LỜI MỞ ĐẦU
Tính cấp thiết của đề tài:
Công cuộc đổi mới ở nước ta 20 năm qua đã thu được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển của đất nước trong thời kỳ mới. Đóng góp vào sự phát triển ấy có vai trò rất quan trọng của hoạt động đầu tư phát triển.
Tuy vậy, hoạt động đầu tư trong thời gian qua còn một số yếu kém cần khắc phục. Những mục tiêu trong chiến lược phát triển của đất nước trong những năm tới cần tiếp tục giải quyết, cả về lý luận và thực tiễn đối với hoạ
130 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1824 | Lượt tải: 3
Tóm tắt tài liệu Đầu tư phát triển kinh tế tỉnh Bắc Ninh - Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
t động đầu tư phát triển trên phạm vi quốc gia cũng như vùng, lãnh thổ.
Phát triển xong phải bền vững ở mỗi tỉnh, thành phố vừa đem lại sự giàu có, nâng cao đời sống nhân dân địa phương đó, đồng thời đóng góp vào sự phát triển chung của cả nước. Do đó con đường xây dựng đất nước giàu mạnh theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta đặt ra yêu cầu cho từng tỉnh, thành phố phải năng động, sáng tạo, khai thác triệt để lợi thế so sánh, đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế. Quá trình này đòi hỏi phải có sự nghiên cứu về hoạt động đầu tư và phát triển kinh tế trên địa bàn tỉnh, thành phố. Qua việc tiếp cận cụ thể, với nghiên cứu về đầu tư phát triển kinh tế trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh sẽ góp phần làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực tiễn về hoạt động đầu tư, thực hiện công cuộc phát triển kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá đi đôi với phát triển bền vững của từng tỉnh cũng như của đất nước. Với lý do trên, tôi lựa chọn đề tài: “Đầu tư phát triển kinh tế tỉnh Bắc Ninh - Thực trạng và giải pháp” làm đề tài luận văn.
2. Mục đích nghiên cứu:
Hệ thống hoá và góp phần hoàn thiện lý luận về đầu tư trong phát triển kinh tế, trong đó xác định rõ vai trò của đầu tư đối với sự tăng trưởng và phát triển kinh tế, nội dung, các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động đầu tư để vận dụng vào điều kiện cụ thể của tỉnh Bắc Ninh.
Phân tích thực trạng đầu tư phát triển kinh tế trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh, đánh giá những ưu nhược điểm, làm rõ những cơ sở khoa học và thực tiễn, để đề xuất những giải pháp cho đầu tư phát triển kinh tế trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh trong thời gian tới theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
- Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của luận văn tập trung vào những nội dung cơ bản của hoạt động đầu tư phát triển, giải pháp đầu tư phát triển kinh tế trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh.
- Phạm vi nghiên cứu:
Về mặt lý luận: Chủ yếu đề cập đến những vấn đề lý luận chung về đầu tư phát triển; các lý thuyết về đầu tư, phát triển kinh tế.
Về mặt thực tiễn: Phân tích, đánh giá về thực trạng đầu tư phát triển kinh tế tỉnh Bắc Ninh, đưa ra giải pháp chủ yếu về đầu tư phát triển kinh tế tỉnh Bắc Ninh thời gian tới.
Phương pháp nghiên cứu:
Luận văn sử dụng phương pháp duy vật lịch sử, phân tích, thống kê, tổng hợp.
Những đóng góp của luận văn:
Góp phần hoàn thiện lý luận về đầu tư phát triển vận dụng vào tỉnh Bắc Ninh.
Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn để đề ra những giải pháp đầu tư phát triển kinh tế trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh.
6. Kết cấu của luận văn:
Ngoài phần mở đầu và kết luận, phần nội dung luận văn được chia làm 3 chương:
Chương I: Cơ sở lý luận chung về đầu tư phát triển.
Chương II: Thực trạng đầu tư phát triển kinh tế ở tỉnh Bắc Ninh.
Chương III: Một số giải pháp chủ yếu thúc đẩy đầu tư phát triển kinh tế tỉnh Bắc Ninh đến năm 2020.
Nội dung luận văn đã đi vào tìm hiểu thực trạng và những kết quả đạt được cùng một số tồn tại và nguyên nhân trong hoạt động đầu tư phát triển kinh tế tỉnh Bắc Ninh, từ đó đề ra một số giải pháp nhằm thúc đẩy đầu tư phát triển kinh tế trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh. Mục đích là mang lại cho người đọc cái nhìn tổng quát về hoạt động đầu tư phát triển kinh tế ở tỉnh Bắc Ninh trong thời gian gần đây. Do trình độ và thời gian có hạn, phạm vi nghiên cứu rộng nên luận văn không thể tránh khỏi thiếu sót, tác giả mong nhận được sự góp ý của thầy, cô và bạn đọc.
Tác giả luận văn
Nguyễn Trọng Bình
CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG
I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐẦU TƯ VÀ ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN.
1. Đầu tư
Xuất phát từ phạm vi phát huy tác dụng của các kết quả đầu tư chúng ta có thể có những cách hiểu khác nhau về đầu tư.
Đầu tư theo nghĩa rộng là sự hi sinh các nguồn lực ở hiện tại để tiến hành các hoạt động nào đó nhằm thu về cho người đầu tư các kết quả nhất định trong tương lai lớn hơn các nguồn lực đã bỏ ra để đạt được kết quả đó.
Các nguồn lực có thể là tiền, tài nguyên thiên nhiên, sức lao động và trí tuệ.
Những kết quả có thể là sự tăng thêm các tài sản tài chính (tiền vốn), tài sản vật chất (nhà xưởng, đường xá, các tài sản vật chất khác...), tài sản trí tuệ (trình độ văn hoá, chuyên môn, khoa học kỹ thuật...) và nguồn nhân lực có đủ điều kiện để làm việc với năng suất cao hơn trong nền sản xuất xã hội.
Đầu tư theo nghĩa hẹp chỉ bao gồm những hoạt động sử dụng các nguồn lực ở hiện tại nhằm đem lại cho nền kinh tế - xã hội những kết quả trong tương lai lớn hơn các nguồn lực đã sử dụng để đạt được kết quả đó.
Như vậy nếu xét trên phạm vi quốc gia thì chỉ có hoạt động sử dụng các nguồn lực ở hiện tại để trực tiếp làm tăng các tài sản vật chất, nguồn nhân lực và tài sản trí tuệ hoặc duy trì sự hoạt động của các tài sản và nguồn nhân lực sẵn có mới thuộc phạm trù đầu tư theo nghĩa hẹp (đầu tư phát triển).
2. Đầu tư phát triển.
2.1. Khái niệm đầu tư phát triển.
Đầu tư phát triển là hoạt động sử dụng các nguồn lực tài chính, nguồn lực vật chất, nguồn lực lao động và trí tuệ để xây dựng, sửa chữa nhà cửa và cấu trúc hạ tầng, mua sắm trang thiết bị và lắp đặt chúng trên nền bệ, bồi dưỡng đào tạo nguồn nhân lực, thực hiện các chi phí thường xuyên gắn liền với sự hoạt động của các tài sản này nhằm duy trì tiềm lực hoạt động của các cơ sở đang tồn tại và tạo tiềm lực mới cho nền kinh tế - xã hội, tạo việc làm và nâng cao đời sống của mọi thành viên trong xã hội.
2.2. Đặc điểm của đầu tư phát triển.
Hoạt động đầu tư phát triển có các đặc điểm khác biệt so với các loại hình đầu tư khác là:
+ Hoạt động đầu tư phát triển đòi hỏi một khối lượng vốn lớn và nằm khê đọng trong suốt quá trình đầu tư. Đây là cái giá phải trả khá lớn của đầu tư phát triển.
+ Thời gian để tiến hành một công cuộc đầu tư cho đến khi các thành quả của nó phát huy tác dụng thường đòi hỏi nhiều năm tháng với nhiều biến động xảy ra.
+ Thời gian cần hoạt động để có thể thu hồi đủ vốn đã bỏ ra đối với các cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ sản xuất kinh doanh thường lâu dài và do đó không tránh khỏi sự tác động hai mặt tích cực và tiêu cực của các yếu tố không ổn định về tự nhiên, xã hội, chính trị, kinh tế.
+ Các thành quả của hoạt động đầu tư phát triển có giá trị sử dụng lâu dài nhiều năm, có khi hàng trăm, hàng ngàn năm và thậm chí tồn tại vĩnh viễn như các công trình kiến trúc nổi tiếng thế giới (Kim tự tháp cổ ở Ai Cập, Nhà thờ La Mã ở Rôm, Vạn Lý Trường Thành ở Trung Quốc, Ăngco Vát ở Cămpuchia).
Điều này nói lên giá trị lớn lao của các thành quả đầu tư phát triển.
+ Các thành quả của hoạt động đầu tư là các công trình xây dựng sẽ hoạt động ở ngay nơi mà nó được tạo dựng nên. Do đó các điều kiện về địa hình tại đó có ảnh hưởng lớn đến quá trình thực hiện đầu tư cũng như tác dụng sau này của các kết quả đầu tư. Thí dụ, quy mô đầu tư để xây dựng nhà máy sàng tuyển than ở khu vực có mỏ than tuỳ thuộc rất nhiều vào trữ lượng than của mỏ. Nếu trữ lượng than của mỏ ít thì quy mô nhà máy sàng tuyển cũng không nên lớn để đảm bảo cho nhà máy hàng năm hoạt động hết công suất với số năm tồn tại của nhà máy theo dự kiến trong dự án. Đối với các nhà máy thuỷ điện, công suất phát điện tuỳ thuộc nhiều vào nguồn nước nơi xây dựng công trình. Sự cung cấp điện đều đặn thường xuyên tuỳ thuộc vào tính ổn định của nguồn nước. Không thể di chuyển nhà máy thuỷ điện như di chuyển những chiếc máy tháo rời do các nhà máy sản xuất ra từ địa điểm này đến địa điểm khác.
Việc xây dựng nhà máy ở nơi có địa chất không ổn định sẽ không đảm bảo an toàn trong quá trình hoạt động sau này, thậm chí cả trong quá trình xây dựng công trình.
+ Mọi thành quả và hậu quả của quá trình thực hiện đầu tư chịu ảnh hưởng nhiều của các yếu tố không ổn định theo thời gian và điều kiện địa lý của không gian.
+ Để đảm bảo cho mọi công cuộc đầu tư đem lại hiệu quả kinh tế - xã hội cao đòi hỏi phải làm tốt công tác chuẩn bị; nghiên cứu phát hiện các cơ hội đầu tư, nghiên cứu tiền khả thi sơ bộ lựa chọn dự án, nghiên cứu khả thi đập dự án, luận chứng kinh tế - kỹ thuật), đánh giá và quyết định đầu tư (thẩm định dự án).
3. Vai trò của đầu tư phát triển.
Xuất phát từ khái niệm đầu tư phát triển, có thể nhận thấy hoạt động đầu tư phát triển có vai trò rất quan trọng trong sự phát triển kinh tế - xã hội. Các lý thuyết kinh tế khi xem xét bản chất của đầu tư phát triển đều coi đầu tư phát triển là nhân tố quan trọng để phát triển kinh tế, là chìa khoá của sự tăng trưởng. Vai trò này của đầu tư phát triển được thể hiện ở các mặt sau:
3.1. Đối với toàn bộ nền kinh tế quốc gia.
3.1.I. Đầu tư vừa tác động đến tổng cung vừa tác động đến tổng cầu.
Về mặt tổng cầu: Để tạo ra sản phẩm cho xã hội, trước hết cần đầu tư. Đầu tư là yếu tố chiếm tỷ trọng lớn trong tổng cầu của toàn bộ nền kinh tế. Đầu tư tác động đến đường tổng cầu làm đường tổng cầu dịch chuyển và sự tác động của đầu tư được thể hiện rõ trong ngắn hạn. Khi tổng cung chưa kịp thay đổi, sự gia tăng của đầu tư làm cho tổng cầu tăng lên kéo theo sản lượng cân bằng tăng và giá cả của các đầu vào của đầu tư tăng. Điểm cân bằng cung cầu dịch chuyển.
Về mặt tổng cung: Khi thành quả của đầu tư phát huy tác dụng, các năng lực mới đi vào hoạt động thì tổng cung, đặc biệt là tổng cung dài hạn tăng lên, kéo theo sản lượng tiềm năng tăng; do đó giá cả sản phẩm giảm dẫn đến tăng tiêu dùng. Tăng tiêu dùng đến lượt mình lại tiếp tục kích thích sản xuất hơn nữa. Sản xuất phát triển là nguồn gốc cơ bản để tăng tích luỹ, phát triển kinh tế - xã hội, tăng thu nhập cho người lao động, nâng cao đời sống của mọi thành viên trong xã hội. Đây là tác động có tính chất dài hạn của đầu tư.
Sự tác động không đồng thời về mặt thời gian của đầu tư đối với tổng cung và đối với tổng cầu của nền kinh tế làm cho mỗi sự thay đổi của đầu tư dù tăng hay giảm đều cùng một lúc vừa là yếu tố duy trì sự ổn định vừa là yếu tố phá vỡ sự ổn định của nền kinh tế của mọi quốc gia. Chẳng hạn, khi tăng đầu tư cầu của các yếu tố đầu tư tăng làm cho giá cả của các hàng hoá liên quan tăng (giá chi phí vốn, giá công nghệ, lao động, vật tư) đến một mức nào đó dẫn đến tình trạng lạm phát. Đến lượt mình lạm phát làm cho sản xuất trì trệ, đời sống của người lao động gặp nhiều khó khăn do tiền lương ngày càng thấp hơn, thâm hụt ngân sách, kinh tế phát triển chậm lại. Mặt khác, tăng đầu tư làm cho cầu của các yếu tố liên quan tăng, sản xuất của các ngành này phát triển, thu hút thêm lao động, giảm tình trạng thất nghiệp, nâng cao đời sống người lao động, giảm tệ nạn xã hội. Tất cả các tác động này tạo điều kiện cho sự phát triển kinh tế.
Vì vậy, trong điều hành vĩ mô nền kinh tế, các nhà hoạch định chính sách cần thấy hết tác động hai mặt này để đưa ra các chính sách nhằm hạn chế các tác động xấu, phát huy các tác động tích cực, duy trì được sự ổn định của toàn bộ nền kinh tế.
3.1.2. Đầu tư có tác động hai mặt đến sự ổn định kinh tế.
Sự tác động không đồng thời về mặt thời gian của đầu tư đối với tổng cầu và đối với tổng cung của nền kinh tế làm cho mỗi sự thay đổi của đầu tư - dù là sự tăng hay giảm - đều cùng một lúc vừa là yếu tố duy trì sự ổn định vừa là yếu tố phá vỡ sự ổn định của nền kinh tế của mọi quốc gia.
3.1.3. Đầu tư tác động đến tốc độ tăng trưởng và phát triển kinh tế.
Mối quan hệ giữa đầu tư và tăng trưởng được biểu hiện thông qua hệ số ICOR (hệ số gia tăng vốn - sản lượng).
ICOR
Vốn đầu tư
Mức tăng GDP
Từ đó suy ra:
Mức tăng GDP
Vốn đầu tư
ICOR
Nếu ICOR không đổi, mức tăng GDP hoàn toàn phụ thuộc vào vốn đầu tư. Kết quả nghiên cứu của các nhà kinh tế cho thấy: muốn giữ tốc độ tăng trưởng ở mức độ trung bình thì tỷ lệ đầu tư phải đạt được từ 15 - 25% so với GDP, tuỳ thuộc vào ICOR của mỗi nước.
3.1.4. Đầu tư và sự chuyển địch cơ cấu kinh tế.
Kinh nghiệm của các nước trên thế giới cho thấy con đường tất yếu có thể tăng trưởng nhanh với tốc độ mong muốn (từ 9- 10%) là tăng cường đầu tư nhằm tạo ra sự phát triển nhanh ở khu vực công nghiệp và dịch vụ. Đối với các ngành nông, lâm, ngư nghiệp do những hạn chế về đất đai và các khả năng sinh học, để đạt được tốc độ tăng trưởng từ 5- 6% là rất khó khăn. Như vậy chính sách đầu tư quyết định quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở các quốc gia nhằm đạt được tốc độ tăng trưởng nhanh của toàn bộ nền kinh tế.
Về cơ cấu lãnh thổ, đầu tư có tác dụng giải quyết những mất cân đối về phát triển giữa các vùng lãnh thổ, đưa những vùng kém phát triển thoát khỏi tình trạng đói nghèo, phát huy tối đa những lợi thế so sánh về tài nguyên, địa thế, kinh tế, chính trị... của những vùng có khả năng phát triển nhanh hơn, làm bàn đạp thúc đẩy các vùng khác cùng phát triển.
3.1.5. Đầu tư với việc tăng cường khả năng khoa học và công nghệ của đất nước.
Công nghệ là trung tâm của công nghiệp hoá; đầu tư là điều kiện tiên quyết của sự phát triển và tăng cường khả năng công nghệ của Việt Nam hiện nay. Với trình độ công nghệ lạc hậu, quá trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá của một quốc gia sẽ gặp rất nhiều khó khăn nếu không đề ra được một chiến lược đầu tư phát triển công nghệ nhanh và vững chắc.
Có hai con đường cơ bản để có công nghệ là tự nghiên cứu phát minh ra công nghệ và nhập công nghệ từ nước ngoài. Dù là tự nghiên cứu hay nhập từ nước ngoài đều cần phải có tiền - tức là cần phải có vốn đầu tư. Mọi phương án đổi mới công nghệ không gắn với nguồn vốn đầu tư sẽ là những phương án không khả thi.
3.2. Đối với các cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ.
Đầu tư quyết định sự ra đời, tồn tại và phát triển của mỗi cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ.
Để tạo dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho sự ra đời của bất kỳ cơ sở nào đều cần phải xây dựng nhà xưởng, cấu trúc hạ tầng, mua sắm và lắp đặt thiết bị máy móc trên nền bệ, tiến hành các công tác xây dựng cơ bản và thực hiện các chi phí khác gắn liền với sự hoạt động trong một chu kỳ của các cơ sở vật chất kỹ thuật vừa tạo ra. Các hoạt động này chính là hoạt động đầu tư đối với các cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ đang tồn tại: sau một thời gian hoạt động các cơ sở vật chất kỹ thuật của các cơ sở này hao mòn, hư hỏng. Để duy trì được sự hoạt động bình thường cần định kỳ tiến hành sửa chữa lớn hoặc thay mới các cơ sở vật chất kỹ thuật đã hư hỏng, hao mòn này hoặc đổi mới để thích ứng với điều kiện hoạt động mới của sự phát triển khoa học kỹ thuật và nhu cầu tiêu dùng của nền sản xuất xã hội, phải mua sắm các trang thiết bị mới thay thế cho các trang thiết bị cũ đã lỗi thời, cũng có nghĩa là phải đầu tư.
Đối với các cơ sở vô vị lợi đang tồn tại, để duy trì sự hoạt động, ngoài tiến hành sửa chữa lớn định kỳ các cơ sở vật chất kỹ thuật còn phải thực hiện các chi phí thường xuyên. Tất cả những hoạt động và chi phí này đều là những hoạt động đầu tư.
II. NGUỒN VỐN ĐẦU TƯ VÀ NỘI DUNG CỦA VỐN ĐẦU TƯ.
1- Bản chất nguồn vốn đầu tư.
Xét về bản chất, nguồn vốn đầu tư chính là phần tiết kiệm hay tích luỹ mà nền kinh tế có thể huy động được để đưa vào quá trình tái sản xuất xã hội. Điều này được cả kinh tế học cổ điển, kinh tế chính trị học Mác - Lê nin và kinh tế học hiện đại chứng minh.
Trong tác phẩm "Của cải của các dân tộc" (1776), Adam Smith, một đại diện điển hình của trường phái kinh tế học cổ điển đã cho rằng: "Tiết kiệm là nguyên nhân trực tiếp gia tăng vốn. Lao động tạo ra sản phẩm để tích luỹ cho quá trình tiết kiệm. Nhưng dù có tạo ra bao nhiêu chăng nữa, nhưng không có tiết kiệm thì vốn không bao giờ tăng lên".
Sang thế kỷ XIX, khi nghiên cứu về cân đối kinh tế, về mối quan hệ giữa các khu vực của nền sản xuất xã hội, về các vấn đề trực tiếp liên quan đến tích luỹ, C.Mác đã chứng minh rằng: trong một nền kinh tế với hai khu vực, khu vực I sản xuất tư liệu sản xuất và khu vực II sản xuất tư liệu tiêu dùng. Cơ cấu tổng giá trị của hai khu vực đều bao gồm (c+v+m) trong đó c là phần tiêu hao vật chất, (v+m) là phần giá trị mới sáng tạo ra. Khi đó, điều kiện để đảm bảo tái sản xuất mở rộng không ngừng thì nền sản xuất xã hội phải đảm bảo (v+m) của khu vực I lớn hơn tiêu hao vật chất (c) của khu vực II. Tức là:
(v+m)I > cII
Hay nói cách khác:
(c+v+m)I > cII+cI
Điều này có nghĩa rằng, tư liệu sản xuất được tạo ra ở khu vực I không chỉ bồi hoàn tiêu hao vật chất của toàn bộ nền kinh tế (của cả hai khu vực) mà còn phải dư thừa để đầu tư làm tăng quy mô tư liệu sản xuất trong quá trình sản xuất tiếp theo.
Đối với khu vực II yêu cầu phải đảm bảo: tổng thể, phần dôi ra của thu nhập so với tiêu dùng mà người ta gọi là tiết kiệm không thể khác với phần gia tăng năng lực sản xuất mà người ta gọi là đầu tư.
Tuy nhiên điều kiện cân bằng trên chỉ đạt được trong nền kinh tế đóng. Trong đó phần tiết kiệm của nền kinh tế bao gồm tiết kiệm của khu vực tư nhân và tiết kiệm của chính phủ. Điểm cần lưu ý là tiết kiệm và đầu tư xem xét trên góc độ toàn bộ nền kinh tế không nhất thiết được tiến hành bởi cùng một cá nhân hay doanh nghiệp nào. Có thể có cá nhân, doanh nghiệp tại một thời điểm nào đó có tích luỹ nhưng không trực tiếp tham gia đầu tư. Trong khi đó, có một số cá nhân, doanh nghiệp lại thực hiện đầu tư khi chưa hoặc tích luỹ chưa đủ. Khi đó thị trường vốn sẽ tham gia giải quyết vấn đề bằng việc điều tiết khoản vốn từ nguồn dư thừa hoặc tạm thời dư thừa sang cho người có nhu cầu sử dụng. Ví dụ, nhà đầu tư có thể phát hành cổ phiếu, trái phiếu (trên cơ sở một số điều kiện nhất định, theo quy trình nhất định) để huy động vốn thực hiện một dự án nào đó từ các doanh nghiệp và hộ gia đình - người có vốn dư thừa.
Trong nền kinh tế mở, đẳng thức đầu tư bằng tiết kiệm của nền kinh tế không phải bao giờ cũng được thiết lập. Phần tích luỹ của nền kinh tế có thể lớn hơn nhu cầu đầu tư tại nước sở tại, khi đó vốn có thể được chuyển sang nước khác để thực hiện đầu tư. Ngược lại, vốn tích luỹ của nền kinh tế có thể ít hơn nhu cầu đầu tư, khi đó nền kinh tế phải huy động tiết kiệm từ nước ngoài. Trong trường hợp này, mức chênh lệch giữa tiết kiệm và đầu tư được thể hiện trên tài khoản vãng lai:
CA = S - I
Trong đó: CA là tài khoản vãng lai (curent account)
S là tiết kiệm của nền kinh tế (save)
I là đầu tư của nền kinh tế (investment)
Như vậy, trong nền kinh tế mở, nếu nhu cầu đầu tư lớn hơn tích luỹ của nội bộ nền kinh tế và tài khoản vãng lai bị thâm hụt thì có thể huy động vốn đầu tư từ nước ngoài. Khi đó đầu tư nước ngoài hoặc vay nợ có thể trở thành một trong những nguồn vốn quan trọng của nền kinh tế. Nếu tích luỹ của nền kinh tế lớn hơn nhu cầu đầu tư trong nước trong điều kiện thặng dư tài khoản vãng lai thì quốc gia đó có thể đầu tư ra nước ngoài hoặc cho nước ngoài vay vốn nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của nền kinh tế.
2. Nguồn vốn đầu tư.
2.1. Vốn đầu tư của đất nước.
Vốn đầu tư của đất nước nói chung được hình thành từ hai nguồn cơ bản là vốn huy động trong nước và vốn huy động từ nước ngoài.
Vốn đầu tư trong nước được hình thành từ các nguồn sau đây:
+ Vốn tích luỹ từ ngân sách.
+ Vốn tích luỹ của các doanh nghiệp.
+ Vốn tiết kiệm của dân cư.
Vốn huy động từ nước ngoài gồm vốn đầu tư trực tiếp và vốn đầu tư gián tiếp.
+ Vốn đầu tư trực tiếp là vốn của các doanh nghiệp, các cá nhân người nước ngoài đầu tư sang các nước khác và trực tiếp quản lý và tham gia quản lý quá trình sử dụng và thu hồi vốn đã bỏ ra.
+ Vốn đầu tư gián tiếp là vốn của các chính phủ, các tổ chức quốc tế, các tổ chức phi chính phủ được thực hiện dưới các hình thức: viện trợ không hoàn lại, có hoàn lại, cho vay ưu đãi, với thời hạn dài và lãi suất thấp, vốn viện trợ phát triển chính thức của các nước (ODA).
2.2. Vốn đầu tư của các cơ sở.
+ Đối với cơ quan quản lý Nhà nước, các cơ sở hoạt động xã hội, phúc lợi công cộng: vốn đầu tư do ngân sách cấp (tích luỹ từ ngân sách và viện trợ qua ngân sách), vốn viện trợ không hoàn lại trực tiếp cho cơ sở và vốn tự có của cơ sở (bản chất cũng tích luỹ từ phần tiền thừa do dân đóng góp không dùng đến).
+ Đối với các doanh nghiệp quốc doanh, vốn đầu tư được hình thành từ nhiều nguồn hơn bao gồm vốn ngân sách (lấy từ phần tích luỹ của ngân sách), vốn khấu hao cơ bản, vốn viện trợ qua ngân sách, vốn tự có của doanh nghiệp, vốn vay, phát hành trái phiếu, vốn góp liên doanh liên kết với các cá nhân và tổ chức trong và ngoài nước và các hình thức huy động vốn khác theo quy định của Luật doanh nghiệp.
+ Đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, nguồn vốn đầu tư bao gồm vốn tự có, vốn vay, vốn cổ phần, vốn liên doanh, liên kết với các cá nhân và tổ chức trong và ngoài nước. Đối với các công ty cổ phần, vốn đầu tư ngoài các nguồn vốn trên đây còn bao gồm tiền thu được do phát hành trái phiếu (nếu có đủ điều kiện theo quy định của Luật doanh nghiệp).
2.3.Mối quan hệ giữa nguồn vốn trong nước và nguồn vốn nước ngoài.
Trong những năm đầu của thập kỷ 50 thế kỷ XX, nhà kinh tế học Nurkse đã nhấn mạnh đến vai trò của đầu tư và vốn đầu tư trong sự phát triển của nền kinh tế Nurkse cho rằng việc thiếu vốn đầu lư là một nguyên nhân gây ra tình trạng nghèo đói. ông đã chỉ ra cái vòng luẩn quẩn của sự nghèo đói:
Về phía cung: Một quốc gia có thu nhập thấp sẽ dẫn dấn tích luỹ thấp. Tích luỹ thấp dẫn đến thiếu vốn đầu tư. Thiếu vốn đầu tư dẫn đến năng lực sản xuất bị hạn chế và năng suất lao động cũng không thể cao. Năng lực sản xuất thấp dẫn đến thu nhập thấp.
Về phía cầu: Thu nhập thấp làm cho sức mua thấp, sức mua thấp làm cho động lực gia tăng đầu tư bị hạn chế, đầu tư bị hạn chế sẽ dẫn đến năng lực sản xuất thấp và từ đó cũng sẽ lại dẫn đến thu nhập thấp.
Thực tế cho thấy hầu hết các nước nghèo hiện nay trên thế giới chịu cảnh nghèo đói một phần do những nguyên nhân trên. Tức là sự nghèo đói tại các quốc gia này một phần là do thiếu vốn đầu tư và sự đầu tư thích đáng, có hiệu quả nguyên nhân của tình trạng đầu tư hạn chế tại các nước này là do hoặc vì thiếu động lực thúc đẩy đầu tư hoặc vì khả năng tích luỹ của nền kinh tế quá nhỏ.
Điều này cho thấy rằng để phát triển và thực hiện xoá đói giảm nghèo thành công thì phải làm sao phá vỡ được cái vòng luẩn quẩn nói trên. Một trong những biện pháp phá vỡ cái vòng đó là xuất phát từ khía cạnh đầu tư. Nền kinh tế phải tạo được tích luỹ để tăng quy mô vốn đầu tư, từ đó tăng năng lực sản xuất và cuối cùng là gia tăng thu nhập.
Tích tụ vốn cho đầu tư là chìa khoá cho sự tăng trưởng kinh tế được thể hiện trong chính sách và chiến lược phát triển tại nhiều quốc gia; trong đó nhấn mạnh đến nhu cầu vốn trong giai đoạn khởi đầu quá trình công nghiệp hoá, và việc sử dụng một lượng vốn lớn từ nước ngoài là có thể chấp nhận được.
Như vậy nguồn vốn cho đầu tư phát triển bao gồm cả nguồn vốn trong nước và nguồn vốn nước ngoài. Hai nguồn vốn này có mối quan hệ chặt chẽ, hỗ trợ nhau cùng phát huy hiệu quả. Đối với các quốc gia đang phát triển còn trong tình trạng nghèo đói, lạc hậu, thiếu vốn trầm trọng thì việc sử dụng nguồn vốn nước ngoài là một giải pháp hữu hiệu để phá vỡ một mắt xích của cái vòng luẩn quẩn. Nguồn vốn nước ngoài đối với các nước này chủ yếu là ODF và FDI.
Nguồn vốn tài trợ phát triển chính thức ODF bao gồm viện trợ phát triển chính thức ODA và các hình thức tài trợ phát triển khác được phân bổ qua ngân sách quốc gia nhằm thực hiện các mục tiêu xã hội: y tế, giáo dục, xoá đói giảm nghèo, xây dựng và nâng cấp hạ tầng, đầu tư cho nông nghiệp - nông thôn...
Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI được thực hiện thông qua ba hình thức: Hợp đồng hợp tác kinh doanh, thành lập doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. Nhờ có các nguồn vốn đầu tư từ nước ngoài, các quốc gia đang phát triển có thể giải quyết được những vấn đề cấp bách: vốn và công nghệ hiện đại (so với mặt bằng chung trong nước) cho sản xuất kinh doanh, giải quyết việc làm, nâng cao chất lượng cuộc sống cho người dân, phát triển cơ sở hạ tầng, tăng thu nhập cho người lao động... Từ đó phát triển sản xuất, từng bước có tích luỹ và tiết kiệm. Thực tế cho thấy tại các quốc gia này, chỉ riêng khu vực kinh tế có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đã đóng góp một tỷ lệ lớn vào cơ cấu GDP cả nước và thu ngân sách hàng năm.
Việc sử dụng vốn đầu tư nước ngoài mang lại nhiều hiệu quả song cũng có những ràng buộc về chính trị - xã hội đối với các quốc gia tiếp nhận nó; vì vậy đây chỉ được coi là giải pháp tình thế trước mắt. Đó là những điều kiện về lãi suất, thời hạn vay vốn, tính hiệu quả của dự án, thủ tục chuyển giao vốn và thị trường. Đối với nguồn vốn FDI, chủ đầu tư nhằm mục tiêu thu lợi nhuận cao nhất nên nhiều khi gây ra những tác động tiêu cực: cạnh tranh không lành mạnh, chèn ép các nhà đầu tư trong nước, trốn thuế, khai thác tài nguyên bừa bãi; đầu tư không đồng đều: chỉ đầu tư vào những địa điểm có điều kiện tự nhiên - kinh tế xã hội thuận lợi; chỉ một bộ phận nhỏ người lao động có thu nhập cao càng gây nên chênh lệch về mức sống giữa các tầng lớp dân cư trong xã hội...
Do đó trong chính sách phát triển của mình, các quốc gia phải đảm bảo mối tương quan hợp lý giữa nguồn vốn đầu tư trong nước và nguồn vốn đầu tư nước ngoài. Cần quán triệt nguyên tắc: Vốn trong nước là quyết định, vốn nước ngoài là quan trọng. Nguồn vốn trong nước có những ưu thế là ổn định, bền vững, thị trường tài chính tiền tệ và kinh tế của các nước khác trên thế giới. Việc sử dụng nguồn vốn trong nước được chủ động, đầu tư đồng đều trong các vùng kinh tế, ngành kinh tế, địa phương trong cả nước. Đặc biệt nguồn vốn ngân sách Nhà nước sẽ được sử dụng làm mồi" để thu hút các nguồn vốn khác tham gia đầu tư phát triển. Sử dụng có hiệu quả nguồn vốn trong nước sẽ tạo môi trường kinh tế - xã hội ổn định, có tác dụng thu hút vốn đầu tư từ nước ngoài.
Trong dài hạn, một quốc gia muốn có tốc tăng trưởng khá trong khi chưa tăng nhanh được hiệu quả đầu tư (do độ trễ trong thực hiện đầu tư) thì phải đẩy mạnh tiết kiệm, huy động các nguồn vốn trong nước cho đầu tư phát triển; nguồn vốn Nhà nước đầu tư vào các lĩnh vực mà các thành phần kinh tế khác không muốn, không đủ khả năng hoặc không được tham gia; đồng thời cải thiện các khâu quản lý và tạo môi trường huy động vốn đầu tư nước ngoài để tận dụng tối đa các lợi thế so sánh của đất nước; nhanh chóng tạo năng lực tích luỹ nội địa cao để đảm bảo vai trò quyết định của vốn đầu tư trong nước đối với tăng trưởng và phát triển.
3. Nội dung của vốn đầu tư.
Để tiến hành mọi công cuộc đầu tư phát triển đòi hỏi phải xem xét các khoản chi phí sau đây:
+ Vốn đầu tư xây dựng cơ bản, tạo nên tài sản cố định trong nền kinh tế. Đây là chi phí đầu tư chủ yếu, bao gồm chi phí cho việc khảo sát quy hoạch xây dựng, chuẩn bị đầu tư, chi phí thiết kế và xây dựng, chi phí mua sắm, lắp đặt thiết bị và các chi phí khác ghi trong tổng dự toán. Chúng chiếm phần lớn vốn đầu tư phát triển và rất được quan tâm trong chi tiêu ngân sách.
+ Vốn sửa chữa lớn tài sản cố định, góp phần tái tạo tài sản cố định trong nền kinh tế. Đây là số vốn quan trọng có ý nghĩa đảm bảo cho quá trình tái sản xuất.
Nguồn vốn này lấy từ vốn khấu hao sửa chữa lớn vẫn được hạch toán. Hai khoản đầu tư xây dựng cơ bản và vốn sửa chữa lớn chiếm tới trên 85% tổng vốn đầu tư phát triển.
+ Vốn lưu động bổ sung tăng (+) hoặc giảm (-) trong nền kinh tế. Nguồn vốn lưu động rất quan trọng để đảm bảo tái sản xuất không ngừng mở rộng. Vấn đề phát triển nguồn vốn này càng phải đặc biệt quan tâm khí muốn đẩy mạnh sản xuất.
+ Vốn đầu tư phát triển khác như vốn đầu tư thực hiện thông qua các chương trình mục tiêu quốc gia: xoá đói giảm nghèo, hỗ trợ đồng bào vùng sâu vùng xa... Trong những năm gần đây, khoản mục đầu tư này đã và sẽ tăng lên đáng kể.
III. MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI.
1 Khái niệm và các nhân tố quyết định sự phát triển kinh tế - xã hội.
1.1. Khái niệm và các chỉ tiêu đánh giá.
Khái niệm: Phát triển có thể hiểu là một quá trình lớn lên (hay tăng tiến) về mọi mặt của nền kinh tế - xã hội trong một thời kỳ nhất định. Trong đó bao gồm cả sự tăng thêm về quy mô sản lượng (tăng trưởng) và sự tiến bộ về cơ cấu kinh tế - xã hội.
Những vấn đề cơ bản nhất của định nghĩa trên bao gồm:
+ Trước hết sự phát triển bao gồm sự tăng thêm về khối lượng của cải vật chất, dịch vụ và sự biến đổi tiến bộ về cơ cấu kinh tế và đời sống xã hội.
+ Tăng thêm quy mô sản lượng và tiến bộ về cơ cấu kinh tế - xã hội là hai mặt có mối quan hệ vừa phụ thuộc vừa độc lập tương đối của lượng và chất.
+ Sự phát triển là một quá trình tiến hoá theo thời gian do các yếu tố nội tại của bản thân nền kinh tế quyết định. Có nghĩa là người dân của quốc gia đó phải là những thành viên chủ yếu tác động đến sự biến đổi kinh tế - xã hội của đất nước. Họ là những người tham gia vào quá trình hoạt động kinh tế và được hưởng lợi ích do hoạt động này đưa lại.
+ Kết quả của quá trình phát triển kinh tế - xã hội là kết quả của một quá trình vận động khách quan; còn mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội đề ra là thể hiện sự tiếp cận tới các kết quả đó.
Các chỉ tiêu đánh giá sự phát triển kinh tế- xã hội:
+ Các đại lượng đo lường sự tăng trưởng kinh tế: Tổng sản phẩm quốc nội (GDP), Tổng sản phẩm quốc dân (GNP), Sản phẩm quốc dân thuần tuý (NNP), Thu nhập quốc dân sản xuất (NI), Thu nhập quốc dân sử dụng (NDI), Thu nhập bình quân đầu người...
+ Các chỉ số xã hội của phát triển phản ánh sự biến đổi cơ cấu kinh tế - xã hội: tuổi thọ bình quân trong dân số, mức tăng dân số hàng năm, số cắm bình quân đầu người, tỷ lệ người có học (biết chữ) trong dân số. Các chỉ số về phát triển kinh tế - xã hội: chăm sóc sức khoẻ (số giường bệnh, số bệnh viện, số bác sỹ/1 triệu dân...), về giáo dục và văn hoá (tổng số giáo sư, tiến sỹ, số lớp và trường học ...), sự công bằng xã hội trong phân phối sản phẩm.
1.2. Các nhân tổ quyết định sự phát triển kinh tế xã hội.
Vốn sản xuất: là một bộ phận của tài sản quốc gia được trực tiếp sử dụng vào quá trình sản xuất hiện tại cùng với các yếu tố sản xuất khác để tạo ra hàng hoá sản phẩm (đầu ra). Nó bao gồm các máy móc thiết bị, phương tiện vận tải, nhà kho và cơ sở hạ tầng kỹ thuật (không tính tài nguyên thiên nhiên). Vốn sản xuất chiếm phần lớn vốn đầu tư phát triển. Trong điều kiện năng suất lao động không đổi thì tăng tổng số vốn sẽ làm tăng thêm sản lượng. Hoặc trong khi số lao động không đổi thì tăng thêm vốn bình quân đầu người cũng sẽ làm gia tăng sản lượng.
Đất đai và các tài nguyên thiên nhiên khác: đất đai là yếu tố quan trọng trong sản xuất nông nghiệp, kể cả sản xuất công nghi._.ệp hiện đại cũng không thể không có đất đai (mặt bằng sản xuất). Do diện tích đất đai là có hạn, người ta phải nâng cao hiệu quả sử dụng đất đai bằng cách đầu tư thêm lao động và vốn trên một đơn vị diện tích để tăng thêm sản phẩm. Điều này càng cho thấy vai trò của vốn là rất quan trọng. Các tài nguyên khác cũng là đầu vào trong sản xuất. Nguồn tài nguyên thiên nhiên dồi dào, phong phú được khai thác sẽ làm tăng sản lượng một cách nhanh chóng; nhất là ở các nước đang phát triển, việc khai thác và bán tài nguyên thiên nhiên sẽ giải quyết nhu cầu trước mắt về vốn cho phát triển. Tài nguyên gồm hai loại: tài nguyên có thể tái tạo và tài nguyên không thể tái tạo. Do đó trong khai thác và sử dụng cần chú ý: bảo tồn và phục hồi tài nguyên tái tạo, đảm bảo tốc độ khai thác thấp hơn tốc độ phục hồi; sử dụng tiết kiệm và tìm nguồn thay thế tài nguyên không tái tạo, đảm bảo phát triển bền vững, bảo vệ môi trường.
Những thành tựu khoa học kỹ thuật và công nghệ mới: là đầu vào đóng vai trò cực kỳ quan trọng trong sự tiến bộ của các nước NICS trong mấy chục năm gần đây. Những chi phí cho việc mua kỹ thuật và công nghệ mới ở các nước kém phát triển rõ ràng là đỡ tốn kém thời gian và của cải hơn nhiều so với việc phải đầu tư để có những phát minh mới.
Lao động: Người ta nhận thấy rằng cùng sự đầu tư trang bị kỹ thuật và công nghệ như nhau nhưng ở các nước công nghiệp tiên tiến và có trình độ văn hoá trong nhân dân cao hơn sẽ đưa lại năng suất lao động cao hơn và sự tăng trưởng cao hơn. Điều đó cho thấy chất lượng lao động hay nhân tố con người đã tạo ra sự gia tăng sản lượng. Chất lượng lao động bao gồm những hiểu biết chung (trình độ văn hoá phổ thông), những kỹ năng kỹ thuật được đào tạo, kinh nghiệm và sự khéo léo tích luỹ trong lao động, ý thức tổ chức kỷ luật và ý thức đạt tới hiệu quả trong công việc. Để có được đội ngũ những người lao động và kinh doanh giỏi (động lực để tạo được sự tăng trưởng cao) thì phải có đầu tư cao trong lĩnh vực giáo dục đào tạo và phải có thời gian.
Các chính sách vĩ mô của Nhà nước: Mỗi ngành, mỗi khu vực sản xuất vật chất có năng suất khác nhau. Sự đổi mới cơ cấu kinh tế vĩ mô làm cho các khu vực, các ngành có năng suất cao chiếm tỷ trọng lớn trong nền kinh tế, tất yếu sẽ làm cho sản lượng tăng thêm. Sự đổi mới trong cơ cấu thể hiện ở sự bố trí các nguồn lực cho cơ cấu mới, bố trí lại cơ cấu tích luỹ, tiêu dùng và các biện pháp tạo cung, tạo cầu. Điều đó làm cho các nhân tố tích cực được nhân lên và giảm bớt một cách tương đối những chi phí cũng như đưa lại hiệu quả như một sự đầu tư. Như vậy tổ chức và quản lý kinh tế được coi như một nhân tố làm tăng thêm sản lượng.
Một thể chế phù hợp với sự phát triển hiện đại phải đảm bảo:
+ Phải có tính năng động và mềm dẻo, nhạy cảm, luôn thích nghi được với những biến động phức tạp do tình hình thế giới và trong nước xảy ra khó lường trước .
+ Phải đảm bảo được sự ổn định của đất nước, khắc phục được những mâu thuẫn và xung đột xảy ra trong quá trình phát triển.
+ Phải tạo cho nền kinh tế mở một sự hoạt động có hiệu quả nhằm tranh thủ được vốn đầu tư và công nghệ tiên tiến của thế giới là cơ sở của sự tăng tốc trong quá trình phát triển.
+ Tạo được đội ngũ đông đảo những người có năng lực quản lý, có trình độ khoa học kỹ thuật tiên tiến đủ sức lựa chọn và áp dụng thành công các kỹ thuật và công nghệ tiên tiến vào sản xuất trong nước cũng như đổi mới cơ chế quản lý kinh tế.
+ Tạo được một sự kích thích mạnh mẽ mọi tiềm lực vật chất trong nước hướng vào đầu tư cho sản xuất và xuất khẩu.
+ Phải đảm bảo mục tiêu phát triển bền vững, công bằng xã hội, dân chủ, giữ vững an ninh quốc phòng, đem lại cuộc sống ấm no, đầy đủ về vật chất và tinh thần cho mọi người dân.
Các nhân tố khác: Khi đề cập đến khái niệm phát triển kinh tế đã cho thấy ngoài những chỉ tiêu thông thường để đánh giá sự tiến bộ xã hội, mỗi quốc gia, dân tộc có những quan niệm riêng về sự phát triển. Các quan niệm đó nhiều khi không phải là vấn đề kinh tế - của cải vật chất và sự phân phối, tiêu dùng nó trong cuộc sống hàng ngày mà nó thể hiện cả một quan niệm về cuộc sống, về lối sống, về địa vị của mỗi cá nhân, gia đình, tập thể trong cộng đồng xã hội. Có thể liệt kê một loạt các nhân tố: địa vị con người trong cộng đồng, cơ cấu gia đình, cơ cấu giai cấp - xã hội, cơ cấu dân tộc, cơ cấu tôn giáo, cơ cấu và quy mô các đơn vị cộng đồng trong xã hội, đặc điểm văn hoá - xã hội, tính chất và đặc điểm chung của dân tộc, thể chế chính trị - xã hội, khí hậu, địa lý tự nhiên cũng là những nhân tố phi kinh tế của sự phát triển.
2. Tác động của đầu tư đối với phát triển kinh tế - xã hội.
2.1. Tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
2.1.1 . Đầu tư mới tăng trưởng và phát triển .
Một trong những vai trò quan trọng của đầu tư phát triển là tác động tới tăng trưởng và phát triển kinh tế mà mức tăng GDP chính là biểu hiện cụ thể nhất của tăng trưởng.
Mức tăng
=
Vốn đầu tư
ICOR
Ở các nước phát triển, ICOR thường lớn, từ 5 - 7 do thừa vốn, thiếu lao động; vốn được sử dụng nhiều để thay thế lao động, do sử dụng công nghệ hiện đại có giá cao. Còn ở các nước chậm phát triển, ICOR thấp thường từ 2 - 3 do thiếu vốn, thừa lao động nên có thể và cần phải sử dụng nhiều lao động để thay thế cho vốn, do sử dụng công nghệ kém hiện đại, giá rẻ.
Chỉ tiêu ICOR của mỗi nước phụ thuộc nhiều nhân tố và thay đổi theo trình độ phát triển kinh tế và cơ chế chính sách trong nước. Kinh nghiệm phát triển của các nước cho thấy, chỉ tiêu ICOR phụ thuộc mạnh vào cơ cấu kinh tế và hiệu quả đầu tư trong các ngành, các vùng lãnh thổ cũng như phụ thuộc vào hiệu quả của chính sách kinh tế nói chung. Thông thường ICOR trong nông nghiệp và ICOR trong giai đoạn chuyển đổi cơ chế thấp do tận dụng năng lực sản xuất. Do đó ở các nước phát triển, tỷ lệ đầu tư thấp thường dẫn đến tốc độ tăng trưởng thấp.
Phát triển kinh tế là một quá trình lớn lên về mọi mặt của nền kinh tế trong một thời kỳ nhất định, bao gồm sự gia tăng thêm về mặt quy mô, sản lượng và sự tiến bộ về cơ cấu kinh tế xã hội. Đối với các nước đang phát triển, phát triển về mặt bản chất được coi là vấn đề đảm bảo các nguồn vốn đầu tư đủ để đạt được một tỷ lệ tăng thêm sản phẩm quốc dân dự kiến. ở nhiều nước, đầu tư đóng vai trò như một “cú hích ban đầu” tạo đà cho sự cất cánh của nền kinh tế.
Phát triển phải được hiểu một cách đầy đủ bao gồm tăng trưởng kinh tế bền vững và tiến bộ xã hội. Đây là tiền đề tạo ra các nguồn lực: nhân lực, tài lực, vật lực cho sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế đất nước.
2.1.2. Đầu tư phát triển và quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế..
Có thể nói, quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế là một đặc trưng vốn có của phát triển kinh tế dài hạn. Mô hình chung nhất của hầu hết các nước trên thế giới là một nền kinh tế năng động: công nghiệp hoá cùng với sự phát triển cân đối giữa các ngành, phát triển hệ thống tài chính, tăng cường các mối quan hệ tài chính nhằm khuyến khích đạt tỷ lệ đầu tư cao; vai trò quan trọng của chính phủ trong việc hoạch định chính sách điều chỉnh có khả năng đối phó với những biến động bất thường trong nước cũng như trên thế giới.
Như vậy, quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế của một quốc gia chịu ảnh hưởng của một hệ thống nhân tố: những đòi hỏi tất yếu của xu thế toàn cầu hoá là phải có một nền kinh tế có khả năng hội nhập và cạnh tranh; chính sách điều chỉnh của chính phủ; sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ; lợi thế so sánh của quốc gia; số lượng và chất lượng nguồn nhân lực; sự phát triển của hệ thống tài chính. Đối với các nước đang phát triển, để có thể tranh thủ được những ảnh hưởng tích cực từ những nhân tố sẵn có cũng như tạo ra những nhân tố mới đòi hỏi phải có một lượng vốn lớn đáp ứng nhu cầu đầu tư phát triển mới có thể hình thành những tiền đề cho quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Từ đó có thể thấy: huy động vốn và sử dụng đồng vốn hạn chế một cách có hiệu quả: đầu tư vào đâu, khi nào và bao nhiêu là những vấn đề có tính chiến lược, có tác động trực tiếp đến sự tăng trưởng, phát triển và chuyển dịch cơ cấu kinh tế của một quốc gia.
2.2. Tiến bộ công nghệ trong sản xuất kinh doanh.
Đầu tư đóng vai trò là chất keo liên kết con người với đối tượng lao động và quy trình công nghệ để tạo ra sản phẩm mới. Hiện nay các khoản đầu tư mới đã chú ý nhiều đến yếu tố khoa học công nghệ và tăng cường kỹ năng quản lý hiện đại Các hình thức đầu tư đổi mới công nghệ bao gồm:
+ Nhập máy móc thanh toán bằng ngoại tệ.
+ Nhập máy móc thanh toán bằng sản phẩm.
+ Nhập từng phần, còn lại chế tạo trong nước.
+ Kết hợp giữa doanh nghiệp và giới khoa học công nghệ thực hiện chương trình nghiên cứu và triển khai áp dụng khoa học công nghệ vào sản xuất kinh doanh.
+ Thuê mượn máy móc thiết bị, thuê mua tài chính.
+ Tự nghiên cứu chế tạo thiết bị trên cơ sở các nguyên lý công nghệ chuyên ngành.
+ Các hình thức khác: đào tạo và chuyển giao công nghệ, mua các sáng chế công nghệ, thuê mượn nhãn mác sản phẩm...
Đầu tư phát triển khả năng công nghệ qua hai khía cạnh chính là: chuyển giao công nghệ sẵn có từ bên ngoài (chủ yếu qua hình thức FDI) và phát triển các cơ sở nghiên cứu, ứng dụng khoa học công nghệ của đất nước. Phần lớn công nghệ được chuyển giao dưới các hạng mục chủ yếu như: những tiến bộ công nghệ, sản phẩm công nghệ, công nghệ thiết kế và xây dựng, kỹ thuật kiểm tra chất lượng, công nghệ quản lý, công nghệ marketing... Ngoài việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài để tạo cơ hội tiếp nhận tiến bộ kỹ thuật và công nghệ, các quốc gia vẫn có thể dùng ngoại tệ có được nhờ xuất khẩu để nhập công nghệ mới về phục vụ các nhu cầu sản xuất kinh doanh. Ngoài ra trong quá trình sử dụng công nghệ nước ngoài, các nhà đầu tư và phát triển công nghệ trong nước học được cách thiết kế, chế tạo công nghệ nguồn, sau đó cải biến cho phù hợp với điều kiện sử dụng của địa phương và biến chúng thành công nghệ của mình.
Để nâng cao được sức cạnh tranh của sản phẩm hàng hoá xuất khẩu trên thị trường quốc tế, Việt Nam cần chú trọng tới việc đầu tư đổi mới công nghệ, sử dụng dây chuyền sản xuất tiên tiến và hiện đại, sản xuất ra các sản phẩm có chất lượng tốt, hình thức đẹp, giá thành hạ... Trong các ngành kinh tế mũi nhọn của đất nước: viễn thông, dầu khí, hoá chất, điện tử, tin học, ô tô, xe máy... thì đầu tư phát triển khoa học công nghệ là điều kiện tiên quyết để phát triển ngành. Một số ví dụ có thể kể đến là công nghệ khai thác dầu khí ngoài khơi, lắp đặt tổng đài kỹ thuật số, rô-bốt, dây chuyền tự động lắp ráp hàng điện tử, mạch điện tử; công nghệ chế tạo máy biến thế, cáp thông tin, cáp điện. Trong hệ thống doanh nghiệp công nghiệp Nhà nước sau khi sắp xếp lại được củng cố và đầu tư đổi mới công nghệ từ vốn của Nhà nước, vốn vay, vốn doanh nghiệp tự tích luỹ. Nhờ đó, các doanh nghiệp công nghiệp Nhà nước đã đổi mới đáng kể phần cứng (thiết bị) của công nghệ, tăng được năng lực sản xuất các mặt hàng chủ yếu, tiếp đến đổi mới phần tổ chức của công nghệ tạo điều kiện để kết hợp tốt nguồn nhân lực chất lượng cao với công nghệ mới.
2.3. Nâng cấp và làm mới hạ tầng.
Gia tăng đầu tư, trong đó có đầu tư xây dựng hạ tầng cơ sở, đầu tư cho phát triển hạ tầng kinh tế - xã hội sẽ thúc đẩy sản xuất phát triển. Tăng vốn đầu tư xây dựng cơ bản là một trong các biện pháp quan trọng và có ý nghĩa lớn về kinh tế - xã hội, tạo ra nhiều công trình xây dựng mới, nâng cấp và tăng cường cơ sở hạ tầng. Bằng số vốn từ ngân sách Nhà nước và huy động trong dân cư thông qua phát hành công trái xây dựng Tổ quốc, Nhà nước đã tăng cường các chương trình đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng ở nông thôn (gồm hệ thống đường sá cầu cống, đê điều, kênh mương, cầu cống, cơ sở phơi, say, sơ chế, chế biến nông sản, hệ thống thông tin, hệ thống giáo dục, y tế, văn hoá...) và dành một khoản vốn tín dụng ưu đãi cho ngân sách cấp tỉnh, thành phố để nâng cấp các công trình cơ sở hạ tầng ở nông thôn.
Hệ thống điện, đường giao thông, thuỷ lợi, cấp thoát nước và chiếu sáng đô thị, trường học, bệnh viện đã được chú trọng đầu tư đồng bộ nhờ có đầu tư của Nhà nước.
Về xây dựng kết cấu hạ tầng các khu công nghiệp: Những năm gần đây Chính phủ đã coi trọng việc xây dựng kết cấu hạ tầng các khu công nghiệp cho thuê làm mặt bằng sản xuất kinh doanh, cho xây dựng nhiều khu công nghiệp và khu chế xuất. Hàng năm Chính phủ có kế hoạch chuẩn bị ngân sách để đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng các khu công nghiệp.
2.4. Tăng khả năng cạnh tranh và xuất khẩu.
Đầu tư thoả đáng là biện pháp tăng khả năng cạnh tranh và xuất khẩu cho nền kinh tế. Đầu tư không chỉ nhằm gia tăng sản lượng mà cần chú trọng tới việc nâng cao năng suất, chất lượng và hạ giá thành sản phẩm. Cần tập trung cho các ngành sản xuất hàng xuất khẩu và các dự án nâng cao cấp độ chế biến. Chẳng hạn thuỷ sản là mặt hàng có khả năng xuất khẩu lớn và còn nhiều tiềm năng do hàng thuỷ sản Việt Nam khá đa dạng và được ưa chuộng trên thị trường thế giới; song giá trị xuất khẩu của mặt hàng này còn có thể đạt cao hơn hiện nay nếu chúng ta có trình độ công nghệ chế biến cao, chất lượng tốt. Hay như ngành dệt may và giầy dép, việc tăng cường đầu tư sản xuất nguyên phụ liệu đầu vào, thu hút đầu tư nước ngoài sẽ góp phần mở rộng thị trường, tăng cường khả năng thâm nhập thị trường quốc tế. Việc đầu tư cho khâu sản xuất nguyên liệu bông và tơ tằm sẽ phát triển ngành dệt may, đầu tư cho giống gia súc sẽ góp phần phát triển ngành giày dép... Đi đôi với đầu tư giống là việc đầu tư sau thu hoạch; do đó chính sách ưu đãi đầu tư là một biện pháp tốt để hỗ trợ cho xuất khẩu: khuyến khích đầu tư các dự án đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng hàng hoá và khâu kiểm tra chất lượng sản phẩm đối với các mặt hàng xuất khẩu để thúc đẩy doanh nghiệp quan tâm hơn đến vấn đề công nghệ, nhất là công nghệ sạch.
Đầu tư nước ngoài và phát triển hợp lý các khu công nghiệp, khu chế xuất đã đóng góp một phần đáng kể cho xuất khẩu. Các chính sách ưu đãi cho doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu cũng khuyến khích các doanh nghiệp nước ngoài gia tăng xuất khẩu.
Đầu tư của Nhà nước được tập trung cho các khâu đòi hỏi vốn lớn, có tác dụng cho nhiều doanh nghiệp như: nghiên cứu khoa học, xây dựng bến bãi, kho tàng, cảng... Nhà nước đã ban hành các chính sách ưu đãi để khuyến khích cá nhân và doanh nghiệp chủ động đầu tư hướng mạnh vào xuất khẩu. Thực tế cho thấy có một chính sách đầu tư hợp lý và thoả đáng sẽ thúc đẩy các ngành hàng tăng thêm khả năng cạnh tranh và xuất khẩu.
2.5. Đầu tư góp phồn nâng cao chất lượng sống cho người dân.
Trong quá trình phát triển, Đảng và Nhà nước ta luôn kiên định con đường xã hội chủ nghĩa với mục tiêu: "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh". Vì vậy tăng trưởng và phát triển kinh tế luôn được gắn liền với nhiệm vụ đảm bảo xã hội, giữ vững an ninh quốc phòng. Trong những năm gần đây lĩnh vực xã hội thường xuyên được quan tâm đầu tư phát triển. Nguồn vốn đầu tư chủ yếu là nguồn vốn Nhà nước và một phần huy động từ dân cư. Nhờ đó các mặt văn hoá, xã hội đã có sự phát triển đáng kể. Các chương trình quốc gia: phổ cập giáo dục, xoá đói giảm nghèo, nước sạch nông thôn, chương trình trồng 5 triệu ha rừng... đã góp phần nâng cao đời sống nhân dân và đổi mới bộ mặt nông thôn. Cơ sở hạ tầng đô thị và nông thôn được đầu tư phát triển tương đối đồng bộ. Công tác chăm sóc sức khoẻ và kế hoạch hoá gia đình đã mang lại nhiều kết quả tích cực. Các chương trình kế hoạch hoá đầu tư từ cộng đồng được chú trọng tiến hành, có sự tham gia ý kiến của nhân dân vào các khâu: quy hoạch, tiến hành đầu tư, triển khai dự án…về các công trình phúc lợi chung như: điện, đường, trường, trạm, vệ sinh nước sạch, chợ, thuỷ lợi nhỏ.
3- Phát triển kinh tế - xã hội tác động trở lại sự tăng vốn và hiệu quả trong đầu tư
3.1. Gia tăng tiết kiệm và tích luỹ trong nước.
Trong lịch sử các tư tưởng kinh tế, đầu tư và tích luỹ vốn cho đầu tư ngày càng được xem là một nhân tố quan trọng cho sản xuất, cho việc gia tăng năng lực sản xuất và cung ứng dịch vụ cho nền kinh tế và cho sự tăng trưởng. Việc tích tụ vốn cho đầu tư sẽ cho phép dân số và lực lượng lao động gia tăng, chung cấp những người lao động với những trang thiết bị tốt hơn và quan trọng hơn là có thể tạo ra việc phân công lao động một cách rộng rãi hơn. Việc tăng vốn đầu tư sẽ làm tăng cả tổng sản lượng và sản lượng bình quân mỗi lao động, tăng tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế.
Ngược lại, một nền kinh tế tăng trưởng cao, tạo được sự chuyển biến tăng tích luỹ từ mức thấp lên mức trung bình và mức cao để tăng quy mô đầu tư từ đó tăng năng lực sản xuất và cuối cùng là gia tăng thu nhập. Nghiên cứu sự phát triển kinh tế của các nước đang phát triển trong 4 hay 5 thập kỷ qua cho thấy rằng các quốc gia phát triển hàng đầu trong các nước đó là những nước có tỷ lệ tích luỹ vốn cao nhất; còn những nước kém phát triển nhất là những nước có tỷ lệ đầu tư thấp nhất.
3.2. Nền kinh tế ổn định và tăng trưởng cao là điều kiện thu hút vốn đầu tư nước ngoài.
Môi trường đầu tư nước ngoài là tổng hoà các yếu tố có ảnh hưởng đến công cuộc đầu tư của các nhà đầu tư nước ngoài ở nước tiếp nhận đầu tư. Nó bao gồm các yếu tố: tình hình chính trị, chính sách, pháp luật, vị trí địa lý - điều kiện tự nhiên, trình độ kinh tế, đặc điểm văn hoá - xã hội. Các nhóm yếu tố này có thể làm lăng khả năng sinh lãi hoặc rủi ro cho các nhà đầu tư.
Tình hình ổn định chính trị của nước tiếp nhận đầu tư là cơ sở quan trọng hàng đầu, là tiền đề cần thiết để ổn định tình hình kinh tế - xã hội, giảm rủi ro cho các nhà đầu tư. Một nước không thể thu hút được nhiều vốn đầu tư nước ngoài nếu tình hình chính trị luôn mất ổn định.
Môi trường pháp lý hợp lý và ổn định đảm bảo quyền lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài cũng là một yếu tố được các nhà đầu tư quan tâm. Một môi trường pháp lý hấp dẫn đầu tư nước ngoài nếu có các chính sách, quy định hợp lý và có tính hiệu lực cao trong thực hiện.
Vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên thuận lợi sẽ giảm được chi phí vận chuyển, đa dạng hoá các lĩnh vực đầu tư, cung cấp được nguồn nguyên liệu đầu vào phong phú với giá rẻ và tiềm năng tiêu thụ lớn. Những yếu tố này không những làm giảm được giá thành sản phẩm mà còn thu hút được các nhà đầu tư tìm kiếm nguồn nguyên liệu tự nhiên và thị trường tiêu thụ.
Trình độ phát triển của nền kinh tế là các mức độ phát triển về quản lý kinh tế vĩ mô, cơ sở hạ tầng, chất lượng cung cấp dịch vụ cho các hoạt động kinh doanh của các nhà đầu tư nước ngoài và mức độ cạnh tranh của thị trường nước chủ nhà. Những nước có trình độ quản lý vĩ mô kém thường dẫn tới tình trạng lạm phát cao, nợ nước ngoài lớn, tốc độ tăng trưởng kinh tế thấp, các thủ tục hành chính rườm rà, nạn tham nhũng ... Kinh tế - xã hội phát triển đảm bảo cơ sở hạ tầng và dịch vụ tạo ra những điều kiện thuận lợi và giảm chi phí phát sinh cho các hoạt động đầu tư. Cơ sở hạ tầng cứng bao gồm các yếu tố như: sân bay, cảng biển, giao thông, điện lực, viễn thông; còn cơ sở hạ tầng mềm bao gồm: chất lượng lao động, dịch vụ công nghệ, hệ thống tài chính.
Đặc điểm văn hoá - xã hội của nước chủ nhà sẽ hấp dẫn đầu tư nước ngoài nếu có trình độ giáo dục cao và nhiều sự tương đồng. Các đặc điểm này không chỉ giảm được chi phí đào tạo nguồn nhân lực cho các nhà đầu tư nước ngoài mà còn tạo cho họ điều kiện hoà nhập vào cộng đồng nước sở tại.
Bên cạnh đó, việc sử dụng nguồn vốn nước ngoài có hiệu quả kinh tế - xã hội cao, đảm bảo khả năng thu hồi vốn và trả nợ sẽ là nhân tố quyết định để các quốc gia, các tổ chức quốc tế... cho vay ưu đãi, viện trợ phát triển.
3.3. Phát triển kinh tế xã hội nâng cao hiệu quả đầu tư.
Quá trình phát triển kinh tế - xã hội ở các quốc gia đang phát triển tất yếu sẽ dẫn tới chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo xu hướng tăng dần tỷ trọng ngành công nghiệp - xây dựng - dịch vụ và giảm dần tỷ trọng ngành nông - lâm - ngư nghiệp trong cơ cấu GDP.
Nền kinh tế thị trường cùng với cơ cấu kinh tế dần chuyển dịch theo hướng tích cực sẽ tác động tới cơ cấu đầu tư theo hướng: tăng đầu tư vào những ngành, vùng có lợi thế về tài nguyên, vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên và lao động nhằm tạo ra những sản phẩm hàng hoá có khả năng cạnh tranh; đầu tư phát triển nền nông nghiệp hàng hoá, đầu tư vào những ngành có suất đầu tư thấp. Cùng với quá trình này, hiệu quả đầu tư sẽ được tăng lên.
IV. KINH NGHIỆM ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN TẠI MỘT SỐ ĐỊA PHƯƠNG TRONG NƯỚC VÀ CỦA TRUNG QUỐC.
1. Kinh nghiệm thu hút và quản lý đầu tư ở Hải Phòng.
Trong giai đoạn 1996 - 2000, công tác thu hút vốn đầu tư ở Hải Phòng đạt được kết quả cao. Nguồn vốn đầu tư trong nước có tốc độ tăng trưởng nhanh hơn và dần chiếm tỷ trọng cao (hơn 65%) trong tổng vốn đầu tư. Nguồn vốn huy động từ khu vực dân cư và doanh nghiệp tương đối lớn. Vốn tín dụng đầu tư đã được các doanh nghiệp quan tâm và mạnh dạn vay để đầu tư. Tỷ lệ vốn thực hiện đối với các dự án có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt gần 60%, cao hơn nhiều so với mức bình quân cả nước. Nhiều dự án có tốc độ triển khai nhanh và sớm đi vào sản xuất so với kế hoạch. Có được những kết quả đó là do Hải Phòng đã thực hiện tốt công tác thu hút và quản lý đầu tư.
Cơ cấu thu hút đầu tư:
+ Ưu tiên đầu tư cải tạo, nâng cấp và xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng.
+ Đầu tư phát triển công nghiệp theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá hướng vào xuất khẩu. Định hướng đầu tư cho lĩnh vực này là từng bước đầu tư đổi mới trang thiết bị, công nghệ, hình thành các doanh nghiệp công nghiệp hiện đại, tạo ra những sản phẩm có chất lượng cao, đủ sức cạnh tranh trên thị trường trong nước và hội nhập khu vực, quốc tế, thúc đẩy quá trình công nghiệp hoá nông thôn.
+ Đầu tư cải tạo, xây dựng mới các công trình văn hoá - xã hội. Mục tiêu đầu tư của lĩnh vực này là phát triển sự nghiệp giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ, bảo vệ sức khoẻ, văn hoá - thông tin, thể dục thể thao để nâng cao dân trí, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, tạo bước chuyển biến trong việc phát triển, hoàn thiện con người, phục vụ tốt hơn sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá.
Một số giải pháp thu hút, sử dụng và quản lý có hiệu quả vốn đầu tư:
+ Huy động vốn trong nước: đẩy mạnh việc thu hút vốn đầu tư của doanh nghiệp cũng như của nhân dân với các hình thức:
- Mở rộng các hình thức xây dựng các công trình hạ tầng bằng cách huy động các nguồn vốn hỗn hợp (vốn ngân sách, vốn vay trong và ngoài nước, trái phiếu công trình, vốn góp của các công ty, vốn góp của các địa phương, vốn của dân …) với nhiều cơ chế ưu đãi.
- Đẩy nhanh việc thực hiện cổ phần hoá tạo bước đi vững chắc trên diện rộng. Có hình thức linh hoạt thu hút vốn cổ phần, kết hợp cổ phần hoá với thay đổi cơ cấu sản xuất của doanh nghiệp kể cả việc chuyển hướng kinh doanh, đảm bảo quyền lợi của cổ đông. Vấn đề quan trọng là đảm bảo quyền lợi, tạo được sự tin tưởng, ủng hộ của cổ đông,
- Huy động sự đóng góp của nhân dân cho nhu cầu đầu tư phát triển, kể cả vốn và công lao động theo phương châm "Nhà nước và nhân dân cùng làm" để xây dựng hè đường giao thông, kiên cố hoá kênh mương, lưới điện, lớp học, nước sạch, trạm xá . . .
- Tạo nguồn thu, bồi dưỡng nguồn thu, chống thất thu, thất thoát. Quản lý chặt chẽ quỹ đất xây dựng, thu đủ thuế và các loại phí. Thực hiện nghiêm chỉnh các luật thuế, phấn đấu mức thu ngân sách tăng hàng năm.
Xây dựng các cụm công nghiệp dành cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
+ Định hướng thu hút đầu tư nước ngoài:
Tập trung cao độ các dự án công nghệ kỹ thuật cao. Đầu tư vào khu công nghiệp, khu chế xuất, nhanh chóng lấp đầy các khu công nghiệp, khu chế xuất.
- Phát triển các dự án sửa chữa tàu biển, công nghiệp hoá chất, công nghiệp điện tử.
- Thu hút đầu tư phát triển các ngành công nghiệp chế biến thuỷ sản, nông sản.
- Tăng cường quản lý dự án làm cho vốn thực hiện nhanh, nâng cao hiệu quả vốn đầu tư. Khuyến khích các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài mở rộng quy mô, mục tiêu của dự án hay đầu tư vào các dự án mới ở địa phương.
2. Kinh nghiệm phát triển kinh tế tư nhân ở Đà Nẵng.
Đà Nẵng là thành phố trực thuộc Trung ương, trung tâm kinh tế ở khu vực miền Trung và Tây Nguyên, là một trong những khu vực có nhịp độ phát triển kinh tế sôi động nhất trong cả nước. Thành phần kinh tế tư nhân giữ một vị trí quan trọng trong cơ cấu kinh tế của Đà Nẵng. Vì vậy trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của mình, thành phố Đà Nẵng đã tạo nhiều thuận lợi cho thành phần kinh tế tư nhân phát triển. Một số biện pháp tích cực như sau:
+ Tiếp tục đổi mới và hoàn thiện hệ thống chính sách:
Ưu đãi, khuyến khích đầu tư, khuyến khích các doanh nghiệp tư nhân đầu tư vào các ngành nghề theo chiến lược, quy hoạch để ra. Sớm cụ thể hoá các quy định vay vốn từ quỹ hỗ trợ đầu tư, công khai các điều kiện ưu đãi, các đối tượng ưu đãi để doanh nghiệp tư nhân có thể vay vốn từ quỹ này theo luật định.
Giảm thuế thu nhập doanh nghiệp từ 32% xuống còn 20% giúp doanh nghiệp tích luỹ mở rộng sản xuất kinh doanh, đưa công nghệ mới vào sản xuất.
- Xem xét miễn thuế giá trị gia tăng đối với cơ sở sản xuất mới thành lập 3 năm đầu và giảm 50% trong 3 năm tiếp theo; ưu đãi thuế cho cơ sở sử dụng nhiều lao động.
- Ngân hàng cần đánh giá thẩm định tính khả thi của dự án với từng loại hình doanh nghiệp, hộ kinh doanh.
- Sớm cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với các diện tích mà khu vực kinh tế tư nhân đang sử dụng. Cho thuê đất và ưu đãi tiền thuê đất đối với các doanh nghiệp có chiến lược kinh doanh và dự án khả thi.
- Kiện toàn tổ chức bộ máy quản lý Nhà nước đối với hoạt động của kinh tế tư nhân. Có cơ chế kiểm tra sau đăng kí kinh doanh; cập nhật thông tin, tuyên truyền hướng dẫn chính sách pháp luật của Nhà nước đối với kinh tế tư nhân. Tạo môi trường tâm lý - kinh tế - xã hội cho khu vực kinh tế tư nhân: động viên, khen thưởng những cá nhân, doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả, chấp hành đúng pháp luật. Tìm hiểu, giải quyết những khó khăn, vướng mắc để tạo tâm lý yên tâm, phấn khởi, hăng hái đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh.
Kinh tế tư nhân có xu hướng phát triển ngày càng mạnh mẽ về số lượng và thành các tổ chức Đảng, công đoàn, đoàn thanh niên, hội phụ nữ... để đảm bảo kinh tế tư nhân phát triển theo đúng định hướng xã hội chủ nghĩa.
Kinh nghiệm về thu hút vốn đầu tư ở tỉnh Hải Dương.
Ngoài việc thực hiện Luật khuyến khích đầu tư trong nước và nước ngoài theo đúng quy định của Chính phủ, Hải Dương đã đưa vào áp dụng một số chính sách khuyến khích đầu tư đã và đang được các nhà đầu tư nghi nhận, như cải tiến quy trình tiếp nhận dự án, bố trí nguồn ngân sách cho công tác xúc tiến, vận động đầu tư, hỗ trợ các doanh nghiệp thông qua mức thuế và các quy định nhằm đẩy nhanh tiến độ giải phóng mặt bằng. Cụ thể:
Đối với đầu tư nước ngoài, tỉnh đã và đang thực hiện cơ chế “ một cửa “ và giao cho Sở Kế hoạch và Đầu tư làm đầu mối.
Về công tác cấp phép đầu tư và đẩy nhanh tiến độ giải phóng mặt bằng, tỉnh Hải Dương quy định rút ngắn thời gian cấp phép xuống còn một nửa so với quy định của Chính phủ (đối với các dự án đầu tư nước ngoài), rút ngắn thời gian đăng ký kinh doanh xuống còn 2-6 ngày và thời gian chấp thuận dự án dầu tư trong nước là 12 ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ hợp lệ.
Thực hiện chính sách hỗ trợ doanh nghiệp như: hỗ trợ về thông tin đại chúng của địa phương, đảm bảo ưu tiên cấp điện 24/24 giờ cho các doanh nghiệp sản xuất. Về chính sách thuế, Hải Dương áp dụng giá thuê đất ở mức thấp nhất trong khung Nhà nước quy định, không tính đến hệ số, vị trí, kết cấu hạ tầng, ngành nghề nêu tại quyết định 189/2000/QĐ-BTC ngày 24/11/2000 của Bộ trưởng Bộ Tài chính về việc ban hành tiền thuê đất, mặt nước, mặt biển áp dụng đối với các hình thức đầu tư nước ngoài tại Việt Nam; Hải Dương cũng áp dụng việc miễn thuê đất đối với một số dự án (kể từ ngày xây dựng cơ bản hoàn thành đưa dự án đi vào hoạt động), cụ thể: 15 năm đối với dự án đầu tư vào địa bàn có điều kiện kinh tế khó khăn, dự án thuộc danh mục đặc biệt khuyến khích đầu tư theo Nghị định 24/2000/NĐ-CP ngày 31/7/2000 của Chính phủ; 11 năm đối với dự án đầu tư vào địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, dự án thuộc danh mục khuyến khích đầu tư theo Nghị định 24; Hỗ trợ 100% chi phí bồi thường giải phóng mặt bằng, rà phá bom mìn, vật nổ cho các dự án đầu tư nước ngoài bằng cách trừ dần vào số tiền thuê đất hàng năm của doanh nghiệp.
Kinh nghiệm về thực hiện chiến lược đầu tư của Trung Quốc.
Qua 20 năm cuối của thế kỷ XX, thực hiện chính sách cải cách, mở cửa Trung Quốc đã giành được nhiều thành tựu to lớn trong phát triển kinh tế. Có được kết quả đó một phần là do Trung Quốc đã đổi mới và thực thi chính sách đầu tư có hiệu quả.
Đối với đầu tư từ vốn Ngân sách Nhà nước, Trung Quốc đã tập trung cho các hạng mục trọng điểm gồm: các hạng mục không sinh lời và mang tính xã hội cao; các hạng mục cơ sở hạ tầng phục vụ phát triển kinh tế, các dự án trọng điểm của ngành công nghiệp có tác động trực tiếp đến sự phát triển và sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế; các chương trình phát triển khoa học kỹ thuật, công nghệ mới, kỹ thuật hàng không, kỹ thuật vi sinh. Đặc biệt với chương trình cải cách giáo dục chất lượng nguồn nhân lực của Trung Quốc đã được nâng lên đáng kể, đồng thời tăng cường đưa sinh viên đi học tập, nghiên cứu ở nước ngoài để tiếp thu và sử dụng công nghệ mới. Tỷ lệ chi cho giáo dục trong ngân sách Nhà nước đã tăng từ 5,9% (năm 1978) lên 10,5% (năm 1993).
Cùng với nguồn vốn ngân sách, Trung Quốc chủ trương tăng cường thu hút vốn của các doanh nghiệp, các cá nhân trong và ngoài nước thông qua nhiều kênh khác nhau; thu hút vốn đầu tư phát triển công nghiệp nông thôn với mô hình xí nghiệp hương trấn; cải cách cơ chế, chính sách đầu tư đối với các doanh nghiệp nhà nước thông qua việc trao quyền tự chủ tài chính, cải cách chính sách thuế.
Việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài được đặc biệt chú trọng với những chính sách ưu đãi và thủ tục thông thoáng. Những năm gần đây, các yêu cầu về vốn FDI được chuyển từ số lượng sang chất lượng, coi trọng thu hút các công ty xuyên quốc gia lớn đầu tư vào các dự án sử dụng kỹ thuật cao, nới lỏng kiểm soát việc thành lập xí nghiệp 100% vốn nước ngoài và các xí nghiệp do người nước ngoài điều phối. Tạo những cơ chế đặc biệt cho những đặc khu kinh tế, coi đó là những” đầu tầu” lôi kéo các khu vực khác phát triển. Bên cạnh đó,._. tiếp nhận, cấp giấy phép, triển khai dự án đầu tư của cấp thừa hành.
Với những thuận lợi, tỉnh Bắc Ninh cần thiết và có thể tăng cường huy động vốn FDI. Nếu không thu hút được đáng kể FDI, đảm bảo nguồn vốn để thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế thì cũng có nghĩa là tỉnh không tận dụng được lợi thế so sánh của mình. Khi đó các chủ trương phát triển kinh tế của tỉnh đều khẳng định tiềm năng và khai thác tiềm năng kinh tế của địa phương chỉ mang nội dung chung chung, không trở thành nguồn lực phát triển. Do vậy trong thời gian tới, tỉnh cần áp dụng mạnh các biện pháp: tăng cường kinh phí và cán bộ cho công tác xúc tiến đầu tư; lập danh mục dự án với những ưu đãi, điều kiện hỗ trợ cụ thể kèm theo để nhà đầu tư lựa chọn; giải phóng thủ tục hành chính, thời gian xem xét hồ sơ và cấp phép đầu tư đối với các dự án khuyến khích đầu tư xuống chỉ còn từ 1-3 ngày, thậm chí có thể cấp phép trong ngày; có thể cấp ngay giấy phép đầu tư mà nhà đầu tư không phải thoả thuận địa điểm, cơ quan nhà nước có trách nhiệm đảm bảo địa điểm và tiến hành giải phóng mặt bằng cho nhà đầu tư; thực hiện đầy đủ và kịp thời các cam kết nhằm chống xu hướng bão hoà giả tạo về thu hút vốn đầu tư nước ngoài.
Việc thu hút ODA để xây dựng cơ sở hạ tầng đối với tỉnh chưa có khả năng cân đối ngân sách như Bắc Ninh sẽ gặp nhiều hạn chế, phụ thuộc vào chương trình của Chính phủ. Tỉnh khó có khả năng tự đứng ra để vay các khoản ODA mà chủ yếu nhận viện trợ không hoàn lại. Tuy nhiên, viện trợ sẽ được tăng cường nếu tỉnh có khả năng hấp thụ, dành một phần vốn địa phương sẵn sàng đối ứng và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn viện trợ. Trong thời gian tới tỉnh cần tăng cường xúc tiến thu hút viện trợ, xây dựng các danh mục dự án ưu tiên, liên kết với các tỉnh trong vùng để tiếp nhận các dự án hỗ trợ kỹ thuật cho cả vùng, nhất là các dự án phát triển hạ tầng nông thôn, xoá đói, giảm nghèo, tăng cường kỹ thuật sản xuất, khuyến nông, vệ sinh môi trường. . .
Trong thời gian tới, khi đã cân đối được ngân sách, tỉnh có thể trực tiếp vay vốn và hoàn vốn đối với các khoản viện trợ có hoàn lại ưu đãi. Các công trình phục vụ công cộng có thu phí hoàn một phần vốn (đường giao thông, bệnh viện. . .) đang được các nhà tài trợ quan tâm. Nhà nước cần tăng cường phân cấp cho các địa phương trong việc tiếp nhận dự án phi Chính phủ (trừ các lĩnh vực liên quan đến an ninh quốc gia).
2.1.5 - Điều chỉnh cơ cấu đầu tư thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá là giải pháp xuyên suốt trong phát triển kinh tế cả nước cũng như ở từng tỉnh. Để chuyển dịch cơ cấu kinh tế Bắc Ninh theo mục tiêu, định hướng đã xác định tỉnh cần tiếp tục tập trung vốn đầu tư cho ngành công nghiệp theo hướng chuyển dịch cơ cấu của bản thân ngành công nghiệp; đầu tư hợp lý cho ngành nông nghịêp, đảm bảo an ninh lương thực và chuyển mạnh nông nghiệp sang sản xuất hàng hoá với cây trồng, vật nuôi có hiệu quả kinh tế cao; quan tâm đầu tư tạo ra tốc độ tăng trưởng nhanh cho toàn bộ khu vực dịch vụ; chú trọng đầu tư kết cấu hạ tầng, đổi mới công nghệ, phát triển nguồn nhân lực. Có sự kết hợp giữa vốn ngân sách Nhà nước đối với các nguồn vốn khác của xã hội trong đầu tư phát triển để chuyển dịch cơ cấu đầu tư. Cần có biện pháp để vốn Nhà nước mang tính định hướng và có tác dụng lôi kéo vốn đầu tư tư nhân - điều mà giai đoạn trước chưa đặt ra trong kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội.
Vì vậy, điều chỉnh cơ cấu đầu tư cần thực hiện các giải pháp là:
2.1.5.1- Điều chỉnh cơ cấu vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước theo hướng tăng cường đầu tư hạ tầng kinh tế trực tiếp phục vụ sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp.
Những năm 1991-1996, tỉnh Hà Bắc (cũ) đã sử dụng ngân sách để cấp, cho vay, bảo lãnh đầu tư cho các doanh nghiệp Nhà nước. Việc làm này đã gây thất thoát ngân sách do doanh nghiệp hoạt động kém hiệu quả. Sau đó lại áp dụng quan điểm không hỗ trợ đầu tư cho doanh nghiệp từ nguồn ngân sách Nhà nước. Cả hai quan điểm này đều mắc sai lầm làm cho hoạt động đầu tư trong nước trên địa bàn tỉnh tăng chậm và chưa tác động mạnh đến thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Trong thời gian tới tỉnh dành tỷ lệ thích đáng cho đầu tư hạ tầng kinh tế phục vụ trực tiếp cho sản xuất kinh doanh, thúc đẩy sản xuất, nâng cao tốc độ tăng trưởng. Các lĩnh vực chủ yếu là:
- Hỗ trợ đầu tư hạ tầng các khu công nghiệp, cụm công nghiệp, cả trong và ngoài hàng rào: đường vào, hệ thống điện, cấp thoát nước, xử lý môi trường. . .
- Hỗ trợ đầu tư hạ tầng các khu du lịch văn hoá. Trên địa bàn tỉnh đã quy hoạch 4 khu du lịch lớn, nhưng thời gian qua chưa triển khai đầu tư mạnh. Với việc đầu tư toàn bộ hạ tầng của khu du lịch thì doanh nghiệp không thể kinh doanh có lãi. Do đó Nhà nước cần hỗ trợ vốn đầu tư hạ tầng cho các dự án này. Tương tự như việc đầu tư hình thành trung tâm thương mại ở Thành phố Bắc Ninh cần có sự hỗ trợ này.
2.1.5.2 - Căn cứ mục tiêu chuyển dịch cơ cấu đầu tư, đặt ra chính sách khuyến khích đầu tư phù hợp với từng giai đoạn.
Theo Luật khuyến khích đầu tư trong nước, tỉnh Bắc Ninh không có huyện nào thuộc danh mục vùng khó khăn, nhưng theo Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, các huyện: Gia Bình, Lương Tài, Thuận Thành thuộc vùng khó khăn. Đây là sự “lệch pha” khi xây dựng hai Luật ở hai thời điểm khác nhau. Trong khi chờ Nhà nước sửa đổi Luật khuyến khích đầu tư trong nước, tỉnh có biện pháp hỗ trợ để thống nhất danh mục địa bàn khó khăn giữa đầu tư trong nước và nước ngoài.
Bên cạnh đó, cần thay đổI tư duy về ưu đãi, khuyến khích đầu tư để thúc đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Khuyến khích đầu tư trên địa bàn tỉnh không chỉ nhằm vào các khu vực khó khăn mà cần khuyến khích đầu tư ở cả các khu vực, kinh tế trọng điểm, các ngành, các dự án quan trọng để tạo ra tốc độ phát triển kinh tế cao, chuyển dịch cơ cấu kinh tế mạnh theo hướng hiện đại, có khả năng đón đầu trong sự phát triển. Như vậy, ngành trọng điểm, ngành mũi nhọn mới luôn giữ vai trò quan trọng đối với nền kinh tế thông qua sự di chuyển thích hợp với từng giai đoạn trong chiến lược phát triển.
Tỉnh có thể thực hiện cơ chế hỗ trợ lãi suất vay đầu tư đối với một số ngành, lĩnh vực. Áp dụng cơ chế khuyến khích, ưu đãi theo dự án cụ thể, không cần đưa ra chính sách chung. Việc làm này vừa không phá võ chính sách ưu đãi của Chính phủ, vừa tiết kiệm được chi phí cho việc thu hút đâu tư cũng như ưu đãi cho các ngành cần thúc đẩy. Có thể những thoả thuận về ưu đãi được hình thành trong quá trình thảo luận tiếp nhận dự án đầu tư. Điều đó tạo ra tính linh hoạt và nâng cao hiệu quả của việc thu hút vốn đầu tư nhằm chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên địa bàn tỉnh.
Đối với các doanh nghiệp sử dụng lợi nhuận sau thuế để đầu tư sản xuất kinh doanh thì cần được khuyến khích, bất kể thuộc ngành nào. Cho phép áp dụng chế độ khấu hao đặc biệt đối với các ngành trọng điểm, các ngành có tốc độ đổi mới công nghệ nhanh, (Nhật Bản đã áp dụng thành công chính sách này trong chuyển dịch cơ cấu ngành công nghiệp những năm 1950-1960).
2.1.5.3 - Điều chỉnh cơ cấu đầu tư của từng ngành và dự án, tăng cường hàm lượng công nghệ và tri thức.
Những năm qua, với sự theo đuổi mục tiêu kiên cố hoá trường học, trạm y tế, nên số vốn đầu tư cho nâng cao chất lượng trang thiết bị, phương tiện của hoạt động giáo dục, đào tạo, chăm sóc sức khoẻ còn ít ỏi. Không thể hy sinh “ phần mềm “, yếu tố quan trọng nhằm nâng cao chất lượng vốn con người để theo đuổi mục tiêu của “phần cứng” một cách hình thức hoặc chạy theo phong trào. Đầu tư cơ sở hạ tầng xã hội phải nhằm tạo ra những chuyển biến về chất trong các hoạt động, nâng cao chất lượng thực sự về nguồn nhân lực cũng như đời sống con người.
Thay đổi tỷ lệ vốn đầu tư giữa xây lắp và thiết bị công nghệ. Thông thường với các dự án đầu tư sản xuất mới, tỷ lệ vốn xây lắp chiếm tới 65-70%. Điều này là một trong những nguyên nhân làm giảm hiệu quả đầu tư.
2.1.5.4 - Khuyến khích đầu tư của khu vực tư nhân vào dịch vụ công cộng.
Khu vực tư nhân có thể tham gia đầu tư vào các dịch vụ vui chơi, giải trí, thể thao, cơ sở hạ tầng để thu hồi vốn có sự hỗ trợ, tham gia và quản lý của Nhà nước. Nhà nước có thể đầu tư cơ sở vật chất trong lĩnh vực cung cấp dịch vụ công cộng nhưng giao thầu khai thác cho tư nhân. Thực hiện giải pháp này Nhà nước sẽ giảm bớt được chi phí ngân sách để có thêm vốn đầu tư cơ sở hạ tầng và thực hiện chính sách hỗ trợ đầu tư cho doanh nghiệp.
2.1.5.5 - Đầu tư chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn.
Tăng cường hỗ trợ đầu tư hạ tầng cho chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp, hình thành vùng chuyên canh có giá trị kinh tế cao. Việc đầu tư này cần được thực hiện theo dự án trên cơ sở quy hoạch vùng chuyên canh. Trước hết cần chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn thông qua giải pháp đầu tư chuyển sản xuất nông ghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá. Để chuyển dịch cơ cấu đầu tư nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá có hiệu quả thì cần có sự thay đổi lớn về quan điểm và phương thức hỗ trợ của Nhà nước trong đầu tư sản xuất nông nghiệp. Ngành nông nghiệp phải có bộ phận nghiên cứu thị trường và xúc tiến thương mại hàng nông sản. Thay đổi phương thức hoạt động của Trung tâm khuyến nông, chuyển giao ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật và đầu tư sản xuất nông nghiệp phải gắn với thị trường. Đồng thời chú trọng phát triển kinh tế vườn, tiềm năng kinh tế vườn của tỉnh không lớn nhưng cũng góp phần nâng cao thu nhập đối với một bộ phận dân cư. Cần chuyển từ vườn tạp sang trồng cây ăn quả có kinh tế cao.
Chuyển đổi vùng trũng sang nuôi trồng thuỷ sản là hướng chuyển dịch cơ cấu sản xuất có hiệu quả. Qua chuyển đổi của các hộ thu nhập từ nuôi thuỷ sản ở các vùng trũng gấp 7 lần so với cấy lúa đơn thuần. Thời gian qua, việc chuyển đổi chủ yếu do nông dân tự tiến hành, Nhà nước chưa có định hướng, chương trình quy hoạch vùng sản xuất. Trong thời gian tới, Nhà nước cần xây dựng các vùng quy hoạch, xác định rõ nguồn vốn: Nhà nước hỗ trợ đầu tư, vốn tín dụng ưu đãi của Nhà nước và phần đóng góp của nhân dân.
Nhà nước cần có các giải pháp hỗ trợ kinh tế trang trại phát triển thông qua việc chuyển đổi, tích tụ ruộng đất, cơ chế tín dụng ưu đãi, thế chấp quyền sử dụng đất và hỗ trợ đầu tư. Đầu tư của Nhà nước ưu tiên cho xây dựng chợ nông thôn, hạ tầng giao thông, đầu tư cho khoa học, kỹ thuật chuyển giao công nghệ sau thu hoạch. Mô hình trang trại ở Bắc Ninh cần chuyển hướng đi khác, không tốn nhiều diện tích đất, đó là mô hình trang trại vườn - ao - chuồng tổng hợp.
Phát triển công nghiệp và dịch vụ nông thôn, thực hiện hỗ trợ đầu tư thúc đẩy làng nghề phát triển bền vững: hiện đại hoá công nghệ, hỗ trợ các hỗ sản xuất đầu tư vào các cụm công nghiệp làng nghề, kết hợp phát triển làng nghề mỹ nghệ với loại hình du lịch văn hoá.
2.2 - Giải pháp về đầu tư phát triển khoa học, công nghệ.
Trước hết, tăng cường đầu tư của Nhà nước cho những mô hình ứng dụng tiến bộ kỹ thuật, nhân rộng kết quả nghiên cứu trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp. Đưa giống mới có năng suất, chất lượng cao, hình thành vùng chuyên canh có giá trị và hiệu quả kinh tế cao.Các lĩnh vực ưu tiên ứng dụng kỹ thuật công nghệ vào sản xuất nông nghiệp ở tỉnh Bắc Ninh là: sản xuất giống lúa lai, giống lúa thuần chủng, nhân rộng việc chăn nuôi gia cầm, thuỷ sản, lợn hướng nạc; ứng dụng các kỹ thuật canh tác mới; từng bước có khí hoá trong sản xuất; ứng dụng công nghệ sinh học trong bảo quản, chế biến; sản xuất thực phẩm sạch để cung cung cho thị trường Hà Nội.
Đối với lĩnh vực công nghiệp, khuyến khích các doanh nghiệp đổi mới công nghệ thông qua hỗ trợ từ khoản thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế giá trị gia tăng để doanh nghiệp có vốn nâng cao chất lượng sản phẩm. Nhà nước hỗ trợ doanh nghiệp tiêu thụ sản phẩm mới; nhanh chóng hiện đại hoá công nghệ sản xuất ở làng nghề và khu vực công nghiệp vừa và nhỏ ở nông thôn.
Nhà nước hỗ trợ đổi mới công nghệ đối với các làng nghề để tăng sức cạnh tranh, giảm ô nhiễm môi trường như: sắt thép Đa Hội, giấy Phong Khê. Làng nghề gỗ mỹ nghệ cần chuyển sang sử dụng công nghệ hiện đại với nguyên liệu là gỗ thường thay vì công nghệ thấp để chế biến gỗ quý. Làng nghề đúc đồng Đại Bái sẽ không thể tồn tại với những sản phẩm mỹ nghệ đơn điệu mà có thể chuyển sang gia công các linh kiện, áp dụng các mô hình đúc áp lực. Kiểm tra sử dụng nhãn mác sản phẩm ở khu vực làng nghề, hỗ trợ xây dựng hệ thống tiêu chuẩn chất lượng ISO 14000.
Thu hút đầu tư nước ngoài và các doanh nghiệp từ ngoài tỉnh vào các lĩnh vực sản xuất có hàm lượng “chất xám” cao.
2.3 - Giải pháp đầu tư phát triển con người.
Hoạt động giáo dục đào tạo tỉnh Bắc Ninh cần đổi mới, thực sự hướng vào mục tiêu “ nâng cao dân trí, bồi dưỡng nhân lực, đào tạo nhân tài”. Đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng, kỹ năng và kỷ luật lao động đáp ứng cho phát triển công nghiệp, dịch vụ trên địa bàn.
Tăng cường công tác chăm sóc sức khoẻ cộng đồng, thực hiện tốt chiến lược phát triển dân số, tăng cường đầu tư công trình phúc lợi công cộng. Đầu tư phát triển con người là yếu tố rất quan trọng để thực hiện nhiệm vụ lâu dài phát triển kinh tế tỉnh Bắc Ninh do vậy phải có sự quyết tâm cao của các cấp chính quyền trong thực hiện, quy định cụ thể tỷ lệ kinh phí ngân sách dành cho ngành này trong từng giai đoạn.
2.4 - Giải pháp tạo môi trường lành mạnh an toàn, minh bạch cho hoạt động đầu tư sản xuất, kinh doanh.
Giải pháp này có ý nghĩa quyết định đến thành công của các giải pháp huy động và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn góp phần vào sự tăng trưởng kinh tế với nhịp độ cao trong thời gian dài.
Hoạt động của các cơ quan Nhà nước phải đáp ứng được các yêu cầu: hiệu lực, hiệu quả, minh bạch và sự chịu trách nhiệm. Môi trường đầu tư lành mạnh, an toàn, thuận lợi nhằm vào: hạn chế rào cản đầu tư của doanh nghiệp, giảm bớt các rủi ro trong đầu tư của doanh nghiệp, tạo thuận lợi trong suốt quá trình vận hành các kết qủa đầu tư.
Để tạo môi trường tốt cho hoạt động đầu tư, cần tiến hành mạnh mẽ cải cách hành chính bãi bỏ các giấy phép, điều kiện kinh doanh không cần thiết. Luật doanh nghiệp là một “ cú hích” quan trọng trong cải cách hành chính liên quan đến hoạt động của doanh nghiệp. Từ kinh nghiệm này, cần tiếp tục cải cách hành chính theo hướng đơn giản hoá, thực hiện đưa các quy định và chính sách về mức đơn giản hoá, dễ hiểu.
Tiến hành quy hoạch (được sự chấp nhận của dân cư đang sử dụng đất) về mặt bằng cho những ngành nghề công nghiệp và công bố công khai cho công chúng.
Tạo môi trường đầu tư lành mạnh, an toàn cũng có nghĩa là một môi trường có tính cạnh tranh với sự phát triển của thị trường. Bắc Ninh, hiện nhiều thị trường còn sơ khai, cần thúc đẩy phát triển như: thị trường vốn, lao động, tư vấn, xúc tiến thương mại. . .
2.5 - Giải pháp nâng cao hiệu quả đầu tư phát triển.
Cùng với thực hiện các giải pháp về huy động vốn, nâng cao hiệu quả đầu tư có ý nghĩa quan trọng đối với phát triển kinh tế ở tỉnh Bắc Ninh hiện nay. Hiệu quả đầu tư cao là tín hiệu để thu hút, huy động các nguồn vốn đầu tư, ngược lại việc đẩy mạnh đầu tư luôn luôn phải đi đôi với nâng cao hiệu quả đầu tư thì hoạt động đẩy mạnh đầu tư đó mới có ý nghĩa, không tạo ra gánh nặng cho tương lai. Thêm vào đó, các giải pháp về chuyển dịch cơ cấu đầu tư theo hướng CNH-HĐH và đáp ứng yêu cầu của tiến trình hội nhập, tăng cường đầu tư cho khoa học công nghệ và nguồn nhân lực cũng nhằm vào nâng cao hiệu quả đầu tư xã hội, kể cả trong ngắn hạn và dài hạn. Do vậy giải pháp về nâng cao hiệu quả đầu tư phát triển là giải pháp tổng hợp, xuyên suốt cho mọi hoạt động đầu tư phát triển, vừa là hệ quả, vừa là mục đích của việc thực hiện các giải pháp khác, coi đây là tiêu chuẩn để lựa chọn định hướng và giải pháp cho phát triển kinh tế.
Để nâng cao hiệu quả đầu tư phát triển trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh cần bắt đầu:
2.5.1 - Nâng cao hiệu quả đầu tư của doanh nghiệp.
Nâng cao hiệu quả đầu tư của doanh nghiệp quyết định lớn đến toàn bộ quá trình sản xuất, kinh doanh trong toàn bộ chu kỳ của dự án. Để nâng cao hiệu quả đầu tư cần tác động đến nhiều yếu tố, nhiều khâu của quá trình đầu tư, từ việc nắm bắt cơ hội đầu tư cho đến triển khai kịp thời và đưa vào vận hành tốt kết quả đầu tư. Vì vậy phải thực hiện đúng phương pháp về lập, thẩm định, quản lý dự án đầu tư. Các cơ quan có liên quan của tỉnh sớm thay đổi phương pháp lập, thẩm định, phê duyệt dự án đầu tư trên cơ sở tính toán đầy đủ các chỉ tiêu hiệu quả kinh tế - xã hội của dự án, tránh tình trạng như thời gian qua trong dự án đầu tư của doanh nghiệp Nhà nước do tỉnh quản lý chỉ tính toán chỉ tiêu hoàn vốn.
Sau đây là các giải pháp đổi mới cơ chế, chính sách và biện pháp từ phía Nhà nước để nâng cao hiệu quả đầu tư của doanh nghiệp.
- Đối với doanh nghiệp Nhà nước: Phải giải quyết được vấn đề mang tính cơ chế: ai là người chịu trách nhiệm cuối cùng về hiệu quả đầu tư của doanh nghiệp; cần có những quy định cá thể hoá trách nhiệm vật chất trong việc đề xuất dự án, thẩm định và phê duyệt dự án, quyết định đầu tư, quyết định cho vay vốn đầu tư; gắn trách nhiệm của ngườI tổ chức thực hiện dự án đầu tư với trách nhiệm trong vận hành kết quả đầu tư. Đồng thời cũng cần có có chế thoả đáng cho người thực hiện dự án đầu tư thành công, đem lại hiệu quả cao.
- Đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh: Để nâng cao hiệu quả đầu tư, Nhà nước cần thông tin đầy đủ và quy hoạch chính sách, quản lý, cơ hội đầu tư; thực hiện cơ chế một đầu mối trong xử lý các công việc liên quan đến đầu tư. Cho phép doanh nghiệp được quyền đăng ký với UBND tỉnh về tiến độ thực hiện để sớm đưa dự án vào sản xuất, từ đó UBND tỉnh chỉ đạo các cơ quan chức năng thực hiện. Trong thực hiện dự án đầu tư của khu vực tư nhân, bản thân doanh nghiệp luôn chú ý đến nâng cao hiệu quả đầu tư. Vấn đề Nhà nước cần có những biện pháp tác động đúng hướng với mục đích này của doanh nghiệp, tạo điều kiện thuận lợi cho thành lập và tăng cường vai trò của hiệp hội doanh nghiệp để giúp đỡ các doanh nghiệp thành viên thực hiện dự án đầu tư, từ lựa chọn cơ hội cho đến khi có kết quả cuối cùng.
- Cùng với các biện pháp nâng cao hiệu quả tài chính trong đầu tư của doanh nghiệp. Tỉnh Bắc Ninh cần hướng đầu tư của các doanh nghiệp vào các lĩnh vực, mục tiêu để nâng cao hiệu quả kinh tế - xã hội cho địa phương, đó là:
+ Đầu tư vào lĩnh vực chế biến nông sản và ngành nghề nhằm chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn và nâng cao thu nhập cho nhân dân, đầu tư vào các khu vực khó khăn trên địa bàn.
+ Giải quyết nhiều việc làm cho người lao động tại địa phương.
+ Đóng góp nhiều cho ngân sách để thực hiện mục tiêu cân đối thu chi ngân sách và cho đầu tư phát triển.
2.5.2 - Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn ngân sách Nhà nước.
Trước hết phải nhằm vào mục tiêu ngăn chặn sự thất thoát, lãng phí trong sử dụng vốn. Lựa chọn các dự án quan trọng để đầu tư tập trung, tránh đầu tư dàn trải, kéo dài thời gian hoàn thành công trình. Việc bố trí kế hoạch tập trung là công việc rất khó khăn, cần có sự chỉ đạo kiên quyết để tiến tớI chấm dứt tình trạng nợ đọng trong xây dựng cơ bản tràn nan, kéo dài. Khi chưa bố trí kế hoạch vốn đầu tư, các cơ quan Nhà nước huy động vốn ứng của nhà thầu thi công nên có công trình đã đưa vào sử dụng, qua giai đoạn sửa chữa lớn mà vẫn chưa có tiền trả làm cho các nhà thầu khó khăn và nảy sinh tình trạng chiếm dụng vốn, nợ ngân hàng, nợ thuế. . .gây ra phản ứng dây chuyền không có lợi cho nền kinh tế.
Để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn ngân sách Nhà nước, cũng cần quan tâm đến một tiêu chuẩn mà tỉnh Bắc Ninh trước đây ít chú ý, đó là việc tác dụng lôi kéo của vốn ngân sách đối với việc huy động thêm những đồng vốn của xã hội cho mục tiêu phát triển.
Bên cạnh đó, huy động và sử dụng vốn đóng góp của nhân dân phải được quản lý chặt chẽ, đảm bảo dân chủ. Việc huy động vốn đầu tư của nhân dân để xây dựng cơ sở hạ tầng ở nông thôn đang là vấn đề nhạy cảm, ảnh hưởng đến toàn bộ các hoạt động kinh tế, chính trị, xã hội. Sự phát triển kinh tế - xã hội ở nông thôn thời gian qua đã cho thấy chính quyền xã chủ yếu quan tâm đến phát triển văn hoá, xã hội, đảm bảo an ninh trật tự, các lĩnh vực kinh tế ít được quan tâm. Hoạt động đầu tư cơ sở hạ tầng nông thôn đã để lại nhiều vấn đề nhức nhối: huy động quá khả năng đóng góp của nhân dân, quản lý tài chính có nhiều vi phạm, chất lượng công trình kém, tham nhũng, thất thoát, tiêu cực nảy sinh tình trạng nợ chồng chất. . .Từ những vi phạm trong huy động và sử dụng vốn đầu tư cơ sở hạ tầng đã phát sinh bất ổn trong đời sống kinh tế, xã hội nông thôn, gây tình trạng khiếu kiện kéo dài, hạn chế đến sự tăng trưởng và phát triển. Do đó cần có giải pháp toàn diện cho đầu tư phát triển kinh tế nông thôn (nói chung) và hạ tầng nông thôn (nói riêng). Các xã cần có quy hoạch tổng thể xây dựng các công trình hạ tầng và phúc lợi xã hội, lấy ý kiến rộng rãi của nhân dân; Phân loại các công trình theo các tiêu chí: sự thiết thực đối với người dân, quy mô vốn, phạm vi, tính chất sử dụng của từng công trình. Hình thành hệ thống định mức đầu tư đối với các công trình xã để làm căn cứ cho lập dự toán và nhân dân kiểm tra giám sát. Lập thiết kế mẫu đối với công trình hạ tầng xã để tạo thuận lợi và tiết kiệm chi phí. Mở rộng dân chủ trong việc quyết định và giám sát đầu tư. Khuyến khích nhân dân tham gia sản xuất như: khuyến nông, tập huấn kỹ thuật, đào tạo nghề nhằm khai thác vốn và kinh nghiệm để đầu tư sản xuất, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn.
2.5.3 - Nâng cao năng lực quản lý đầu tư và hoàn thiện chính sách đầu tư trên địa bản tỉnh.
Nâng cao năng lực quản lý đầu tư phải nhằm vào quản lý tốt hơn việc lập kế hoạch, sử dụng, cấp phát, quyết toán vốn đầu tư của Nhà nước, đặc biệt trong đấu thầu lựa chọn nhà thầu dự án đầu tư. Tỉnh Bắc Ninh cần đào tạo đội ngũ cán bộ về hoạch định chính sách, chiến lược đầu tư, có kiến thức về thẩm định và quản lý dự án đầu tư.
Để tạo động lực thúc đẩy kinh tế tỉnh Bắc Ninh phát triển, cần hoàn thiện chính sách đầu tư trên địa bàn tỉnh. Chính sách này bao gồm các nộI dung: khuyến khích, ưu đãi, thu hút đầu tư vào các khu công nghiệp tập trung, khu công nghiệp nhỏ và làng nghề, ngoài khu công nghiệp; cơ chế một đầu mối trong việc cho các doanh nghiệp thuê đất; chính sách hỗ trợ phát triển đối với làng nghề, doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Như vậy, trong thời gian tới tỉnh Bắc Ninh sẽ tiếp tục phát huy những kết quả đã đạt được trên các mặt chính trị, kinh tế, xã hội, văn hoá, an ninh... , đặc biệt là những thành quả to lớn mà hoạt động đầu tư phát triển đem lại. Để tiếp tục nâng cao hiệu quả đầu tư phát triển kinh tế - xã hội tại Bắc Ninh, một loạt các giải pháp hữu hiệu đã được đề ra và thực hiện, đồng thời luôn có sự điều chỉnh gắn liền với thực tiễn biến đổi không ngừng của đất nước và khu vực. Xác định đi lên bằng nội lực là chủ yếu song chính quyền và nhân dân tỉnh Bắc Ninh vẫn luôn mong có sự quan tâm giúp đỡ nhiều hơn từ Quốc Hội, Chính Phủ và các Bộ ngành Trung ương về cơ chế, chính sách, về vốn... để tỉnh Bắc Ninh nhanh chóng trở thành một trong những khu vực kinh tế - văn hoá lớn mạnh của vùng và cả nước.
Tóm lại: Quán triệt tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X và Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Bắc Ninh lần thứ XVII cùng hệ thống các quan điểm và mục tiêu đầu tư phát triển kinh tế của tỉnh Bắc Ninh đến năm 2020, các giải pháp đã được đề cập để hoàn thành mục tiêu đó. Để thực hiện các giải pháp, luận văn kiến nghị một số vấn đề chủ yếu sau:
1/ Nhà nước cần tiếp tục hoàn thiện chính sách khuyến khích đầu tư, bao gồm cả trong và ngoài nước. Chính sách khuyến khích đầu tư thể hiện những yêu cầu mới trong quá trình phát triển của đất nước:
- Đảm bảo sự đồng bộ trong hệ thống chính sách kinh tế (nói chung) và chính sách đầu tư (nói riêng).
- Chính sách khuyến khích không chỉ nhằm vào các ngành, vùng khó khăn mà còn thúc đẩy các doanh nghiệp đầu tư vào các ngành trọng điểm, mũi nhọn, công nghệ cao, đón đầu phát triển, đáp ứng chiến lược tăng trưởng nhanh và bền vững.
- Chính sách khuyến khích đầu tư hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ; khuyến khích nâng cao vai trò chủ đạo và hiệu quả trong đầu tư của doanh nghiệp Nhà nước.
- Hoàn thiện hệ thống chính sách huy động vốn và nâng cao hiệu quả đầu tư.
2/ Tăng cường phối hợp trong đầu tư phát triển vùng, từ việc phối hợp xây dựng chiến lược, kế hoạch phát triển và đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng đến sự định hướng đầu tư sản xuất, kinh doanh hướng vào nhu cầu thị trường, trên cơ sở quy hoạch phát triển vùng. Để thực hiện điều này, vai trò chỉ đạo điều hành của Chính phủ và của các Bộ ngành là rất quan trọng.
3/ Tăng cường phân cấp trong quản lý đầu tư cho các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương trên cơ sở khuôn khổ pháp lý nhằm phát huy nỗ lực sáng tạo của chính quyền địa phương, phù hợp với tình hình thực tế và đáp ứng nguyện vọng của nhân dân.
4/ Hoàn thiện hệ thống pháp luật về quản lý đầu tư, khắc phục tình trạng thất thoát vốn đầu tư của Nhà nước, tăng cường năng lực quản lý và nâng cao hiệu quả đầu tư.
KẾT LUẬN
Giai đoạn 1997 - 2007 là thời kỳ quan trọng, đánh dấu bước chuyển tiếp từ thế kỷ XX sang thế kỷ XXI. Trong giai đoạn phát triển này, đặc biệt tỉnh Bắc Ninh đã đạt được nhiều thành tựu trên tất cả các ngành, lĩnh vực. Các nguồn lực cho phát triển của tỉnh, nhất là các nguồn nội lực đã được phát huy và khai thác có hiệu quả, tiếp tục khắc phục những yếu kém trong nền kinh tế xã hội, đẩy nhanh sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá.
Tỉnh Bắc Ninh đã tranh thủ mọi nguồn vốn đầu tư phát triển để tập trung cho các ngành, lĩnh vực có tiềm năng, lợi thế, có thị trường tiêu thụ đồng thời nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh trong sản xuất kinh doanh, tạo sự chuyển biến cơ cấu kinh tế theo hướng tăng dần tý trọng các ngành công nghiệp, xây dựng và dịch vụ. Nền kinh tế tỉnh Bắc Ninh đã từng bước chủ động hội nhập với vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ mà cả nước. Các vấn đề xã hội bức xúc trên địa bàn tỉnh đã được quan tâm phát triển và đầu tư thoả đáng: xoá đói giảm nghèo, giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập và đời sống nhân dân, thực hiện công bằng và tiến bộ xã hội, tăng cường và củng cố quốc phòng an ninh, giữ vững ổn định chính trị và trật tự an toàn xã hội. Sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh luôn giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa mà Đảng và Bác Hồ đã lựa chọn.
Những kết quả đạt được đã khẳng định đường lối phát triển kinh tế - xã hội đúng đắn của tỉnh Bắc Ninh. Bên cạnh đó trong quá trình phát triển vẫn còn tồn tại những khó khăn, vướng mắc đòi hỏi chính quyền và nhân dân Bắc Ninh phải nỗ lực giải quyết đồng bộ và kịp thời để đạt được các mục tiêu đã đề ra cho giai đoạn phát triển kinh tế - xã hội 2001- 2005 và các mục tiêu cơ bản đến năm 2010. Trong đó, huy động, sử dụng và quản lý nguồn vốn đầu tư có hiệu quả là một trong những vấn đề cần được quan tâm hàng đầu.
Với mục đích, đối tượng và phạm vi nghiên cứu, luận văn đã tập trung giải quyết các vấn đề chủ yếu sau:
1/ Nghiên cứu có hệ thống các vấn đề lý luận về đầu tư phát triển, xác định rõ vai trò của đầu tư phát triển đối với sự tăng trưởng và phát triển kinh tế, nội dung, các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động đầu tư để vận dụng vào điều kiện cụ thể của tỉnh Bắc Ninh.
2/ Luận văn đã phân tích thực trạng đầu tư phát triển kinh tế tỉnh Bắc Ninh giai đoạn 1997-2007, đánh giá những ưu, nhược điểm, làm rõ những cơ sở khoa học và thực tiễn để từ đó đề xuất những giải pháp cho đầu tư phát triển kinh tế tỉnh Bắc Ninh đến năm 2020 theo hướng CNH-HĐH, đáp ứng yêu cầu của hội nhập quốc tế.
3/ Luận án đã đề xuất hệ thống các quan điểm đầu tư phát triển kinh tế tỉnh Bắc Ninh, đề ra mục tiêu phát triển và hệ thống giải pháp cụ thể nhằm đạt được mục tiêu phát triển kinh tế tỉnh Bắc Ninh đến năm 2020. Trên cơ sở hệ thống các giải pháp, luận văn kiến nghị những vấn đề chủ yếu nhằm thực hiện có hiệu quả các giải pháp đã nêu, góp phần thực hiện hoàn thành mục tiêu phát triển kinh tế tỉnh Bắc Ninh đến năm 2020.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình "Kinh tế đầu tư" - Trường ĐH Kinh tế Quốc Dân - NXB Thống kê 2003.
2. Giáo trình "Lập và phân tích dự án đầu rút - Trường ĐH Kinh tế Quốc Dân - NXB Thống kê 2000.
3. Giáo trình "Kinh tế phát triển" - Trường ĐH Kinh tế Quốc Dân - NXB Lao động - xã hội 2005.
4. Niên giám thống kê 1998, 1999, 2000, 2001, 2002.
5. Niên giám thống kê tỉnh Bắc Ninh 2002, 2003.
6. Tổng quan quy hoạch phát triển kinh tế xã hội Việt Nam.
7. Kế hoạch hàng năm 2000, 2001, 2002, 2003 của tỉnh Bắc Ninh.
8. Báo Bắc Ninh các số năm 2002, 2003.
9. Tạp chí Kinh tế và Dự báo: số 7/2000; số 10/2000; số 1 l/2000; số 4/2001 ; số 5/2002 .
10. Tạp chí Kinh tế và Phát triển : số 44/2001 ; số 45/2001; số 60/2001.
11. Ngân hàng Thế giới (1999), Bước vào thế kỷ 21, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
12.Ban quản lý các khu công nghiệp tỉnh Bắc Ninh(2001), tổng hợp các chính sách ưu đãi, khuyến khích đầu tư các tỉnh đã ban hành, Bắc Ninh.
13. Báo cáo Đại hội Đảng bộ tỉnh Bắc Ninh lần thứ XVII năm 2006.
14. Bình Sơn, Tình hình kinh tế Trung Quốc, tạp chí tài chính doanh nghiệp số 11/2001.
15. Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện ĐạI hộI Đảng toàn quốc
16. Trần Xuân Tùng, Đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam thực trạng và giải pháp, NXB Chính trị quốc gia năm 2005.
17. Niên giám Thống kê Bắc Ninh 1997-2007, NXB Thống kê 2008.
18. Niên giám Thống kê Bắc Ninh 2001, NXB Thống kê 2002.
19. Niên giám Thống kê Bắc Ninh 2002, NXB Thống kê 2003.
20. Niên giám Thống kê Bắc Ninh 2003, NXB Thống kê 2004.
21. Niên giám Thống kê Bắc Ninh 2004, NXB Thống kê 2005.
22. Niên giám Thống kê Bắc Ninh 2005, NXB Thống kê 2006.
23. Niên giám Thống kê Bắc Ninh 2006, NXB Thống kê 2007.
24. Niên giám Thống kê Bắc Ninh 2007, NXB Thống kê 2008.
25. Niên giám Tài chính - Ngân sách tỉnh Bắc Ninh 2001-2005, Bắc Ninh 2006.
26. Báo cáo Quyết toán ngân sách tỉnh Bắc Ninh các năm 2001,2002,2003,2004,2005,2006,2007.
27. Võ Đại Lược, Kinh tế Việt Nam đổi mới và phát triển, NXB Thế giới, Hà Nội 2007.
28. GS.TSKH Nguyễn Quang Thái, PGS.TS Ngô Thắng Lợi, Phát triển bền vững ở Việt Nam: Thành tựu, cơ hội, thách thức và triển vọng, NXB Lao động - xã hội, Hà Nội 2007.
29. Báo cáo số nợ đọng Thuế ở khu vực làng nghề đến năm 2007, Cục Thuế Bắc Ninh.
30. Một số tài liệu khác
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- ThS-26.doc