất, dịch vụ và sự biến đổi tiến bộ về cơ cấu kinh tế và đời sống xã hội.
+ Tăng thêm quy mô sản lượng và tiến bộ về cơ cấu kinh tế - xã hội là hai mặt có mối quan hệ vừa phụ thuộc vừa độc lập tương đối của lượng và chất.
+ Sự phát triển là một quá trình tiến hoá theo thời gian do các yếu tố nội tại của bản thân nền kinh tế quyết định. Có nghĩa là người dân của quốc gia đó phải là những thành viên chủ yếu tác động đến sự biến đổi kinh tế - xã hội của đất nước. Họ là những người tham gia vào quá trình hoạt động kinh tế và được hưởng lợi ích do hoạt động này đưa lại.
+ Kết quả của quá trình phát triển kinh tế - xã hội là kết quả của một quá trình vận động khách quan; còn mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội đề ra là thể hiện sự tiếp cận tới các kết quả đó.
Các chỉ tiêu đánh giá sự phát triển kinh tế - xã hội:
+ Các đại lượng đo lường sự tăng trưởng kinh tế: Tổng sản phẩm quốc nội (GDP), Tổng sản phẩm quốc dân (GNP), Sản phẩm quốc dân thuần tuý (NNP), Thu nhập quốc dân sản xuất (NI), Thu nhập quốc dân sử dụng (NDI), Thu nhập bình quân đầu người...
+ Các chỉ số xã hội của phát triển phản ánh sự biến đổi cơ cấu kinh tế - xã hội: tuổi thọ bình quân trong dân số, mức tăng dân số hàng năm, số calo bình quân đầu người, tỷ lệ người có học (biết chữ) trong dân số. Các chỉ số về phát triển kinh tế - xã hội: chăm sóc sức khoẻ (số giường bệnh, số bệnh viện, số bác sỹ/1 triệu dân... ), về giáo dục và văn hoá (tổng số giáo sư, tiến sỹ, số lớp và trường học... ), sự công bằng xã hội trong phân phối sản phẩm.
1.2. Các nhân tố quyết định sự phát triển kinh tế - xã hội.
Vốn sản xuất: là một bộ phận của tài sản quốc gia được trực tiếp sử dụng vào quá trình sản xuất hiện tại cùng với các yếu tố sản xuất khác để tạo ra hàng hoá sản phẩm (đầu ra). Nó bao gồm các máy móc thiết bị, phương tiện vận tải, nhà kho và cơ sở hạ tầng kỹ thuật (không tính tài nguyên thiên nhiên). Vốn sản xuất chiếm phần lớn vốn đầu tư phát triển. Trong điều kiện năng suất lao động không đổi thì tăng tổng số vốn sẽ làm tăng thêm sản lượng. Hoặc trong khi số lao động không đổi thì tăng thêm vốn bình quân đầu người cũng sẽ làm gia tăng sản lượng.
Đất đai và các tài nguyên thiên nhiên khác: đất đai là yếu tố quan trọng trong sản xuất nông nghiệp, kể cả sản xuất công nghiệp hiện đại cũng không thể không có đất đai (._.mặt bằng sản xuất). Do diện tích đất đai là có hạn, người ta phải nâng cao hiệu quả sử dụng đất đai bằng cách đầu tư thêm lao động và vốn trên một đơn vị diện tích để tăng thêm sản phẩm. Điều này càng cho thấy vai trò của vốn là rất quan trọng. Các tài nguyên khác cũng là đầu vào trong sản xuất. Nguồn tài nguyên thiên nhiên dồi dào, phong phú được khai thác sẽ làm tăng sản lượng một cách nhanh chóng; nhất là ở các nước đang phát triển, việc khai thác và bán tài nguyên thiên nhiên sẽ giải quyết nhu cầu trước mắt về vốn cho phát triển. Tài nguyên gồm hai loại: tài nguyên có thể tái tạo và tài nguyên không thể tái tạo. Do đó trong khai thác và sử dụng cần chú ý: bảo tồn và phục hồi tài nguyên tái tạo, đảm bảo tốc độ khai thác thấp hơn tốc độ phục hồi; sử dụng tiết kiệm và tìm nguồn thay thế tài nguyên không tái tạo, đảm bảo phát triển bền vững, bảo vệ môi trường.
Những thành tựu khoa học kỹ thuật và công nghệ mới: là đầu vào đóng vai trò cực kỳ quan trọng trong sự tiến bộ của các nước NICs trong mấy chục năm gần đây. Những chi phí cho việc mua kỹ thuật và công nghệ mới ở các nước kém phát triển rõ ràng là đỡ tốn kém thời gian và của cải hơn nhiều so với việc phải đầu tư để có những phát minh mới.
Lao động: Người ta nhận thấy rằng cùng sự đầu tư trang bị kỹ thuật và công nghệ như nhau nhưng ở các nước công nghiệp tiên tiến và có trình độ văn hoá trong nhân dân cao hơn sẽ đưa lại năng suất lao động cao hơn và sự tăng trưởng cao hơn. Điều đó cho thấy chất lượng lao động hay nhân tố con người đã tạo ra sự gia tăng sản lượng. Chất lượng lao động bao gồm những hiểu biết chung (trình độ văn hoá phổ thông), những kỹ năng kỹ thuật được đào tạo, kinh nghiệm và sự khéo léo tích luỹ trong lao động, ý thức tổ chức kỷ luật và ý thức đạt tới hiệu quả trong công việc. Để có được đội ngũ những người lao động và kinh doanh giỏi (động lực để tạo được sự tăng trưởng cao) thì phải có đầu tư cao trong lĩnh vực giáo dục đào tạo và phải có thời gian.
Các chính sách vĩ mô của Nhà nước: Mỗi ngành, mỗi khu vực sản xuất vật chất có năng suất khác nhau. Sự đổi mới cơ cấu kinh tế vĩ mô làm cho các khu vực, các ngành có năng suất cao chiếm tỷ trọng lớn trong nền kinh tế, tất yếu sẽ làm cho sản lượng tăng thêm. Sự đổi mới trong cơ cấu thể hiện ở sự bố trí các nguồn lực cho cơ cấu mới, bố trí lại cơ cấu tích luỹ, tiêu dùng và các biện pháp tạo cung, tạo cầu. Điều đó làm cho các nhân tố tích cực được nhân lên và giảm bớt một cách tương đối những chi phí cũng như đưa lại hiệu quả như một sự đầu tư. Như vậy tổ chức và quản lý kinh tế được coi như một nhân tố làm tăng thêm sản lượng.
Một thể chế phù hợp với sự phát triển hiện đại phải đảm bảo:
+ Phải có tính năng động và mềm dẻo, nhạy cảm, luôn thích nghi được với những biến động phức tạp do tình hình thế giới và trong nước xảy ra khó lường trước.
+ Phải đảm bảo được sự ổn định của đất nước, khắc phục được những mâu thuẫn và xung đột xảy ra trong quá trình phát triển.
+ Phải tạo cho nền kinh tế mở một sự hoạt động có hiệu quả nhằm tranh thủ được vốn đầu tư và công nghệ tiên tiến của thế giới là cơ sở của sự tăng tốc trong quá trình phát triển.
+ Tạo được đội ngũ đông đảo những người có năng lực quản lý, có trình độ khoa học kỹ thuật tiên tiến đủ sức lựa chọn và áp dụng thành công các kỹ thuật và công nghệ tiên tiến vào sản xuất trong nước cũng như đổi mới cơ chế quản lý kinh tế.
+ Tạo được một sự kích thích mạnh mẽ mọi tiềm lực vật chất trong nước hướng vào đầu tư cho sản xuất và xuất khẩu.
+ Phải đảm bảo mục tiêu phát triển bền vững, công bằng xã hội, dân chủ, giữ vững an ninh quốc phòng, đem lại cuộc sống ấm no, đầy đủ về vật chất và tinh thần cho mọi người dân.
Các nhân tố khác: Khi đề cập đến khái niệm phát triển kinh tế đã cho thấy ngoài những chỉ tiêu thông thường để đánh giá sự tiến bộ xã hội, mỗi quốc gia, dân tộc có những quan niệm riêng về sự phát triển. Các quan niệm đó nhiều khi không phải là vấn đề kinh tế - của cải vật chất và sự phân phối, tiêu dùng nó trong cuộc sống hàng ngày mà nó thể hiện cả một quan niệm về cuộc sống, về lối sống, về địa vị của mỗi cá nhân, gia đình, tập thể trong cộng đồng xã hội. Có thể liệt kê một loạt các nhân tố: địa vị con người trong cộng đồng, cơ cấu gia đình, cơ cấu giai cấp - xã hội, cơ cấu dân tộc, cơ cấu tôn giáo, cơ cấu và quy mô các đơn vị cộng đồng trong xã hội, đặc điểm văn hoá - xã hội, tính chất và đặc điểm chung của dân tộc, thể chế chính trị - xã hội, khí hậu, địa lý tự nhiên cũng là những nhân tố phi kinh tế của sự phát triển.
2. Tác động của đầu tư đối với phát triển kinh tế - xã hội.
2.1. Tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
2.1.1. Đầu tư với tăng trưởng và phát triển.
Một trong những vai trò quan trọng của đầu tư phát triển là tác động tới tăng trưởng và phát triển kinh tế mà mức tăng GDP chính là biểu hiện cụ thể nhất của tăng trưởng.
Mức tăng GDP
=
Vốn đầu tư
ICOR
ở các nước phát triển, ICOR thường lớn, từ 5 - 7 do thừa vốn, thiếu lao động; vốn được sử dụng nhiều để thay thế lao động, do sử dụng công nghệ hiện đại có giá cao. Còn ở các nước chậm phát triển, ICOR thấp thường từ 2 - 3 do thiếu vốn, thừa lao động nên có thể và cần phải sử dụng nhiều lao động để thay thế cho vốn, do sử dụng công nghệ kém hiện đại, giá rẻ.
Chỉ tiêu ICOR của mỗi nước phụ thuộc nhiều nhân tố và thay đổi theo trình độ phát triển kinh tế và cơ chế chính sách trong nước. Kinh nghiệm phát triển của các nước cho thấy, chỉ tiêu ICOR phụ thuộc mạnh vào cơ cấu kinh tế và hiệu quả đầu tư trong các ngành, các vùng lãnh thổ cũng như phụ thuộc vào hiệu quả của chính sách kinh tế nói chung. Thông thường ICOR trong nông nghiệp và ICOR trong giai đoạn chuyển đổi cơ chế thấp do tận dụng năng lực sản xuất. Do đó ở các nước phát triển, tỷ lệ đầu tư thấp thường dẫn đến tốc độ tăng trưởng thấp.
Phát triển kinh tế là một quá trình lớn lên về mọi mặt của nền kinh tế trong một thời kỳ nhất định, bao gồm sự gia tăng thêm về mặt quy mô, sản lượng và sự tiến bộ về cơ cấu kinh tế xã hội. Đối với các nước đang phát triển, phát triển về mặt bản chất được coi là vấn đề đảm bảo các nguồn vốn đầu tư đủ để đạt được một tỷ lệ tăng thêm sản phẩm quốc dân dự kiến. ở nhiều nước, đầu tư đóng vai trò như một “cú hích ban đầu” tạo đà cho sự cất cánh của nền kinh tế.
Phát triển phải được hiểu một cách đầy đủ bao gồm tăng trưởng kinh tế bền vững và tiến bộ xã hội. Đây là tiền đề tạo ra các nguồn lực: nhân lực, tài lực, vật lực cho sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế đất nước.
2.1.2. Đầu tư phát triển và quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Có thể nói, quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế là một đặc trưng vốn có của phát triển kinh tế dài hạn. Mô hình chung nhất của hầu hết các nước trên thế giới là một nền kinh tế năng động: công nghiệp hoá cùng với sự phát triển cân đối giữa các ngành, phát triển hệ thống tài chính, tăng cường các mối quan hệ tài chính nhằm khuyến khích đạt tỷ lệ đầu tư cao; vai trò quan trọng của chính phủ trong việc hoạch định chính sách điều chỉnh có khả năng đối phó với những biến động bất thường trong nước cũng như trên thế giới.
Như vậy, quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế của một quốc gia chịu ảnh hưởng của một hệ thống nhân tố: những đòi hỏi tất yếu của xu thế toàn cầu hoá là phải có một nền kinh tế có khả năng hội nhập và cạnh tranh; chính sách điều chỉnh của chính phủ; sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ; lợi thế so sánh của quốc gia; số lượng và chất lượng nguồn nhân lực; sự phát triển của hệ thống tài chính. Đối với các nước đang phát triển, để có thể tranh thủ được những ảnh hưởng tích cực từ những nhân tố sẵn có cũng như tạo ra những nhân tố mới đòi hỏi phải có một lượng vốn lớn đáp ứng nhu cầu đầu tư phát triển mới có thể hình thành những tiền đề cho quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Từ đó có thể thấy: huy động vốn và sử dụng đồng vốn hạn chế một cách có hiệu quả: đầu tư vào đâu, khi nào và bao nhiêu là những vấn đề có tính chiến lược, có tác động trực tiếp đến sự tăng trưởng, phát triển và chuyển dịch cơ cấu kinh tế của một quốc gia.
2.2. Tiến bộ công nghệ trong sản xuất kinh doanh.
Đầu tư đóng vai trò là chất keo liên kết con người với đối tượng lao độngvà quy trình công nghệ để tạo ra sản phẩm mới. Hiện nay các khoản đầu tư mới đã chú ý nhiều đến yếu tố khoa học công nghệ và tăng cường kỹ năng quản lý hiện đại. Các hình thức đầu tư đổi mới công nghệ bao gồm:
+ Nhập máy móc thanh toán bằng ngoại tệ.
+ Nhập máy móc thanh toán bằng sản phẩm.
+ Nhập từng phần, còn lại chế tạo trong nước.
+ Kết hợp giữa doanh nghiệp và giới khoa học công nghệ thực hiện chương trình nghiên cứu và triển khai áp dụng khoa học công nghệ vào sản xuất kinh doanh.
+ Thuê mượn máy móc thiết bị, thuê mua tài chính.
+ Tự nghiên cứu chế tạo thiết bị trên cơ sở các nguyên lý công nghệ chuyên ngành.
+ Các hình thức khác: đào tạo và chuyển giao công nghệ, mua các sáng chế công nghệ, thuê mượn nhãn mác sản phẩm...
Đầu tư phát triển khả năng công nghệ qua hai khía cạnh chính là: chuyển giao công nghệ sẵn có từ bên ngoài (chủ yếu qua hình thức FDI) và phát triển các cơ sở nghiên cứu, ứng dụng khoa học công nghệ của đất nước. Phần lớn công nghệ được chuyển giao dưới các hạng mục chủ yếu như: những tiến bộ công nghệ, sản phẩm công nghệ, công nghệ thiết kế và xây dựng, kỹ thuật kiểm tra chất lượng, công nghệ quản lý, công nghệ marketing... Ngoài việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài để tạo cơ hội tiếp nhận tiến bộ kỹ thuật và công nghệ, các quốc gia vẫn có thể dùng ngoại tệ có được nhờ xuất khẩu để nhập công nghệ mới về phục vụ các nhu cầu sản xuất kinh doanh. Ngoài ra trong quá trình sử dụng công nghệ nước ngoài, các nhà đầu tư và phát triển công nghệ trong nước học được cách thiết kế, chế tạo công nghệ nguồn, sau đó cải biến cho phù hợp với điều kiện sử dụng của địa phương và biến chúng thành công nghệ của mình.
Để nâng cao được sức cạnh tranh của sản phẩm hàng hoá xuất khẩu trên thị trường quốc tế, Việt Nam cần chú trọng tới việc đầu tư đổi mới công nghệ, sử dụng dây chuyền sản xuất tiên tiến và hiện đại, sản xuất ra các sản phẩm có chất lượng tốt, hình thức đẹp, giá thành hạ... Trong các ngành kinh tế mũi nhọn của đất nước: viễn thông, dầu khí, hoá chất, điện tử, tin học, ô tô, xe máy... thì đầu tư phát triển khoa học công nghệ là điều kiện tiên quyết để phát triển ngành. Một số ví dụ có thể kể đến là công nghệ khai thác dầu khí ngoài khơi, lắp đặt tổng đài kỹ thuật số, rô-bốt, dây chuyền tự động lắp ráp hàng điện tử, mạch điện tử; công nghệ chế tạo máy biến thế, cáp thông tin, cáp điện. Trong hệ thống doanh nghiệp công nghiệp Nhà nước sau khi sắp xếp lại được củng cố và đầu tư đổi mới công nghệ từ vốn của Nhà nước, vốn vay, vốn doanh nghiệp tự tích luỹ. Nhờ đó, các doanh nghiệp công nghiệp Nhà nước đã đổi mới đáng kể phần cứng (thiết bị) của công nghệ, tăng được năng lực sản xuất các mặt hàng chủ yếu, tiếp đến đổi mới phần tổ chức của công nghệ tạo điều kiện để kết hợp tốt nguồn nhân lực chất lượng cao với công nghệ mới.
2.3. Nâng cấp và làm mới hạ tầng.
Gia tăng đầu tư, trong đó có đầu tư xây dựng hạ tầng cơ sở, đầu tư cho phát triển hạ tầng kinh tế - xã hội sẽ thúc đẩy sản xuất phát triển. Tăng vốn đầu tư xây dựng cơ bản là một trong các biện pháp quan trọng và có ý nghĩa lớn về kinh tế - xã hội, tạo ra nhiều công trình xây dựng mới, nâng cấp và tăng cường cơ sở hạ tầng. Bằng số vốn từ ngân sách Nhà nước và huy động trong dân cư thông qua phát hành công trái xây dựng Tổ quốc, Nhà nước đã tăng cường các chương trình đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng ở nông thôn (gồm hệ thống đường sá, cầu cống, đê điều, kênh mương, cầu cống, cơ sở phơi, sấy, sơ chế, chế biến nông sản, hệ thống thông tin, hệ thống giáo dục, y tế, văn hoá... ) và dành một khoản vốn tín dụng ưu đãi cho ngân sách cấp tỉnh, thành phố để nâng cấp các công trình cơ sở hạ tầng ở nông thôn.
Hệ thống điện, đường giao thông, thuỷ lợi, cấp thoát nước và chiếu sáng đô thị, trường học, bệnh viện đã được chú trọng đầu tư đồng bộ nhờ có đầu tư của Nhà nước.
Về xây dựng kết cấu hạ tầng các khu công nghiệp: Những năm gần đây Chính phủ đã coi trọng việc xây dựng kết cấu hạ tầng các khu công nghiệp cho thuê làm mặt bằng sản xuất kinh doanh, cho xây dựng nhiều khu công nghiệp và khu chế xuất. Hàng năm Chính phủ có kế hoạch chuẩn bị ngân sách để đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng các khu công nghiệp.
2.4. Tăng khả năng cạnh tranh và xuất khẩu.
Đầu tư thoả đáng là biện pháp tăng khả năng cạnh tranh và xuất khẩu cho nền kinh tế. Đầu tư không chỉ nhằm gia tăng sản lượng mà cần chú trọng tới việc nâng cao năng suất, chất lượng và hạ giá thành sản phẩm. Cần tập trung cho các ngành sản xuất hàng xuất khẩu và các dự án nâng cao cấp độ chế biến. Chẳng hạn thuỷ sản là mặt hàng có khả năng xuất khẩu lớn và còn nhiều tiềm năng do hàng thuỷ sản Việt Nam khá đa dạng và được ưa chuộng trên thị trường thế giới; song giá trị xuất khẩu của mặt hàng này còn có thể đạt cao hơn hiện nay nếu chúng ta có trình độ công nghệ chế biến cao, chất lượng tốt. Hay như ngành dệt may và giầy dép, việc tăng cường đầu tư sản xuất nguyên phụ liệu đầu vào, thu hút đầu tư nước ngoài sẽ góp phần mở rộng thị trường, tăng cường khả năng thâm nhập thị trường quốc tế. Việc đầu tư cho khâu sản xuất nguyên liệu bông và tơ tằm sẽ phát triển ngành dệt may, đầu tư cho giống gia súc sẽ góp phần phát triển ngành giày dép... Đi đôi với đầu tư giống là việc đầu tư sau thu hoạch; do đó chính sách ưu đãi đầu tư là một biện pháp tốt để hỗ trợ cho xuất khẩu: khuyến khích đầu tư các dự án đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng hàng hoá và khâu kiểm tra chất lượng sản phẩm đối với các mặt hàng xuất khẩu để thúc đẩy doanh nghiệp quan tâm hơn đến vấn đề công nghệ, nhất là công nghệ sạch.
Đầu tư nước ngoài và phát triển hợp lý các khu công nghiệp, khu chế xuất đã đóng góp một phần đáng kể cho xuất khẩu. Các chính sách ưu đãi cho doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu cũng khuyến khích các doanh nghiệp nước ngoài gia tăng xuất khẩu.
Đầu tư của Nhà nước được tập trung cho các khâu đòi hỏi vốn lớn, có tác dụng cho nhiều doanh nghiệp như: nghiên cứu khoa học, xây dựng bến bãi, kho tàng, cảng... Nhà nước đã ban hành các chính sách ưu đãi để khuyến khích cá nhân và doanh nghiệp chủ động đầu tư hướng mạnh vào xuất khẩu. Thực tế cho thấy có một chính sách đầu tư hợp lý và thoả đáng sẽ thúc đẩy các ngành hàng tăng thêm khả năng cạnh tranh và xuất khẩu.
2.5. Đầu tư góp phần nâng cao chất lượng sống cho người dân.
Trong quá trình phát triển, Đảng và Nhà nước ta luôn kiên định con đường xã hội chủ nghĩa với mục tiêu: “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Vì vậy tăng trưởng và phát triển kinh tế luôn được gắn liền với nhiệm vụ đảm bảo xã hội, giữ vững an ninh quốc phòng. Trong những năm gần đây lĩnh vực xã hội thường xuyên được quan tâm đầu tư phát triển. Nguồn vốn đầu tư chủ yếu là nguồn vốn Nhà nước và một phần huy động từ dân cư. Nhờ đó các mặt văn hoá, xã hội đã có sự phát triển đáng kể. Các chương trình quốc gia: phổ cập giáo dục, xoá đói giảm nghèo, nước sạch nông thôn, chương trình trồng 5 triệu ha rừng... đã góp phần nâng cao đời sống nhân dân và đổi mới bộ mặt nông thôn. Cơ sở hạ tầng đô thị và nông thôn được đầu tư phát triển tương đối đồng bộ. Công tác chăm sóc sức khoẻ và kế hoạch hoá gia đình đã mang lại nhiều kết quả tích cực. Các chương trình kế hoạch hoá đầu tư từ cộng đồng được chú trọng tiến hành, có sự tham gia ý kiến của nhân dân vào các khâu: quy hoạch, tiến hành đầu tư, triển khai dự án... về các công trình phúc lợi chung như: điện, đường, trường, trạm, vệ sinh nước sạch, chợ, thuỷ lợi nhỏ.
3. Phát triển kinh tế - xã hội tác động trở lại sự tăng vốn và hiệu quả trong đầu tư.
3.1. Gia tăng tiết kiệm và tích luỹ trong nước.
Trong lịch sử các tư tưởng kinh tế, đầu tư và tích luỹ vốn cho đầu tư ngày càng được xem là một nhân tố quan trọng cho sản xuất, cho việc gia tăng năng lực sản xuất và cung ứng dịch vụ cho nền kinh tế và cho sự tăng trưởng. Việc tích tụ vốn cho đầu tư sẽ cho phép dân số và lực lượng lao động gia tăng, cuung cấp những người lao động với những trang thiết bị tốt hơn và quan trọng hơn là có thể tạo ra việc phân công lao động một cách rộng rãi hơn. Việc tăng vốn đầu tư sẽ làm tăng cả tổng sản lượng và sản lượng bình quân mỗi lao động, tăng tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế.
Ngược lại, một nền kinh tế tăng trưởng cao, tạo được sự chuyển biến tăng tích luỹ từ mức thấp lên mức trung bình và mức cao để tăng quy mô đầu tư từ đó tăng năng lực sản xuất và cuối cùng là gia tăng thu nhập. Nghiên cứu sự phát triển kinh tế của các nước đang phát triển trong 4 hay 5 thập kỷ qua cho thấy rằng các quốc gia phát triển hàng đầu trong các nước đó là những nước có tỷ lệ tích luỹ vốn cao nhất; còn những nước kém phát triển nhất là những nước có tỷ lệ đầu tư thấp nhất.
3.2. Nền kinh tế ổn định và tăng trưởng cao là điều kiện thu hút vốn đầu tư nước ngoài.
Môi trường đầu tư nước ngoài là tổng hoà các yếu tố có ảnh hưởng đến công cuộc đầu tư của các nhà đầu tư nước ngoài ở nước tiếp nhận đầu tư. Nó bao gồm các yếu tố: tình hình chính trị, chính sách, pháp luật, vị trí địa lý - điều kiện tự nhiên, trình độ kinh tế, đặc điểm văn hoá - xã hội. Các nhóm yếu tố này có thể làm tăng khả năng sinh lãi hoặc rủi ro cho các nhà đầu tư.
Tình hình ổn định chính trị của nước tiếp nhận đầu tư là cơ sở quan trọng hàng đầu, là tiền đề cần thiết để ổn định tình hình kinh tế - xã hội, giảm rủi ro cho các nhà đầu tư. Một nước không thể thu hút được nhiều vốn đầu tư nước ngoài nếu tình hình chính trị luôn mất ổn định.
Môi trường pháp lý hợp lý và ổn định đảm bảo quyền lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài cũng là một yếu tố được các nhà đầu tư quan tâm. Một môi trường pháp lý hấp dẫn đầu tư nước ngoài nếu có các chính sách, quy định hợp lý và có tính hiệu lực cao trong thực hiện.
Vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên thuận lợi sẽ giảm được chi phí vận chuyển, đa dạng hoá các lĩnh vực đầu tư, cung cấp được nguồn nguyên liệu đầu vào phong phú với giá rẻ và tiềm năng tiêu thụ lớn. Những yếu tố này không những làm giảm được giá thành sản phẩm mà còn thu hút được các nhà đầu tư tìm kiếm nguồn nguyên liệu tự nhiên và thị trường tiêu thụ.
Trình độ phát triển của nền kinh tế là các mức độ phát triển về quản lý kinh tế vĩ mô, cơ sở hạ tầng, chất lượng cung cấp dịch vụ cho các hoạt động kinh doanh của các nhà đầu tư nước ngoài và mức độ cạnh tranh của thị trường nước chủ nhà. Những nước có trình độ quản lý vĩ mô kém thường dẫn tới tình trạng lạm phát cao, nợ nước ngoài lớn, tốc độ tăng trưởng kinh tế thấp, các thủ tục hành chính rườm rà, nạn tham nhũng... Kinh tế - xã hội phát triển đảm bảo cơ sở hạ tầng và dịch vụ tạo ra những điều kiện thuận lợi và giảm chi phí phát sinh cho các hoạt động đầu tư. Cơ sở hạ tầng cứng bao gồm các yếu tố như sân bay, cảng biển, giao thông, điện lực, viễn thông; còn cơ sở hạ tầng mềm bao gồm chất lượng lao động, dịch vụ công nghệ, hệ thống tài chính.
Đặc điểm văn hoá - xã hội của nước chủ nhà sẽ hấp dẫn đầu tư nước ngoài nếu có trình độ giáo dục cao và nhiều sự tương đồng. Các đặc điểm này không chỉ giảm được chi phí đào tạo nguồn nhân lực cho các nhà đầu tư nước ngoài mà còn tạo cho họ điều kiện hoà nhập vào cộng đồng nước sở tại.
Bên cạnh đó, việc sử dụng nguồn vốn nước ngoài có hiệu quả kinh tế - xã hội cao, đảm bảo khả năng thu hồi vốn và trả nợ sẽ là nhân tố quyết định để các quốc gia, các tổ chức quốc tế... cho vay ưu đãi, viện trợ phát triển.
3.3. Phát triển kinh tế - xã hội nâng cao hiệu quả đầu tư.
Quá trình phát triển kinh tế - xã hội ở các quốc gia đang phát triển tất yếu sẽ dẫn tới chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo xu hướng tăng dần tỷ trọng ngành công nghiệp - xây dựng - dịch vụ và giảm dần tỷ trọng ngành nông - lâm - ngư nghiệp trong cơ cấu GDP.
Nền kinh tế thị trường cùng với cơ cấu kinh tế dần chuyển dịch theo hướng tích cực sẽ tác động tới cơ cấu đầu tư theo hướng: tăng đầu tư vào những ngành, vùng có lợi thế về tài nguyên, vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên và lao động nhằm tạo ra những sản phẩm hàng hoá có khả năng cạnh tranh; đầu tư phát triển nền nông nghiệp hàng hoá, đầu tư vào những ngành có suất đầu tư thấp. Cùng với quá trình này, hiệu quả đầu tư sẽ được tăng lên.
IV. Kinh nghiệm đầu tư phát triển tại một số địa phương trong nước.
1. Kinh nghiệm thu hút và quản lý đầu tư ở Hải Phòng.
Trong giai đoạn 1996 - 2000, công tác thu hút vốn đầu tư ở Hải Phòng đạt được kết quả cao. Nguồn vốn đầu tư trong nước có tốc độ tăng trưởng nhanh hơn và dần chiếm tỷ trọng cao (hơn 65%) trong tổng vốn đầu tư. Nguồn vốn huy động từ khu vực dân cư và doanh nghiệp tương đối lớn. Vốn tín dụng đầu tư đã được các doanh nghiệp quan tâm và mạnh dạn vay để đầu tư. Tỷ lệ vốn thực hiện đối với các dự án có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt gần 60%, cao hơn nhiều so với mức bình quân cả nước. Nhiều dự án có tốc độ triển khai nhanh và sớm đi vào sản xuất so với kế hoạch. Có được những kết quả đó là do Hải Phòng đã thực hiện tốt công tác thu hút và quản lý đầu tư.
Cơ cấu thu hút đầu tư:
+ Ưu tiên đầu tư cải tạo, nâng cấp và xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng.
+ Đầu tư phát triển công nghiệp theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá hướng vào xuất khẩu. Định hướng đầu tư cho lĩnh vực này là từng bước đầu tư đổi mới trang thiết bị, công nghệ, hình thành các doanh nghiệp công nghiệp hiện đại, tạo ra những sản phẩm có chất lượng cao, đủ sức cạnh tranh trên thị trường trong nước và hội nhập khu vực, quốc tế, thúc đẩy quá trình công nghiệp hoá nông thôn.
+ Đầu tư cải tạo, xây dựng mới các công trình văn hoá - xã hội. Mục tiêu đầu tư của lĩnh vực này là phát triển sự nghiệp giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ, bảo vệ sức khoẻ, văn hoá - thông tin, thể dục thể thao để nâng cao dân trí, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, tạo bước chuyển biến trong việc phát triển, hoàn thiện con người, phục vụ tốt hơn sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá.
Một số giải pháp thu hút, sử dụng và quản lý có hiệu quả vốn đầu tư:
+ Huy động vốn trong nước: đẩy mạnh việc thu hút vốn đầu tư của doanh nghiệp cũng như của nhân dân với các hình thức:
- Mở rộng các hình thức xây dựng các công trình hạ tầng bằng cách huy động các nguồn vốn hỗn hợp (vốn ngân sách, vốn vay trong và ngoài nước, trái phiếu công trình, vốn góp của các công ty, vốn góp của các địa phương, vốn của dân... ) với nhiều cơ chế ưu đãi.
- Đẩy nhanh việc thực hiện cổ phần hoá tạo bước đi vững chắc trên diện rộng. Có hình thức linh hoạt thu hút vốn cổ phần, kết hợp cổ phần hoá với thay đổi cơ cấu sản xuất của doanh nghiệp kể cả việc chuyển hướng kinh doanh, đảm bảo quyền lợi của cổ đông. Vấn đề quan trọng là đảm bảo quyền lợi, tạo được sự tin tưởng, ủng hộ của cổ đông,
- Huy động sự đóng góp của nhân dân cho nhu cầu đầu tư phát triển, kể cả vốn và công lao động theo phương châm “ Nhà nước và nhân dân cùng làm” để xây dựng hè đường giao thông, kiên cố hoá kênh mương, lưới điện, lớp học, nước sạch, trạm xá...
- Tạo nguồn thu, bồi dưỡng nguồn thu, chống thất thu, thất thoát. Quản lý chặt chẽ quỹ đất xây dựng, thu đủ thuế và các loại phí. Thực hiện nghiêm chỉnh các luật thuế, phấn đấu mức thu ngân sách tăng hàng năm.
- Xây dựng các cụm công nghiệp dành cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
+ Định hướng thu hút đầu tư nước ngoài:
- Tập trung cao độ các dự án công nghệ kỹ thuật cao. Đầu tư vào khu công nghiệp, khu chế xuất, nhanh chóng lấp đầy các khu công nghiệp, khu chế xuất.
- Phát triển các dự án sửa chữa tàu biển, công nghiệp hoá chất, công nghiệp điện tử.
- Thu hút đầu tư phát triển các ngành công nghiệp chế biến thuỷ sản, nông sản.
- Tăng cường quản lý dự án làm cho vốn thực hiện nhanh, nâng cao hiệu quả vốn đầu tư. Khuyến khích các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài mở rộng quy mô, mục tiêu của dự án hay đầu tư vào các dự án mới ở địa phương.
2. Kinh nghiệm phát triển kinh tế tư nhân ở Đà Nẵng.
Đà Nẵng là thành phố trực thuộc Trung ương, trung tâm kinh tế ở khu vực miền Trung và Tây Nguyên, là một trong những khu vực có nhịp độ phát triển kinh tế sôi động nhất trong cả nước. Thành phần kinh tế tư nhân giữ một vị trí quan trọng trong cơ cấu kinh tế của Đà Nẵng. Vì vậy trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của mình, thành phố Đà Nẵng đã tạo nhiều thuận lợi cho thành phần kinh tế tư nhân phát triển. Một số biện pháp tích cực như sau:
+ Tiếp tục đổi mới và hoàn thiện hệ thống chính sách:
- Ưu đãi, khuyến khích đầu tư, khuyến khích các doanh nghiệp tư nhân đầu tư vào các ngành nghề theo chiến lược, quy hoạch đề ra. Sớm cụ thể hoá các quy định vay vốn từ quỹ hỗ trợ đầu tư, công khai các điều kiện ưu đãi, các đối tượng ưu đãi để doanh nghiệp tư nhân có thể vay vốn từ quỹ này theo luật định.
- Giảm thuế thu nhập doanh nghiệp từ 32% xuống còn 20% giúp doanh nghiệp tích luỹ mở rộng sản xuất kinh doanh, đưa công nghệ mới vào sản xuất.
- Xem xét miễn thuế giá trị gia tăng đối với cơ sở sản xuất mới thành lập 3 năm đầu và giảm 50% trong 3 năm tiếp theo; ưu đãi thuế cho cơ sở sử dụng nhiều lao động.
- Ngân hàng cần đánh giá thẩm định tính khả thi của dự án với từng loại hình doanh nghiệp, hộ kinh doanh.
- Sớm cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với các diện tích mà khu vực kinh tế tư nhân đang sử dụng. Cho thuê đất và ưu đãi tiền thuê đất đối với các doanh nghiệp có chiến lược kinh doanh và dự án khả thi.
- Kiện toàn tổ chức bộ máy quản lý Nhà nước đối với hoạt động của kinh tế tư nhân. Có cơ chế kiểm tra sau đăng kí kinh doanh; cập nhật thông tin, tuyên truyền hướng dẫn chính sách pháp luật của Nhà nước đối với kinh tế tư nhân.Tạo môi trường tâm lý - kinh tế - xã hội cho khu vực kinh tế tư nhân: động viên, khen thưởng những cá nhân, doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả, chấp hành đúng pháp luật. Tìm hiểu, giải quyết những khó khăn, vướng mắc để tạo tâm lý yên tâm, phấn khởi, hăng hái đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh.
- Kinh tế tư nhân có xu hướng phát triển ngày càng mạnh mẽ về số lượng và chất lượng. Vì vậy các cơ sở kinh doanh trong khu vực kinh tế tư nhân phải hình thành các tổ chức Đảng, công đoàn, đoàn thanh niên, hội phụ nữ... để đảm bảo kinh tế tư nhân phát triển theo đúng định hướng xã hội chủ nghĩa.
3. Kinh nghiệm đầu tư phát triển nuôi trồng thuỷ sản nước lợ ở huyện Tiền Hải - Tỉnh Thái Bình.
Tiền Hải là một huyện ven biển nằm phía đông nam tỉnh Thái Bình giáp huyện Giao Thuỷ - Nam Định. Tiền Hải có điều kiện tự nhiên phù hợp cho ngành thuỷ sản phát triển. Trong 5 năm 1995 - 2000 diện tích và sản lượng nuôi trồng thuỷ sản nước lợ của huyện có bước tăng trưởng khá mạnh; hình thức nuôi trồng thuỷ sản đã có bước cải tiến đáng kể làm cho năng suất nuôi trồng ngày càng tăng lên. Đầu tư cho các yếu tố sản xuất cho nuôi trồng thuỷ sản tăng mạnh nhằm đáp ứng yêu cầu tăng diện tích và cải tiến hình thức nuôi trồng thuỷ sản. Nhờ nuôi trồng thuỷ sản đã góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động của huyện theo hướng tích cực.
Để phát triển nghề nuôi trồng thuỷ sản nước lợ, Tiền Hải đã có một số biện pháp nhằm khai thác tốt hơn tiềm năng nuôi trồng thuỷ sản nước lợ như sau:
+ Tổ chức khảo sát toàn diện để xây dựng hợp lý quy hoạch sử dụng đất vùng ven biển.
- Nghiên cứu, xác định chuyển diện tích trồng lúa có năng suất thấp sang nuôi trồng thuỷ sản.
- Xác định các vùng sinh thái của toàn bộ diện tích nuôi trồng thuỷ sản để lựa chọn đối tượng nuôi trồng thích hợp.
- Trên cơ sở diện tích và phương thức nuôi trồng xác định theo quy hoạch, tiến hành giao đất ổn định, lâu dài để nhân dân yên tâm đầu tư và phát triển sản xuất; vùng nuôi thâm canh giao 20 năm, các vùng quảng canh cải tiến và bán thâm canh giao 15 năm.
+ Chuyển dịch cơ cấu nuôi trồng thuỷ sản trên cơ sở các vùng đã quy hoạch nhằm khai thác tốt tiềm năng, nâng cao hiệu quả nuôi trồng thuỷ sản.
Trên cơ sở đặc điểm nuôi trồng tự nhiên, tập quán nuôi trồng, các điều kiện kỹ thuật cho phép đã xác định hai phương hướng cơ bản:
- Đẩy mạnh đầu tư phát triển nuôi cua nhằm giải quyết thời vụ sau khi thu hoạch tôm sú và khai thác các lợi thế của vùng.
- Mở rộng diện tích trồng rau câu ở vùng có nồng độ muối thấp, đất bãi cao, nền đáy là đất thịt. Đây là loại sản phẩm cho lợi nhuận tương đối cao trong khi chi phí sản xuất tương đối thấp so với tôm cua, kỹ thuật đơn giản, dễ chăm sóc.
+ Đẩy mạnh nghiên cứu, phổ biến, áp dụng công nghệ và kỹ thuật nuôi trồng thuỷ sản tiên tiến. Chuyển từ phương thức nuôi phổ biến là quảng canh sang bán thâm canh và thâm canh. Do vốn đầu tư còn hạn chế nên cần nghiên cứu áp dụng công nghệ mới ở từng khâu: công nghệ sản xuất giống, công nghệ kiểm tra - xử lý môi trường, chẩn đoán và phòng trừ dịch bệnh, công nghệ bảo quản sau thu hoạch. Về kỹ thuật nuôi trồng, có biện pháp nghiên cứu áp dụng với từng loại hải sản: điều kiện ao nuôi, mật độ thả, chế độ chăm sóc và thu hoạch... Về đảm bảo giống, chủ yếu nhập giống từ các tỉnh lân cận và miền Trung; cần đầu tư xây dựng các trạm trung chuyển, thuần dưỡng trước khi thả; xây dựng trại giống nhỏ, thí nghiệm để phát triển trại giống đáp ứng nhu cầu trên địa bàn.
+ Tăng cường các hoạt động hỗ trợ để phát triển nuôi trồng thuỷ sản:
- Về vốn đầu tư: tăng quỹ cho vay vốn lãi suất ưu đãi, thời hạn cho vay từ 3 đến 5 năm. ổn định giao diện tích lâu dài để khuyến khích ngư dân bỏ vốn đầu tư.
- Về thị trường: Nhà nước cần bảo đảm 3 mặt: giống nuôi, thức ăn chế biến và thị trường tiêu thụ. Từ sau năm 2003, ngoài khâu giống, thức ăn cần xây dựng các cơ sở chế biến thuỷ sản để xử lý khối lượng sản phẩm tăng nhanh.
- Tăng cường các hoạt động khuyến ngư như tổ chức các hoạt động tham quan, khảo sát, học hỏi kinh nghiệm cho cán bộ, ngư dân. Trợ giá cho khâu ươm nuôi giống; phổ biến và hướng dẫn kỹ thuật các khâu: nuôi trồng, chăm sóc, chế biến, bảo vệ môi trường.
Chương II
tình hình đầu tư phát triển kinh tế - xã hội ở tỉnh nam định giai đoạn 1998 - 2003
I. Khái quát đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội của tỉnh Nam Định có ảnh hưởng đến đầu tư phát triển.
1. Vị trí địa lý - khí hậu.
Nam Định là tỉnh thuộc cực nam châu thổ sông Hồng, nằm trong giới hạn 19o52’ -20o30’ vĩ độ Bắc và 105o55’ - 106o35’ kinh độ Đông; phía bắc giáp tỉnh Hà Nam, phía đông bắc giáp tỉnh Thái Bình, phía tây giáp tỉnh Ninh Bình, phía đông nam và nam g._.m Định, Công ty cổ phần dây lưới thép, Xí nghiệp xe đạp, xe máy, Xí nghiệp đúc Trường Thành và Xí nghiệp cơ khí Xuân Tiến.
+ Khởi công xây dựng xưởng sản xuất moayơ xe đạp công suất 500.000 đôi/năm.
+ Nghiên cứu lập dự án xây dựng xưởng đóng mới và sửa chữa tàu biển Thịnh Long và Xí nghiệp chế tạo thiết bị điện tử dân dụng và điện tử công nghiệp tại thành phố Nam Định.
+ Hình thành các cụm cơ khí nhỏ sửa chữa máy nông nghiệp và máy chế biến nông sản, thuỷ sản tại các huyện lị và thị trấn, thị tứ.
2.2.4. Công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng.
Theo quy hoạch phát triển toàn tỉnh Nam Định giai đoạn 2001 - 2010, tốc độ phát triển bình quân hàng năm của ngành công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng phải đạt 13% và chiếm tỷ trọng 7% trong giá trị sản xuất toàn ngành công nghiệp trên địa bàn tỉnh Để đạt được mục tiêu này, trong những năm tới, tỉnh Nam Định sẽ tiếp tục đầu tư nâng công suất các xí nghiệp gạch Trực Ninh, Xuân Châu, Vụ Bản, Nam Ninh. Nghĩa Hưng, Châu Thành, Nam An đồng thời xây dựng mới xí nghiệp gạch Giao Thuỷ và Xí nghiệp gạch Hải Hậu để đến năm 2010 sản lượng gạch tuynel đạt 410 triệu viên. Mặt khác tỉnh còn đầu tư phát triển sản xuất tấm lợp, tấm vách ngăn với sản lượng dự kiến đạt 3 - 4 triệu tấn vào năm 2010. Sau năm 2005, khi nguồn khí Thái Bình được sử dụng vào sản xuất, tỉnh sẽ xây dựng một nhà máy sản xuất gạch men sứ, gạch ốp lát, sứ cách điện, sứ vệ sinh công suất 1 triệu m2/năm.
2.2.5. Các ngành công nghiệp khác.
Ngoài các ngành công nghiệp chủ yếu trên, để tạo điều kiện tăng tích luỹ cho nền kinh tế, đảm bảo cho quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, tỉnh Nam Định sẽ tập trung phát triển một số ngành công nghiệp khác như: chế biến các sản phẩm từ gỗ, tre, thủ công mỹ nghệ, thêu ren, in ấn, thuốc chữa bệnh, hoá chất... Các ngành nghề này phát triển gắn với sự phát triển của các làng nghề truyền thống quy mô vừa và nhỏ hướng vào sản xuất hàng xuất khẩu. Dự kiến mức tăng trưởng bình quân của các ngành công nghiệp khác khoảng 12 - 13%/năm và đến năm 2010 chiếm khoảng 17,6% giá trị sản xuất toàn ngành công nghiệp của tỉnh.
2.2.6. Định hướng xây dựng các khu, cụm công nghiệp tập trung.
Cùng với quy hoạch phát triển các ngành công nghiệp chủ lực, trong 10 năm 2001 - 2010, tỉnh Nam Định đã, đang và sẽ tiếp tục tập trung hình thành các cụm, khu công nghiệp tập trung sau: Khu công nghiệp Hoà Xá phía tây nam thành phố Nam Định: quy mô định hình khoảng 500 ha, trước mắt 150 ha, sau đó 300 ha và sẽ nâng lên 500 ha; hướng bố trí các ngành công nghiệp chế biến nông sản thực phẩm, đồ uống; các dịch vụ nghề biển, dệt may, da giầy, chỉ tua, máy nông nghiệp, lắp ráp máy móc, điện tử công nghiệp và điện tử dân dụng, sản xuất vật liệu xây dựng, sản xuất vật liệu xây dựng cao cấp, vật liệu trang trí nội thất, sản xuất hàng tiêu dùng và dịch vụ. Cùng với khu công nghiệp Hoà Xá, 15 cụm công nghiệp nông thôn đã được thành lập ở các địa phương trong tỉnh. Trong đó các cụm công nghiệp đã tiến hành đầu tư xây dựng hạ tầng là: Nam Giang (Nam Trực), Xuân Tiến (Xuân Trường), Yên Xá, Yên Ninh(ý Yên), Thịnh Long (Hải Hậu)..., 3 cụm đã cơ bản hoàn thiện cơ sở hạ tầng để doanh nghiệp vào đầu tư xây dựng. Khu công nghệ cao Mỹ Trung cũng đã được quy hoạch và đang chuẩn bị thực hiện giải phóng mặt bằng.
2.3. Phát triển thương mại và dịch vụ.
Tỉnh Nam Định sẽ phát triển thương mại và dịch vụ theo hướng đa dạng hoá nhằm tăng nhanh chủng loại, số lượng và nâng cao chất lượng hàng hoá, dịch vụ đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trên thị trường trong nước và xuất khẩu góp phần giải quyết nhiều việc làm, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Phấn đấu đưa tổng mức bán lẻ hàng hoá và dịch vụ tăng bình quân mỗi năm 8 - 9% và kim ngạch xuất khẩu năm 2010 đạt 150 triệu USD, trong đó địa phương trực tiếp xuất khẩu đạt 75 - 80 triệu USD; chú trọng xuất khẩu hàng hoá nông sản thực phẩm, thuỷ hải sản đã qua chế biến. Dự kiến năm 2010 các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của tỉnh sẽ đạt mức như sau: thịt đông lạnh 6. 000 tấn; thuỷ sản đông lạnh 2.000 tấn; gạo 45 - 50 nghìn tấn; hàng dệt kim 10 triệu sản phẩm, hàng may mặc 12 triệu sản phẩm, hàng mây tre đan 10 triệu sản phẩm; hàng thủ công mỹ nghệ trị giá 15 triệu USD. Mở rộng thị trường sang các nước Tây âu và Mỹ để phát triển mạnh xuất khẩu hàng may mặc, hàng thủ công mỹ nghệ và các mặt hàng xuất khẩu mới.
Tổng giá trị nhập khẩu đến năm 2010 dự kiến khoảng 70 - 80 triệu USD, tập trung chủ yếu nhập khẩu máy móc, thiết bị phục vụ các ngành sản xuất của tỉnh. Nhịp độ tăng trưởng giá trị nhập khẩu hàng năm bình quân 16 - 17%.
Ngoài ra tỉnh Nam Định sẽ mở rộng và nâng cao chất lượng các loại hình dịch vụ tài chính, ngân hàng, dịch vụ bảo hiểm, dịch vụ tư vấn công nghệ, tư vấn đầu tư, tư vấn pháp luật. Phát triển dịch vụ vận tải đường bộ, đường sông và đường biển, đưa khối lượng hành khách luân chuyển tăng bình quân mỗi năm 7 - 8%; khối lượng hàng hoá luân chuyển tăng bình quân 8%/năm. Đa dạng hoá và nâng cao chất lượng các loại hình du lịch, kết hợp du lịch biển với nghỉ mát, du lịch sinh thái với nghiên cứu khoa học - môi trường, du lịch tham quan lễ hội, di tích lịch sử, văn hoá với tham quan các làng nghề, du lịch hội nghị, hội thảo với du lịch biển và tham quan các danh thắng. Hoàn thành quy hoạch tổng thể phát triển du lịch của tỉnh, khai thác những tiềm năng sẵn có để tạo ra sản phẩm du lịch độc đáo của địa phương. Đầu tư tu bổ, tôn tạo di tích lịch sử, di tích văn hoá, đồng thời xây dựng kết cấu hạ tầng, khách sạn, nhà nghỉ phục vụ khách du lịch, hội nghị, hội thảo quốc tế tại thành phố Nam Định, thị trấn Thịnh Long (huyện Hải Hậu) và Quất Lâm (huyện Giao Thuỷ).
2.4. Phát triển kết cấu hạ tầng.
2.4.1. Mạng lưới giao thông vận tải.
Từ nay đến năm 2010, tỉnh Nam Định sẽ tập trung đầu tư xây dựng các công trình vận tải then chốt sau:
+ Hoàn thành nâng cấp quốc lộ 10, quốc lộ 21 đoạn Nam Định - Lạc Quần đạt tiêu chuẩn cấp III đồng bằng, đoạn Lạc Quần - Yên Định - Thịnh Long đạt tiêu chuẩn cấp IV đồng bằng.
+ Nâng cấp các tuyến tỉnh lộ 54, 55, 56, và 51B đạt tiêu chuẩn cấp IV đồng bằng cùng tất cả các cầu trên đường đảm bảo cho xe trọng tải H13 đi lại an toàn.
+ Nâng cấp cảng Hải Thịnh từ công suất xếp dỡ hàng hoá 30 vạn tấn/năm hiện nay lên 1 triệu tấn/năm với 4 - 6 cầu tàu, đồng thời cải tạo cảng sông Nam Định, nạo vét cửa Lạch Giang, cửa Đáy, cửa Mom Rô
+ Xây dựng thêm 12 - 16 bến xe liên tỉnh, 25 - 30 bến xe nội tỉnh và khôi phục đoạn đường sắt nối cảng sông Nam Định với ga xe lửa Nam Định.
2.4.2. Hệ thống thuỷ lợi và cung cấp nước sạch.
Tỉnh Nam Định sẽ tiếp tục đầu tư cho thuỷ lợi theo hướng triển khai mạnh chương trình kiên cố hoá kênh mương, góp phần đưa hệ số tưới trên phạm vi toàn tỉnh lên 1,25 l/s/ha; hệ số tiêu của các huyện phía bắc lên 5,41 l/s/ha; hệ số thau chua rửa mặn ở các huyện ven biển lên 1,75 l/s/ha. Củng cố hệ thống đê sông và đê biển, đảm bảo an toàn khi nước lũ ở Hà Nội ở mức + 13,1 m và Phủ Lý ở mức + 5,8 m, bão cấp 10 với triều cường P5% + 2,29 m. Chú trọng đầu tư xây dựng hệ thống cấp nước cho các cơ sở sản xuất kinh doanh và nước sạch phục vụ sinh hoạt của dân cư trong vùng ven biển. Phấn đấu đến năm 2005 mỗi người dân thành phố Nam Định được cung cấp 100 - 120 lít/ngày đêm và đến năm 2010 có 80% dân cư trên địa bàn tỉnh Nam Định được dùng nước sinh hoạt hợp vệ sinh.
2.4.3. Hệ thống cấp điện.
Đến năm 2010 hoàn thành việc cải tạo và xây dựng các trạm điện 110, 220 KV, các trạm trung gian và lưới điện hạ thế trên phạm vi toàn tỉnh để trong những năm 2001 - 2005 mức tiêu thụ điện năng trên địa bàn tỉnh tăng bình quân mỗi năm 11% và trong những năm 2006 - 2010 tăng 9,5%/năm. Dự kiến đến năm 2005 điện năng tiêu thụ trên địa bàn tỉnh đạt 600 - 640 triệu KWh với mức tiêu thụ bình quân 310 KWh/người và năm 2010 điện năng tiêu thụ 900 - 970 triệu KWh với mức bình quân 430 KWh/người.
2.4.4. Bưu chính viễn thông.
Đầu tư phát triển mạnh mạng lưới bưu chính viễn thông theo hướng hiện đại và đồng bộ. Phát triển thêm số bưu cục để đảm bảo bán kính phục vụ của mỗi bưu cục trong khoảng 2,3 - 2,4 km; nâng mật độ máy điện thoại từ 2,2 máy/ 100 dân hiện nay lên 5 - 6 máy/ 100 dân vào năm 2010.
2.5. Phát triển các lĩnh vực xã hội.
2.5.1. Giáo dục và đào tạo.
Phấn đấu đến năm 2010 toàn tỉnh Nam Định có 40% số trường mầm non và 80% số trường tiểu học đạt trường chuẩn quốc gia; 40% trường trung học cơ sở và 30% số trường phổ thông trung học đạt trườmg chuẩn cấp tỉnh. Tỉnh sẽ tiếp tục thực hiện xã hội hoá công tác giáo dục đào tạo với hai hình thức là công lập và dân lập nhằm nâng cao dân trí, nhân lực và bồi dưỡng nhân tài. Phát động phong trào toàn dân xây dựng cơ sở vật chất cho ngành giáo dục - đào tạo để đến năm 2010 tất cả các lớp học phổ thông trong tỉnh đều được xây dựng cao tầng hoặc kiên cố. Đa dạng hoá hình thức phổ cập và đào tạo nghề cho người lao động, nâng tỷ lệ lao động qua đào tạo lên 30 - 33% năm 2005, 40 - 50% vào năm 2010.
2.5.2. Y tế và chăm sóc sức khoẻ dân cư.
Tỉnh Nam Định sẽ tiếp tục đầu tư thoả đáng cho chương trình thanh toán các bệnh xã hội như lao, phong và ngăn ngừa lây nhiễm AIDS. Đẩy mạnh công tác chăm sóc sức khoẻ bà mẹ và trẻ em, đảm bảo tiêm phòng cho trẻ dưới 1 tuổi đạt 98 - 99%. Giảm tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi bị suy dinh dưỡng xuống còn dưới 15% vào năm 2005, dưới 15% vào năm 2010. Tăng tuổi thọ bình quân dân số trong tỉnh lên 70 tuổi; giảm tỷ lệ sinh bình quân mỗi năm 0,03 - 0,04%, đến năm 2005 tỷ lệ tăng dân số tự nhiên của tỉnh là 0,9%. Từ năm 2005 trở đi bố trí đủ bác sỹ cho các trạm y tế xã, phường. Đầu tư cho lĩnh vực này được thực hiện dưới các hình thức: tăng cường cơ sở vật chất, nâng cấp phòng khám, trạm xá, cung cấp đủ trang thiết bị, thuốc men… và công tác tuyên truyền rộng rãi trong dân cư.
2.5.3. Văn hoá, thông tin và thể dục thể thao.
Phấn đấu đến năm 2010 có 70% số hộ gia đình, 60% làng, xóm, khu phố đạt tiêu chuẩn văn hoá và 100% số hộ gia đình có phương tiện nghe nhìn. Phát động sâu rộng phong trào thể dục thể thao rèn luyện nâng cao sức khoẻ trong toàn tỉnh, đồng thời quan tâm đầu tư đúng mức để xây dựng lực lượng thể thao thành tích cao để tham gia thi đấu tại các giải trong nước và quốc tế.
2.5.4. Các vấn đề xã hội khác.
Về vấn đề giải quyết việc làm, tỉnh Nam Định phấn đấu đến năm 2010 tỷ lệ thất nghiệp của lao động trong khu vực thành thị chỉ còn ở mức dưới 4%; tăng tỷ lệ sử dụng thời gian lao động ở nông thôn lên 80 - 85%. Để những con số trên trở thành hiện thực, tỉnh sẽ tiếp tục thực hiện các biện pháp khuyến khích đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh đối với mọi thành phần kinh tế để bình quân mỗi năm tạo thêm 4 vạn chỗ làm việc mới. Cần thực hiện đồng bộ và có hiệu quả các giải pháp xoá đói giảm nghèo để đến năm 2010 số hộ nghèo trong tỉnh giảm xuống chỉ còn dưới 5% (theo tiêu chuẩn mới).
Về công tác đảm bảo xã hội bắt buộc: tỉnh Nam Định tiếp tục đảo đảm chế độ chính sách cho các đối tượng hưởng BHXH, chăm lo tốt hơn đối với các gia đình chính sách, những người có công với cách mạng để họ có mức sống khá hơn hoặc bằng mức sống trung bình ở địa phương trên cơ sở kết hợp 3 nguồn: Nhà nước, cộng đồng và cá nhân các đối tượng chính sách. Mở rộng phát triển các nguồn thu BHXH cho mọi đối tượng. Duy trì và phát triển các quỹ Uống nước nhớ nguồn, quỹ tình thương, làm tốt công tác nhân đạo, từ thiện.
2.6. Định hướng phát triển các vùng, các tuyến hành lang kinh tế và đô thị.
2.6.1. Phát triển các vùng kinh tế.
Căn cứ vào đặc điểm tự nhiên, địa lý kinh tế, tập quán canh tác, thực trạng kinh tế - xã hội, tiềm năng, lợi thế so sánh và yêu cầu phát triển chung của toàn tỉnh cũng như của từng vùng, Nam Định đã nêu ra quy hoạch phát triển 3 vùng kinh tế: (1) vùng kinh tế biển; (2) vùng sản xuất nông nghiệp; (3) vùng kinh tế trung tâm tỉnh.
+ Vùng kinh tế biển bao gồm các huyện Giao Thuỷ, Nghĩa Hưng, Hải Hậu và vùng thềm lục địa. Đối với vùng này, kinh tế biển sẽ là mũi nhọn, do vậy:
- Triển khai mạnh mẽ chương trình nuôi trồng, đánh bắt và chế biến thuỷ sản.
- Tận dụng mặt nước hồ, đầm ven biển để nuôi trồng thuỷ sản nước lợ và nước mặn.
- Nâng cao hiệu quả các đội tàu đánh bắt hải sản xa bờ và hiệu quả sử dụng các cảng cá, cảng thương mại Hải Thịnh.
- Quy hoạch lại vùng sản xuất muối.
- Phát triển các dịch vụ du lịch, nghỉ mát, hình thành các điểm du lịch Quất Lâm, Hải Long, Hải Thịnh, Cồn Lu - Cồn Ngạn.
+ Vùng sản xuất nông nghiệp (vùng nội đồng) gồm các huyện Xuân Trường, Trực Ninh, Nam Trực, ý Yên, Vụ Bản và Mỹ Lộc. Theo quy hoạch, trọng tâm của đầu tư phát triển vùng này là phát triển nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá, đa dạng hoá sản phẩm, lấy thâm canh tăng năng suất là biện pháp chính; đồng thời gắn sản xuất với phát triển công nghiệp chế biến nông sản, nhất là chế biến nông sản xuất khẩu. Phát triển mạnh vụ đông trồng cây mùa lương thực và cây thực phẩm có giá trị kinh tế cao. Phát triển chăn nuôi gắn với công nghiệp chế biến có trình độ công nghệ hiện đại. Để thực hiện được mục tiêu chiến lược này, tỉnh Nam Định sẽ từng bước xây dựng kết cấu hạ tầng thiết yếu trong vùng, hình thành các thị trấn, thị tứ, đẩy mạnh quá trình đô thị hoá. Trước mắt, tập trung đầu tư hoàn chỉnh và tìm các biện pháp phát huy hiệu quả các điểm giao thông quan trọng trong vùng như quốc lộ 10, quốc lộ 21, các tuyến tỉnh lộ 12, 55, 56, 57, 63...
+ Vùng kinh tế trung tâm tỉnh, bao gồm thành phố Nam Định và các khu vực phụ cận. Mô hình kinh tế của vùng này là công nghiệp - dịch vụ với hướng ưu tiên là phát triển công nghiệp, trước hết là dệt may, da giầy, thủ công mỹ nghệ, chế biến thực phẩm, đồ uống, cơ khí và điện tử. Ngoài ra còn đầu tư phát triển các ngành thương mại, tín dụng ngân hàng, bưu chính - viễn thông, cơ sở hạ tầng đô thị, phúc lợi công cộng. Chú trọng công tác quy hoạch đô thị và quản lý đô thị theo quy hoạch nhằm từng bước hiện đại hoá, đưa thành phố Nam Định thành trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá phía nam đồng bằng sông Hồng.
2.6.2. Phát triển các tuyến hành lang kinh tế và đô thị.
Chương trình phát triển các tuyến hành lang kinh tế và đô thị đã được xây dựng với 3 tuyến chính: (1) Tuyến từ thị trấn Mỹ Lộc đến Thịnh Long; (2) Tuyến từ thành phố Nam Định đến thị trấn Rạng Đông; (3) Tuyến từ thành phố Nam Định đến giáp thị xã Ninh Bình.
Tuyến thị trấn Mỹ Lộc chạy dọc theo quốc lộ 21 đến Thịnh Long; ngoài thành phố Nam Định được quy hoạch đến năm 2010 có 32 vạn dân, còn có một số thị trấn khác như: thị trấn Mỹ Lộc, thị trấn Cổ Lễ, thị trấn sông Ninh, thị trấn Yên Định, thị trấn Cồn, thị trấn Thịnh Long, thị trấn Ngô Đồng và thị trấn Quất Lâm.
Tuyến từ thành phố Nam Định chạy dọc theo tỉnh lộ 55 đến thị trấn Rạng Đông bao gồm 3 thị trấn là Chợ Chùa, Liễu Đề và Rạng Đông.
Tuyến từ thành phố Nam Định chạy dọc theo quốc lộ 10 đến giáp thị xã Ninh Bình gồm thị trấn Gôi và thị trấn Lâm.
Ngoài thành phố Nam Định và các thị trấn nêu trên, đến năm 2010 Nam Định sẽ đầu tư mở rộng quy mô, nâng cấp chất lượng các công trình kết cấu hạ tầng của các hệ thống thị tứ: chợ Dần và Kim Thái (thuộc huyện Vụ Bản); Quỹ Nhất, Hải Lạng, Nghĩa Phú và Nghĩa Sơn (thuộc huyện Nghĩa Hưng); Chợ Bo, Yên Thắng và Yên Tiến (thuộc huyện ý Yên); Xuân Tiến, Bùi Chu, Hành Thiện, Xuân Bắc (thuộc huyện Xuân Trường); Liêm Hải, Trung Đông, Cát Thành và Trực Thuận ( thuộc huyện Trực Ninh); Tam Thôn, Nam Hồng, Điền Xá (thuộc huyện Nam Trực); Đặng Xá, Mỹ Hà, Mỹ Tiến và Mỹ Phúc (thuộc huyện Mỹ Lộc); Bạch Long, Đại Đồng và Chợ Bể (huyện Giao Thuỷ); Hải Cường và Văn Lý (huyện Hải Hậu).
3. Hoàn thiện cơ chế chính sách tạo môi trường thuận lợi cho đầu tư phát triển.
Để tạo môi trường thuận lợi cho thu hút vốn đầu tư và phát huy hiệu quả của các dự án đầu tư, trong thời gian tới, tỉnh Nam Định cần tiếp tục hoàn thiện hệ thống cơ chế chính sách, tăng cường công tác quản lý đầu tư để mọi thành phần kinh tế có điều kiện tham gia đầu tư phát triển kinh tế xã hội.
+ Tăng cường công tác quản lý nguồn vốn Nhà nước, vốn tín dụng tránh tình trạng tham ô, lãng phí, thất thoát vốn, chậm tiến độ. Để đảm bảo đầu tư đúng định hướng, phù hợp với quy hoạch phát triển kinh tế xã hội, quy hoạch ngành, lãnh thổ, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư cần đổi mới tổ chức quản lý và chính sách đầu tư theo chương trình dự án. Tất cả các công trình, dự án đầu tư đều phải tuân thủ nghiêm ngặt Quy chế đầu tư xây dựng, Luật xây dựng, Quy chế đấu thầu… theo pháp luật hiện hành. Đây là điều kiện tiên quyết đảm bảo cho quá trình đầu tư thực hiện thông suốt và có hiệu quả. Các nguồn vốn tín dụng ưu đãi theo kế hoạch Nhà nước phải được tập trung vào một đầu mối để UBND tỉnh và Sở Tài chính Vật giá thống nhất quản lý.
+ Tăng cường áp dụng hình thức đấu thầu rộng rãi trong đầu tư, xây dựng để nâng cao hiệu quả và tiết kiệm trong sử dụng vốn, nhất là vốn Nhà nước.
+ Công tác quy hoạch phải hướng vào nâng cao chất lượng xây dựng chiến lược phát triển ngành, vùng và toàn bộ nền kinh tế của tỉnh. Nâng cao chất lượng công tác dự báo những khả năng, tiềm năng và xu hướng phát triển làm cơ sở cho việc đề ra những mục tiêu kinh tế xã hội, chính sách, giải pháp và các định hướng về phân bổ nguồn lực. Nâng cao chất lượng công tác xây dựng và thẩm định dự án đầu tư. Nâng cao vai trò của các tổ chức tư vấn đầu tư và xây dựng trong tất cả các giai đoạn của một dự án đầu tư.
+ Quy định rõ trách nhiệm, quyền hạn của chủ đầu tư, cơ quan quyết định đầu tư, cơ quan, tổ chức cấp, cho vay vốn đầu tư từ khâu xây dựng và thẩm định dự án, quyết định đầu tư, xem xét quyết định cấp vốn đầu tư, cho vay, giải ngân và thu hồi vốn vay.
+ Tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân được thuê đất làm mặt bằng sản xuất kinh doanh, đặc biệt là mặt bằng tại các khu công nghiệp, cụm công nghiệp. Ưu đãi về thuế và tín dụng đối với các cơ sở sản xuất kinh doanh mới thành lập, sử dụng nhiều lao động hoặc có dự án sản xuất kinh doanh khả thi; trợ giúp thông tin thị trường, khuyến khích nghiên cứu và ứng dụng công nghệ mới; Tỉnh Nam Định sẽ tiếp tục đẩy mạnh việc dạy nghề, hướng nghiệp, phát triển có tổ chức thị trường lao động. Đặc biệt các doanh nghiệp vừa và nhỏ (vốn dưới 10 tỷ đồng, lao động dưới 300 người) là loại hình sản xuất kinh doanh chiếm đa số tại Nam Định cần được quan tâm hơn trong thời gian tới. Các doanh nghiệp này có ưu điểm là có khả năng toàn dụng vốn, nguồn nhân lực và tài nguyên thiên nhiên mà các doanh nghiệp lớn không làm được; là yếu tố đảm bảo cho các khu công nghiệp tập trung; là cầu nối giữa các ngành, khu vực của nền kinh tế, giữa doanh nghiệp lớn và doanh nghiệp nhỏ theo hướng xã hội hoá... song lại gặp khó khăn về khoa học, công nghệ, thông tin, nhân lực, thị trường, nhất là thiếu vốn cho sản xuất kinh doanh.
+ Hàng năm tỉnh cần có kế hoạch chi ngân sách cho đầu tư xây dựng hạ tầng các khu công nghiệp, cụm công nghiệp.
+ Cân đối thu chi ngân sách, duy trì và nuôi dưỡng nguồn thu, chống thất thu, thất thoát. Quản lý chặt chẽ quỹ đất xây dựng, thu đủ thuế và các loại phí. Thực hiện nghiêm chỉnh các luật thuế. Đảm bảo mức thu ngân sách tăng hàng năm.
+ Phân cấp đầu tư cụ thể theo quy định và khả năng để tăng cường đầu tư bằng nguồn vốn do huyện, xã điều hành.
+ Tỉnh Nam Định cần tập trung, đánh giá, phân loại, lựa chọn những dự án đầu tư đáp ứng hiệu quả kinh tế - xã hội tốt nhất dựa trên cơ sở một hệ thống mục tiêu chính và mục tiêu phụ và các chỉ tiêu hiệu quả kinh tế xã hội của chiến lược phát triển đến năm 2005 và 2010. Từ đó lựa chọn và sắp xếp thứ tự ưu tiên cho các dự án, làm cơ sở vững chắc cho các quyết định đầu tư.
+ Tiếp tục đào tạo, đào tạo lại để liên tục nâng cao trình độ, năng lực, phẩm chất đội ngũ cán bộ quản lý đầu tư. Xây dựng Đảng bộ các cấp trong sạch, vững mạnh. Kiên quyết chống mọi hành vi tiêu cực trong hoạt động đầu tư trên địa bàn tỉnh. Phát động rộng rãi phong trào tiết kiệm trong công tác, trong sản xuất kinh doanh tại các cơ quan, doanh nghiệp, tiết kiệm trong sinh hoạt đối với mọi tầng lớp dân cư trên địa bàn tỉnh.
+ Đầu tư những thiết bị làm việc hiện đại, đồng bộ cho các cơ quan quản lý hoạt động đầu tư. Tạo điều kiện cho Ban quản lý các khu công nghiệp tỉnh Nam Định được đi học tập, tham quan, trao đổi kinh nghiệm với các địa phương khác để nâng cao chất lượng và tiến độ công việc.
+ Tăng cường sự phối hợp đồng bộ giữa Sở Kế hoạch và Đầu tư, Sở Xây dựng, Sở Tài chính - Vật giá, Kho bạc Nhà nước tỉnh dưới sự chỉ đạo nhất quán của UBND tỉnh trong quản lý hoạt động đầu tư ở tất cả các khâu: lập và thẩm định dự án đầu tư, quyết định đầu tư, thực hiện đầu tư, thanh quyết toán công trình...
Như vậy, trong thời gian tới tỉnh Nam Định sẽ tiếp tục phát huy những kết quả đã đạt được trên các mặt chính trị, kinh tế, xã hội, văn hoá, an ninh... , đặc biệt là những thành quả to lớn mà hoạt động đầu tư phát triển đem lại. Để tiếp tục nâng cao hiệu quả đầu tư phát triển kinh tế - xã hội tại Nam Định, một loạt các giải pháp hữu hiệu đã được đề ra và thực hiện, đồng thời luôn có sự điều chỉnh gắn liền với thực tiễn biến đổi không ngừng của đất nước và khu vực. Xác định đi lên bằng nội lực là chủ yếu song chính quyền và nhân dân tỉnh Nam Định vẫn luôn mong có sự quan tâm giúp đỡ nhiều hơn từ phía Đảng và Nhà nước về cơ chế, chính sách, về vốn... để tỉnh Nam Định nhanh chóng trở thành một trong những khu vực kinh tế - văn hoá lớn mạnh của vùng và cả nước.
Kết luận
Giai đoạn 1998 - 2003 là thời kỳ quan trọng, đánh dấu bước chuyển tiếp từ thế kỷ XX sang thế kỷ XXI. Trong giai đoạn phát triển này, đặc biệt trong các năm 2001 - 2003 là những năm đầu của kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2001 - 2005, tỉnh Nam Định đã đạt được nhiều thành tựu trên tất cả các ngành, lĩnh vực. Các nguồn lực cho phát triển của tỉnh, nhất là các nguồn nội lực đã được phát huy và khai thác có hiệu quả, tiếp tục khắc phục những yếu kém trong nền kinh tế xã hội, đẩy nhanh sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá. Tỉnh Nam Định đã tranh thủ mọi nguồn vốn đầu tư phát triển để tập trung cho các ngành, lĩnh vực có tiềm năng, lợi thế, có thị trường tiêu thụ đồng thời nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh trong sản xuất kinh doanh, tạo sự chuyển biến cơ cấu kinh tế theo hướng tăng dần tỷ trọng các ngành công nghiệp, xây dựng và dịch vụ. Nền kinh tế tỉnh Nam Định đã từng bước chủ động hội nhập với vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ và cả nước. Các vấn đề xã hội bức xúc trên địa bàn tỉnh đã được quan tâm phát triển và đầu tư thoả đáng: xoá đói giảm nghèo, giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập và đời sống nhân dân, thực hiện công bằng và tiến bộ xã hội, tăng cường và củng cố quốc phòng an ninh, giữ vững ổn định chính trị và trật tự an toàn xã hội. Sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh luôn giữ vững định hướng Xã hội chủ nghĩa mà Đảng và Bác Hồ đã lựa chọn.
Những kết quả đạt được đã khẳng định đường lối phát triển kinh tế - xã hội đúng đắn của đất nước nói chung và của tỉnh Nam Định nói riêng. Bên cạnh đó trong quá trình phát triển vẫn còn tồn tại những khó khăn, vướng mắc đòi hỏi chính quyền và nhân dân Nam Định phải nỗ lực giải quyết đồng bộ và kịp thời để đạt được các mục tiêu đã đề ra cho giai đoạn phát triển kinh tế - xã hội 2001 - 2005 và các mục tiêu cơ bản đến năm 2010. Trong đó, huy động, sử dụng và quản lý nguồn vốn đầu tư có hiệu quả là một trong những vấn đề cần được quan tâm hàng đầu.
danh mục tài liệu tham khảo
1. Giáo trình "Kinh tế đầu tư" - Trường ĐH Kinh tế Quốc Dân - NXB Thống kê 2003).
2. Giáo trình "Lập và phân tích dự án đầu tư" - Trường ĐH Kinh tế Quốc Dân - NXB Thống kê (2000).
3. Giáo trình "Kinh tế phát triển" - Trường ĐH Kinh tế Quốc Dân - NXB Thống kê (1998).
4. Niên giám thống kê 1998, 1999, 2000, 2001, 2002.
5. Niên giám thống kê tỉnh Nam Định 2002, 2003.
6. Tổng quan quy hoạch phát triển kinh tế xã hội Việt Nam.
7. Kế hoạch hàng năm 2000, 2001, 2002, 2003 của tỉnh Nam Định.
8. Báo Nam Định các số năm 2002, 2003.
9. Tạp chí Kinh tế và Dự báo: số 7/2000; số 10/2000; số 11/2000; số 4/2001; số 5/2002.
10. Tạp chí Kinh tế và Phát triển: số 44/2001; số 45/2001; số 60/2001.
11. Một số tài liệu khác.
Mục lục
Lời mở đầu………………..............................................................……1
Nội dung…………………………………………………………….….……3
Chương I: Cơ sở lý luận chung ……………………………..….....3
I. Một số vấn đề lý luận chung về đầu tư và đầu tư phát triển………………………………………...…………………………..…….3
1. Đầu tư…………………………………………………………….……….3
2. Đầu tư phát triển …………………………………………………..…….3
2.1. Khái niệm đầu tư phát triển…………………….………………..…...3
2.2. Đặc điểm của đầu tư phát triển ……………………………….….….4
3. Vai trò của đầu tư phát triển …………………………………….….…5
3.1. Đối với toàn bộ nền kinh tế quốc gia …………………………..….….5
3.2. Đối với các cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ…………………..…....7
II. nguồn vốn đầu tư và nội dung của vốn đầu tư...............8
1. Bản chất nguồn vốn đầu tư …………………………..………………....8
2. Nguồn vốn đầu tư...................………………………….……………….11
2.1. Vốn đầu tư của đất nước …………………………….…………….. 11
2.2. Vốn đầu tư của cơ sở ……………………………….………………11
2.3. Mối quan hệ giữa nguồn vốn đầu tư trong nước và nước ngoài …....12
3. Nội dung của vốn đầu tư …………………………………………….…14
III. Mối quan hệ giữa đầu tư và phát triển kinh tế - xã hội ……...………………………..………………………………………..…...…..15
1. Khái niệm và các nhân tố quyết định sự phát triển kinh tế xã hội .....15
1.1. Khái niệm và các chỉ tiêu đánh giá……………………………….....15
1.2. Các nhân tố quyết định sự phát triển kinh tế xã hội ……………...…16
2. Tác động của đầu tư đối với phát triển kinh tế xã hội …………….....18
2.1. Tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế ……...........................18
2.2. Tiến bộ công nghệ trong sản xuất kinh doanh ………………...…..20
2.3. Nâng cấp và làm mới hạ tầng ………………………………..…….22
2.4. Tăng khả năng cạnh tranh và xuất khẩu ……………………..…….22
2.5. Đầu tư góp phần nâng cao chất lượng sống cho người dân …….….23
3. Phát triển kinh tế - xã hội tác động trở lại đến sự tăng vốn và hiệu quả trong đầu tư.......................................................................................................24
3.1. Gia tăng tiết kiệm và tích luỹ trong nước..........................................24
3.2. Nền kinh tế ổn định và tăng trưởng cao là điều kiện để thu hút vốn đầu tư nước ngoài................................................................................................24
3.3. Phát triển kinh tế xã hội nâng cao hiệu quả đầu tư...........................25
IV. Kinh nghiệm đầu tư phát triển kinh tế xã hội tại một số địa phương ............. .......................……………………………….…..26
1. Kinh nghiệm thu hút và quản lý đầu tư ở Hải Phòng …………….….26
2. Kinh nghiệm phát triển kinh tế tư nhân ở Đà Nẵng ………………....28
3. Kinh nghiệm đầu tư phát triển nuôi trồng thuỷ sản nước lợ ở Tiền Hải - Thái Bình …………………………………………………………………....29
Chương II. Tình hình đầu tư phát triển kinh tế xã hội ở Nam Định giai đoạn 1998 - 2003 ………………………......……....31
I. Khái quát đặc điểm tự nhiên, kinh tế, xã hội ảnh hưởng đến đầu tư phát triển tại Nam Định …………….………..……...31
1. Vị trí địa lý, khí hậu ……………………………………………...…….31
2. Tài nguyên thiên nhiên ……………………………………….………..32
3. Tiềm năng du lịch ……………………………………………….……..35
4. Dân số và lao động ……………… .. …………………………….…….35
5. Điều kiện kinh tế xã hội …………………………………………….….36
6. Những đặc điểm riêng của Nam Định so với các địa phương …….….37
II. Thực trạng đầu tư phát triển ở Nam Định giai đoạn 1998 -2003 …………………………………………………………………….38
1. Tình hình thực hiện vốn đầu tư phát triển toàn tỉnh ………………...38
2. Tình hình thực hiện vốn đầu tư phát triển theo nguồn huy động …..39
3. Tình hình đầu tư phát triển các ngành, lĩnh vực ……………………..43
3.1. Lĩnh vực nông - lâm - ngư nghiệp ……………………..……….….43
3.2. Lĩnh vực công nghiệp - xây dựng ……………..……………….......44
3.3. Lĩnh vực thương mại, dịch vụ ………..…………………………….45
3.4. Các lĩnh vực văn hóa xã hội ………………..….......................…..46
4. Tình hình thực hiện vốn đầu tư phát triển phân theo hình thức quản lý…………………………………………………………………………...…..46
5. Tình hình thực hiện vốn đầu tư phát triển theo yếu tố cấu thành …..48
6. Tình hình thực hiện vốn đầu tư phát triển phân theo vùng ……...….51
III. Đánh giá tình hình thực hiện vốn đầu tư phát triển ở Nam Định giai đoạn 1998 -2003……………………………………..…54
1. Những kết quả đạt được ………………………………………….……54
1.1. Tăng trưởng kinh tế ………….…………………………………..….54
1.2. Tăng năng lực sản xuất và tài sản cố định cho các ngành, lĩnh vực ...59
1.3. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ………………………………………....61
1.4. Hiệu quả xã hội ………………………………………………..……67
2. Một số tồn tại và nguyên nhân ………………………………….……..69
2.1. Về huy động vốn cho đầu tư phát triển ……………………….…….69
2.2. Về cơ cấu đầu tư theo ngành, lĩnh vực ...……………………………70
2.3. Về cơ chế chính sách...........................................................................72
Chương III: Phương hướng và một số giải pháp tăng cường đầu tư phát triển tại Nam Định đến năm 2010 …...75
I. Phương hướng và mục tiêu phát triển kinh tế xã hội tỉnh nam định trong thời gian tới..................................................75
1. Phương hướng phát triển………………. ...............................…….75
2. Mục tiêu …………………………............................………...……..76
2.1. Mục tiêu tổng quát …………………………………………...…...76
2.2. Mục tiêu cụ thể ……………………………………………………76
II. Một số giải pháp tăng cường hoạt động đầu tư phát triển kinh tế – xã hội tại Nam Định đến 2010 …………........….77
1. Giải pháp huy động vốn ………………………………………...……..77
2. Hướng sử dụng vốn …………………………………………………….81
2.1. Phát triển nông - lâm - ngư nghiệp và kinh tế nông thôn …....…….81
2.2. Phát triển công nghiệp ……………………………………………..83
2.3. Phát triển thương mại dịch vụ ……………………………..………87
2.4. Phát triển kết cấu hạ tầng ………………………………..….……..88
2.5. Phát triển các lĩnh vực xã hội ……………………………………...89
2.6. Định hướng phát triển các vùng, các tuyến hành lang kinh tế đô thị ………………………………………………………………………………....91
3. Hoàn thiện cơ chế chính sách tạo môi trường thuận lợi cho đầu tư phát triển ………………………………………………………………………..….93
Kết luận ……………………………………………………………...96
Danh mục tài liệu tham khảo…................................................97
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 33630.doc