Lời nói đầu
Công nghiệp hoá-hiện đại hoá đất nước là đòi hỏi tất yếu của các quốc gia đang phát triển trên thế giới trong quá trình phát triển kinh tế xã hội hiện nay nhưng phát triển một nền nông nghiệp vững mạnh và ổn định là không thể thiếu được. Nước Việt Nam chúng ta có truyền thống về nông nghiệp thì để tiến hành công nghiệp hoá - hiện đại hoá chỉ thu được thành công khi chúng ta đã đảm bảo an toàn về lương thực thực phẩm- tức có ngành nông nghiệp phát triển.
Như vậy đối với một tỉnh n
91 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1587 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Đầu tư phát triển nông nghiệp Hà Tây, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ông nghiệp như Hà Tây, bên cạnh việc chú ý phát triển các ngành công nghiệp và dịch vụ , phát triển nông nghiệp vẫn là ưu tiên số một trong quá trình phát kinh tế xã hội của mình. Do vậy đầu tư sẽ là nhân tố cực kì quan trọng tạo nên sự phát triển mạnh ngành nông nghiệp . Vì thế ,có thể nói trong thời gian vừa qua ngành nông nghiệp tỉnh Hà Tây nhờ có sự đầu tư mạnh mẽ của nhà nước ,của toàn tỉnh nên có sự phát triển vượt bậc. Bởi vì đầu tư không những tạo ra cơ sở hạ tầng hiện đại cho nông nghiệp mà còn giúp nông nghiệp có những giống mới ,những phương tiện sản xuất mới tiên tiến và các phương thức sản xuât mới.
Nghiên cứu về đầu tư và tìm ra những giải pháp để thu hút vốn đầu tư ,nâng cao hiệu quả đầu tư là một trong những vấn đề trọng tâm của tỉnh Hà Tây và luôn được quan tâm chú ý. Trên cơ sở nghiên cứu về tình hình đầu tư nông nghiệp Hà Tây trong giai đoạn 1996 -2000,về những phương hướng và giải pháp cho đầu tư trong thời gian tới, cũng như muốn đóng góp một phần vào công cuộc đầu tư ngành nông nghiệp ; tôi quyết định chọn đề tài nghiên cứu:
"Đầu tư phát triển nông nghiệp Hà Tây”
Nội dung chính gồm các phần chủ yếu sau :
Chương I. Những vấn đề lí luận chung
Chương II. Thực trạng đầu tư phát triển nông nghiệp tỉnh Hà Tây
ChươngIII. Phương hướng và giải pháp cho đầu tư phát triển nông nghiệp Hà Tây
Do trình độ còn hạn chế cũng như tài liệu thu thập còn chưa đầy đủ nên trong quá trình viết bài sẽ không tránh khỏi những thiếu xót hạn chế . Tôi mong nhận được sự góp ý của thầy cô cũng như bạn đọc để giúp tôi hoàn thiện hơn nữa
Em xin chân thành cảm ơn cô giáo : Nguyễn Thị Thu Hà đã tận tình giúp đỡ trong quá trình hoàn thiện đề tài
Cháu cũng xin chân thành cảm ơn các bác ,các cô chú và các anh chị phòng Thẩm định- Xây dựng cơ bản và phòng Tổng hợp Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Hà Tây đã cung cấp tài liệu và tận tình hướng dẫn.
Sinh viên thực hiện
Trương Bá Hiển
Chương I. Những vấn đề về lí luận chung
I. Bản chất và vai trò của đầu tư đối với nền kinh tế
Các khái niệm.
*Khái niệm chung về đầu tư
+Xét trên góc độ tiêu dùng: Đầu tư là hình thức hạn chế tiêu dùng hiện tại để thu được mức tiêu dùng nhiều hơn trong tương lai
+Xét trên góc độ tài chính: Đầu tư là một chuỗi các hoạt động chi tiêu để chủ đầu tư nhận về một chuỗi các dòng thu nhằm hoàn vốn và sinh lời.
Khái niệm trình bày ở trên về đầu tư được xem xét ở hai khía cạnh khác nhau, do vậy rất khó cho việc nghiên cứu và hiểu chính xác về nó . Chính vì vậy, các nhà kinh tế đã đưa ra khái niệm trung nhất về đầu tư.
Đầu tư : là sự bỏ vốn ra cùng với các nguồn lực khác( như tiền của, sức lao động, trí tuệ...) trong hiện tại để tiến hành một hoạt động nào đó hoặc tạo ra hay khai thác sử dụng một tài sản nào đó ngằm thu về các kết quả có lợi trong tương lai.
*Khái niệm đầu tư phát triển:
Trong đầu tư thì người ta lại chia thành các loại đầu tư cụ thể như sau:
+ Đầu tư thương mại
+Đầu tư tài chính
+Đầu tư phát triển
Đầu tư phát triển là loại đầu tư trong đó người có tiền bỏ vốn ra để tiến hành các hoạt động nhằm tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế làm tăng tiềm lực sản xuấ kinh doanh và mọi hoạt động xã hội khác, là điều kiện chủ yếu để tạo việc làm và nâng cao đời sống của người dân trong xã hội.
*Khái niệm vốn đầu tư.
Trong đầu tư người ta cũng hay đề cập đến một thuật ngữ là vốn đầu tư, đây chính là yếu tố quyết định tính chất qui mô của dự án.
+ Dưới hình thái tiền tệ : Vốn đầu tư là khoản tiền tích luỹ của xã hội ,của các cơ sở sản xuất kinh doanh , dịch vụ; là tiền tiết kiệm của dân và huy động từ các nguồn khác được đưa vào sử dụng trong quá trình tái sản xuất xã hội nhằm duy trì các tiềm lực sẵn có vào tạo ra những tiềm lực mới cho nền kinh tế.
+ Dưới hình thái vật chất : Vốn đầu tư bao gồm các loại máy móc thiết bị, nhà xưởng ,các công trình hạ tầng cơ sở, các loại nguyên liệu ,vật liệu,các sản phẩm trung gian khác...
Vốn đầu tư là yếu tố không thể thiếu được của các công cuộc đầu tư.Trong nền kinh tế phát triển , vai trò của vốn đầu tư là tối quan trọng, nó góp phần tạo sự phát triển mạnh cho nền kinh tế
*Khái niệm hoạt động đầu tư :là việc sử dụng vốn đầu tư để phục hồi năng lực sản xuất và tạo ra năng lực sản xuất mới, đó là quá trình chuyển hoá vốn thành các tài sản phục vụ cho quá trình sản xuất.
2.Phân loại hoạt động đầu tư.
Hoạt động đầu tư có thể được phân chia theo nhiều cách khác nhau, phụ thuộc vào mục đích của người nghiên cứu và các nhà quản lí đầu tư. Sau đây là một số cách phân loại chính:
Theo đối tượng đầu tư :
+ Đầu tư vật chất ( đầu tư tài sản vật chất hoặc tài sản thực như nhà xưởng ,máy móc thiết bị...)
+ Đầu tư tài chính :
Theo cơ cấu sản xuất :
+ Đầu tư chiều rộng: nhằm mở rộng sản xuất ,đòi hỏi lượng vốn lớn có tính chất kĩ thuât phức tạp trong thời gian dài
+ Đầu tư chiều sâu : nhằm nâng cao trình độ khoa học công nghệ, lượng vốn không lớn và tính chất kĩ thuật không phức tạp, và thời gian không dài...
Theo phân cấp quản lí
+ Dự án nhómA do thủ tướng quản lí
+Dự án nhóm B,C do bộ ,cơ quan ngang bộ hoặc UBND các tỉnh, thành phố quản lí
Theo nguồn vốn huy động
+ Vốn huy động trong nước
+Vốn huy động từ nước ngoài.
Theo thời gian :
+ Đầu tư ngắn hạn
+ Đầu tư trung hạn
+ Đầu tư dài hạn
Theo vùng lãnh thổ: phản ánh tình hình đầu tư của từng vùng kinh tế, từng tỉnh
Ngoài các hình thức phân loại trên , còn có các hình thức phân loại khác mà không được nêu trong bài này. Do vậy tuỳ theo mục đích mà người ta có thể lựa chọn sử dụng từng cách phân loại cho phù hợp
3.Vai trò của đầu tư đối với nền kinh tế
Từ trước tới nay khi nói về đầu tư, không một nhà kinh tế học nào và không một lí thuyết kinh tế nào lại không nói đến vai trò to lớn của đầu tư đối với nền kinh tế . Có thể nói rằng đầu tư là cốt lõi là động lực cho sự tăng truởng và phát triển nền kinh tế
3.1 Tác động tới tổng cung và tổng cầu của nền kinh tế.
Đầu tư tác động mạnh tới tổng cung và tổng cầu của nền kinh tế. Mức độ tác động cũng như thời gian ảnh hưởng là khác nhau.
Đối với tổng cầu: Đầu tư là một yếu tố cực kì quan trọng cấu thành tổng cầu. Bởi vì , đầu tư một mặt tạo ra các sản phẩm mới cho nền kinh tế mặt khác nó lại tiêu thụ và sử dụng một khối lượng lớn hàng hoá và dịch vụ trong quá trình thực hiện đầu tư. Do vậy, xét về mặt ngắn hạn đầu tư tác động trực tiếp tới tổng cầu theo một tỉ lệ thuận- Mỗi sự thay đổi của đầu tư đều ảnh hưởng tới ổn định của tổng cầu nền kinh tế.
Đối với tổng cung: Ta biết rằng,tiến hành một công cuộc đầu tư đòi hỏi một nguồn lực, một khối lượng vốn lớn , thành quả (hay các sản phẩm và dịch vụ mới của nền kinh tế) của các công cuộc đầu tư đòi hỏi một thời gian khá dài mới có thể phát huy tác dụng . Do vậy, khi các thành quả này phát huy tác dụng làm cho sản lượng của nền kinh tế tăng lên. Như vậy , đầu tư có tính chất lâu dài và nó sẽ làm cho đường tổng cung dài hạn của nền kinh tế tăng lên .
Qua sự phân tích trên ta thầy rằng , đầu tư ảnh hưởng mạnh tới cả tổng cung và tổng cầu. Bởi vì, xét về mặt cầu thì đầu tư tiêu thụ một khối lượng lớn hàng hoá và dịch vụ cho nền kinh tế nhưng đứng về mặt cung thì nó làm cho sản xuất gia tăng, giả cả giảm, tạo công ăn việc làm và làm tăng thu nhập từ đó kích thích tiêu dùng. Mà sản xuất phát triển chính là nguồn gốc của phát triển kinh tế xã hội, là điều kiện để cải thiện đời sống con người.Như vậy đầu tư là nhân tố cho sự tăng trưởng và phát triển một nền kinh tế.
3.2 Ảnh hưởng hai mặt tới sự ổn định nền kinh tế.
Khi nghiên cứu về đầu tư ai cũng hiểu rằng đầu tư luôn có một độ trễ nhất định, tức là "đầu tư hôm nay , thành quả mai sau”. Ngoài ra do đầu tư có ảnh hưởng tới tổng cung và tổng cầu của nền kinh tế không ăn khớp về thời gian do vậy nó có thể phá vỡ sự ổn định của một nền kinh tế.Nếu đầu tư tốt nó có thể giúp cho nền kinh tế tăng trưởng và phát triển . Ví dụ như các nước NICs, do có đầu tư hiệu quả nên từ những nước còn nghèo đã trở thành những nước công nghiệp với nền kinh tế công nghiệp tương đối phát triển.
Giả sử bây giờ ta tăng đầu tư trong nước, khi đó làm cho nhu cầu tiêu thụ hàng hoá và dịch vụ liên quan đến công cuộc đầu tư như máy móc , thiết bị sức lao động, nguyên vật liệu... tăng theo . Điều đó làm cho tổng cầu của nền kinh tế của những loại hàng hoá này tăng lên, theo qui luật cung cầu của kinh tế dẫn đến giả cả của những hàng hoá này cũng tăng lên một cách mạnh mẽ, và đến một mức độ nào đó có thì dẫn tới lạm phát ,với tỷ lệ có thể là rất cao. Khi lạm phát xảy ra, giá cả tăng vọt, dẫn đến các chi phí đầu vào cho sản xuất tăng lên dấn đến sản xuất bị đình trệ, và người lao động thất nghiệp , nền kinh tế bị giảm thu nhập và đời sống của các tầng lớp dân cư bị gảm sút. Tất cả những điều đó làm cho nền kinh tế lâm vào khủng hoảng trì trệ và làm giảm tốc độ phát triển. Tuy nhiên nếu các quốc gia điều tiết đầu tư thì không những khắc phục được những ảnh hưởng tiêu cực mà còn làm cho nó trở thành động lực cho sự tăng trưởng và phát triển kinh tế.
3.3 Đầu tư tác động đến tốc độ tăng trưởng và phát triển nền kinh tế .
Ta thấy rõ rằng đầu tư có ảnh hưởng đến tổng cung và tổng cầu và tác động đến sự ổn định của nền kinh tế . Như vậy, sự tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế sẽ chịu ảnh hưởng rất lớn của đầu tư .
Để xem xét cụ thể ta có thể sử dụng hàm Harrod- Domar để minh hoạ mối quan hệ giữa tốc độ tăng trưởng và vốn đầu tư .
i
k = -----------
g
Trong đó: + k: hệ số gia tăng vốn trên sản lượng hay hệ số ICOR
+ i: Vốn đầu tư
+ g: Mức tăng GDP
i
Từ đó suy ra : g = -------------
k
Như vậy, nếu ICOR không đổi thì tốc độ tăng trưởng GDP hoàn toàn phụ thuộc vào vốn đầu tư hay nói cách khác đầu tư quyết định sự tăng truởng của nền kinh tế.
Đối với mỗi quốc gia khác nhau ICOR cũng khác nhau ,nó tuỳ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế xã hội và cơ chế chính sách của nhà nước .Đối với các nước đang phát triển có ICOR thấp còn các nước phát triển ngược lại . Đồng thời chỉ số ICOR của nhiều ngành kinh tế là khác nhau , trong đó ICOR trong nông nghiệp thường là rất thấp tốc độ tăng trưởng của nông nghiệp cũng không cao.
Ngoài ra đầu tư còn làm tăng năng suất lao động,chất lượng sản phẩm ,năng lực sản xuất do vậy thay đổi tốc độ phát triển kinh tế . Vì vậy đối với mỗi quốc gia cần có một chính sách thích hợp để huy động vốn và đầu tư có hiệu quả nhằm nâng cao tốc độ tăng trưởng và phát triển kinh tế nước mình .
3.4 Đầu tư tác động đến sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế .
Một quốc gia được coi là phát triển khi cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp -dịch vụ -nông nghiệp trong đó công nghiệp và dịch vụ chiếm một tỷ lệ cao trong GDP của nước đó . Bởi vì nông nghiệp do nhiều hạn chế về điều kiện tự nhiên và khả năng sinh học của cây trồng vật nuôi nên chỉ có tốc độ tăng trưởng tối đa từ 5-6% .Do vậy khi công nghiệp và dịch vụ chiếm tỷ lệ cao , nó có khả năng đưa tốc độ tăng trưởng kinh tế của nước đó lên cao 9-10% năm . Muốn vậy chúng ta phải chính sách đầu tư thoả đáng .Mỗi nước cần tăng cường tỷ lệ đầu tư cho công nghiệp và dịch vụ và có nhiều chính sách phát huy hiệu quả của đầu tư có vậy thì mới có công nghiệp và dịch vụ phát triển .
Trong nông nghiệp ta cũng nên đầu tư nhiều hơn cho chăn nuôi bởi chăn nuôi thường có tỷ lệ tăng trưởng mạnh hơn trồng trọt .
Còn đối với cơ cấu vùng lãnh thổ một quốc gia phát triển thường có cơ cấu kinh tế lãnh thổ cân đối và đồng đều giữa các vùng trong cả nước .Do vậy bên cạnh việc đầu tư trọng điểm để phát triển thành thị và các vùng đồng bằng chúng ta cũng cần có chính sách để đầu tư phát triển kinh tế các vùng núi và nông thôn để vừa phát triển kinh tế xã hội vừa tạo sự cân bằng ổn định trong nước.
3.5. Đầu tư góp phần nâng cao trình độ khoa học công nghệ :
Ta biết rằng khoa học công nghệ là trung tâm của đời sống kinh tế xã hội hiện đại. Một đất nước, một quốc gia chỉ phát triển được khi có khoa học công nghệ tiên tiến và hiện đại. Ở các nước phát triển, họ có mức đầu tư lớn, có quá trình phát triển lâu dài nên trình độ khoa học công nghệ của họ hơn hẳn các nước khác trên thế giới. Khi họ áp dụng các thành tựu này làm cho nền kinh tế có mức độ tăng trưởng mạnh mẽ, đời sống nhân dân nâng cao. Còn đối với các nước đang phát triển, do công nghệ nghèo làn, lạc hậu lại không có điều kiện để nghiên cứu phát triển khoa học kĩ thuật nền kinh tế phát triển rất thấp, sản xuất kém phát triển và bị phụ thuộc vào các nước công nghiệp . Muốn thoát khỏi tình trạng này thì các nước phải tăng cường đầu tư và tìm cách thu hút đầu tư từ bên ngoài vào trong nền kinh tế. Đầu tư ở đây được hiểu là các nước này thu hút công nghệ hiện đại bên ngoài phù hợp đồng thời tổ chức nghiên cứu để phát minh ra các công nghệ mới hiện đại hơn. Quá trình công nghiệp hoá hiện đại của các nước này có thành công hay không phụ thuộc rất nhiều vào việc đầu tư phát triển khoa học công nghệ.Có thể khẳng định rằng đầu tư khoa học công nghệ là một chính sách cực kì quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế xã hội.
Ngoài các vai trò chính yếu trên,đầu tư còn có một vài vai trò khác như làm tăng ngân sách cho chính phủ, góp phần làm ổn định đất nước, mở rộng ảnh hưởng của quốc gia...
Qua việc phân tích trên ta có thể khẳng định rằng đầu tư là chìa khoá cho sự phát triển của mỗi quốc gia và cho toàn thế giới.
4.Quản lí đầu tư.
Đây là hoạt động có ảnh hưởng rất mạnh tới kết quả và hiệu quả đầu tư của một đất nước nói chung, của một ngành kinh tế nói riêng
4.1 Khái niệm
Quản lí đầu tư chính là sự tác động liên tục , có tổ chức, có định hướng quá trình đầu tư ( bao gồm công tác chuẩn bị đầu tư, thực hiện đầu tư và vận hành kết quả đầu tư cho đến khi thanh lí tài sản do đầu tư tạo ra ) bằng một hệ thống đồng bộ các biện pháp kinh tế xã hội và tổ chức kĩ thuật cùng các biện pháp khác nhằm đạt được hiệu quả kinh tế xã hội cao trong những điều kiên cụ thể và trên cơ sở vận dụng sáng tạo những qui luật kinh tế.
4.2 Mục tiêu của quản lí đầu tư : được xem xét dưới hai góc độ
Vĩ mô:
+ Đáp úng tốt nhất việc thực hiện các mục tiêu của chiến lược phát triển ngành trong từng thời kì nhất định
+ Huy động tối đa và sử dụng hiệu quả nhất các nguồn lực trong và ngoài nước
+ Đảm bảo quá trình thực hiện đầu tư xây dựng các công trình theo đúng qui hoạch, kiến trúc định ra
Vi mô
Đó là việc đạt được hiệu quả kinh tế xã hội cao nhất với chi phí bỏ ra thấp nhất trong một giai đoạn nhất định. Mục tiêu này được cụ thể trong từng giai đoạn của quá trình đầu tư . Mục tiêu này ở các cơ sở, nếu thực hiện tốt sẽ làm cho các công cuộc đầu tư của nó đạt kết quả cao và thúc đẩy cơ sở đó đi lên
4.3 Các nguyên tắc
Thống nhất giữa lãnh đạo chính trị, kinh tế; kết hợp hài hoà giữa hai mặt kinh tế và xã hội. Nguyên tắc này đòi hỏi ngành kinh tế vừa phải phát triển nhưng mặt khác nó phải theo định hướng chung của Đảng và nhà nước và tạo công ăn việc làm , tăng thu nhập cho người lao động
Tập trung dân chủ:Đòi hỏi mỗi ngành kinh tế phải được đạt dưới một sự lãnh đạo thống nhất của nhà nước nhưng những ddịnh hướng , chiến lược chúng phải nhận được sự đóng góp của cấp dưới. Bên cạnh hướng phát triển chung thì mỗi ngành kinh tế ở mỗi địa phương có thể tuỳ theo đặc điểm của mình mà có những chính sách phát triển phù hợp
Quản lí theo ngành kết hợp với quản lí theo địa phương , vùng lãnh thổ.
Đòi hỏi tại mỗi địa phương , từng ngành phải phát triển trong tổng thể chung của địa phương đó, dảm bảo sự phát triển toàn diện các ngành kinh tế ở địa phương.
Kết hợp hài hoà giữa các loại lợi ích : nó đòi hỏi mỗi công cuộc đầu tư không chỉ đáp ứng đơn thuần là lợi ích tài chính mà còn phải đáp ứng cả lợi ích xã hôi, lợi ích cộng đồng.
Tiết kiệm và hiệu quả: đòi hỏi một ngành với vốn đầu tư nhất định, ít các chi phí mà thu được hiệu quả cac nhất
Phải đảm bảo thực hiện đúng trình tự đầu tư và xây dựng
Quản lí hoạt động đầu tư có vai trò quan trọng đối với sự thanh công của các công cuộc đầu tư ở mỗi ngành, mỗi địa phương và trên cả đất nước.
5. Kế hoạch hoá đầu tư :
Nó vừa là nội dung, vừa là một công cụ để quản lí hoạt động đầu tư. Công tác kế hoạch hoá đầu tư có tính chất hướng dẫn ,địn hướng cho việc thực hiện đầu tư sau đó
5.1 Các nguyên tắc
+ Kế hoạch đầu tư của ngành phải xuất phát từ yêu cầu chung của đường lối phát triển ngành đó, của cả nền kinh tế và nhu cầu của thị trường trong và ngoài nước.
+ Phải đảm bảo qui luật khách quan, khoa học và tính hiện thực của các phương án.
+ Kết hợp tốt về các mặt trong ngành kinh tế đó: tạo điều kiện khai thác hết các tiềm năng của ngành, để nó phát triển toàn diện hơn
+Kế hoạch hoá ở cấp cao sẽ mang tính định hướng, kế hoạch ở các địa phương sẽ cụ thể hoá , thực hiện đường lối đó: Điều này sẽ bảo đảm kế hoạch được thực hiện thống nhất từ trên xuống và không bị chồng chéo
+ Phải có độ tin cậy cao va tối ưu
5.2 .Trình tự lập kế hoạch đầu tư:
Kế hoạch đầu tư ở đây được lập chủ yếu cho ngân sách nhà nước đầu tư vào ngành kinh tế; theo trình tự sau
-Xác định nhu cầu về chủng loại và khối lượng sản phẩm . dịch vụ cho sản xuất và tiêu dùng của kỳ kế hoạch mà ngành kinh tế phải đảm nhiệm
- Xác định khả năng đáp ứng nhu cầu của với các điều kiện hiện có ở đầu kì kế
hoạch để xem khả năng của ngành đó ra sao
- Xác định các năng lực và dịch vụ mới cần tăng thêm trong kì
- Tiến hành lập kế họch đầu tư để đáp ứng năng lực mới tăng thêm cho kì kế hoạch thông qua các dự án đầu tư. Việc lập kế hoạch đầu tư theo dự án lại được tiến hành theo các bước sau đây:
+ Kế hoạch cho điều tra, khảo sát
+ Kế hoạch chuẩn bị đầu tư
+ Kế hoạch chuẩn bị thực hiện dự án đầu tư
+ Kế hoạch thực hiện dự án.
5.3 Các điều kiện được ghi dự án vào kế hoạch đầu tư:
+ Phải nằm trong qui hoạch ngành
+ phải có quyết định đầu tư ( mới được ghi vào kế hoạch chuẩn bị thực hiện dự án)
+ Phải có thiết kế kĩ thuật và tổng dự toán hay thiết kế kĩ thuât và dự toán cho các giai đoạn đầu tư đối với các công trình lớn.
II. Đầu tư- nhân tố quyết định đối với sự phát triển nông nghiệp
Giới thiệu về nông nghiệp
1.1 Khái niệm.
Con người sinh ra trên đời không thể không ăn mà vẫn có thể tồn tại và phát triển được,cho nên nhu cầu về lương thực thực phẩm là nhu cầu cấp thiết của loài người. Muốn có lương thực và thực phẩm phải hình thành và phát triển ngành nông nghiệp.Do vậy mà nông nghiệp xuất hiện từ rất sớm trong đời sống loài người. Trong suốt một thời gian dài lịch sử nhân loại, ở phương Đông cũng như phươngTây,nông nghiệp là một ngành cực kì quan trọng, không một ngành nào có thể sánh được. Ngày nay, nông nghiệp không còn có được vị trí như trước nữa và cũng là ngành có trình độ phát triển thấp kém hơn so với các ngành khác trong nền kinh tế vì vậy phát triển nền nông nghiệp mạnh vẫn là đòi hỏi thiết yếu của hầu hết các quốc gia trên thế giới.
Nông nghiệp hiểu theo nghĩa rộng nhất bao gồm nông - lâm- ngư nghiệp, phát triển nông nghiệp cũng có nghĩa là phát triển nông - lâm - ngư nghiệp. Ngoài ra phát triển nông nghiệp còn gắn liền với phát triển nông thôn và nâng cao các điều kiện sinh hoạt ở nông thôn. Nông nghiệp được hiểu theo nghĩa hẹp chỉ bao gồm hai nghành trồng trọt và chăn nuôi.
Việt Nam chúng ta là một nông nghiệp lâu đời với truyền thống hàng nghìn năm trồng lúa nước .Có thể nói nước ta có nhiều điều kiện về tự nhiên và con người rất thuân lợi cho việc phát triển một nền nông nghiệp vững mạnh.. Tuy rằng, nông nghiệp chiếm một vị trí ngày càng thấp kém trong nền kinh tế nhưng trong giai đoạn này nó vẫn là một ngành kinh tế quan trọng , góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, xuất khẩu và thu ngoại tệ cho đất nước, cải thiện đời sống nhân dân... Phát triển nông nghiệp là yêu cầu cấp thiết của đất nước trong quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước
1.2 Đặc điểm của nông nghiệp nói chung
Từ việc nghiên cứu tình hình thực tế và những kinh nghiệm của người đi trước, người ta thấy rằng ngành nông nghiệp có một vài đặc điểm sau:
a.Đất đai là tư liệu sản xuất chủ yếu.
Đây là một đặc điểm cực kì quan trọng và khác biệt của nông nghiệp. Trong nông nghiệp, đặt biệt trong trồng trọt thì đất là một yếu tố sản xuất không thể thiếu được, đất vừa là nơi sản xuất cũng chính là yếu tố quyết định cho sự sinh tồn của cây trồng , như vậy đất là không thể thiếu cho nông nghiệp. Cùng với các yếu tố khác như sự chăm sóc của con người, tưới tiêu và thời tiết, chất lượng đất đai có ảnh hưởng mạnh tới năng suất chất lượng sản phẩm nông nghiệp và thành quả lao động của người nông dân, Vì thế , muốn nông nhgiệp đạt kết quả cao thì phải có những biện pháp tác động và đất đai.Tuy nhiên đất là do tự nhiên tạo ra cho nên ta không thể thay đổi hoàn toàn những điều kiện của đất. Do đặc điểm này mà mức độ tác động của con người trong sản xuất nông nghiệp là rất hạn chế, mức độ áp dụng tiến bộ khoa học cũng không thật nhiều nên nông nghiệp là ngành có tốc độ phát triển không cao và nhanh như các ngành kinh tế khác.Tuy vậy, đối với một số lĩnh vực chăn nuôi đất đai cũng chỉ là mặt bằng để tiến hành sản xuất như các ngành kinh tế khác và nó không chịu nhiều ảnh hưởng của đất.
b.Đối tượng sản suất là những cơ thể sống
Một đặc điểm khác nữa của nông nghiệp so với các ngành kinh tế khác là đối với các ngành này thì đối tượng sản xuất là những sản phẩm hàng hoá còn đối tượng sản xuất nông nghiệp là những cơ thể sống , đó là nhưng cây trồng vật nuôi có sẵn trong tự nhiên được con người đem về thuần dưỡng. Những đối tượng này thường có những qui luật tăng trưởng và phát triển nhất định, mặc dù đã được con người thay đổi ít nhiều, chúng cũng chịu ảnh hưởng rất mạnh mẽ của các điều kiện tự nhiên và cũng không thể tăng trưởng quá mức cho phép của qui luật tự nhiên. Vì những đặc trưng trên mà ngành nông nghiệp có tốc độ tăng trưởng thấp hơn so với các ngành kinh tế khác. Tuy nhiên ,tốc độ tăng trưởng nông nghiệp có thể đạt cao hơn nếu con người tác động vào các cơ thể sống này thông qua việc phát triển công nghiệp sinh học để tạo ra những giống cât trồng mới với năng suất và chất lượng sản phẩm cao hơn. Chúng ta cũng cần tìm hiểu các qui luật phát triển của các đối tượng sống này để tìm ra các biện pháp chăm sóc kịp thời và có các loại phân bón tốt nhất vào các thời điểm cụ thể.
c.Nông nghiệp là ngành sản xuất chịu ảnh hưởng mạnh của các điều kiện tự nhiên.
Do vậy mỗi sự thay đổi nhỏ của tự nhiên đều ảnh hưởng tới nông nghiệp; đối với các ngành kinh tế khác, thì mức độ phụ thuộc này là không lớn; như công nghiệp,thì dù trời có đổ mưa hay có gió lớn thì người ta vẫn tiến hành sản xuất bình thường và sự thay dổi trong kế hoạch sản xuất là không đáng kể. Nhưng đối với ngành nông nghiệp thì khác hẳn, mọi sự thay đổi đều có ảnh hưởng, như đất tốt hay xấu đều ảnh hưởng tới năng suất chất lượng sản phẩm. Nếu thời tiết tốt, phù hợp với yêu cầu , chúng ta đạt được một vụ mùa bội thu còn nếu thời tiết xấu thì ngược lại. Vì vậy trong nông nghiệp chúng ta cần hạn chế các ảnh hưởng của điều kiện tự nhiên hoặc phải có những biện pháp khai thác tự nhiên tốt nhất thì chúng ta với thu được các kết quả cao và giúp cho sản xuất nông nghiệp có tốc độ tăng trưởng cao và ổn định.
d.Sản xuất nông nghiệp có tính thời vụ cao.
Bởi lẽ đối với những loại cây trồng vật nuôi trong nông nghiệp ,chúng không thể phát triển quanh năm mà chúng cần có một thời gian phù hợp nhất định trong năm để sinh trưởng và phát triển tốt. Mặt khác,do trong nông nghiệp thời gian lao động không hoàn toàn ăn khớp với thời gian sản xuất . Những đặc điểm này làm cho sản xuất nông nghiệp có tính thời vụ . Để khắc phục được tình trạng này thì chúng ta cần phải xây dựng một hệ thống cơ sở hạ tầng thuận tiện, hiện đại và phù hợp để có thể phục vụ tốt nhất cho công cuộc sản xuất .
e.Nông nghiệp có tốc độ tăng trưởng thấp
Đây là một thiệt thòi của ngành nông nghiệp có so với các ngành công nghiệp và dịch vụ. Người ta thấy rằng dù nông nghiệp có điều kiện sản xuất thuận lợi đến mấy đi nữa thì nông nghiệp cũng chỉ đạt tốc độ tăng trưởng tối đa từ 5 - 6 % năm trong khi ngành công nghiệp đạt tốc độ tăng truởng 10 % trở lên là bình thường. Kết quả thấp kém của sản xuất nông nghiệp chính là hệ quả tất yếu của những đặc điểm trên của ngành nông nghiệp.
Dựa trên việc nghiên cứu các đặc điểm trên của ngành nông nghiệp , chúng ta sẽ có những ý tưởng , những sáng kiến trong việc lập kế hoạch sản xuất, tiến hành đầu tư và có những biện pháp cần thiết cho phát triển sản xuất nông nghiệp.
1.3. Đặc điểm nông nghiệp Việt Nam
Dù đang trong quá trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước nhưng Việt Nam vẫn là một nước nông nghiệp và trình độ phát triển của ngành nông nghiệp vẫn ở mức rất thấp. Vì thế nghiên cứu rõ đặc điểm của nền nông nghiệp này sẽ giúp cho chúng ta có những chính sách đầu tư phát triển phù hợp nhằm thúc đẩy nền nông nghiệp nước ta từng bước đi lên, theo kịp tiến trình phát triển của cả nước. Có thể nói nền nông nghiệp nước ta ngoài những đặc điểm chung như nêu ở trên thì có những đặc điểm riêng sau:
Nền nông nghiệp Việt Nam vẫn mang tính truyền thông sâu sắc, chưa có những thay đổi lớn so với những năm trước đây.Trong suốt thời kì vừa qua , nông nghiệp được Đảng và nhà nước quan tâm và đầu tư thoả đáng nên đã có những bước phát triển mạnh cả về năng suất , chất lượng. Nhưng nhìn chung thì sản xuất nông nghiệp vẫn mang tính cá thể và đơn lẻ; mức độ áp dụng khoa học kĩ thuật công nghệ vào nông nghiệp là rất ít, đồng thời mức độ cơ giới hoá trong nông nghiệp là không cao. Thậm chí ở nhiều vùng quê ,sản xuất nông nghiệp vẫn ở trong tình trạng " con trâu đi trước, cái cày theo sau”. Còn về vấn đề cây trồng thì trong trồng trọt vẫn ở dạng độc canh cây lúa, trong khi nhiều nơi thích hợp cho phát triển nhiều loại cây khác lại chưa có chính sách khuyến khích thoả đáng. Ngoài ra chăn nuôi là ngành sẽ giúp cho nông nghiệp có tốc độ tăng trưởng cao hơn thì chúng ta vẫn chưa có những chính sách đầu tư phát triển thích hợp cho nên tỷ lệ chăn nuôi trong toàn ngành nông nghiệp vẫn ở mức thấp.Trong khi đó hệ thống cơ sở hạ tầng phục vụ cho sản xuất nông nghiệp, một số vùng nếu có thì đã quá lạc hậu hoặc thiếu đồng bộ còn lại là rất thiếu. Tất cả những điều này ảnh hưởng rất lớn đối với sản xuất nông nghiệp
Đất nước ta được chia ra làm 3 miền Bắc - trung - nam với khí hậu và địa hình rất phức tạp và khác biệt. Nước ta còn có tỉ lệ đồi núi chiếm tới hơn 70 % lãnh thổ, do vậy mà sản xuất nông nghiệp chỉ ở trong những khoảng không gian nhỏ và khó cho việc áp dụng máy móc .Các vùng đồng bằng có điều kiện cũng không giống nhau, như đồng bằng sông Cửu Long có độ phù sa lớn, có thể canh tác 3 - 4 vụ trong năm lại phải chịu lũ lụt hàng năm ; đồng bằng sông Hồng chỉ có thể sản xuất hai vụ do có mùa đông giá rét. Khí hậu, thời tiết khát phức tạp; trong khi miền bắc có mùa đông rét và lạnh, thích hợp cho việc sản xuất một số nông sản mùa đông, ở Miền nam , gần miền xích đạo nên thời tiết nóng quanh năm nên chỉ cho phép phát triển những cây mùa hè. Chính sự phức tạp , đa dạng này đã tạo cho sản xuất nông nghiệp nước ta không không thống nhất và đồng bộ giữa các miền, và khó cho việc áp dụng những giống cây trồng vật nuôi đại trà trong cả nước. Nhưng lại tạo ra cho nước ta thuận lợi trong việc phát triển đa dạng những sản phẩm nông nghiệp
Nông nghiệp nước ta hiện nay được phát triển trong điều kiện đất nước đang tiến hành quá trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá. Chính vì vậy mà nó nhận đước sự quan tâm lớn của toàn xã hội, mức độ công nghiệp hoá nông nghiệp và nông thôn sẽ được tiến hành nhanh hơn và rộng hơn trên cả nước, đồng thời sự áp dụng những tiến bộ khoa học kĩ thuất cũng nhiều hơn và tốt hơn. Tuy vậy thì nông nghiệp lại chịu một sự thiệt thòi lớn là tỷ lệ đầu tư của nhà nước và xã hội cho nông nghiệp sẽ ngày càng giảm sút
Hiện nay nền nông nghiệp chúng ta đã có một khối lượng rất lớn hàng nông lâm thuỷ sản xuất khẩu, chiếm một tỉ lệ cao trong giá trị xuất khẩu của cả nước. Nhưng có một thực tế ngược lại là tuy sản lượng tăng mạnh, năng suất lao động lại chưa cao , hơn nhiều so với các nước khác. Như ở Thái Lan, năng suât lúa của họ thường đạt trên 8 tấn / ha tại Việt Nam năng suất chỉ khoảng 6 tấn / ha, như vậy là rất thấp và không có nhiều tiến bộ so với trước.Chất lượng hàng nông sản của chúng ta cũng không cao do vậy mà giá trị của chúng trên thị trường cũng thấp.Vì thế ,trong thời gian tới chúng ta cần có những biện pháp đầu tư để tạo ra những giống mới và có những cách thức sản xuất mới nhằm thúc đẩy sản xuất nông nghiệp.
Tóm lại , ngành nông nghiệp nước ta tuy có nhiều tiến bộ trong những năm gần đây vẫn còn yếu kém và lạc hậu ;do vậy cần nhận được sự đầu tư toàn diện và sâu rộng, của Đảng, của nhà nướcvà của toàn xã hội để nó có thể phát triển tương xứng với tiềm năng vốn có.
1.4Vai trò của nông nghiệp.
Chưa khi nào trong lịch sử loài người mà nông nghiệp lại không được coi trọng. Thế giới dù có hiện đại , dù có phát triển đến mấy thì nông nghiệp vẫn giữ những vị trí hết sức then chốt và cực kì quan trọng.Sở dĩ nông nghiệp có được vị trí như vậy vì ngành này có những vai trò sau:
Thứ nhất, nông nghiệp là ngành cung cấp lương thực thực phẩm duy nhất cho cả xã hội loài người. Đây là vai trò nổi bật của nông nghiệp.Với vai trò này nông nghiệp quyết định sự ổn định và phát triển của xã hội loài người. Khi mỗi con gnười được sinh ra trên đời thì họ không thể không ăn mà có thể lao động, học tập và cống hiến tài năng của mình cho xã hội. Bởi vì có ăn , chúng ta mới có thể có đủ năng lượng cung cấp cho cơ thể hoạt động. Xã hội phát triển càng cao , càng văn minh thì đòi hỏi của con người về lương thực và thực phẩm ngày cao về lượng và đặc biệt là về chất. Muốn vậy ,đòi hỏi ngành nông nghiệp phải không ngừng đầu tư phát triển để nâng cao năng xuất lao động trong sản xuất nông nghiệp và chất lượng của nông sản.
Thứ hai, đối với nhiều nước trên thế giới, đặc biệt là các nước đang phát triển thì nông nghiệp vẫn là một ngành kinh tế tạo ra một khối lượng lớn công ăn việc làm và tạo thu nhập cho người dân. Như ở Việt Nam, hiện nay vẫn có tới khoảng 70% dân số sống ở nông thôn và cũng một tỉ lệ tương tự làm việc trong ngành nông nghiệp. Tuy nhiên ,lực lượng lao động trong nông nghiệp này có trình độ còn thấp kém và mức thu._. nhập của họ cũng rất thấp.Nhưng trong tương lai đây là lượng lao động chủ yếu cho nền kinh tế . Vì vậy ,để thúc đẩy nền kinh tế phát triển nói chung ,cũng như giúp cho nông nghiệp nói riêng thì chúng ta cần có những chính sách về giáo dục và đào tạo nhằm đào tạo nghề và nâng cao trình độ cho người nông dân.Với một lượng lớn dân số sống ở các vùng nông thôn và làm việc trong ngành nông nghiệp nên những đối tượng này sẽ là lực lượng tiêu dùng rất lớn cho nền kinh tế .Đây là một thị trường tiêu thụ tiềm năng cho các nhà sản xuất trong nước.Khai thác và sử dụng hiệu quả thị trường này sẽ giúp cho các nhà sản xuất thu lợi nhuận tăng cường thị trường của mình và đồng thời góp phần tăng trưởng và phát triển nền kinh tế đất nước.
Thứ ba , nông nghiệp còn có vai trò khá quan trọng đối với một số ngành kinh tế khác như công nghiệp chế biến. Có thể nói ngành công nghiệp chế biến nông sản phụ thuộc rất nhiều vào nông nghiệp. Bởi nông nghiệp là ngành kinh tế cung cấp đầu vào cho sản xuất công nghiệp chế biến.Trong các nước đang phát triển thì ngành công nghiệp chế biến chiếm một vai trò khá quan trọng, nó là lĩnh vực thúc đẩy phát triển kinh tế trong giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước. Để ngành này muốn hoạt động tốt thì đòi hỏi ngành nông nghiệp phải phát triển ổn định và thường xuyên cung cấp các đầu vào rẻ và có chất lượng cao. Như vậy nông nghiệp qui định sự phát triển ngành công nghiệp chế biến. Ngoài ra một số nông sản còn là những đặc sản trong hoạt động du lịch và dịch vụ ăn uống nhằm thu hút khách hàng, nên nông nghiệp cũng là nhân tố thúc đẩy du lịch
Thứ tư, đối với các nước đang phát triển , nông nghiệp đóng vai trò cực kì quan trọng, góp một tỷ lệ lớn vào giá trị hàng hoá xuất khẩu và thu ngoại tệ cho đất nước đồng thời cũng chiếm một vị trí khá cao trong GDP của đất nước. Như ở Việt Nam, xuất khẩu hàng nông sản và sản phẩm chế biến từ nông sản thu được hàng tỷ Đôlla, chiếm một tỉ lệ cao trong tổng giá trị xuất khẩu; các mặt hàng như gạo , cà phê.. có giá trị xuất khẩu lớn.Do vậy mà chúng ta cần tăng cường hơn nữa xuất khẩu loại hàng hoá này để thúc đẩy phát triển nông nghiệp và đất nước. Tuy nhiên , các sản phẩm xuất khẩu lại chủ yếu dưới dạng thô, do vậy giá trị hàng hoá rất thấp ,rất bất lợi cho người nông dân. Thêm vào nữa là nông nghiệp chiếm tỷ lệ khoảng hơn 30% GDP của các nước đang phát triển, đây là một tỷ lệ khá cao và cho thấy nông nghiệp có ảnh hưởng mạnh tới sự tăng trưởng kinh tế của các nước này. Tuy nhiên đây là một dấu hiệu không đáng mừng , bởi lẽ một đất nướcđược coi có nền kinh tế phát triển và hiện đại khi có tỷ lệ nông nghiệp trong GDP là thấp ( khoảng dưới 15 % ). Vì thế các nước này cần có những biện pháp đầu tư ,một mặt vẫn giúp cho nông nghiệp có tốc độ tăng trưởng cao nhưng mặt khác phải nâng cao tỷ trọng trong GDP của các ngành công nghiệp và dịch vụ.
Thứ năm , nông nghiệp là ngành kinh tế đóng vai trò như một nhân tố tạo vốn, lao động và thị trường cho thời kì đầu của quá trình công nghiệp hoá - Hiện đại hoá ở các nước đang phát triển. Một nước chỉ có thể tiến hành thành công công cuộc công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước khi có đủ vốn và các nguồn lực. Trong giai đoạn đầu này, công nghiệp và dịch vụ vẫn chưa phát triển, thì nông nghiệp với ưu thế là ngành truyền thống sẽ tạo được một khối lượng lớn nông sản có giá trị cao và có thể xuất khẩu ;từ đó tạo ra một nguồn vốn khá lớn cho ngành công nghiệp. Nông nghiệp cũng là ngành cung cấp đầu vào cho công nghiệp chế biến. Với lực lượng lao động đông đảo trong ngành nông nghiệp sẽ là những công nhân với trình độ tay nghề khá cao ( nếu được chú ý đào tạo và bồi dưỡng hợp lí ) có sự cần cù chăm chỉ ,giá nhân công lại rẻ , điều này sẽ tạo thuận lợi lớn cho ngành công nghiệp phát triển. Như vậy nông nghiệp là ngành kinh tế tạo những tiền đề , cơ sở ban đầu cho sự công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước.
Tóm lại, nông nghiệp đối với những nước đang phát triển nói chung và Việt Nam nói riêng vẫn là ngành kinh tế có vai trò quan trọng trong đời sống kinh tế xã hội . Đầu tư phát triển ngành nông nghiệp là đòi hỏi tất yếu của nền kinh tế đất nước hiện nay.
2. Đầu tư - nhân tố quyết định tới sự phát triển nông nghiệp
Có thể khẳng định rằng , tất cả các ngành các lĩnh vực muốn có sự tăng trưởng và phát triển thì cần phải có đầu tư , không có đầu tư thì không có sự phát triển. Ngành nông nghiệp cũng không nằm ngoài qui luật này. Chính đầu tư là nhân tố quyết định những sự biến đổi vượt bậc của ngành nông nghiệp. Đầu tư chính là đòn bẩy, là động lực cho sự phát triển .
Thứ nhất ,đầu tư tạo cho nông nghiệp một hệ thống cơ sở hạ tầng hiện đại và có qui hoạch, tập trung. Ta biết rằng nông nghiệp chỉ có thể tiến hành sản xuất có kết quả tốt khi được cung cấp các yếu tố đầu vào đầy đủ như : điện ,nước, phân bón, hệ thống nhà kho...Muốn có được những yếu tố quan trọng này thì chúng ta phải xây dựng và củng cố các hệ thống trạm bơm, các kênh mương, các mạng lưới điện, phát triển và nâng cấp hệ thống đường giao thông. Khi những hệ thống này hoạt động tốt sẽ rất thuận lợi cho sản xuất.Tuy nhiên những cơ sở hạ tầng này không tự nhiên có mà cần phải có sự đầu tư tiền và các nguồn lực khác . Việc đầu tư này cần phải được qui hoạch tổng thể , tránh hiện tượng đâu tư dàn trải, không trọng điểm. Khi đã có đầu tư và đầu tư hiệu quả thì chúng ta sẽ có một hệ thống cơ sở hạ tầng hiện đại, sẽ giúp cho nông nghiệp có thể tiến hành những phương thức sản xuất mới, có thể tiễn hành thâm canh tăng vụ, người nông dân cũng có thể chủ động trong quá trình sản xuất.. những thuận lợi này sẽ làm cho sản lượng ngành nông nghiệp tăng cao và chất lượng nông sản cũng tốt hơn.
Thứ hai,trong thế giới hiện nay, một nền nông nghiệp hiện đại , có năng suất , hiệu quả cao khi nó được cơ giới hoá , công nghiệp hoá một cách cao độ. Hay nói rõ hơn là sản xuât nông nghiệp được áp dụng máy móc một cách phổ biến và đại trà trong mọi khâu và mọi lĩnh vực và góp phần giải phóng sức lao động của con người. Nhờ có những chính sách hỗ trợ mà đặc biệt là do có các nguồn đầu tư hữu ích của xã hội mà ngành nông nghiệp có được những loại máy móc hiện đại ,tiên tiến như máy cày máy kéo, máy gặt đập, máy xay xát, các loại xe chuyên chở ...thay thế cho sức người và súc vật trong quá trình sản xuất. Do có những loại máy móc này mà sản xuất nông nghiệp có thể tiến hành trên diện rộng và hàng loạt, đồng thời làm tăng năng suất cây trồng vật nuôi lên rất nhiều lần so với trước đây. Như vậy đầu tư máy móc thiết bị nông nghiệp là nhân tố thúc đẩy sản suất nông nghiệp ; vì thế chúng ta nên quan tâm và coi trọng đầu tư cho nông nghiệp một cách thoả đáng. Ở Việt Nam , ngành nông nghiệp còn sử dụng sức người và súc vật trong khi làm việc là chủ yếu, áp dụng máy móc trong sản xuất nông nghiệp còn rất hạn chế và ở qui mô nhỏ. Đầu tư mua sắm những phương tiện này là đỏi hỏi cấp thiết của nền nông nghiệp. Tuy nhiên chúng ta phải căn cứ vào điều kiện cụ thể của từng địa phương ,từng lĩnh vực mà mua những máy móc cho thích hợp nhất.
Thứ ba , đầu tư vào lĩnh vức khoa học công nghệ sẽ góp phần tạo ra cho nông nghiệp những giống cây trồng vật nuôi mới hiệu quả hơn. Mà ta biết giống là một yếu tố quyết định sự tăng trưởng và phát triển ngành nông nghiệp .Mỗi người đều hiểu rằng khoa học công nghệ là động lực cho sự phát triển các ngành kinh tế và no vẫn là nhân tố quan trọng cho sự phát triển mạnh sản xuất nông nghiệp. Ngày nay, công nghệ sinh học đang phát triển mạnh mẽ và chiếm một vị trí ngày càng quan trọng trong đời đời sống kinh tế thế giới. Công nghệ sinh học ngày càng có những thành công to lớn hơn và là lĩnh vực liên quan khá chặt chẽ với ngành nông nghiệp.Một phần công nghệ này sẽ được áp dụng vào sản xuất nông nghiệp. Ở mức độ quốc gia chúng ta cần đầu tư mạnh để phát triển công nghệ này , đồng thời cần có những chính sách khác để khuyến khích động viên những nhà khoa học giỏi nghiên cứu và từ đó áp dụng triệt để những thành quả của nó.Mặt khác, chúng ta nên xây dựng những trung tâm giống cây trồng vật nuôi với những cán bộ khoa học giỏi về chuyên môn nghiệp vụ để nghiên cứu ra những giống mới từ kết quả của công nghệ sinh học . Vì vậy,chúng ta nên có những chính sách để thu hút các nguồn lực trong và ngoài nước đầu tư vào công nghệ này và thành lập những trung tâm nghiên cứu áp dụng những kĩ thuật tiên tiến của thế giới và trong nước. Tóm lại , đầu tư góp phần vào việc tạo ra cho nông nghiệp một sức phát triển mới thông qua đầu tư cho công nghệ phục vụ sản xuất.
Thứ tư , đầu tư là đã góp phần tạo ra cho nông nghiệp một lực lượng lao động hùng hậu có tay nghề chuyên môn và trình độ kĩ thuất cao. Dù máy móc có hiện đại và phù hợp đến đâu, hay một phương thức sản xuât mới có tiên tiến đến mấy nhưng nếu lao động trong nông nghiệp không có trình độ để nắm bắt và sử dụng thì những thứ trên đều là vô dụng, bỏ đi. Nhờ có một khối lượng lớn đầu tư vào lĩnh vực giáo dục đào tạo thông qua việc xây dựng các trung tâm dạy nghề , các chương trình phổ biến kiến thức nông nghiệp mới cho người nông dân mà họ ngày càng nắm bắt được những kiến thức mới , thiết thực cho việc trồng trọt và chăn nuôi : biết cách thâm canh, biết điều khiển máy móc , biết làm kinh tế Vac...Điều này cũng sẽ giúp họ hiểu rõ hơn về các đặc tính và quá trình sinh trưởng của từng loại cây trồng vật nuôi để họ có những biện pháp chăm sóc tốt hơn. Khi người nông dân có trình độ càng cao sẽ càng thuận lợi cho việc phát triển nông nghiệp trong việc sử dụng những kĩ thuật mới và giúp cho ngành này có sự tăng trưởng cao.
Thứ năm , đầu tư góp phần tạo cho nông nghiệp một cơ cấu trồng trọt và chăn nuôi hợp lí hơn với tỷ trong chăn nuôi chiếm ngày càng cao trong tổng giá trị ngành nông nghiêp. Bởi vì, trong nông nghiệp , chăn nuôi là lĩnh vực có tốc độ tăng trưởng cao hơn nhiều so với trồng trọt, muốn phát triển ngành nông nghiệp thì phải đầu tư phát triển lĩnh vực chăn nuôi. Như trước đây, trồng trọt chiếm vai trò chủ yếu nên ngành nông nghiệp có tốc độ phát triẻn không cao, kể từ khi đầu tư mạnh hơn vào chăn nuôi thì nông nghiệp đã có những sự phát triển vượt bậc. Đây là hướng đi đúng của nhiều nước đi trước mà những nước đi sau như Việt Nam cần học tập và phát huy.
Nói chung, đầu tư còn góp phần cải thiện đời sống người nông dân, cải cách phương thức tổ chức quản lí nông thôn ... Tóm lại, đầu tư có vai trò quyết định sự tiến bộ đi lên không ngừng của nông nghiệp. Khi nền kinh tế càng hiện đại, nông nghiệp càng không thể không có đầu tư.
3. Đặc trưng của đầu tư trong nông nghiệp
Nông nghiệp là một ngành kinh tế dặc thù với những đặc điểm riêng biệt, vì vậy mà đầu tư trong nông nghiệp cũng có những nét đặc trưng riêng, không giống bất cứ một ngành kinh tế nào trong nền kinh tế.
Đặc trưng thứ nhất là đầu tư trong lĩnh vực nông nghiệp là quá trình thực hiện một công cuộc đầu tư cũng như việc thu hoạch những kết quả của nó chịu ảnh huởng nhiều của các điều kiện tự nhiên. Điều đặc trưng này là do đặc điểm ngành nông nghiệp chi phối. Đầu tiên, khi đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp, do đất đai là tư liệu sản xuất chủ yếu nên chúng ta phải nghiên cứu rất kĩ về các điều kiện của đất , chất lượng và đặc điểm của đất và đặc điểm về địa hình. Bởi vì đất tốt hay xấu ảnh hưởng rất mạnh tới quá trình thực hiện đầu tư và thành quả thu được. Nếu đất tốt thì cây trồng phát triển thuận lợi, có xây dựng hạ tầng cơ sở thì cũng giảm chi phí và ngược lại. Nghiên cứu về đất còn cho chúng ta biết nên trồng loại cây nào, nên nuôi loại động vật gì, để từ đó có kế hoạch sản xuất.Địa hình cũng có ảnh hưởng tới đầu tư, nếu địa hình bằng phẳng thì có thể đầu tư nhiều loại cây trồng, vật nuôi thích hợp cho vùng đồng bằng, đỡ tốn công san lấp và thuận lợi về giao thông do vậy vận chuyển các nông sản mang ra thị trường nhanh và đảm bảo tươi sống. Khi đầu tư dựa vào điều kiện của địa hình để có những chính sách đầu tư phù hợp nhất.
Khí hậu cũng ảnh hưởng tới quá trình đầu tư,khi đầu tư người ta thường phải nghiên cứu rõ điều kiện khí hậu, bởi nó có ảnh hưởng mạnh tới kết quả của sản xuất nông nghiệp hay kết quả đầu tư. Ví dụ như khi tiến hành đầu tư xây dựng hệ thông thuỷ lợi thì thường tiến hành vào mùa nước cạn, bởi khi nước lên thì việc xây dựng rất khó và cực kì tốn kém. Hoặc khi ta đầu tư một loại cây lương thực náo đó, chẳng hạn như cây lúa, ta không thể trồng lúa vào mùa đông lạnh ,bởi lúa là cây không thích hợp với điều kiện giá rét , do vậy mà đầu tư không thu được lợi ích tốt. . Do vậy mà khi đầu tư vào nông nghiệp các nhà đầu tư phải nghiên cứu rất kĩ đặc điểm tự nhiên của từng vùng để có thể có những công cuộc đầu tư mang hiệu quả cao hoặc có những biện pháp phòng tránh ảnh hưởng xấu của tự nhiên hữu hiệu.
Do sản xuất nông nghiệp có tính thời vụ nên đầu tư trong nông nghiệp cũng mang tính thời vụ khá rõ rệt. Rất nhiều hoạt động đầu tư trong nông nghiệp phải nghiên cứu thời điểm đầu tư và chọn khu vực điểm điểm đầu tư. Bởi vì, trồng trọt và chăn nuôi không thể tiến hành quanh năm cho nên chọn thời điểm để sản xuất là rất cần thiết.Do vậy khi đầu tư vào một loại đối tượng nào đó thì ta chỉ có thể bắt đầu đầu tư tại một thời gian rõ ràng và cố định trong năm, như trồng cây thì thường phải vào mùa xuân. Tuy nhiên , với trình độ khoa học phát triển chúng ta có thể đầu tư đa dạng và với khoảng thời gian rộng hơn.
Một đặc trưng nổi rõ của đầu tư trong nông nghiệp đó là nó đỏi hỏi một lượng vốn đầu tư khá lớn, có độ rủi ro cao nhưng tỷ suất lợi nhuận lại thấp hơn nhiều so với các ngành , lĩnh vực khác.Cụ thể, khi ta tiến hành đầu tư vào hệ thống cơ sở hạ tầng( như hệ thống thuỷ lợi ) hay khoa học công nghệ thì lượng vốn đầu tư thất không nhỏ chút nào. Ví dụ như để phát hiện ra một loại giống mới cho sản xuất nông nghiệp thì lượng vốn bỏ ra và số nhà khoa học cần cho nghiên cứu không thua kém để cho một sản phẩm công nghiệp mới ra đời. Hoặc chi phí để xây một hệ thống thuỷ lợi cũng không kém việc xây dựng một nhà máy hay một khách sạn du lịch. Vì vậy mà khi đầu tư , đỏi hỏi các nhà đầu tư phải có những chính sách biện pháp huy động đủ vốn và kịp tiến độ.
Đầu tư trong nông nghiệp có độ rủi ro cao, đây là vấn đề thiệt thòi cho nông nghiệp. Sở dĩ rủi ro cao vì đầu tư trong ngành nông nghiệp một mặt chịu những rủi ro chung của các công cuộc đầu tư mặt khác nó còn chịu ảnh hưởng cực mạnh của những biến đổi tự nhiên xấu. Ngoài ra việc kiểm soát và hạn chế những loại rủi ro này là rất khó, đôi khi không thể ngăn chặn nổi. Một thiệt thòi lớn của đầu tư là tỷ suất lợi nhuận của hoạt động đầu tư trong nông nghiệp rất thấp thường chỉ vài phần trăm một năm trong khi các ngành khác đạt hơn 10 % , do nông nghiệp có tốc độ tăng trưởng không cao.Khi đầu tư thời gian thu hồi vốn cũng rất lâu. Còn một số công trình đầu tư trong nông là hoà vốn, thậm chí nhiều công trình không thu đủ số vốn đầu tư ban đầu bỏ ra.
Tóm lại , hoạt động đầu tư trong nông nghiệp có những nét riêng, chính vì những nét này mà các nhà đầu tư thường không muốn bỏ vốn của mình đầu tư vào ngành nồng nghiệp, hoặc có thì cũng rất ít. Do vậy để thúc đẩy nền nông nghiệp phát triển thì đòi hỏi chính phủ mỗi nước phải có những chính sách khuyến khích , hỗ trợ đầu tư nhằm thu hút vốn đầu tư và bản thân nhà nước phải bỏ vốn đầu tư xây dựng hạ tầng cơ sở.
4. Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả đầu tư trong nông nghiệp
Để xem xét thành quả hay mức độ thành công của các công cuộc đầu tư , của một ngành của một tỉnh hay của cả nước ; ngoài chỉ tiêu kết quả đầu tư người ta còn phải sử dụng chỉ tiêu hiệu quả đầu tư để tính. Ngành nông nghiệp, do có những đặc điểm cũng như do đầu tư trong nông nghiệp có các đặc trưng riêng nên trong nông nghiệp người ta có thể sử dụng những chỉ tiêu hiệu quả sau:
a.Chỉ tiêu :GO tăng thêm/ Vốn đầu tư và GDP tăng thêm/ Vốn đầu tư
Trong đó :+ GO: giá trị sản xuất
+ GDP : tổng sản phẩm
+ Vốn đầu tư : là số vốn đầu tư của một dự án, của nhiều dự án đầu tư hay của cả một tỉnh, một nước trong một năm hoặc một thời kì nhất định
Chỉ tiêu này cho biết một đồng vốn đầu tư bỏ ra thì tạo ra bao nhiêu giá trị hàng hoá và dịnh vụ. Chỉ tiêu này, càng cao thì chứng tỏ công cuộc đầu tư càng thành công. Trong các chỉ tiêu tính hiệu quả đầu tư trong nông nghiệp thì đây là chỉ tiêu dễ tính nhất cũng như đơn giản nhất bởi lẽ các số liệu thu thập về GO ,GDP cũng như về vốn đầu tư là tương đối dễ.
b. Thời hạn thu hồi vốn đầu tư: là thời gian mà các kết quả của quá trình đầu tư cần hoạt động để có thể thu hồi vốn đã bỏ ra từ lợi nhuận thu được
Công thức tính: Ivo
`T = ------------
`Wpv
Trong đó : `Wpv là lợi nhuận thu được bình quân một năm hoặc
T
S Wipv ³ Ivo
i=0
`T và T : là thời gian thu hồi vốn đầu tư tính theo tháng ,quí ,năm
Thời hạn T thường được tính cho một dự án. Nó phản ánh phần nào mức độ hiệu quả của dự án. Đối với những dự án tương tự nhau thì dự án có thời gian thu hồi vốn đầu tư càng nhỏ càng tốt. Tuy nhiên đối với nhiều dự án của một tỉnh, một giai đoạn thì T rất khó tính, thậm chí là không tính được. Trong nông nghiệp có nhiều dự án khó tính được thời gian T bởi vì đầu tư trong nông nghiệp mang tính xã hội cao, nhiều khi không có lợi nhuận, nên nó không được sử dụng nhiều
c. Hệ số hoàn vốn nội bộ: là tỷ suất lợi nhuận mà nếu được sử dụng để tính chuyển các khoản thu chi của toàn bộ công cuộc đầu tư về mặt bằng thời gian ở hiện tại sẽ làm cho tổng thu cân bằng với tổng chi. Công cuộc đầu tư được coi là có hiệu quả khi :
IRR ³ IRR định mức
Trong đó IRR định mức có thể là lãi suất đi vay nếu ta phải vay vốn để đầu tư, có thể là tỷ suất lợi nhuận định mức do nhà nước qui định nếu vốn đầu tư do ngân sách cấp , có thể là tỷ suât lợi nhuận bình quân hoặc là chi phí cơ hội của vốn tự có...
Để tính IRR của một dự án người ta có thể tình bằng nhiều cách khác nhau: như bằng máy tính, bằng phương pháp nội suy, ngoại suy... Chỉ tiêu IRR rất quan trọng trong việc tính hiệu quả dự án đầu tư. Nói chung dự án có IRR càng lớn càng tốt . Trong ngành nông nghiệp, do dặc trưng của đầu tư trong ngành nên các công cuộc đầu tư thường có IRR là tương đối thấp. Đây là công thức có thể tính được nếu công tác thống kê thu thập làm tốt.
d. Chỉ tiêu số lao động tăng thêm từng năm của dự án.
Số việc làm = Số lao động - Số lao động
tăng thêm thu hút thêm mất việc làm
Số lao động tăng thêm nói lên sự đóng góp của dự án đối với nền kinh tế xã hội. Số lao động tăng thêm nói chung là tương đối dễ tính tuy nhiên trong ngành nông nghiệp, người nông dân dù có thêm hay giảm đầu tư thì họ vẫn phải làm nông nghiệp, nên trong nông nghiệp tính không phải là dễ. Còn số lao động tăng thêm càng nhiều ,dự án đó càng hiệu quả ( nhưng ta còn phải xem xét thêm thu nhập của người lao động tư dự án như thế nào)
e .Giá trị sản phẩm thuần tuý tăng thêm( NVA):
Đây là chỉ tiêu cơ bản phản ánh hiệu quả kinh tế xã hội ở tầm vĩ mô của đầu tư. NVA là mức chênh lệnh giữa giá trị đầu ra và giá trị đầu vào.
Công thức tính: NVA = O - (MI + Iv)
Trong đó : - NVA là giá trị sản phẩm thuần tuý tăng thêm do đầu tư đem lại
O : là giá trị đầu ra của công cuộc đầu tư ( doanh thu)
MI: là giá trị đầu vào của vật chất thường xuyên và các dịch vụ mua ngoài theo yêu cầu để đạt được đầu ra trên đây( năng lượng, nhiên liệu, giao thông ...)
Iv: vốn đầu tư hoặc khấu hao
Trong ngành nông nghiệp ,chỉ tiêu này rất phù hợp bởi nhiều dự án nông nghiệp mang tính lợi ích xã hội hơn là lợi nhuận. Nếu tính theo chỉ tiêu này thì mức lợi ích của đầu tư trong nông nghiệp là tương đối cao. Tuy nhiên, đây lại là chỉ tiêu rất khó tính được chính xác. NVA còn có thể tính cho từng năm hoặc tính cho nhiều dự án trong một thời kì nhất định
f.Chỉ tiêu GO/GDP
Trong đó: GO giá trị sản xuất của
: GDP = GO - chi phí trung gian
Chỉ tiêu này cho biết hiệu quả của vốn đầu tư, nói trung nó có giá trị càng gần 1 càng tốt. Nếu gần 1, tức sẽ giảm tối thiểu các chi phi trung gian không cần thiêt, những kết quả thu được từ đầu tư chính là sự gia tăng giá trị cho xã hội
g. Chỉ tiêu công bằng xã hội :chỉ tiêu này xem xét mức độ bình đẳng của người dân trong xã hội, mức độ phân phối thu nhập từ công cuộc đầu tư...
Trên đây là một vài chỉ tiêu tiêu biểu phản ánh hiệu quả đầu tư trong nông nghiệp. Muốn tính hiệu quả đầu tư chính xác ta nên kết hợp chúng với nhau .
Chương II. Thực trạng đầu tư phát triển nông nghiệp Hà Tây
I.Các nguồn lực cho đầu tư phát triển
Giới thiệu các nguồn lực Hà Tây
Điều kiện tự nhiên
Vị trí địa lí:
Hà Tây là một tỉnh vừa mới tái lập gồm hai tỉnh Hà Đông và Sơn Tây hợp thành. Hà Tây có diện tích chung là 2147 km2, nằm trong vùng đồng Bằng Bắc Bộ; phía đông nằm ngay tiếp giáp Thủ đô Hà Nội, phía bắc giáp với Vĩnh Phúc, Phía Tây và Nam tiếp với hai tỉnh Hải Dương và Hoà Bình. Như vậy, Hà Tây là cửa ngõ nối Thủ đô Hà Nội với các tỉnh Tây Bắc và đặc biệt là các tỉnh phía Nam và Hà Tây nằm trên nhiều đường giao thông quan trọng huyết mạch của đất nước như đường quốc lộ 1, 6 và 32 , đường thuỷ sông Hồng chạy qua nên rất có điều kiện phát triển kinh tế xã hội.
Hơn nữa , Hà Tây còn nằm gần khu tam giác kinh tế trọng điểm không những của phía bắc và cả nước: Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh. Như vậy tỉnh sẽ chịu ảnh hưởng mạnh của sự phát triển của các tỉnh này.
Khí hậu
Có thể nói, Hà Tây nằm ở vùng Đông Bắc nên có khí hậu nhiệt đới gió mùa ẩm với mùa đông nhiệt độ thấp lạnh, có gió mùa đông bắc rét, hanh khô còn mùa hè nóng và mưa nhiều. Lượng mưa trung bình hàng năm vào khoảng 1800 - 2000 mm.Do diện tích không lớn, nên khí hậu Hà Tây không có sự khác biệt lớn giữa các huyện thị trong tỉnh. Với loại khí hậu này , Hà Tây có thể phát triển đa dạng các loại cây trồng vật nuôi. Tuy nhiên , Hà Tây cũng có bất lợi về mùa mưa chịu ảnh hưởng của lượng mưa lớn còn mùa khô thiếu nước nên đòi hỏi đầu tư lớn cho hệ thống thuỷ lợi để điều hoà tưới tiêu. Ngoài ra một số vùng Hà Tây còn chịu ảnh hưởng kế hoạch phân lũ Sông Hồng, nên có thể ảnh hưởng tới sản xuất nông nghiệp.
Địa hình
Hà Tây là một tỉnh với nhiều loại địa hình đa dạng và cũng tương đối phức tạp.
+ Với phía Tây là vùng đồi núi chiếm 1/3 diện tích lãnh thổ toàn tỉnh. với diện tích vùng núi là 70.400 ha.
+ Vùng đồi với độ cao khoảng dưới 100 m, chủ yếu là đồi thấp với diện tích 53.400 ha
+Phía đông là vùng đồng bằng với diện tích khoảng 144.450 ha, chiếm 2/3 diện tích toàn tỉnh. Vùng đồng bằng với bề mặt tương đối bằng phẳng lại ven một số con sông lớn như sông Hồng, sông Đáy..Trong vùng đồng bằng có hai nơi trũng nhất là Mỹ Đức và vùng Ứng Hoà ,Thường Tín ... Với kiểu địa hình này, Hà Tây có thể trồng đa dạng các loại cây, đồng thời có thể tiến hành thâm canh tăng vụ hoặc cũng có thể ứng dụng nhiều mô hình kinh tế nông nghiệp như VAC hay phát triển kinh tế trang trại.
Tài nguyên đất
Đây là tỉnh có vùng đồng bằng có diện tích khá lớn, nằm ở một trong những đồng bằng phì nhiêu và tốt nhất nước. Nên đất ở đây cũng tương đối màu mỡ và phì nhiêu ,giàu chất phù sa. Các vùng đất này có thể nằm trong đê hoặc ngoài đê thường xuyên được phù sa các con sông bồi đắp.Vì vậy mà đất ngày càng trở nên tốt và hiệu quả đối với trồng trọt.
Vùng đồng bằng này có các loại đất chủ yếu như sau:
+ Đất phù sa bồi: diện tích 17.038 ha ( chiếm 8 %)
+ Đất phù sa không bồi : diện tích 51.392 ha ( chiếm 24 % )
+ Đất phù sa Gley : diện tích 51.551 ha ( chiếm 24 % )
Như vậy diện tích đất thuận lợi cho phát triển nông nghiệp của Hà Tây là rất lớn và khá đa dạng. Tuy vậy việc sử dụng hiệu quả nguồn tài nguyên này cũng chưa thật cao. Thể hiện ,Hà Tây chủ yếu là độc canh cây lúa trong trồng trọt nhưng năng suất cũng chưa cao và hiệu suất sử dụng đất trong năm khoảng hơn hai lần là tương đối thấp.
Hà Tây còn có một vùng đồi núi với các loại đất khá phong phú:
+ Đất nâu vàng trên phù sa cổ: diện tích 20. 603 ha ( chiếm 10 % )
+ Đất đỏ vàng trên đá phiến sét : 10.783 ha ( chiếm 5 % )
+ Còn lại là các loại đất khác.
Các loại đất này chủ yếu dùng để phát triển cây lương thực ngắn ngày hoặc thích hợp cho việc trồng cây công nghiệp, không thật phù hợp cho cây lương thực. Tuy nhiên trong vùng đất này ta có thể tiến hành chăn nuôi gia súc như trâu bò, dê hoặc phát triển kinh tế trang trại với các cây ăn quả là rất thích hợp.
Tài nguyên nước
Là một tỉnh có nhiều con sông lớn chảy qua như sông Hồng bao bọc ở phía Đông, sông Đà ở phía Bắc, Sông Đáy ở phía Nam và còn cả một hệ thống sông nội địa như sông Nhuệ... Như vậy mật độ nước ở tỉnh Hà Tây là khá dàyvà chiếm một diện tích không nhỏ. Các con sông này có lưu lượng nước hàng năm là rất lớn, với lượng nước hàng năm vào khoảng 180 - 200 tỷ m3. Cùng với nước là hàng ngàn tấn phù sa các loại luôn bồi đắp cho các vùng đồng bằng. Ở Hà Tây còn có một trữ lượng nước ngầm khá lớn chưa được khai thác hiệu quả. Với lượng nước đồi dào nay thì vấn đề tưới tiêu cho sản xuất nông nghiệp là cực kì thuận lợi; để khai thác tốt lợi thế này , cần phải xây dựng hoàn thiện hệ thống thuỷ lợi.
1.2 .Dân số và lao động
Vào năm 1996, dân số Hà Tây là 2328 triệu người; nhưng đến năm 2000 dân số của tỉnh là 2423 triệu người với tốc độ tăng dân số bình quân hàng năm trong giai đoạn 1996- 2000 là 1.1 % năm, là một tỷ lệ tăng khá thấp so với trung bình toàn quốc.Với diện tích là 2147 km2 , năm 2000 mật độ dân số là 1084 người / km2, trong đó vùng đồng bằng có mất độ khá cao là 1305 người / km2. Có thể nói mật độ dân số Hà Tây là rất cao, như vậy đây là một tỉnh đông dân . Trong số dân này, có đến 90% dân số sồng ở các cùng đồng bằng, trong khi các vùng núi có tiềm năng số dân lại ít ỏi.Và cũng một tỉ lệ đó dân sô sống ở các vùng nông thôn . Mặc dù là một tỉnh giáp với thủ đô, một trung tâm lớn của cả nước nhưng số dân thành thị của Hà Tây lại thấp. Nhìn chung đây vẫn là một tỉnh đông dân, sống phụ thuộc chủ yếu vào nông nghiệp với dân số lại tương đối trẻ và sung sức.
Với lực lượng lao động là 1276. 3 triệu người ( chiếm 52.6% dân số ), thì Hà Tây có đội ngũ lao động hùng hậu với tốc độ tăng bình quân là 2% năm . Trong số này thì hơn 70% laođộng tập trung trong sản xuất nông nghiệp.Người lao động trong nông nghiệp rất khoẻ, cần cù chịu khó lại có trình độ văn hoá tương đối khá, họ còn là những người có kinh nghiệm trong trồng trọt và chăn nuôi. Tuy nhiên lực lượng lao động trong nông nghiệp chủ yếu là thuần nông và thiếu ngành nghề phụ để sinh sống .Dọ vậy cần phải mở các lớp dạy nghề và nâng cao kiến thức cho người nông dân.
Trong những năm gần đây , lực lượng lao động trí thức của Hà Tây đã có bước phát triển đáng kể cả về chất lượng và số lượng, nhưng tập trung chủ yếu ở thành thị, tuy vậy việc làm của họ chưa thật ổn định.
2. Những lợi thế và thách thức.
2.1 Lợi thế.
Nhìn vào các nguồn lực cho phát triển trên ta thấy , Hà Tây có rất nhiều thuận lợi cho phát triển kinh tế xã hội nói chung và phát triển nông nghiệp nói riêng.
- Gần thủ đô Hà Nội, nằm trong vùng đồng bằng Bắc Bộ, lên có diện tích đồng bằng khá lớn, có chất lượng đất tốt nên thuận lợi cho trồng trọt . Ngoài ra , Hà Tây còn có thể tiếp nhận những giống cây trồng vật nuôi mới được phát triển từ các trung tâm nghiên cứu ở thủ đô. Sản phẩm nông sản của tỉnh còn có một thị trường tiêu thụ rộng lớn.Nằm ở vị trí này cũng dễ nhận được sự quan tâm và đầu tư của Đảng và nhà nước cũng như của nhiều thành phần kinh tế xã hội.
Với lượng mưa lớn, nguồn nước dồi dào, nếu sử dụng tốt ngành nông nghiệp sẽ được đảm bảo thuận lợi về tưới tiêu
Hà Tây có lực lượng lao động đông đảo, có nhiều đặc tính nổi bật lại tập trung hơn 70 % cho sản xuất nông nghiệp.
Hệ thống cơ sở hạ tầng tương đối hoàn chỉnh và đang được đầu tư
Khí hậu đa dạng phong phú và thay đổi giữa các mùa và địa hình thì không đồng nhất
Đất nước đang trong qua trình công nghiệp hoá hiện đại hoá nên toàn dân hăng hái sản xuất xây dựng đất nước.
...
2.2 Những thách thức
Bên cạnh những lợi thế ,sự phát triển nông nghiệp của tỉnh cũng gặp nhiều khó khăn và thách thức.
+ Đất nước đang trong quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá nên sự quan tâm và đầu tư của các cấp chính quyền cũng như của các tầng lớp dân cư cho nông nghiệp sẽ kém hơn trước, cho nên nhiều yếu tố thuận lợi không còn
+ Mùa mưa với lượng nước lớn thường gây úng ngập ở nhiều vùng trong tỉnh. Một số huyện nằm trong vùng phân lũ của sông Hồng cho nên gây khó khăn cho sản xuất nông nghiệp vào mùa mưa
+ Dân số tăng nhanh trong khi đất nông nghiệp có hạn dẫn đến bình quân m2 đất trên đầu người giảm, đất nông nghiệp cũng bị thu hẹp để phục vụ cho mục đích khác.
+ Lực lượng lao động tuy đông nhưng trình độ còn thấp , chủ yếu là lao động thuần nông nên chưa đủ kiến thức để tiếp thu những tiến bộ mới trong nông nghiệp
+ Cơ sở hạ tầng cho nông nghiệp đã quá cũ và hỏng nhiều, tuy có đầu tư những vẫn chưa khắc phục được
+ ...
Tóm lại , Quá trình phát triển nông nghiệp của toàn tỉnh Hà Tây có nhiều cơ hội cũng như gặp nhiều thách thức.Do vậy để có được một nền nông nghiệp mạnh thì toàn tỉnh phải cố gắng nỗ lực phấn đẫu hơn nữa để phát huy hết những lợi thế đồng thời phải vượt qua những khó khăn thử thách.
II.Tổng quan về tình hình đầu tư Hà Tây trong giai đoan 1996- 2000
Hà Tây là tỉnh nằm ở một vị trí hết sức thuận lợi cho phát triển kinh tế xã hội lại nhận được nhiều sự quan tâm của Đảng , nhà nước và các tầng lớp dân cư và các thành phần kinh tế trong và ngoài tỉnh nên kinh tế Hà Tây đã có sự phát triển mạnh mẽ trong thời gian qua . Cùng với bước phát triển đó, các nguồn vốn đầu tư vào Hà Tây cũng tăng lớn rất mạnh với nhiều dự án có vốn đầu tư khá lớn và hoạt động mang lại hiệu quả cao. Nó đã góp phần quan trọng vào việc phát triển kinh tế tỉnh.
1.Phân theo nguồn vồn đầu tư
Căn cứ vào cách chia của địa phương , đầu tư vào tỉnh Hà Tây theo các nguồn cụ thể sau:
Bảng1. Bảng cơ cấu vốn đầu tư phân theo nguồn vốn
Giai đoạn1996- 2000
Đơn vị
1996
1997
1998
1999
2000
Ngân sách nhà nước
Tỷ trọng
Tỉ đồng
%
96.4
14.46
152.9
17.83
149.8
18.73
536.2
46.12
500.4
44.24
Vốn tín dụng
Tỷ trọng
Tỉ đồng
%
14.3
2.14
12
1.4
23
2.88
28.0
2.4
30.0
2.65
Vốn đầu tư doanh nghiệp
Tỷ trọng
Tỉ đồng
%
30.1
4.51
28. 2
3.29
32
4
24.0
2.06
25.4
2.24
Vốn tư nhân và dân cư
Tỷ trọng
Tỉ ._.ầu tư một cách triệt để, vốn đầu tư nước ngoài rất hiếm. Việc sử dụng vốn ngân sách còn nhiều lãng phí, chưa thất hiệu quả
+Công tác quản lí dự án đầu tư còn lỏng lẻo, nhiều cơ quan có nhiệm vụ về quản lí đầu tư còn có một số sai phạm cần khắc phục
+ Chưa có những chính sách thật phù hợp thuận lợi nhằm thu hút vốn đầu tư và khuyến khích đầu tư vào nông nghiệp: như chính sách về thuế nông nghiệp, chính sách ruộng đất , chính sách khuyến nông, chính sách về giáo dục đào tạo kiến thức cho người nông dân
...
Những tồn tại trên đã làm giảm tính hiệu quả của đầu tư phát triển ngành nông nghiệp; vì vậy để phát huy hơn nữa vai trò của đầu tư , trong thời gian tới cần có những giải pháp thiết thực.
III. Giải pháp cho đầu tư phát triển nông nghiệp Hà Tây
Dựa vào những phương hướng phát triển nông nghiệp và trên cơ sở những vấn đề còn tồn tại trong đầu tư nông nghiệp thời gian qua. Ta có đưa ra một số biện pháp chủ yếu cho đầu tư nông nghiệp nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả đầu tư nông nghiệp
1.Giải pháp về chính sách đầu tư.
1.1.Chính sách của các cấp chính quyền.
* Tiếp tục coi phát triển nông nghiệp là nhiệm vụ quan trọng
Trong quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nướchiện nay, bên cạnh việc chú trọng phát triển công nghiệp và dịch vụ , chúng ta không được coi thường việc phát triển nông nghiệp. Đây là vấn đề hết sức quan trọng cho sự ổn định và phát triển kinh tế đất nước.Bởi vì hiện nay nông nghiệp vẫn là một ngành kinh tế chủ yếu, giá trị hàng xuất khẩu nông lâm thuỷ sản chiếm giá trị không nhỏ trong tổng hàng xuất khẩu Việt Nam.Trong khi đó, nông nghiệp và nông thôn, với hơn 70 % dân số là một thị trường giàu tiềm năng và chưa được khai thác là mấy. Nước ta xuất khẩu nhiều nông sản nhưng theo nhiều nhà kinh tế nước ta chưa được an toàn hẳn về lương thực. Ví dụ như năm 1999, 2000 , tình trạng giảm phát ở nước ta là do một nguyên nhân khá quan trọng là thu nhập của người nông dân giảm, sức tiêu thụ ở nông thôn giảm, trong khi dân số nước ta lại có tới 70 % sống ở nông thôn và làm nông nghiệp, kéo theo thị trường cả nước giảm theo và công nghiệp từ đó trì trệ và giảm sức sản xuất.Trước tầm quan trọng đó của ngành nông nghiệp mà Đảng và nhà nước cần tiếp tục chú trọng phát triển nông nghiệp, tiếp tục đầu tư để nhằm thu hút các nguồn đầu tư khác cho ngành nông nghiệp . Có như vậy, nông nghiệp phát triển hơn nữa từ đó thúc đẩy các ngành kinh tế khác đi lên.
Đối với tỉnh Hà Tây, là một tỉnh nông nghiệp nên trong thời gian tới vẫn cần ưu tiên phát triển cho ngành nông nghiệp, tránh tư tưởng chủ quan do mình đã có thành tích. Trong các chủ chương chính sách tỉnh cần tiếp tục nêu cao ngọn cờ phát triển nông nghiệp và nông thôn bên cạnh những chính sách đầu tư phát triển ngành công nghiệp và dịch vụ. Có như thế một bộ phận dân chúng của tỉnh mới cải thiện đời sống , nhiều ngành kinh tế và nhiều thành phần kinh tế tăng trưởng theo, làm cho kinh tế cả tỉnh phát triển. Coi trọng và đầu tư cho nông nghiệp phải năm trong kế hoạch phát triển tương lai của tỉnh.
* Chính sách đối với vốn đầu tư từ ngân sách.
Nguồn vốn từ ngân sách đóng góp không nhỏ cho sự phát triển nông nghiệp Việt Nam nói riêng và phát triển nông nghiệp tỉnh Hà Tây nói riêng. Vì thế trong những năm tới nhà nước và tỉnh cần tiếp tục tăng số vốn đầu tư cho nông nghiệp ( tỉ trọng có thể giảm). Nguồn vốn này cần đầu tư vào các công trình trọng điểm hay các công trình có tầm quan trọng để thúc đẩy sản xuất hoặc nhằm thu hút các nguồn vốn khác đầu tư cho nông nghiệp khi họ thấy nông nghiệp có lợi hoặc nhà nước góp vốn với các doanh nghiệp hoặc dân cư để đầu tư cho những dự án cần thiết.Vốn ngân sách tỉnh Hà Tây cũng nên đầu tư mạnh hơn nữa vào việc phát triển những giống mới , không nên quá chú trọng đầu tư cho thuỷ lợi bởi những công trình này có thể kêu gọi sự góp vốn của người dân.
* Về thuế nông nghiệp.
Thuế nông nghiệp ở đây gồm thuế đất ,thuế đánh vào kết quả sản xuất nông nghiệp...có thể nói thuế có ảnh hưởng rất lớn đối với đầu tư và việc sản xuất của người dân. Đối với thuế sử dụng đất , bên cạnh thuế suất thấp như hiện nay , các cơ quan chính quyền địa phương nên có mức thuế suất linh hoạt đối với từng loại đất và tránh tình trạng cứng nhắc: tính chuẩn bình quân cả năm gây cho các loại đất, sẽ gây thiệt hại cho những người nhân nơi đất xấu.Các cơ quan thu thuế cũng cần ghi rõ ràng các khoản thu thuế và có hoá đơn đói với người dân để họ có thể nộp thuận lợi , không bị gò ép.
Trong mức thuế đánh vào kết quả sản xuất và lao động của người dân, cần giảm bớt mức thuế đối với những hộ nông dân nghèo. Thuế nông nghiệp nên là công cụ để phân phối thu nhập chứ không nên là rào cản đối với việc làm giàu của người dân. Thuế cũng không nên đánh vào những hộ nông dân có thu nhập cao khi họ mới thành công trong việc sản xuất theo những mô hình kinh tế mới . Ví dụ như thuế đánh vào các hộ nông dân có thu nhập cao,khi họ tiến hành thành công việc sản xuất nông nghiệp theo mô hình kinh tế trang trại.
Đối với các miền gặp khó khăn nên có sự miễn giảm thuế nhiều hơn. Nguồn thuế này nhà nước cũng cần trao lại cho địa phương để tái đầu tư cho ngành nông nghiệp và nhà nước sẽ quản lí chặt qúa trình sử dụng. Thuế nông nghiệp nên có mức hợp lí và không nên để nó là công cụ cản trở đối với sản xuât nông nghiệp.
* Chính sách đối với đất nông nghiệp
Ta biết rằng trong sản xuất nông nghiệp, đất là tư liệu sản xuât hàng đầu, do vậy mọi sự thay đổi trong chính sachs của nhà nước về ruộng đất đều ảnh hưởng đến việc đầu tư và sản xuất nông nghiệp. Chẳng hạn, hiện nay nhà nước có qui định giao đất cho nông dân với thời hạn 15- 20 năm là hợp lí đối với đất đồng bằng, nhưng đối với các vùng đất mới khai hoang, nên có thời hạn sử dụng đất lâu hơn. Nhá nước cũng nên cho phép người nông dân trồng trọt các loại cây nông nghiệp hoặc phát triển nhiều loại hình khác trên những vùng đất được giao miễn sao có hiệu quả, không nhất thiết qui định cứng nhắc một loại cây nhất định. Nhưng nhà nước nên cấm các hộ nông dân , hoặc các gia đình có ý định chuyển đất nông nghiệp thành đất xây dựng hoặc phục vụ cho mục đích khác.
Tóm lại nếu thực hiện tốt các chính sách ưu tiên trên sẽ thúc đẩy đầu tư vào nông nghiệp và góp phần nâng cao hiệu quả của nó.
1.2.Qui hoạch đầu tư trong nông nghiệp khoa học và hợp lí.
Qui hoạch tốt sẽ giúp cho đầu tư đúng hướng , đúng khu vực cần thiết và góp phần thúc đẩy sản xuất.
* Tăng cường đầu tư cho chăn nuôi
Trong thời gian tới , tỉnh Hà Tây nên có cơ cấu ngành nông nghiệp theo đó ngành chăn nuôi sẽ chiếm tỷ trọng cao trong giá trị sản xuất nông nghiệp. Việc đưa ra cơ cấu hợp lí này sẽ góp phần đưa nông nghiệp tỉnh đi lên.Việc chọn ngành chăn nuôi làm trọng điểm sẽ làm nguồn vốn đầu tư của ngân sách cho chăn nuôi sẽ gia tăng và toàn tỉnh đầu tư nhiều hơn vào giống vật nuôi , giúp cho nông dân có giống mới, và họ sẽ đầu tư vào chăn nuôi góp phần đưa chăn nuôi tăng trưởng.Bên cạnh việc phát triển chăn nuôi, tỉnh vẫn cần ổn định phát triển ngành trồng trọt , cần ưu tiên cho một số cây trồng hỗ trợ chăn nuôi hoặc nên kết hợp cả chăn nuôi và trồng trọt trong một tổng thể chung cùng phát triển .Việc đầu tư chăn nuôi góp phần đẩy mạnh tốc độ tăng trưởng của ngành nông nghiệp, cải thiện đời sống cho người nông dân và ngoài ra có thể giúp cho người dân có thể tiến hành chăn nuôi trên qui mô lớn được thuận lợi
* Đầu tư theo thứ tự ưu tiên
Tỉnh Hà Tây không phải là một tỉnh giàu có , vốn đầu tư cho nông nghiệp thì rất ít, trong khi đó nhiều công trình hạ tâng nông nghiệp đã xuống cấp cần đầu tư, hoặc cần phải đầu tư trước...Vì vậy mà tỉnh nên có kế hoạch thật hợp lí khoa học để xếp các công trình dự án theo một thứ tự ưu tiên nhất định: công trình nào cần thì đầu tư trước, ít cần thì đầu tư sau... như vậy không những giảm được nhu cầu vốn đầu tư quá lớn và tránh được sự lãng phí và hiện tượng đầu tư dàn trải trên diện rộng, đồng thời cũng nâng hiệu quả của các đồng vốn đầu tư bỏ ra sớm phát huy tác dụng.Như đầu tư cho hệ thống giống phải song song đi liền với hệ thống thuỷ lợi, và lượng vốn đầu tư cho giống không nên thấp quá so vơi vốn cho thuỷ lợi . Hoặc như đầu tư vào hệ thống kênh mương vùng nào còn sử dụng được nên tận dụng. Địa phương nào cần đầu tư cho thuỷ lợi nên đầu tư cho các kênh chính trước sau đó đầu tư các kênh phụ như vậy sẽ sử dụng được đồng bộ các công trình. Việc qui hoạch thứ tự các dự án là rất cần thiết đối với đầu tư trong ngành nông nghiệp tỉnh Hà Tây.
* Đầu tư theo mô hình kinh tế trang trại
Tỉnh Hà Tây là một địa phương có nhiều thế mạnh mà có khả năng phát triển hiệu quả mô hình kinh tế trang trại.Bởi lẽ tỉnh có địa hình đa dạng, đồi nui nhiều chưa được sử dụng, thời tiêt khá ổn định. Mặt khác mô hình kinh tế trang trại còn giúp cho người dân gia tăng sản xuất , tăng thu nhập vàkhai thác những tiềm năng của mình. Cho nên tỉnh cần có những chính sách ưu tiên và kêu gọi người dân áp dụng mô hình này theo định hướng của tỉnh. Như khuyến khích người dân thông qua việc cho vay vốn ưu đãi, không thu thuế trong thời gian đầu, có thể giúp họ tiêu thụ nông sản nếu được mùa và trợ cấp khi khó khăn. Hoặc tỉnh có các chương trình phổ biến kiến thức cho người dân về cách thức làm trang trại và cách chăm sóc các cây trồng vật nuôi trong những trang trại của mình. Phát triển trang trại là cách đi đúng,nó sẽ tạo điều kiện cho việc cơ giới hoá nông nghiệp và hướng phát triển của nông nghiệp trong tương lai.
1.3.Đầu tư nông nghiệp đi liền với đầu tư cho công nghiệp chế biến
Một giải pháp nữa trong chính sách của nhà nước cho nông nghiệp và sẽ làm cho đầu tư trong nông nghiệp thành công hơn là nó nên kết hợp với đầu tư cho công nghiệp chế biến.. Ta biết rằng công nghiệp chế biến nông - lâm - thuỷ sản là một lĩnh vực công nghiệp nhưng nó chính là động lực cho sự phát triển ngành nông nghiệp và khai thác được những thành quả của đầu tư cho nông nghiệp. Đối với một tỉnh có vị trí gần thủ đô Hà Nội , lại nằm ở khu vực đông dân cư. Trong khi đó, nông nghiệp của tỉnh lại có tốc độ tăng trưởng khá nhanh. do vậy tỉnh nên đầu tư xây dựng một số nhà máy chế biến qui mô vừa phải nhằm chế biến các nông sản của tỉnh, từ đó nâng cao giá trị nông sản và dễ dàng manh đi tiêu thụ ở thị trường lớn. Với sự đầu tư này không những giúp cho nông nghiệp tỉnh phát triển nhanh mà còn kéo theo ngành công nghiệp phát triển theo góp phần vào việc công nghiệp hoá và hiện đại hoá quê nhà.
2.Vấn đề huy động vốn.
Vốn đầu tư là rất cần đối với nông nghiệp, do vậy tỉnh cần phải có những giải pháp nhằm huy động tối đa mọi nguồn vốn cỏ thể.
Trước hết tỉnh cần xây dựng một chương trình tổng thể để thu hút thu hút mọi nguồn vốn đầu tư : vốn đầu tư trong nước, vốn đầu tư nước ngoài. Từ đó phối hợp sử dụng các nguồn vốn này vào các công trình cụ thể. Ngoài ra , đối với các công trình có thể huy động từ nhiều nguồn vốn khác nhau thì cần phải sử dụng hợp lí các nguồn này. Còn đối với những nguồn vốn cụ thể cần phải có những chích sách riêng phù hợp .
2.1 Đối với vốn đầu tư của các doanh nghiệp và các tầng lớp dân cư trong tỉnh:
Đây là nguồn vốn đầu tư có tiềm năng lớn nhưng chưa được khai thác cho đầu tư nông nghiệp là mấy. Đối với vốn đầu tư của các doanh nghiệp và vốn đầu tư của dân cư thì bên cạnh những chính sách của nhà nước thì tỉnh cũng nên có những chính sách riêng của mình
* Đối với nguồn vốn từ các doanh nghiệp của tỉnh
Tỉnh nên có những chính sách nhằm khuyến khích các doanh nghiệp của tỉnh và các doanh nghiệp trương ương đóng trên địa bàn tỉnh bỏ vốn đầu tư vào ngành nông nghiệp. Cụ thể tỉnh qui hoạch các cùng nhiều tiềm năng , đồng thời tạo nhiều điều kiện thuận lợi để họ thấy đầu tư vào các vùng này là có lợi và đem lại hiệu quả cao hoặc tỉnh có thể đầu tư ban đầu tạo ra những cơ sở hạ tầng tương đối tốt cho vùng này.Tỉnh cũng có thể khai phá phần nào hoặc hợp tác với họ đê cùng khai thác như vây sẽ đảm bảo lợi ích đôi bên . Mặt khác tỉnh cũng nên có chính sách ưu đãi về thuế như đánh thuế thấp hoặc giảm thuế trong thời gian đầu. Tiến hành lập danh sách các công trình lĩnh vực ưu tiên đầu tư để họ thấy xem có thể đầu tư được hay không. Thêm vào đó đối với nhiều công trình dự án như đầu tư vào hệ thống thuỷ lợi tỉnh kêu gọi họ đầu tư sau đó cho phép họ thu phí sử dụng các công trình này với một tỉ lệ phù hợp để họ có thể thu được lợi hợp lí. Cũng nên cho họ vay vốn với lãi suất ưu đãi và điều kiện vay rễ ràng. Chính quyền tỉnh cũng nên chủ động phát triển một số mô hình kinh tế lớn có lợi cao để thúc đẩy đầu tư của các doanh nghiệp
Tóm lại thu hút được nhiều vốn tư các doanh nghiệp đầu tư cho nông nghiệp không những tăng vốn đầu tư cho nông nghiệp mà còn làm tăng khả năng sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh.
* Đối với nguồn vốn của dân cư(chủ yếu là nguồn vốn của nông dân.)
Nhưng người nông dân tuy nghèo nhưng họ luôn sẵn sàng tham gia vào quá trình đầu tư xây dựng những công trình đảm bảo cho sản xuất của họ được thuận lợi: như thuỷ lợi ,giao thông nông thôn, điện...Để huy động nguồn vốn này ,nên có những công trình đầu tư thiết thực cho nông nghiệp theo phương thức nhà nước và nhân dân cùng làm. Theo đó nêu rõ và tuyên truyền ích lợi của công trình cho họ, đồng thời nêu rõ kế hoạch sử dụng vốn đầu tư cho nông dân.Việc thu tiền góp đầu tư của người nông dân phải đưoc công bố rõ ràng từ trước, phải do những người có uy tín ở địa phương tiến hành. Trong quá trình đầu tư nên tổ chức một cơ quan giám sát và có đại diện của dân tham dự. Đồng thời ,khi công trình hoàn thành nên công bố rõ tài chính của dự án, chi phí của từng hạng mục công trình cho người dân biết. Đặc biệt là phải chống sự tham ô tham nhũng của một số cán bộ để dân tin và chính quyền. Có thực thi những biện pháp như vậy mới có thể thu hút được nhiều vốn đầu tư từ dân. Còn đối với những công trình thuỷ lợi do nhà nước làm , khi thu thuỷ lợi phí lên công bố rõ mức thu , nên thu trong nhiều năm và phải có những kế hoạch sử dụng khoản tiền này minh bạch rõ ràng. Huy động được lớn nguồn vốn này sẽ góp phần không nhỏ vào sự nghiệp công nghiệp hoá nông nghiệp và nông thôn.
2.2 Đối với nguồn vốn nước ngoài.
Bên cạnh các nguồn vốn đầu tư từ trong nước, nguồn vốn đầu tư từ nước ngoài cũng rất quan trọng.
Đối với vốn FDI, nói chung các nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài không có hứng thú với lĩnh vực nông nghiệp; vì vậy họ thường ít bỏ vốn đầu tư vào nông nghiệp. Do vậy để thu hút vốn này nhà nước cần có những chính sách đầu tư thông thoáng hơn nữa:về thủ tục pháp lí, thuế đối với kết quả đầu tư... bên cạnh đó tỉnh nên có những chính sách thực sự hấp dẫn về đầu tư trong lĩnh vực nông nghiệp ngoài ra tỉnh Hà Tây nên lập những chương trình chiến lượcđể kêu gọi nguồn vốn đầu tư này như kêu gọi những nhà đầu tư vào lĩnh vực giống hoặc phân bón, công cụ cho sản xuất nông nghiệp những lĩnh vực mà nhà đầu tư có thể thu được nhiều lợi nhuận đồng thời cũng trợ giúp nông nghiệp phát triển .
Nhìn chung vốn đầu tư nước ngoài vào nông nghiệp tỉnh Hà Tây dưới dạng vốn ODA(vốn hỗ trợ phát triển). Để thu hút được nhiều nguồn vốn này tỉnh cần qui hoạch các vùng , các huyện cần hỗ trợ để trình lên chính phủ từ đó nhà nước xem xét và giới thiệu các nguồn vốn ODA. Thông qua đó tỉnh tiến hành đàm phán thoả thuận các điều kiện đầu tư để có thể nhận được nguồn vốn này. Đối với một số huyện trong tỉnh đã được nhận vốn ODA nên sử dụng vốn hiệu quả ,thiết thực để gây uy tín với các tổ chức quốc tế, các chính phủ các nước để họ tiếp tục đầu tư, viện trợ cho tỉnh.
Trong quá trình nhận vốn đầu tư nước ngoài tỉnh cần tránh tình trạng bị lệ thuộc vào nhà đầu tư hoặc chấp nhận mọi giá để có vốn đầu tư. Nếu thu hút được đầu tư nước ngoài nông nghiệp của tỉnh sẽ có nhiều điều kiện để phát triển mạnh hơn nữa.
2.3 Có những chính sách ưu tiên cho đầu tư và sản xuất nông nghiệp
Bên cạnh đó , tỉnh nên có các chính sách ưu tiên cho đầu tư và sản xuất nông nghiệp. Ta biết rằng ngành nông nghiệp có nhiều thiệt thòi so với các ngành kinh tế khác như:có ít nguồn vốn đầu tư, đầu tư lại có lợi nhuận thấp , rủi ro cao, có tốc độ tăng trưởng chậm...Vì vậy đầu tư trong nông nghiệp cần nhận được sự giúp đỡ và hỗ trợ của nhà nước.
Vốn đầu tư đối với ngành nông nghiệp là rất thiếu , ít không nhận được vốn đầu tư của các nhà đầu tư. Bởi lẽ như trên là đầu tư cho nông nghiệp nhiều khi là phi lợi nhuận và thời gian thu hồi vố rất dài: như đầu tư cho hệ thống thuỷ lợi...Trong những năm qua, bên cạnh đầu tư cho nông nghiệp ,nhà nước đã giành một phần ngân sách cũng như các tổ chức ngân hàng cho vay đối với các dự án nông nghiệp. Tuy vậy lãi suất này vẫn còn khá cao, điều kiện vay đối với các nhà đầu tư khá phức tạp, nhiều ngân hàng gây khó dễ. Do vậy các nhà đầu tư gặp khó khăn trong vay vốn , đòi hỏi nhà nước cần có lãi suất ưu đãi thấp hơn và các ngân hàng nên nhiệt tình và tạo thuận lợi cho nhà đầu tư vay vốn. Còn đối với hộ nông dân vay vốn sản xuất , nhà nước nên hỗ trợ họ vốn không trả lãi và cho vay một phần với lãi suất thật ưu đãi. Ngoài ra các ngân hàng nên có chính sách đối với từng loại khách hàng cụ thể, tránh gây khó cho những người muốn vay vốn ; đối với những người vay vốn lớn cần có sự ưu đãi hơn về lãi suất và thời gian hoàn vốn .
Tóm lại lãi suất tín dụng ưu đãi dễ dàng sẽ thúc đẩy đầu tư cho ngành nông nghiệp và cải thiện đời sống nhân dân.
3.Quản lí đầu tư.
Hoạt động quản lí đầu tư sẽ góp phần không nhỏ vào việc thu hút vốn đầu tư từ các nguồn cho sản xuât nông nghiệp cũng như sẽ làm tăng hiệu quả đầu tư .Trong thời gian tới tỉnh nên có những giải pháp cụ thể quản lí chặt chẽ các quá trình của một công cuộc đầu tư cũng như các đối tượng nhận đầu tư.
* Quản lí chặt công tác thẩm định, thực hiện dự án đầu tư
Luôn quản lí chặt chẽ những khâu, những công đoạn của quá trình đầu tư. Cụ thể trong việc lập kế hoạch đầu nên do những người có năng lực đảm nhiệm, tỉnh uỷ ,UBND phải luôn sâu xát chỉ đạo kịp thời và theo dõi quá trình thực hiện .Việc lập kế hoạch đầu tư phải thật khoa học tránh tình trạng đầu tư dàn trải và không có trọng điểm rõ ràng. Nếu có những điều chưa hợp lí phải sữa chữa ngay để tránh đầu tư vô tổ chức và kém hiệu quả. Còn đối với công tác thẩm định đầu tư thì luôn phải qua những bước cụ thể, đơn giản nhưng chặt chẽ ,tránh tình trạng làm qua loa cho xong việc. Mà việc thẩm định phải thật chính xác để loại bỏ những dự án kém hiệu quả, lạm dụng vốn ngân sách ( nếu có). Còn trong các dự án trình duyệt càn nhiều chỗ chưa hợp lí thì cần troa đổi với chủ đầu tư giúp họ sữa chưa để dự án tốt hơn. Cán bộ làm công tác thẩm định phải có trách nhiệm cao, không được gây phiền hà về thủ tục cho các nhà đầu tư hoặc cố tình trì hoãn dự án do những lí do không chính đáng. Làm tốt việc thẩm định dự án sẽ làm tăng vốn cho đầu tư và nâng cao hiệu quả của các dự án. Việc thực hiện xây dựng các công trình đầu tư phải luôn được theo dõi, mỗi công đoạn phải có báo cáo với cấp trên( đối với dự án lớn). Các chi phí của từng hạng mục công trình phải hợp lí, chất lượng công rrình phải đảm bảo so với tiêu chuẩn kĩ thuật đề ra. Ngoài ra trong việc sử dụng thành quả của đầu tư phải đúng mục đích , đúng lúc và không làm tổn hại đến sản xuất và do một cơ quan hoặc địa phương đảm nhiệm.
* Phối kết hợp tốt các cơ quan có liên quan đến đầu tư
Mỗi công cuộc đầu tư trong nông nghiệp không chỉ liên qua đến riêng ngành nông nghiệp mà quan hệ tới các ngành tài chính, xây dựng, ngân hàng...Vì vậy để các dự án được thực hiện thuận lợi các ngành nên hợp tác chặt chẽ với nhau và tỉnh cũng lên chỉ đạo thống nhất và phân phối việc cho từng ngành. Nếu có giai đoạn nào gặp khó khăn , tỉnh nên giải quyết nhanh chóng để dự án tiến hành thuận lợi. Không những kết hợp giữa các cơ quan trong tỉnh mà chính quyền tỉnh cần phối hợp chặt chẽ với các bộ các ngành có liên quan đến đầu tư trong nông nghiệp để giúp cho nông nghiệp có những dự án lớn hơn. Chẳng hạn như công nghệ về giống thỉ một mình tỉnh sẽ khong thực hiện được, do vậy nhà nước đầu tư sau đó cho phép tỉnh mang về áp dụng cho địa phương mình.
*Quản lí chặt chẽ quá trình huy động vốn và sử dụng vốn đầu tư dân cư:
Đây là điều rất cần thiết đối với các công trình xây dựng trong nông nghiệp . Tỉnh nên chỉ rõ các công trình nào được phép thu tiền của dân, những công trình nào không được để tránh tình trạng cán bộ địa phương thu bừa bãi, . Việc thu tiền này phải được ghi rõ vào những sổ sách nhất định và phải được tỉnh uỷ quyền cho phép. Trong việc phải nêu rõ số tiền là bao nhiêu và kế hoạch chi tiêu số tiền này như thế nào. Tỉnh cũng phải thường xuyên thanh tra, kiểm tra việc thu này và cả qua trình sử dụng vốn nếu có gì sai phải xử lí kịp thời.
* Áp dụng đấu thầu với các dự án đầu tư:
Trong các công cuộc đầu tư của ngành nông nghiệp đôi khi còn xảy râ một số tiêu cực: như làm thất thoát vốn, tăng chi phí xây dựng, cắt vốn đầu tư...gây ảnh hưởng đến hiệu quả của đồng vốn đầu tư bỏ ra cũng như giảm sút khả năng phát huy các kết quả đối với sản xuất nông nghiệp. Vì vậy, một biện pháp tốt để khắc phục những tiêu cực này là tỉnh nên có qui định các dự án đầu tư trong nông nghiệp ở một mức vốn nào đó bắt buộc phải tiến hành đấu thầu.Có đấu thầu thì các dự án sẽ tiết kiệm được vốn , các công trình sẽ có được nhà thi công xây dựng tốt nhất và giúp các dự phát huy tác dụng. Đồng thời cùng với đó ,tỉnh quản lí chặt chẽ công tác đấu thầu, để tránh các hiện tượng gian lận, làm cho công tác đấu thầu đạt hiệu quả cao
*Đào tạo nghề và bồi dưỡng kiến thức cho người nông dân
Người nông dân là những người có trình độ tương đối thấp, họ không ngại khó khăn , không ngại làm việc nhưng lại không có kiến thức để thực hiện làm giàu.Do vậy trong công cuộc quản lí đầu tư tỉnh cần phải có những chủ trương nhằm giáo dục đào tạo toàn diện những kiến thức cho người dân. Tỉnh nên thường xuyên tổ chức các lớp giảng dạy về kiến thức trồng trọt chăn nuôi, cách thức làm kinh tế . Đồng thời cũng nên cử một số chuyên gia ,một só cán bộ có trình đọ về giảng cho người dân những kiến thức mới về nông nghiệp hay cách thức làm các mô hình kinh tế mới.Mặt khấc nếu không có điều kiện , tỉnh nên tạo điều kiện cho cán bộ ở cấp huyện hay cấp xã đi học các kiến thức mới về sản xuất nông nghiệp sau đó họ sẽ về hướng dân cho những người nông dân. Đồng thời các đoàn thể của tỉnh nên có những sự giúp đỡ những người trong cùng một tập thể hoặc trợ giúp kiến thức cho họ khi cần. Ngoài ra mỗi địa phương cần có một tổ chức có thể tư vấn kiến thức cho người dân khi cần. Một chương trình lâu dài hơn là tỉnh cần hoàn thiện hệ thống giáo dục đào tạo cho con em nông dân với những chính sách ưu đãi ,để thế hệ sau có kiến thức và giúp đỡ cha ông trong việc làm nông nghiệp. Tóm lại, nâng cao trình độ cho người dân sẽ giúp họ cải thiện đời sống của mình mà còn từ đó thúc đẩy nông nghiệp đi lên.
Những giải pháp trên là chủ yếu và rất cần thiết cho đầu tư phát triển nông nghiệp Hà Tây, những giải pháp này không thể bao gồm hết các lĩnh vực của đầu tư mà chỉ là một đóng góp nhỏ nhằm nâng cao hiệu quả đầu tư nông nghiệp trong tương lai
IV.Kiến nghị
Để nhằm nâng cao hơn nưa hiệu quả của những công cuộc đầu tư phát triển nồng nghiệp Hà Tây, bên cạnh những giải pháp cần thiết trên , tôi xin đưa một vài kiến nghị đối với nhà nước ta
+ Nhà nước cần bàn hành một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, thuận lợi cho các nhà đầu tư cũng như tạo ra môi trường thông thoáng để thu hút các nguồn vốn đầu tư trong và ngoài nước: giảm bớt các thủ tục phiền hà trong các cơ quan nhà nước.
+ Nhà nước nên có những qui định chặt chẽ trong quá trình thẩm định dự án đầu tư, những tiêu chuẩn trong việc lập kế hoạch đầu tư cho các cơ quan có thẩm quyền thực hiện. Hàng năm nên kiểm tra quá trình thực hiện các dự án đầu tư.; đối với các dự án đầu tư do ngân sách nhà nước cấp thì nhà nước nên có cán bộ của mình theo dõi kiểm tra xem xét quá trình sử dụng vốn và quá trình lập kế hoạch cũng như thựch iện đầu tư. Chống lại việc sử dụng sai vốn nhà nước hoặc sự cắt xén tham ô của cán bộ cấp dưới.
+ Nhà nước nên qui định mức thuế nông nghiệp ở mức hợp lí đối với từng vùng , từng địa phương. Bởi thuế nông nghiệp ảnh hưởng rất lớn tới kết quả và hiẹu quả đầu tư trong nông nghiệp
+Nhà nước nên có các chính sách nhằm trợ giá nông sản cho người nông dân trong những trường hợp cần thiết để tránh sự thiệt thòi cho họ. Nhà nước cũng nên có những biện pháp mua nông sản cho người nông dân nếu họ được mùa, trách cho người nông dân bị ép phải bán nông sản với giá thấp
+ Trích một phần ngân sách nhằm hỗ trợ vốn sản xuất cho những người dân nghèo vay vốn giúp họ cải thiện đời sống
+ Hàng năm, bộ nông nghiệp và nông thôn nên mở các lớp bồi dưỡng kiến thức cho các cán bộ nông nghiệp ở các địa phương
+Nhà nước nên đầu tư cho nhiều hơn cho những trung tâm nghiên cứu giống nông nghiệp để những trung tâm này vừa có thể tạo ra những giống mới, vừa có thể nghiên cứu tiếp nhận những giống tốt của nước ngoài nếu phù hợp với nước ta
Kết Luận
Có thể nói trong thời gian vừa qua đầu tư phát triển nông nghiệp tỉnh Hà Tay đã đạt nhiều thành công to lớn. Có được kết quả như vậy là do toàn tỉnh Hà Tây thực hiện tốt các công tác đầu tư phát triển. Mặc dù còn nhiều hạn chế nhưng đầu tư đã góp phần cực kì quan trong trong sự đi lên của nông nghiệp tỉnh, đóng góp không nhỏ vào công cuộc công nghiệp hoá nông nghiệp và nông thôn. Trong tương lai ,để ngành nông nghiệp tiếp tục phát triển chúng ta phải chú trọng đầu tư cho nông nghiệp và phải có những biện pháp nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả đầu tư cho nông nghiệp. Trên cơ sở nghiên cứu tình hình đầu tư phát triển nông nghiệp , bài viết này đưa ra một số giải pháp , ý tưởng nhằm đóng góp phần nào vào việc nâng cao hơn nữa hiệu quả của đầu tư nông nghiệp tỉnh Hà Tây .Cũng có thể khẳng định rằng, đầu tư là đòi hỏi tất yếu của quá trình phát triển nông nghiệp tỉnh Hà Tây, không có đầu tư thì nông nghiệp không thể phát triển.
Danh mục tài liệu tham khảo
Dự thảo các văn kiện trình đại hội IX của Đảng.
Giáo trình kinh tế đầu tư. PGS . PTS Nguyễn Ngọc Mai. NXB giáo dục
Đầu tư trong nông nghiệp: Thực trạng và triển vọng Nguyễn Sinh Cúc , Nguyễn Văn .NXB Chính trị quốc gia
Giáo trình kinh tế phát triển. NXB thống kê
Nông nghiệp và nông thôn trong giai đoạn CNH- HĐH. NXB Khoa học xã hội
Chính sách thương mại, đầu tư và sự phát triển một số ngành công nghiệp chủ lực của Việt Nam.TS Võ Đại Lược. NXB Khoa học xã hội
Tạp chí con số và sự kiện các số :1+2, 4 ( năm 2001)
Tạp chí kinh tế và dự báo
Báo nông nghiệp Việt Nam
Báo Tài Chính : Số 5( 1998), 7( 1999)
Báo cáo kết qủa thực hiện đầu tư xây dựng cơ bản nông nghiệp tỉnh Hà Tây. !996 - 2000
Kế hoạch và tình hình thực hiện kế hoạch vốn ngân sách tỉnh Hà Tây 1996 -2000
Báo cáo thực hiện kinh tế xã hội nhiệm kì 1996 - 2000 và phương hướng nhiệm vụ 5 năm 2001 - 2005 - Đảng bộ tỉnh Hà Tây
Chương trình an toàn đê điều và giải quyết úng hạn. Sở nông nghiệp và phát triển nông thôn
Mục lục
Trang
Lời nói đầu 1
Chương I. Những vấn đề về lí luận chung 3
I. Bản chất và vai trò của đầu tư đối với nền kinh tế 3
1.Các khái niệm chung 3
2. Phân loại hoạt động đầu tư 4
3.Vai trò của đầu tư đối với nền kinh tế 5 3.1Tác động tới tổng cung và tổng cầu 5
3.2 Ảnh hưởng hai mặt đến sự ổn định kinh tế 6
3.3 Tác động tới tốc độ tăng trưởng và phát triển kinh tế 6
3.4 Nhân tố quan trọng tác động đến quá trình chuyển dịch
cơ cấu kinh tế 7
3.5 Nâng cao trình độ khoa học công nghệ và giải quyết
việc làm 8
4.Quản lí hoạt động đầu tư 9
4.1Khái niệm 9
4.2 Mục tiêu của quản lí đầu tư 9
4.3 Nguyên tắc 9
5.Kế hoạch hoá đầu tư 10
5.1 Nguyên tắc 10
5.2 Trình tự lập kế hoạch đầu tư 11
5.3 Điều kiện để dự án được ghi vào kế hoạch 11
II. Đầu tư- nhân tố quyết định đối với phát triển nông nghiệp 11
1.Giới thiệu về nông ngiệp 11
1.1.Khái niệm nông nghiệp 12
1.2Đặc điểm nông nghiệp nói chung 12
1.3Đặc điểm nông nghiệp Việt Nam 15
1.4. Vai trò của nông nghiệp 17
2.Đầu tư- nhân tố quyết định đối với phát triển nông nghiệp 19
3. Đặc trưng đầu tư trong nông nghiệp 22
4. Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả đầu tư trong nông nghiệp 24
Chương II. Thực trạng đầu tư phát triển nông nghiệp Hà Tây 26
I.Những nguồn lực cho sự phát triển nông nghiệp Hà Tây 26
1.Giới thiệu các nguồn lực Hà Tây 26
1.1 Điều kiện tự nhiên 26
1.2 Dân số và lao động 29
2.Những thuận lợi và thách thức. 30
2.1Thuận lợi 30
2.2Thách thức 31
II.Tổng quan về tình hình đầu tư tỉnh Hà Tây
(giai đoạn 1996 - 2000) 31
1.Theo nguồn vốn 31
2.Theo cơ cấu ngành kinh tế 34
3.Theo cấp quản lí 35
III. Tình hình đầu tư phát triển nông nghiệp Hà Tây
( giai đoạn 1996- 2000) 37
1.Theo cơ cấu vốn đầu tư 37
1.1Vốn ngân sách nhà nước 39
1.2 Vốn từ thuế nông nghiệp 42
1.3 Vốn tự cân đối 46
1.4 Vốn tín dụng ưu đãi 48
2.Theo cơ cấu lĩnh vực đầu tư 49
3.Theo vùng lãnh thổ 52
IV. Kết quả và hiệu quả đầu tư vào nông nghiệp tỉnh Hà Tây 54
1.Kết quả đầu tư 54
1.1Ảnh hưởng chung tới sự phát triển kinh tế toàn tỉnh 54
1.2Đối với sản xuất nông nghiệp 56
1.3Tác động đến cơ cấu nông nghiệp 59
1.4Đối với hệ thống thuỷ lợi 63
2.Hiệu quả đầu tư 64
2.1Chỉ tiêu GDP/GO 64
2.2Chỉ tiêu GDP/Vốn đầu tư 65
2.3Chỉ tiêu GDP tăng thêm/ vốn đầu tư 65
2.4Chỉ tiêu Bình quân lương thực qui thóc 66
2.5 Chỉ tiêu Hiệu quả lao động 66
Chương III. Phương hướng và giải pháp cho đầu tư phát triển
nông nghiệp Hà Tây 68
I.Định hướng phát triển nông nghiệp 68
1.Định hướng chung của Đảng và nhà nước 68
2.Định hướng phát triển nông nghiệp của tỉnh Hà Tây 69
II .Những vấn đề tồn tại trong thời gian qua 70
III. Một số giải pháp cho đầu tư phát triển nông nghiệp 71
1 .Giải pháp về chính sách đầu tư 71
1 .1Chính sách của các cấp chính quyền ` 71
1. 2 Qui hoạch đầu tư trong nông nghiệp khoa học và hợp lí. 73
1. 3 Đầu tư nông nghiệp đi liền với đầu tư cho công nghiệp
chế biến 75
2.Giải pháp về huy động vốn 75
2.1 Đối với vốn đầu tư của doanh nghiệp và các tầng lớp dân cư 76
2.2 Đối với nguồn vốn nước ngoài 77
2.3 Có những chính sách ưu tiên đối với đầu tư và sản xuất
trong nông nghiệp 78
3.Quản lí hoạt động đầu tư 79
IVKiến nghị 82
Kết luận 83
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- B0149.doc