Đầu tư phát triển nông nghiệp tỉnh Hải Dương. Thực trạng và giải pháp

LỜI MỞ ĐẦU Nông nghiệp có vai trò quan trọng đối với nền kinh tế quốc dân, trước hết là nông nghiệp sản xuất và cung cấp các yếu tố tối cần thiết cho xã hội loài người tồn tại và phát triển, cung cấp ngoại tệ thông qua xuất khẩu, là thị trường tiêu thụ tư liệu sản xuất và tiêu dùng, là một nguồn thu ngoại tệ thông qua xuất khẩu. Nông nghiệp còn có vai trò to lớn và là cơ sở trong sự phát triển bền vững của môi trường. Những sản phẩm của ngành nông nghiệp dù cho trình độ khoa học - công nghệ phá

doc80 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2210 | Lượt tải: 5download
Tóm tắt tài liệu Đầu tư phát triển nông nghiệp tỉnh Hải Dương. Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
t triển như hiện nay cũng không thể có ngành nào thay thế được. Các sản phẩm của nông nghiệp như lương thực, thực phẩm là yếu tố đầu tiên có tính chất quyết định tới sự tồn tại và phát triển của con người và sự phát triển kinh tế xã hội cũng như các vấn đề về an ninh lương thực và ổn định chính trị của mỗi quốc gia. Kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế đã và đang đặt ra yêu cầu là phải đầu tư cho sản xuất nông nghiệp một cách tương xứng với tiềm năng và vai trò của nó nhằm đáp ứng trước hết cho tự bản thân sự phát triển của ngành kinh tế nông nghiệp, cho sự phát triển của các ngành khác và cho toàn bộ nền kinh tế. Hải Dương là tỉnh có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế nông nghiệp và phần đông cư dân sống dựa vào sản xuất nông nghiệp. Cùng với sự phát triển kinh tế xã hội mạnh mẽ của tỉnh trong thời gian qua, đầu tư nông nghiệp Hải Dương cũng có nhiều chuyển biến tích cực và cũng đạt được những thành tựu đáng kể. Tuy nhiên cũng gặp không ít khó khăn, thách thức trong công cuộc hội nhập và chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Nông nghiệp Hải Dương cần phải được quan tâm đầu tư một cách đúng mức để khai thác được tiềm năng và cơ hội và vượt qua những thách thức để đóng góp vào sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh nói riêng và cả nước nói chung. Chính vì vậy, tôi đã chọn và viết đề tài: “Đầu tư phát triển nông nghiệp tỉnh Hải Dương. Thực trạng và giải pháp.” Đề tài của tôi gồm 2 chương: Chương 1: Thực trạng đầu tư phát triển nông nghiệp trên địa bàn tỉnh Hải Dương Chương 2: Giải pháp tăng cường hiệu quả đầu tư nông nghiệp trên địa bàn tỉnh Hải Dương Do còn hạn chế về kiến thức nên bài viết của tôi không tránh khỏi những thiếu sót. Tôi rất mong sự đóng góp ý kiến của thầy cô và các bạn để chuyên đề tốt nghiệp của tôi được hoàn thiện hơn. Tôi xin chân thành cảm ơn các cô, chú và anh chị tại sở Kế hoạch & Đầu tư tỉnh Hải Dương đã tạo điều kiện cho tôi thu thập số liệu. Đồng thời tôi cũng xin cảm ơn sự hướng dẫn tận tình của Th.s. Phan Thị Thu Hiền để tôi hoàn thành chuyên đề thực tập này. CHƯƠNG 1 THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH HẢI DƯƠNG 1.1. Khái quát vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội tỉnh Hải Dương 1.1.1. Vị trí địa lý Hải Dương là tỉnh nằm ở trung tâm đồng bằng Bắc bộ, thuộc vùng trọng điểm kinh tế phía Bắc ( Hà Nội - Quảng Ninh). Phía bắc và đông bắc giáp với các tỉnh Bắc Ninh, Ninh Giang và Quảng Ninh, phía Tây giáp với tỉnh Hưng Yên, phía nam giáp tỉnh Thái Bình, phía đông giáp với thành phố Hải Phòng. Trên địa bàn tỉnh có các trục giao thông quốc gia chạy qua như đường 5 nối Hà Nội với Hải Phòng, quốc lộ 18 nối thủ đô Hà Nội với tỉnh Quảng Nam, cảng Cái Lân, vịnh Hạ Long, tuyến đường sắt Hà Nội - Hải Phòng qua Hải Dương là cầu nối giữa thủ đô và các tỉnh phía bắc ra cảng biển. Với vị trí địa lý thuận lợi như vậy Hải Dương có nhiều cơ hội giao lưu, phát triển kinh tế đặc biệt là trong phát triển nông nghiệp. 1.1.2.Điều kiện tự nhiên 1.1.2.1. Đặc điểm địa hình Hải Dương có diện tích tự nhiên là 1.653 km2. Trong đó có tới 89% là đồng bằng với sự bồi đắp phù sa màu mỡ của hệ thống sông Thái Bình và sông Hồng và 11% là vùng đồi núi, thuộc phần đông Triều. Vùng đồng bằng có độ cao trung bình từ 3m - 4m, thấp dần từ tây bắc xuống đông năm. Vùng này đất đai màu mỡ thích hợp trồng cây lương thực, cây ăn quả, cây công nghiệp ngắn ngày... Vùng đồi núi chủ yếu thuộc hai huyện Chí Linh và Kinh Môn. Vùng này có nhiều núi đá vôi thích hợp với những cơ sở công nghiệp khai thác đá. Ngoài ra còn có thể trồng một số loại cây khai thác gỗ. 1.1.2.2. Đặc điểm khí hậu Hải Dương nằm trong vùng khí hậu mang tính chất nhiệt đới gió mùa, chịu ảnh hưởng mạnh của gió mùa đông bắc và chia làm 4 mùa rõ rệt (xuân, hạ, thu, đông). Lượng mưa trung bình hàng năm 1.300 - 1.700 mm. Đây là vùng có độ ẩm khá cao khoảng 80-89%. Nhiệt độ bình quân là 23,30C; số giờ nắng trung bình 1600 - 1700 giờ/ năm. Khí hậu thời tiết thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp: có thể gieo trồng 3 - 4/năm, vụ đông có thể trồng các loại cây rau nhiệt đới và ôn đới: bắp cải, khoai tây… 1.1.2.3.Sông ngòi Hải Dương có 4 con sông lớn chảy qua, tổng chiều dài 500 km và trên 2000 km sông ngòi nhỏ. Hệ thống sông chảy qua tỉnh hàng năm có lưu lượng trên 1 tỷ m3. Mạng lưới sông chính: bao gồm sông Luộc, sông Thái Bình đều chảy theo hướng Tây Bắc - Đông Nam, quanh co uốn lượn và phân nhánh thành hệ thống dày đặc. Các sông này đều có đặc điểm lòng rộng, bồi nhiều phù sa màu mỡ. Các sông nội đồng đều chảy theo hướng nghiêng của địa hình, là trục chính của hệ thống cấp thoát nước các công trình thủy lợi phục vụ tưới tiêu đồng ruộng. 1.1.2.4. Tài nguyên Rừng Diện tích đất lâm nghiệp của tỉnh có 11935,75 ha gồm Chí Linh 10.296 ha, Kinh Môn 973, 84 ha. Diện tích rừng sản xuất, chủ yếu trồng cây ăn quả 3313,24 ha gồm Chí Linh 2973,52 ha, Kinh Môn 339,72 ha. Trong số rừng trên, rừng tự nhiên được tu bổ chăm sóc và bảo vệ chiếm 19,7% diện tích, còn lại là rừng trồng. Tài nguyên rừng của Hải Dương có ý nghĩa quan trọng đặc biệt về cảnh quan du lịch và cân bằng môi trường sinh thái. Đất Đất đai Hải Dương gồm 2 nhóm chính: Nhóm đất đồng bằng: Do hai hệ thống sông Hồng và sông Thái Bình tạo nên, cùng là đất phù sa nhưng tính chất và đặc điểm khác nhau. Đất phù sa sông Hồng thường có màu nâu tươi, kết cấu tơi xốp, thành phần cơ giới nhẹ đến trung bình, đất trung tính, ít chua, địa hình nghiêng dần từ phía sông vào nội đồng. Đất phù sa sông Thái Bình đa số có màu nâu nhạt hoặc hơi xám. Thành phần cơ giới thường từ trung bình đến thịt nặng, địa hình lồi lõm, phức tạp, có hướng nghiêng dần về phía hạ lưu. Đất loại này thường chua, nghèo lân và kali. Nhóm đất đồi núi: diện tích 18320 ha, bao gồm đất phù sa xen kẽ vùng đồi núi diện tích 322 ha, đất lúa vùng đồi núi, diện tích 4369 ha, đất feralit màu nâu vàng, phát triển trên sa thạch, cuội kết và dăm kết diện tích 4210 ha, đất feralit trên núi diện tích 4860 ha. Nguồn nước Nguồn nước ở Hải Dương có trữ lượng rất lớn cả nguồn nước mặt và nguồn nước ngầm. Hải Dương có 4 sông lớn chảy qua với chiều dài 500 km và 2000 km sông ngòi nội đồng, tổng lượng dòng chảy qua tỉnh hàng năm trên 1 tỷ m3 nước. Tuy nhiên, nước phân bố không đều. Lượng dòng chảy về mùa hạ lớn chịu tác động của lũ thượng nguồn, nước có nhiều phù sa, dâng nhanh, phải đầu tư nhiều cho các công trình đê điều, kè cống để tránh lụt lội, vỡ đê. Hiện nay chất lượng nguồn nước mặt đang có biểu hiện nhiễm bẩn. Do nước thải của các khu công nghiệp Việt Trì, khu công nghiệp Thái Nguyên, khu công nghiệp Sài Đồng, Phố Nối - Hưng Yên thải ra các dòng sông chảy qua tỉnh. Sự ô nhiễm này ít nhiều ảnh hưởng tưới việc trồng trọt, chăn nuôi thủy sản trên địa bàn. Nguồn nước ngầm ở Hải Dương khá dồi dào. Lượng nước ngầm tại các giếng khoan có thể khai thác từ 30 - 40 m3 / ngày đêm. Tuy nhiên nguồn nước này có nhiều sắt, tạo váng kết tủa vàng phải qua xử lý mới dùng được. 1.1.3.Tình hình phát triển kinh tế xã hội tỉnh Hải Dương trong những năm gần đây 1.1.3.1. Cơ sở hạ tầng Hệ thống giao thông: Hệ thống giao thông trên địa bàn khá hoàn chỉnh bao gồm đường sắt, đường thuỷ, đường bộ thuận tiện cho việc đi lại, giao lưu kinh tế với các vùng. Về đường bộ có các tuyến quốc lộ 5A, 183, 18 chạy qua, dự án đường ô tô cao tốc Hà Nội - Hải Phòng địa qua địa phận tỉnh Hải Dương (nằm ở phía Nam, song song với đường 5) đang được khởi công xây dựng. Đường cao tốc mới 18 A mới từ sân bay quốc tế Nội Bài, Hà Nội đi Quảng Ninh qua địa bàn huyện Chí Linh cũng đang được quy hoạch xây dựng. Hệ thống đường giao thông trong các huyện, thành phố cũng thường xuyên được nâng cấp cải tạo đảm bảo cho việc đi lại được thuận tiện. Hải Dương có tuyến đường sắt Hà Nội - Hải Phòng chạy qua với 7 ga dừng tại tỉnh giúp vận chuyển hàng hóa, hành khách từ tỉnh đi các vùng lân cận. Đường thuỷ: có 400 km đường sông cho tàu, thuyền 500 tấn qua lại thuận tiện. Cảng Cống Câu với công suất 300.000 tấn /năm cùng hệ thống bến bãi đáp ứng về vận tải hàng hoá bằng đường thuỷ một cách dễ dàng. Sân bay quốc tế khu vực phía Bắc dự kiến đặt tại huyện Thanh Miên, tỉnh Hải Dương với năng lực vận chuyển 30 triệu lượt khách / năm cũng đang đang được các cơ quan chức năng nghiên cứu, báo cáo cấp có thẩm quyền xem xét, quyết định chủ trương đầu tư. Hệ thống điện Hiện nay mạng lưới điện đã đến 100% số xã và tất cả các thôn xóm, xã vùng sâu, vùng xa, 99% số hộ có điện sinh hoạt. Điện phục vụ sản xuất và sinh hoạt được phục vụ 24/24 giờ và không ngừng tăng. Phụ tải công nghiệp chiếm tỷ lệ cao trong cơ cấu tiêu thụ điện đáp ứng nhu cầu sử dụng điện của các khu công nghiệp. Hệ thống chiếu sáng thị trấn, thị tứ, thành phố đang được cải thiện tạo điều kiện thuận lợi cho việc sinh hoạt, đi lại đảm bảo an ninh trật tự bảo đảm mỹ quan đô thị. Nhà máy nhiệt điện Phả Lại với công suất 1040 Mw có hệ thống lưới điện khá hoàn chỉnh, đảm bảo cung cấp điện an toàn và chất lượng ổn định đóng góp nguồn điện năng đáng kể vào lưới điện quốc gia. Trên địa bàn tỉnh có 5 trạm biến áp 110/35 kV tổng dung lượng 197 MVA và 11 trạm 35/10 kV, các trạm phân bố đều trên địa bàn tỉnh. Lưới điện 110, 35 kV đảm bảo tiêu chuẩn kỹ thuật, phục vụ tốt nhu cầu điện cho sản xuất và sinh hoạt. Hệ thống cấp thoát nước Các khu đô thị, khu công nghiệp đã có đủ nước sạch cho sản xuất và sinh hoạt. Hệ thống cấp thoát nước thường xuyên được quan tâm đầu tư, nâng cấp để vẫn đảm bảo phát triển công nghiệp bền vững và bảo vệ môi trường. Bên cạnh đó hàng loạt các công trình cấp nước tập trung phục vụ nhu cầu nước sinh hoạt ở quy mô xã, thôn được triển khai thực hiện. Thực hiện đề án nước sạch và vệ sinh môi trường , toàn tỉnh có 80% số dân nông thôn được sử dụng nước sinh hoạt gợp vệ sinh. Tuy nhiên vấn đề cấp thoát nước và vệ sinh môi trường nông thôn, đô thị hiện nay còn nhiều bất cập do sự phát triển thiếu đồng bộ giữa sản xuất và xử lý môi trường. Cơ sở y tế Cơ sở vật chất kỹ thuật ngành y tế từ tỉnh xuống các huyện, xã được củng cố, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu phòng bệnh chữa bệnh cho nhân dân. Đồng thời sẵn sàng cung cấp tốt các dịch vụ về y tế cho lực lượng lao động đang ngày càng tăng trong lĩnh vực sản xuất công nghiệp. Bên cạnh đó tỉnh cũng đã thực hiện tốt các chương trình quốc gia về tiêm chủng mở rộng, phòng chống suy dinh dưỡng ở trẻ em, phòng chống bệnh xã hội. Cơ sở giáo dục Hoàn thành giáo dục tiểu học, phổ cập giáo dục trung học cơ sở. Cơ sở, vật chất trường lớp được đầu tư xây dựng mới, cải tạo nâng cấp, trang thiết bị dạy học được tăng cường bổ sung phục vụ nhu cầu học tập của con em trên địa bàn. Quy mô và chất lượng giáo viên mầm non ngày càng tốt hơn. Giáo dục phổ thông tiếp tục phát triển cả quy mô, chất lượng. Chất lượng đội ngũ giáo viên được nâng lên. Tỷ lệ giáo viên đạt chuẩn quốc gia tăng rõ rệt. Trang thiết bị, đồ dùng dạy học được tăng cường. Công tác đầu tư cơ sở vật chất - kỹ thuật cho các trường học được coi trọng. Toàn tỉnh có trên 80% số phòng học được kiên cố hóa. Tuy nhiên chất lượng giáo dục toàn diện còn ở trình độ chưa cao. Đào tạo nguồn nhân lực nhất là đào tạo nghề còn hạn chế về chất lượng, quy mô, ngành nghề, chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển. 1.1.3.2.Tình hình thu ngân sách nhà nước Cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội của toàn tình, tình hình thu ngân sách nhà nước trên địa bàn tỉnh trong những năm gần đây đã được cải thiện đáng kể và có sự gia tăng rõ rệt. Kết quản được thể hiện qua bảng sau: Bảng 1.1: Thu ngân sách nhà nước trên địa bàn tỉnh Hải Dương giai đoạn (2004 -2008) STT Chỉ tiêu Đv 2004 2005 2006 2007 2008 1 Thu NSNN trên địa bàn tỷ đ 2243,5 2823,7 2819,1 3741,8 4048,6 2 Tốc độ tăng liên hoàn % - 25,86 -0,2 32,73 8,12 3 Tốc độ tăng định gốc % - 25,86 25,65 66,78 96,33 Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Hải Dương Nhìn chung trong giai đoạn 5 năm 2004 – 2005, thu ngân sách của tỉnh Hải Dương khá cao: năm sau đều cao hoặc xấp xỉ bằng năm trước, đặc biệt là trong 2 năm gần đây năm 2007, 2008 thu ngân sách tăng nhanh chóng: thu ngân sách năm 2008 tăng gần gấp đôi so với năm 2004, năm 2007 gấp 1,67 lần so với năm 2004. Có được kết quả này là do trong những năm gần đây Hải Dương đã có nhiều chính sách đầu tư phát triển phù hợp, kinh tế địa phương phát triển đem lại nguồn thu lớn cho ngân sách nhà nước. Các khoản thu ngân sách đều tăng qua các năm, chủ yếu là các khoản thu từ doanh nghiệp, do trong những năm gần đây các doanh nghiệp ở Hải Dương được thành lập nhiều và làm ăn có hiệu quả 1.2. Tình hình đầu tư phát triển trên địa bàn Hải Dương giai đoạn (2004 – 2008) 1.2.1. Vốn đầu tư phát triển tỉnh Hải Dương giai đoạn (2004 – 2008) Với vị trí địa lý kinh tế thuận lợi là nằm trong khu vực kinh tế trọng điểm phía Bắc (Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh), tỉnh Hải Dương có rất nhiều tiềm năng và lợi thế thu hút các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Trong giai đoạn (2004 -2008) tỉnh Hải Dương đã có nhiều chính sách để phát huy lợi thế đó và thu hút và đầu tư có hiệu quả mọi nguồn vốn cho phát triển kinh tế xã hội. Bằng những cơ chế, chính sách ưu đãi khuyến khích đầu tư hợp lý, Hải Dương đã đạt được những thành tích rất đáng khích lệ trong việc thu hút các nguồn vốn đầu tư đã góp phần quan trọng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế .GDP của tỉnh đạt tốc độ tăng bình quân 10,5%/năm, vượt cao hơn bình quân chung của cả nước. Những năm gần đây, Hải Dương là một trong những địa phương dẫn đầu trong việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Trong giai đoạn (2004 – 2008) Hải Dương đã đạt được bước đột phá lớn trong việc thu hút vốn đầu tư phát triển. Kết quả cụ thể được thể hiện qua bảng sau: Bảng 1.2: Vốn đầu tư phát triển tỉnh Hải Dương giai đoạn (2004 – 2008) STT Chỉ tiêu Đv 2004 2005 2006 2007 2008 1 Tổng VĐT phát triển toàn xã hội tỷ đ 5525 6251 8397 10146 14675 2 Tốc độ tăng liên hoàn % - 13,14 34,33 20,83 44,64 3 Tốc độ tăng định gốc % - 13,14 51,98 83,64 265,61 Nguồn: Phòng quy hoạch tổng hợp - Sở kế hoạch & đầu tư tỉnh Hải Dương Qua bảng trên ta thấy quy mô nguồn vốn đầu tư phát triển trên địa bàn tỉnh có sự gia tăng nhanh và ổn định qua các năm. Tốc độ tăng của vốn đầu tư phát triển trung bình là 28,24%. Năm 2008 quy mô vốn tăng gấp xấp xỉ 2,65 lần năm 2007. Đạt được kết quả trên là nhờ vào những chính sách và các biện pháp đồng bộ để thu hút mọi nguồn lực trong và ngoài xã hội. Tỉnh rất chú trọng vào việc nâng cấp, cải tạo cơ sở hạ tầng tập trung vào lĩnh vực giao thông, thông tin bưu điện, phát triển nguồn và lưới điện, phát triến mạng lưới thuỷ lợi, kênh mương, cấp thoát nước phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn, bảo vệ môi trường sinh thái. Bên cạnh đó cũng đẩy mạnh thực hiện cải cách thủ tục hành chính nhu thực hiện cải cách thủ tục hành chính theo cơ chế 'một cửa, một đầu mối trong các khâu liên quan đến hoạt động đầu tư và sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp như: thẩm định dự án đầu tư; chấp thuận đầu tư cho thuê đất; cấp giấy phép xây dựng; cấp giấy chứng nhận ưu đãi đầu tư; cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh,... tạo điều kiện cho doanh nghiệp nhanh chóng đi vào hoạt động sản xuất, kinh doanh. Thực hiện chính sách khuyến khích ưu đãi đầu tư: Thông qua các biện pháp về tài chính, tín dụng, tỉnh đã thực hiện nhiều chính sách khuyến khích đầu tư như: miễn giảm thuế, miễn giảm tiền thuê đất, cho vay vốn, hỗ trợ lãi suất sau đầu tư, áp dụng cơ chế một giá, miễn thuế nhập khẩu máy móc thiết bị, hỗ trợ xây dựng cơ sở hạ tầng, giải phóng mặt bằng, đào tạo lao động, thông tin quảng cáo và vận động đầu tư... theo đúng luật khuyến khích đầu tư trong nước và các chính sách khuyến khích đầu tư của tỉnh. 1.2.2. Sử dụng có hiệu quả nguồn vốn đầu tư từ ngân sách và nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển Trong 5 năm (2004 – 2008), tỉnh đã sử dụng nguồn vốn ngân sách và nguồn vốn tín dụng để đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng nền kinh tế và các cơ sở sản xuất kinh doanh trên địa bàn. Nguồn vốn nhà nước tập trung đầu tư theo 4 hướng: Thứ nhất, đầu tư chuyển đổi mạnh cơ cấu sản xuất nông nghiệp nông thôn, xây dựng các vùng sản xuất hàng hoá tập trung, gắn nông nghiệp với công nghiệp chế biến, khôi phục và phát triển mạnh làng nghề. Trong nông nghiệp, với 331 tỷ đồng vốn đầu tư, hệ thống kênh mương tưới, hệ thống điện, máy bơm, trại giống, chương trình dồn ô đổi thửa, phát triển giống cây trồng và vật nuôi đều phát huy hiệu quả, cơ cấu kinh tế nông nghiệp chuyển dịch theo hướng giảm diện tích lúa, tăng diện tích cây trồng có giá trị cao, đặc biệt là cây ăn quả như vải thiều. Trong lĩnh vực thuỷ lợi, tỉnh đầu tư 606 tỷ đồng tập trung chủ yếu cho việc phát triển hạ tầng: đắp được trên 2.475.000 m3 đê; gia cố hơn 180.000 m đê khoan sâu, kè trên 132.500 m3; cải tạo và xây mới gần 100 điếm canh đê, nhà quản lý đê, xây dựng trạm bơm... Cùng với đó, nhiều làng nghề truyền thống được đầu tư khôi phục và phát triển như: gốm, sứ, sản xuất giày, chạm khắc gỗ, thêu ren, tơ tằm... tạo nhiều việc làm cho nhân dân, nhất là lao động nông nhàn. Thứ hai, đầu tư chiều sâu, tăng cường bổ sung từng bước thiết bị công nghệ tiên tiến và tiến tới hiện đại hoá từng phần các ngành sản xuất công nghiệp; đầu tư phát triển các ngành công nghiệp có lợi thế, hình thành các khu, cụm công nghiệp tập trung. Đến nay, UBND tỉnh đã quy hoạch và xây dựng 7 khu công nghiệp: Phú Thái, Nam Sách, Tầu thủy Lai Vu, Việt Hoà, Phúc Điền, Đại An, Tân Trường với tổng diện tích 642,75ha và 23 cụm công nghiệp tập trung với diện tích 1143 ha. Các cụm công nghiệp đã thu hút được 102 dự án với tổng số vốn đăng ký là 1797 tỷ đồng, dự kiến thu hút khoảng 23.000 lao động. Thứ ba, đầu tư nâng cấp cơ sở hạ tầng, tập trung vào các lĩnh vực giao thông, thông tin bưu điện, hạ tầng đô thị, nông thôn, cấp thoát rước, bảo vệ môi trường sinh thái. Coi hệ thống giao thông là nhân tố quan trọng thúc đẩy phát triển nhanh kinh tế- xã hội. Tỉnh đã đầu tư 2.584 tỷ đồng để phát triển giao thông toàn tỉnh, trong đó riêng giao thông nông thôn là 1.148 tỷ đồng, bê tông hoá, cứng hoá được 7.100 km đường giao thông nông thôn. Đầu tư cho phát triển đô thị và nhà ở đạt 1.813 tỷ đồng, tiêu biểu là 2 khu đô thị mới của Công ty Đầu tư và Xây dựng đô thị Nam Cường với diện tích khoảng 500ha và khu đô thị- thương mại và du lịch Hà Hải ở phía đông nam thành phố Hải Dương... Thứ tư đầu tư cho phát triển nguồn nhân lực, giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ; các chương trình về văn hoá- xã hội, thể dục thể thao. Tổng vốn đầu tư cho mục tiêu này ước đạt 425 tỷ đồng. Cơ sở vật chất và điều kiện học tập tốt đã góp phần đảm bảo 100% số học sinh tiểu học được đi học đúng độ tuổi, 10% số xã, phường, thị trấn trong tỉnh hoàn thành phổ cập giáo dục trung học cơ sở, toàn tỉnh có 100 trường tiểu học và 12 trường trung học cơ sở đạt chuẩn quốc gia… 1.3. Tình hình đầu tư phát triển nông nghiệp tỉnh Hải Dương giai đoạn (2004- 2008) 1.3.1. Vốn đầu tư phát triển nông nghiệp tỉnh Hải Dương Nông nghiệp là ngành sản xuất ra sản phẩm trực tiếp nuôi sống con người. Nó cung cấp các đầu vào cho ngành sản xuất công nghiệp chế biến từ đó dần dần nâng cao chất lượng cuộc sống của con người. Sự phát triển của ngành nông nghiệp đảm bảo cho một nền tảng kinh tế vững chắc của mỗi đất nước nhất là về các vấn đề an ninh lương thực, thực phẩm. Do vậy việc đầu tư vào nông nghiệp sao cho tương xứng và phát huy được tiềm năng cũng như tạo ra nền tảng cho các ngành công nghiệp và dịch vụ phát triển là rất quan trọng. Trong những năm gần đây tỉnh Hải Dương đang có sự thay da đổi thịt trong phát triển kinh tế nhờ vào sự phát triển của quá trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa đặc biệt là trong lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ, chuyển từ một tỉnh thuần nông sang một tỉnh mà giá trị của công nghiệp và dịch vụ đã chiếm tới trên 70% giá trị sản xuất của toàn tỉnh. Tuy vậy, nông nghiệp vẫn được coi trọng và có những đầu tư đúng mức. Bảng 1.3: Vốn đầu tư phát triển nông nghiệp tỉnh Hải Dương giai đoạn (2004 – 2008) STT Chỉ tiêu Đv 2004 2005 2006 2007 2008 1 Tổng VĐT phát triển toàn xã hội tỷ đ 5525 6251 8397 10146 14675 2 Tốc độ tăng liên hoàn % - 13,14 34,33 20,83 44,64 3 Vốn đầu tư phát triển nông nghiệp tỷ đ 907,76 954,53 1289,78 1775,55 2456,89 4 Tỷ trọng % 16,43 15,27 15,36 17,5 16,42 5 Tốc độ tăng liên hoàn % - 5,15 35,12 37,66 38,37 Nguồn: Phòng quy hoạch tổng hợp - Sở kế hoạch & đầu tư tỉnh Hải Dương Qua bảng trên ta thấy tỷ trọng vốn đầu tư phát triển nông nghiệp của tỉnh Hải Dương trong giai đoạn 2004 -2005 trung bình chiếm một tỷ trọng khoảng 16,2% trong tổng nguồn vốn đầu tư phát triển và đang có xu hướng giảm xuống trừ năm 2007. So sánh tốc độ tăng liên hoàn của tổng vốn đầu tư phát triển trên địa bàn tỉnh và tốc độ tăng vốn đầu tư của ngành nông nghiệp cũng thấy được rằng tốc độ tăng của ngành nông nghiệp mặc dù nhanh và cao nhưng không mạnh và ổn định bằng tốc độ tăng tổng nguồn vốn của toàn địa bàn. Tuy nhiên, quy mô nguồn vốn đầu tư phát triển nông nghiệp lại tăng với tỷ lệ khá cao năm sau đều cao hơn năm trước đặc biệt là trong 3 năm gần đây tốc độ tăng liên hoàn trên 35%, đặc. Điều này cho thấy cùng với sự gia tăng đầu tư của tất cả các ngành kinh tế nguồn vốn đầu tư vào nông nghiệp cũng tăng lên. Nhưng đầu tư vào nông nghiệp lại không tăng nhanh bằng công nghiệp và dịch vụ. Chứng tỏ việc đầu tư phát triển nông nghiệp chưa được chú trọng, hiện nay Hải Dương đang tập trung vào phát triển công nghiệp và dịch vụ phục vụ cho quá trình công nghiệp hóa, nhiều nhà máy khu công nghiệp được đầu tư xây dựng trong khi đó nông nghiệp lại chưa được quan tâm gây ra sự mất cân đối nghiêm trọng. Và ngoài ra đầu tư vào nông nghiệp gặp nhiều khó khăn và gặp nhiều rủi ro, khả năng sinh lời thấp nên cũng không hấp dẫn việc bỏ vốn đầu tư. Thêm vào đó, hầu hết các diện tích đất trồng trọt, canh tác, chăn nuôi trên địa bàn tỉnh đều manh mún và không tập trung gây khó khăn cho đầu tư sản xuất ở quy mô lớn và sử dụng máy móc kỹ thuật hiện đại. Hải Dương là tỉnh có rất nhiều tiềm năng lợi thế để phát triển nông nghiệp so với các tỉnh khác. Nhưng hiện nay việc đầu tư phát triển nông nghiệp chưa được quan tâm đúng mức điều này là bỏ phí lợi thế so sánh của tỉnh trong phát triển kinh tế. Hải Dương cần phải có những giải pháp kịp thời để huy động các nguồn vốn cho phát triển nông nghiệp để đưa nông nghiệp Hải Dương phát triển xứng đáng với những tiềm năng vốn có của nó. 1.3.2. Nguồn vốn đầu tư phát triển nông nghiệp giai đoạn (2004 -2008) Trong giai đoạn từ năm (2004 – 2008) nông nghiệp tỉnh Hải Dương đã thu hút được nhiều loại nguồn vốn khác nhau trong bao gồm cả nguồn vốn trong nước và nước ngoài. Nguồn vốn trong nước bao gồm vốn ngân sách địa phương, ngân sách trung ương, vốn tín dụng đầu tư phát triển, và nguồn vốn dân doanh và dân cư. Nguồn vốn nước ngoài trong giai đoạn này chỉ có FDI vì nguồn vốn ODA được đưa vào ngân sách sau đó mới trích ra để đầu tư vào nông nghiệp. Bảng 1.4: Vốn đầu tư phát triển nông nghiệp tỉnh Hải Dương phân theo nguồn hình thành giai đoạn (2004 – 2008) STT Chỉ tiêu Đv 2004 2005 2006 2007 2008 1 VĐT phát triển NN tỷ đ 907,76 954,53 1289,78 1775,55 2456,89 2 Nguồn vốn trong nước tỷ đ 903,95 950,33 1283,98 1767,38 2448,29 3 Vốn ngân sách địa phương tỷ đ 138,71 120,18 212,81 98,54 168,30 4 Vốn ngân sách TW tỷ đ 223,13 75,22 291,88 206,50 513,24 5 Vốn tín dụng đầu tư phát triển tỷ đ 159,40 210,57 328,38 582,38 842,96 6 Nguồn vốn dân doanh và dân cư tỷ đ 382,62 544,37 450,91 761,89 842,96 7 Nguồn vốn FDI tỷ đ 3,81 4,20 5,80 8,17 8,60 Nguồn: Phòng quy hoạch tổng hợp - Sở kế hoạch & đầu tư tỉnh Hải Dương Bảng 1.5: Cơ cấu vốn đầu tư phát triển nông nghiệp tỉnh Hải Dương phân theo nguồn hình thành giai đoạn (2004 – 2008) STT Chỉ tiêu Đv 2004 2005 2006 2007 2008 1 VĐT phát triển NN % 100 100 100 100 100 2 Nguồn vốn trong nước % 99,58 99,56 99,55 99,54 99,65 3 Vốn ngân sách địa phương % 15,28 12,59 16,50 5,55 6,85 4 Vốn ngân sách TW % 24,58 7,88 22,63 11,63 20,89 5 Vốn tín dụng đầu tư phát triển % 17,56 22,06 25,46 32,8 34,31 6 Nguồn vốn dân doanh và dân cư % 42,15 57,03 34,96 42,91 34,31 7 Nguồn vốn FDI % 0,42 0,44 0,45 0,46 0,35 Nguồn: Phòng quy hoạch tổng hợp - Sở kế hoạch & đầu tư tỉnh Hải Dương Trong tổng vốn đầu tư phát triển nông nghiệp Hải Dương trong giai đoạn năm 2004 – 2005, thì nguồn vốn trong nước chiếm tỷ lệ gần như tuyệt đối nguồn vốn FDI chiếm một tỷ trọng rất nhỏ. Như vậy, nông nghiệp Hải Dương vẫn hoàn toàn dựa vào nội lực là chính, chưa có những chính sách đầu tư thu hút đầu tư nước ngoài mặc dù Hải Dương nhiều năm liền nằm trong nhóm 10 tỉnh thu hút vốn FDI lớn nhất cả nước. Nền nông nghiệp của Hải Dương nói riêng và nước ta nói chung còn thua kém xa các nước trong khu vực và trên thế giới cả về công nghệ sản xuất và trình độ quản lý. Vì thế việc thu hút những dự án đầu tư nước ngoài vào nông nghiệp là hết sức cần thiết. Đây là cơ hội lớn để sản xuất nông nghiệp phát triển tiếp thu được công nghệ sản xuất hiện đại của nước ngoài, cải tạo nguồn gien, giống và nâng cao trình độ của người lao động trong lĩnh vực này để từng bước thực hiện cơ giới hóa nông nghiệp, tiến hành sản xuất trên quy mô lớn đem lại hiệu quả kinh tế cao. Trong vài năm gần đây, các cấp, ban ngành ở Hải Dương đã thấy được tầm quan trong của nguồn vốn này đối với phát triển nông nghiệp và giải quyết công ăn việc làm tại chỗ, đem lại thu nhập cao cho người nông dân nên tỉnh Hải Dương cũng có nhiều chính sách ưu đãi đối với các dự án phát triển nông nghiệp nên trong các năm (2004 – 2008) đã bắt đầu thu hút được nguồn vốn này và mặc dù còn ở mức khiêm tốn so với nguồn vốn trong nước nhưng cũng có xu hướng nhích dần lên. Trong các nguồn vốn đầu tư phát triển nông nghiệp ở tỉnh Hải Dương thì nguồn vốn đầu tư từ khu vực dân cư và dân doanh chiếm tỷ trọng cao nhất bình quân giai đoạn (2004 – 2008) là 42,272%. Đây là một tỷ trọng khá cao nhưng có tốc độ tăng trưởng không đồng đều và ổn định. Nguồn vốn đầu tư của dân cư tập trung vào việc hình thành và phát triển các trang trại chăn nuôi, trồng trọt và nuôi thả cá. Tiếp theo đó là nguồn vốn tín dụng đầu tư và nguồn vốn ngân sách trung ương và địa phương. 1.3.2.1. Vốn đầu tư phát triển nông nghiệp từ ngân sách địa phương Nguồn vốn này được trích từ ngân sách của tỉnh để đầu tư cho phát triển nông nghiệp từ theo nhu cầu hàng năm của tỉnh và tình hình thu chi ngân sách của tỉnh trong năm đó. Bảng 1.6: Vốn đầu tư cho phát triển nông nghiệp Hải Dương từ ngân sách địa phương giai đoạn (2004 – 2008) STT Chỉ tiêu Đv 2004 2005 2006 2007 2008 1 Vốn đầu tư phát triển nông nghiệp tỷ đ 907,76 954,53 1289,78 1775,55 2456,89 2 Vốn ngân sách địa phương tỷ đ 138,71 120,18 212,81 98,54 168,30 3 Tỷ trọng % 15,3 12,59 16,5 5,5 6,85 4 Tốc độ tăng liên hoàn % - -26,33 77,08 46,3 70,78 Nguồn: Phòng quy hoạch tổng hợp - Sở kế hoạch & đầu tư tỉnh Hải Dương Có thể thấy tỷ trọng vốn đầu tư từ ngân sách thấp và tăng giảm đột ngột qua các năm: năm 2004 là 15,3%, năm 2005 là 12,59%, năm 2006 là 16,5%, năm 2007 là 5,5%, năm 2008 là 6,85%. Hai năm gần đây tỷ trọng nguồn vốn ngân sách địa phương đầu tư vào nông nghiệp giảm đột ngột từ trên 16,5% năm 2006 xuống còn 5,5% năm 2007 và 6,85% năm 2008 không những vậy tỷ trọng vốn trong 2 năm này cũng chiếm một tỷ lệ nhỏ 5,5% năm 2007; 6,85%. Chứng tỏ tỉnh chưa có những chính sách và kế hoạch hỗ trợ phát triển nông nghiệp một cách ổn định mà mới chỉ xuất phát từ nhu cầu cấp bách hàng năm.Nguồn vốn này chiếm một tỷ lệ nhỏ nhưng là một nguồn lực quan trọng để đầu tư vào cơ sở hạ tầng nông nghiệp với mục đích phòng chống thiên tai, tu bổ đê điều, kiên cố hóa kênh mương bảo vệ sản xuất. Trong giai đoạn này, nguồn vốn ngân sách địa phương cùng với nguồn ngân sách trung ương hỗ trợ đã tiến hành xây dựng các cơ sở sản xuất cây con giống, nhà kho… của Trung tâm Giống gia súc, Trung tâm khảo nghiệm giống cây trồng, các xí nghiệp thuộc công ty giống cây trồng của tỉnh. Nguồn vốn này cũng giữ vai trò chủ đạo trong công tác nghiên cứu ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất, thử nghiệm giống mới, đào tạo, nâng cao chất lượng của đội ngũ kỹ thuật nông nghiệp, bác sỹ thú ý, cán bộ bảo vệ thực vật. Đồng thời hỗ trợ các hoạt động phổ biến, chuyển giao, ứng dụng tiến bộ kỹ thuật tới hộ nông dân, xây dựng hệ thống khuyến nông để thực hiện việc chuyển giao công nghệ và kỹ thuật nông nghiệp. Nâng cao năng lực hoạt động của hệ thống giống cây trồng, giống gia súc và giống nông thủy sản, đáp ứng nhu cầu giống có năng suất cao, chất lượng tốt cho sản xuất. Nguồn vốn này chiếm tỷ trọng không lớn nhưng đây là nguồn vốn quan trọng mang tính chất kích thích và dẫn dắt hỗ trợ cho phát triển nông nghiệp tỉnh nhà tạo ra những nền tảng cơ bản cho nền nông nghiệp. 1.3.2.2. Vốn đầu tư phát triển nông nghiệp từ ngân sách trung ương Cùng với ngân sách địa phương, nguồn vốn hỗ trợ phát triển nông nghiệp từ trung ương đã góp phần không nhỏ cho sự phát triển cơ sở hạ tầng nông nghiệp nông thôn như kiên cố hóa kênh mương, tu bổ đê điều… Về hướng đầu tư cho công tác thủy nông của nguồn vốn này là đầu tư vào xây dựng phát triển các hệ thống thủy nông mới; đầu tư khôi phục, sửa chữa lớn các hệ thống thủy nông đang vận hành hết hạn sử dụng; đầu tư ứng dụng kỹ thuật; công nghệ mới; trợ giá dịch vụ thủy nông trong các trường hợp thiên tai; tiêu thoát nước phi canh tác; trợ cấp vốn đầu tư phát triển thủy lợi nhỏ, thủy lợi nội đồng và hợp tác xã. Ngoài ra nguồn vốn này được trung ương hỗ trợ để thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia về phát triển nông nghiệp trên địa bàn tỉnh. Bảng 1.7: Vốn đầu tư phát triển nông nghiệp Hải Dương từ ngân sách trung ương Hải Dương giai đoạn (2004 – 2008) STT Chỉ tiêu Đv 2004 2005 2006 2007 2008 1 Nguồn vốn đầu tư phát triển nông nghiệp tỷ đ 907,76 954,53 1289,78 1775,55 2456,89 3 Vốn ngân sách TW tỷ đ 223,13 75,22 291,88 206,50 513,24 4 Tỷ trọng % 24,58 7,88 22,63 11,63 20,89 5 Tốc độ tăng liên hoàn % - -66,29 388,04 70,75 248,54 Nguồn: Phòng quy hoạch tổng ._.hợp - Sở Kế hoạch & Đầu tư tỉnh Hải Dương Trong giai đoạn từ năm 2004 - 2008, nguồn vốn đầu tư từ ngân sách trung ương cho phát triển nông nghiệp trên địa bàn tỉnh chiếm tỷ trọng trung bình khoảng 18,36%. Và trong 3 năm gần đây 2006, 2007, 2008 tỷ trọng này giữ ở mức cao hơn trung bình khoảng 20%. Nguồn vốn này hỗ trợ tỉnh trong việc đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng và phát triển nông nghiệp địa phương theo chiến lược phát triển nông nghiệp của nhà nước. Một vai trò quan trọng của nguồn vốn này là giúp nhà nước thực hiện các chiến lược về phát triển nông nghiệp nông thôn thông qua các chương trình mục tiêu phát triển quốc gia về nông nghiệp. Trên địa bàn Hải Dương 5 năm qua đã thực hiện các chương trình mục tiêu sau: chương trình 5 triệu ha rừng với số vốn thực hiện là 4,975 tỷ, nuôi trồng thủy sản: 18 tỷ, chương trình 134 là 2 tỷ đồng… 1.3.2.3. Vốn đầu tư phát triển nông nghiệp từ dân cư và dân doanh Hải Dương là một tỉnh thuần nông, đa số người dân sống nhờ vào sản xuất nông nghiệp. Vì vậy, nguồn vốn đầu tư cho nông nghiệp từ khu vực dân cư và dân doanh có tiềm năng nhất. Hiện nay, ở Hải Dương xuất hiện nhiều trang trại, hợp tác xã sản xuất ở quy mô lớn nhất là ở hai lĩnh vực chăn nuôi và nuôi trồng thủy sản. Nguồn vốn này là quan trọng nhất vì nó sẽ đem lại hiệu quả đầu tư cao nhất, không ai khác là người nông dân và các doanh nghiệp là người rõ nhất đồng vốn của mình bỏ ra phải đầu tư như thế nào để đem lại hiệu quả cao nhất. Việt Nam đã gia nhập tổ chức WTO và phải tuân thủ những nguyên tắc của tổ chức này về việc cắt giảm trợ cấp về nông sản, phân bón và những ưu đãi khác của nhà nước đối với sản xuất nông nghiệp. Do đó, về lâu dài nguồn vốn này sẽ quyết định quy mô và hiệu quả đầu tư vào nông nghiệp. Vì vậy, việc thu hút nguồn vốn này là rất cần thiết nó quyết định trình độ phát triển trình độ phát triển của sản xuất nông nghiệp và đời sống nông thôn ở Hải Dương. Trong những năm gần đây, Hải Dương đã có nhiều chính sách ưu đãi khuyến khích nhân dân đầu tư vào nông nghiệp và thu được những thành tựu đáng kể. Bảng 1.8: Vốn đầu tư từ khu vực dân doanh và dân cư cho phát triển nông nghiệp Hải Dương giai đoạn (2004 – 2008) STT Chỉ tiêu Đv 2004 2005 2006 2007 2008 1 VĐT phát triển NN tỷ đ 907,76 954,53 1289,78 1775,55 2456,89 2 Tốc độ tăng liên hoàn - 13,14 34,33 20,83 44,64 3 Nguồn vốn dân doanh và dân cư tỷ đ 382,62 544,37 450,91 761,89 842,96 4 Tỷ trọng % 42,15 57,03 34,96 42,91 34,31 5 Tốc độ tăng liên hoàn % - 25,86 -17,17 68,97 10,64 Nguồn: Phòng quy hoạch tổng hợp - Sở Kế hoạch & Đầu tư tỉnh Hải Dương Như Bảng 3 ta đã thấy nguồn vốn đầu tư cho phát triển nông nghiệp trong giai đoạn 2004 - 2008 chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng nguồn vốn. Đây là nguồn vốn quan trọng quyết định trình độ và hiệu quả của một nền sản xuất nông nghiệp trong tương lai. Nguồn vốn này không những chiếm tỷ trọng cao (trung bình là 42,3% mà còn có tốc độ tăng liên hoàn cũng nhanh hơn tốc độ tăng của quy mô nguồn vốn đầu tư trong nước tuy nhiên tốc độ tăng lại không ổn định và đồng đều giữa các năm. Nguồn vốn này được tập trung đầu tư phát triển kinh tế trang trại chủ yếu là ở các trang trại chăn nuôi và kinh doanh tổng hợp. Tính đến hết năm 2008 Hải Dương có tới 10.020 trang trại trong đó trang trại kinh doanh tổng hợp là 525 trang trại, trang trại chăn nuôi là 300, trang trại chăn nuôi, trang trại nuôi trồng thủy sản 126, trang trại trồng cây lâu năm 69. Nhìn chung quy mô đầu tư và mức thu nhập của hộ trang trại nhiều hơn so với các hộ nông nghiệp nhỏ tự cấp, tự túc. Quy mô bình quân trên một trang trại về diện tích đất sản xuất là 2,2 ha, về lao động là 7 người, về vốn đầu tư là 300 triệu đồng. Như vậy sự phát triển của kinh tế hộ và kinh tế trang trại trong thời gian qua nói lên tính đúng đắn trong chủ trương phát triển kinh tế nông nghiệp của tỉnh, đồng thời khẳng định kinh tế nông hộ từng bước chuyển lên kinh tế trang trại sản xuất hàng hóa, chuyên canh thâm canh là hình thức tổ chức sản xuất thích hợp với đặc điểm về địa hình và tập quán sản xuất trồng trọt của tỉnh. Nhiều trang trại đã tiến hành sản xuất, chăn nuôi với quy mô công nghiệp và các trang trại đã trang bị máy móc vào các khâu sản xuất như máy ấp trứng, máy thái rau, thiết bị thông gió, cấp nước uống, vệ sinh chuồng trại, máy bơm nước cho ao nuôi trồng thuỷ sản. Đây cũng là nguồn chủ yếu để tiến hành cơ khí hóa nông nghiệp đáp ứng nhu cầu sản xuất một cách nhanh chóng, kịp thời vụ, tăng hiệu quả sản xuất thâm canh, tăng năng suất lao động và chất lượng sản phẩm nông nghiệp. 1.3.2.4. Vốn tín dụng đầu tư phát triển Nguồn vốn này chiếm tỷ trọng khá cao trong tổng vốn đầu tư phát triển nông nghiệp. Đây là thị trường vốn quan trọng nhất trong hệ thống thị trường nông nghiệp nông thôn. Sự hoạt động có hiệu quả và ổn định của thị trường vốn có ý nghĩa đặc biệt to lớn trong sự phát triển của nông nghiệp. Trên địa bàn tỉnh Hải Dương hiện nay đã hình thành đa dạng các hệ thông ngân hàng đáp ứng nhu cầu vốn tín dụng theo mục tiêu bao gồm Ngân hàng phát triển nông nghiệp và nông thôn, ngân hàng đầu tư, ngân hàng phục vụ người nghèo, hệ thống quỹ tín dụng nhân dân ở nông thôn từng bước hình thành và đáp ứng nhu cầu huy động và sử dụng vốn tại chỗ trong dân cư. Nguồn vốn này chủ yếu là vốn tín dụng nhà nước lãi suất ưu đãi cho các dự án, vốn tín dụng ưu đãi lãi suất cho vay hộ nghèo và đáng kể nhất là nguồn vốn của ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Hải Dương và hệ thống quỹ tín dụng nhân dân. Bảng 1.9: Vốn đầu tư tín dụng đầu tư cho phát triển nông nghiệp Hải Dương giai đoạn ( 2004 – 2008) STT Chỉ tiêu Đv 2004 2005 2006 2007 2008 1 Vốn đầu tư phát triển nông nghiệp tỷ đ 907,76 954,53 1289,78 1775,55 2456,89 2 Vốn tín dụng đầu tư phát triển tỷ đ 159,40 210,57 328,38 582,38 842,96 3 Tỷ trọng % 17,56 22,06 25,46 32,8 34,31 4 Tốc độ tăng liên hoàn % - 32,1 55,95 77,35 44,74 Nguồn: Phòng Quy hoạch tổng hợp - Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Hải Dương Đây là nguồn vốn có chiếm tỷ trong khá cao và có tốc độ tăng ổn định qua các năm. Nguồn vốn này giúp nông dân và doanh nghiệp có thể mở rộng quy mô sản xuất và có điều kiện để trang bị máy móc hiện đại vào sản xuất. Cần phải có những chính sách và cơ chế phù hợp để nông dân và doanh nghiệp tiếp cận được nguồn vốn này dễ dàng hơn. Đồng thời từ phía các ngân hàng và các tổ chức tín dụng nhân dân cũng phải có những biện pháp thẩm định, kiểm tra giám sát để nguồn vốn này được sử dụng có hiệu quả nhất. 1.3.2.5. Vốn FDI cho đầu tư phát triển nông nghiệp Hải Dương giai đoạn (2004 – 2008) Trong những năm gần đây, Hải Dương là một trong những tỉnh thu hút được nguồn vốn FĐI lớn nhất cả nước. Nhưng số dự án đầu tư vào nông nghiệp thì còn quá ít. Đây cũng là thực trạng chung đang diễn ra trên cả nước. Bởi vì các doanh có vốn đầu tư không mặn mà với lĩnh vực này: rủi ro cao, lợi nhuận thấp. Mặt khác, công tác tổ chức triển khai các dự án chậm. Hầu hết các doanh nghiệp này gặp khó khăn trong giai đoạn đầu tư thăm dò thị trường tiêu thụ cũng như lựa chọn công nghệ thích hợp. Một số doanh nghiệp khác lại không tiến hành giải ngân được do khâu giải phóng mặt bằng chậm và thủ tục hành chính quá rườm rà, phức tạp. Bảng 1.10 : Nguồn vốn FDI cho đầu tư phát triển nông nghiệp Hải Dương giai đoạn (2004 – 2008) STT Chỉ tiêu Đv 2004 2005 2006 2007 2008 1 Vốn đầu tư phát triển nông nghiệp tỷ đ 907,76 954,53 1289,78 1775,55 2456,89 2 Nguồn vốn FDI tỷ đ 3,81 4,20 5,80 8,17 8,60 3 Tỷ trọng % 0,42 0,44 0,45 0,46 0,35 4 Tốc độ tăng liên hoàn % - 39 38,09 40,86 5,26 Nguồn: Phòng quy hoạch tổng hợp - Sở kế hoạch và đầu tư tỉnh Hải Dương Có thể thấy nguồn vốn FDI chiếm một tỷ trọng nhỏ bé trong tổng nguồn vốn đầu tư nông nghiệp, dưới 0,5% trong tất cả các năm. Không những vậy, quy mô vốn cũng rất nhỏ, tốc độ tăng của nguồn vốn chưa có bước đột phá và không ổn định qua các năm. Ở Hải Dương hiện nay, các doanh nghiệp FDI đầu tư vào nông nghiệp chủ là các doanh nghiệp trồng trọt, chế biến và kinh doanh nông sản, chế biến thức ăn gia súc. Các doanh nghiệp này có quy mô vốn đăng ký đầu tư nhỏ hơn rất nhiều so với các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ và việc thực hiện vốn cũng diễn ra rất chậm chạp. 1.3.3. Thực trạng đầu tư xét theo các tiểu ngành Hải Dương là một trong những tỉnh có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển nông nghiệp: đất đai màu mỡ, diện tích đất nông nghiệp tuy bị thu hẹp nhưng vẫn còn nhiều, nguồn lao động dồi dào. Trong giai đoạn năm 2004 – 2005, trên địa bàn tỉnh đã thu hút được một nguồn vốn khá lớn từ mọi từ ngân sách và dân cư để phát triển nông nghiệp. Tỉnh đã chú trọng phát triển nông nghiệp trên cả 3 lĩnh vực nông, lâm, thủy sản. Đảm bảo phát huy được những tiềm năng vốn có trên từng lĩnh vực và chuyển dịch cơ cấu từng bước theo hướng hợp lý. Bảng 1.11: Vốn đầu tư phát triển nông nghiệp theo cơ cấu nông, lâm, thủy sản trên địa bàn tỉnh Hải Dương giai đoạn (2004 – 2008) STT Chỉ tiêu Đv 2004 2005 2006 2007 2008 1 VĐT phát triển NN tỷ đ 907,76 954,53 1289,78 1775,55 2456,89 2 Tỷ trọng % 100 100 100 100 100 3 Nông nghiệp thuần tỷ đ 693,8 708,36 910,58 1264,19 1713,93 4 Tỷ trọng tỷ đ 76,43 74,21 70,6 71,2 69,76 5 Thủy sản tỷ đ 138,71 165,52 273,3 367,18 547,15 6 Tỷ trọng tỷ đ 15,28 17,34 21,19 20,68 22,27 7 Lâm nghiệp tỷ đ 75,25 80,65 105,9 144,18 195,81 8 Tỷ trọng tỷ đ 8,29 8,45 8,21 8,12 7,97 Nguồn: Phòng Quy hoạch tổng hợp - Sở Kế hoạch & đầu tư tỉnh Hải Dương Nhìn chung, ở Hải Dương đầu tư vào nông nghiệp thuần vẫn chiếm trọng cao do tập quán sản xuất và điều kiện tự nhiên, địa hình. Vốn đầu tư phát triển cho nông nghiệp thuần: Từ bảng trên ta thấy, tỷ trọng đầu tư cho nông nghiệp thuần của Hải Dương rất cao trung bình trên 70% nhưng có xu hướng giảm chậm:từ 76, 43% năm 2004 xuống 69,76% năm 2008. Đây là xu hướng chung của ngành nông nghiệp Việt Nam trong giai đoạn này nhưng ở Hải Dương xu hướng này diễn ra chưa mạnh mẽ để tạo được một sự thay đổi lớn trong cơ cấu vốn đầu tư. Nguồn vốn đầu tư cho nông nghiệp thuần chủ yếu vào hai mảng trồng trọt và chăn nuôi. Với hàng loạt trang trại được hình thành và đi vào sản xuất như hiện nay đã tạo những điều kiện thuận lợi để tiến hành đâu tư với quy mô vốn lớn hơn trước. Bảng 1.12: Quy mô vốn đầu tư cho ngành trồng trọt, chăn nuôi và dịch vụ nông nghiệp tỉnh Hải Dương giai đoạn (2004 – 2008) STT Chỉ tiêu Đv 2004 2005 2006 2007 2008 1 Nông nghiệp thuần tỷ đ 693,8 708,36 910,58 1264,19 1713,93 2 Tỷ trọng % 100 100 100 100 100 3 Trồng trọt 521,95 503,57 631,94 847,64 1124 4 Tỷ trọng % 75,23 71,09 69,4 67,05 65,58 5 Chăn nuôi 154,79 181,69 240,48 362,19 512,12 6 Tỷ trọng % 22,31 25,65 26,41 28,65 29,88 7 Dịch vụ nông nghiệp tỷ đ 17,06 23,1 38,16 54,36 77,81 8 Tỷ trọng 2,46 3,26 4,19 4,3 4,45 Nguồn: Phòng Quy hoạch tổng hợp - Sở kế hoạch & đầu tư tỉnh Hải Dương Trong ngành nông nghiệp thuần, tỷ trọng vốn đầu tư của ngành trồng trọt chiếm tỷ trọng cao nhất trung bình 70% và có xu hướng giảm dần nhưng chậm nhưng quy mô vốn đầu tư lại tăng. Hiện nay, các địa phương ở Hải Dương đều tập trung đa dạng hóa cây trồng, giảm dần tình trạng độc canh cây lương thực, nhất là cây lúa bằng việc chuyển những diện tích trồng lúa năng thấp, bấp bênh sang trồng cây để giảm dần các nhóm cây trồng khác có hiệu quả. Hiện nay vốn đầu tư vào nông nghiệp chủ yếu là để thâm canh, tăng vụ bởi vì diện tích đất nông nghiệp bình quân trên đầu người thấp, phân tán. Quy mô vốn đầu tư vào ngành chăn nuôi tăng cả về quy mô lẫn tỷ trọng. Quy mô vốn năm 2008 gấp 2,5 lần năm 2004. Tỷ trọng tăng từ 22,31% năm 2004 đến 29,88% năm 2008. Đầu tư vào ngành chăn nuôi có điều kiện tăng cả về quy mô lẫn tỷ trọng do ngành này đang chuyển từ chăn nuôi phân tán nhỏ lẻ sang mô hình trang trại quy mô lớn, sử dụng thức ăn công nghiệp. Những chính sách khuyến khích phát triển chăn nuôi theo hướng sản xuất hàng hóa gắn với thị trường trong nước và xuất khẩu đã làm tăng đang kể số trang trại chăn nuôi trên toàn tỉnh. Vốn đầu tư cho phát triển ngành thủy sản So với vốn đầu tư ngành nông nghiệp thuần thì vốn đầu tư vào ngành thủy sản chiếm tỷ trọng không cao. Tuy nhiên quy mô vốn đầu tư và tỷ trọng trong tổng vốn lại tăng với tốc độ ổn định và khá cao: tỷ trọng năm 2004 là 15,28; năm 2005 là 17,34; năm 2006 là 21,19; năm 2007 là 20,68%; năm 2008 là 22,27%. Đầu tư vào ngành thủy sản chủ yếu vào việc nuôi trồng và khai thác đánh bắt thì không đáng kể do ở Hải Dương không có biển và hệ thống sông ngòi nhiều nhưng nguồn thủy sản tự nhiên đã bị khai thác cạn kiệt chủ yếu để phục vụ việc tưới tiêu cho nông nghiệp. Vốn đầu tư cho phát triển ngành lâm nghiệp Hải Dương có diện tích đồi núi chiếm một tỷ lệ nhỏ khoảng 11% tổng diện tích, rừng tự nhiên còn rất ít, chủ yếu là rừng trồng và tái sinh. Hiện nay nguồn vốn đầu tư cho nông nghiệp chủ yếu từ các chương trình mục tiêu quốc gia như chương trình 5 triệu ha rừng, chương trình 134…cho mục đích bảo vệ rừng, chống xói mòn được giao cho từng địa phương. Nhìn chung nguồn vốn này chiếm tỷ trọng thấp trong tổng vốn đầu tư (nhỏ hơn 5%). Nhưng tỷ trọng tăng dần mặc dù mức tăng chậm vì hiện nay các địa phương có rừng đều chú trọng đầu tư vào trồng rừng để khai thác gỗ và các cây công nghiệp phục vụ xuất khẩu và đáp ứng nhu cầu trong nước. 1.4. Đánh giá tình hình đầu tư phát triển nông nghiệp tỉnh Hải Dương giai đoạn (2004 -2008) 1.4.1. Những thành tựu đạt được 1.4.1.1. Giá trị sản xuất ngành nông nghiệp gia tăng và có sự chuyển dịch hợp lý Trên toàn thế giới, sản lượng lúa gạo sản xuất ra tăng đáng kể nhưng nhu cầu lương thực truyền thống này đã bắt đầu giảm đi. Điều này xuất phát từ việc tăng thu nhập của người dân kéo theo nhu cầu tiêu dùng của họ cũng thay đổi, trong đó nhu cầu về những mặt hàng lương thực đã qua chế biến và hàng hóa phi lương thực tăng cao. Và đứng dưới góc độ của những người nông dân, với xu hướng biến động lớn về giá cả nông sản như hiện nay thì việc đa dạng hóa các cây trồng, vật nuôi và các hệ thống sản xuất vào nhiều thời điểm khác nhau trong năm sẽ giúp nông dân giảm bớt các rủi ro về giá để ổn định thu nhập của mình. Thêm vào đó việc đa dạng hóa sẽ giúp cải thiện đáng kể hiệu quả sử dụng và phân bổ tài nguyên trong năm nghiệp. Thông qua đa dạng hóa, nông dân sẽ tìm ra cách sử dụng các tài nguyên hợp lý hơn để đạt được hiệu quả sử dụng vốn cao hơn và sản phẩm nông nghiệp được tiêu thụ một cách dễ dàng hơn. Đa dạng hóa cũng là phương thức hiệu quả để tối ưu hóa sử dụng nguồn lực xã hội như là lao động nông thôn nơi được coi là có tỷ lệ thất nghiệp cao nhất. Như vậy đa dạng hóa trong sản xuất nông nghiệp là một xu hướng tất yếu của ngành nông nghiệp hiện nay. Ở Hải Dương xu thế này được thể hiện rất rõ trong sự thay đổi cơ cấu vốn đầu tư cho các lĩnh vực nông nghiệp, sự đa dạng về cây trồng, vật nuôi, sự chuyển dịch về giá trị sản xuất của các ngành... Bảng 1.13: Giá trị sản xuất ngành nông nghiệp Hải Dương giai đoạn (2004 – 2008) STT Chỉ tiêu Đv 2004 2005 2006 2007 2008 1 Toàn ngành tỷ đ 5359,25 5988,41 6717,71 7362,43 7673,41 2 Nông nghiệp thuần tỷ đ 5063,4 5494,1 6097 6608,4 6841,76 3 Trồng trọt tỷ đ 3409,4 3573 3943 4447 4495 4 Chăn nuôi tỷ đ 1537,3 1695,5 1894 1904,4 2059,4 5 Dịch vụ nông nghiệp tỷ đ 116,7 225,6 260 257 287,36 6 Thuỷ sản tỷ đ 274,742 472,648 598,322 719,357 802,038 7 Nuôi thủy sản tỷ đ 230,607 430,33 533,17 675,044 754,038 8 Khai thác và đánh bắt tỷ đ 21,768 38,389 41,13 39,904 36,094 9 Dịch vụ tỷ đ 22,349 3,929 4,022 4,409 11,951 10 Lâm nghiệp tỷ đ 21,108 21,661 22,395 32,675 29,569 11 Nuôi và trồng rừng tỷ đ 1,18 1,19 0,725 1,14 1,123 12 Khai thác lâm sản tỷ đ 17,164 17,369 17,72 27,568 23,957 13 Dịch vụ nông nghiệp tỷ đ 2,764 3,102 3,95 3,967 4,489 Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Hải Dương Bảng 1.14: Cơ cấu giá trị sản xuất nông nghiệp Hải Dương giai đoạn (2004 – 2008) STT Chỉ tiêu Đv 2004 2005 2006 2007 2008 1 Toàn ngành % 100 100 100 100 100 2 Nông nghiệp thuần % 94,48 91,75 90,76 89,78 89,16 3 Trồng trọt % 63,62 59,67 58,70 60,42 58,58 4 Chăn nuôi % 28,68 28,31 28,19 25,87 26,84 5 Dịch vụ nông nghiệp % 2,18 3,77 3,87 3,49 3,74 6 Thuỷ sản % 5,13 7,89 8,91 9,77 10,45 7 Nuôi thủy sản % 4,3 7,19 8,23 9,17 9,83 8 Khai thác và đánh bắt % 0,41 0,64 0,61 0,54 0,47 9 Dịch vụ % 0,42 0,07 0,06 0,06 0,16 10 Lâm nghiệp % 0,39 0,36 0,33 0,44 0,39 11 Nuôi và trồng rừng % 0,02 0,02 0,01 0,02 0,01 12 Khai thác lâm sản % 0,32 0,29 0,26 0,37 0,31 13 Dịch vụ nông nghiệp % 0,05 0,05 0,06 0,05 0,06 Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Hải Dương Trong giai đoạn trên, cơ cấu giá trị sản xuất của ngành nông nghiệp có xu hướng giảm dần tỷ trọng của tiểu ngành trồng trọt và tăng dần tỷ trọng tiểu ngành chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản và các dịch vụ nông nghiệp: tiểu ngành nông nghiệp vẫn giữ vai trò quan trọng chiếm tới 60% giá trị sản xuất nông nghiệp trong giai đoạn này nhưng tỷ trọng giá trị sản xuất của tiểu ngành này đang có xu hướng giảm đi qua các năm. Tỷ trọng giá trị sản xuất trung bình của tiểu ngành chăn nuôi và thủy sản là 8,5%, ngành thủy sản là 7,8 % tuy vẫn còn chiếm tỷ trọng nhỏ nhưng hai giá trị sản xuất của hai ngành này đang có tốc độ gia tăng nhanh, trong tương lai hai ngành này sẽ đem lại giá trị sản xuất cao hơn ngành trồng trọt. Giá trị sản xuất của các tiểu ngành dịch vụ mặc dù chiếm tỷ trọng nhỏ nhưng cũng có xu hướng tăng dần lên. Tỷ trọng của các tiểu ngành đánh bắt thủy sản và khai thác rừng có xu hướng giảm dần. Về cơ cấu cây trồng vật nuôi trong các tiểu ngành cũng có sự thay đổi theo xu hướng đa dạng hóa để đáp ứng nhu cầu thị trường trong nước cũng như xuất khẩu ra nước ngoài. Bên cạnh đó, từ việc chuyển đổi cơ cấu sản xuất đa dạng hóa các sản phẩm nông nghiệp tỉnh Hải Dương cũng đã hình thành được một số vùng sản xuất hàng hóa như : - Vải thiều (Thanh Hà, Chí Linh) diện tích 8.500 ha, sản lượng 25.000 tấn - 30.000 tấn/năm. - Dưa hấu, rau ngắn ngày, củ đậu (Kim Thành, Gia Lộc) diện tích 6.000 – 6.500 ha. - Gạo nếp hoa vàng (Kim Thành, Kinh Môn) diện tích 800 - 1000 ha. - Hành, tỏi (Nam Sách, Kinh Môn) diện tích 3.500 ha. - Vùng nuôi cá, ba ba đặc sản có diện tích 30, 50, 100 ha/vùng (Tứ Kỳ, Cẩm Giàng, Ninh Giang, Kim Thành) - Cà rốt (Cẩm Giàng) diện tích 420 ha, sản lượng 12.000 - 13.000 tấn/năm Sự đa dạng hóa được thể hiện rất rõ trong từng tiểu ngành : Tiểu ngành sản xuất trồng trọt Hiện đang là ngành sản xuất chính của tỉnh, tạo ra khối lượng sản phẩm lớn, những năm qua đã chuyển dần sang sản xuất hàng hóa theo nhu cầu thị trường, nâng cao chất lượng và giá trị sản phẩm. Cơ cấu sản xuất được chuyển dịch theo hướng giảm dần diện tích cây lương thực, tăng diện tích cây khác, nhất là diện tích rau màu và cây ăn quả: diện tich trồng lúa giảm từ 147.499 ha năm 2000 còn 133.263 năm 2005 giảm 9,66%, cơ cấu các giống lúa thường cũng giảm thay vào đó là các giống lúa chất lượng cao. Các loại cây và các sản phẩm rau, màu, thực phẩm phát triển mạnh cả về quy mô và chất lượng sản phẩm, đã cung cấp khối lượng lớn hàng hóa cho thị trường trong vùng, trong nước và chế biến để xuất khẩu như vải quả, hành, tỏi, ớt, cà rốt, dưa hấu, củ đậu…Các vùng sản xuất tập trung rau quả hiệu quả cao được hình thành ở Gia Lộc, Cẩm Giàng, Nam Sách, Kim Thành, Thanh Miện…Các loại cây ăn quả có giá trị và khả năng hàng hóa lớn như vải, nhãn đang phát triển ổn định. Toàn tỉnh hiện có trên 21.600 ha cây ăn quả trong đó diện tích vải 14.250 ha, sản lượng vài được mùa năm 2004 đạt 47632 tấn. Các loại cây công nghiệp ngắn ngày như đậu tương, lạc…năng suất chất lượng ngày một nâng cao, cây đậu tương được chú trọng mở rộng diện tích nhất là đối với vụ hè thu và vụ đông xuân. Việc phổ biến nhiều mô hình sản xuất tiên tiến, nhiều công thức luân canh, tăng vụ hợp lý, việc sử dụng giống mới và áp dụng các biện pháp canh tác đã góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất. Tiểu ngành chăn nuôi Trong tiểu ngành này, xuất hiện nhiều loại hình tổ chức sản xuất: chăn nuôi gia đình, gia trại với hình thức công nghiệp bán công nghiệp và tăng dần quy mô. Cơ cấu trong nội bộ ngành được chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng các loại gia súc, gia cầm có chất lượng thương phẩm cao, từng bước chuyển từ chăn nuôi nhỏ lẻ sang chăn nuôi ở quy mô lớn. Các giống vật nuôi có năng suất chất lượng cao được đưa vào sản xuất và tăng dần. Tỷ lệ các giống gia súc gia cầm lai chiếm tới 50% ở đàn lợn, 60% ở đàn bò và 20% ở đàn gia cầm. Đây là các giống có năng suất cao, chất lượng thịt khá ngon như gà Tam Hoàng, Lương Phượng, ngan Pháp… Tiểu ngành thủy sản Ngành thủy sản ở Hải Dương chủ yếu dựa vào nuôi trồng thủy sản bởi hệ thống sông ngòi ở tỉnh nhiều nhưng nguồn thủy sản tự nhiên đã bị khai thác cạn kiệt và hệ thống sông ngòi này chủ yếu phục cho việc tưới tiêu. Gần đây, trên địa bàn tỉnh đã xây dựng và quy hoạch khu nuôi cá tập trung tạo được lượng cá hàng hóa đồng thời giải quyết được vấn đề ô nhiễm môi trường. Ngoài nuôi trồng các loại cá truyền thống hiện nay có cả những giống cá mới, diện tích nuôi tôm, cua cũng tăng nhanh. Năng suất cá nuôi tăng từ 17,27 tạ/ ha năm 2000 lên 32,76 tạ/ ha năm 2005, diện tích được mở rộng từ 6.747 ha năm 2000 lên 8.626 ha năm 2005 tăng 27,85% chủ yếu từ việc chuyển đổi diện tích cấy lúa 2 vụ bấp bênh sang ao nuôi cá. Tiểu ngành nông lâm nghiệp Tiểu ngành nông nghiệp có tốc độ tăng trưởng chậm và chưa ổn định với phần lớn giá trị sản xuất của tiểu ngành này là khai thác từ tự nhiên. Thực hiện chương trình 327 và chương trình 5 triệu ha rừng, đến hết năm 2000, Hải Dương đã cơ bản phủ xong đất trống đồi núi trọc. Với trên 7400 ha rừng tập trung và 4.200 ha vườn đồi cây ăn quả. Từ những năm 2001 đến nay tập trung vào chương trình trồng mới, nâng cấp rừng phòng hộ, vườn thực vật và chăm sóc, bảo vệ rừng hiện có 1.577 ha rừng đặc dụng thuộc 2 khu di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh là Côn Sơn Kiếp Bạc (Chí Linh ) và An Phụ (Kinh Môn). Đã trồng được 1.586 ha rừng phòng hộ và vườn thực vật Côn Sơn, An Phụ, bảo vệ trên 8.000 ha rừng các loại, xây dựng và tăng cường cơ sở hạ tầng phục vụ công tác quản lý bảo vệ rừng. Trong giai đoạn từ năm 2004 - 2005, sản xuất nông nghiệp gặp nhiều khó khăn: đó là tình hình dịch bệnh diễn ra liên miên: dịch cúm gia cầm, bệnh nở mồm long móng ở gia súc, bệnh tai xanh diễn ra biến phức tạp và tình hình thời tiết trong mấy năm gần đây cũng rất thất thường đầu các vự đông xuân mưa nhiều, rét đậm ảnh hưởng đến sinh trưởng, phát triển cây trồng, vụ hè thu nắng hạn gay gắt . Điều này ảnh hưởng rất nhiều tới hiệu quả sản xuất nông nghiệp. Và thị trường tiêu thụ sản phẩm nông sản hiện nay cũng bấp bênh, không gặp nhiều thuận lợi. Tuy vậy giá trị sản xuất nông nghiệp trên địa bàn tỉnh vẫn duy trì đóng góp vào tổng giá trị sản xuất của tỉnh. Bảng 1.15: Tốc độ tăng giá trị sản xuất ngành nông nghiệp tỉnh Hải Dương giai đoạn (2004 – 2008) STT Chỉ tiêu Đv 2004 2005 2006 2007 2008 1 Toàn ngành tỷ đ 5359,25 5988,41 6717,71 7362,43 7673,41 2 Tốc độ tăng liên hoàn % - 6,69 17,49 9,6 4,22 3 Nông nghiệp thuần tỷ đ 5063,4 5494,1 6097 6608,4 6841,76 4 Tỷ trọng % 94,48 92,14 90,76 89,78 89,16 5 Tốc độ tăng liên hoàn % - 4,05 15,72 8,42 3,5 6 Thủy sản tỷ đ 274,742 472,648 598,322 719,357 802,083 7 Tỷ trọng % 5,13 7,48 8,91 9,78 10,46 8 Tốc độ tăng liên hoàn % - 55,65 26,59 20,23 11,5 9 Lâm nghiệp tỷ đ 21,108 21,661 22,395 32,675 29,569 10 Tỷ trọng % 0,39 0,38 0,33 0,44 0,38 11 Tốc độ tăng liên hoàn % - 2,75 3,26 45,9 -9,5 Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Hải Dương Qua bảng trên ta thấy giá trị sản xuất nông nghiệp có sự gia tăng về quy mô qua các năm với tốc độ tăng liên hoàn trung bình là 9,5 % cao hơn mức bình quân của cả nước là 6%. Chứng tỏ Hải Dương đã phát huy được thế mạnh của mình trong sản xuất nông nghiệp và ngành nông nghiệp vẫn đóng một vai trò quan trọng trong sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Không chỉ có sự gia tăng về quy mô giá trị sản xuất toàn ngành mà trong tất giá trị sản xuất tất cả các ngành nông nghiệp thuần trung bình tăng 8,4%/năm; thủy sản 28,5%/ năm và lâm nghiệp10,6%. Ngành thủy sản vẫn có tốc độ tăng cao nhất là 28,5% vì đầu tư vào nuôi trồng thủy sản ít gặp rủi ro hơn: dịch bệnh trên tôm, cá ít hơn là gia súc, gia cầm mặt khác giá trị thương phẩm của những mặt hàng thủy sản cũng cao hơn. Diện tích mặt nước, ao đầm ở Hải Dương nhiều và ít bị ô nhiễm nên việc nuôi trồng cũng gặp thuận lợi hơn. Để xem xét đầy đủ về hiệu quả đầu tư trong nông nghiệp tỉnh Hải Dương ta hãy nghiên cứu bảng sau: Bảng 1.16: Tỷ lệ giữa giá trị sản xuất và vốn đầu tư phát triển nông nghiệp tỉnh Hải Dương giai đoạn 2004 – 2008 STT Chỉ tiêu Đv 2004 2005 2006 2007 2008 1 Toàn ngành tỷ đ 5,9 6,23 5,2 4,14 3,12 2 Nông nghiệp thuần tỷ đ 7,29 7,75 6,7 5,23 4 3 Thủy sản tỷ đ 0,28 0,27 0,21 0,23 0,15 4 Lâm nghiệp tỷ đ 1,98 2,86 2,18 1,96 1,46 Nguồn: Xử lý số liệu Như vậy có thể thấy giá trị sản xuất/ vốn đầu tư toàn ngành nông nghiệp ở mức trung bình là: 5 lần. Trong đó thì ngành nông nghiệp thuần có tỷ số này là cao nhất tiếp theo là ngành thủy sản và lâm nghiệp và cả ba ngành này thì giá trị sản xuất/ trên vốn đầu tư đều có xu hướng giảm đặc biệt là ngành nông nghiệp thuần. Vì vậy có thể thấy rằng hiệu quả đầu tư trong ngành nông nghiệp đang giảm đi. Do nguyên nhân là năng suất cận biên của vốn giảm dần. Các giá trị tự nhiên của đất đai, rừng và nước đang giảm dần đòi hỏi con người phải đầu tư nhiều hơn. Ngành nông nghiệp phải đầu tư nhiều vào cơ sở hạ tầng và nguồn vốn này phải đòi hỏi một thời gian rất dài mới phát huy được tác dụng và tỷ suất sinh lời của nó cũng rất thấp. Đặc biệt là trong ngành thủy sản mặc dù đây là ngành có nhiều triển vọng trong sản xuất nông nghiệp nhưng cũng là ngành đòi hỏi phải có một lượng vốn lớn để đầu tư vào đào ao nuôi, xây dựng hệ thống thoát nước, giữ vệ sinh ao nuôi. Và phải mất nhiều năm sau đó thì các giá trị của cơ sở hạ tầng nuôi trồng mới phát huy được hiệu quả. Ngành nông nghiệp thuần có tỷ lệ giá trị sản xuất/ vốn đầu tư cao nhất do vậy cần chú trọng đầu tư vào ngành nông nghiệp thuần nhiều hơn nữa nhưng cũng đồng thời phải chú trọng đầu tư vào ngành thủy sản vì trong tương lai ngành này sẽ có triển vọng nhất. Riêng ngành lâm nghiệp giá trị sản xuất/ tổng vốn đầu tư thấp là bởi vì ngành này nhận được nhiều nguồn vốn hỗ trợ từ ngân sách cho phát triển rừng với mục đích là bảo vệ môi trường, chống xói mòn. Mặt khác do đặc điểm về chu kỳ thu hoạch của cây rừng nên phải mất một thời gian rất dài mới thấy được hiệu quả của việc trồng rừng. Rừng đóng một vai trò quan trọng trong việc cân bằng sinh thái và điều hoà khí hậu, những tác động tích cực của rừng đối với môi trường là rất lớn nhưng lại không được đánh giá bằng tiền. Chính vì thế việc trồng rừng cần phải có sự quan tâm đặc biệt và tăng cường hỗ trợ vốn từ phía ngân sách nhà nước thì mới đảm bảo việc phát triển bền vững của tỉnh. 1.4.1.2. Cơ sở hạ tầng được đầu tư một cách hoàn chỉnh và từng bước phát huy tác dụng. Trong 5 năm (2004 -2008), tỉnh Hải Dương đã tiến hành đầu tư mạnh mẽ vào cơ sở hạ tầng nông nghiệp phục vụ cho phát triển sản xuất: Đê điều được tu bổ, nâng cấp với số vốn 148,8 tỷ đồng, ngày một vững chắc đảm bảo việc phòng chống lụt bão, bảo vệ mùa màng và nuôi trồng thủy sản. Hệ thống mương, máng cũng được kiên cố hóa phục vụ cho việc tưới tiêu. Đồng thời đã tiến hành nạo vét, khơi sâu dòng chảy sông trục chính thuộc hệ thống Bắc Hưng Hải, hệ thống kênh tiêu Đồng Gia, hệ thống kênh mương nội đồng với khối lượng nạo vét là 310.000 m3; củng cố, nâng cấp các tuyến đê với khối lượng thực hiện 550.000 m3. Hệ thống trạm bơm: đã đầu tư cải tạo, nâng cấp và xây dựng 15 trạm bơm tăng thêm năng lực tưới tiêu chủ động cho khoảng 10.150 ha. Hoàn thành tự động hóa cống sông Hương, hệ thống điều tiết nước trạm bơm Ô Xuyên, trạm bơm Khuông Phụ. Kiên cố hóa kênh mương: Đã kiên cố hóa 834,598 km kênh mương các loại trong đó kênh chính, kênh cấp I là 201,925 km, kênh cấp 2 là 16,479 km, kênh cấp 3 là 625,194 km. Tỉnh cũng đã chuyển đổi được 3.200 ha đất trũng sang nuôi trồng thủy sản tập trung theo vùng đem lại hiệu quả kinh tế cao hơn là trồng lúa. Các cơ sở sản xuất giống cây con được ngân sách Nhà nước đầu tư 21,2 tỷ đồng để cải tạo nâng cấp kênh tuới nhà kho, sân phơi, nhà làm việc, cơ sở chế biến, bảo quản, chuồng trại và đàn giống gốc của Trung tâm giống gia súc, trung tâm khảo nghiệm giống cây trồng, các xí nghiệp thuộc giống cây trồng tỉnh. 1.4.1.3. Đầu tư vào nông nghiệp góp phần giải quyết việc làm và nâng cao đời sống cho người nông dân Hải Dương là một trong những tỉnh thuần nông và có truyền thống sản xuất nông nghiệp từ lâu đời, lực lượng lao động tham gia sản xuất nông nghiệp. Dù hiện nay cơ cấu lao động trong các ngành nghề đã có nhiều thay đổi nhưng số lao động trong ngành nông nghiệp của tỉnh vẫn chiếm một tỷ trọng cao. Bảng 1.17: Lao động trong ngành nông nghiệp của tỉnh Hải Dương giai đoạn (2004 -2008) STT Chỉ tiêu Đv 2004 2005 2006 2007 2008 1 Tổng số lao động Người 949165 956202 962357 974883 981235 2 Ngành nông nghiệp Người 701130 674505 649544 625648 583200 3 Tỷ trọng % 73,86 75,54 67,49 64,15 59,43 Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Hải Dương Qua bảng trên ta thấy: tỷ trọng lao động làm trong ngành nông nghiệp Hải Dương đang có xu hướng giảm mạnh mẽ do tác động của việc di chuyển lao động từ ngành nông nghiệp sang ngành công nghiệp và dịch vụ đáp ứng nhu cầu về lao động của 2 lĩnh vực này trong quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa đang diễn ra rất mạnh mẽ ở tỉnh hiện nay. Tuy vậy tỷ trọng những người làm trong ngành nông nghiệp vẫn còn rất cao: cho tới năm 2008 là gần 60%. Như vậy là m._.đến năm 2015 các xã hoàn chỉnh quy hoạch chi tiết khu chăn nuôi tập trung, mỗi thôn có từ 1 – 2 khu, diện tích từ 3 ha trở lên. Đến năm 2010 có 5 % số thôn (70 thôn) triển khai thực hiện, đến năm 2015 có thêm 500 thôn và đến năm 2020 cơ bản các thôn đều triển khai mô hình chăn nuôi tập trung. Do điều kiện nguồn vốn của nông dân có hạn, đề nghị ngân sách hỗ trợ tiền đền bù đất đai và xây dựng kết cấu hạ tầng; các hộ nông dân xây dựng chuồng trại, mua sắm máy móc, phương tiện và con giống thức ăn để tổ chức sản xuất. - Các hộ nông dân có điều kiện để sản xuất sản phẩm hàng hóa thuê đất của các hộ khác theo giá thuê đất sản xuất công nghiệp để sản xuất nông nghiệp (theo quy hoạch được duyệt). Hình thức này người có ruộng sẵn sàng cho thuê nhưng người đi thuê thì đầu tư quá lớn, các hộ nông dân không đủ vốn, thiếu vốn ( tiền thuê đất 360 triệu/ 1ha). Vì vậy nhà nước cần hỗ trợ từ 20 – 30% tiền thuê đất và tiền xây dựng kết cấu hạ tầng khu sản xuất. - Các hộ nông dân có điều kiện để sản xuất sản phẩm hàng hóa thuê lại mầu (trả địa tô chênh lệch 2) cho các hộ khác, thời gian thuê có thời hạn từ 5 – 10 năm để tổ chức sản xuất các loại cây trồng hàng năm, sản xuất các giống cây. Hình thức này vốn thuê đất không lớn (khoảng 15 triệu/ha/năm). Các chủ hộ đỡ khó khăn về nguồn vốn. Tuy nhiên, các chủ hộ vẫn có tư tưởng đất thuê, mướn có thời hạn nên việc đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng phục vục cho sản xuất không lớn, không bền vững. Hình thức thuê đất này phù hợp với các hộ có kinh nghiệm sản xuất rau màu hàng hóa, đăng ký bán sản phẩm sạch (rau an toàn) để tiêu thụ trong và ngoài nước. - Các hộ nông dân có điều kiện để sản xuất sản phẩm hàng hóa chuyển đổi ruộng đất cho nhau: hình thức này đơn giản nhưng trong thực tế lại không khả thi vì ruộng canh tác của mỗi hộ phổ biến trên dưới 1 mẫu bắc bộ chia làm 2 – 3 thửa, nay có đổi để dồn lại 1 thửa thì diện tích cũng quá nhỏ, khó đầu tư thành khu, vùng sản xuất hàng hóa được. Hình thức này nên kết hợp với thuê lại đất cũng không còn nhiều lại để rải rác ở nhiều xứ đồng và đều bị giới hạn thời hạn đến năm 2013. Từ những phân tích trên đưa ra giải pháp tích tụ ruộng đất là cần thiết, tất yếu sẽ phải diễn ra nên tập trung theo hình thức thứ nhất và thứ 2, thứ 3. Muốn tích tụ ruộng nhanh hơn, rõ hơn thì cần tuyên truyền để người thuê đất yên tâm với chính sách cho thuê đất lâu dài, ổn định của nhà nước; người cho thuê đất cũng dần dần thay đổi nhận thức nếu có ruộng thì làm ăn kém hiệu quả thì cho chủ thuê đất mà được trả công hợp lý, thỏa đáng. 1.4.2. Bố trí nguồn lao động hợp lý cho phát triển nông nghiệp Trong giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hóa, nguồn lao động trong nông nghiệp có số lượng lớn và chiếm tỷ trọng cao trong tổng nguồn lao động. Song cùng với quá trình công nghiệp hóa, nguồn lao động có xu hướng cả về tương đối và tuyệt đối. Nguồn nhân lực trong nông nghiệp có đặc điểm riêng so với các ngành vật chất khác, trước hết là mang tính thời vụ cao, nó làm phức tạp quá trình sử dụng yếu tố nguồn nhân lực trong ngành nông nghiệp và nó có xu hướng thu hẹp không ngừng về số lượng và được chuyển sang ngành khác trước hết là công nghiệp với đội ngũ lao động có trình độ trẻ khỏe. Vì thế số người ở lại trong khu vực nông nghiệp thường là những người có độ tuổi trung bình cao và tỷ lệ này có xu hướng tăng lên. Với sự phát triển mạnh mẽ của các ngành công nghiệp và dịch vụ trên địa bàn tỉnh Hải Dương nói riêng và toàn quôc nói chung thì sự di chuyển nguồn lao động từ nông nghiệp sang các ngành này là một lẽ tất yếu. Tuy vậy tỉnh Hải Dương cũng cần phải có những kế hoạch cụ thể để bố trí nguồn lao động một cách hợp lý và có những cơ chế, chính sách phù hợp để khuyến khích người dân tích cực tham gia sản xuất nông nghiệp tránh sự di chuyển ồ ạt lao động từ nông thôn lên thành thị và ra các vùng khác. Vì con người là chìa khóa của sự phát triển. Nếu tình trạng lao động nông nghiệp Hải Dương cứ mãi như hiện nay (có tới 60% lao động sản xuất nông nghiệp trong tổng số lao động của địa bàn nhưng chủ yếu là những người trên 40 tuổi và phụ nữ) thì ngành nông nghiệp sẽ không nhanh chóng phát triển được và ngày càng tụt hậu hơn so với ngành công nghiệp và dịch vụ vì vịêc ứng dụng khoa học công nghệ và tiếp thu những kiến thức mới sẽ gặp rất nhiều khó khăn. Phương hướng bố trí lao động cho phát triển nông nghiệp của tỉnh Hải Dương trong thời gian tới: - Đẩy mạnh việc mở rộng quy mô sản xuất, thâm canh tăng vụ để thu hút thêm nhiều việc làm, tăng sản phẩm hàng hóa và tăng thu nhập cho lao động nông nghiệp, nâng cao thời gian sử dụng lao động ở nông thôn lên 85% năm 2010 và 92% năm 2020. - Đưa máy móc thiết bị vào các khâu của quá trình sản xuất nông nghiệp để nâng cao năng suất lao động. Lao động trong ngành nông nghiệp phấn đấu giảm từ 70,57% năm 2005 xuống còn 53% năm 2010, năm 2015 giảm còn 46% và đến năm 2020 còn 35% trong tổng lao động xã hội. - Sử dụng hiệu quả các nguồn vốn để đẩy mạnh tốc độ giảm nghèo. Tập trung nâng cao hiệu quả hoạt động của các trung tâm xúc tiến hỗ trợ việc làm cho người lao động. Củng cố mới hoạt động của hệ thống đào tạo nghề, giải quyết tốt mối quan hệ giữa người đào tạo lao động và người sử dụng lao động. Chú trọng đào tạo nghề cho nông dân ở những nơi bị thu hồi đất. Mặc dù tỷ lệ lao động trong lĩnh vực nông nghiệp chiếm tỷ lệ cao nhưng trong khu vực nông nghiệp tình trạng thiếu việc làm vẫn xảy ra. Do vậy cần phải tạo ra việc làm và tăng thu nhập cho khu vực nông thôn. Thực hiện chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa, đa dạng hóa cây trồng, hướng vào những cây trồng, vật nuôi có giá trị hàng hóa và hàng hóa xuất khẩu để tạo việc làm và tăng thu nhập cho nông dân. Để giảm khoảng cách thu nhập giữa nông thôn và thành thị cần phải tạo việc làm phi nông nghiệp ở nông thôn. Giảm tỷ trọng hộ thuần nông, tăng hộ nông nghiệp kiêm ngành nghề dịch vụ. Mặt khác tăng cường tiết kiệm trong dân cư nông thôn đẩy mạnh đầu tư phát triển công nghiệp nông thôn thông qua việc phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở các thị trấn, các tụ điểm dân cư để thu hút lực lượng lao động trẻ ở nông thôn vừa tạo ra những sản phẩm tiêu dùng phục vụ dân cư nông thôn bằng những chính sách cởi mở khuyến khích dân cư đầu tư phát triển mạnh công nghiệp nông thôn. 1.4.3. Tăng cường các nguồn vốn đầu tư cho phát triển nông nghiệp Để phát triển nông nghiệp Hải Dương theo hướng bền vững và không bị lạc hậu so với ngành công nghiệp và dịch vụ thì phải đáp ứng được các nhu cầu vốn đầu tư cho các ngành này. Trong điều kiện các nguồn lực bị chia sẻ như hiện nay thì cần phải có những cơ chế, chính sách phù hợp để thu hút và tăng cường mọi nguồn vốn đầu tư cả trong và ngoài nước. Đối với nguồn vốn trong nước thì nguồn vốn tín dụng chiếm một tỷ trọng khá cao. Nhưng trong thực tế nguồn vốn này tại các ngân hàng thường rất dồi dào nhưng nông dân và doanh nghiệp muốn tiếp cận được nguồn vốn này cũng gặp không ít khó khăn và thủ tục phiền hà. Thường nguồn vốn này chỉ cho vay theo các dự án cho nên nông dân vay được rất ít, các ngân hàng thương mại đặc biệt là ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn cần cải tiến phương thức cho vay thuận tiện, tăng mức cho vay và thời hạn cho vay dài hạn; phổ biến rộng rãi thủ tục, cách thức vay và thanh toán cho mọi người dân, đồng thời tạo điều kiện để các tổ chức đoàn thể ở thôn, xã đóng vai trò là người tư vấn, hỗ trợ cho việc vay vốn của nông dân nhằm huy động tốt hơn nguồn vốn cho sản xuất nông nghiệp. Nguồn vốn hỗ trợ từ ngân sách nhà nước tạo động lực thu hút các nguồn vốn của nhân dân, tăng thêm niềm tin cho nông dân khi thực hiện các chủ trương, chính sách của Nhà nước. Hiện nay lượng vốn đầu tư còn thấp, ở mức 1,3 – 1,5 % ngân sách; cần tăng lên 2,5 -3% (không kể vốn đầu tư cho đê điều, xử lý thiên tai, dịch bệnh). Tiếp tục thực hiện các chính sách hỗ trợ (bằng ngân sách) để khuyến khích nông dân đóng góp hoặc doanh nghiệp, hộ tư nhân đầu tư phát triển sản xuất nông nghiệp trong việc xây dựng hệ thống tưới tiêu… Cần tạo cơ chế, chính sách phù hợp để hỗ trợ nông dân và doanh nghiệp đầu tư vào sản xuất nông nghiệp. Đó là những ưu tiên về thuế, đất đai, hỗ trợ sản xuất...nhằm giảm bớt những rủi ro vào lĩnh vực này. Nguồn vốn đầu tư từ khu vực dân cư và dân doanh đóng vai trò quan trong và có triển vọng nhất vì nguồn vốn này sẽ đem lại hiệu quả đầu tư cao nhất do mục tiêu của người đầu tư là tìm kiếm lợi nhuận. Muốn ngành nông nghiệp phát triển cần phải có những giải pháp kịp thời để tăng cường thu hút nguồn vốn này.Nguồn vốn FDI trong lĩnh vực nông nghiệp hiện nay ở Hải Dương chiếm tỷ trọng nhỏ bé so với tổng nguồn vốn FDI và nguồn vốn đầu tư xã hội. Nguồn vốn này mới chỉ dừng lại ở một số dự án lẻ tẻ và chủ yếu là một số nước trong khu vực châu Á, chưa thu hút được các nhà đầu tư lớn như Trung Quốc, Nhật Bản và chủ yếu tập trung vào lĩnh vực chế biến nông sản. Các dự án này có tốc độ giải ngân chậm chạp và hiệu quả đầu tư cũng không cao. Để nền sản xuất nông nghiệp phát triển và không bị lạc hậu so với các nền nông nghiệp trong khu vực và thế giới thì thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực này để tiếp thu trực tiếp kinh nghiệm quản lý và sản xuất, ứng dụng khoa học công nghệ tiên tiến, hiện đại được xem như là giải pháp tối ưu nhất. Nhưng với tình hình hiện nay thì nông nghiệp Hải Dương vẫn chưa hấp dẫn được các nhà đầu tư nước ngoài so với lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ. Một phần là do tỷ suất lợi nhuận đầu tư vào nông nghiệp không cao, rủi ro nhiều và chu kỳ sản xuất kéo dài, vốn lớn nên không hấp dẫn các nhà đầu tư. Mặt khác, việc quy hoạch đất nông nghiệp để xây dựng vùng nguyên liệu còn diễn ra chậm chạp, các thủ tục đầu tư rườm rà cũng là những trở ngại lớn đối với các nhà đầu tư nước ngoài khiến họ không mặn mà với lĩnh vực này. Để thu hút được nguồn vốn này các cấp, ban, ngành có liên quan phải có cơ chế hỗ trợ kịp thời và có những ưu đãi đặc biệt. Như sự cần thiết phải có những chính sách thúc đẩy các dự án tăng cường triển khai thực hiện vốn và thu hút những dự án lớn vào những ngành nghề kém hấp dẫn. Bên cạnh đó, cần cải tiến các thủ tục hành chính cho phù hợp với xu thế phát triển và điều kiện của các doanh nghiệp. Hệ thống cơ sở hạ tầng ở khu vực nông nghiệp nông thôn cũng là trở ngại lớn cho việc thu nguồn vốn đầu tư của các doanh nghiệp trong và ngoài nước. Chính bởi vậy, để khu vực nông nghiệp có sức hút lớn hơn với các nhà đầu tư cần phải cải thiện hệ thống cơ sở hạ tầng đường giao thông, điện nước, viễn thông và tạo ra một cơ chế cấp phép đầu tư thuận lợi. 1.4.4. Chú trọng vào vấn đề tiêu thụ và chế biến các sản phẩm nông nghiệp Phát triển công nghiệp chế biến và tiêu thụ là cách thức nâng cao giá trị gia tăng của nông sản và thu hẹp tình trạng xuất khẩu sản phẩm thô. Việc phát triển công nghiệp chế biến còn tạo nên thị trường to lớn và ổn định cho sản xuất nông nghiệp. Hiện nay, công nghiệp chế biến nông sản của Hải Dương còn nhỏ bé, công nghệ lạc hậu, tỷ trọng nông sản chế biến trong tổng sản lượng sản xuất còn rất thấp. Để phát triển mạnh công nghiệp chế biến, cần giải quyết nhiều vấn đề, trong đó chủ yếu là: - Rà soát lại quy hoạch sản xuất nông nghiệp cho phù hợp với yêu cầu của thị trường trong nước và thế giới ; phát huy, khai thác được lợi thế tự nhiên, kinh tế của từng vùng, sinh thái nâng cao khả năng của những loại nông sản, ngành sản xuất mà tỉnh có thế mạnh. Hình thành vùng sản xuất tập trung, thâm canh gắn với công nghiệp chế biến. Khắc phục tình trạng xây dựng cơ sở chế biến nhưng thiếu nguyên liệu sản xuất hoặc phát triển vùng nguyên liệu sản xuất nhưng chưa có nhà máy chế biến. Ví dụ: Quy hoạch xây dựng các vùng nguyên liệu tập trung, quy mô lớn theo định hướng xuất khẩu ( trông vải ở Thanh Hà, Chí Linh; vùng trồng dưa hấu ở Kim Thành; vùng rau ở Gia Lộc, vùng nuôi cá, ba ba ở Tứ Kỳ…). Từ đó, tập trung đầu tư thâm canh và ứng dụng các thành tựu khoa học và công nghệ mới để đáp ứng tốt yêu cầu chế biến xuất khẩu. Khuyến khích việc thành lập hợp tác xã, hiệp hội chăn nuôi, thủy sản. Chủ động thực hiện việc liên kết 4 nhà: nhà nông, nhà khoa học, nhà doanh nghiệp và nhà nước theo phương thức khép kín từ sản xuất - chế biến – tiêu thụ sản phẩm cho nông dân. - Tăng cường đầu tư phát triển công nghiệp chế biến nông sản gần với vùng nguyên liệu. Quy hoạch điểm giết mổ gia cầm gắn với tiêu thụ sản phẩm. Có những chính sách ưu đãi kích thích sự tham gia của tất cả các thành phần kinh tế đầu tư phát triển công nghiệp chế biến xuất khẩu. Thực hiện song song 2 hướng: đầu tư đổi mới hiện đại hoá thiết bị công nghệ của các doanh nghiệp chế biến nông sản hiện có; đầu tư xây dựng các doanh nghiệp chế biến mới với trình độ công nghệ hiện đại. 1.4.5. Tăng cường đầu tư vào khoa học công nghệ phục vụ sản xuất nông nghiệp Nâng cao trình độ khoa học và công nghệ là điều kiện cơ bản nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá trên thị trường. Đê ngành nông nghiệp có sự phát triển mạnh mẽ và vượt bậc thì khoa học công nghệ đóng vai trò quyết định. Nhiều loại giống cây trồng vật nuôi có năng suất cao, chất lượng tốt, phù hợp với điều kiện tự nhiên đã thay thế cho những loại giống cũ. Khoa học và công nghệ bước đầu phát huy vai trò tích cực trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn, nâng cao sức cạnh tranh của nông sản hàng hoá. Tuy nhiên, đứng trước yêu cầu chuyển đổi nhanh, có hiệu quả và bền vững sản xuất nông nghiệp theo định hướng thị trường và nâng cao sức cạnh tranh của nông sản, hoạt động nghiên cứu và ứng dụng khoa học và công nghệ trên địa bản tỉnh Hải Dương vẫn còn nhiều bất cập. Đến nay, rất nhiều huyện, kể cả những nơi sản xuất hàng hoá tập trung, vẫn tồn tại kỹ thuật canh tác kiểu cổ truyền, sử dụng giống cây con năng suất, chất lượng thấp, không thích ứng với nhu cầu thị trường trong và ngoài nước dẫn tới năng suất và chất lượng cây trồng, vật nuôi thấp sản phẩm làm ra đem lại giá trị không cao. Ngoài ra, tình trạng lạm dụng những chế phẩm hoá học trong trồng trọt và chăn nuôi đã gây ảnh hưởng xấu tới cả người sản xuất, người tiêu dùng và môi trường sinh thái.   Để khoa học và công nghệ góp phần tích cực vào phát triển nền nông nghiệp hàng hoá, trong những năm trước mắt cần chú trọng tập trung nghiên cứu và ứng dụng khoa học và công nghệ cao việc chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông nghiệp, khai thác các lợi thế của từng vùng sinh thái vừa đảm bảo phát triển bền vững, vừa nâng cao năng suất, chất lượng, giảm giá thành, nâng cao sức cạnh tranh của nông sản, tăng giá trị kinh tế trên một đơn vị diện tích. Với từng vùng, từng loại cây trồng, vật nuôi, cần chú ý đổi mới công nghệ đồng bộ ở các khâu trước, trong và sau sản xuất theo hướng hiện đại. Đẩy mạnh việc phát triển công nghệ sinh học trong nông nghiệp bằng việc thay thế các giống cây trồng và vật nuôi có năng suất và chất lượng thấp, không phù hợp với yêu cầu thị trường bằng các loại giống cây mới có năng suất, chất lượng cao, bảo đảm được những tiêu chuẩn vệ sinh thực phẩm nghiêm ngặt nhất theo yêu cầu thị trường trong và quốc tế.     Cùng với việc ứng dụng kỹ thuật canh tác và những giống cây trồng, vật nuôi mới để tạo nông sản hàng hoá có chất lượng cao, giá thành hạ và phù hợp với thị hiếu tiêu dùng, cần hết sức coi trọng nghiên cứu và ứng dụng khoa học và công nghệ vào khâu sau thu hoạch. Đây là khâu có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc giảm tổn thất, nâng cao hiệu quả sản xuất và bảo đảm đáp ứng tốt yêu cầu của người tiêu dùng. Ngoài việc hiện đại hoá kỹ thuật phơi sấy, cần chú trọng nghiên cứu các phương pháp bảo quản rau, hoa, quả, thịt và các loại nông sản thực phẩm khác. Bảo đảm đưa đến người tiêu dùng những nông sản tươi sống hấp dẫn cảm quan bằng màu sắc, hương vị và bảo đảm tuyệt đối vệ sinh an toàn thực phẩm. Hiện nay công tác thu hoạch và bảo quản những loại trái cây đặc sản như vải, nhãn trên địa bàn tỉnh rất kém dẫn đến giá trị của những loại hoa quả này bị giảm đi đáng kể do vải chín đồng loạt trong một thời gian ngắn dẫn tới giá rẻ mà nông dân lại không có điều kiện để bảo quản. Gây thiệt về giá rất nhiều cho người nông dân trồng vải. Làm tốt được công tác bảo quản thì giá trị của cây vải và nhiều loại cây trồng khác trên địa bàn tỉnh sẽ được nâng lên rất nhiều. Để thực hiện tốt việc ứng dụng khoa học công nghệ trong nông nghiệp cần phải tích cực xây dựng và đẩy mạnh các chương trình trong các lĩnh vực nông, lâm, thủy sản và các chương trình có liên quan đến sản xuất nông nghiệp như chương trình : kiên cố hóa kênh mương, nạc hóa đàn lợn, cơ giới hóa, dồn ô đổi thửa... Bên cạnh đó cũng phải chú trọng tới việc xây dựng tiềm lực khoa học công nghệ của ngành nông nghiệp bao gồm các nội dụng sau: Đội ngũ cán bộ khoa học công nghệ, hệ thống trung tâm giống cây trồng, bồi dưỡng kiến thức sản xuất nông nghiệp cho người nông dân. Về đội ngũ cán bộ khoa học công nghệ cần có những chính sách khuyến khích cả về vật chất và tinh thần để họ gắn bó để họ phát huy được năng lực sáng tạo có những đóng góp xứng đáng, đồng thời có những chính sách ưu đãi đặc biệt được nhân tài về phục vụ quê hương đặc biệt là đội ngũ cán bộ trẻ. Gấp rút đào tạo những công nhân lành nghề, các kỹ thuật viên cho các cơ sở nông lâm ngư nghiệp. Đối với các trung tâm giống cây trồng trên địa bàn tỉnh cần phải được cải tạo, nâng cấp và đầu tư xây dựng mới. Vì giống trong sản xuất nông nghiệp là nhân tố mang tính chất quyết định tới năng suất và chất lượng nông sản. Không những thế với nguồn giống đảm bảo còn tránh được tình trạng lây lan những dịch bệnh nguy hiểm trên đàn gia súc, gia cầm xảy ra liên miên trên địa bàn tỉnh trong thời gian gần đây như: dịch cúm gia cầm H5N1, dịch tai xanh ở lợn, dịch lở mồm ở trâu bò...Với tốc độ phát triển của các trang trại chăn nuôi và trồng trọt như hiện nay ở Hải Dương thì nhu cầu về cây con giống lại càng lớn, do vậy để đáp ứng được nhu cầu này Hải Dương cần phải chú trọng đầu tư xây dựng và nâng cấp các trung tâm cây con giống đảm bảo thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp. Việc phát triển các giống cây trồng vật nuôi có năng suất cao, chất lượng tốt, góp phần hạ giá thành và tăng khả năng cạnh tranh của hàng hóa. Vấn đề bồi dưỡng kiến thức cho lao động nông nghiệp có ý nghĩa quyết định đối với việc áp dụng tiến bộ công nghệ vào sản xuất. Việc bồi dưỡng cần chú ý cả hai hướng: - Bồi dưỡng kiến thức cho người lao động hiện tại thông qua các hình thức thích hợp như trình diễn kỹ thuật, mô hình, tham quan... - Bồi dưỡng kiến thức cho nguồn lao động tương lai thông qua các chương trình dạy nghề nông trong trường học và lồng ghép với việc học ngoại khóa của các em học sinh. 1.4.6. Xây dựng và thực hiện các hệ thống chính sách phát triển nông nghiệp Sản xuất nông nghiệp là một ngành mà có mức độ rủi ro cao nhưng đây là một ngành sản xuất quan trọng cung cấp nguyên liệu đầu vào cho nhiều lĩnh vực sản xuất công nghiệp và đảm bảo về mặt an ninh lương thực quốc gia cũng như đời sống của nhiều nông dân. Hiện nay, trên địa bàn Hải Dương vẫn còn rất nhiều hộ gia đình sống nhờ chủ yếu vào sản xuất nông nghiệp. Vì vậy, cần phải xây dựng các chính sách bảo trợ cho nông dân: như bảo trợ do thiên tai, bảo trợ khi bị rủi ro về giá do biến động thị trường hoặc do các đại dịch gây ra vì nông dân thường không có nhiều vốn và do đó khó có khả năng chống chọi với những biến động lớn. Cần tập trung vào việc xây dựng kết cấu hạ tầng nông nghiệp, dịch vụ, khuyến nông và các chính sách hỗ trợ đào tạo nghiên cứu khoa học, dịch vụ kiểm tra giám sát dịch bệnh và sâu bệnh... Hiện nay, trong sản xuất nông nghiệp trên địa bàn tỉnh Hải Dương thì phát triển thủy sản (chủ yếu là nuôi trồng cá nước ngọt) được coi là ngành sản xuất có nhiều tiềm năng nhất. Vì Hải Dương có nhiều hệ thống ao hồ, sông ngòi được thoát nước tốt rất thuận lợi cho phát triển ngành này. Mặt khác, nuôi trồng thủy sản ít gặp các loại dịch bệnh nguy hiểm do vậy mức độ rủi ro của ngành này là ít hơn nhiều so với ngành chăn nuôi. Bên cạnh đó các sản phẩm của nó cũng dễ tiêu thụ và có giá trị kinh tế cao hơn. Do đó trong thời gian tới Hải Dương cần đặc biệt chú tròng tới các chính sách hỗ trợ sản xuất và nuôi trồng thủy sản. Muốn vậy trước hết phải hoàn thiện chính sách cấp và cho thuê đất, mặt nước lâu dài cho nuôi trồng thủy sản. Hoàn thiện chính sách vay vốn, tín dụng đầu tư phát triển thủy sản phù hợp với chu trình sản xuất. Tăng cường vay vốn trung và dài hạn phù hợp với chu trình sản xuất, đặc biệt là cho xây dựng cơ sở hạ tầng. Ưu tiên đầu tư cơ sở hạ tầng cho các khu nuôi trồng thủy sản hàng hóa tập trung, đặc biệt là hệ thống thủy lợi để bảo đảm sản xuất ổn định và sản xuất bền vững. Khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia đầu tư phát triển thủy sản: xây dựng cơ chế, chính sách rõ ràng cho việc khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư, đặc biệt là các nhà đầu tư từ khu vực thành thị và nước ngoài vào sản xuất giống và tổ chức nuôi trồng với quy mô lớn tập trung với công nghệ cao, tổ chức dịch vụ tiêu thụ sản phẩm, chế biến và xuất khẩu thủy sản. Thiết lập thể chế đầu tư công bằng, thuận lợi cho mọi thành phần kinh tế, kích thích đầu tư phát triển thủy sản. Trợ giá cho các tổ chức, cá nhân thuần hóa giống nhập nội có lợi cho phát triển thủy sản. Ngành chăn nuôi thường xuyên xảy ra dịch bệnh và gây thiệt hại rất lớn cho các hộ chăn nuôi cũng như các cơ sở chăn nuôi tập trung. Vì vậy tỉnh cần có những chính sách hộ trợ cho ngành này. Bên cạnh đó cũng cần tập trung vào công tác thu y và vệ sinh môi trường thông qua các biện pháp như: Thực hiện việc hỗ trợ tiêm phòng dịch bệnh nguy hiểm theo quy định của ngành thú y. Quản lý chặt chẽ việc kiểm dịch đổng vật, kiểm soát giết mổ gia súc, gia cầm và vệ sinh thú y. Trong đó cần tập trung vào các trang trại, cơ sở giết mổ tập trung, chợ buôn bán thịt gia súc, gia cầm. Quy hoạch và hỗ trợ đầu tư để hình thành cơ sở giết mổ gia súc, gia cầm tập trung nhằm quản lý dịch bệnh ngay từ gốc. Muốn làm tốt công tác phòng chống dịch bệnh trong chăn nuôi để tránh những tổn thất nặng nề do dịch bệnh gây ra. Thì cần phải củng cố hệ thống thú y từ tỉnh đến cơ sở, đáp ứng yêu cầu nâng cao hiệu quả phòng chống dịch bệnh. Xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật do UBND tỉnh ban hành làm cơ sở cho quản lý ở các cấp đồng thời tăng cường công tác chỉ đạo, giám sát của các cơ quan chuyên ngành thuộc lĩnh vực này như: quy định tiêu chuẩn với các cơ sở giết mổ, chế biến sản phẩm gia súc, quy định tiêu chuẩn với các cơ sở giết mổ, chế biến sản phẩm gia súc... Mặc dù rừng chiếm diện tích không nhiều khoảng 11% trong tổng diện tích nhưng vai trò của rừng rất quan trọng trong việc phát triển kinh tế bền vững do vậy cần phải bảo vệ tốt diện tích rừng, giữ vững diện tích rừng đặcdụng, rừng phòng hộ, không phát triển thêm diện tích rừng sản xuất. Cần thực hiện chính sách đất đai đối với việc trồng và bảo vệ rừng : Đối với rừng đặc dụng và rừng phòng hộ do ban quản lý rừng đang quản lý cần phải khoán cho cộng đồng, hộ gia đình, cá nhân theo quy chế quản lý rừng đặc dụng và rừng phòng hộ. Đối với rừng sản xuất tiến hành giao đất, giao rừng lâu dài cho các tổ chức, hỗ gia đình, cá nhân trên cơ sở hợp đồng kinh tế theo quy chế rừng sản xuất. Xác định rõ hiện trạng đất, hiện trạng rừng trước khi giao khoán và quy định trách nhiệm, nghĩa vụ và quyền lợi với người nhận khoán theo quy định của nhà nước đối với từng loại rừng. Khuyến khích tạo điều kiện tốt nhất để các doanh nghiệp, cá nhân thuộc các thành phần kinh tế liên kết với dân để phát triển rừng như: thuê rừng, thuê đất, góp vốn để trồng rừng kinh tế, rừng phục vụ phát triển danh lam thắng cảnh, phát triển du lịch. Đồng thời xây dựng một số dự án ưu tiên phát triển rừng phòng hộ, đặc dụng, rừng kinh tế để kêu gọi vốn đầu tư của các tổ chức, cá nhân, vốn ODA và các nguồn vốn khác. Có cơ chế chính sách thông thoáng, đủ sức thu hút mạnh mẽ các nguồn vốn (vốn của doanh nghiệp, của các hộ nông dân, vốn của các cộng đồng làng bản, tổ chức xã hội... để bảo vệ và phát triển rừng sản xuất). Tăng mức đầu tư bằng nguồn vốn ngân sách cho công tác bảo vệ, nâng cấp, cải tạo và trồng rừng phòng hộ, thực hiện đầu tư theo thiết kế. 1.4.7. Rà soát, điều chỉnh lại quy hoạch theo hướng tập trung cho các ngành có khả năng cạnh tranh cao Công tác quy hoạch nông, lâm, thủy sản thời gian qua trên địa bàn tỉnh bên cạnh những kết quả đạt được còn bộc lộ một số tồn tại như quy hoạch chưa được những vùng nguyên liệu, chăn nuôi sản xuất lớn phục vụ ngành công nghiệp chế biến cả về chất lượng, số lượng cũng như sự ổn định của vùng nguyên liệu. Đồng thời, thiếu sự kết hợp giữa quy hoạch với xây dựng và thực thi các cơ chế, chính sách, đầu tư, khoa học công nghệ, khuyến nông. Với yêu cầu của thời kỳ hội nhập hiện nay, các loại nông sản của nước ngoài tràn ngập khắp thị trường trong nước như hiện nay đặc biệt là các loại nông sản của Trung Quốc, để ngành nông nghiệp Hải Dương phát triển và cạnh tranh được cần có quy hoạch cho từng ngành nông nghiệp, xác định yếu tố mũi nhọn có khả năng cạnh tranh đồng thời cũng phải phù hợp với điều kiện sản xuất tự nhiên của tỉnh. Trong thời gian tới công tác quy hoạch của Hải Dương cần phải chú ý tới các tới một số vấn đề sau: - Quy hoạch về sản xuất lúa gạo cần tập trung theo hướng đầu tư, nâng cao năng suất chất lượng cao tại một số huyện có diện tích đất nông nghiệp màu mỡ như tại Ninh Giang, Thanh Miện, Bình Giang, Gia Lộc, Tứ Kỳ. Kiên quyết giữ những diện tích đất trồng lúa màu mỡ cho năng suất cao. Những vùng đất trũng trồng lúa gặp nhiều khó khăn thì có thể chuyển sang làm trang trại chăn nuôi và thả cá. Những diện tích đất xấu ít màu mỡ có thể chuyển đổi mục đích sử dụng thành đất chuyên dụng hoặc xây dựng nhà máy, cơ sở sản xuất kinh doanh. Đối với các cây ăn quả nên giữ nguyên diện tích những cây ăn quả đã có và không khuyến khích mở rộng đặc biệt là đối với cây vải, vì hiện nay quả vải rất khó tiêu thụ do sản lượng vải quả hàng năm đã bị bão hòa và rất khó xuất khẩu cũng như bảo quản. Nên tập trung vào các biện pháp canh tác và cải tạo giống để nâng cao năng suất, chất lượng quả, tăng thu nhập. - Trong công tác quy hoạch đối với ngành chăn nuôi và thủy sản cần thận trọng mở rộng chăn nuôi cần gắn liền với nâng cao chất lượng công tác thú y. Cần có những chính sách cụ thể về đất đai, hỗ trợ tài chính cho hình thành các khu chăn nuôi tập trung thúc đẩy chăn nuôi hàng hóa và quản lý dịch bệnh đồng thời đảm bảo vệ sinh môi trường cho các khu dân cư. Đối với việc quy hoạch thủy sản tập trung cần tránh tình trạng ồ ạt, vượt quá khả năng hỗ trợ của ngân hàng chính sách về xây dựng hạ tầng kỹ thuật chính. - Mặc dù lâm nghiệp Hải Dương khônh phát triển do diện tích rừng ít nhưng cũng cần có những quy hoạch cụ thể đối với các loại rừng để đảm bảo sự phát triển bền vững của rừng và khai thác có hiệu quả các nguồn lợi từ rừng. KẾT LUẬN Tình hình đầu tư phát triển nông nghiệp tỉnh Hải Dương trong giai đoạn 5 năm (2004 – 2008) đã thu được những thành tựu đáng kể. Đóng góp một phânà đáng kể vào sự tăng trưởng kinh tế của tỉnh trong thời gian qua. Tuy nhiên đầu tư vào nông nghiệp tỉnh Hải Dương vẫn còn nhiều bất cập và gặp nhiều khó khăn. Những giải pháp đưa ra trong bài viết có thể chưa phải là những giải pháp tốt nhất cho sự phát triển của ngành nông nghiệp Hải Dương hiện nay nhưng hy vọng rằng nó có thể đóng góp vào việc hoạch định những chính sách đầu tư phát triển nông nghiệp Hải Dương trong thời gian tới. Để nông nghiệp Hải Dương có thể phát huy được tối đa những tiềm năng vốn có và đạt được những kết quả cao hơn. MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU .................................................................................................1 DANH MỤC BẢNG BIỂU Bảng 1.1: Thu ngân sách nhà nước trên địa bàn tỉnh Hải Dương 8 Bảng 1.2: Vốn đầu tư phát triển tỉnh Hải Dương giai đoạn (2004 – 2008) 9 Bảng 1.3: Vốn đầu tư phát triển nông nghiệp tỉnh Hải Dương giai đoạn 12 Bảng 1.4: Vốn đầu tư phát triển nông nghiệp tỉnh Hải Dương phân theo nguồn hình thành giai đoạn (2004 – 2008) 13 Bảng 1.5: Cơ cấu vốn đầu tư phát triển nông nghiệp tỉnh Hải Dương phân theo nguồn hình thành giai đoạn (2004 – 2008) 14 Bảng 1.6: Vốn đầu tư cho phát triển nông nghiệp Hải Dương từ ngân sách địa phương giai đoạn (2004 – 2008) 15 Bảng 1.7: Vốn đầu tư phát triển nông nghiệp Hải Dương từ ngân sách trung ương Hải Dương giai đoạn (2004 – 2008) 17 Bảng 1.8: Vốn đầu tư từ khu vực dân doanh và dân cư cho phát triển nông nghiệp Hải Dương giai đoạn (2004 – 2008) 18 Bảng 1.9: Vốn đầu tư tín dụng đầu tư cho phát triển nông nghiệp Hải Dương giai đoạn ( 2004 – 2008) 20 Bảng 1.10 : Nguồn vốn FDI cho đầu tư phát triển nông nghiệp 21 Bảng 1.11: Vốn đầu tư phát triển nông nghiệp theo cơ cấu nông, lâm, thủy sản trên địa bàn tỉnh Hải Dương giai đoạn (2004 – 2008) 22 Bảng 1.12: Quy mô vốn đầu tư cho ngành trồng trọt, chăn nuôi và dịch vụ nông nghiệp tỉnh Hải Dương giai đoạn (2004 – 2008) 23 Bảng 1.13: Giá trị sản xuất ngành nông nghiệp Hải Dương giai đoạn 25 Bảng 1.14: Cơ cấu giá trị sản xuất nông nghiệp Hải Dương giai đoạn (2004 – 2008) 26 Bảng 1.15: Tốc độ tăng giá trị sản xuất ngành nông nghiệp tỉnh Hải Dương giai đoạn (2004 – 2008) 30 Bảng 1.16: Tỷ lệ giữa giá trị sản xuất và vốn đầu tư phát triển nông nghiệp tỉnh Hải Dương giai đoạn 2004 – 2008 31 Bảng 1.17: Lao động trong ngành nông nghiệp của tỉnh Hải Dương 33 Bảng 2.1: Mục tiêu tốc độ tăng trưởng bình quân/năm về giá trị sản xuất ngành nông nghiệp tỉnh Hải Dương đến năm 2020 49 Bảng 2.2: Các chỉ tiêu về sản xuất ngành nông nghiệp 49 Bảng 2.3: Nhu cầu vốn đầu tư phát triển nông nghiệp tỉnh Hải Dương đến năm 2020 58 DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT NSNN: Ngân sách nhà nước GDP: Tổng sản phẩm quốc dân UBND: Ủy ban nhân dân ODA: Nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức FDI: Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài NN: Nông nghiệp WTO: Tổ chức thương mại thế giới Đ: Việt Nam đồng Đv: Đơn vị TÀI LIỆU THAM KHẢO Niên giám thống kê tỉnh Hải Dương 2008, Nxb Thống kê Hà Nội. Các chương trình, đề án thực hiện nghị quyết đại hội đảng bộ tỉnh Hải Dương lần thứ XIV. Quy hoạch phát triển sản xuất nông nghiệp tỉnh Hải Dương đến năm 2015 và định hướng đến năm 2020 Tạp chí kinh tế và dự báo. Số 3/2009. Tạp chí kinh tế và dự báo. Số 7/ 2008. Trang web: www.haiduong.net.gov.vn ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc21636.doc
Tài liệu liên quan