Đầu tư phát triển nuôi trồng thuỷ sản Việt Nam - Thực trạng và giải pháp

T Lời Mở Đầu hực hiện chiến lược phát triển đến năm 2010 do Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII và IX đề ra, trong những năm qua ngành thủy sản đã có những bước phát triển vượt bậc về tăng trưởng kinh tế và chuyển dịch cơ cấu sản xuất theo hướng bền vững. Tính chung 10 năm, từ khi chuyển thành ngành kinh tế cấp I (1994), ngành thủy sản đã đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế cao về hầu hết các chỉ tiêu chủ yếu. Tính riêng giai đoạn 2000 – 2004, giá trị sản xuất thủy sản tăng gấp 3,2 lần, tốc độ tăn

doc92 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1349 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Đầu tư phát triển nuôi trồng thuỷ sản Việt Nam - Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g trưởng bình quân cả thời kỳ là 11,2%; sản lượng thủy sản tăng gấp 2,15 lần. Tổng sản lượng thủy sản là sự tổng cộng của khai thác và nuôi trồng thủy sản. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, khai thác thủy sản có xu hướng giảm do nguồn lợi ngày càng cạn kiệt , vì vậy mà nuôi trông thủy sản trở nên ngày càng quan trọng thúc đẩy sự tăng trưởng và phát triển của ngành. Thời kỳ 2000- 2004, Chính Phủ cùng với Bộ thủy sản đã xác định và xây dựng chiến lược nuôi trồng sẽ là nguyên liệu chính cho xuất khẩu và tiêu dùng trong nước; đây là chiến lược phát triển bền vừng cho ngành thủy sản. Do vậy trong thời kỳ này, các chương trình đầu tư phát triển nuôi trồng thủy sản từ cấp trung ương đến địa phương đã được tiến hành trên quy mô lớn, tiêu biểu là chương trình phát triển nuôi trồng thủy sản 224 trong thời kỳ 2000 – 2010 của Thủ tướng Chính phủ đã làm nòng cốt khuyến khích mọi thành phần kinh tế trong cả nước đầu tư phát triển nuôi trồng thủy sản. Tuy nhiên để đánh giá những kết quả và những tồn tại, yếu kém trong đầu tư phát triển nuôi trồng phải xét trên nhiều khía cạnh khác nhau với nhiều con số cụ thể. Trên cơ sở phân tích này, chúng ta sẽ có được cái nhìn khái quát về tình hình đầu tư phát triển nuôi trồng thủy sản trong giai đoạn vừa qua và đưa ra được một số giải pháp thoả đáng nhằm tăng cường huy động và sử dụng vốn cho lĩnh vực này có hiệu quả hơn; góp phần làm tăng trưởng kinh tế ngành và toàn bộ nền kinh tế. Xuất phát từ thực tế đó, tôi đã chọn đề tài nghiên cứu của mình trong thời gian thực tập vừa qua là: “ Đầu tư phát triển nuôi trồng thủy sản Việt Nam – Thực trạng và giải pháp”. Ngoài phần mở đầu và kết luận, kết cấu của đề tài gồm 3 chương: Chương I: Những vấn đề lý luận chung về đầu tư phát triển và đầu tư phát triển nuôi trồng thủy sản. Chương II: Thực trang đầu tư phát triển nuôi trồng thủy sản Việt Nam trong giai đoạn 2000 – 2004 Chương III: Một số giải pháp nhằm tăng cường đầu tư phát triển nuôi trồng thủy sản. Mặc dù đã hết sức cố gắng tìm tòi, nghiên cứu song đề tài vẫn không tránh khỏi những thiếu sót nhất định. Vì vậy tôi rất mong nhận được sự đóng góp, bổ sung để đề tài trở nên hoàn thiện hơn nữa. Tôi cũng xin được bày tỏ lòng cảm ơn sâu sắc đến cô giáo Nguyên Thi ái Liên – Bộ môn Kinh tế Đầu tư - ĐH KTQD và các cô chú trong vụ Tổng hợp KTQD – Bộ KH&ĐT đã tận tình giúp đỡ tôi trong thời gian thực tập và nghiên cứu đề tài! Chương 1 : Những vấn đề lý luận chung về đầu tư phát triển và đầu tư phát triển nuôi trồng thủy sản I. Những vấn đề lý luận chung về đầu tư phát triển 1. Khái niệm, bản chất và đặc điểm của đầu tư phát triển 1.1. Khái niệm về đầu tư Xuất phát từ phạm vi phát huy tác dụng của các kết quả đầu tư chúng ta có thể có những cách hiểu khác nhau về đầu tư. Theo nghĩa rộng, đầu tư là sự hy sinh các nguồn lực ở hiện tại để tiến hành các hoạt động nào dó nhằm thu về cho người đầu tư các kết quả nhất định trong tương lai lớn hơn các nguồn lực đã bỏ ra để đạt được các kết quả đó. Nguồn lực có thể là tiền, là tài nguyên thiên nhiên, là sức lao động và trí tuệ. Những kết quả đó có thể là sự tăng thêm các tài sản tài chính, tài sản vật chất, tài sản trí tuệ và nguồn nhân lực có đủ điều kiện để làm việc với năng suất cao hơn trong nền sản xuất xã hội. Trong các kết quả đã đạt được trên đây, những kết quả là tài sản vật chất, tài sản trí tuệ, là nguồn nhân lực tăng thêm có vai trò quan trọng trong mọi lúc mọi nơi, không chỉ đối với người bỏ vốn mà còn đối với cả nền kinh tế. Những kết quả này không chỉ người đầu tư mà cả nền kinh tế được thụ hưởng. Theo nghĩa hẹp, đầu tư chỉ bao gồm những hoạt động sử dụng các nguồn lực ở hiện tại nhằm đem lại cho nền kinh tế xã hội những kết quả trong tương lai lớn hơn các nguồn lực đã sử dụng để đạt được các kết quả đó. Phạm trù đầu tư theo nghĩa hẹp được gọi là đầu tư phát triển. Từ đó ta có định nghĩa : Đầu tư phát triển là hoạt động sử dụng các nguồn lực tài chính, nguồn lực vật chất, nguồn lực lao động và trí tuệ để xây dựng, sửa chữa nhà cửa và cấu trúc hạ tầng, mua sắm trang thiết bị và lắp đặt chúng trên nền bệ, bồi dưỡng đào tạo nguồn nhân lực, thực hiện chi phí thường xuyên gắn liền với sự hoạt động của các tài sản này nhằm duy trì tiềm lực hoạt động của các cơ sở đang tồn tại và tạo tiềm lực mới cho nền kinh tế xã hội, tạo việc làm và nâng cao đời sống của mọi thành viên trong xã hội. 1.2. Đặc điểm của đầu tư đầu tư phát triển Xuất phát từ bản chất và lợi ích do đầu tư đem lại chúng ta có thể phân biệt các loại đầu tư sau: Đầu tư tài chính: là loại đầu tư trong đó người có tiền bỏ tiền ra cho vay hoặc mua các chứng chỉ có giá để hưởng lãi suất. Đầu tư tài chính không tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế (nếu không xét đến quan hệ quốc tế trong lĩnh vực này) mà chỉ làm tăng giá trị tài sản tài chính của các tổ chức, cá nhân đầu tư.Với sự hoạt động của hình thức đầu tư tài chính, vốn bỏ ra đầu tư được lưu chuyển dễ dàng, khi cần có thể rút ra một cách nhanh chóng. Điều đó khuyến khích người có tiền bỏ ra để đầu tư. Để giảm độ rủi ro họ có thể đầu tư vào nhiều nơi, mỗi nơi một ít tiền. Đây là một nguồn cung cấp vốn quan trọng cho đầu tư phát triển. Đầu tư thương mại: là loại đầu tư trong đó người có tiền bỏ tiền ra để mua hàng hóa và sau đó để bán lại với giá cao hơn nhằm thu lợi nhuận do chênh lệch giá khi mua và khi bán. Loại đầu tư này cũng không tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế (nếu không xét đến ngoại thương), và chỉ làm tăng tài sản tài chính của người đầu tư trong quá trình mua đi bán lại, chuyển giao quyền sở hữu hàng hóa giữa người bán với người đầu tư và người đầu tư với khách hàng của họ. Tuy nhiên, đầu tư thương mại có tác dụng thúc đẩy quá trình đầu tư phát triển, tăng thu cho ngân sách, tăng tích lũy cho phát triển sản xuất kinh doanh dịch vụ nói riêng và nền sản xuất xã hội nói chung. Đầu tư phát triển: là loại đầu tư tài sản vật chất và sức lao động trong đó người có tiền bỏ tiền ra để tiến hành các hoạt động nhằm tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế, tăng tiềm lực sản xuất kinh doanh và mọi hoạt động xã hội khác, là điều kiện chủ yếu để tạo việc làm, nâng cao đời sống của mọi người dân trong xã hội. Từ sự phân biệt các loại đầu tư trên, ta thấy chỉ có đầu tư phát triển mới tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế quốc dân. Và do đó, đầu tư phát triển có những đặc điểm khác biệt so với loại hình đầu tư khác, được thể hiện ở các khía cạnh sau: + Đầu tư là hoạt động bỏ vốn nên việc quyết định đầu tư thường là quyết định tài chính. Vốn được hiểu như là các nguồn lực sinh lợi dưới các hình thức khác nhau, những vốn có thể được xác định dưới các hình thức tiền tệ. Vì vậy, các quyết định đầu tư thường được xem xét ở phương diện tài chính (tổn phí bao nhiêu, có khả năng thực hiện không? Có khả năng thu hồi vốn không? Mức sinh lợi là bao nhiêu?...). Trên thực tế hoạt động đầu tư và các quyết định chi tiêu (đầu tư) thường được cân nhắc bởi sự hạn chế của Ngân sách (Nhà nước, địa phương, cá nhân...) và luôn được xem xét ở khía cạnh tài chính nói trên. Nhiều dự án có thể khả thi ở những phương diện khác (kinh tế-xã hội, môi trường), nhưng không khả thi về phương diện tài chính và vì thế dự án cũng không thực hiện được trên thực tế. + Đầu tư là hoạt động có tính chất lâu dài; tiền, vật tư, lao động cần huy động lớn. Khác với hoạt động đầu tư thương mại và đầu tư phát triển cho đến khi thành quả của nó phát huy tác dụng thường đòi hỏi nhiều năm tháng với nhiều biến động xảy ra. Trong quá trình đầu tư phải huy động một số vốn lớn và để nằm khê đọng trong suốt quá trình thực hiện đầu tư, không tham gia vào quá trình chu chuyển, nên nó không sinh lợi cho nền kinh tế. Đây là cái giá phải trả khá lớn của đầu tư phát triển. Mặt khác, thời gian cần hoạt động để có thể thu hồi đủ vốn đã bỏ ra đối với các cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ sản xuất kinh doanh thường đòi hỏi nhiều năm tháng, do đó không tránh khỏi sự tác động hai mặt tích cực và tiêu cực của các yếu tố không ổn định về tự nhiên, xã hội, chính trị, kinh tế... + Hoạt động đầu tư là hoạt động cần cân nhắc giữa lợi ích ở hiện tại nhằm mong muốn có được lợi ích trong tương lai. Vì vậy, luôn luôn có sự cân nhắc, so sánh giữa lợi ích ở hiện tại và lợi ích trong tương lai. Rõ ràng nhà đầu tư mong muốn và chấp nhận chỉ trong điều kiện lợi ích thu được trong tương lai lớn hơn lợi ích ở hiện tại mà họ tạm thời phải hy sinh. + Các thành quả của hoạt động đầu tư phát triển là các công trình xây dựng sẽ hoạt động ở ngay nơi mà nó được tạo nên. Do đó, các điều kiện về địa hình tại đó có ảnh hưởng lớn đến quá trình thực hiện đầu tư cũng như tác dụng sau này của các kết quả đầu tư. + Đầu tư là hoạt động mang tính rủi ro. Hoạt động đầu tư một mặt là sự đánh đổi lợi ích ở hiện tại và quá trình thực hiện diễn ra trong một thời gian dài không cho phép nhà đầu tư lường hết những thay đổi có thể xảy ra trong quá trình thực hiện đầu tư so với dự tính. Mặt khác, các kết quả và hiệu quả hoạt động của các thành quả đầu tư chịu nhiều ảnh hưởng của các nhân tố bất ổn định theo thời gian và điều kiện địa lí của không gian. Do hoạt động đầu tư phát triển có đặc điểm như trên nên để đảm bảo cho mọi công cuộc đầu tư đem lại hiệu quả kinh tế xã hội cao đòi hỏi phải thực hiện đầu tư theo dự án. 2. Vai trò của đầu tư phát triển trong nền kinh tế Từ việc xem xét khái niệm, bản chất và đặc điểm của đầu tư phát triển, các lý thuyết kinh tế, cả lý thuyết kinh tế kế hoạch hóa tập trung và lý thuyết kinh tế thị trường đều coi đầu tư phát triển là nhân tố quan trọng để phát triển kinh tế, là chìa khóa của sự tăng trưởng. Vai trò này của đầu tư được thể hiện ở những mặt sau: Trên giác độ toàn bộ nền kinh tế Đầu tư vừa tác động đến tổng cung, vừa tác động đến tổng cầu Về mặt cầu: Đầu tư là một yếu tố chiếm tỷ trọng lớn trong tổng cầu của toàn bộ nền kinh tế. Đối với tổng cầu, tác động của đầu tư là ngắn hạn. Với tổng cung chưa kịp thay đổi, sự tăng lên của đầu tư làm cho tổng cầu tăng ( đường D dịch chuyển sang D’) kéo theo sản lượng cân bằng tăng theo từ Q0 – Q1 và giá cả của các đầu vào của đầu tư tăng từ P0- P1. Điểm cân bằng dịch chuyển từ E0 – E1. Về mặt cung: Khi thành quả của đầu tư phát huy tác dụng, các năng lực mới đi vào hoạt động thì tổng cung, đặc biệt là tổng cung dài hạn tăng lên ( đường S dịch chuyển sang S’), kéo theo sản lượng tiềm năng tăng từ Q1 – Q2 và do đó giá cả sản phẩm giảm từ P1- P2. Sản lượng tăng, giá cả giảm cho phép tăng tiêu dùng. Tăng tiêu dùng lại đến lượt mình lại tiếp tục kích thích sản xuất hơn nữa. Sản xuất phát triển là nguồn gốc cơ bản để tăng tích lũy, phát triển kinh tế xã hội , tăng thu nhập cho người lao động, nâng cao đời sống của mọi thành viên. ( Xem hình 1) S P1 E1 S’ E0 P0 Eo P2 E2 D D’ Q 0 Q0 Q1 Q2 Q (Hình 1) b. Đầu tư tác động đến hai mặt đến sự ổn định kinh tế. Sự tác động không đồng thời về mặt thời gian của đầu tư đối với tổng cầu và tổng cung của nền kinh tế làm cho mỗi sự thay đổi của đầu tư, dù là tăng hay giảm đều cùng một lúc vừa là yếu tố duy trì sự ổn định vừa là yếu tố phá vỡ sự ổn định của nền kinh tế của mọi quốc gia. Chẳng hạn, khi tăng đầu tư, cầu của các yếu tố của đầu tư tăng làm cho giá của các hàng hóa có liên quan tăng đến một mức độ nào đó dẫn đến tình trạng lạm phát. Đến lượt mình, lạm phát làm cho sản xuất đình trệ, đời sống của người lao động gặp nhiều khó khăn do tiền lương ngày càng thấp hơn, thâm hụt ngân sách, kinh tế phát triển chậm lại. Mặt khác, tăng đầu tư làm cho cầu của các yếu tố liên quan tăng, sản xuất của các ngành này phát triển, thu hút thêm lao động, giảm tình trạng thất nghiệp, nâng cao đời sống người lao động, giảm tệ nạn xã hội. Tất cả các tác động này tạo điều kiện cho sự phát triển kinh tế. Khi giảm đầu tư cũng dẫn đến tác động hai mặt theo chiều hướng ngược lại so với các tác động trên đây. Đầu tư với việc tăng cường khả năng khoa học công nghệ của đất nước. Đầu tư là điều kiện tiên quyết của sự phát triển và tăng cường khả năng công nghệ của nước ta hiện nay. Theo đánh giá của các chuyên gia công nghệ, trình độ công nghệ của Việt Nam lạc hậu nhiều so với thế giới và khu vực. Với trình độ khoa học công nghệ lạc hậu này, quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa của Việt Nam sẽ gặp rất nhiều khó khăn nếu không đề ra được một chiến lược đầu tư phát triển công nghệ nhanh và vững chắc. Có hai con đường cơ bản để có công nghệ là tự nghiên cứu phát minh ra công nghệ và nhập công nghệ từ nước ngoài. Dù là bằng con đường nào cũng phải cần có tiền, cần phải có vốn đầu tư. Mọi phương án đổi mới công nghệ không gắn với nguồn vốn đầu tư sẽ là những phương án không khả thi. Đầu tư và sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế Kinh nghiệm của các nước trên thế giới cho thấy con đường tất yếu có thể tăng trưởng nhanh tốc độ mong muốn( từ 9 đến 10%) là tăng cường đầu tư nhằm tạo ra sự phát triển ở khu vực công nghiệp và dịch vụ. Đối với các ngành nông, lâm, ngư nghiệp do những hạn chế về đất đai và các khả năng sinh học, để đạt được tốc độ tăng trưởng từ 5-6% là rất khó khăn. Như vậy, chính đầu tư quyết định quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở các quốc gia nhằm đạt được tốc độ tăng trưởng nhanh và toàn bộ nền kinh tế. Bên cạnh đó, đầu tư còn có tác dụng giải quyết những mất cân đối về phát triển giữa các vùng lãnh thổ, đưa ra những vùng kém phát triển thoát khỏi tình trạng đói nghèo, phát huy tối đa những lợi thế so sánh về tài nguyên, địa thế , kinh tế, chính trị…của những vùng có khả năng phát triển nhanh hơn, làm bàn đạp thúc đẩy những vàng khác cùng phát triển. Đầu tư tác động đến tốc độ tăng trưởng và phát triển kinh tế. Kết quả nghiên cứu của các nhà kinh tế cho thấy: để đạt được tốc độ tăng trưởng ở mức trung bình thì tỷ lệ đầu tư phải đạt được từ 15 - 20% so với GDP tuỳ thuộc vào ICOR của mỗi nước. Mức tăng GDP = Vốn đầu tư --------------------- I COR Nếu như hệ số ICOR không đổi, mức tăng GDP hoàn toàn phụ thuộc vào vốn đầu tư. Chỉ tiêu ICOR của mỗi nước phụ thuộc vào nhiều nhân tố, thay đổi theo trình độ phát triển kinh tế và cơ chế chính sách trong nước. Kinh nghiệm các nước cho thấy, chỉ tiêu ICOR phụ thuộc mạnh vào cơ cấu kinh tế và hiệu quả đầu tư trong các ngành, các vùng lãnh thổ cũng như phụ thuộc vào hiệu quả của chính sách kinh tế nói chung. Thông thường ICOR trong nông nghiệp thấp hơn ICOR trong công nghiệp, ICOR trong giai đoạn chuyển đổi cơ chế thường cao chủ yếu do tận dụng năng lực sản xuất. Ngoài những tác động về kinh tế, đầu tư còn động lực thúc đẩy sự phát triển của khoa học và công nghệ cũng như các mặt của xã hội như văn hoá, giáo dục, vui chơi ,giải trí... 2.2. Đối với các cơ sở sản xuất kinh doanh, dịch vụ Đầu tư quyết định sự ra đời, tồn tại và phát triển của mỗi cơ sở. Chẳng hạn, để tạo dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho sự ra đời của bất kỳ cơ sở nào đều cần phải xây dựng nhà xưởng, cấu trúc hạ tầng, mua sắm và lắp đặt máy móc thiết bị trên nền bệ, tiến hành các công tác xây dựng cơ bản và thực hiện các chi phí khác gắn liền với sự hoạt động trong một chu kỳ của các cơ sở vật chất-kỹ thuật vừa tạo ra. Các hoạt động này chính là hoạt động đầu tư đối với các cơ sở sản xuất, kinh doanh dịch vụ đang tồn tại: sau một thời gian hoạt động, các cơ sở vật chất-kỹ thuật của các cơ sở này hao mòn, hư hỏng hoặc đổi mới để thích ứng với điều kiện hoạt động mới của sự phát triển khoa học-kỹ thuật và nhu cầu tiêu dùng của nền sản xuất xã hội, phải mua sắm các trang thiết bị mới thay thế cho các trang thiết bị cũ đã lỗi thời, cũng có nghĩa là phải đầu tư. Đối với các cơ sở vô vị lợi (hoạt động không để thu lợi nhuận cho bản thân mình) đang tồn tại, để duy trì sự hoạt động, ngoài tiến hành sữa chữa lớn định kỳ các cơ sở vật chất-kỹ thuật còn phải thực hiện các chi phí thường xuyên. Tất cả những hoạt động và chi phí này đều là những hoạt động đầu tư. 2.3. Đối với các cơ sở vô vị lợi đang tồn tại, để duy trì sự hoạt động, ngoài tiến hành sửa chữa lớn định kỳ các cơ sở vật chất- kỹ thuật còn phải thực hiện các chi phí thường xuyên. Tất cả những hoạt động và chi phí này đều là những hoạt động đầu tư. 3. Vốn và nguồn vốn đầu tư Theo nguồn hình thành và mục tiêu sử dụng, vốn đầu tư là tiền tích lũy của xã hội, của các cơ sở sản xuất, kinh doanh dịch vụ, là tiền tiết kiệm của dân, vốn huy động từ các nguồn khác được đưa vào sử dụng trong quá trình tái sản xuất xã hội nhằm duy trì tiềm lực sẵn có và tạo tiềm lực mới cho xã hội. Vốn đầu tư là nhân tố quan trọng cho sự phát triển kinh tế. Thực tế những quốc gia phát triển trên thế giới đã khẳng định tích tụ và tập trung vốn là điều kiện tiên quyết cho quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Tốc độ công nghiệp hóa, hiện đại hóa nhanh hay chậm là do nguồn vốn đầu tư quyết định. Nguồn vốn cho tăng trưởng và phát triển kinh tế chỉ có thể tạo ra bằng tiết kiệm trong nước và vốn huy động từ nước ngoài. Trong đó, vốn trong nước giữ vai trò then chốt, có ý nghĩa quyết định, vốn nước ngoài là quan trọng trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Vốn đầu tư trong nước được hình thành từ các nguồn sau: - Vốn tích lũy từ Ngân sách. - Vốn tích lũy của các doanh nghiệp. Vốn tiết kiệm của dân cư. Vốn huy động từ nước ngoài bao gồm vốn đầu tư trực tiếp và vốn đầu tư gián tiếp. Vốn đầu tư trực tiếp là vốn của các doanh nghiệp, các cá nhân người nước ngoài đầu tư sang các nước khác và trực tiếp quản lí hoặc tham gia quản lý, sử dụng và thu hồi vốn đã bỏ ra. Vốn đầu tư gián tiếp là vốn của các Chính phủ, các tổ chức quốc tế, các tổ chức phi Chính phủ được thực hiện dưới các hình thức viện trợ không hoàn lại, có hoàn lại, cho vay ưu đãi với thời gian dài, lãi suất thấp, vốn viện trợ phát triển chính thức của các nước công nghiệp phát triển (ODA). II. Những vấn đề lý luận chung về Đầu tư phát triển thủy sản 1. Khái quát về thủy sản. Thủy sản là ngành kinh tế cấp I, bao gồm các hoạt động đánh bắt, nuôi trồng, chế biến thủy sản và các hoạt động dịch vụ thủy sản có liên quan. Là một ngành kinh tế học, được phân ngành thuộc ngành nông nghiệp, ra đời sớm và được nhà nước xác định là một trong những ngành kinh tế mũi nhọn. Về cơ bản ngành thủy sản bao gồm các hoạt động sau: Khai thác hải sản Là hoạt động khai thác tài nguyên dưới nước và mặt nước có nhiệm vụ đánh bắt động thực vật nhằm cung cấp cho các nhu cầu chế biến, sơ chế hoặc trực tiếp cho bữa ăn hàng ngày. Lực lượng sản xuất chủ yếu: + Lao động đánh bắt + Tàu thuyền khai thác với các trang thiết bị hàng hải và phụ trợ khác. + Ngư cụ : lưới câu, vây, câu. + Nguồn lợi thủy hải sản. Sản phẩm chủ yếu: Thủy hải sản tươi sống hoặc ướp lạnh. - Nuôi trồng thủy sản. Là hoạt động sản xuất chuyên cung cấp các sản phẩm động thực vật dưới nước sau một quá trình nuôi trồng có sự tác động lên hệ sinh trưởng bằng các phương pháp thông thường hoặc đặc biệt khác nhau. Lực lượng sản xuất chủ yếu: + Lao động nuôi trồng thủy sản với trình độ kỹ thuật + Hệ thống ao, đầm, bè… được đầu tư cải tạo + Con giống. + Hệ thống máy móc phụ trợ: máy bơm, máy trộn ô xy, hệ thống xử lý nước. + Thức ăn cho nuôi trồng, thuốc chữa bệnh và phòng dịch. + Các ứng dụng khoa học kỹ thuật trong nuôi trồng. Sản phẩm chủ yếu: Thủy sản tươi sống, ướp lạnh cung cấp cho các nhu cầu tiêu dùng hàng ngày của nhân dân qua việc chế biến, sơ chế hoặc ăn tươi. Chế biến thủy sản: Là hoạt động sản xuất cung cấp các sản phẩm thủy sản sau một quá trình tác động cơ lý, hóa, lên các đối tượng là thủy sản tươi sống hoặc đã qua sơ chế để đáp ứng ngày tốt hơn nhu cầu càng cao, phong phú, và đa dạng của người tiêu dùng trong và ngoài nước. Lực lượng sản xuất chủ yếu: + Lao động với trình độ tay nghề tương ứng. + Hệ thống nhà xưởng, dây chuyền sản xuất + Nguyên vật liệu chế biến Cơ khí dịch vụ hậu cần. Đây là ngành sản xuất các sản phẩm dịch vụ cho các hoạt động khai thác, nuôi trồng và chế biến, là một trong những hoạt động làm cầu nối giữa cung cấp đầu vào và sản xuất; giữa sản xuất và tiêu thụ, có chức năng hỗ trợ và tiêu thụ sản phẩm cho các hoạt động sản xuất thủy sản. Các hoạt động cụ thể: + Đóng sửa tàu thuyền. + Cung cấp các yếu tố đầu vào: thức ăn công nghiệp, thuốc phòng và chữa bệnh, chế biến đá lạnh, xăng dầu, sản xuất và cung ứng ngư cụ… + Dịch vụ thương mại đầu ra. + Hoạt động xây dựng, sửa chữa các cảng, bến cá. 2. Đặc điểm của ngành thủy sản. Thủy sản là một ngành kinh tế kỹ thuật đặc trưng gồm các lĩnh vực khai thác, nuôi trồng, chế biến và cơ khí dịch vụ hậu cần là một trong những ngành kinh tế biển quan trọng của đất nước. Sản xuất kinh doanh thủy sản dựa trên khai thác có hiệu quả, lâu bền nguồn lợi thủy sinh tiềm năng các vùng nước, do vậy có mối liên hệ rất chặt chẽ với sản xuất nông nghiệp, vận tải, dầu khí, du lịch, hải quan…. Cụ thể ngành có các đặc điểm sau: Ngành thủy sản vừa mang tính nông nghiệp, công nghiệp, thương mại lại vừa chịu sự chi phối rất lớn của thiên nhiên. Ngành thủy sản là ngành có năng suất và hiệu quả lao động tự nhiên cao, có tác dụng tái sản xuất mở rộng. Có nhiêu thành phần kinh tế tham gia sản xuất đa dạng. Ngành thủy sản có khả năng thu hồi vốn nhanh có thể thu hoạch được sản phẩm và tiêu thụ trong thời gian ngắn. Ngành thủy sản là ngành có nguồn tài nguyên phong phú với trữ lượng lớn, tạo khả năng khai thác với quy mô lớn và con người có thể tái tạo nguồn tài nguyên này. Sản xuất thủy sản mang tính thời vụ cao. 3. Vai trò của thủy sản trong nền kinh tế quốc dân. Xét về mặt xã hội, hàng thủy sản là nguồn cung cấp chất dinh dưỡng quan trọng. Một trong những yếu tố quyết định đến sức khỏe, sự thông minh và cải tạo giống nòi. Các sản phẩm vô cùng phong phú từ thủy sản chính là nguồn dinh dưỡng cao, cần thiết cho quá trình phát triển của con người. Xét về mặt kinh tế, ngành thủy sản đã trở thành một ngành kinh tế quan trọng có tốc độ và quy mô phat triển ngày càng cao. Kim ngạch xuất khẩu ngành thủy sản đã đóng góp vai trò đòn bẩy, tạo nên động lực phát triển mạnh mẽ nền kinh tế nước ta.Từ giai đoạn 1991 đến nay cùng với dầu thô, gạo, dệt may, giá trị kim ngạch xuất khẩu thủy sản luôn chiếm tỷ trọng cao. Vai trò của ngành thủy sản đối với nền kinh tế thể hiện cụ thể: 3Ngành thủy sản sản xuất ra các sản phẩm xuất khẩu có giá trị, đem lại nguồn thu ngoại tệ lớn cho đất nước. Trong những năm qua, sản phẩm của ngành thủy sản đã chiếm tỷ trọng lớn trong hàng xuất khẩu Việt Nam. Kim ngạch xuất khẩu thủy sản luôn chiếm lớn, khoảng 5-7% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước và đang có xu hướng tăng lên. Ước tính thu ngoại tệ từ xuất khẩu thủy sản sẽ lên tới 2,3-2,5 tỷ USD vào năm 2005. Thị trường cho xuất khẩu thủy sản của Việt Nam ngày càng được mở rộng đặc biệt là các thị trường lớn như Mỹ, Nhật, EU. Nguồn thu ngoại tệ lớn từ xuất khẩu sẽ góp phần thúc đẩy quá trình CNH- HĐH đất nước một cách có hiệu quả, vững chắc, đạt mục tiêu biến nước ta thành nước công nghiệp năm 2010. 3Ngành thủy sản cung cấp các yếu tố đầu vào cho ngành công nghiệp nói chung và ngành công nghiệp chế biến nói riêng. Với đặc thù sản phẩm của ngành thủy sản, vì vậy sản phẩm thủy sản rất cần được bảo quản tốt và chế biến kịp thời thì mới đảm bảo chất lượng và sản lượng. Ngành thủy sản cung cấp các sản phẩm tôm, cua, cá…vừa có thể tiêu dùng trực tiếp, vừa có thể là nguyên liệu đầu vào cho các giai đoạn tiếp theo của quá trình chế biến thủy sản để cho sản phẩm mới có chất lượng cao hơn, đa dạng hơn về chủng loại như: Nước mắm, đồ hộp thủy sản, bột xương, bột cá…điều đó chứng tỏ các sản phẩm đầu ra của ngành thủy sản chính là nguyên nhân để xuất hiện ngành công nghiệp chế biến thủy sản nhằm mục đích nâng cao chất lượng, đa dạng hóa chủng loại sản phẩm thủy sản, thúc đẩy công nghiệp chế biến phát triển. 3Ngành thủy sản góp phần tạo ra nguồn dinh dưỡng cung cấp cho con người. Thực phẩm từ thủy sản chứa rất nhiều đạm cần thiết cho cơ thể con người. Theo thống kê lượng đạm từ thủy sản là 30% trong tổng chất dinh dưỡng từ sản phẩm thủy sản. Lượng đạm trong thủy sản cung cấp là khá lớn và không gây béo rất tốt cho sức khỏe con người, mặt khác là tình hình thực phẩm thức ăn chế biến từ gia cầm…ngày có nguy cơ mang bệnh cao, nên xu hướng người tiêu dùng chuyển sang tiêu thụ các sản phẩm từ thủy sản là điều tất yếu. 4. Các lĩnh vực đầu tư trong ngành thủy sản. * Đầu tư cho khai thác: Bao gồm các nội dung sau: + Đầu tư cho phương tiện đánh bắt: Phương tiện đánh bắt bao gồm tàu thuyền, ngư cụ, và các trang thiết bị phụ trợ, tất nhiên là với mỗi loại hình đánh bắt thì sẽ có các trang thiết bị và công suất máy tàu khác nhau. + Đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng và các yếu tố hỗ trợ như: cảng, bến cá, âu trú bão, tàu thuyền cứu nạn, trạm cảnh báo. + Đầu tư cho bảo quản sản phẩm trên biển và sơ chế trước khi chế biến. + Đầu tư đạo tạo nguồn nhân lực: lái tàu, kỹ thuật đánh bắt và sơ chế. + Đầu tư cho khảo sát và nguồn lợi hải sản. * Đầu tư cho nuôi trồng thủy sản. Bao gồm: + Đầu tư cho cơ sở hạ tầng phụ trợ: hệ thống thủy lợi, điện, đường giao thông. + Đầu tư cải tạo các điều kiện nuôi trồng: nạo vét, xử lý môi trường… + Đầu tư cho các trại giống, cơ sở chế biến thức ăn công nghiệp. + Đầu tư nghiên cứu và phát triển khoa học- công nghệ, chuyển giao công nghệ. + Đầu tư đào tạo nguồn nhân lực và công tác khuyến ngư. + Đầu tư phòng dịch và chữa bệnh. + Đầu tư cho quy hoạch phát triển nuôi trồng thủy sản. * Đầu tư cho chế biến thủy sản. + Đầu tư xây dựng các nhà máy hay cơ sở chế biến. + Đầu tư cho kho bãi tập kết nguyên liệu chế biến. + Đầu tư cho hệ thống phân phối và tiêu thụ sản phẩm. + Đầu tư cho đào tạo nhân lực. +Cơ sở hạ tầng có liên quan. * Đầu tư cho cơ khí dịch vụ hậu cần. + Đầu tư cho xây dựng mới các cơ sở + Đầu tư đổi mới công nghệ. + Đầu tư đào tạo nhân lực + Đầu tư nâng cao chất lượng sản phẩm. III. Những vấn đề lý luận chung về đầu tư phát triển nuôi trồng thủy sản. 1. Khái quát về nuôi trồng thủy sản. Theo quan điểm của các nhà kinh tế học thì: nuôi trồng thủy sản là một hoạt động sản xuất sử dụng các yếu tố nguồn lực, tài nguyên thiên nhiên, đất cho công nghệ chế biến thủy sản. Theo quan điểm của các nhà sinh học thì: Nuôi trồng thủy sản là hoạt động tạo ra các điều kiện sinh thái phù hợp với tăng trưởng và phát triển của các loài thủy sản để thúc đẩy chúng phát triển qua các giai đoạn của vòng đời. Trong đề tài này quan niệm về nuôi trồng thủy sản được hiểu theo quan điểm của các nhà kinh tế học, nó được sử dụng các đầu vào như con giống, tài nguyên đất, nước, và các công cụ sản xuất khác để tạo ra các phẩm thủy sản cho các hoạt động tiêu dùng. 2. Đặc điểm đầu tư phát triển nuôi trồng thủy sản. Nuôi trồng thủy sản là một nghề phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên và có tính mùa vụ, có liên quan chặt chẽ đến vấn đề bảo vệ, tái tạo nguồn lợi thủy sản bảo vệ môi trường, phát triển xuất khẩu, tính chất sản xuất lại phức tạp đa dạng do quy luật phát triển từng khu hệ động thực vật. Vì vậy ma đầu tư phát triển nuôi trồng thủy sản cần chú ý một số đặc điểm khác biệt sau: 3Đầu tư phát triển trong nuôi trồng thủy sản phải đi đôi với bảo vệ và tái tạo nguồn thủy sản, bảo vệ môi trường sinh thái. 3Hoạt động đầu tư phát triển phải lấy hiệu quả kinh doanh làm động lực và lấy hiệu quả kinh tế làm tiêu chuẩn cơ bản. Kết hợp công nghệ truyền thống với công nghệ hiện đại. Tập trung vào vấn đề chất lượng sản phẩm để đẩy mạnh xuất khẩu góp phần thực hiện chiến lược xuất khẩu trong phạm vi cả nước 3Trong quy trình nuôi trồng thủy sản, quá trình tác động nhân tạo xen kẽ với quá trình tác động tự nhiên. Từ đó sinh ra tính chất mùa vụ trong nuôi trồng thủy sản gây ra nhiều phức tạp cho sản xuất,đặc biệt điều kiện thiên nhiên nước ta không mấy thuận lợi, thiên tai liên tiếp xảy ra ở nhiều nơi. Do đó, hoạt động đầu tư cần chú trọng đến những yếu tố này để tránh những rủi ro thiệt hại có thể xảy ra. 3Trong quá trình sản xuất thủy sản, chất lượng và số lượng sản phẩm thủy sản rất dễ bị thất thoát sau thu hoạch. Theo đánh giá của FAO, tỉ lệ thất thoát sau thu hoạch luôn ở mức trên 20%, tập trung ở các khâu xử lý, bảo quản, vận chuyển, bốc dỡ, sơ chế và tiêu thụ sản phẩm. Do vậy, hoạt động đầu tư cần chú trọng làm thế nào để giảm đến mức tối thiểu tỉ lệ thất thoát sau thu hoạch. 3Một số đối tượng nuôi trồng được giữ lại làm giống cho quá trình tái sản xuất sau. Đặc điểm này đòi hỏi phải có sự đầu tư vào qui trình chăm sóc, lựa chọn giống riêng biệt và quan tâm đầu tư vào hệ thống quản lý giống quốc gia nên số vốn chi cho đầu tư vào lĩnh vực này khá lớn, đòi hỏi các chủ đầu phải phân tích, tính toán, lựa chọn phương án đầu tư một cách hợp lý, có hiệu quả cao phù hợp với năng lực sản xuất, tổ chức quản lý của mình. 3Hoạt động đầu tư còn phải đảm bảo những nguyên tắc của phát triển bền vững nuôi trồng thủy sản, nghĩa là quản lý, duy trì cơ sở nguồn lợi tự nhiên, bảo vệ hệ sinh thái; phải đảm bảo sự công bằng trong một thế hệ, nghĩa là phải đáp ứng các nhu cầu của con người trong thế hệ hiện tại và mai sau, là đảm bảo mọi tầng lớp dân cư đều được hưởng bình đẳng do sự phát triển mang lại. 3. Nội dung đầu tư nuôi trồng thủy sản. 3.1. Đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng vùng nuôi. Đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng vùng nuôi nên chú trọng vào những vấn đề sau: Đầu tư vào hệ thống thủy lợi như đầu tư nạo vét kênh trục chính, hệ thống cấp và thoát nước để tạo ra môi trường nước thông thoáng phục vụ cho nuôi trồng thủy sản. Đầu tư xây dựng mới và nâng cấp các cơ sở sản xuất thức ăn công nghiệp, các cơ sở sản xuất giống, cơ sơ sản xuất phòng trị bệnh cho cho thủy sản nuôi. Đầu tư xây dựng hệ thống cấp năng lượng như trạm điện, máy nổ,..., hệ thống như bảo vệ khu sản xuất như đê bao, đường bao…; hệ thống kiểm soát hoạt động như phát hiện bệnh tật của thủy sản, phòng thí nghiệm… 3.2. Đầu tư vào khoa học, kỹ thuật công nghệ cho nuôi trồng thủy sản. Đầu tư vào khoa học công nghệ trong lĩnh vực nuôi trồng thủy sản nhằm mục tiêu tăng nhanh sản lượng mà không phải mở rộng thêm diện tích nuôi trồng để phục vụ cho tiêu dùng nội địa, cung cấp hàng cho xuất khẩu và cho công nghiệp chế biến xuất khẩu. Đầu tư vào khoa học công nghệ trong nuôi trồng thủy sản, cần tập trung vào những vấn đề sau: Đầu tư nghiên cứu tạo các giống có năng suất cao, phù hợp với điều kiện môi trường c._.ủa từng vùng, từng địa phương, các giống sạch bệnh. Đầu tư nghiên cứu sản xuất các loại thức ăn công nghiệp cho con giống bảo đảm yêu cầu chất lượng về môi trường, tăng trưởng và phát triển con giống. Đầu tư nghiên cứu, áp dụng và hoàn thiện các công nghệ chuẩn đoán, phòng trừ bệnh. Đầu tư nghiên cứu, áp dụng các công nghệ xử lý môi trường, kiểm soát nước thải, ngăn chặn bệnh dịch lây lan, công nghệ khôi phục môi trường đã suy thoái. Đầu tư cải tiến hệ thống phương pháp nuôi. Việc tăng cường đầu tư khoa học công nghệ nuôi trồng thủy sản không chỉ góp phần tăng nhanh sản lượng nuôi trồng thủy sản mà còn tạo ra và duy trì lợi thế so sánh của vùng nuôi. 3.3. Đầu tư cho công tác quy hoạch nuôi trồng thủy sản. Việc quy hoạch nuôi trồng thủy sản vừa phải đảm bảo sự phát triển lâu dài của ngành vừa phải nằm trong quy hoạch tổng thể của cả nước vì nuôi trồng thủy sản là một hoạt động trong hệ thống hoạt động kinh tế của đất nước nên phải đảm bảo một trật tự ưu tiên sao cho đạt được hiệu quả kinh tế cao nhất. Đồng thời, nuôi trồng thủy sản có quan hệ chặt chẽ với môi trường sinh thái, do đó khi quy hoạch phải đảm bảo phối hợp các hoạt động một cách nhịp nhàng, đồng bộ, hỗ trợ phát triển. Để phục vụ cho công tác quy hoạch, yêu cầu các địa phương tiến hành rà soát và điều chỉnh quy hoạch phát triển nuôi trồng thủy sản căn cứ vào điều kiện sinh thái, sử dụng điều kiện cơ sở vật chất hiện có đặc biệt là hệ thống thủy lợi để đầu tư một cách hợp lý cho xây dựng cơ sở hạ tầng như đê bao, đường, điện, hệ thống cấp thoát nước, quy tụ sản xuất vào một số vùng để dễ tổ chức sản xuất, quản lý môi trường, tiêu thụ sản phẩm và cung cấp dịch vụ. Đầu tư quy hoạch nuôi trồng cần phải được thiết phải được thiết kế vùng nuôi theo dự án. Đối với các vùng điều kiện tự nhiên, xã hội phù hợp với phát triển nuôi trồng thủy sản thì tiến hành mở rộng sản xuất; với những vùng đã thực hiện nuôi trồng thủy sản có dấu hiệu suy thoái môi trường nặng thì kiên quyết chuyển đổi sang hoạt động sản xuất khác nhằm bảo vệ tính hiệu quả và lâu dài. Trong khi quy hoạch cần phối hợp nông, lâm, thủy lợi thống nhất quản lý sử dụng có hiệu quả các dạng mặt nuôi trồng thủy sản từ đó tiến hành quy hoạch cụ thể, bố trí cơ sở hạ tầng vung nuôi. 3.4. Đầu tư phát triển nguồn nhân lực. Muốn đầu tư phát triển nuôi trồng thủy sản có hiệu quả đòi hỏi phải có một nguồn nhân lực gồm các cán bộ khoa học có trình độ cao và đội ngũ kỹ thuật viên thực hành giỏi làm nòng cốt hướng dãn cách thức nuôi trồng thủy sản. Cần chú ý đến các nội dung sau: Nâng cao trình độ văn hóa cho ngư dân. Tập trung đào tạo nguồn nhân lực có trình độ khoa học, kỹ thuật, kỹ năng nghề nghiệp cho mọi lĩnh vực bao gồm: cán bộ quản lý, cán bộ khoa học, đội ngũ thanh tra… Tìm kiếm phương thức đào tạo thích hợp ở trong nước kết hợp với sự giúp đỡ của các nước, các tổ chức quốc tế để xây dựng nguồn nhân lực Một vấn đề cần chú ý trong đầu tư đạo tạo nguồn nhân lực là: đào tạo nguồn nhân lực là vấn đề thiết yếu nhưng sử dụng đúng và sử dụng hợp lý nguồn nhân lực đã được đào tạo cũng không kém phân quan trọng. 3.5. Đầu tư vào khâu giống, thức ăn. Đầu tư vào khâu giống cần tập trung vào các công ty có nhiều khu công nghiệp về giống.Từ những khu công nghiệp này, giống được bán cho ngư dân nhằm bảo đảm chất lượng về vệ sinh an toàn con giống 4. Sự cần thiết của đầu tư phát triển nuôi trồng thủy sản. 4.1. Đầu tư nuôi trồng thủy sản nhằm tận dụng tiềm năng nuôi trồng thủy sản. Nước ta là nước có tiềm năng nuôi trồng thủy sản khá lớn và hấp dẫn. Diện tích mặt nước mới đưa vào sử dụng chỉ chiếm khoảng 30% diện tích tiềm năng, có thể sử dụng tới 60% mà vẫn đảm bảo cân bằng sinh thái. Tuy nhiên do thiếu quy hoạch cụ thể dãn đến phát triển nuôi trồng thủy sản ố ạt, tác động xấu đến môi trường tự nhiên. Đồng thời hệ thống nuôi trồng thủy sản chậm được điều chỉnh, buông lỏng quản lý, dẫn đến tình trạng con giống không đảm bảo chất lượng, làm thiệt hại người nuôi thả ở nhiều vùng. Vì vậy trong giai đoạn hiện nay, đầu tư phát triển nuôi trồng thủy sản chính là hướng đi chiến lược và lâu dài của ngành thủy sản. 4.2. Đầu tư phát triển nuôi trồng thủy sản nhằm giảm áp lực khai thác hải sản. Ngành thủy sản Việt Nam nhìn chung đã khai thác tới trần thậm chí có một số vùng đã khai thác quá giới hạn cho phép. Điều này làm ảnh hưởng lớn đến vấn đề bảo vệ tài nguyên, môi trường và đa dạng sinh học trong nghề cá. Các Hội nghị quốc tế về sự đóng góp bền vững của nghề cá vào sản xuất thực phẩm và Hội nghị các Bộ trưởng Thủy sản đã nhấn mạnh: Nuôi trồng thủy sản gắn liền với bảo vệ môi trường là phương hướng rất quan trọng đang được sự quan tâm lớn của các quốc gia và các tổ chức bảo vệ môi trường. Vấn đề bảo vệ các vùng nước khỏi bị ô nhiễm, bảo vệ các vùng ngập mặn… đang được xem xét gắn liền với việc nuôi trồng thủy sản. Hiệu quả và tính bền vững của nuôi trồng thủy sản luôn đi liền với việc ngăn chặn và bảo vệ các nguồn lợi tự nhiên bị khai thác cạn kiệt. 4.3. Nuôi trồng thủy sản đáp ứng được nhu cầu ngày càng tăng thực phẩm cho tiên dùng, hàng hóa xuất khẩu và nguyên liệu cho chế biến xuất khẩu. Hiện nay, mức tiêu dùng của người Việt Nam đối với các loại thủy sản ước tính chiếm khoảng hơn 50% về tiêu dùng thực phẩm chứa Protein. Riêng về cá cung cấp khoảng 8kg/người/ năm. Những năm tới xu thế đời sống nhân dân ngày một khá lên, mức tiêu dùng thực phẩm sẽ tăng, người dân có xu thế thiên về thực phẩm ít chất béo. Do đó cá và sản phẩm gốc là thủy sản làm thực phẩm chiếm phần quan trọng trong đó cá nuôi cung cấp tại chỗ chi phí vận chuyển ít, đảm bảo được tươi sống ngày càng có vai trò quan trọng hơn. Theo chiến lược phát triển kinh tế phát triển của ngành thủy sản đến năm 2010 tổng sản lượng thủy sản của ngành là 3,5 triệu tấn, trong đó ưu tiên cho xuất khẩu khoảng 40%. Nếu so với lượng tiêu dùng thủy sản bình quân đầu người trên thế giới theo ước tính của FAO là 13,4 kg/ người thì nước ta chưa đáp ứng được. Phát triển nuôi trồng thủy sản chính là cung cấp số lượng thiếu hụt đó. Bên cạnh đó, thủy sản xuất khẩu Việt Nam ngày càng được ưa chuộng trên thị trường quốc tế. Đặc biệt nhóm sản phẩm từ tôm là mạt hàng chủ lực và chiếm tỷ trọng ngày càng cao trong cơ cấu hàng thủy sản xuất khẩu. Ngoài ra, các đối tượng khác như: nhuyễn thể, cá song, cá hồng, cá ba sa, cá rô phi đực, cá sặc rằn, cá quả, lươn, ba ba, ếch…cũng là những mặt hàng xuất khẩu được ưa chuộng. Ơ Nhật xu thế tiêu dùng hàng thủy sản thay cho thịt bình quân 71,5 kg/ người và còn tiếp tục tăng. Thị trường Mỹ và EU cũng có xu hướng như vậy. Dự kiến đến năm 2005 cơ cấu sản phẩm thủy sản của Việt Nam xuất sang Nhật sẽ là 32-34%, Châu á là 20-22%, Bắc Mỹ 20-22%, EU 16-18%, thị trường khác là 8-10%. Vì vậy đầu tư nuôi trồng thủy sản đáp ứng ngày càng tăng nhu cầu hàng thủy sản cho xuất khẩu. Hơn nữa, đầu tư phát triển nuôi trồng thủy sản sẽ chủ động kiểm soát được chất lượng vệ sinh của nguyên liệu, tạo ra nguồn nguyên liệu xuất khẩu lớn và ổn định cho chế biến xuất khẩu. 4.4. Đầu tư nuôi trồng thủy sản góp phần phát triển kinh tế xã hội. Với đặc thù vùng nông thôn ven biển, dân số đông, trình độ dân trí thấp … vì vậy mà cùng với tốc độ gia tăng của dân số là tốc độ gia tăng lao động dư thừa. Đầu tư phát triển nuôi trồng thủy sản ngoài mục đích góp phần đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế, tăng thu ngoại tệ cho đất nước, còn góp phần tạo việc làm, tăng thu nhập, cải thiện mức sống cho nông, ngư dân. Một bộ phận lớn ngư dân làm nghề khai thác ven bờ do nguồn lợi cạn kiệt, khai thác kém hiệu quả, có thể chuyển sang nuôi trồng thủy sản hoặc một bộ phận nông dân vừa sản xuất nông nghiệp, vừa có thể nuôi trồng thủy sản…Điều này làm phong phú thêm cho nền văn minh lúa nước, đưa nền văn minh lúa nước lên cao hơn, hiện đại hơn. Qua phân tích trên, ta có thể thấy được nuôi trồng thủy sản là một nghề mang lại nhiều lợi ích về cả kinh tế và xã hội. Là một nước có nhiều ưu thế về tự nhiên và con người, nuôi trồng thủy sản đã được chú ý trong những năm qua.Tuy nhiên, với tiềm năng lớn như vậy, đầu tư cho nuôi trồng thủy sản của nước ta vẫn chưa thực sự thoả đáng, cần thiết phải đẩy mạnh đầu tư hơn nữa trong thời gian tới. Chương II: Thực trạng đầu tư nuôi trồng thủy sản Việt Nam trong giai đoạn 2000-2004. I. Những điều kiện tự nhiên và kinh tế xã hội Việt Nam ảnh hưởng đến đầu tư nuôi trồng thủy sản. 1. Điều kiện tự nhiên Việt Nam. 1.1. Vị trí địa lý, địa hình. Nước ta trải dài trên 15 độ vĩ Bắc kề sát biển Đông, từ bờ biển Móng Cái( Quảng Ninh) đến Hà Tiên( Kiên Giang) với 3260 km bờ biển, 112 cửa sông lạch, 12 đầm phá và hơn 4 ngàn đảo lớn nhỏ ven biển. Bờ biển nước ta bao gồm nội hải, lãnh hải, vùng kinh tế đặc quyền kinh tế và thềm lục địa, cả quần đảo Trường Sa, Hoàng Sa. Vùng biển rộng lớn, kênh rạch chằng chịt và vùng đất liền đã tạo nên những vùng sinh thái khác nhau (nước mặn, nước lợ, nước ngọt) đã tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển nuôi trồng thủy sản ở nước ta. Biểu hiện cụ thể ở tiềm năng lớn về mặt nước như sau: Ao hồ nhỏ, mương vườn : 120.000 ha Mặt nước lớn: 340946 ha Ruộng trũng : 579970 ha Vùng triều: 660002 ha Chưa kể mạt nước các sông và khoảng 300.000- 400.000 ha eo, vịnh, đầm phá ven biển có thể sử dụng vào nuôi trồng thủy sản chưa được quy hoạch. Cho đến năm 2004, diện tích các loại mặt nước đã sử dụng chiếm khoảng 58% diện tích tiềm năng. Bên cạnh đó, biển nước ta có nồng độ muối mặn rất thích hợp để phát triển ngành thủy sản với nhiều hải sản quý, đặc biệt là ở bán đảo Cà Mau Việt Nam được đánh giá là vùng có điều kiện nuôi tôm sinh thái lớn nhất thế giới. 1.2. Khí hậu, thủy văn. Việt Nam nằm trong vùng nhiệt đới Đông Nam A, kéo dài khoảng 15 vĩ độ nên chịu ảnh hưởng của Thái Bình Dương và lục địa, biểu hiện đặc trưng là chế độ nhiệt đới gió mùa. Chế độ khí hậu nhiệt đới gió mùa cùng với chế độ mưa nhiệt đới đã ảnh hưởng đến các vùng trong cả nước, tạo nên những nét đặc trưng của mỗi vùng. Sự khác biệt này đã tạo điều kiện phát triển nuôi trồng thủy sản đa dạng và nhiều loại hình. Miền Bắc: Nhiệt độ trung bình từ 22,3oC- 22,50C , lượng mưa trung bình 1500- 2400mm, tổng số giờ nắng 1650- 1750 h/ năm. Vùng biển khu vực này thuộc nhật triều, biên độ 3,2- 3,6 m thích hợp cho nuôi trồng thủy sản. Miền Trung : Nhiệt độ trung bình 22,5 oC - 27,5 oC, mưa tập trung vào cuối tháng 9-11. Nắng nhiều 2300-3000h/ năm. Chế độ thủy triều gồm nhật triều và bán nhật triều. Ưu điểm của khu vực này là có rất nhiều đầm phá thích hợp cho nhiều loại hình nuôi trồng thủy sản: nuôi nước ngọt, nước lợ và nước mặn. Tuy nhiên, miền trung nước ta chịu ảnh hưởng rất nhiều của bảo, lũ lụt và hạn hán gây ra rất nhiều tổn thất. Miền Nam: khí hậu mang tính xích đạo, nhiệt độ trung bình từ 22,6 oC - 27,6 oC, mưa tập trung vào từ tháng 5- tháng 10. Vùng này chủ yếu là chế độ bán nhật triều, biên độ 2,5- 3m. Đặc điểm khí hậu của khu vực này tạo điều kiện thuận lợi cho mô hình nuôi tôm, nuôi cá lồng bè có giá trị kinh tế cao. Ngoài ra, nước ta còn có trên 50 sông lớn, nhỏ chảy ra biển với khoảng 800 tỷ m3 nước/ năm, trong đó lưu lượng nước từ sông Hồng, sông Cửu Long chiếm tỷ lệ khá lớn. Với lượng nước từ các sông như vậy, đã bổ sung một khối lượng dinh dưỡng đáng kể và có ảnh hưởng rất lớn tới nguồn lợi tôm, cá. 1.3. Nguồn lợi giống thủy sản. Nguồn lợi cá nước ngọt: Đã thống kê được 544 loài trong 18 bộ, 57 họ, 228 giống. Trong 544 loài đó có nhiều loài có giá trị kinh tế cao. Nguồn lợi cá nước lợ, mặn: Đã thống kê được 186 loài. Một số loài có giá trị kinh tế cao như: cá song, cá hồng, cá vược, cá măng, cá cam, các bống, cá bớp, cá đối, cá dĩa. Trong đó đã đưa vào nuôi: cá vược, cá giò, cá song, cá măng, cá cam… Nguồn lợi tôm: Đã thống kê được khoảng 16 loài chủ yếu có giá trị kinh tế và đưa vào nuôi: tôm sú, tôm lướt, tôm he Ân Độ, tôm rảo, tôm nương, tôm càng xanh… Về nhuyễn thể: có một số loài chủ yếu: Trai, hầu, điệp, nghêu, sò, ốc…đang đưa vào nuôi các loà: Trai, nghêu, sò… Về rong tảo: Với 90 loài có giá trị kinh tế, trong đó đáng kể là rong câu, rong mơ, rong sụn… Tóm lại, điều kiện tự nhiên của Việt Nam khá thuận lợi cho phát triển nuôi trồng thủy sản. Vấn đề là ở chỗ chúng ta đã tận dụng lợi thế đó như thế nào để nâng cao tối đa hiệu quả 2. Điều kiện kinh tế xã hội. 2.1. Lao động Việt Nam là nước đông dân( khoảng 80 triệu người), vì vậy mà nguồn lao động khá dồi dào. Trong đó lao đông trong ngành nông nghiệp chiếm phần lớn khoảng gần 80%.Giá cả sức lao động lại tương đối thấp so với khu vực và thế giới. Hoạt động trong lĩnh vực thủy sản, đặc biệt là nuôi trồng thủy sản cần một một lượng lớn lao động không đòi hỏi có trình độ kỹ thuật cao. Vì vậy mà với một số lượng dân số sống ở vùng biển, lại khéo leo, chăm chỉ…là một thuận lợi lớn cho hoạt động nuôi trồng thủy sản ở nước ta. Khoảng hơn 4 triệu dân sống ở vùng triều và khoảng 1 triệu dân sống ở đầm phá, tuyến đảo của 714 xã, phường thuộc 28 tỉnh, thành phố có biển và hàng chục hộ nông dân hàng năm đã tạo ra một lực lượng nuôi trồng thủy sản đáng kể, chiếm tỷ trọng lớn trong sản xuất nghề cá. Thêm vào đó, một bộ phận khá đông dân cư làm nghề đánh cá nhưng thiếu một số điều kiện cũng chuyển sang nuôi trồng thủy sản và một lực lượng lao động vừa sản xuất nông nghiệp vừa nuôi trồng thủy sản. Bên cạnh một lực lượng dồi dào lao động giản đơn, lao động kỹ thuật trong lĩnh vực nuôi trồng thủy sản cũng ngày càng được nâng cao về chất lượng và số lượng. Công tác giáo dục, đào tạo can bộ cho nuôi trồng thủy sản luôn được xem trọng, hầu hết các tỉnh có tiềm năng về biển đều có các trường đại học, cao đẳng đào tạo chuyên ngành này. Các trường đã thực hiện chuẩn hóa nội dung chương trình đào tạo, đã xây dựng chương trình khung trung học chuyên nghiệp cho 3 chuyên ngành thủy sản: khai thác hàng hải thủy sản, nuôi trồng thủy sản, chế biến bảo quản thủy sản. Các trường đã kết hợp chặt chẽ giữa giảng dạy lý thuyết với thực hành thực nghiệm, liên kết với các địa phương để mở lớp đào tạo tại các địa phương. Hàng năm, nhà nước đã tạo điều kiên cho một số lượng lớn cán bộ, sinh viên được học tập, nghiên cứu ở nước ngoài. 2.2. Khoa học, công nghệ. Mặc dù Việt Nam còn nhiều hạn chế về mặt khoa học, công nghệ nhưng với định hướng khoa học công nghệ trong thời kỳ CNH-HĐH theo chủ trương chính sách của Đảng và với tinh thần luôn học hỏi, tiếp thu những thành tựu trên thế giới; hiện nay những bước tiến bộ vê khoa học, công nghệ của chúng ta đã góp phần tạo điều kiện cho đầu tư phát triển nuôi trồng thủy sản. Hàng năm, nhà nước giao cho Bộ Thủy sản phải có các công trình khoa học nghiên cứu về phát triển thủy sản nói chung và trong lĩnh vực nuôi trồng thủy sản nói riêng, tìm tòi áp dụng những thành tựu khoa học tiên tiến của các nước thành công trong lĩnh vực thủy sản vào nước ta. Từ năm 1996 đến nay, các cơ quan khoa học thuộc bộ thủy sản đã triển khai nhiều đề tài độc lập cấp nhà nước, điển hình như: chọn giống chất lượng cao, bệnh tôm, sản xuất giống cua biển, nghiên cứu nguồn lợi sinh vật biển quần đảo Trường Sa và lưu giữ nguồn gen, giống thủy sản nước ngọt. Trong đó đề tài bệnh tôm đã có nhiều đề xuất kịp thời giúp các địa phương tìm cách khắc phục sự phát triển của bệnh như quản lý con giống, quản lý môi trường nuôi, quản lý thức ăn cho tôm áp dụng kỹ thuật nuôi khép kín, vì vậy các địa phương đã nhanh chóng phục hồi và phát triển nghề nuôi tôm để có nguyên liệu xuất khẩu. Đề tài sản xuất cua giống bằng phương pháp cho đẻ nhân tạo đã bước đầu có nhiều triển vọng tốt để tiếp tục xây dựng mô hình sản xuất cua giống ở Việt Nam. 2.3. Chủ trương, chính sách của Nhà nước. Nước ta có rất nhiều thuận lợi cho phát triển thủy sản, tuy nhiên để thủy sản thực sự là một ngành kinh tế mũi nhọn và hoạt động có hiệu quả thì Nhà nước phải đặc biệt quan tâm thông qua một hệ thống chính sách, pháp luật. Theo như văn kiện đại hội Đảng toàn quốc lần thứ I X, Đảng ta đã đưa ra định hướng phát triển ngành thủy sản: “ Phát huy lợi thế về thủy sản, tạo thành một ngành kinh tế mũi nhọn, vươn lên hàng đầu trong khu vực. Phát triển mạnh nuôi trồng thủy sản nước ngọt, nước lợ và nước mặn, nhất là nuôi tôm, theo phương thức tiến bộ, hiệu quả và bền vững môi trường. Tăng cường năng lực và nâng cao hiệu quả khai thác hải sản xa bờ; chuyển đổi cơ cấu nghề nghiệp, ổn định khai thác gần bờ; nâng cao năng lực bảo quản chế biến sản phẩm đáp ứng yêu cầu thị trường quốc tế và trong nước. Mở rộng và nâng cấp các cơ sở dịch vụ hạ tầng nghề cá. Giữ gìn môi trường biển và sông nước, bảo đảm cho sự tái tạo và phát triển nguồn lợi thủy sản.”.Trong đó, Đảng và nhà nước ta đã đưa ra các chính sách, biện pháp đẩy mạnh đầu tư phát triển nuôi trồng thủy sản nhằm khắc phục tình trạng khai thác tới trần và nhằm tận dụng tối đa lợi thế, đáp ứng nhu cầu thực phẩm cho con người và nhu cầu chế biến xuất khẩu hàng thủy sản. Ngày 8/12/1999 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 224/1999/QĐ- TTg phê duyệt chương trình phát triển nuôi trồng thủy sản thời kỳ 1999-2010 với những chính sách về: sử dụng đất, mặt nước nuôi trồng thủy sản, chính sách đầu tư, chính sách thuế. Hướng chỉ đạo phát triển nuôi trồng thủy sản theo hướng phát triển bền vững với bảo vệ môi trường sinh thái, nuôi trồng thủy sản cần từng bước hiện đại hóa, hướng mạnh vào phát triển nuôi trồng thủy nước lợ và nuôi biển đồng thời phát triển nuôi trồng nước ngọt, tạo chuyển biến mạnh mẽ trong nuôi tôm xuất khẩu. Tiếp tục có quyết định số 112/2004/ QĐ-TTg ngày 23-6-2004 phê duyệt chương trình phát triển giống thủy sản đến năm 2010, sẽ tạo bước chuyển biến mạnh mẽ trong sản xuất, lưu thông giống, hình thành cơ cấu giống nuôi mới, bảo tồn và phát triển nguồn giống tự nhiên, quản lý chất lượng giống thủy sản đáp ứng nhu cầu thị trường. Sự quan tâm của Đảng và nhà nước là một điều kiên thuận lợi cho đầu tư phát triển nuôi trồng thủy sản ngày càng thêm hiệu quả và ngành thủy sản sẽ luôn là ngành kinh tế mũi nhọn, vươn lên vị trí hàng đầu trong khu vực. II. Tình hình đầu tư phát triển thủy sản Việt Nam giai đoạn từ năm 2000-2004. 1. Tình hình đầu tư phát triển thủy sản theo nguồn vốn. Bảng 1:Vốn đầu tư theo nguồn của ngành thủy sản. (đơn vị tính: tỷ đồng) Chỉ tiêu Năm 2000 2001 2002 2003 2004 Tổng vốn đầu tư 3.715,50 5.013,38 5.876,25 6.316,07 7.013,15 - Trong nước 3.176,75 4.301,48 5.082,95 5.589,73 6.224,17 + Ngân sách 524,16 767,05 954,3 1.105,31 1.314,96 + Tín dụng 650,21 940 1.319,8 1.877,14 2.282,78 + Huy động 2.002,65 2.623 2.808,84 2.607,27 2.626,42 - Nước ngoài 538,75 711,9 793,3 726,34 788,98 + ODA 241,50 338,40 460,11 603,18 684,48 + FDI 297,25 373,5 333,19 123,16 104,5 Nguồn: Vụ Tổng hợp KTQD- Bộ Kh&ĐT Bảng 2: Cơ cấu vốn đầu tư theo nguồn của ngành thủy sản. ( đơn vị: %) Chỉ tiêu Năm 2000 2001 2002 2003 2004 Tổng vốn đầu tư 100 100 100 100 100 - Trong nước 85,5 86,37 86,5 88,5 88,75 + Ngân sách 14,1 15,3 16,24 17,5 18,75 + Tín dụng 17,5 18,75 22,46 29,72 32,55 + Huy động 53,9 52,32 47,8 41,28 37,45 - Nước ngoài 14,5 13,63 13,5 11,5 11,25 + ODA 6,5 6,75 7,83 9,55 9,76 + FDI 8 6,88 5,67 1,95 1,49 Nguồn: Vụ Tổng Hợp KTQD – Bộ KH&ĐT Qua 2 bảng số liệu trên ta nhận thấy: Tổng mức đầu tư của toàn Ngành tăng đều qua các năm. Điều này xuất phát từ cơ chế đầu tư tự cân đối, tự trang trải, lấy nguồn thu trong xuất khẩu thủy sản để nhập khẩu máy móc thiết bị và khơi thông nguồn vốn trong nước và nước ngoài để đầu tư xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của Ngành, gắn sản xuất với tiêu thụ sản phẩm. Tuy nhiên, nếu xét từng nguồn vốn cụ thể trong cơ cấu vốn thì mức độ tăng giảm rất khác nhau. Về nguồn vốn trong nước: Ngành thủy sản đã quán triệt chủ trương đường lối của Đảng về phát huy nội lực trong đầu tư phát triển. Vì vậy mà vốn đầu tư phát triển Ngành chủ yếu là vốn trong nước ( Chiếm từ 85,5% năm 2000 đến 88,75% năm 2004). Xu hướng chung của cả ba nguồn vốn trong nước là tăng đều qua các năm. Tuy nhiên, xét về tỷ trọng thì nguồn vốn huy động từ dân lại có xu hướng giảm từ 53,9% năm 2000 xuống còn 37,45% năm 2004. Với một tỷ trọng như vây cho thấy các cơ quan quản lý nhà nước cần phải tiếp tục dùng cấc biện pháp hiệu quả hơn nhằm khơi thông nguồn vốn tiềm tàng từ trong dân cư cho đầu tư phát triển Ngành. Bên cạnh đó, nguồn vốn Ngân sách Nhà nước cấp chỉ chiếm tỷ trọng từ 14% đến 19% như vậy là còn hạn chế, chưa tương xứng với tiềm năng và vai trò của Ngành. Về nguồn vốn nước ngoài: Nhìn chung tổng vốn nước ngoài cho đầu tư phát triển thủy sản có xu hướng tăng. Tuy nhiên xét về tỷ trọng thì , nguồn vốn này đã giảm từ 14,5% năm 2000 xuống còn 11,25% năm 2004. Mặt khác, với mức tỷ trọng trong khoảng đó chứng tỏ nguồn vốn huy động từ nước ngoài cho thủy sản còn rất hạn chế. Trong đó, nguồn vốn FDI cũng có xu hướng giảm từ 297,25 tỷ năm 2000 xuống còn 104,5 tỷ năm 2004. Không những vậy, tỷ trọng vốn FDI trong cơ cấu vốn cũng giảm mạnh từ 8% xuống còn 1,49%. Điều đó cho thấy, đầu tư vào Ngành thủy sản chưa thực sự hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài và nỗ lực của Việt Nam giới thiệu tiềm năng phát triển thủy sản của nước mình với các nhà đầu tư cũng chưa nhiều, chưa hiệu quả. 2. Tình hình đầu tư phát triển thủy sản theo lĩnh vực. Bảng 3: Vốn đầu tư cho ngành thủy sản theo lĩnh vực. ( Đơn vị tính: tỷ đồng) Chỉ tiêu Năm 2000 2001 2002 2003 2004 Tổng vốn đầu tư toàn ngành 3.717,50 5.013,38 5.876,25 6.316,07 7.013,15 Vốn đầu tư lĩnh vực khai thác 1.119,11 1.493,99 1.692,36 1.714,81 1.883,03 Vốn đầu tư lĩnh vực nuôi trồng 1.099,42 1.502,51 1.702,35 1.843,66 2.059,06 Vốn đầu tư lĩnh vực chế biến 1.109,82 1.514,54 1.842,79 2.049,56 2.296,81 Vốn đầu tư cho hậu cần dịch vụ 358,55 502,34 638,75 708,03 774,25 Nguồn: Vụ Tổng hợp KTQD- Bộ KH& ĐT Bảng 4: Tỷ trọng vốn đầu tư cho thủy sản theo lĩnh vực. ( Đơn vị: %) Chỉ tiêu Năm 2000 2001 2002 2003 2004 Tổng vốn đầu tư toàn ngành 100 100 100 100 100 Vốn đầu tư lĩnh vực khai thác 30,12 29,8 28,8 27,15 26,85 Vốn đầu tư lĩnh vực nuôi trồng 29,59 29,97 28,97 29,19 29,36 Vốn đầu tư lĩnh vực chế biến 29,87 30,21 31,36 32,45 32,45 Vốn đầu tư cho hậu cần dịch vụ 9,65 10,02 10,87 11,21 11,21 Nguồn: Vụ Tổng Hợp KTQD – Bộ KH&ĐT Quả bảng 3 và 4, chúng ta nhận thấy vốn đầu tư phát triển ở cả 4 lĩnh vực trên đều tăng qua các năm. Tuy nhiên, xét về tỷ trọng thì lĩnh vực nuôi trồng và lĩnh vực chế biến ngày càng chiếm tỷ trọng cao hơn. Trong khi đó tỷ trọng vốn cho khai thác co xu hương giảm xuống. Điều này hoàn toàn hợp lý bởi vì mục tiêu của Ngành là ưu tiên phát triển nuôi trồng thủy sản và chế biến nhằm đáp ứng một lượng lớn nhu cầu hàng thủy sản cho tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. Đối với lĩnh vực khai thác: Do nhận thấy lượng hải sản gần bờ ngày càng ít đi và có nguy cơ cạn kiệt, nguy cơ anh hưởng đến môi trường và mất cân bằng sinh thái. Vì vậy mà trong thời gian gần đây, Bộ thủy sản đã có chủ trương hạn chế khai thác hải sản gần bờ, đầu tư đống tàu mới có công suất lớn hiện đại có thể bám biển dài ngày, khai thác nguồn hải sản xa bờ mà lâu nay chúng ta chưa khai thác. Do vậy mà vốn đầu tư cho khai thác đã không ngừng được nâng cao trong những năm qua ( từ 1.119,11 tỷ năm 2000 đến 1.883,03 năm 2004). Tuy nhiên nếu chỉ dựa vào sản lượng thủy sản khai thác thì sẽ không đủ để xuất khẩu, lại làm ảnh hưởng đến môi trường và cân bằng sinh thái. Vậy nên trong những năm qua, tỷ trọng vốn đầu tư cho lĩnh vực khai thác đang có xu hướng giảm xuống ( Từ 30,2% năm 2000 giảm dần xuống 26,85% năm 2004). Đối với lĩnh vực nuôi trồng: Thời kỳ 2000- 2004 được đánh giá là thời kỳ phát triển rực rỡ nhất trong lĩnh vực nuôi trồng thủy sản từ khi ngành thủy sản ra đời. Chính phủ và Bộ thủy sản đã xác định và xây dựng chiến lược nuôi trồng thủy sản sẽ là nguyên liệu chính cho xuất khẩu thủy sản và tiêu dùng trong nước, đây là chiến lược phát triển bền vững ngành thủy sản. Do vậy mà trong thời kỳ này, các chương trình đầu tư phát triển nuôi trồng thủy sản ở cấp trung ương đến địa phương được tiến hành trên quy mô lớn, tiêu biểu là chương trình phát triển nuôi trồng thủy sản 224 đã làm nòng cốt khuyến khích mọi thành phần kinh tế trong cả nước đầu tư phát triển nuôi trồng thủy sản. Vì những lý do trên khiến vốn đầu tư cho phát triển nuôi trồng thủy sản đã tăng nhanh rõ rệt từ 1.099,42 tỷ năm 2000 đến 2.059,06 tỷ năm 2004. Bên cạnh đó, tỷ trọng vốn đầu tư cho nuôi trồng thủy sản cũng ngày càng tăng lên trong tổng vốn đầu tư toàn ngành thủy sản và xu hướng này còn tiếp tục tăng trong những năm tới. Đối với lĩnh vực chế biến thủy sản: Để đáp ứng được thị trường trong nước và nước ngoài, sản phẩm có nguồn gốc từ thủy sản phải đảm bảo chất lượng cao vệ mặt dĩnh dưỡng, mùi vị và đặc biệt phải đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm. Để đạt được những yêu cầu đó, chúng ta cần phải chú trọng đến khâu chế biến sau khi thu hoạch mà cụ thể là đầu tư đổi mới công nghệ chế biến sau khi thu hoạch. Vì vậy mà trong những năm qua, lượng vốn đầu tư vào đổi mới công nghệ chế biến thủy sản ngày một tăng. Vốn đầu tư cho chế biến thủy sản năm 2000 là 1.109,82 tỷ đồng với tỷ trọng 29,87%( đứng vị trí thứ 2 so với vốn toàn ngành), cho đến năm 2004 đã tăng hơn 2 lần là 2.296,81 tỷ đồng với tỷ trọng 32,75 % ( đứng vị trí thứ nhất so với toàn ngành). Sự đầu tư thích đáng cho chế biến như vậy đã làm cho sản phẩm chế biến có chất lượng ngày càng cao, ngày càng phong phú, đa dạng cạnh tranh được với sản phẩm cùng loại của một số nước có thế mạnh về xuất khẩu thủy sản, được thị trường quốc tế chấp nhận kể cả những thị trường khó tính nhất như EU hay Nhật Bản. Đối với lĩnh vực cơ khí hậu cần dịch vụ: Để khai thác, nuôi trồng, chế biến có hiệu quả thì đầu tư cho cơ khí hậu cần dịch vụ là hết sức cần thiết. Trong đó vốn đầu tư chủ yếu tập trung vào xây dựng cơ sở hạ tầng nghề cá, cầu cảng cá, hệ thống thủy lợi kho tàng bến bãi trong khai thác, nuôi trồng, và sự đầu tư tìm kiếm mở rộng thị trường đầu ra cho sản phẩm thủy sản rất quan trọng vì sản xuất luôn gắn với thị trường, thị trường sẽ là động lực cho sản xuất. Do đó vốn đầu tư cho cơ khí dịch vụ hậu cần ngày càng tăng lên, từ 358,55 tỷ đồng năm 2000 đã tăng lên 774,25 tỷ đồng năm 20004. Đây là ngành sản xuất các sản phẩm dịch vụ cho hoạt động khai thác, nuôi trồng và chế biến, là một trong những hoạt động cầu nối giữa cung cấp đầu vào và sản xuất; giữa sản xuất và tiêu thu, có chức năng hỗ trợ và tiêu thụ sản phẩm cho các hoạt động sản xuất thủy sản. Vậy nên vốn đầu tư cho lĩnh vực này sẽ có xu hướng tiếp tục tăng trong những năm tới. 3. Đánh giá kết quả đầu tư phát triển thủy sản giai đoạn 2000- 2004 3.1. Kết quả đạt được. Nhờ sự quan tâm của Đảng và Nhà nước cho đầu tư phát triển ngành thủy sản, và nhờ sự tự nỗ lực vươn lên của mình, Ngành thủy sản đã đạt được những thành tựu to lớn, trở thành một ngành kinh tế mũi nhọn trong nền kinh tế quốc dân. Những kết quả đầu tư phát triển ngành thủy sản thời kỳ 2000-2004 được thể hiện ở những mặt sau: Vốn đầu tư phát triển toàn ngành liên tục tăng qua các năm. Trong đó vốn trong nước luôn chiếm tỷ trọng lớn, đặc biệt ngành đã khơi thông được một lượng vốn tương đối từ trong dân cư. Vốn đầu tư cho nuôi trồng và chế biến liên tục tăng nhanh và chiếm tỷ trọng ngày càng cao trong tổng vốn của ngành. Đó là hướng đi đúng đắn trong chiến lược phát triển bền vững của ngành thủy sản nước ta. Từng bước tranh thủ được nguồn vốn ODA cho đầu tư phát triển Ngành: các dự án của chính phủ Nhật Bản hỗ trợ xây dựng các cầu cảng cá, các dự án của chính phủ Đan Mạch hỗ trợ về trang thiết bị và chuyên gia để nghiên cứu trong lĩnh vực bảo tồn và lai tạo giống thủy sản có giá trị kinh tế cao đang có nguy cơ cạn kiệt. Ngoài ra các dự án hỗ trợ của EU về xây dựng hệ thống tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm trong thủy sản. Từng bước hạn chế được tình trạng đầu tư dàn trải, ngành đã mạnh dạn đầu tư vào những công trình và hạng mục công trình trọng điểm. Lấy mục tiêu hiệu quả tài chính và hiệu quả kinh tế xã hội làm tiêu chí hàng đầu trong từng dự án đầu tư. Ngành đã từng bước đầu tư mạnh mẽ cho khoa học công nghệ và cơ sở hạ tầng kỹ thuật, tạo dựng được tiềm lực để phát triển ngành. 3.2. Những mặt còn tồn tại. Mặc dù đã đạt được một số thành tựu đáng kể nhưng hoạt động đầu tư phát triển trong thời gian qua vẫn còn một số hạn chế cần khắc phục: Vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước cấp cho các dự án còn rất thấp so với nhu cầu thực tế ( nhất là dự án đầu tư hạ tầng cho nuôi trồng Thủy sản) dẫn đến việc đầu tư không đồng bộ, chậm đưa công trình vào sử dụng, ảnh hưởng đến hiệu quả đầu tư. Nguồn vốn trong dân còn nhiều nhưng chưa được huy động thoả đáng do nhiều lý do về tư tưởng, về sự rủi ro. Chưa tận dụng triệt để và tranh thủ hết mọi nguồn vốn để huy động phát triển ngành, đặc biệt là nguồn vốn liên doanh, liên kết…để tiến hành sản xuất, chỉ có rất ít doanh nghiệp huy động vốn từ kênh thị trường chứng khoán. Mặc dù nhà nước đã có những chính sách khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào ngành thủy sản nhưng lượng vốn huy động được còn khá khiêm tốn. Số các nhà tài trợ song phương và đa phương vào ngành thủy sản còn quá ít, còn những dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài của ngành có qui mô nhỏ và tính hiệu quả chưa cao. Điều này xuất phát từ tiến trình thẩm định và thực hiện các điều kiện tiếp nhận của chúng ta vẫn còn chậm dẫn đến vốn đối ứng trong nước chưa được giải quyết kịp thời. Bên cạnh đó, môi trường đầu tư nước ta nói chung và của ngành thủy sản nói riêng chưa thực sự hấp dẫn. Nước ta lại chưa có qui chế riêng trong đầu tư nước ngoài vào thủy sản , gây tâm lý e ngại khi nhà đầu tư nước ngoài tiến hành bỏ vốn vào đầu tư. Quản lý nhà nước về hoạt động đầu tư trong Ngành Thủy sản chưa có hệ thống chính sách đồng bộ gây thất thoát, lãng phí, kém hiệu quả, đồng thời ảnh hưởng tới vấn đề bảo vệ môi trường sinh thái ảnh hưởng tới sự phát triển bền vững của Ngành. Đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý đầu tư XDCB của các chủ đầu tư vừa yếu, vừa thiếu, chưa đủ điều kiện năng lực theo quy định dẫn đến việc lập thủ tục đầu tư từ khâu chuẩn bị đầu tư đến khâu khởi công xây dựng công trình bị kéo dài. Chất lượ._.ều thời hạn khác nhau để có thể phù hợp với các nguồn vốn tạm thời trong dân cư. b Ưu tiên phát triển các hình thức thu hút vốn trung và dài hạn để phù hợp với nhu cầu vay cho đầu tư phát triển ngành thủy sản và nuôi trồng thủy sản, tạo tiền đề cho mức tăng dư nợ trung và dài hạn. b Chủ động tham gia thị trường liên ngân hàng để huy động và sử dụng vốn linh hoạt và hiệu quả. b Nghiên cứu xây dựng cơ chế huy động vốn thông qua các đại lý là các quỹ tín dụng nhân dân. b Cải tiến, đa dạng hóa các hình thức cho vay và thanh toán nhằm vừa rút ngắn quá trình vận động của đồng vốn đến đúng địa chỉ đầu tư, vừa tiết kiệm đồng vốn, giảm chi phí tín dụng. b Tích cực đàm phán vay ưu đãi của các tổ chức quốc tế và chính phủ các nước; đồng thời dự báo kịp thời những biến động về tỷ giá để có chính sách vay bằng ngoại tệ và cho vay lại phù hợp, đảm bảo hiệu quả hoạt động. Nguồn vốn tự huy động: Đây là nguồn vốn có tiềm năng rất lớn nhưng chưa được khai thác triệt để. Lượng tiền nhàn rỗi trong dân còn nhiều , tồn tại dưới hình thức: “ tiền mặt trong nhà”, chưa có động lực để biến thành vốn đầu tư gây nên tình trạng “ thừa tiền, thiếu vốn”. Vì vậy cần phải tổ chức tốt mạng lưới quỹ tiết kiệm cũng như hệ thống tín dụng nhân dân, hệ thống tín dụng ngân hàng và thị trường chứng khoán. ở những vùng có tiềm năng nuôi trồng thủy sản cần cử các cán bộ chuyên môn trực tiếp hướng dẫn , tuyên truyền hoặc tổ chức các lớp đào tạo ngắn ngày cho bà con nông dân hiểu biết hơn về kỹ thuật nuôi trồng thủy sản và những lợi ích do nó mang lại. Từ đó, tạo cơ sở động lực cho người dân bỏ vốn cho đầu tư. Bên cạnh đó, nhà nước cần nhanh chóng xử lý những vấn đề còn tồn tại trong thủ tục pháp lý trong luật khuyến khích đầu tư trong nước liên quan đến lĩnh vực nuôi trồng thủy sản như: Chính sách về sử dụng đất, mặt nước nuôi trồng thủy sản, chính sách về thuế, chính sách về vốn, chính sách về trợ giá một số giống nuôi thủy sản , chính sách hỗ trợ cho nuôi trồng thủy sản gặp rủi ro…Đồng thời bổ sung, đồng bộ hóa các văn bản dưới luật để văn bản này thực sự là căn cứ thu hút khuyên khích mọi tầng lớp nhân dân bỏ vốn đầu tư cho nuôi trồng thủy sản. ă Nguồn vốn nước ngoài: Nguồn vốn nước ngoài có vai trò rất quan trọng trong công cuộc đầu tư phát triển nuôi trồng thủy sản. Tuy nhiên lượng vốn huy động trong những năm qua còn rất hạn chế ( trung bình 38,5 tỷ đồng/ năm). trong khi đó nhu cầu vốn cho giai đoạn 2006-2010 là 1.222 tỷ đồng. Con số này khá lớn đòi hỏi đỏi chúng ta phải thực sự nỗ lực trong việc đưa ra những giải pháp thu hút ngày càng mạnh mẽ vốn đầu tư nước ngoài cho đầu tư phát triển nuôi trồng thủy sản. Cụ thể cần chú ý đến một số giải pháp nhằm tăng cường thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài như sau: b Hoàn thiện bổ sung hệ thống luật pháp, chính sách tạo ra môi trường pháp lý ổn định và nhất quán cho hoạt động đầu tư , mở rộng các hoạt động tư vấn đầu tư, mở rộng các hoạt động tư vấn đầu tư, tạo môi trường đầu tư thông thoáng, hấp dẫn hơn. Đặc biệt luôn giữ vững sự ổn định kinh tế –chính trị- xã hội của đất nước b Nhà nước cần tài trợ cho công tác xây dựng cơ sở hạ tầng và coi đó là một trong những cơ sở để có thể hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài và khuyến khích đầu tư. b Phải xác định chi tiết quy hoạch từng vùng, quy hoạch từng lĩnh vực và có những ưu tiên khuyến khích cụ thể. b Khẩn trương xây dựng một số khu kinh tế mở có quy chế riêng cho đầu tư nước ngoài tại một số huyện đảo hoặc vùng ven biển về lĩnh vực nuôi trồng thủy sản và sản xuất con giống nuôi trồng thủy sản với giá trị kinh tế cao, để tiến hành nuôi trồng cho các vùng nuôi trong cả nước. b Tiến hành lập danh sách các dự án gọi vốn đầu tư, đồng thời tiến hành xây dựng quy chế trách nhiệm và phân cấp cụ thể để các địa phương, cơ sở chủ động tìm kiếm các nguồn vốn và phương thức hợp tác. b Xây dựng hành lang pháp lý hấp dẫn đối với đầu tư vào lĩnh vực nuôi trồng thủy sản như các ưu đãi về thuế sử dụng đất đầu tư cho nuôi trồng thủy sản đặc biệt là các vùng cát ven biển; các ưu đãi cho các xí nghiệp đi tiên phong trong phát triển nuôi biển, nuôi công nghiệp… Ngoài ra cần phải nâng cao tỷ lệ vốn góp của bên Việt Nam nhằm đảm bảo lợi ích lâu dài của đất nước, đồng thời nâng cao năng lực công nghệ quốc gia để tiếp nhận và thúc đẩy quá trình chuyển giao công nghệ tiên tiến trong lĩnh vực nuôi trồng và chế biến . Hơn nữa, cần phải tận dụng tối đa mọi khả năng hiệu quả mà đầu tư nước ngoài có thể mang lại bằng cách quy hoạch các vùng nuôi với quy mô công nghiệp, huy động và sử dụng vốn đầu tư nước ngoài phải phù hợp với chiến lược quy hoạch đầu tư. 2. Nhóm giải pháp nhằm sử dụng và quản lý hiệu quả vốn đầu tư phát triển nuôi trồng thủy sản 2.1. Công tác quy hoạch trong nuôi trồng thủy sản cần cụ thể, hợp lý và đồng bộ hơn. Trong những năm qua, công tác quy hoạch trong đầu tư nuôi trồng thủy sản còn nhiều lúng túng,bất cập; chưa có sự phối hợp quản lý nhịp nhàng giữa quy hoạch và đầu tư. Điều này gây ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả sử dụng vốn đầu tư. Vì vậy, để vốn đầu tư nuôi trồng thủy sản được sử dụng và quản lý hiệu quả cần phải chú trọng đổi mới trong công tác quy hoạch Việc quy hoạch nuôi trồng thủy sản vừa phải đảm bảo sự phát triển lâu dài của ngành vừa phải nằm trong quy hoạch tổng thể của cả nước vì nuôi trồng thủy sản là một hoạt động trong hệ thống hoạt động kinh tế của đất nước nên phải đảm bảo một trật tự ưu tiên sao cho đạt được hiệu quả kinh tế cao nhất. Đồng thời, nuôi trồng thủy sản có quan hệ chặt chẽ với môi trường sinh thái, do đó khi quy hoạch phải đảm bảo phối hợp các hoạt động một cách nhịp nhàng, đồng bộ, hỗ trợ phát triển. Để phục vụ cho công tác quy hoạch, các địa phương phải tiến hành rà soát và điều chỉnh quy hoạch phát triển nuôi trồng thủy sản căn cứ vào điều kiện sinh thái, sử dụng điều kiện cơ sở vật chất hiện có đặc biệt là hệ thống thủy lợi để đầu tư một cách hợp lý cho xây dựng cơ sở hạ tầng như đê bao, đường, điện, hệ thống cấp thoát nước, quy tụ sản xuất vào một số vùng để dễ tổ chức sản xuất, quản lý môi trường, tiêu thụ sản phẩm và cung cấp dịch vụ. Đầu tư quy hoạch nuôi trồng cần phải được thiết kế vùng nuôi theo dự án. Đối với các vùng điều kiện tự nhiên, xã hội phù hợp với phát triển nuôi trồng thủy sản thì tiến hành mở rộng sản xuất; với những vùng đã thực hiện nuôi trồng thủy sản có dấu hiệu suy thoái môi trường nặng thì kiên quyết chuyển đổi sang hoạt động sản xuất khác nhằm bảo vệ tính hiệu quả và lâu dài. Trong khi quy hoạch cần phối hợp nông, lâm, thủy lợi thống nhất quản lý sử dụng có hiệu quả các dạng mặt nuôi trồng thủy sản từ đó tiến hành quy hoạch cụ thể, bố trí cơ sở hạ tầng vung nuôi. 2.2. Đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng vùng nuôi. Cơ sở hạ tầng vùng nuôi là điều kiện tiền đề cho đầu tư nuôi trồng thủy sản. Phải đảm bảo cơ sở hạ tầng vùng nuôi vững chắc mới đảm bảo cho sự thành công của cả công cuộc đầu tư phát triển nuôi trồng thủy sản. Mặt khác, cơ sở hạ tầng vững chắc còn là một trong những yếu tố hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài. Trong giai đoạn 2000-2004, vốn cho hạ tầng nuôi chiếm trung bình khoảng 52% tổng vốn. Trong giai đoạn tới, cơ sở hạ tầng vùng nuôi cần được tiếp tục đầu tư hơn nữa. Trong đó cần chú trọng vào những vấn đề sau: Đầu tư vào hệ thống thủy lợi như đầu tư nạo vét kênh trục chính, hệ thống cấp và thoát nước để tạo ra môi trường nước thông thoáng phục vụ cho nuôi trồng thủy sản. Đầu tư xây dựng mới và nâng cấp các cơ sở sản xuất thức ăn công nghiệp, các cơ sở sản xuất giống, cơ sơ sản xuất phòng trị bệnh cho cho thủy sản nuôi. Đầu tư xây dựng hệ thống cấp năng lượng như trạm điện, máy nổ,..., hệ thống như bảo vệ khu sản xuất như đê bao, đường bao…; hệ thống kiểm soát hoạt động như phát hiện bệnh tật của thủy sản, phòng thí nghiệm… 2.3. Đầu tư vào khoa học, kỹ thuật công nghệ cho nuôi trồng thủy sản Đầu tư vào khoa học công nghệ trong lĩnh vực nuôi trồng thủy sản nhằm mục tiêu tăng nhanh sản lượng mà không phải mở rộng thêm diện tích nuôi trồng để phục vụ cho tiêu dùng nội địa, cung cấp hàng cho xuất khẩu và cho công nghiệp chế biến xuất khẩu. Đầu tư vào khoa học công nghệ trong nuôi trồng thủy sản, cần tập trung vào những vấn đề sau: - Nhà nước cần giành một phần ngân sách đầu tư xây dựng và phát triển viện, trung tâm khoa học kỹ thuật ngư nghiệp theo vùng lớn và khuyến khích các nhà nước khoa học kỹ thuật, nông học nghiên cứu chọn lọc, lai tạo các các giống, con thích nghi với từng vùng, từng quy trình canh tác, chăm sóc, bảo quản, cung cấp và hướng dẫn cho nông, ngư dân thực hiện thông qua hợp đồng nghiên cứu và chuyển giao công nghệ Đầu tư nghiên cứu tạo các giống có năng suất cao, phù hợp với điều kiện môi trường của từng vùng, từng địa phương, các giống sạch bệnh. Tập trung đầu tư nghiên cứu, ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật nhằm hoàn thiện các quy trình nuôi trồng và kỹ thuật sản xuất con giống các loài thủy sản có giá trị xuất khẩu như: tôm sú, tôm càng xanh, cá trê phi, cá basa, da trơn, cá quả, cá rô đơn tính và một số loài nhuyễn thể khấc… Đầu tư nghiên cứu, áp dụng và hoàn thiện các công nghệ chuẩn đoán, phòng trừ bệnh, công nghệ sản xuất thức ăn cho các đối tượng thủy sản nuôi công nghệ lưu giữ, vận chuyển sống, bảo quản công nghệ sau thu hoạch các loại sản phẩm nuôi trồng. Đầu tư nghiên cứu, áp dụng các công nghệ xử lý môi trường, kiểm soát nước thải, ngăn chặn bệnh dịch lây lan, công nghệ khôi phục môi trường đã suy thoái. Tăng cường đầu tư hợp tác với các nước trong khu vực trên thế giới về nuôi trồng thủy sản trong các kỹ thuật sinh sản nhân tạo một số loài cá biển, cua biển, nhuyễn thể, và công nghệ nuôi tôm sú công nghiệp, công nghệ nuôi cá lồng trên biển, công nghệ sản xuất thuốc phòng trừ và sản xuất thức ăn công nghiệp. Đồng thời hợp tác đào tạo bồi dưỡng chuyên gia kỹ thuật về giống, dinh dưỡng thức ăn phòng trị bệnh cho các đối tượng nuôi.. Việc tăng cường đầu tư khoa học công nghệ nuôi trồng thủy sản không chỉ góp phần tăng nhanh sản lượng nuôi trồng thủy sản mà còn tạo ra và duy trì lợi thế so sánh của vùng nuôi. 2.4. Đầu tư phát triển giống cho nuôi trồng thủy sản Con giống là một trong những yếu tố quan trọng quyết định đến sự thành bại trong nuôi trồng. Vì vậy để vốn cho đầu tư phát triển nuôi trồng thủy sản có hiệu quả cần phải đảm bảo đầu tư thích đáng cho con giống, đảm bảo cả về số lượng, chất lượng và kịp thời vụ. ở đây cần chú trọng hoàn thiện giống quốc gia nhằm thống nhất quản lý toàn ngành , cả nước về chất lượng giống. Khi tiến hành sắp xếp hoàn thiện hệ thống giống phải dựa trên cơ sở gắn với nhu cầu giống ở địa phương, vùng và cả nước, gắn với bảo vệ môi trường , bảo vệ nguồn lợi… Đối với hệ thống giống quốc gia về nước mặn, lợ: Cần đầu tư nâng cấp và xây dựng mới 3 trung tâm giống quốc gia + Trung tâm Hải sản Cát Bà thuộc Viện Nghiên Cứu hải sản Hải Phòng. + Trung tâm giống hải sản Nha Trang thuộc Trung tâm nghiên cứu Thủy sản III. + Trung tâm giống Vũng Tàu thuộc Viện Nghiên cứu nuôi trồng thủy sản II. Cần hình thành 12 trại giống hải sản cấp I(lợ, mặn). Các trại này cần phải được trang bị cơ sỏ vật chất và điều kiện quản lý tốt; bộ máy quản lý gọn nhẹ, hoạt động như xí nghiệp công ích về giống thủy sản. Đối với hệ thống quốc gia về nước ngọt: Nâng cấp 3 trung tâm giống quốc gia về nước ngọt gồm: + Trung tâm giống thủy sản nước ngọt khu vực đồng bằng sông Hồng và Bắc Trung Bộ, trực thuộc Viện nghiên cứu nuôi trồng thủy sản I. + Trung tâm giống cá nước ngọt Quảng Hiệp- Lâm Đồng thuộc trung tâm nghiên cứu thủy sản II. - Hình thành các trại giống thủy sản nước ngọt cấp I: Cải tạo nâng cấp trại giống cá nước ngọt của các tỉnh trọng điểm thành trại giống cấp I làm nhiệm vụ cung cấp giống chất lượng cao trực tiếp đến các cơ sỏ sản xuất giống trong tỉnh, tiếp nhận các công nghệ mới về giống thủy sản và cung cấp, giám sát chất lượng giống thủy sản trong tỉnh. 2.5. Đầu tư phát triển nguồn nhân lực. Muốn đầu tư phát triển nuôi trồng thủy sản có hiệu quả đòi hỏi phải có một nguồn nhân lực gồm các cán bộ khoa học có trình độ cao và đội ngũ kỹ thuật viên thực hành giỏi làm nòng cốt hướng dãn cách thức nuôi trồng thủy sản. Do đó trong những năm tới cần tăng cường đào tạo cán bộ trung học, đại học, sau đại học để bổ sung kịp thời sự thiếu hụt nguồn cán bộ kỹ thuật cảu các địa phương và bồi dưỡng kỹ thuật cho người dân nuôi trồng thủy sản. Theo dự kiến thì đến năm 2010, cần đào tạo 50 tiến sĩ, 200 thạc sĩ, 2000 kỹ sư, 6000 kỹ thuật viên trung cấp và đặc biệt cần đào tạo cấp tốc hàng ngàn công nhân kỹ thuật- những người trực tiếp nuôi trồng thủy sản cần chú ý đến các nội dung sau: Hệ thống đào tạo trong lĩnh vực nuôi trồng thủy sản cần phải theo quy hoạch mới tạo ra sự cân đối theo hướng tăng cường các trường đào tạo dưới đại học, mở rộng hệ thống các trường đào tạo ở các vùng trung du và miền núi và các vùng sản xuất tập trung, kết hợp đào tạo theo diện rộng và chuyên sâu. Tại cấp đào tạo sau đại học, có 4 cơ sở đào tạo thủy sản lớn là đại học Cần Thơ, đại học nông lâm TPHCM, đại học thủy sản Nha Trang, đại học nông nghiệp I cần có chương trình đào tạo tiến sĩ thường xuyên khoảng 2-4 người/ năm. Ngoài ra, ở cấp đào tạo này cần phải thực hiện bằng các kênh như: học bổng do chính phủ, các tổ chức tài trợ quốc tế… Đặc biệt, cần đào tạo đội ngũ trực tiếp lao động nuôi trồng thủy sản- công nhân kỹ thuật viên, cần phải được trang bị kỹ thuật thực hành cao. Bộ Thủy sản, bộ GD-ĐT và các tỉnh cần phối hợp để nâng cấp cơ sở hạ tầng phục vụ cho đào tạo, đặc biệt là nơi thực tập, nâng cao kỹ năng thực hành cho học viên( hệ thống trại thí nghiệm thực hành, phòng thí nghiệm, cơ sở sản xuất giống…) Ngoài ra, cần chú trọng nâng cao trình độ văn hóa cho ngư dân; thường xuyên tổ chức các lớp học ngắn ngày nhằm hướng dẫn cho ngư dân hiểu biết hơn về kỹ thuật nuôi trồng thủy sản và các biện pháp nhằm tăng năng suất nuôi. Tìm kiếm phương thức đào tạo thích hợp ở trong nước kết hợp với sự giúp đỡ của các nước, các tổ chức quốc tế để xây dựng nguồn nhân lực Một vấn đề nữa cần chú ý trong đầu tư đạo tạo nguồn nhân lực là: đào tạo nguồn nhân lực là vấn đề thiết yếu nhưng sử dụng đúng và sử dụng hợp lý nguồn nhân lực đã được đào tạo cũng không kém phân quan trọng. Vì vậy, Bộ thủy sản cần nghiên cứu đề ra những chính sách khuyến khích, động viên tối đa những người được đào tạo về làm việc ở những vùng sâu, vùng xa hoặc những nơi có nhu cầu về nguồn nhân lực nhưng không có điều kiện nhằm tạo ra sự cân đối về nguồn lực giữa các vùng. 2.6. Đầu tư cho công tác khuyến ngư. Công tác khuyến ngư được coi là chiếc cầu nối giữa tiến bộ kỹ thuật, chính sách, thị trường…với những người tham gia nuôi trồng thủy sản, là người tư vấn và là bạn đồng hành của cả triệu nông, ngư dân trên cả nước. Đẩy mạnh đầu tư cho công tác khuyến ngư được coi là một trong những giải pháp quan trọng trong đầu tư phát triển nuôi trồng thủy sản. Mục tiêu của công tác khuyến ngư đến năm 2010 là : trang bị cho 50% số người nuôi trồng thủy sản có kiến thứ c và tay nghề nuôi trồng thủy sản bền vững và sơ chế bảo quản sản phẩm sau thu hoạch.; đảm bảo truyền tải , trang bị kiến thức khoa học kỹ thuật, quản lý kinh tế và thị trường cho ngư dân, nông dân phát triển nhanh sản xuất mang lại hiệu quả kinh tế thiết thực cho ngư dân và góp phần thực hiện chiến lược của ngành. Để đạt được những mục tiêu đó và cũng là nhằm làm tăng tính hiệu quả trong đầu tư nuôi trồng thủy sản, chúng ta cần chú ý một số vấn đề sau: + Tăng cường tập huấn bồi dưỡng về công nghệ nuôi, giống và sử dụng thức ăn công nghiệp, bảo vệ môi trường phòng ngừa dịch bệnh dối với vùng nuôi thâm canh và vùng núi. + Xây dựng các điểm mô hình trình diễn trên cơ sở đó để mở rộng quy mô sản xuất như: nuôi tôm sú thâm canh, nuôi thủy sản lồng bè trên biển, nuôi tôm càng xanh, nuôi xen canh, luân canh cá ruộng và nuôi cá rô phi cao sản… + Tổ chức phổ biến và chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật, kinh nghiệm điển hình về sản xuất giỏi về ngư nghiệp. + Phối hợp với các cơ quan chức năng cung cấp thông tin, phổ biến kỹ thuật trên các phương tiện thông tin đại chúng. + Quan hệ, khuyến khích các tổ chức cá nhân trong nước và ngoài nước tham gia vào hoạt động khuyến ngư rộng khắp, thông tin nhanh, kịp thời những kiến thức khoa học kỹ năng sản xuất đến từng đơn vị sản xuất nuôi trồng thủy sản. 2.7. Đầu tư bảo vệ nguồn lợi thủy sản , bảo vệ môi trường và phòng trừ dịch bệnh. Đầu tư nuôi trồng thủy sản nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng thủy sản trong, ngoài nước, đem lại nguồn thu nhập cho người dân, tăng thu ngoại tệ cho đất nước, giải sức ép về nhu cầu công ăn, việc làm, góp phần phát triển nền kinh tế nước nhà. Tuy nhiên đầu tư phát triển nuôi trồng thủy sản đáp ứng những mục tiêu trên phải đảm bảo yêu cầu hết sức quan trọng là: bảo vệ nguồn lợi thủy sản, bảo vệ môi trường. Có như vậy nuôi trồng thủy sản mới thực sự phát triển hiệu quả và bền vững. Chính vì vậy mà trong công cuộc đầu tư phát triển nuôi trồng thủy sản cần chú ý đến một số biện pháp sau: Cần tuyên truyền , giáo dục pháp lệnh bảo vệ và phát triển nguồn lợi thủy sản đến mọi tổ chức, cá nhân công dân Việt Nam. Chúng ta cần kiên quyết xử lý những vi phạm, đặc biệt là những hành vi dùng chất nổ, dùng điện chất độc để đánh bắt thủy sản. Nhà nước cần đầu tư hơn nữa về cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ cho các hoạt động bảo vệ môi trường và phát triển nguồn lợi thủy sản Tổ chức sắp xếp hệ thống bảo vệ quản lý nguồn lợi thủy sản và môi trường môi sinh của thủy sản theo hướng thống nhất vùng biển và nội đồng. Chủ động phòng bệnh cho tất cả các đối tượng thủy sản nuôi trồng. Nhà nước cần đầu tư xây dựng các trạm quan trắc cảnh báo về môi trường và dịch bệnh ở cả ba vùng. Quan trạm này có nhiệm vụ quan trắc môi trường thu nhấp dữ liệu phục vụ dự báo và phòng trừ dịch bệnh từ đó giúp cho người nuôi biết và kịp thời tránh các hiệu quả đáng tiếc xẩy ra. Cùng với việc phòng bệnh cần phải có những biện pháp chữa bệnh. 3 cơ sở sản xuất chất diệt tạp và phòng trị bệnh ở 3 miền; 3 trung tâm kiểm dịch phát hiện bệnh tôm cá, 3 xí nghiệp sản xuất thuốc phòng bệnh cho thủy sản đang và sẽ đi vào hoàn thành, xây dựng. Chúng ta cần đẩy mạnh tiến độ đầu tư và giám sát chặt chẽ các công trình. Tranh thủ sự hợp tác quốc tế trong các dự án bảo vệ môi trường và phát triển nguồn lợi thủy sản, đẩy mạnh hợp tác nghiên cứu phục vụ bảo vệ nguồn lợi thủy sản và môi trường, môi sinh trong vùng biển có chung biên giới với các nước trong khu vực. Mục tiêu đầu tư cho công tác bảo vệ nguồn lợi thủy sản, bảo vệ môi trường và phòng trừ dịch bệnh là: Chủ động trong phòng bệnh cho các đối tượng nuôi; tăng cường bảo vệ các vùng bãi đẻ, bãi giống của cá, tôm hùm, nghêu, sò, điệp…Đồng thời có kế hoạch hàng năm thả tôm giống, cá giống ra biển, hồ để tái tạo nguồn lợi. 2.8. Đầu tư mở rộng và phát triển thị trường. Nuôi trồng thủy sản là một ngành sản xuất mà thị trường đầu vào và thị trường đầu ra là những yếu tố quan trọng trong quá trình phát triển. Thị trường đầu vào bao gồm các nhân tố: giống, thức ăn, công nghệ, kĩ thuật nuôi…Thị trường đầu ra là các nhà máy chế biến, và các chợ tiêu thụ sản phẩm nuôi trồng thủy sản tươi sống trong và ngoài nước. Muốn phát triển nghề nuôi trồng thủy sản không những chỉ quan tâm đầu tư cho quá trình nuôi thủy sản mà cần phải có chiến lược và hướng đầu tư đúng đắn để mở rộng và phát triển các thị trường đầu vào và thị trường đầu ra này. Đó là việc đầu tư vào các trại sản xuất giống có công nghệ sinh sản giống nhân tạo hiện đại, sạch bệnh, quá trình sinh trưởng và phát triển nhanh nhằm tăng năng suất, sản lượng nuôi trồng thủy sản; các trại, nhà máy chế biến thức ăn công nghiệp cho nuôi trồng thủy sản cũng cần được quan tâm chú ý đầu tư để đảm bảo nhu cầu về số lượng và chất lượng thức ăn sản xuất ra, giá thành hợp lí. 3Sản phẩm của nuôi trồng thủy sản cần được quảng cáo, tiếp thị rộng rãi về chất lượng và chủng loại để nâng cao sức tiêu thụ, đẩy nhanh chu kì sản xuất, đạt hiệu quả cao. Tích cực mở rộng và phát triển thị trường tiêu thụ trong sản phẩm nuôi trồng thủy sản trong và ngoài nước, tận dụng tối đa vị trí của vùng ven biển, thế mạnh của sản phẩm thủy sản để giao lưu kinh tế, ổn định thị trường, thúc đẩy mở rộng thị trường truyền thống như EU, Bắc Mĩ, Trung Quốc,…tìm cách xâm nhập các thị trường mới như Trung và Nam Mĩ, các nước ả Rập và kể cả thị trường cá nổi nhỏ, giá trị thấp ở châu Phi. 3Tăng cường công tác thông tin về thị trường thế giới và các cơ chế chính sách thương mại của các nước. Ngành nên phát huy hơn nữa vai trò của các hiệp hội, các câu lạc bộ, nhóm sản phẩm nhằm cung cấp thông tin trên thị trường, nghiên cứu thị trường xuất khẩu truyền thống , thị trường nội địa, chú trọng vào những thị trường có sức mua, tìm kiếm thị trường mới, phân tích xử lý, dự báo tình hình thị trường, thông tin về pháp luật của các nước nhập khẩu có liên quan cho nhà Doanh Nghiệp và người sản xuất, việc phát triển công tác thị trường cần phải được thực hiện ở cả tầm vĩ mô và vi mô có sự hợp tác chặt chẽ giữa Nhà nước và Doanh nghiệp. Bên cạnh đó cần phải khuyến khích các hình thức hợp tác, liến kết giữa các thành phần kinh tế, các loại hình kinh doanh nhằm giảm canh tranh không lành mạnh trên thị trường trong nước và tạo ra sức mạnh trên thị trường khu vực và quốc tế. - Để mở rộng và phát triển thị trường tốt, việc cần thiết là tìm kiếm lợi thế cạnh tranh trên từng thị trường cho từng chủng loại mặt hàng, lợi dụng đồng bộ các yếu tố địa lí, thương mại, ngoại giao, truyền thống… Đối với mặt hành tươi sống, để tiêu thụ nhanh với chất lượng và giá trị dinh dưỡng không bị thất thoát, cần có hướng đầu tư chủ yếu vào các nhà hàng thủy đặc sản nhằm giới thiệu các đặc sản của mỗi vùng tại chỗ, đặc biệt là phát triển các nhà hàng thủy đặc sản ở các khu du lịch, nghỉ mát ven biển - nơi có nhiều khách tham quan, du lịch trong và ngoài nước - vì thế mà sức mua cao hơn ở những nơi khác. - Nhà nước cần đầu tư, nâng cấp và tập trung xây dựng mới, mở rộng các doanh nghiệp công nghiệp chế biến ở những vùng chuyên canh lớn. Ngoài ra Nhà nước phải là người trợ giúp cho các doanh nghiệp trong việc đổi mới công nghệ , tạo ra sản phẩm mới có hàm lượng công nghệ cao hơn, đặc biệt có thể trợ giá hoặc miễn thuế trong một số năm đầu cho các sản phẩm xuất khẩu vào thị trường mới. Tuy nhiên, vấn đề cốt yếu là đầu tư tập trung lớn vào các nhà máy chế biến có đủ tiêu chuẩn sản xuất các mặt hàng xuất khẩu; nên có sự sắp xếp lại để phân lập các doanh nghiệp có đủ khả năng tham gia vào các thị trường thủy sản. Kiên quyết dẹp bỏ những xí nghiệp làm ăn thua lỗ triền miên khó có khả năng khôi phục để tạo ra điều kiện cho sự phát triển và cạnh tranh lành mạnh. - Việc tạo dựng và mở rộng, phát triển thị trường phải có lợi cho Ngành Thủy sản, bảo đảm tính hiệu suất của việc phân phối vốn, đất đai, ví dụ chính sách sử dụng đất đai lâu dài, chính sách hình thành trang trại lớn chấp nhận hình thành chủ trang trại và công nhân làm thuê trong nông thôn ven biển. Trong nuôi trồng thủy sản, không nên ưu tiên phát triển manh mún mà phát triển các doanh nghiệp có trọng điểm nhằm không những phát triển bền vững mà còn đảm bảo cho sự phát triển có hiệu quả cao của doanh nghiệp. 2.9. Tiếp tục hoàn thiên hệ thống quản lý Nhà nước ngành nuôi và đầu tư phát triển nuôi trồng thủy sản. ở cấp Trung ương: Nên thành lập Cục nuôi trồng thủy sản để giúp Bộ trong việc cụ thể hóa chủ trương, chính sách của Nhà nước đối với nuôi trồng thủy sản. Từ đó hướng dẫn, kiểm tra, giám sát các thành phần kinh tế tham gia vào hoạt động nuôi trồng thủy sản. Trong công tác chỉ đạo thực hiện chương trình đầu tư phát triển nuôi trồng thủy sản cần chú ý đáp ứng yêu cầu nuôi có hiệu quả bền vững. Việc hướng dẫn, cụ thể hóa các Quyết định của Chính Phủ cần nhanh chóng và rộng khắp hơn nữa. Cấp tỉnh: ở các tỉnh có biển phải thành lập phòng kỹ thuật thủy sản thuộc Sở Thủy sản theo dõi và tham mưu cho Sở về phát triển nuôi trồng thủy sản ở các tỉnh. Đối với các tỉnh không có biển nhưng có tiềm năng phát triển nuôi trồng thủy sản nên thành lập phòng ban Thủy sản thuộc Sở Nông nghiệp và phát triển nông thôn. ở các huyện cần phải có ban thủy sản huyện hoặc bộ phận cán bộ theo dõi và tham mưu phát triển nuôi trồng thủy sản địa bàn huyện. 2.10. Cần tiếp tục tăng cường và hoàn thiện các chính sách khuyến khích đầu tư phát triển nuôi trồng thủy sản. Các chính sách khuyên khích phát triển nuôi trồng thủy sản có vai trò như một đòn bẩy trong việc thúc đẩy các thành phần kinh tế trong, ngoài nước bỏ vốn vào đầu tư phát triển nuôi trồng thủy sản cũng như góp phần làm tăng tính hiệu quả của các đồng vốn này. Các chính sách càng rõ ràng, đồng bộ , hoàn thiện và tạo nhiều thuận lợi cho nhũng đối tượng tham gia vào nuôi trồng thủy sản thi vốn thu hút được càng nhiều và càng được sử dụng hiệu quả. Vì vậy mà trong thời gian tới, chúng ta cần có một số giải pháp cho các chính sách sau: * Chính sách về sử dụng đất, mặt nước nuôi trồng thủy sản Tiếp tục làm rõ đất, nước nuôi trồng thủy sản trong luật đất, mặt nước nuôi trồng thủy sản trong luật đất đai để có điều kiện cụ thể hóa, hướng dẫn thực hiện có hiệu quả hơn. Thực hiện việc giao đất, mặt nước, eo, vịnh, đầm phá , hồ chứa mặt nước lớn đã có quy hoạch cho các thành phần kinh tế sử dụng vào nuôi trồng thủy sản ổn định lâu dài 20 năm. Khi hết thời hạn, nếu có nhu cầu tiếp tục sử dụng và trong quá trình đã sử dụng có hiệu quả, không vi phạm pháp luật về đất đai thì được giao đất đó để tiếp tục sử dụng. Được chuyển đổi đất nhiễm mặn, đất trũng, ngập úng cấp lúa bấp bênh, đất làm muối kém hiệu quả sang nuôi trồng thủy sản. * Chính sách về thuế Thực hiện thuế nông nghiệp hiện hành cho nuôi trồng thủy sản trên đất, mặt nước thuộc đất nông nghiệp. Thực hiện thuế theo chính sách khai hoang phục vụ hóa cho nuôi trồng thủy sản ở mặt nước eo vịnh, đầm phá, hồ chứa nước, sông, đất bãi bồi ven biển . * Chính sách vốn Nhà nước tiếp tục dành vốn trung, dài hạn cho nông, ngư dân vay với lãi suất thích hợp để đầu tư phát triển nuôi trồng thủy sản. Cho các nông dân nghèo có lao động nuôi trồng thủy sản được vay vốn.( Được chính quyền địa phương xác nhận, được hội nghề nghiệp hoặc đoàn thể xã, phường tín chấp, không phải thế chấp tài sản) * Chính sách về trợ giá một số giống nuôi thủy sản để khuyến khích phát triển sản xuất Trợ giá cho cơ quan, cá nhân thuần hóa giống nhập nội có lợi cho phát triển sản xuất. Trợ giá một số giống cho người nuôi thủy sản ở các vùng sâu, vùng xa phát triển nuôi trồng thủy sản nhằm đáp ứng nhu cầu an ninh thực phẩm Cấp bù kinh phí để duy trì nâng cao chất lượng đàn giống gốc thủy sản. Trợ giá mua sản phẩm thủy sản ở những vùng nuôi xuất khẩu, vùng nuôi hàng hóa khi giá thị trường giảm sút. * Chính sách về hỗ trợ cho nuôi trồng thủy sản gặp rủi ro Nhà nước cần xét hỗ trợ cho những loại nuôi trồng thủy sản gặp rủi ro sau: Dịch bệnh làm tôm, cá và các thủy sản chết hàng loạt Đột biến môi trường nuôi gây tôm, cá, thủy sản chết hàng loạt( đột biến môi trường do thiên gây ra như nắng hạn kéo dài, không kể đến sự đột biến do người gây ra như ảnh hưởng thuốc trừ sau; chất thải công nghiệp, thực vật, phá hoại môi trường …). Mưa lũ, bão phá huỷ đê, cống, dâng làm tràn ngập, thất thoát sản lượng nuôi hoặc làm chềm, trôi, làm vỡ lồng bè nuôi thủy sản. Kết luận Qua những số liệu và phân tích ở trên, chúng ta đã có được một cái nhìn khái quát về thực trạng đầu tư phát triển thủy sản nói chung và nuôi trồng thủy sản nói riêng. Với tiềm năng về nguồn lợi thủy sản cũng như vị trí địa lý thuận lợi và sự quan tâm của Đảng, Nhà nước đã tạo ra thế mạnh riêng cho nuôi trồng thủy sản Việt Nam. Tuy nhiên, cơ sở hạ tầng, hệ thống pháp lý, khoa học công nghệ… còn là điểm yếu chưa được khắc phục một cách triệt để . Xu thế hội nhập nền kinh tế thế giới đã và đang tạo ra nhiều cơ hội cũng như không ít những thách thức cho phát triển nuôi trồng thủy sản Việt Nam. Trong hoàn cảnh đó, Việt Nam chúng ta đã không ngừng đổi mới và tìm tòi hướng đi đúng đắn cho đầu tư phát triển nuôi trồng thuỷ sản nhằm tận dụng tiềm năng sẵn có, phát huy lợi thế so sánh để nuôi trồng thủy sản thực sự trở thành nguồn nguyên liệu chính cho chế biến xuất khẩu, duy trì sự phát triển hiệu quả bền vững và góp phần tăng trưởng kinh tế ngành cũng như toàn nền kinh tế. Trong tương lai, tiềm năng và cơ hội cho nuôi trồng thủy sản còn rất lớn. Vì vậy, đầu tư phát triển nuôi trồng thủy sản có hiệu quả vừa là mục tiêu vừa là định hướng phát triển trong tương lai. Sau thời gian thực tập, tìm hiểu vê đầu tư phát triển nuôi trồng thủy sản , tôi đã hoàn thành đề tài: “ Đầu tư phát triển nuôi trồng thủy sản Việt Nam – Thực trạng và giải pháp”. Đề tài đã đưa ra được khái niệm, nội dung và sự cần thiết của đầu tư phát triển thủy sản nói chung và đầu tư nuôi trồng thủy sản nói riêng. Đề tài cũng đã phân tích , đánh giá tổng quát thực trạng đầu tư phát triển nuôi trồng thủy sản Việt Nam giai đoạn 2000 – 2004, trong đó có đánh giá về những thành tựu và tồn tại yếu kém cần khắc phục. Trên cơ sở đó, tôi đã đưa ra một số giải pháp nhằm tăng cường huy động vốn và sử dung, quản lý vốn có hiệu quả hơn trong đầu tư phát triển nuôi trồng thủy sản. Do hạn chế về trình độ và khả năng tiếp cận thực tiễn nên đề tài còn nhiều thiếu sót. Kính mong nhận được sự góp ý và bổ sung! Một lần nữa tôi xin chân thành cảm ơn cô giáo Nguyễn thị ái Liên cùng các cô chú trong vụ Tổng hợp KTQD – Bộ KH&ĐT đã nhiệt tình giúp đỡ tôi hoàn thành đề tài này! Tài liệu tham khảo Giáo trình Kinh tế Đầu tư GS-TS. Nguyễn Bạch Nguyệt – TS. Từ Quang Phương Niên giám thống kê năm 2000, 2001, 2002, 2003 Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế – xã hội Ngành Thủy sản thời kỳ 2000 – 2010 Chương trình phát triển nuôi trồng thủy sản thời kỳ 1999 – 2010 – Bộ Thủy Sản Báo cáo tình hình kế hoạch nhiệm vụ năm 2000, 2001, 2002, 2003, 2004 Những điều cần biết về luật khuyến khích đầu tư trong nước – NXB Tài Chính, Hà Nội 01/ 2000 Tạp Chí Thủy Sản số 6/2000; 4/2001; số 6,7,8/2003; 1,2,3/2004 Tạp chí Kinh tế phát triển số 8/2001; số 11/2003 Tạp chí thị trường Tài chính 19/2000; số 3/2004 Thời báo Kinh Tế Việt Nam số 7,11/2002; số 12/ 2003; số 3/ 2004 Mục lục Trang ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc36223.doc
Tài liệu liên quan