Đầu tư phát triển ngành giáo dục - Đào tạo Việt Nam, thực trạng và giải pháp

LỜI MỞ ĐẦU Hệ thống giáo dục của nước ta đang trong giai đoạn phát triển về chất và lượng, quy mô đào tạo tăng nhanh. Trong năm 2000 cả nước đã hoàn thành xóa mù chữ, phổ cập giáo dục tiểu học và đang phấn đấu thực hiện mục tiêu phổ cập giáo dục trung học cơ sở vào năm 2010, từng bước đáp ứng nhu cầu học tập và đào tạo của xã hội. Mặc dù thế bên cạnh những thành tựu đã đạt được thì chúng ta còn phải đối mặt với những vấn đề xã hội: khắc phục sự phát triển không đồng đều giữa các vùng, các miề

doc67 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1525 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Đầu tư phát triển ngành giáo dục - Đào tạo Việt Nam, thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n; giảm dần khoảng cách giàu nghèo, giảm tỷ lệ thất nghiệp… Chính vì thế chất lượng giáo dục đào tạo, chất lượng nguồn nhân lực luôn là đề tài thu hút được nhiều sự quan tâm của xã hội. Việt Nam dần hội nhập vào kinh tế toàn cầu, nên nhu cầu về nguồn nhân lực có chất lượng cao là rất cấp thiết. Chính vì vậy, tôi quyết định chọn đề tài: “Đầu tư phát triển ngành giáo dục – đào tạo Việt Nam, thực trạng và giải pháp”. Nhằm mục tiêu nghiên cứu về thực trạng, hiệu quả đầu tư phát triển ngành giáo dục Việt Nam. Từ đó có thể đưa ra những giải pháp để nâng cao chất lượng và hiệu quả đầu tư đồng thời có những biện pháp huy động vốn tích cực cho ngành giáo dục và đào tạo. Chuyên đề thực tập gồm 2 phần: Chương 1: Thực trạng đầu tư phát triển ngành giáo dục – đào tạo Việt Nam Chương 2: Giải pháp tăng cường đầu tư phát triển ngành giáo dục – đào tạo Việt Nam. Mặc dù đã rất cố gắng nhưng chuyên đề của tôi cũng không tránh được những thiếu sót rất mong sự chỉ bảo của cô giáo cùng ban lãnh đạo của Viện chiến lược phát triển. Tôi xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ tận tình của Th.s. Phan Thị Thu Hiền và ban lãnh đạo Viện chiến lược đã giúp tôi hoàn thành chuyên đề thực tập này. Chương 1: THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN NGÀNH GIÁO DỤC – ĐÀO TẠO VIỆT NAM 1.1. TỔNG QUAN VỀ NGÀNH GIÁO DỤC – ĐÀO TẠO VIỆT NAM Hệ thống giáo dục của nước ta đang trong giai đoạn phát triển về chất và lượng, quy mô đào tạo tăng nhanh, từng bước đáp ứng nhu cầu học tập và đào tạo của xã hội. Tuy nhiên, hệ thống giáo dục hiện nay vẫn chưa theo kịp yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, chưa thực sự gắn với nhu cầu sử dụng nguồn nhân lực có trình độ cao của các ngành, địa phương và cả nước. Chính vì vậy, vấn đề đảm bảo và nâng cao chất lượng giáo dục đang được các cấp, các ngành và xã hội đặc biệt quan tâm. Mâu thuẫn giữa nguồn lực và chất lượng là căn bệnh được chỉ ra của hệ thống này, nhưng tìm ra phương thuốc đặc trị cho nó lại không dễ. Dưới đây là một số thành tựu và một số hạn chế về giáo dục – đào tạo Việt Nam. 1.1.1. Những thành tựu đạt được: 1.1.1.1. Về quy mô: Cho đến nay, hệ thống giáo dục mới ở Việt Nam từ mầm non đến đại học về cơ bản được xác lập, mạng lưới trường học phát triển rộng khắp từ nông thôn đến thành thị, từ miền ngược đến miền xuôi; đã xây dựng được hệ thống các trường dân tộc nội trú với điều kiện tương đối tốt để đào tạo con em các dân tọc ít người. Hệ thống các trường ngoài công lập được hình thành đã góp phần đáp ứng nhu cầu học tập ngày càng cao của nhân dân. Số học sinh và sinh viên cúng tăng đáng kể trong giai đoạn 2003 - 2008, ta có bảng sau: Bảng 1: Số học sinh và sinh viên trong giai đoạn 2003 - 2008: Đơn vị: nghìn người 2003-2004 2004-2005 2005-2006 2006-2007 2007-2008 1. Giáo dục tiểu học 8346,0 7744,8 7304,0 7029,4 6860,3 2. Giáo dục THCS 6569,8 6616,7 6371,3 6152,0 5803,3 3. Giáo dục THPT 2589,6 2761,1 2975,3 3075,2 3021,6 4. Gióa dục ĐH-CĐ 1131,0 1319,8 1387,1 1666,2 1928,4 (Nguồn: Tổng cục thống kê) Số lượng học sinh và sinh viên ngày càng tăng nhanh. Đặc biệt là số lượng sinh viên trong các trường ĐH và CĐ đã tăng đáng kể, từ 1131 nghìn sinh viên trong năm học 2003 – 2004 đã tăng lên đến 1928,4 nghìn sinh viên vào năm học 2007 – 2008. Điều này chứng tỏ người dân ngày càng quan tâm đến việc học tập và nâng cao trình độ học vấn cho bản thân. Trải qua nhiều thăng trầm với nhiều khó khăn, mạng lưới giáo dục - đào tạo được duy trì và tiếp tục phát triển trên toàn quốc. Số trường học tăng rất nhanh ở các bậc học, cụ thể là: ở giáo dục mầm non số trường học tăng từ 9975 vào năm 2003 lên đến 11.696 trường vào năm 2008; giáo dục phổ thông thì số trường học tăng từ 26.352 trường vào năm 2003 lên đến 27.898 vào năm 2008. Hiện nay cả nước đã có khoảng 345 trường ĐH và CĐ, trong đó có 288 trường công lập và 57 trường ngoài công lập. Sự phát triển về quy mô đào tạo ở các trường học trong những năm qua đã góp phần đáp ứng nhu cầu học tập của nhân dân và cung ứng nhân lực cho nền kinh tế, góp phần nâng cao tỷ lệ lao động được qua đào tạo xấp xỉ 30% vào năm 2007. Việc mở rộng quy mô, đa dạng hóa loại hình nhà trường (bán công, dân lập, tư thục) và phát triển các hình thức giáo dục không chính quy đã tạo thêm cơ hội học tập cho nhân dân, trước hết là thanh thiếu niên, góp phần thúc đẩy sự phát triển hệ thống giáo dục quốc dân và bước đầu hình thành xã hội học tập Giáo dục ở vùng đồng bào các dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa phát triển mạnh và có tiến bộ rõ rệt. Mạng lưới trường, lớp về cơ bản đã bảo đảm cho con em các dân tộc được học tập ngay tại xã, thôn, bản. Việc củng cố, phát triển các trường phổ thông dân tộc nội trú và tăng chỉ tiêu cử tuyển đã tạo thêm điều kiện cho con em các dân tộc thiểu số ở địa bàn kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn được đào tạo ở ĐH, CĐ, tạo nguồn cán bộ cho các vùng này. Đã thí điểm và chuẩn bị ban hành chính sách học nghề nội trú cho thanh niên, thiếu niên con em đồng bào dân tộc. Tiếng nói và chữ viết của 8 dân tộc thiểu số đã được đưa vào giảng dạy ở trường tiểu học; trong đó tiếng Hoa và tiếng Khơmer được dạy cả ở trường THCS. Tuy nhiên thực tế phát triển quy mô của bậc học này lại không theo chủ quan của quy hoạch đào tạo. Hiện nay các cơ quan quản lý vẫn đang loay hoay tìm ra hướng khắc phục những bất hợp lý về quy mô học sinh, đó là việc phân bố ngành học, các nhà trường không đồng đều, phần lớn các trường tập trung ở vùng Đồng bằng sông Hồng (31%) và miền Đông nam bộ (24%), là những vùng kinh tế - xã hội phát triển. Trong khi đó các vùng như Tây Bắc chỉ chiếm (3%), Tây Nguyên (4%), Nam Trung bộ (5%) - đây đều là những vùng mà giáo dục rất cần được phát triển vì những kỹ năng nghề nghiệp được đào tạo một cách căn bản là nhân tố tích cực để xoá đói, giảm nghèo ở những vùng đất này. Chính phủ đã có nhiều chính sách và biện pháp tăng đầu tư cho các vùng khó khăn như chương trình 135, chương trình kiên cố hóa trường, lớp học v.v. Nhờ vậy, cơ sở vật chất của giáo dục ở vùng khó khăn tiếp tục được củng cố, tăng cường. Việc miễn, giảm học phí, cấp học bổng và các chính sách hỗ trợ khác đã tạo điều kiện cho đại bộ phận con em các gia đình nghèo, diện chính sách được học tập, trước hết ở các cấp học phổ cập. Cơ sở vật chất, thiết bị dạy học ở các cấp, bậc học, ở mọi vùng miền đã được cải thiện đáng kể trong 5-6 năm qua, nhất là từ khi thực hiện chủ trương đổi mới chương trình giáo dục phổ thông và kiên cố hoá trường, lớp học. Một số địa phương, một số trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp và dạy nghề đã nỗ lực để từng bước hiện đại hoá cơ sở vật chất, thiết bị dạy học. 1.1.1.2. Về chất lượng: Chất lượng giáo dục nước ta trong những năm đổi mới đang từng bước được cải thiện. Số lượng các trường được phổ cập giáo dục ngày càng tăng và chất lượng cũng được tốt hơn. Lực lượng lao động được đào tạo đã và đang góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Tất cả học sinh, sinh viên được giáo dục toàn diện từng mặt về trí, đức, thể, mỹ, kỹ năng nghề nghiệp. Phần lớn, trong các cuộc thi trí tuệ của khu vực cũng như trên toàng thế giới, học sinh Việt Nam luôn đạt các giải cao mang vinh quang vê cho tổ quốc. Nội dung giảng dạy và kiến thức của học sinh phổ thông có tiến bộ, toàn diện hơn và tiếp cận dần với phương pháp học tập mới. Trong giáo dục nghề nghiệp, chất lượng đào tạo của một số ngành nghề như y dược, nông nghiệp, cơ khí, xây dựng, giao thông vận tải, v.v. về cơ bản đã đáp ứng yêu cầu của thực tế sản xuất và đời sống hiện nay. Đặc biệt, sự tiến bộ về nhận thức chính trị và trách nhiệm xã hội của học sinh, sinh viên cùng với đội ngũ giáo viên, giảng viên đã góp phần vào việc bảo đảm ổn định chính trị của đất nước trong điều kiện có nhiều biến động của tình hình quốc tế và âm mưu, hành động của các thế lực thù địch đối với nước ta thời gian vừa qua. 1.1.1.3. Nguyên nhân đạt được những thành tựu đó: - Truyền thống hiếu học của dân tộc đã tiếp tục được phát huy mạnh mẽ, thể hiện trong từng gia đình, từng dòng họ, từng cộng đồng dân cư. Nhân dân đã không tiếc công sức, tiền của đầu tư  và khuyến khích động viên con em vượt khó khăn, chăm chỉ học tập; hỗ trợ và tạo điều kiện cho các nhà trường thực hiện dạy tốt, học tốt. - Sự lãnh đạo của Đảng, của Quốc hội, sự chỉ đạo, điều hành của Chính phủ và chính quyền các cấp; sự quan tâm, tham gia đóng góp của các tổ chức, đoàn thể và toàn xã hội đối với giáo dục. Trong khoảng 10 năm, BCH Trung ương đã dành 3 hội nghị chuyên đề bàn về giáo dục. Quốc hội đã thông qua Luật Giáo dục và quyết định nhiều chủ trương lớn về phát triển giáo dục. Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ đã ban hành các chính sách và trực tiếp chỉ đạo ngành giáo dục triển khai thực hiện các chủ trương của Đảng và Quốc hội. Các địa phương đã quan tâm chỉ đạo và đầu tư để tăng cường cơ sở vật chất và giải quyết chế độ cho giáo viên. Toàn xã hội không chỉ đóng góp tiền của, công sức, mà cả về trí tuệ cho việc xây dựng và phát triển giáo dục, tham gia trực tiếp vào các hoạt động giáo dục. - Lòng yêu nước, yêu người, yêu nghề và những nỗ lực của đội ngũ nhà giáo. Đội ngũ này không chỉ truyền đạt các kiến thức chuyên môn, mà còn thực hiện nhiệm vụ giáo dục đạo đức, lý tưởng cho học sinh, sinh viên; giải thích các chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước trong nhân dân, trong xã hội. Những giáo viên công tác ở các vùng núi, vùng sâu, vùng xa đã vượt qua mọi khó khăn, thử thách, đóng góp to lớn vào sự nghiệp trồng người. 1.1.2. Những tồn tại: 1.1.2.1. Về quy mô: Cơ sở vật chất, dụng cụ dùng cho giảng dạy chưa đáp ứng nhu cầu học tập và giảng dạy ngày càng cao của giáo viên và học sinh, sinh viên trong cả nước. Quy mô giáo dục đại học, cao học và trung học chuyên nghiệp còn quá ít, chưa đáp ứng nhu cầu học tập ngày càng cao của xã hội. Giáo dục ở vùng dân tộc thiểu số, miền núi, vùng khó khăn đang có dấu hiệu giảm sút cả về quy mô và chất lượng. 1.1.2.2. Về chất lượng: Theo đánh giá của các chuyên gia thì chất lượng giáo dục nnước ta vẫn còn yếu kém và bất cập. Lối học vẫn còn nặng về truyền đạt kiến thức để đối phó với các kỳ thi, chưa chú trọng đến việc xây dựng tư duy sáng tạo. Trình độ ngoại ngữ, tin học vẫn còn rất yếu, kỹ năng nghề nghiệp vẫn còn hạn chê nhiều. Và điều đặc biệt là chưa chú trọng đến việc giáo dục nhân cách đạo đức, lối sống, động cơ học tập cho học sinh và sinh viên. Chất lượng giáo viên chưa đáp ứng nhu cầu phát triển của ngành giáo dục – đào tạo trong thời kỳ mới. Bên cạnh đó, đời sống giáo viên còn gặp rất nhiều khó khăn, truyền thống tôn sư trọng đạo tốt đẹp ngàn đời nay của dân tộc bị suy giảm. Thêm vào đó là hệ thống các trường sư phạm còn yếu, chất lượng thấp, không thu hút được người tài. Đội ngũ giáo viên trong các trường dạy học tăng mạnh về quy mô và chất lượng trong giai đoạn 2003 – 2008, từ 755,4 nghìn người vào năm 2003 lên đến 800,6 vào năm 2008. Mặc dù số lượng giáo viên dạy học tăng nhanh như vậy nhưng vẫn thiếu và yếu so với yêu cầu. Những hạn chế về chất lượng của giáo viên vẫn là năng lực chuyên môn, năng lực thực hành còn yếu, kiến thức và kỹ năng sư phạm còn bộc lộ nhiều hạn chế mặc dù phần đông đã được đào tạo qua các trường ĐH và CĐ. Nhiều giáo viên chưa tiếp cận được phương pháp giảng dạy hiệu quả. Kỹ năng chuẩn bị bài giảng, giảng bài, kiểm tra đánh giá, kỹ năng quản lý lớp học, tâm lý học người lớn, phương pháp nghiên cứu, tổ chức quản lý xưởng thực hành thực tập, sử dụng phương tiện dạy học, khả năng ngoại ngữ và tin học ... Tình trạng dạy thêm, học thêm tràn lan tồn tại từ nhiều năm nay, có những biểu hiện tiêu cực nhưng chưa tìm được giải pháp cơ bản để ngăn chặn có hiệu quả. Tệ nạn sử dụng văn bằng, chứng chỉ không hợp pháp; hiện tượng “học giả, bằng thật”, không trung thực trong học tập và thi cử, sao chép luận văn, luận án có xu hướng lan rộng, ảnh hưởng xấu đến chất lượng đào tạo, đến đạo đức của thế hệ trẻ và lòng tin của xã hội. Bệnh thành tích đã tác động đến quá trình giảng dạy, học tập, đánh giá học sinh, cũng như công tác quản lý giáo dục, và đây là một trong những nguyên nhân làm cho việc đánh giá tình hình giáo dục, nhất là về chất lượng, chưa phản ánh hết thực chất. Bên cạnh đó ngành giáo dục còn có những hạn chế sau: + Cơ cấu giáo dục bất hợp lý. + Quảm lý giáo dục chậm chuyển biến, phân công, phân cấp trách nhiệm, quyền hạn giữa các ngành các cấp chưa hợp lý. + Sử dụng và quản lý các nguồn đầu tư cho giáo dục kém hiệu quả, chưa thực sự tập trung vào những hướng ưu tiên. + Cán bộ quản lý các cấp thiếu về số lượng và yếu về chất lượng, ít được đào tạo, bồi dưỡng. 1.1.2.3. Nguyên nhân: (*) Tư duy giáo dục chậm được đổi mới, chưa theo kịp yêu cầu phát triển của đất nước cũng như đòi hỏi của sự chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế-xã hội và hội nhập quốc tế. - Các bộ, ngành, các cấp chính quyền địa phương chưa quán triệt sâu sắc các quan điểm chỉ đạo của Đảng và Nhà nước về phát triển giáo dục, chưa cụ thể hóa kịp thời và đầy đủ trong việc hoạch định một số chính sách và tổ chức thực hiện các hoạt động giáo dục. - Chưa nhận thức đầy đủ để có giải pháp đối với các vấn đề mới nảy sinh trong mối quan hệ giữa kế hoạch phát triển giáo dục và thị trường lao động; giữa mở rộng quy mô và nâng cao chất lượng, hiệu quả; giữa đáp ứng nhu cầu học tập ngày càng cao của nhân dân và khả năng hạn hẹp của nền kinh tế; giữa đầu tư của Nhà nước và đóng góp của nhân dân; giữa tình trạng phân hóa giàu nghèo và yêu cầu bảo đảm công bằng xã hội trong giáo dục. - Chưa nhận thức đầy đủ về vai trò của công tác dự báo và nghiên cứu khoa học giáo dục. (*) Quản lý về giáo dục còn yếu kém và bất cập: - Cơ chế quản lý giáo dục chưa tương thích với nền kinh tế thị trường định hướng XHCN và nhu cầu phát triển nguồn nhân lực của đất nước. Quản lý nhà nước về giáo dục còn nặng tính quan liêu, chưa thoát khỏi tình trạng ôm đồm, sự vụ. Công tác xây dựng quy hoạch, kế hoạch còn nhiều bất cập. - Hệ thống luật pháp và các chính sách về giáo dục chưa hoàn chỉnh, thiếu hiệu lực. Còn thiếu các đạo luật cụ thể về điều kiện phát triển và bảo đảm chất lượng như Luật Giáo viên; về các bộ phận của hệ thống giáo dục quốc dân như Luật Giáo dục đại học, Luật Giáo dục nghề nghiệp v.v. Một số quy định về đầu tư, quản lý nhân sự, đất đai, tài chính v.v. chưa thực sự tạo điều kiện thuận lợi cho việc thống nhất quản lý và phát triển giáo dục. Đầu tư từ nguồn ngân sách nhà nước còn dàn trải, không đủ bảo đảm nhu cầu phát triển giáo dục, trong khi đó chưa có chính sách đủ mạnh để huy động các nguồn đầu tư khác trong xã hội. Chính sách về học phí có nhiều điểm không còn phù hợp, nhưng chậm được sửa đổi, bổ sung, dẫn đến tình trạng địa phương và nhà trường đặt ra quá nhiều khoản thu, gây bức xúc trong xã hội. Chính sách tuyển dụng, sử dụng cán bộ thiên về bằng cấp, chưa chú ý đúng mức đến năng lực thực tế dẫn đến tình trạng “học giả, bằng thật” và một số hiện tượng tiêu cực khác. - Công tác chỉ đạo, điều hành còn nhiều yếu kém, bất cập, chậm đưa ra những quyết sách đồng bộ ở tầm vĩ mô. Việc phân công, phân cấp và cơ chế phối hợp giữa Bộ GD&ĐT, Bộ LĐ-TB&XH với các bộ, ngành, địa phương chậm được thể chế hoá. Các cấp chính quyền ở nhiều địa phương vẫn còn thiếu chủ động trong việc thực hiện các chủ trương và giải quyết các vấn đề cụ thể về giáo dục; chưa quan tâm đầy đủ đến việc khắc phục bệnh thành tích và các tiêu cực trong giáo dục. Quản lý của ngành giáo dục và của địa phương đối với các cơ sở ngoài công lập còn lúng túng, một mặt chưa tạo điều kiện thuận lợi để các trường này phát triển, mặt khác, chưa ngăn chặn kịp thời tình trạng lợi dụng chính sách xã hội hoá nhằm thu lợi bất chính. Công tác kiểm tra, thanh tra giáo dục, đặc biệt là thanh tra chuyên môn còn bất cập, kém hiệu quả. Trình độ và năng lực của một bộ phận cán bộ quản lý giáo dục còn thấp, chưa theo kịp yêu cầu đổi mới mạnh mẽ sự nghiệp giáo dục. (*) Hệ thống đội ngũ giáo viên chưa đáp ứng được nhu cầu về quy mô cũng như chất lượng: Có thể nhận thấy những nguyên nhân dẫn tới sự thiếu hụt, bất cập về đội ngũ giáo viên là do nhiều trường dạy học không có chỉ tiêu biên chế hoặc không tuyển được do nhiều nguyên nhân do đồng lương trả còn thấp, điều kiện làm việc chưa hấp dẫn. Thêm nữa giáo viên các trường ngoài công lập thường có độ tuổi cao hơn (không ít giáo viên đã ở tuổi nghỉ chế độ) và có nhiều giáo viên hợp đồng từ các trường dạy học phổ thông hoặc từ các trường cao đẳng, đại học. Độ tuổi trung bình của giáo viên vào khoảng xấp xỉ 40 tuổi nên cũng hạn chế khả năng nâng cao trình độ của bản thân. Nhiều giáo viên với khả năng sử dụng ngoại ngữ và máy tính phục vụ công tác chuyên môn còn yếu đã cản trở việc cập nhật tri thức mới về chuyên môn và phương pháp giảng dạy. Cho dù về cơ bản hiện nay những giáo viên này tham gia tích cực đảm bảo được việc dạy và học trong hệ thống. Tuy nhiên kết quả đạt được ở đây cũng chưa tương xứng với mong muốn. Những khiếm khuyết đã nêu đang ảnh hưởng lớn đến chất lượng đào tạo trong các nhà trường. (*) Bên cạnh các nguyên nhân chủ yếu đã nêu ở trên cần kể đến những tác động khách quan làm tăng thêm các yếu kém, bất cập của giáo dục: - Nhu cầu học tập của nhân dân ngày càng cao, trong khi khả năng đáp ứng của ngành giáo dục và trình độ phát triển kinh tế của đất nước còn hạn chế. Mức đầu tư cho giáo dục tính trung bình cho 1 người dân còn thấp so với yêu cầu bảo đảm chất lượng và so với các nước: ở Trung Quốc là 105 USD, ở Thái Lan là 350 USD, ở Malaixia là 720 USD trong khi đó ở Việt Nam là 53 USD. - Sức đón nhận của thị trường lao động còn hạn chế, chưa thỏa mãn nhu cầu việc làm của người lao động đã qua đào tạo. - Tâm lý khoa cử, bằng cấp vẫn chi phối nặng nề việc dạy, học và thi cử. Thái độ chưa coi trọng các trường ngoài công lập làm hạn chế việc đẩy mạnh xã hội hóa giáo dục. 1.2. THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN NGÀNH GIÁO DỤC – ĐÀO TẠO VIỆT NAM. 1.2.1. Sự cần thiết phải đầu tư phát triển ngành giáo dục – đào tạo: Ngành giáo dục – đào tạo muốn phát triển được và đáp ứng yêu cầu của thời kỳ mới, nhất thiết phải được đầu tư cả về sức ngời lẫn sức của. Có thể hiểu đầu tư cho giáo dục – đào tạo là hành động bỏ tiền ra để tiến hành hoạt động nhằm tạo tài sản mới cho nền kinh tế nói chung và cho ngành giáo dục – đào tạo nói riêng. Giáo dục – đào tạo vừa gắn với yêu cầu phát triển chung của đâts nước, vừa phù hợp với xu thế phát triển của thời đại. Phát triển giáo dục chính là nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, đào tạo cong người có văn hoá, khoa học, có kỹ năng nghề nghiệp, lao động tự chủ, sáng tạo. Phát triển nguồn nhân lực bao gồm cả về số lượng và chất lượng dân số, nhưng hiện nay chất lượng giáo dục là trọng tâm của phát triển nguồn nhân lực nhất là đối với các nước đang phát triển, đông dân số và chất lượng nguồn nhân lực thấp như Việt Nam. Thực tế cho thấy, lợi ích thu được từ việc đào tạo nguồn nhân lực mà cụ thể là thông qua giáo dục – đào tạo rất lớn. Trình độ nguồn nhân lực trung bình ở một nước cao hơn cho phép tăng trưởng kinh tế tố hơn và điều chỉnh tốt hơn đối với các vấn đề dân số, kế hoạch hoá gia đình, môi trường và nhiều vấn đề khác. 1.2.2. Xu hướng đầu tư phát triển ngành giáo dục – đào tạo: 1.2.2.1. Sự thay đổi về quan niệm giáo dục – đào tạo: Nền văn hóa Á Đông là một nền văn hóa chịu ảnh hưởng sâu sắc của hệ tư tưởng phong kiến, Việt Nam cũng không nằm ngoài quy luật đó. Thời phong kiến, Việt Nam tiếp thu phương thức giáo dục của Trung Quốc. Nền giáo dục đó đã tạo nên một tầng lớp quan lại phục vụ xã hội phong kiến. Tuy nhiên nền giáo dục đó chỉ phù hợp với chế độ phong kiến, lấy kinh tế tự nhiên, tự cung tự cấp làm cơ sở. Thực dân Pháp sang thống trị, đã cải biến nền kinh tế phong kiến thành nền kinh tế thuộc địa nửa phong kiến. Một số bộ phận sĩ phu đã truyền bá chữ quốc ngữ. Và sau khi nhà nước giành độc lập, chúng ta đã có một nền giáo dục dân chủ nhân dân. Những thành công và đóng góp của nền giáo dục trong phát triển kinh tế - xã hội là không thể phủ nhận được. Xác định được tính cấp thiết cần phải đổi mới quan niệm trong giáo dục – đào tạo, đại hội IX của Đảng đã xác định: “Mọi người được học, học thường xuyên, học suốt đời, cả nước trở thành một xã hội học tập”. Xã hội học tập là mục tiêu của nền giáo dục mới và xã hội hóa giáo dục là một phương tiện mạnh mẽ để thực hiện xã hội hóa học tập. Bên cạnh đó, có nhiều quan niệm mới coi giáo dục là một ngành dịch vụ với sản phẩm tri thức, có cầu và có cung đã và đang hình thành trên phạm vi toàn thế giới. Ngành dich vụ giáo dục – đào tạo xét trên một phương diện nào đó, thì nó đang dần dần vận hành theo cơ chế thị trường và ở đây đầu tư vào giáo dục có vai trò quyết định sức cạnh tranh của sản phẩm dịch vụ này. 1.2.2.2. Xu hướng dầu tư phát triển ngành giáo dục – đào tạo: Xu hướng đầu tư phát triển ngành giáo dục – đào tạo ở Việt Nam đang đi dần vào quỹ đạo chung của thế giới, bên cạnh đó dựa vào những điều kiện thực tiễn của Việt Nam để có bước phát triển thích hợp. Xu hướng đầu tư phát triển ngành giáo dục – đào tạo ở Việt Nam đang được triển khai với các mục tiêu cụ thể sau: - Nâng tỷ lệ lao động đã qua đào tạo ở các trình độ vào năm 2010 đạt 40%, trong đó từ cao đẳng trở lên 6%, trung học chuyên nghiệp 8%, công nhân kỹ thuật 26%. Thực hiện phổ cập trung học cơ sở trong cả nước: + Giáo dục mầm non: đến năm 2010 hầu hết trẻ em đều được chăm sóc, giáo dục bằng những hình thức thích hợp. Tăng tỷ lệ trẻ dưới 3 tuổi đến nhà trẻ từ 12% năm 2000 lên 15% năm 2005 và 18% năm 2010. Đối với trẻ 3-5 tuổi tăng tỷ lệ đến trường, lớp mẫu giáo từ 50% năm 2000 lên 58% vào năm 2005 và 67% vào năm 2010; riêng trẻ em 5 tuổi tăng tỷ lệ huy động đến mẫu giáo để chuẩn bị vào lớp 1 từ 81% năm 2000 lên 85% vào năm 2005 và 95% vào năm 2010. Giảm tỷ lệ suy dinh dưỡng của trẻ trong các cơ sở giáo dục mầm non xuống dưới 20% vào năm 2005, dưới 15% vào năm 2010. + Giáo dục phổ thông: thực hiện giáo dục toàn diện về đức, trí , thể, mỹ. Cung cấp học vấn phổ thông cơ bản, hệ thống và có tính hướng nghiệp; tiếp cận trình độ các nước phát triển trong khu vực. Tăng tỷ lệ huy động học sinh trong độ tuổi đến trường từ 95% năm 2000 lên 97% năm 2005 và 99% năm 2010. + Trung học cơ sở: Cung cấp cho học sinh học vấn phổ thông cơ sở và những hiểu biết ban đầu về kỹ thuật và hướng nghiệp để thực hiện phân luồng sau trung học cơ sở , tạo điều kiện để học sinh tiếp tục học tập hoặc đi vào cuộc sống lao động. Đạt chuẩn phổ cập trung học cơ sở ở các thành phố , đô thị, vùng kinh tế phát triển vào năm 2005, trong cả nước 2010. Tăng tỷ lệ học sinh trung học cơ sở trong độ tuổi từ 74% năm 2000 lên 80% vào năm 2005 và 90% vào năm 2010. + Trung học phổ thông: Tăng tỷ lệ học sinh trong độ tuổi vào trung học phổ thông từ 38% năm 2000 lên 45% vào năm 2005 và 50% vào năm 2010. + Giáo dục nghề nghiệp: nâng cao chất lượng dạy nghề gắn với nâng cao ý thức kỷ luật lao động và tác phong lao động hiện đại. Gắn đào tạo vói nhu cầu sử dụng, với việc làm trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động. + Trung học chuyên nghiệp: thu hút học sinh trong độ tuổi vào các trường trung học chuyên nghiệp đạt 10% năm 2005, 15% năm 2010. Dạy nghề : thu hút học sinh sau trung học cơ sở vào học các trường dạy nghề từ 6% năm 2000 lên 10% năm 2005, 15% năm 2010. Dạy nghề bậc cao: thu hút học sinh sau trung học phổ thông, trung học chuyên nghiệp vào học các chương trình này đạt 5% năm 2005, 10% năm 2010. . + Giáo dục cao đẳng, đại học và sau đại học: Nâng tỷ lệ sinh viên trên một vạn dân từ 118 năm học 2000-2001 lên 200 vào năm 2010. Tăng quy mô đào tạo thạc sỹ từ 11.727 học viên năm 2000 lên 38.000 , nghiên cứu sinh từ 3.870 năm 2000 lên 15.000 vào năm 2010. + Giáo dục không chính quy: củng cố và nâng cao kết quả xoá muv chữ cho người lớn, đặc biệt ở vùng núi, vùng sâu, vùng xa. Thực hiện có hiệu quả các chương trình sau xoá mù chữ, bổ túc trên tiểu học để góp phần thực hiện chủ trương phổ cập giáo dục trung học cơ sở vào năm 2010. + Giáo dục trẻ khuyết tật: Tạo cơ hội cho trẻ khuyết tật được học tập ở một trong các loại hình lớp hoà nhập, bán hoà nhập hoặc chuyên biệt, đạt tỷ lệ 50% vào năm 2005 và 70% vào năm 2010. Ở các nước đang phát triển như Việt Nam, xu hướng đầu tư phát triển giáo dục đang dần dần theo chiều hướng tích cực, đó là: Nhà nước vẫn đóng vai trò chủ chốt trong huy động nguồn lực đầu tư phát triển ngành giáo dục, đóng vai trò định hướng trong hoạt động đầu tư. Bên cạnh đó, xu hướng đầu tư đang dần dần được điều chỉnh theo quy luật thị trường, xu hướng đầu tư vì lợi nhuận và phi lợi nhuận đang đồng thời tồn tại và phát triển. 1.2.3. Thực trạng đầu tư phát triển ngành giáo dục – đào tạo Việt Nam: 1.2.3.1. Tình hình phát triển ngành giáo dục – đào tạo Việt Nam: (*) Giáo dục mầm non: Bước đầu khôi phục và phát triển giáo dục mầm non sau một thời gian dài gặp khó khăn ở nhiều địa phương. Số xã “trắng” về cơ sở giáo dục mầm non giảm rõ rệt. Năm học 2003-2004 đã có gần 2,6 triệu trẻ em theo học ở hơn 10.000 cơ sở giáo dục mầm non, số trẻ 5 tuổi học mẫu giáo chiếm 90% số trẻ trong độ tuổi. Tuy vậy, tỷ lệ trẻ ra lớp mẫu giáo ở các vùng khó khăn còn thấp, như ở đồng bằng sông Cửu Long mới đạt 42,7%. Chất lượng nuôi dưỡng, chăm sóc trẻ trong các cơ sở giáo dục mầm non có tiến bộ, song còn thấp và chưa đồng đều giữa các vùng. Một số nơi đã đưa việc dạy chữ vào lớp mẫu giáo 5 tuổi là không phù hợp với khả năng tiếp thu của trẻ. Quyết định 161/2002/QĐ-TTCP của Thủ tướng Chính phủ đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện chế độ, chính sách hỗ trợ giáo viên và đầu tư xây dựng cơ sở vật chất đối với giáo dục mầm non ở các vùng khó khăn. Trở ngại lớn nhất hiện nay là, đội ngũ giáo viên mầm non còn thiếu so với định mức, nhiều giáo viên chưa đạt chuẩn; phòng học và đồ dùng dạy học còn rất thiếu thốn. (*) Giáo dục phổ thông: Trong 5 năm qua, số lượng học sinh ở bậc trung học tiếp tục tăng, ở bậc tiểu học giảm dần và đi vào ổn định. Tổng số học sinh phổ thông năm học 2003-2004 là 17,6 triệu. Đáng chú ý là tốc độ tăng số lượng học sinh ở miền núi, vùng sâu, vùng đồng bào dân tộc thiểu số cao hơn các vùng khác, thể hiện những cố gắng khắc phục tình trạng chênh lệch về phát triển giáo dục giữa các vùng, miền. Số lượng trường phổ thông tăng mạnh ở tất cả các cấp, bậc học và ở hầu hết các vùng, miền, ở các vùng khó khăn đang triển khai tích cực việc xóa phòng học tranh tre và kiên cố hóa trường, lớp. Công tác hướng nghiệp, phân luồng học sinh sau THCS chuyển biến còn chậm. Khối lượng kiến thức cơ bản của học sinh phổ thông hiện nay lớn hơn và rộng hơn so với trước đây, nhất là về các môn khoa học tự nhiên, toán, tin học, ngoại ngữ. Chương trình ở một số môn học đã tiếp cận trình độ tiên tiến trong khu vực. Học sinh Việt Nam đi du học đều được vào thẳng các cấp học tương đương, phần lớn lưu học sinh đều học tốt. Việc đào tạo học sinh giỏi có nhiều thành tích và được các nước đánh giá cao; nhiều học sinh Việt Nam đạt giải cao trong các kỳ thi quốc tế. Tuy nhiên, kiến thức xã hội, kỹ năng thực hành và vận dụng kiến thức, tính linh hoạt, độc lập và sáng tạo của đa số học sinh còn yếu. Có sự chênh lệch khá rõ về trình độ học sinh giữa các vùng, miền. Học sinh phổ thông, nhất là ở thành phố, phải học tập căng thẳng, ngay từ bậc tiểu học do phải chịu nhiều áp lực của các kỳ thi, đặc biệt là kỳ thi tuyển sinh vào đại học (ĐH). Đa số học sinh có cố gắng chăm chỉ học tập và rèn luyện, song vẫn còn một bộ phận, nhất là học sinh THPT, còn có thái độ thiếu trung thực trong học tập; một số rơi vào tệ nạn xã hội, vi phạm pháp luật. Số lượng giáo viên và tỷ lệ giáo viên đạt chuẩn tăng đáng kể trong 5 năm qua. Tuy nhiên, đội ngũ giáo viên phổ thông hiện vẫn ở trong tình trạng “vừa thiếu, vừa thừa”; thiếu giáo viên THPT, THCS ở các vùng khó khăn, thiếu giáo viên âm nhạc, mỹ thuật, thể dục, công nghệ, tin học...và thiếu cán bộ về thiết bị, hướng dẫn thực hành, phụ trách thư viện. Ở một số tỉnh miền núi và miền Tây Nam Bộ còn một tỷ lệ khá cao giáo viên tiểu học lớn tuổi có trình độ thấp so với yêu cầu đổi mới giáo dục phổ thông. Đa số giáo viên chưa tích cực đổi mới phương pháp dạy học. Một bộ phận giáo viên còn thiếu gương mẫu, thậm chí sa sút về đạo đức nghề nghiệp. Cơ sở vật chất đã được tăng cường so với trước. Trong vòng 3 năm qua đã có thêm 40.000 phòng học, trong đó tỷ lệ phòng học cấp 4 và kiên cố đã tăng từ 84,3% lên 89,3%. Sách cho thư viện và thiết bị dạy học trong trường phổ thông đã được bổ sung đáng kể. Tuy vậy, phần lớn các trường hiện nay chưa có phòng bảo quản thiết bị, phòng thực hành, phòng thí nghiệm, nhất là ở miền núi và nông thôn. Việc thực hiện học 2 buổi/ngày  ở phổ thông, trước hết ở tiểu học còn chậm do thiếu phòng học, giáo viên và kinh phí trả lương cho giáo viên. Việc xây dựng trường phổ thông đạt chuẩn quốc gia còn chậm và gặp nhiều khó khăn, thiếu phòng học bộ môn, phòng thí nghiệm và đặc biệt là thiếu diện tích đất. Thực hiện Nghị quyết 40/2000/QH10 của Quốc hội, chương trình tiểu học và THCS đã chính thức được ban hành; SGK mới đã được triển khai đại trà ở 6 khối lớp: lớp 1, 2, 3 và lớp 6, 7, 8 trên toàn quốc đúng mục tiêu và tiến độ đã đề ra. SGK mới đã tiếp cận trình độ các nước tiên tiến trong khu vực, được đa số giáo viên và học sinh chấp nhận, bước đầu góp phần thay đổi cách dạy, cách học, cách đánh giá trong nhà trường. Tuy nhiên, có những phần trong một số cuốn SGK mới ở tiểu học và THCS còn nặng và khó, có chỗ còn sai sót. Bên cạnh đó, cần rút kinh nghiệm về quy trình tổ chức và cách huy động các nhà giáo, nhà khoa học tham gia vào các khâu biên soạn, thẩm định chương trình, SGK. Việc chuẩn bị điều kiện triển khai đại trà còn thiếu đồng bộ giữa đổi mới chương trình, SGK, cơ sở vật chất, thiết bị dạy học và đặc biệt là bồi dưỡng giáo viên. Ở THPT, việc thí điểm phân ban chỉ mới tiến hành được một năm, song còn có ý kiến đề nghị xem xét lại cách tổ chức phân ban để bảo đảm mục đích và hiệu quả. (*) Giáo dục nghề nghiệp: Dạy nghề đã được phục hồi sau nhiều năm suy giảm. Năm 2003 quy mô tuyển sinh dạy nghề dài hạn và ngắn hạn đã tăng hơn 2 lần, tuyển sinh THCN tăng 1,67 lần so với năm 1998, đưa tổng số học sinh học nghề và THCN lên 1,5 triệu. Dạy nghề ngắn hạn và dạy nghề cho nô._.ng dân được mở rộng. Số trường dạy nghề và trường THCN tăng. Đến nay hầu hết các tỉnh đều có trường dạy nghề, bước đầu phát triển các trường dạy nghề thuộc một số ngành kinh tế mũi nhọn. Mặc dù vậy, quy mô dạy nghề dài hạn và THCN còn thấp so với yêu cầu của thị trường lao động. Cơ cấu ngành nghề đào tạo còn mất cân đối. Mạng lưới cơ sở giáo dục nghề nghiệp phân bố chưa hợp lý, còn tập trung chủ yếu ở các thành phố lớn và các vùng kinh tế trọng điểm. Kiến thức, kỹ năng của học sinh ở một số trường được đầu tư, trang bị tốt như trường cao đẳng công nghiệp 4 và một số trường thuộc ngành dầu khí, bưu chính viễn thông ... tương đương trình độ tiên tiến trong khu vực. Tuy nhiên, nhìn chung chất lượng đại trà của giáo dục nghề nghiệp còn thấp, đặc biệt là về kỹ năng thực hành và tác phong công nghiệp. Xã hội và các cấp, các ngành chưa thực sự coi trọng giáo dục nghề nghiệp, nhiều học sinh chỉ coi trường dạy nghề, trường THCN là nơi trú chân để chờ thi vào ĐH, cao đẳng (CĐ). Một số chương trình, tài liệu dạy nghề đã được xây dựng theo phương pháp mới phù hợp với quy trình và công nghệ sản xuất hiện đại. Ở THCN, chương trình khung đang được xây dựng. Tuy vậy, tình trạng chung là thiếu giáo trình, giáo trình hiện có chưa bảo đảm liên thông giữa các cấp và các ngành đào tạo. Danh mục ngành nghề chưa được bổ sung, hoàn chỉnh. Hệ thống chuẩn đào tạo nghề chưa được ban hành. Đội ngũ giáo viên các trường dạy nghề và THCN tăng, tỷ lệ học sinh/ giáo viên còn cao so với quy định . Đa số giáo viên còn hạn chế về kỹ năng thực hành, khả năng tiếp cận với công nghệ mới và phương pháp dạy học tiên tiến. Tỷ lệ giáo viên dạy nghề đạt chuẩn còn thấp, vào khoảng 69%. Ngoài một số ít trường dạy nghề đang được tập trung đầu tư, xây dựng, còn phần lớn đều thiếu kinh phí, kể cả kinh phí mua thiết bị, nguyên liệu, vật liệu phục vụ việc thực hành của học sinh. (*) Giáo dục đại học và sau đại học: Từ năm 1998 đến nay quy mô giáo dục đại học và sau đại học đã tăng đáng kể. Năm học 2003-2004 có hơn 1.032.000 sinh viên, gần 33.000 học viên cao học và nghiên cứu sinh. Hàng năm, số sinh viên từ khu vực nông thôn, miền núi đều chiếm khoảng 70% tổng số tuyển mới. Chính phủ đã thông qua quy hoạch mạng lưới các trường ĐH, CĐ làm cơ sở để phát triển thêm một số trường công lập và ngoài công lập ở Tây Bắc, miền Trung và đồng bằng sông Cửu Long, nên đã khắc phục được một bước sự bất hợp lý trong việc phân bố các cơ sở giáo dục ĐH giữa các vùng, miền. Mặc dù có chuyển biến, nhưng cơ cấu đào tạo giữa giáo dục ĐH với giáo dục nghề nghiệp vẫn chưa hợp lý, chưa đáp ứng nhu cầu nhân lực trình độ cao của thị trường lao động. Số học viên cao học và nghiên cứu sinh tăng quá nhanh trong khi chưa đủ điều kiện bảo đảm chất lượng. Đa số sinh viên có ý thức chính trị tốt, có lối sống lành mạnh, tích cực tham gia các hoạt động xã hội như phong trào thanh niên tình nguyện, an toàn giao thông v.v., số sinh viên được kết nạp vào Đảng ngày càng nhiều. Ở một số ngành nghề trong một số trường trọng điểm có truyền thống như hai đại học quốc gia, trường đại học Bách khoa Hà Nội, trường đại học Bách khoa TP Hồ Chí Minh ..., trình độ của sinh viên tốt nghiệp đã tiếp cận trình độ của các trường ĐH trong khu vực. Tình trạng đáng lo ngại hiện nay là còn nhiều sinh viên thiếu trung thực trong học tập và thi cử; một bộ phận chưa có hoài bão, lý tưởng; một số vi phạm nội quy, quy chế, có biểu hiện của lối sống hưởng thụ, đua đòi. Tệ nạn xã hội, nhất là ma tuý, cờ bạc, mê tín, vi phạm pháp luật trong sinh viên, tuy ít nhưng chưa ngăn chặn được, gây nhiều lo lắng trong xã hội. Việc tuyển sinh chặt chẽ nhưng đánh giá quá trình học tập lại lỏng lẻo, dẫn đến tình trạng nhiều sinh viên chưa chăm chỉ học tập. Sinh viên ít có điều kiện tham gia nghiên cứu khoa học; năng lực tự học, tự nghiên cứu, thực hành, khả năng giao tiếp và hợp tác trong công việc còn yếu. Trình độ ngoại ngữ của sinh viên tốt nghiệp chưa đáp ứng yêu cầu hội nhập. Chất lượng đào tạo sau đại học, đặc biệt là chất lượng của một số luận án tiến sỹ còn thấp, chưa theo kịp trình độ phát triển khoa học, công nghệ và chưa gắn với cuộc sống. Việc xây dựng chương trình khung và công tác biên soạn chương trình, giáo trình của các trường ĐH, CĐ chưa được quan tâm đúng mức. Giáo trình đại học còn thiếu, nội dung còn lạc hậu; tài liệu tham khảo còn nghèo nàn. Chương trình chưa được thiết kế liên thông giữa các cấp, bậc, trình độ đào tạo. Với số lượng khoảng 40.000 giảng viên, so với quy mô trên 1 triệu sinh viên, học viên cao học và nghiên cứu sinh, hầu hết các trường ĐH, CĐ đều thiếu giảng viên. Đội ngũ giảng viên ĐH, CĐ mới có 45% đạt trình độ thạc sĩ trở lên. Phần đông giảng viên nòng cốt, chuyên gia đầu ngành đã cao tuổi, sự hẫng hụt đội ngũ vẫn chưa khắc phục được. Trong khi đó, chưa có chính sách thích hợp thu hút đội ngũ cán bộ khoa học của các cơ quan nghiên cứu tham gia giảng dạy tại các trường ĐH. Hoạt động nghiên cứu khoa học của các trường ĐH chưa được quan tâm đúng mức. Đa số giảng viên chỉ tập trung vào giảng dạy, ít tham gia nghiên cứu khoa học. Bằng nhiều nguồn vốn (đầu tư từ ngân sách, từ học phí và tranh thủ viện trợ) các trường đã cố gắng nâng cấp thư viện, phòng thí nghiệm, cơ sở thực hành, mua sắm thiết bị hiện đại và nối mạng Internet. Tuy vậy, tình trạng chung là cơ sở vật chất kỹ thuật của các trường ĐH, CĐ còn thiếu và lạc hậu; diện tích sử dụng của các trường chỉ mới đáp ứng khoảng 1/3 chuẩn quy định, đây là bất cập lớn của giáo dục ĐH nước ta. Tiến độ triển khai xây dựng cơ sở vật chất của hai đại học quốc gia, hai trường ĐH sư phạm trọng điểm còn rất chậm. (*) Giáo dục không chính quy: Giáo dục không chính quy phát triển mạnh trong các năm gần đây. Đến mạng lưới cơ sở giáo dục không chính quy đã phủ khắp các địa phương. Tính trung bình, hàng năm có gần 300.000 người theo học các lớp bổ túc văn hóa; khoảng 700.000 người theo học các chương trình bồi dưỡng ngoại ngữ, tin học, giáo dục từ xa và một số lượng khá lớn sinh viên các khóa đào tạo liên kết giữa các trường và địa phương. Quy mô giáo dục không chính quy phát triển nhanh, nhưng công tác quản lý còn yếu kém và điều kiện bảo đảm chất lượng còn rất thấp. Việc quản lý lỏng lẻo đối với các hệ liên kết đào tạo có cấp văn bằng đã dẫn đến tình trạng “học giả, bằng thật”. Đây là một khâu yếu nghiêm trọng của giáo dục không chính quy ở nước ta. Các chương trình bổ túc văn hóa, phổ cập kiến thức, kỹ năng các ngành nghề đơn giản, về cơ bản đã đáp ứng được yêu cầu. Các chương trình giáo dục từ xa vẫn đang trong quá trình xây dựng, tiến độ còn chậm, chất lượng còn thấp. Đội ngũ giáo viên không chính quy nhìn chung còn thiếu và trình độ thấp; cơ sở vật chất còn nghèo nàn, điều kiện để tổ chức thực hành, thực nghiệm còn rất hạn chế. 1.2.3.2. Tình hình sử dụng vốn đầu tư phát triển ngành giáo dục – đào tạo Việt Nam: Thời gian qua, hoạt động đầu tư phát triển giáo dục ngày càng được chú trọng đáng kể. Vốn đầu tư toàn xã hội được nâng cao rõ rệt, đây cũng là điều kiện thuận lợi cho việc huy động vốn đầu tư phát triển ngành giáo dục - đào tạo nói riêng. Với tổng số tiền từ ngân sách nhà nước cho giáo dục đào tạo như năm 2006 là 54.798 tỷ đồng thì ngành giáo dục đã dùng tới 81,8% tổng số tiền này để chi thường xuyên, số tiền để chi cho đầu tư chỉ là 10.000 tỷ, chiếm 18,2%. Tỷ lệ này khi về các địa phương còn tiếp tục mất cân đối nghiêm trọng hơn. Với 40.458 tỷ đồng ngân sách giáo dục rót về các địa phương thì có tới 34.578 tỷ để dành cho việc chi thường xuyên, chi cho đầu tư chỉ là 5.880 tỷ đồng. Như vậy, với tổng chi ngân sách nhà nước cho giáo dục như năm 2006 thì chủ yếu số tiền này chỉ được dùng vào chi tiêu thường xuyên, tiền dành cho đầu tư hầu như không đáng kể. Trong khi đó, tiền đầu tư ở đây được tính cho những việc như nâng cao cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học, trường lớp, đổi mới phương pháp dạy và học... Tại hầu hết các nước có nền giáo dục tiên tiến trên thế giới như Anh, Pháp, Mỹ và ngay ở những quốc gia láng giềng như Trung Quốc, tỷ lệ chi thường xuyên chỉ chiếm khoảng 40% trong tổng chi, 60% còn lại dành cho việc tái đầu tư. Theo bảng tính cho giáo dục đào tạo bình quân cho một người đi học từ mầm non đến ĐH trong 12 tháng (do không có số liệu thống kê chi cho học tập ở các bậc học khác nhau nên Vụ Kế hoạch tài chính, Bộ GD-ĐT sử dụng thống kê chung cho chi phí học tập bình quân cho người đi học từ mầm non đến ĐH): Trong tổng số tiền phải chi trả thì học phí chỉ chiếm 27%, còn các khoản chi phí như đóng góp cho trường lớp, học thêm và các chi phí khác chiếm tổng cộng tới là 45%. Đến năm 2008, người đi học phải trả trung bình 1.142.000 VNĐ. Đặc biệt, số tiền phải trả cho các khoản chi khác trong giáo dục đã tăng từ 90 nghìn lên tới 225 nghìn, chiếm 21% tổng chi so với 14% năm 2002. Số tiền dành chi cho phổ cập giáo dục tiểu học, duy trì kết quả phổ cập, thực hiện phổ cập giáo dục THCS đã tăng gấp 10 lần từ 15 tỷ của năm 2002 lên thành 150 tỷ vào năm 2006. Tuy nhiên kết quả đang phản ánh xu hướng ngược lại. Số trẻ em từ 11 đến 14 tuổi là 6,810 triệu em, số học sinh THCS là 6,152 triệu em, chiếm tỷ lệ 90,3%, tức là có gần 10%, tương đương với hơn 600 nghìn trẻ em tốt nghiệp tiểu học không học lên THCS và đã bỏ học. Số học sinh bỏ học khi học hết THCS còn lên tới hơn 2 triệu học sinh. Năm 2006, số người đi học từ 15 đến 17 tuổi là 5,540 triệu nhưng tổng số học sinh THPT chỉ là 3,075 triệu, chiếm tỷ lệ 55,5%. Như vậy khoảng 44,5 % học sinh tốt nghiệp THCS nhưng không học tiếp lên THPT. Bảng 2: Tình hình thực hiện vốn đầu tư phát triển giáo dục – đào tạo giai đoạn 2003-2008: Đơn vị: Tỷ đồng, % 2003 2004 2005 2006 2007 2008 1.VĐT toàn xã hội. - Tốc độ tăng 217.600 - 258.700 18,89 324.000 25,24 398.900 23,12 452.800 13,51 521.700 15,22 2.VĐT cho giáo dục – đào tạo - Tốc độ tăng 37.552 - 54.223 44,4 68.968 27,2 78.088 13,2 87.458 12,00 98.828 13,00 3. Tỷ trọng VĐT giáo dục – đào tạo/VĐT xã hội 17,25 20,9 21,3 19,6 19,3 18,94 (Nguồn: Ngân sách nhà nước) Qua những số liệu trên cho chúng ta thấy, tổng VĐT toàn xã hội ngày càng tăng. Đặc trong năm 2008 tăng lên một cách nhanh chóng, nếu như năm 2003 VĐT toàn xã hội là 217.600 tỷ đồng thì đến năm 2008 đã tăng lên thành 521.700 tỷ đồng (tức gấp 2,4 lần so với năm 2003). Trên cơ sở đó, VĐT cho ngành giáo dục – đào tạo cũng tăng đáng kể, từ 37.552 tỷ đồng năm 2003 đã lên đến 98.828 tỷ đồng trong năm 2008 (gấp hơn 2,6 lần so với năm 2003). Điều này chứng tỏ, chi phí đầu tư cho ngành giáo dục – đào tạo rất được chú trọng. Và theo ước tính thì chi phí cho giáo dục – đào tạo trên GDP ở Việt Nam vào năm 2005 là khoảng 8,3%, đây là con số đáng khích lệ. Tuy nhiên, dù đã được tăng nhiều nhưng vẫn chưa thấm vào đâu so với đòi hỏi thực tế. Trong điều kiện nền kinh tế đất nước đang có những bước chuyển biến mạnh mẽ, nhanh chóng thì việc huy động các nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội là rất cần thiết. Một mặt là giảm gánh nặng ngân sách nhà nước, mặt khác để đầu tư phát triển các ngành kinh tế trong xã hội nói chung và ngành giáo dục - đào tạo nói riêng. Đây là một trong những chính sách huy động vốn đầu tư phát triển ngành giáo dục - đào tạo Việt Nam. Để hiểu sâu sắc hơn về tình hình sử dụng vốn đầu tư phát triển ngành giáo dục - đào tạo ta có thể đi vào cụ thể các vấn đề sau: (*) Theo cấp bậc học: Theo đánh giá khách quan và đánh giá một cách tổng quát thì có thể thấy rằng trong hệ thống giáo dục - đào tạo Việt Nam cũng như hệ thống giáo dục của các nước trên thế giới thì giáo dục phổ thông đóng vai trò hết sức quan trọng. Bên cạnh đó, giáo dục đại học, cao đẳng, trung cấp chuyên nghiệp lại giúp học viên rèn luyện được kỹ năng nghề nghiệp cần thiết cho quá trình lao động sản xuất sau này. Ta có thể thấy vốn đầu tư phát triển ngành giáo dục - đào tạo theo cấp bậc học được phân bố như sau: Bảng 3: Vốn đầu tư phát triển giáo dục – đào tạo theo cấp bậc học trong giai đoạn 2003-2008: Đơn vị: tỷ đồng, % 2003 2004 2005 2006 2007 2008 1.Tổng VDT cho GD - ĐT 37.552 54.223 68.968 78.088 87.458 98.828 2. VĐT cho GDMN - Tốc độ tăng 4.393,6 - 6.452,5 46,9 8.552 32,5 9.292 8,7 10.002 7,6 10.853 8,5 3. VĐT cho GDPT - Tốc độ tăng 30.041,6 - 43.161,5 43,6 54.484,7 26,2 61.923 13,7 67.783 9,5 78.514 15,83 4. VĐT cho THCN - Tốc độ tăng 450,6 - 704,9 56,4 1.034,5 46,8 1.171 13,1 1.298 10,9 1.458,5 12,4 5. VĐT cho CĐ – ĐH - Tốc độ tăng 2.666,2 - 3.904,1 46,4 4.896,8 25,4 5.702 16,4 6.563 15,1 7.429,3 13,2 ( Nguồn: Vụ kế hoạch – tái chính, Bộ GD – ĐT) Có thể thấy cùng với sự gia tăng về vốn đầu tư phát triển GD – ĐT trong mấy năm qua, vốn đầu tư đối với từng cấp bậc học cung gia tăng rõ rệt. Mặc dù tốc độ gia tăng không đồng đều nhau nhưng có thể thấy rõ xu hướng tích cực vẫn là sự gia tăng từ năm này qua năm khác. Đặc biệt, trong mấy năm gần đây giáo dục trung cấp chuyên nghiệp đang được đánh giá cao và được quan tâm để các học viên không đủ khả năng vào học các trường đại học hay cao đẳng được đào tạo một nghề để làm việc,cụ thể như sau: Năm 2001 đầu tư cho giáo dục trung cấp chuyên nghiệp (TCCN) là 627 tỷ đồng thì con số này đã lên đến 1.434 tỷ đồng vào năm 2006. Và đến năm 2008, đầu tư cho TCCN đã là 3.093,9 tỷ đồng. Khi nguồn lực đầu tư còn nhiều hạn chế như vậy thì một trong những nguồn thu quan trọng của các nhà trường chính là từ học phí, nhưng học phí thu đối với các trường TCCN hiện nay lại rất thấp. Đối với các trường TCCN công lập khu vực thành thị và thuộc nhóm ngành công nghiêp - xây dựng học phí từ 120.000 đồng đến 150.000 đồng/tháng, nhưng đối với những trường TCCN thuộc ngành nông, lâm, ngư thì học phí chỉ từ 50.000 đồng lên đến 100.000 đồng/tháng. Nguồn thu học phí thấp, nên tiền học phí chỉ giúp được một phần trang trải chi thường xuyên; phần kinh phí để tái đầu tư từ nguồn học phí rất thấp. Điều đó đã ảnh hưởng đến việc nâng cao chất lượng, thu hút giáo viên giỏi về trường TCCN. Cũng như vậy đối với các trường TCCN ngoài công lập mức thu học phí tuy có cao hơn tùy thuộc theo ngành học và khu vực, dao động trong khoảng từ 200.000 đồng/tháng lên đến 550.000 đồng/tháng. Nhưng phần lớn các trường mở những ngành nghề đòi hỏi ít kinh phí đầu tư, và việc mở ngành cũng vẫn còn chạy theo thị hiếu của người học chứ ít tính tới tầm nhìn chiến lược cho việc cung ứng nhân lực của địa phương, khu vực nơi đặt trường đào tạo. Bên cạnh đó, chi ngân sách trong Chương trình mục tiêu quốc gia về giáo dục và đào tạo cho giáo dục TCCN cũng chưa được quan tâm đúng mức, hầu như rất thấp từ 25 tỷ đồng năm 2002 lên đến 50 tỷ đồng vào năm 2008. Như vậy trung bình mỗi trường nhận được kinh phí từ chương trình mục tiêu là trên 130 triệu đồng mỗi năm kể từ năm 2002 trở lại đây. Trong khi đó đối với dạy nghề cũng thuộc giáo dục nghề nghiệp, lượng kinh phí dùng để tăng cường năng lực dạy nghề từ Chương trình mục tiêu quốc gia về giáo dục và đào tạo từ 110 tỷ đồng năm 2002 lên đến 1000 tỷ đồng năm 2008. Và cho dù hầu hết các cơ sở đào tạo TCCN đều tổ chức dạy nghề nhưng hầu như không nhận được đầu tư từ chương trình mục tiêu Tăng cường năng lực dạy nghề. Cùng với mức đầu tư thấp cho TCCN hiện nay đã ảnh hưởng đến việc mở rộng quy mô, chất lượng và hiệu quả đào tạo TCCN. Trong khi nguồn lực đầu tư còn hạn chế thì nhiều trường lại có sức ì quá lớn, còn thụ động trong việc chủ động tìm nguồn lực bên ngoài bổ sung cho những thiếu hụt trên. Chính sự thiếu chủ động và sức ì này cũng là một trong những nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến chất lượng đào tạo. Theo số liệu khảo sát của Bộ GD&ĐT trong tổng số 276 trường TCCN, một con số hết sức “khiêm tốn” biểu hiện hạn chế này là số lượng các trường TCCN có hợp đồng đào tạo với doanh nghiệp trong 2 năm vừa qua chỉ có trên 20 trường. Chắc chắn trường nào cũng biết, hợp đồng đào tạo với các doanh nghiệp không những đem lại nguồn thu cho nhà trường mà còn tạo điều kiện cho học sinh đến thực hành tại các doanh nghiệp đó, điều này chắc chắn hạn chế được tình trạng học chay, học với điều kiện thực hành lạc hậu đang diễn ra ở nhiều trường. Thế nhưng, số lượng hợp đồng liên kết hết sức có lợi này lại quá khiêm tốn. Cũng như vậy, không cứ gì trong các trường từ đại học, cao đẳng đến trung cấp chuyên nghiệp, một trong những nhân tố quan trọng góp phần nâng cao trình độ giảng viên và chất lượng đào tạo và cũng tạo thêm nguồn thu cho nhà trường chính là từ các hoạt động nghiên cứu khoa học, gắn nghiên cứu với sản xuất. Nhưng một lần nữa, thực tế hạn chế này lại lặp lại, hiện nay ở các trường TCCN các hoạt động này đang rất yếu, nhiều trường gần như không có. Các nguồn thu từ nghiên cứu khoa học, sản xuất hoặc các dịch vụ khác từ các trường TCCN là rất hạn chế, và đây chủ yếu do năng lực đội ngũ và điều kiện cơ sở vật chất nghèo nàn. Chính sự thiếu hụt các hoạt động nghiên cứu khoa học không những làm giảm nguồn thu cho các nhà trường mà còn ảnh hưởng đến chất lượng giáo viên và chất lượng đào tạo của nhà trường đó. (*) Theo vùng lãnh thổ: Việt Nam được chia thành 8 vũng lãnh thổ, đó là: Đồng bằng sông Hồng, Đồng bằng sông Cửu Long, Đông Bắc, Tây Bắc, Bắc Trung Bộ, Duyên hải Nam Trung Bộ, Tây nguyên, Đông Nam Bộ. Mỗi vùng lãnh thổ lại có những đặc điểm riêng về điều kiện tự nhiên cũng như tình hình phát triển kinh tế - xã hội. Cho nên định mức đầu tư phát triển ngành giáo dục - đào tạo ở mỗi vùng lãnh thổ cũng khác nhau rõ rệt. Do vậy cần đảm bảo sự cân bằng động trong việc ưu tiên đầu tư đầu tư vào những vùng kinh tế khó khăn, kém phát triển với việc đầu tư phát triển ngành giáo dục - đào tạo ở những vùng kinh tế trọng điểm và những lĩnh vực kinh tế mang tính mũi nhọn. Bảng 4: Định mức đâu tư phân bổ ngân sách chi sự nghiệp giáo dục đối với dân số trong độ tuổi từ 1 đến 18 giai đoạn (2003-2008) như sau: Đơn vị: Đồng/người dân/năm Vùng Định mức phân bổ giai đoạn 2003-2008 1. Đô thị 773.456 2. Đồng bằng 842.345 4. Núi thấp – Vùng sâu 1.146.674 5. Núi cao - hải đảo 1.452.769 (Nguồn: Vụ kế hoạch – tài chính, Bộ GD – ĐT) Bảng 5: Định mức đâu tư phân bổ ngân sách chi sự nghiệp giáo dục đối với dân số từ 18 tuổi trở lên giai đoạn (2003-2008) như sau: Đơn vị: Đồng/người dân/năm Vùng Định mức phân bổ giai đoạn 2003-2008 1. Đô thị 26.896 2. Đồng bằng 29.452 4. Núi thấp – Vùng sâu 39.412 5. Núi cao - hải đảo 49.981 (Nguồn: Vụ kế hoạch – tài chính, Bộ GD – ĐT) Ngân sách nhà nước thường ưu tiên phân bổ cho những vùng có điều kiện kinh tế - xã hội gặp nhiều khó khăn, mức độ phát triển về giáo dục -đào tạo còn thấp. Nhằm đảm bảo sự công bằng trong sự nghiệp phát triển giáo dục - đào tạo của cả nước. Theo quan điểm đó, thì mực vốn chi cho đầu tư giáo dục - đào tạo ở vùng núi cao - hải đảo cao nhất, tiếp theo là vùng núi thấp - vùng sâu, tiếp theo là đồng bằng và cuối cùng là đô thị. Đảng và Nhà nước ta ngày càng có nhiều chính sách để thu hẹp khoảng cách giữa giáo dục nông thông và thành thị, giữa miền núi và đồng bằng, giữa vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn với vùng có điều kiện tốt để phát triển kinh tế - xã hội. Vấn đề này thể hiện rõ trong công tác xoá mù chữ, phổ cập giáo dục. tuy nhiên, do đặc điểm về điều kiện tự nhiên khác nhau đã quyết định sự khác nhau về đặc điểm kinh tế - xã hội mà dẫn đến nhiều khó khăn trong việc vận chuyển xây dựng trường học do đường sá còn gây trở ngại lớn. Chính điều này là cho việc kếm hiệu quả trong đầu tư phát triển giáo dục, đặc biệt ở những vùng khó khăn, tức là đôi khi chi phí lên cao nhưng kết quả đạt được lại rất hạn chế. Bên cạnh vốn đầu tư cho ngành giáo dục lấy từ ngân sách nhà nước, thì việc huy động vốn đầu tư của xã hội để phát triển giáo dục - đào tạo là rất quan trọng. Tuy nhiên thì việc huy động nguồn vốn nhàn rỗi xã hộiỉơ các vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn là rất ít và đây đang là vấn đề hết sức khó khăn và nan giải. Vì vậy, đối với các vùng. 1.3. ĐÁNH GIÁ VỀ THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN NGÀNH GIÁO DỤC – ĐÀO TẠO VIỆT NAM. Sau hơn 20 năm tiến hành công cuộc đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng, nước ta đã tiến những bước dài trên con đường phát triển. Lần đầu tiên tổng sản phẩm nội địa (GDP) trên đầu người vượt ngưỡng 1000 USD/năm. Việt Nam gia nhập WTO, tự loại ra khỏi danh sách các nước nghèo và khẳng định vị thế quan trọng của mình trên trường quốc tế. Song hành cùng những bước tiến của cả dân tộc, ngành giáo dục đã đạt được những thành tựu hết sức lớn lao. Quy mô và mạng lưới của các cơ sở giáo dục được phát triển, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu học tập của toàn xã hội. Chất lượng đào tạo đã có những chuyển biến ở tất cả các cấp học, các trình độ đào tạo, công tác xã hội hoá giáo dục phát triển thu hút sự quan tâm của tất cả mọi người dân. Công tác phổ cập giáo dục ở tiểu học và THCS đã có những bước tiến dài góp phần giảm tỷ lệ mù chữ trong độ tuổi trên cả nước. Công bằng xã hội trong ngành giáo dục được cải thiện thông qua các chương trình hỗ trợ, cho vay vốn đối với học sinh nghèo, học sinh ở vùng sâu, vùng xa, trẻ em bị khuyết tật. Đặc biệt, những cuộc vận động như "hai không", "Mỗi thầy cô giáo là một tấm gương đạo đức, tự học và sáng tạo" và "Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực" đã thực sự thổi một luồng gió mới vào đời sống giáo dục ở nước ta, tạo đà cho sự thay đổi về chất của toàn bộ hệ thống giáo dục. Bộ trưởng Bộ GD&ĐT Nguyễn Thiện Nhân thì các cuộc vận động này nhằm "thiết lập lại môi trường sư phạm với 6 đặc trưng: trật tự kỷ cương, trung thực, khách quan, công bằng, tình thương và khuyến khích sáng tạo, hiệu quả". Và thực tế, kết quả của các kỳ thi đã chứng minh một cách sinh động rằng chúng ta đang học thật, thi thật. Những thành tựu mà ngành giáo dục đã đạt được khẳng định vai trò quan trọng của giáo dục trong việc nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài cho đất nước. Nhờ những thành tựu của giáo dục và các lĩnh vực xã hội khác mà chỉ số phát triển con người (HDI) của nước ta theo bảng xếp loại của Chương trình phát triển Liên hợp quốc trong những năm gần đây có những tiến bộ đáng kể. Tuy nhiên, công bằng mà nói thì hệ thống giáo dục của ta vẫn còn nhiều bất cập, yếu kém, chưa đáp ứng được yêu cầu của xã hội trong thời kỳ hội nhập. Hệ thống giáo dục hiện nay thiếu đồng bộ, thiếu tính liên thông giữa các cấp học và các trình độ đào tạo. Chất lượng đào tạo ở tất cả các cấp học còn thấp, chương trình giáo dục, nhất là giáo dục ở bậc đại học còn hạn chế, chưa đạt được mục tiêu của giáo dục và đào tạo. Đội ngũ nhà giáo và các nhà quản lý giáo dục còn thiếu quy hoạch tổng thể. Số giảng viên có trình độ thạc sĩ, tiến sĩ ở các trường đại học còn quá ít. Chất lượng đào tạo ở các trường sư phạm chưa cao dẫn đến trình độ của giáo viên chưa đáp ứng được yêu cầu của thời kỳ mới. Các chế độ, chính sách đối với giáo viên chưa thoả đáng, chưa tạo được động lực để mỗi người thầy phấn đấu vươn lên dẫn đến không ít người không an tâm công tác, thậm chí bỏ nghề. Những năm gần đây, bằng hỗ trợ của các nguồn vốn đầu tư, cơ sở vật chất của ngành giáo dục được cải thiện rõ rệt nhưng vẫn chưa đáp ứng được quy mô phát triển của giáo dục nước nhà. Trong bối cảnh hội nhập toàn diện, Việt Nam có cơ hội tiếp cận với các nền giáo dục tiên tiến, có điều kiện thu hẹp khoảng cách với các nước phát triển. Tuy nhiên, hội nhập quốc tế đã đặt ra trước mắt chúng ta bao thử thách hết sức cam go. Toàn cầu hoá có thể làm khoảng cách về kinh tế và tri thức giữa Việt Nam và các nước khác bị gia tăng, chúng ta đang đứng trước nguy cơ thiếu nguồn nhân lực chất lượng cao bởi nạn chảy máu chất xám. Mặc dù nước ta đang ở giai đoạn "dân số vàng" (khoảng trên 60% đang ở tuổi lao động) nhưng trình độ của đội ngũ những người lao động còn kém so với các nước trong khu vực khá nhiều và như vậy, khả năng nắm bắt những "cơ hội vàng" của "biển lớn" sẽ hết sức khó khăn. Bùng nổ phát triển kinh tế của nước ta trong thời gian qua đã tạo áp lực không nhỏ đối với ngành giáo dục. Nếu hệ thống giáo dục thực hiện tốt chức năng chuẩn bị tri thức và nghề nghiệp cho nguồn lực lao động thì nó sẽ tạo ra động lực mạnh mẽ cho sự phát triển của kinh tế đất nước. 1.3.1.Những thành tựu đạt được: 1.3.1.1. Nhu cầu học tập của nhân dân được đáp ứng tốt hơn, trước hết là ở giáo dục phổ thông. Đã xây dựng được hệ thống giáo dục quốc dân thống nhất, khá hoàn chỉnh bao gồm đủ các cấp học, bậc học, trình độ đào tạo, các loại hình nhà trường và phương thức giáo dục. Mạng lưới cơ sở giáo dục đã được mở rộng đến khắp các xã, phường, tạo điều kiện tăng trưởng rõ rệt về số lượng học sinh, sinh viên, khắc phục tình trạng giảm sút quy mô trong những năm từ 1986-1987 đến 1991-1992. Năm học 2007-2008, có khoảng 28,2 triệu người theo học trong hơn 40.000 cơ sở giáo dục. Đặc biệt, giáo dục mầm non và dạy nghề được khôi phục và có tiến bộ rõ rệt. Năm 2008, về cơ bản đã đạt và vượt các chỉ tiêu mà Chiến lược phát triển giáo dục đề ra cho năm 2008 Bảng 6:Tổng số trường mầm non và trường phổ thông cả nước trong giai đoạn 2003 - 2008: Đơn vị: trường 2003-2004 2004-2005 2005-2006 2006-2007 2007-2008 1. Số trường học mầm non 9975 10376 10583 10748 11696 2. Số trường học tiểu học 14346 14578 14675 14802 14933 3. Số trường học THCS 9873 9041 9287 9520 9781 4. Số trường học THPT 2140 2224 2352 2506 2619 (Nguồn: Tổng cục thống kê) Việc mở rộng quy mô, đa dạng hóa loại hình nhà trường (bán công, dân lập, tư thục) và phát triển các hình thức giáo dục không chính quy đã tạo thêm cơ hội học tập cho nhân dân, trước hết là thanh thiếu niên, góp phần thúc đẩy sự phát triển hệ thống giáo dục quốc dân và bước đầu hình thành xã hội học tập. Bảng7: Tổng số giáo viên tại các trường mầm non và phổ thông cả nước giai đoạn 2003 – 2008: Đơn vị: nghìn người 2003-2004 2004-2005 2005-2006 2006-2007 2007-2008 1. Số giáo viên mầm non 106,7 112,8 117,2 122,9 130,4 2. Số giáo viên tiểu học 366,2 362,4 354,8 349,5 348,7 3. Số giáo viên THCS 290,4 302,5 310,2 314,9 317,5 4. Số giáo viên THPT 98,8 106,1 115,5 125,2 134,4 (Nguồn: Tổng cục thống kê) Qua bảng trên ta thấy, số giáo viên tiểu học giảm đi trong giai đoạn 2003 – 2008, trong khi đó số lượng giáo viên trung học cơ sở, phổ thông trung học và mầm non đều tăng lên. Điều này chứng tỏ số lượng giáo viên các cấp ngày càng được bổ sung để phù hợp với nhu cầu học tập của nhân dân. 1.3.1.2. Đã đạt được một số kết quả quan trọng trong việc thực hiện các mục tiêu chiến lược : Về nâng cao dân trí: Kết quả xóa mù chữ, phổ cập GD tiểu học đã được duy trì, củng cố và phát huy. Chủ trương phổ cập giáo dục THCS đang được triển khai tích cực, hiện đã có 20 tỉnh, thành phố được công nhận đạt chuẩn quốc gia. Một số tỉnh và thành phố đã bắt đầu thực hiện phổ cập giáo dục bậc trung học (bao gồm THPT, THCN và dạy nghề). Số năm đi học bình quân của cư dân 15 tuổi trở lên tăng liên tục từ 4,5 (vào năm 1990) lên 6,34 (vào năm 2000) và đến năm 2003 là 7,3. Bình đẳng giới trong giáo dục tiếp tục được đảm bảo. Đây là những thành tựu quan trọng, nhất là khi so sánh với các nước có trình độ phát triển kinh tế và thu nhập tính theo đầu dân tương đương hoặc cao hơn nước ta. Về đào tạo nhân lực: Tỷ lệ lao động qua đào tạo từ 23% năm 2003 đã tăng lên trên 28% năm 2008. Chất lượng nguồn nhân lực đã có chuyển biến tích cực. Trong những thành tựu tăng trưởng kinh tế của đất nước hơn 10 năm qua có phần đóng góp rất quan trọng của đội ngũ lao động, mà tuyệt đại đa số được đào tạo ở trong nước. Nước ta cũng đã bắt đầu chủ động đào tạo được nguồn nhân lực phục vụ xuất khẩu lao động. Về bồi dưỡng nhân tài: việc đào tạo, bồi dưỡng học sinh, sinh viên có năng khiếu đã được chú trọng và đạt được những kết quả rõ rệt. Nhà nước và một số ngành, địa phương đã dành một phần ngân sách để triển khai chương trình đào tạo cán bộ trình độ cao (thạc sĩ, tiến sĩ) trong các lĩnh vực khoa học, công nghệ, quản lý v.v. ở các nước tiên tiến. Số cán bộ này, sau khi tốt nghiệp đã trở về nước công tác và bắt đầu phát huy tác dụng. 1.3.1.3. Chính sách xã hội về giáo dục đã được thực hiện tốt hơn và có hiệu quả hơn. Giáo dục ở vùng đồng bào các dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa phát triển mạnh và có tiến bộ rõ rệt. Mạng lưới trường, lớp về cơ bản đã bảo đảm cho con em các dân tộc được học tập ngay tại xã, thôn, bản. Việc củng cố, phát triển các trường phổ thông dân tộc nội trú và tăng chỉ tiêu cử tuyển đã tạo thêm điều kiện cho con em các dân tộc thiểu số ở địa bàn kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn được đào tạo ở ĐH, CĐ, tạo nguồn cán bộ cho các vùng này. Đã thí điểm và chuẩn bị ban hành chính sách học nghề nội trú cho thanh niên, thiếu niên con em đồng bào dân tộc. Tiếng nói và chữ viết của 8 dân tộc thiểu số đã được đưa vào giảng dạy ở trường tiểu học; trong đó tiếng Hoa và tiếng Khơmer được dạy cả ở trường THCS. Chính phủ đã có nhiều chính sách và biện pháp tăng đầu tư cho các vùng khó khăn như chương trình 135, chương trình kiên cố hóa trường, lớp học v.v. Nhờ vậy, cơ sở vật chất của giáo dục ở vùng khó khăn tiếp tục được củng cố, tăng cường. Việc miễn, giảm học phí, cấp học bổng và các chính sách hỗ trợ khác đã tạo điều kiện cho đại bộ phận con em các gia đình nghèo, diện chính sách được học tập, trước hết ở các cấp học phổ cập. 1.3.1.4. Chất lượng giáo dục đã có chuyển biến bước đầu: Nội dung giảng dạy và kiến thức của học sinh phổ thông có tiến bộ, toàn diện hơn và tiếp cận dần với phương pháp học tập mới. Trong giáo dục nghề nghiệp, chất lượng đào tạo của một số ngành nghề như y dược, nông nghiệp, cơ khí, xây dựng, giao thông vận tải, v.v. về cơ bản đã đáp ứng yêu cầu của thực tế sản xuất và đời sống hiện nay. Đặc biệt, sự tiến bộ về nhận thức chính trị và trách nhiệm xã hội của học sinh, sinh viên cùng với đội ngũ giáo viên, giảng viên đã góp phần vào việc bảo đảm ổn định chính trị của đất nước trong điều kiện có nhiều biến động của tình hình quốc tế và âm mưu, hành động của các thế lực thù địch đối với nước ta thời gian vừa qua. 1.3.1.5. Điều kiện đảm bảo phát triển giáo dục được tăng cường hơn: Đã xây dựng được một đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục đông đảo với tổng số trên một triệu người (khoảng 950.000 giáo viên, giảng viên và trên 90.000 cán._.́n từng trường trung học phổ thông, đa dạng hóa các phương thức đào tạo nghề để giúp các học viên lựa chọn đúng đắn nghề nghiệp của mình. Việc đào tạo nghê ở nông thôn cần được chú trọng hơn nữa. Cần phát triển nông thôn đủ mạnh sao cho giữ được lao động dư ra chuyển sang công nghiệp ở nông thôn. Phải xem đào tạo nghề ở nông thôn là một bộ phận của chương trình xóa đói giảm nghèo và các chương trình mục tiêu quố gia khác. Bên cạnh việc đào tạo nghề ở nông thôn thì đào tạo nghề ở thành phố cũng cần được nâng cao vì số lượng người thất nghiệp ở thành thị ngày càng tăng. Cần tập trung đào tạo lao động mới trong các ngành công nghiệp và dịch vụ. Để nâng cao hiệu quả đào tạo nghề cần áp dụng công nghệ thông tin trong đào tạo với các hình thức như: Đào tạo từ xa qua mạng, đào tạo nghề bởi các trung tâm dạy nghề quốc tê qua mạng… Sự mất cân đối trong đầu tư phát triển đào tạo các ngành nghề khác nhau đã dẫn đến chất lượng đào tạo kém hiệu quả. Các doanh nghiệp và nhà trường cũng cần kết hợp với nhau trong việc tìm hiểu nhu cầu của ngườ sử dụng lao động. Từ đó, các doanh nghiệp cũng cần tạo điều kiện giúp đỡ nhà trường trong việc đào tạo. Để tiến tới đầu tư vào đào tào những ngành nghề theo nhu cầu của doanh nghiệp và xã hội thì cần phải có những biện pháp tuyên truyền cần thiết để mọi người ý thức được tầm quan trọng của giáo dục nghề nghiệp. 2.2.4. Giải pháp về nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư, chống thất thoát lãng phí trong đầu tư: 2.2.4.1. Đổi mới về tư duy, nhận thức của các cá nhân và tổ chức trong công cuộc đầu tư phát triển ngành giáo dục – đào tạo: Mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội nhằm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển vào năm 2010 và về cơ bản trở thành một nước công nghiệp vào năm 2020 đòi hỏi giáo dục phải phát triển mạnh mẽ để góp phần thúc đẩy CNH, HĐH. Việc chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; sự phát triển nhanh chóng của khoa học và công nghệ; xu thế toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế; nhu cầu học tập ngày càng tăng của nhân dân vừa là thời cơ, vừa tạo ra thách thức to lớn đối với giáo dục nước ta. Trong bối cảnh đó, giáo dục phải được đổi mới mạnh mẽ, trước hết là phải đổi mới tư duy một cách sâu sắc, toàn diện với các nội dung sau đây: Thứ nhất, cần nhận thức sâu sắc hơn mục tiêu giáo dục trong thời kỳ mới là phát triển con người Việt Nam với đầy đủ bản lĩnh và phẩm chất tốt đẹp của dân tộc và của thời đại, đáp ứng những đòi hỏi của công cuộc CNH, HĐH và hội nhập kinh tế quốc tế. Thế hệ trẻ do nhà trường đào tạo phải trung thực, năng động và sáng tạo, biết hợp tác và cạnh tranh lành mạnh, có hoài bão, có ý chí vươn lên, tự lập thân, lập nghiệp và góp phần đưa đất nước ra khỏi tình trạng nghèo nàn, lạc hậu. Thứ hai, nền giáo dục Việt Nam phải là nền giáo dục của dân, do dân, vì dân, hướng tới một xã hội học tập. Nhu cầu học tập ngày càng tăng của nhân dân và yêu cầu xây dựng xã hội học tập đòi hỏi phải xem xét lại nhiều vấn đề của hệ thống giáo dục quốc dân. Hệ thống giáo dục không chỉ dành cho TS, mà còn dành cho tất cả mọi người để học tập suốt đời, trong đó, học theo trường lớp chính quy và không chính quy đều có thể đạt được trình độ mong muốn về kiến thức và kỹ năng. Thứ ba, Xã hội hoá giáo dục là giải pháp cơ bản để phát triển giáo dục. Cùng với việc tăng ngân sách và điều chỉnh cơ cấu đầu tư để tập trung giải quyết các mục tiêu ưu tiên, Nhà nước cần tạo cơ chế, mạnh dạn huy động nguồn lực và trí tuệ từ nhân dân để phát triển giáo dục và có chính sách bảo đảm bình đẳng giữa trường công lập và trường ngoài công lập. Gắn chặt hơn nữa mối quan hệ giữa nhà trường, gia đình và xã hội. Thứ tư, giáo dục Việt Nam phải tăng cường hợp tác quốc tế nhằm  nâng cao khả năng hợp tác và cạnh tranh của đất nước, đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế. Thứ năm, do khoa học và công nghệ có những bước phát triển nhảy vọt, khối lượng tri thức của nhân loại ngày càng lớn, đòi hỏi giáo dục phải thường xuyên cập nhật các thành tựu mới, đồng thời phải chuyển dần từ việc học để tiếp nhận tri thức sang học để biết cách tìm kiếm và tích lũy tri thức. Trong bối cảnh trên, để tạo ra sự chuyển biến cơ bản và vững chắc, rút ngắn khoảng cách so với các nền giáo dục tiên tiến, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước, giáo dục nước ta cần phải được tiếp tục đổi mới theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa. Chính phủ dự kiến sẽ điều chỉnh một số chỉ tiêu, bổ sung, hoàn chỉnh một số nhiệm vụ và giải pháp của Chiến lược phát triển giáo dục giai đoạn 2001-2010, từ đó xây dựng Tầm nhìn và Chiến lược phát triển giáo dục cho 15-20 năm tới. Để làm được việc đó, sẽ tập trung lực lượng, phát huy trí tuệ của toàn xã hội tổng kết thực tiễn giáo dục trong thời kỳ đổi mới, nghiên cứu kinh nghiệm và mô hình giáo dục tiên tiến, vận dụng phù hợp vào điều kiện nước ta. Cùng với việc xây dựng Tầm nhìn và Chiến lược đó, trước mắt Chính phủ sẽ tập trung chỉ đạo giải quyết một số nhiệm vụ trọng tâm với những giải pháp quyết liệt để trong vài năm tới giáo dục nước nhà có chuyển biến rõ rệt, tạo tiền đề vững chắc cho bước phát triển tiếp theo. 2.2.4.2. Tăng cường công tác quản lý Nhà nước đối với hoạt động đầu tư phát triển ngành giáo dục – đào tạo Việt Nam: Giáo dục – đào tạo luôn giữ một vai trò vô cùng quan trọng đối với sự phát triển của đất nước. Do đó trong hoạt động đầu tư cần có sự quản lý tốt của các cơ quan chức năng. Để khắc phục các yếu kém trong công tác quản lý Nhà nước đối với hoạt động đầu tư phát triển ngành giáo dục, Chính phủ sẽ tập trung chỉ đạo thực hiện các giải pháp sau đây: - Phân cấp mạnh trong quản lý giáo dục, làm rõ trách nhiệm của Chính phủ, của các bộ, ngành, địa phương và cơ sở giáo dục. Triển khai nghiêm túc Nghị định 166/2004/NĐ-CP “Quy định trách nhiệm quản lý nhà nước về giáo dục”; xác định rõ cơ chế phối hợp giữa Bộ GD&ĐT, Bộ LĐ-TB&XH với các bộ, ngành, địa phương. Phân cấp cho UBND cấp tỉnh quyết định và chịu trách nhiệm cụ thể hoá các chính sách giáo dục, huy động nguồn lực, xây dựng và tổ chức thực hiện quy hoạch, kế hoạch phát triển giáo dục, mở rộng quy mô và nâng cao chất lượng giáo dục trên địa bàn. Bộ GD&ĐT, Bộ LĐTB&XH cần cải tiến công tác quản lý, điều hành, tập trung vào chức năng quản lý nhà nước, lấy việc quản lý chất lượng làm nhiệm vụ trọng tâm. Bộ GD&ĐT, Bộ LĐ-TB&XH phối hợp với các bộ, ngành có liên quan khẩn trương hoàn chỉnh hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật về giáo dục; tiến hành xây dựng các dự án Luật Giáo viên, Luật Giáo dục đại học, Luật Giáo dục nghề nghiệp để trình Quốc hội thông qua trong khoảng 3 - 5 năm tới; đồng thời rà soát, bổ sung các văn bản còn thiếu, thay thế, sửa đổi các văn bản đã lạc hậu hoặc còn chồng chéo. Cùng với việc nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về giáo dục, trong năm 2008 sẽ bổ sung các quy định để tăng cường quyền tự chủ và trách nhiệm của cơ sở giáo dục đối với xã hội về sản phẩm đào tạo, về tài chính, nhân sự và tuyển sinh. Các cơ sở giáo dục nghề nghiệp và giáo dục đại học được tự quyết định chương trình và nội dung đào tạo trên cơ sở chuẩn kiến thức, kỹ năng và chương trình khung do Bộ GD&ĐT ban hành.  Rà soát, sửa đổi các quy định về đầu tư, quản lý nhân sự, đất đai, tài chính v.v. nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển giáo dục. Ban hành chính sách mới về học phí, học bổng; về giao quyền sử dụng đất, bảo hộ quyền sở hữu và thu nhập chính đáng của nhà đầu tư tham gia mở trường. Cần đổi mới và tăng cường công tác thanh tra giáo dục, tập trung vào thanh tra chuyên môn, khắc phục những thiếu sót, sơ hở và bệnh thành tích trong khâu đánh giá, thi cử. Chấn chỉnh việc tổ chức liên kết đào tạo, ngăn chặn và tiến tới xoá bỏ tình trạng “học giả, bằng thật”. Xử lý nghiêm minh đối với các trường hợp lợi dụng hoạt động giáo dục nhằm thu lợi bất chính. Quy định trách nhiệm cụ thể và tăng thêm quyền của thanh tra giáo dục trong việc xử lý kết quả thanh tra, kiểm tra. Bổ sung biên chế và nâng cao chất lượng đội ngũ thanh tra viên giáo dục, đồng thời xây dựng chương trình đào tạo và bồi dưỡng nghiệp vụ thanh tra viên để chuyên nghiệp hóa đội ngũ này. Phải rà soát, bố trí, sắp xếp lại đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục; xây dựng lực lượng chủ chốt tận tâm, thạo việc, có năng lực điều hành. Bộ GD&ĐT phối hợp với Bộ Nội vụ xây dựng chương trình đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lý giáo dục phù hợp các yêu cầu phát triển giáo dục trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập kinh tế quốc tế. Cần xây dựng và ban hành các tiêu chí cụ thể về thành lập trường đại học, cao đẳng, mở các mã ngành đào tạo. Nghiên cứu sửa đổi, bổ sung các điều lệ, quy chế tổ chức và hoạt động của các loại hình trường đại học, đáp ứng yêu cầu mới. Xây dựng Trung tâm Dự báo nhu cầu nguồn nhân lực nhằm cung cấp các dữ liệu thống kê, thông tin, dự báo đầy đủ, chính xác, phục vụ cho công tác quy hoạch phát triển ngành và cơ sở đào tạo. Triển khai đại trà công tác đánh giá và kiểm định chất lượng giáo dục đại học; thực hiện định kỳ xếp hạng các trường đại học, cao đẳng. Thực hiện đa ngành hoá, đa lĩnh vực hoá đối với các trường đại học, cao đẳng đơn ngành. Củng cố, nâng cao năng lực, chất lượng đào tạo của các trường, khoa sư phạm, sư phạm kỹ thuật; Nghiên cứu việc phân cấp quản lý các trường đại học, cao đẳng phù hợp với điều kiện thực tiễn. Bộ Giáo dục và Đào tạo tập trung quản lý nhà nước đối với giáo dục đại học, các trường trọng điểm, trường đầu ngành,  trường có vốn đầu tư nước ngoài; Tăng cường quản lý công tác tuyển sinh, đào tạo của các trường, đáp ứng các tiêu chí bảo đảm chất lượng do Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định; Ngoài ra, cần xây dựng, ban hành các chính sách hỗ trợ cụ thể nhằm đẩy mạnh xã hội hoá giáo dục, phát triển các trường đại học tư thục, trường đại học có vốn đầu tư nước ngoài. Xây dựng và ban hành các tiêu chí cụ thể về thành lập trường đại học, cao đẳng, mở các mã ngành đào tạo. Nghiên cứu sửa đổi, bổ sung các điều lệ, quy chế tổ chức và hoạt động của các loại hình trường đại học, đáp ứng yêu cầu mới; - Triển khai đại trà công tác đánh giá và kiểm định chất lượng giáo dục đại học; thực hiện định kỳ xếp hạng các trường đại học, cao đẳng; - Xây dựng Trung tâm Dự báo nhu cầu nguồn nhân lực nhằm cung cấp các dữ liệu thống kê, thông tin, dự báo đầy đủ, chính xác, phục vụ cho công tác quy hoạch phát triển ngành và cơ sở đào tạo; - Thực hiện đa ngành hoá, đa lĩnh vực hoá đối với các trường đại học, cao đẳng đơn ngành; - Củng cố, nâng cao năng lực, chất lượng đào tạo của các trường, khoa sư phạm, sư phạm kỹ thuật; - Nghiên cứu việc phân cấp quản lý các trường đại học, cao đẳng phù hợp với điều kiện thực tiễn. Bộ Giáo dục và Đào tạo tập trung quản lý nhà nước đối với giáo dục đại học, các trường trọng điểm, trường đầu ngành,  trường có vốn đầu tư nước ngoài; - Tăng cường quản lý công tác tuyển sinh, đào tạo của các trường, đáp ứng các tiêu chí bảo đảm chất lượng do Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định; - Xây dựng, ban hành các chính sách hỗ trợ cụ thể nhằm đẩy mạnh xã hội hoá giáo dục, phát triển các trường đại học tư thục, trường đại học có vốn đầu tư nước ngoài. 2.2.4.3. Xây dựng mô hình quản lý giáo dục kiểu mới: Để xây dựng mô hình quản lý giáo dục kiểu mới thì trước hết cần phải xây dựng và thực hiện chuẩn hóa đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục. Để có thể xây dựng một đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục chuyên nghiệp, có chất lượng cao, cần tập trung vào một số giải pháp sau: Thứ nhất, cần xây dựng cán bộ quản lý mới phù hợp với bối cảnh hội nhập. Thứ hai, cần xây dựng thang chuẩn đánh giá và đổi mới quy trình bổ nhiệm cán bộ. Bên cạnh đó cần thay thế những cán bộ quản lý không đáp ứng được yêu cầu về quản lý giáo dục, sa sút về phẩm chất không hoàn thành nhiệm vụ. Thứ ba, cần đổi mới mô hình đào tạo và bồi dưỡng cán bộ quản lý giáo dục. Sử dụng có hiệu quả các nguồn kinh phí đào tạo từ ngân sách nhà nước, từ nguồn viện trợ trong và ngoài nước. Bên cạnh việc xây dựng và thực hiện chuẩn hóa cán bộ quản lý giáo dục thì cần phải tách biệt giữa công tác quản lý trong nhà trường với công tác trong giảng dạy. Điều này giúp cho các trường hoạt động theo cơ chế này thực sự có hiệu quả hơn. 2.2.4.4. Xây dựng các mô hình liên kết đào tạo: Việc xây dựng mô hình liên kết đào tạo được xem là có hiệu quả trong tất cả các hoạt động kinh tế – xã hội nói chung và trong ngành giáo dục – đào tạo nói riêng. Nó giúp cho các chủ thể tham gia liên kết phát huy được những thế mạnh, hạn chế những điểm yếu kém. Mặt khác, còn tranh thủ thế mạnh và nguồn lực của đối tác trên cơ sở hai bên cùng có lợi. Có thể xem xét ba mô hình liên kết đào tạo thường diễn ra trong ngành giáo dục – đào tạo, đó là: (*). Liên kết hợp tác đào tạo giữa các trường trong nước: Đây là mô hình liên kết đào tạo giữa các trường trong một quốc gia với nhau. Mô hình này cũng mang lại hiệu quả chung như những mô hình liên kết khác. Ngoài ra, còn có được những ưu điểm tích cực nữa là: Do các trường đều nằm trên cùng một vùng lãnh thổ, nên các chủ thể tham gia liên kết sẽ hiểu rõ nhau hơn, việc trao đổi nguồn lực sẽ trở nên dễ dàng hơn do có điều kiện thuận lợi về mặt địa lý và hành chính. Cả hai bên sẽ hiểu rõ hơn về nhu cầu hiện tại của xã hội cũng như các chính sách phát triển vĩ mô của đất nước mình. (*). Liên kết hợp tác đào tạo Quốc tế: Việc liên kết đào tạo Quốc tế cho phép các cơ sở giáo dục trong nước tranh thủ tối đa nguồn lực của các đối tác nước ngoài, đồng thời cũng tạo cơ hội học tập tốt hơn cho các học viên trong nước được nâng cao chất lượng học tập. Đối với hình thức này, Chính phủ sẽ tập trung chỉ đạo thực hiện các giải pháp sau đây: Thứ nhất, cho phép các trường ĐH, CĐ, THCN và dạy nghề áp dụng có chọn lọc các chương trình, giáo trình tiên tiến về các môn khoa học tự nhiên, công nghệ, ngoại ngữ của các nước phát triển, bảo đảm phù hợp với mục tiêu, yêu cầu và thực tiễn giáo dục nước ta; đồng thời xây dựng các chương trình đào tạo có khả năng chuyển đổi với các cơ sở giáo dục nước ngoài. Thứ hai, triển khai chiến lược dạy và học ngoại ngữ trong hệ thống giáo dục quốc dân, tập trung chủ yếu vào tiếng Anh, khuyến khích dạy và học ngoại ngữ thứ hai. Cho phép một số cơ sở giáo dục đại học và sau đại học giảng dạy song ngữ (bằng tiếng Việt và tiếng nước ngoài) ở một số môn học, ngành học. Thứ ba, mở rộng hình thức du học tại chỗ bằng cách tạo điều kiện để các trường ĐH, CĐ hợp tác với các trường có uy tín ở nước ngoài thực hiện chương trình liên kết đào tạo, đặc biệt là đào tạo sau đại học, theo phương thức: những năm đầu đào tạo trong nước, những năm còn lại đào tạo ở nước ngoài. Có chính sách thu hút để các nhà đầu tư nước ngoài mở các cơ sở giáo dục 100% vốn nước ngoài tại Việt Nam. Thứ tư, tập trung kinh phí của Nhà nước và huy động lực lượng giảng viên trình độ cao để xây dựng một vài trường ĐH ngang trình độ tiên tiến trong khu vực và quốc tế. Thứ năm, trên cơ sở tăng cường năng lực và chất lượng đào tạo, tăng số lượng, đồng thời nâng cấp trình độ đào tạo nhân lực phục vụ xuất khẩu lao động; thu hút học sinh, sinh viên các nước đến Việt Nam du học; tiến tới tham gia thị trường đào tạo nhân lực quốc tế. (*). Liên kết giữa doanh nghiệp và nhà trường: Đây là mô hình khá phổ biến đối với đối với nhiều nước trên thế giới nhưng đang là mô hình rất mới mẻ đối với đất nước Việt Nam. Nhưng mấy năm nay mô hình liên kết này ngày càng phát triển hơn ở nước ta. Các doanh nghiệp thông qua bộ giáo dục – đào tạo sẽ trực tiếp thỏa thuận với các trường đại học có uy tín trong đào tạo sinh viên ở một số lĩnh vực nhất định mà công ty mong muốn. Và tất nhiên là các sinh viên này ra trường sẽ làm việc tại các công ty đó. Mô hình này vừa có lợi cho công ty, giúp công ty không phải tiến hành đào tạo lại đối với đội ngũ nhân sự mới tuyển dụng. Mặt khác, bên cạnh đó các trường đào tạo cũng tranh thủ được nguồn vốn và có cơ hội đổi mới trong phương thức giáo dục – đào tạo. (*). Trường đào tạo thuộc doanh nghiệp: Hình thức này tồn tại rất ít ở Việt Nam. Hiện nay, mới chỉ có một số ít các doanh nghiệp mở trường như Tổng công ty FPT, Tổng công ty điện lực Việt Nam, Tập đoàn kinh tế Vinashin…Và các trường trong doanh nghiệp hoạt động rất hiệu quả trong một cơ chế mở, đang tiến dần đến môi trường tự chủ. Việc các doanh nghiệp mở trường đào tạo đúng nhu cầu giải quyết được vấn đề từ hai phía, đó là: về phía người lao động sẽ đực đảm bảo việc làm, còn phía doanh nghiệp sẽ được tiếp nhận một đội ngũ lao động có trình độ, có chất lượng do chính mình tạo ra. Và đây cũng là một ưu điểm so với nhiều trường đại học thuộc Bộ giáo dục – đào tạo. Vì trên thực tế, tại rất nhiều trương đại học thì sinh viên sau khi tốt nghiệp không tìm được việc làm hoặc tìm được việc nhưng không đúng chuyên ngành đào tạo. Điều này gây lãng phí lớn cho xã hội, điều đó cũng xuất phát từ việc đào tạo mà không nắm bắt đúng nhu cầu của xã hội. 2.2.4.5.Nâng cao hiệu quả chất lượng và hiệu quả giáo dục một cách rõ rệt: Chính phủ coi đây là nhiệm vụ trọng tâm cơ bản, lâu dài và sẽ tập trung chỉ đạo tiếp tục đổi mới mục tiêu, nội dung giáo dục, đặc biệt là cách dạy, cách học trong nhà trường, tăng cường các điều kiện về đội ngũ giáo viên, giảng viên, cơ sở vật chất kỹ thuật theo hướng chuẩn hoá, hiện đại hoá. Trong đó, có các giải pháp chủ yếu là: Thứ nhất, xây dựng và hoàn thiện hệ thống chuẩn quốc gia tiếp cận trình độ tiên tiến của khu vực và thế giới, bao gồm chuẩn về kiến thức, kỹ năng đối với từng cấp học, bậc học và trình độ đào tạo;  các yêu cầu cơ bản về đạo đức, tác phong và trách nhiệm của người học; chuẩn về các điều kiện bảo đảm chất lượng giáo dục (đội ngũ giáo viên, giảng viên, cán bộ quản lý và công nhân viên; SGK, giáo trình và tài liệu tham khảo; trường sở, thiết bị, phòng thí nghiệm, thư viện, sân chơi, bãi tập v.v..). Hệ thống chuẩn quốc gia là căn cứ để chỉ đạo thực hiện và đánh giá chất lượng giáo dục. Thứ hai, xây dựng danh mục ngành nghề và chương trình phát triển nhân lực quốc gia, xác định nhu cầu nhân lực đối với các cấp trình độ của các ngành nghề chủ yếu làm cơ sở cho việc xây dựng kế hoạch đào tạo nhân lực. Chương trình nhân lực quốc gia và danh mục ngành nghề góp phần định hướng việc mở rộng quy mô, nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục; đồng thời giúp cho học sinh sớm định hướng nghề nghiệp, giải quyết phân luồng ngay từ nhà trường phổ thông. Việc soạn thảo danh mục ngành nghề và chương trình phát triển nhân lực quốc gia sẽ hoàn thành vào năm 2009. Thứ ba, tiếp tục đổi mới chương trình giáo dục phổ thông theo Nghị quyết 40/2000/QH10 của Quốc hội. Trên cơ sở nghiêm túc đánh giá kết quả triển khai hơn hai năm qua, tiếp thu các ý kiến đóng góp của xã hội, tổ chức rà soát, chỉnh lý nhằm khắc phục các sai sót, giảm tải hợp lý nội dung chương trình ở tiểu học và THCS phù hợp với đặc điểm tâm, sinh lý của học sinh. Ngay trong năm học 2007-2008, chính phủ sẽ chỉ đạo Bộ GD&ĐT rút kinh nghiệm thí điểm phân ban THPT và tham khảo rộng rãi ý kiến của các nhà giáo, nhà khoa học, nhà hoạt động xã hội, cán bộ quản lý và phụ huynh học sinh ..., để hoàn thiện phương án phân hóa theo hướng mềm dẻo, linh hoạt, bảo đảm khả thi với bước đi thích hợp. Đối với giáo dục nghề nghiệp, giáo dục đại học và sau đại học, phát huy ưu điểm của các chương trình đào tạo hiện có, tiếp nhận có chọn lọc những chương trình tốt trên thế giới để xây dựng một hệ thống chương trình đa dạng, mềm dẻo, linh hoạt, tiên tiến và hiện đại, liên thông giữa các trình độ đào tạo. Chú trọng định hướng thực hành trong đào tạo, phát triển các chương trình dạy nghề sơ cấp, trung cấp, cao đẳng, đào tạo kỹ sư thực hành và cử nhân khoa học ứng dụng. Chính phủ chỉ đạo Bộ GD&ĐT khẩn trương hoàn thành Đề án đổi mới giáo dục đại học để ban hành trong năm 2006. Thứ tư, tập trung đổi mới một cách mạnh mẽ phương pháp dạy và học. Từ năm học 2004 - 2005 triển khai Đề án ứng dụng công nghệ thông tin trong giảng dạy, học tập và quản lý ở nhà trường, coi đây là khâu đột phá để đổi mới cách dạy, cách học, cách quản lý giáo dục. Giảm bớt giờ lên lớp, tăng thời gian tự học và thảo luận chuyên đề, nhất là ở bậc đại học. Tạo chuyển biến cơ bản về phương pháp giảng dạy các môn chính trị trong nhà trường, gắn lý luận với thực tiễn, kết hợp học tập nội khóa với các chương trình sinh hoạt ngoại khoá và các hoạt động giáo dục truyền thống. Chỉ đạo đẩy nhanh việc mở rộng học chế tín chỉ ở các trường ĐH, CĐ, THCN và dạy nghề ngay từ năm học 2005 - 2006, phấn đấu để đến năm 2010, hầu hết các trường ĐH, CĐ đều áp dụng hình thức tổ chức đào tạo này. Thứ năm, xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục theo Chỉ thị 40-CT/TW của Ban Bí thư. Đổi mới công tác đào tạo giáo viên và cán bộ giáo dục ở các trường sư phạm. Mở rộng phương thức đào tạo giáo viên bằng cách tổ chức khóa đào tạo nghiệp vụ sư phạm cho các sinh viên tốt nghiệp đại học ở các chuyên ngành khác có nguyện vọng làm công tác giảng dạy. Tập trung bồi dưỡng phương pháp dạy học, làm cho mọi giáo viên đều quán triệt yêu cầu đổi mới phương pháp, coi trọng vai trò chủ động, tích cực và sáng tạo, phát triển năng lực tự học, tự nghiên cứu, tự đánh giá và khả năng lập nghiệp của người học. Triển khai thực hiện Chương trình quốc gia về giáo viên nhằm giải quyết tình trạng thiếu về số lượng, hạn chế về trình độ, không đồng bộ về cơ cấu. Ngay từ năm 2005 bố trí ngân sách để giải quyết chế độ nghỉ hưu trước tuổi đối với số giáo viên lớn tuổi không đủ điều kiện tiếp tục công tác trong ngành và phấn đấu giải quyết xong vấn đề này trong một vài năm tới. Từng bước khắc phục sự cách biệt không cần thiết giữa giáo viên trong biên chế và ngoài biên chế, giữa giáo viên các trường công lập và trường ngoài công lập, tiến tới mọi giáo viên có trách nhiệm và quyền lợi như nhau (chỉ khác nhau ở nguồn trả lương). Chấn chỉnh công tác công nhận và bổ nhiệm chức danh giáo sư, phó giáo sư theo hướng nâng cao chất lượng và gắn với trường ĐH để đáp ứng yêu cầu chuẩn hoá và khắc phục tình trạng hẫng hụt đội ngũ giảng viên đầu ngành. Thể chế hoá công tác nghiên cứu khoa học của giảng viên trong các trường ĐH, coi đây là một tiêu chí quan trọng để đánh giá chất lượng một trường ĐH. Trong năm 2008 bổ sung, hoàn thiện chính sách về chế độ kiêm nhiệm tham gia giảng dạy của cán bộ khoa học làm việc ở các viện nghiên cứu. Thứ sáu, thực hiện chương trình kiên cố hoá trường, lớp học; đẩy nhanh tiến độ giải ngân nguồn công trái; tăng cường kiểm tra, giám định, bảo đảm chất lượng công trình, nâng cao hiệu quả sử dụng. Kiên quyết xoá bỏ tình trạng học ba ca, cơ bản hoàn thành việc thay thế phòng học tranh tre bằng phòng học kiên cố trước khi kết thúc năm 2008. Chuẩn bị đủ điều kiện để tới năm 2010 đạt mục tiêu hầu hết học sinh tiểu học và khoảng 40% học sinh THCS được học 2 buổi/ngày tại trường. Tăng tỷ lệ trường mầm non và trường phổ thông đạt chuẩn quốc gia ở tất cả các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Chính phủ sẽ dành nguồn vốn ODA để tập trung ưu tiên hiện đại hóa một số trường và ngành nghề đào tạo trọng điểm, xây dựng một số phòng thí nghiệm trọng điểm chung cho các trường ĐH và các viện nghiên cứu. Đồng thời, tạo cơ chế cho các trường ĐH, CĐ, THCN, dạy nghề chủ động huy động vốn để tăng cường cơ sở vật chất, kỹ thuật, trước hết là xây dựng và củng cố phòng thí nghiệm, xưởng thực hành, thư viện điện tử, nối mạng máy tính. Đến năm 2010 cơ bản hoàn thành giai đoạn 1 xây dựng hai đại học quốc gia và hai trường đại học sư phạm trọng điểm. Từ năm 2005 triển khai hệ thống kiểm định chất lượng giáo dục và thực hiện công bố định kỳ kết quả kiểm định. Từng bước áp dụng tiêu chí của các nước phát triển để đánh giá chất lượng đào tạo ở một số lĩnh vực cụ thể; chuẩn bị điều kiện để tham gia vào hệ thống kiểm định chất lượng giáo dục quốc tế. Trong năm học 2005-2006, sẽ tiến hành kiểm định chất lượng khoảng 20% số trường ĐH. Trong 2 - 3 năm tiếp theo hoàn thành đợt 1 việc kiểm định các trường ĐH theo hai nhóm tiêu chí chủ yếu là đào tạo và nghiên cứu khoa học. 2.2.4.6. Trao quyền chủ động sử dụng vốn đầu tư phát triển cho các đơn vị giáo dục – đào tạo: (*). Thiết lập mô hình tự chịu trách nhiệm trong thu chi ở các trường công lập: Đây là cũng là một giải pháp để nâng cao chất lượng quản lý giáo dục ở các đơn vị. Theo nghị định 10 của chính phủ đa khẳng định “tự chủ tài chinh” là bao gồm: việc nhà trường phải tự đặt ra, phải xác định rõ nhiệm vụ chính trị của mình để từ đó có kế hoạch thực hiện đầu tư. Kế hoạch này phải được công khai bàn bạc trong hội đồng nhà trường và lấy ý kiến từ hội phụ huynh. Từ đó, hội đồng nhà trường và phụ huynh sẽ giám sát và quản lý việc thực hiện. Tương tự như vậy thì Liên Bộ giáo dục – đào tạo, Bộ tài chính và Bộ nội vụ cũng quyết định nhiều khản về việc chi trả tài chính. Trên cơ sở đó, các cơ sở giáo dục được quyền chủ động trong việc chi tiêu tài chính. Như vậy, khi các trường được giao tự chủ về mặt tài chính thì các hoạt động đầu tư của các cơ sở giáo dục – đào tạo sẽ trở nên có hiệu quả hơn, phù hợp hơn với nhu cầu thực tế của từng trường. Ngoài ra, tự chủ về mặt tài chính đối với mỗi trường còn có thể khắc phục tình trạng thất thoát, lãng phí và sử dụng ngân sách Nhà nước kém hiệu quả. (*). Khuyến khích thành lập các trường ngoài công lập có sự quản lý của Nhà nước: Các trường dạy học ngoài công lập hoạt động vì mục tiêu lợi nhuận. Và cơ chế hoạt động và quản lý tài chính của các trường ngoài công lập là tương đối hiệu quả, tất cả các hoạt động của trường đều nhằm mục đích là sinh lời, tức là làm thế nào để một đồng vốn bỏ ra có khả năng sinh lời cao nhất, đạt hiệu quả nhất. Trường hoạt động theo cơ chế thị trường, học phí mà nhà trường đề ra phản ánh chất lượng giảng dạy mà nhà trường mang lại. Chính điều này thúc đẩy nhà trường đầu tư phát triển để nâng cao chất lượng giảng dạy. Cách thức hoạt động của các trường này giống như cách thức hoạt động của một công ty. Mỗi trường đều có hội đông nhà trường gióng như hội đồng quản trị của các công ty. Hội đồng này có nhiệm vụ yêu cầu Hiệu trưởng đưa ra các chính sách để đáp ứng yêu cầu của học viên học tập tại trường. Bên cạnh đó, nhà trường còn tham gia liên kết, tham khảo ý kiến từ phía các doanh nghiệp, các tổ chức về chương trình đào tạo để có thể đáp ứng nhu cầu hiện nay của xã hội. Và tất nhiên, việc thu và chi cũng như hoạt động của trường cơ bản vẫn chịu tác động, sự quản lý, điều tiết vĩ mô của Nhà nước. Và Nhà nước cũng hỗ trợ gián tiếp đối với các trường này thông qua ưu đãi trong việc thu thuế trong một số năm hay có thể gián tiếp hỗ trợ sinh viên thông qua chương trình cho vay ngân hàng với lãi suất thấp để chi trả học phí và có nhiều học bổng giúp đỡ, khuyến khích các học sinh học tôt hơn. KẾT LUẬN Với tư cách là sinh viên năm cuối, ý thức được vai trò to lớn của giáo dục – đào tạo đối với việc bồi dưỡng nhân tài cho đất nước, nâng cáo chất lượng nguồn nhân lực Việt Nam. Qua chuyên đề thực tập tốt nghiệp này, tôi đã có một cái nhìn sâu sắc hơn về thực trạng đầu tư phát triển ngành giáo dục – đào tạo Việt Nam. Chính vì thế, qua tìm hiểu một số tài liệu tôi đã đưa ra một số ý kiến nhằm góp phần nhỏ bé vào công cuộc phát triển giáo dục – đào tạo Việt Nam, đưa nền giáo dục Việt Nam có thể ngày càng phát triển và có thể sánh vai với những nền giáo dục cao trên thế giới. Mặc dù đã rất cố gắng nhưng chuyên đề của tôi cũng không tránh được những thiếu sót rất mong sự chỉ bảo của cô giáo cùng ban lãnh đạo của Viện chiến lược phát triển. Tôi xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ tận tình của Th.s. Phan Thị Thu Hiền và ban lãnh đạo Viện chiến lược đã giúp tôi hoàn thành chuyên đề thực tập này. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Niên giám thống kê 2008 Niên giám thống kê 2007 Nguồn số liệu từ Bộ GD & ĐT Một số trang web như: + + Danh mục từ ngữ viết tắt THCS Trung học cơ sở THPT Trung học phổ thông THCN Trung học chuyên nghiệp ĐH Đại học CĐ Cao đẳng BCH Ban chấp hành XHCN Xã hội chủ nghĩa Bộ GD & ĐT Bộ giáo dục và đào tạo Bộ LĐ – TB & XH Bộ lao động – Thương binh và xã hội VĐT Vốn đầu tư NSNN Ngân sách nhà nước Ngoài ra, trong bài viết này, còn có những cụm từ như: GD & ĐT; ĐH – CĐ đều có nghĩa tương đương. MỤC LỤC DANH MỤC BẢNG BIỂU Bảng 1: Số học sinh và sinh viên trong giai đoạn 2003 - 2008: 2 Bảng 2: Tình hình thực hiện vốn đầu tư phát triển giáo dục – đào tạo giai đoạn 2003-2008: 20 Bảng 3: Vốn đầu tư phát triển giáo dục – đào tạo theo cấp bậc học trong giai đoạn 2003-2008: 21 Bảng 4: Định mức đâu tư phân bổ ngân sách chi sự nghiệp giáo dục đối với dân số trong độ tuổi từ 1 đến 18 giai đoạn (2003-2008) như sau: 24 Bảng 5: Định mức đâu tư phân bổ ngân sách chi sự nghiệp giáo dục đối với dân số từ 18 tuổi trở lên giai đoạn (2003-2008) như sau: 24 Bảng 6:Tổng số trường mầm non và trường phổ thông cả nước trong giai đoạn 2003 - 2008: 28 Bảng7: Tổng số giáo viên tại các trường mầm non và phổ thông cả nước giai đoạn 2003 – 2008: 29 ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc21574.doc
Tài liệu liên quan