TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
BỘ MÔN KINH TẾ ĐẦU TƯ
CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
Đề tài: Đầu tư phát triển các khu công nghiệp vùng Đông Nam Bộ giai đoạn 2002 – 2007
Thực trạng và giải pháp
Họ và tên sinh viên: Thái Thu Hường
Giáo viên hướng dẫn: TS. Từ Quang Phương
HÀ NỘI, NĂM 2008
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
BỘ MÔN KINH TẾ ĐẦU TƯ
CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
Đề tài: Đầu tư phát triển các khu công nghiệp vùng Đông Nam Bộ giai đoạn 2002 – 2007
Thực trạng và giải pháp
Họ và tên sinh viên:
97 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1588 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Đầu tư phát triển các khu công nghiệp vùng Đông Nam Bộ giai đoạn 2002 – 2007_ thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Thái Thu Hường
Chuyên ngành: Kinh tế Đầu tư
Lớp: Đầu tư 46A
Khóa: 46
Hệ: Chính quy
Giảng viên hướng dẫn: TS. Từ Quang Phương
HÀ NỘI, NĂM 2008
MỤC LỤC
Trang
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
1
DANH MỤC BẢNG, BIỂU, ĐỒ THỊ
2
LỜI CAM ĐOAN
4
MỞ ĐẦU
5
CHUƠNG I : HIỆN TRẠNG ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN CÁC KHU CÔNG NGHIỆP VÙNG ĐÔNG NAM BỘ GIAI ĐOẠN 2002 - 2007
7
I
ĐẶC ĐIỂM TỰ NHIÊN, KINH TẾ - XÃ HỘI CHỦ YẾU ẢNH HƯỞNG ĐẾN ĐẦU TƯ KHU CÔNG NGHIỆP VÙNG ĐÔNG NAM BỘ
7
Điều kiện tự nhiên
7
Vị trí địa lý
7
Điều kiện khí hậu, thủy văn
8
Khí hậu
8
Địa hình
9
Thủy văn
9
Tài nguyên
9
Tài nguyên đất yếu tố quan trọng cho phát triển công nghiệp và KCN
10
Tài nguyên khoáng sản là nguyên liệu đầu vào cho phát triển công nghiệp
11
Tài nguyên nước
12
Tài nguyên rừng
13
Các điều kiện, yếu tố nguồn lực kinh tế - xã hội cho phát triển công nghiệp và KCN vùng Đông Nam Bộ
13
Nguồn nhân lực cho phát triển công nghiệp và KCN
13
Dân số
13
Lao động
14
Hệ thống kết cấu hạ tầng
15
Hệ thống giao thông
15
Hệ thống điện
17
Hệ thống cấp thoát nước đã và đang được đầu tư đảm bảo công suất đáp ứng nhu cầu phát triển KT-XH nói chung và phát triển khu công nghiệp nói riêng
17
Hạ tầng thông tin liên lạc
18
Khả năng cung cấp nguyên liệu đầu vào tại các địa phương trong vùng cho phát triển công nghiệp và khu công nghiệp
18
Ảnh hưởng của bối cảnh kinh tế thế giới đối với sự phát triển công nghiệp, KCN vùng Đông Nam Bộ
19
Cơ hội đối với phát triển KCN vùng Đông Nam Bộ
19
Những thách thức
20
Đánh giá chung
20
Những lợi thế cho phát triển các KCN
20
Những hạn chế cho phát triển các KCN
21
II
HIỆN TRẠNG ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN CÁC KHU CÔNG NGHIỆP VÙNG ĐÔNG NAM BỘ GIAI ĐOẠN 2002 - 2007
22
Khái quát tình hình phát triển KCN vùng Đông Nam Bộ
22
Số lượng các KCN
22
Quy mô KCN
26
Thực trạng đầu tư phát triển các KCN vùng Đông Nam Bộ
27
Quy mô và tốc độ tăng vốn đầu tư
27
Quy mô vốn đầu tư
27
Tốc độ tăng vốn đầu tư
28
Cơ cấu đầu tư
32
Cơ cấu vốn đầu tư theo nội dung đầu tư
32
Cơ cấu đầu tư theo nguồn vốn đầu tư
35
Cơ cấu đầu tư theo địa phương
38
Đầu tư phát triển KCN TP. Hồ Chí Minh
39
Đầu tư phát triển KCN trên địa bàn tỉnh Đồng Nai và tỉnh Bình Dương
40
Đầu tư phát triển KCN tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu
42
Đầu tư phát triển KCN trên địa bàn các tỉnh Bình Phước và Tây Ninh
42
Cơ cấu vốn đầu tư sản xuất trong KCN theo ngành, lĩnh vực
44
III
ĐÁNH GIÁ CHUNG
46
Thành quả đạt được
46
Hiệu quả kinh tế
46
Tăng trưởng kinh tế
46
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế
48
Hiệu quả về mặt xã hội
51
Tạo thêm nhiều việc làm cho người lao động
51
Tạo môi trường chuyển giao công nghệ một cách nhanh chóng, góp phần hình thành các ngành nghề mới
53
Xử lý chất thải và bảo vệ môi trường
54
Những tồn tại và hạn chế
55
Khả năng thu hút đầu tư của một số KCN còn thấp, dẫn đến không phát huy được hiệu quả vốn đầu tư xây dựng KCN
55
Đầu tư phát triển các KCN chưa tính hết các điều kiện về cơ sở hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội ngoài hàng rào KCN, đảm bảo hoạt động của các KCN
57
Tình trạng phát triển thiếu bền vững của các KCN vùng Đông Nam Bộ
59
Phát triển KCN không theo quy hoạch
59
Do mong muốn có được sự phát triển nhanh các KCN tập trung nên chưa tính đến mục tiêu phát triển dài hạn về cơ cấu ngành nghề, cơ cấu công nghệ
59
Vấn đề môi trường sinh thái trong và ngoài KCN tiềm ẩn nhiều tổn hại, đặc biệt là môi trường nước và chất thải rắn
61
Các chính sách, biện pháp tổ chức quản lý phát triển các KCN trong thời gian qua còn bất cập
62
CHƯƠNG II: MỘT SỐ BIỆN PHÁP NÂNG CAO KHẢ NĂNG THU HÚT VỐN ĐẦU TU VÀO CÁC KHU CÔNG NGHIỆP VÙNG ĐÔNG NAM BỘ
64
I
ĐỊNH HƯỚNG ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN KHU CÔNG NGHIỆP VÙNG ĐÔNG NAM BỘ TỪ NAY ĐẾN NĂM 2020
64
Mục tiêu và phương hướng phát triển kinh tế - xã hội của vùng Đông Nam Bộ
64
Mục tiêu và phương hướng phát triển Công nghiệp vùng Đông Nam Bộ
66
3. Mục tiêu phát triển các khu công nghiệp vùng Đông Nam Bộ
69
Quan điểm và phương hướng phát triển KCN vùng Đông Nam Bộ đến năm 2010, tầm nhìn 2020
69
Mục tiêu phát triển KCN vùng Đông Nam Bộ đến năm 2010, tầm nhìn 2020
70
Tổng hợp nhu cầu vốn đầu tư phát triển KCN vùng Đông Nam Bộ
71
II
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO KHẢ NĂNG THU HÚT VỐN ĐẦU TƯ Ở CÁC KHU CÔNG NGHIỆP VÙNG ĐÔNG NAM BỘ
72
Nhóm giải pháp nâng cao hiệu quả đầu tư ở các KCN vùng Đông Nam Bộ
72
Xây dựng và triển khai chính sách phát triển hạ tầng kỹ thuật đối với khu vực xây dựng KCN, đảm bảo sự đồng bộ giữa hạ tầng trong và ngoài hàng rào KCN
72
Đối với hạ tầng kỹ thuật trong hàng rào KCN
72
Đối với hạ tầng kỹ thuật ngoài hàng rào KCN
75
Phát triển đồng bộ các thể loại tập trung công nghiệp
76
Hình thành hệ thống liên kết hỗ trợ phát triển KCN
77
Đầu tư phát triển đồng bộ dịch vụ phục vụ KCN
77
Đầu tư phát triển các ngành công nghiệp phụ trợ
77
2. Nhóm giải pháp phát triển bền vững KCN vùng Đông Nam Bộ
79
Xây dựng quy hoạch phát triển KCN vùng
80
Xây dựng chiến lược phát triển nguồn nhân lực
81
Đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu trong nội bộ KCN theo hướng hiệu quả và phù hợp với sự phát triển khoa học công nghệ
83
Kết hợp hài hòa giữa các yếu tố cơ sở hạ tầng kinh tế, xã hội và môi trường
84
Nhóm giải pháp hoàn thiện tổ chức quản lý KCN
86
Xác định rõ vai trò, nhiệm vụ và thẩm quyền trách nhiệm của Ban quản lý các KCN
86
Kiện toàn lại các phòng chuyên môn nghiệp vụ
87
Phân tách và kiện toàn các tổ chức hoạt động hỗ trợ dịch vụ công
87
KẾT LUẬN
88
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
89
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
KCN: Khu công nghiệp
KCX: Khu chế xuất
DT: diện tích
CN: công nghiệp
Giá trị XK: giá trị xuất khẩu
GDP: tổng sản phẩm quốc nội
GO: giá trị sản xuất
HIv(GO): mức tăng của giá trị sản xuất so với toàn bộ vốn đầu tư phát huy tác dụng trong kỳ nghiên cứu
ICOR: suất đầu tư cần thiết để làm tăng thêm 1 đơn vị tổng sản phẩm quốc nội hoặc 1 đơn vị giá trị tăng thêm.
ĐNB: Đông Nam Bộ
TP.Hồ Chí Minh: Thành phố Hồ Chí Minh
Vốn đầu tư CSHT: Vốn đầu tư cơ sở hạ tầng
Vốn đầu tư SX: Vốn đầu tư sản xuất
EU: Cộng đồng Châu Âu
FDI: Đầu tư trực tiếp nước ngoài
WTO: Tổ chức thương mại thế giới
DANH MỤC BẢNG, BIỂU, ĐỒ THỊ
Trang
Biểu 1
Hiện trạng sử dụng đất của vùng Đông Nam Bộ
10
Biểu 2
Số lượng lao động có việc làm ở vùng Đông Nam Bộ phân theo ngành kinh tế năm 2007
15
Biểu 3
Một số chỉ tiêu phát triển KCN vùng Đông Nam Bộ so với cả nước đến năm 2007
23
Biểu 4
Một số chỉ tiêu của các KCN phân theo địa phương đến năm 2007
25
Biểu 5
Vốn đầu tư vào các KCN vùng Đông Nam Bộ
27
Biểu 6
Vốn Đầu tư sản xuất/chỗ làm việc của các KCN vùng Đông Nam Bộ so với các KCN cả nước
31
Biểu 7
Cơ cấu vốn đầu tư thực hiện theo nội dung đầu tư vào các KCN vùng Đông Nam Bộ thời kỳ 2002-2007
35
Biểu 8
Cơ cấu vốn đầu tư phát triển KCN vùng Đông Nam Bộ theo nguồn vốn đầu tư giai đoạn 2002 – 2007
36
Biểu 9
Cơ cấu vốn đầu tư KCN vùng Đông Nam Bộ theo địa phương giai đoạn 2002 – 2007 (vốn thực hiện)
38
Biểu 10
Cơ cấu vốn đầu tư sản xuất kinh doanh trong KCN vùng Đông Nam Bộ theo ngành giai đoạn 2002 – 2007 ( vốn thực hiện)
44
Biểu 11
Một số chỉ tiêu đánh giá kết quả và hiệu quả đầu tư phát triển KCN vùng Đông Nam Bộ
46
Biểu 12
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế vùng Đông Nam Bộ theo GDP (giá HH) giai đoạn 2002 – 2007
48
Biểu 13
Lao động KCN vùng Đông Nam Bộ theo địa phương giai đoạn 2002 – 2007
52
Biểu 14
Các chỉ tiêu chủ yếu so với cả nước
64
Biểu 15
Dự báo giá trị và tốc độ tăng trưởng GDP (giá 1994)
65
Biểu 16
Dự báo tốc độ tăng trưởng giá trị SXCN Vùng theo nhóm công nghiệp từng giai đoạn 5 năm
66
Biểu 17
Dự báo cơ cấu sản xuất công nghiệp theo nhóm ngành
67
Biểu 18
Dự báo tốc độ tăng trưởng giá trị SXCN toàn vùng phân theo địa phương đến năm 2020
68
Biểu 19
Số lượng và diện tích KCN tăng thêm của vùng Đông Nam Bộ đến năm 2020
70
Biểu 20
Dự báo nhu cầu vốn đầu tư phát triển hạ tầng KCN theo địa phương giai đoạn 2006 – 2020
71
Đồ thị 1
Tốc độ tăng vốn đầu tư phát triển KCN vùng Đông Nam Bộ so với cả nước (theo phương pháp tốc độ tăng định gốc)
29
Đồ thị 2
Tốc độ tăng vốn đầu tư KCN vùng Đông Nam Bộ theo thành phần nguồn vốn (theo phương pháp tốc độ tăng định gốc)
30
LỜI CAM ĐOAN
Em xin cam đoan chuyên đề này là công trình do em nghiên cứu, phát triển và hoàn thiện trong thời gian thực tập tại Viện Chiến lược Phát triển, Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Số liệu và tài liệu trong chuyên đề này đều có tính xác thực và chủ yếu được lấy từ các nguồn: Vụ Quản lý khu công nghiệp và khu chế xuất, Bộ Kế hoạch và Đầu tư và báo cáo của các Ban quản lý khu công nghiệp ở các địa phương thuộc vùng Đông Nam Bộ.
Em xin chịu hoàn toàn trách nhiệm về tính chính xác của số liệu đưa ra trong chuyên đề cũng như đảm bảo rằng chuyên đề không sao chép lại từ bất kỳ chuyên đề nào khác.
MỞ ĐẦU
Vốn là một yếu tố cơ bản của quá trình công nghiệp hóa. Theo tính toán của các chuyên gia kinh tế: để đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa từng bước phát triển và hội nhập kinh tế quốc tế, đòi hỏi phải có một lượng đầu tư rất lớn.
Tuy nhiên, vốn đầu tư phát triển luôn là một bài toán khó đối với Việt Nam trên bước đường phát triển. Giống như nhiều nước đang phát triển khác, Việt Nam thường gặp khó khăn trong phát triển kinh tế do năng suất lao động thấp, thu nhập người dân còn thấp nên khả năng tích lũy và đầu tư mới trong nội bộ nền kinh tế còn nhiều hạn chế.
Để phá vỡ vòng luẩn quẩn đó, theo kinh nghiệm của nhiều nước, phát triển các khu công nghiệp, khu chế xuất (KCN, KCX) được coi là nhân tố cơ bản trong việc khai thác tốt tiềm năng nội sinh, thu hút và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực từ bên ngoài. Đây là con đường ngắn nhất đế tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và cũng là con đường Việt Nam đã chọn.
Sau gần 15 năm phát triển, với những thành tựu nổi bật trong phát triển kinh tế, góp phần quan trọng trong công cuộc đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta, các KCN, KCX đã khẳng định lựa chọn của Đảng ta là đúng đắn. Khi nhìn nhận về thành công của chiến lược phát triển KCN của Việt Nam không thể không nhắc tới những thành tựu rực rỡ của các KCN, KCX vùng Đông Nam Bộ, điểm sáng trong phát triển KCN ở Việt Nam.
Được hình thành ngay từ những năm đầu khi chủ trương phát triển KCN được đề xuất, đến nay các KCN vùng Đông Nam Bộ đã phát triển thành một hệ thống KCN theo hướng lan tỏa phục vụ cho quá trình tăng trưởng kinh tế và tạo đà cho quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tiến bộ của vùng.
Tuy nhiên, thực tiễn hoạt động trong những năm qua của các KCN vùng Đông Nam Bộ cũng đặt ra nhiều vấn đề đối với kinh tế - xã hội của vùng. Đó là vốn đầu tư phát triển KCN tăng không ngừng qua các năm nhưng hiệu quả đầu tư có phần còn hạn chế; càng phát triển mạnh về lượng, càng tiềm ẩn nhiều yếu tố thiếu bền vững; góp phần thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nhưng cũng có phần chậm lại quá trình phát triển, hiện đại hóa nông thôn; góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng đất nhưng vẫn có phần làm lãng phí đất đai... Những nghịch lý trong phát triển KCN của vùng Đông Nam Bộ cũng là những nghịch lý trong phát triển KCN của cả nước. Vì vậy, việc giải quyết các khó khăn còn tồn tại trong phát triển KCN vùng Đông Nam Bộ sẽ là bài học kinh nghiệm quý báu của các địa phương khác trong cả nước.
Xuất phát từ thực tiễn đó, em đã chọn đề tài: “Đầu tư phát triển các khu công nghiệp vùng Đông Nam Bộ giai đoạn 2002 – 2007_ Thực trạng và giải pháp” làm đề tài cho chuyên đề tốt nghiệp của mình.
Trong quá trình nghiên cứu và hoàn thành chuyên đề, em đã nhận được sự giúp đỡ và chỉ dẫn quý báu của Thầy giáo, Tiến sỹ Từ Quang Phương, Chủ nhiệm Bộ môn Kinh tế Đầu tư cũng như của các thầy cô trong Bộ môn Kinh tế Đầu tư, Trường Đại học Kinh tế quốc dân và các chuyên viên nghiên cứu thuộc Viện Chiến lược Phát triển, Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
Nhân dịp này em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới các thầy cô, đặc biệt lòng biết ơn chân thành tới TS. Từ Quang Phương.
Theo Nghị định 92/2006/NĐ-CP ngày 07/09/2006 về lập, phê duyệt quản lý tổng thể phát triển kinh tế xã hội, vùng Đông Nam Bộ bao gồm 6 tỉnh, thành trực thuộc Trung Uơng, đó là: TP. Hồ Chí Minh và các tỉnh Bình Dương, Đồng Nai, Bà Rịa – Vũng Tàu, Bình Phước và Tây Ninh. Do đó, phạm vi nghiên cứu của đề tài chỉ giới hạn trong các KCN của các tỉnh trên.
Chuyên đề tốt nghiệp gồm 2 phần cơ bản:
Phần I: Hiện trạng đầu tư phát triển các khu công nghiệp vùng Đông Nam Bộ giai đoạn 2002 – 2007.
Phần II: Một số biện pháp tăng nâng cao khả năng thu hút vốn đầu tư vào các khu công nghiệp vùng Đông Nam Bộ.
CHƯƠNG I
HIỆN TRẠNG ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN CÁC KHU CÔNG NGHIỆP VÙNG ĐÔNG NAM BỘ GIAI ĐOẠN 2002-2007
ĐẶC ĐIỂM TỰ NHIÊN, KINH TẾ - XÃ HỘI CHỦ YẾU ẢNH HƯỞNG ĐẾN ĐẦU TƯ KHU CÔNG NGHIỆP VÙNG ĐÔNG NAM BỘ
Điều kiện tự nhiên
Vị trí địa lý
Vùng Đông Nam Bộ nằm trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, bao gồm sáu tỉnh, thành phố gồm: tỉnh Bình Phước, Tây Ninh, Bình Dương, Đồng Nai, Bà Rịa – Vũng Tàu và thành phố Hồ Chí Minh (TP. Hồ Chí Minh). Diện tích tự nhiên là 2360,9 km2, chiếm 7,13% diện tích cả nước. Phía Bắc của vùng giáp tỉnh Đắc Lắc, phía Đông giáp biển Đông với bờ biển trải dài, phía Nam giáp Đồng bằng sông Cửu Long, phía Tây giáp Campuchia với đường biên giới dài 479 km với các cửa khẩu biên giới Mộc Bài, Xa Má.
Quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong những năm vừa qua đã tạo cho Vùng Đông Nam Bộ có vị trí kinh tế đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội cả nước và đặc biệt quan trọng khu vực phía Nam, đó là:
- Sáu tỉnh thuộc vùng Đông Nam Bộ đều nằm trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, là vùng có nền kinh tế năng động, có mức tăng trưởng cao nhất cả nước. Đồng thời nằm trong khu vực có các nền kinh tế phát triển năng động của thế giới với các trung tâm lớn như Bangkok, Singapore, Kualalampua...
- Đông Nam Bộ là trung tâm đầu mối của hệ thống giao thông quan trọng của các tỉnh phía Nam và cả nước: nằm trên tuyến đường biển quốc tế quan trọng, có hệ thống các cụm cảng như cụm cảng Sài Gòn, cụm cảng Bà Rịa - Vũng Tàu; Điểm trung chuyển trên tuyến đường hàng không quốc tế từ Bắc xuống Nam và từ Đông sang Tây với sân bay quốc tế Tân Sơn Nhất và sân bay biên Hòa, sân bay Vũng Tàu ; Hệ thống hạ tầng giao thông đối ngoại đã và đang được đầu tư hiện đại, đó là những tuyến đường xuyên Á với Campuchia, QL 1A, QL 51, QL13, QL 14, Đường sắt Bắc Nam và các cơ sở hạ tầng khác trong vùng Đông Nam Bộ. Vị trí địa lý này đã tạo thuận lợi cho các tỉnh trong vùng có thể gắn kết với các tỉnh Tây Nguyên. các tỉnh Duyên Hải Miền Trung, các tỉnh Đồng Bằng sông Cửu Long… trong việc mở rộng quan hệ kinh tế trong việc cung cấp nguyên liệu đầu vào cho công nghiệp chế tác và tiêu thụ sản phẩm công nghiệp của vùng và là đầu mối quan trọng của các hoạt động thương mại quốc tế, đặc biệt với các nước trong vùng Đông Nam Á.
- Vùng Đông Nam Bộ có các trung tâm lớn nhất cả nước về kinh tế, công nghiệp, thương mại, dịch vụ, khoa học, kỹ thuật, khoa học kỹ thuật, nhiều cơ sở đào tạo, nghiên cứu khoa học công nghệ, …Đó là những điều kiện thuận lợi để các tỉnh trong vùng phát triển công nghiệp.
- Là vùng công nghiệp trọng yếu lớn nhất của cả nước. Đã và đang hình thành hệ thống các KCN tập trung với các ngành công nghiệp mũi nhọn như công nghiệp khai thác và chế biến dầu khí, công nghiệp luyện cán thép, công nghiệp năng lượng điện, công nghệ tin học, hóa cơ bản, phân bón và vật liệu xây dựng… Đây là nền tảng công nghiệp hóa và là động lực thúc đẩy tiến trình công nghiệp hóa các tỉnh phía Nam và cả nước.
Với những lợi thế về vị trí địa lý như vậy, vùng Đông Nam Bộ có tiềm năng phát triển thành vùng kinh tế động lực của cả nước.
Điều kiện khí hậu, thủy văn
Khí hậu
Khí hậu của vùng Đông Nam Bộ thuộc khí hậu vùng cận xích đạo đặc trưng gồm hai mùa rõ rệt trong năm: mùa khô và mùa mưa. Nhiệt độ trung bình hàng năm luôn ở mức cao (xấp xỉ 270C) ít thay đổi trong năm, lượng bức xạ tương đối ổn định trong năm 150 kcal/cm3/năm. Lượng mưa bình quân hàng năm dao động trong khoảng 1.500 - 3.000 mm.
Khí hậu tương đối điều hòa, ít có thiên tai, ít bị ảnh hưởng của bão. Điều kiện khí hậu này rất thuận lợi cho xây dựng các công trình công nghiệp, dân dụng, phát triển du lịch, đồng thời rất thuận lợi cho cây trồng, vật nuôi, đặc biệt thích hợp cho các loại cây công nghiệp hàng năm và lâu năm.. nguyên liệu đầu vào cho công nghiệp chế biến trong vùng..
Địa hình
Nằm trong khu vực chuyển tiếp giữa các vùng Tây Nguyên, Duyên hải Nam Trung Bộ và Đồng bằng sông Cửu Long, Vùng Đông Nam Bộ vừa có địa hình miền núi, trung du, vừa có địa hình vùng đồng bằng và ven biển và có độ dốc thấp dần từ Bắc xuống Nam, từ Tây sang Đông.
Do các đặc tính khác nhau về địa chất, sinh học và địa hình, vùng Đông Nam Bộ có thể chia thành bốn tiểu vùng chính, đó là: vùng Cao nguyên trung tâm phía Bắc, vùng đồng bằng thấp, vùng đất cao phía Nam và vùng đất ẩm.
Thủy văn
Mạng lưới thuỷ văn của vùng chủ yếu là các sông của hệ thống sông Đồng Nai và sông Mê Công. Ngoài ra trong vùng còn có 2 hồ chứa nước lớn kết hợp thuỷ lợi với thuỷ điện đó là hồ Dầu Tiếng và Trị An với dự trữ nước hàng năm khoảng 3,6 tỷ m3. Đây là nguồn dự trữ quan trọng không những cho sản xuất nông nghiệp, cung cấp một phần nhu cầu nước cho các trung tâm đô thị và khu công nghiệp trong vùng, mà còn tạo ra một khối lượng điện năng lớn.
Ngoài việc cung cấp nước cho sản xuất và đời sống các con sông trong địa bàn còn là nguồn tiềm năng thủy điện tương đối lớn. Riêng hệ thống sông Đồng Nai đã có trữ lượng kinh tế 7,5 – 9 tỷ kWh, chiếm khoảng 15% nguồn thủy năng của cả nước, tương ứng với 1,8 – 2,25 triệu kW công suất lắp máy.
Tài nguyên
Tài nguyên đất yếu tố quan trọng cho phát triển công nghiệp và KCN
Cùng với yếu tố khí hậu và địa hình, đất đai đã tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển nhiều loại cây công nghiệp dài ngày, ngắn ngày như cao su, cà phê, bông, đậu, ngô, lúa... cũng như nhiều loại cây ăn quả như xoài, sầu riêng, nhãn, chôm chôm... thuận tiện cho sản xuất tập trung quy mô lớn gắn với công nghiệp chế biến.
Theo số liệu thống kê của các tỉnh, năm 2007 đất đang sử dụng của các tỉnh vùng Đông Nam Bộ là 2243,6 ha, chiếm 95% diện tích đất tự nhiên, đất chưa sử dụng là 117,3 ha chiếm 5% diện tích đất tự nhiên.
Trong những năm gần đây, cơ cấu sử dụng đất của vùng có sự chuyển dịch đáng kể, theo hướng ngày càng khai thác triệt để hơn cho sản xuất kinh doanh, đất chuyên dùng tăng, và đất nông nghiệp giảm dần. Sự dịch chuyển của cơ cấu sử dụng đất được thể hiện trong bảng sau.
Biểu 1. Hiện trạng sử dụng đất của vùng Đông Nam Bộ
Mục đích sử dụng
2002
2003
2004
2005
2006
2007
DT (1000 ha)
Cơ cấu %
DT (1000 ha)
Cơ cấu %
DT (1000 ha)
Cơ cấu %
DT (1000 ha)
Cơ cấu %
DT (1000 ha)
Cơ cấu %
DT (1000 ha)
Cơ cấu %
Tổng diện
2360.9
100.0
2360.9
100.0
2360.9
100.0
2360,9
100.0
2360.9
100.0
2360,9
100.0
1.Đất nông nghiệp
2002.0
84.8
1995
84.6
1961.9
83.1
1944,2
82.3
1938.3
82.1
1926,9
81.6
2. Đất phi nông nghiệp
162.9
6.9
172.3
7.2
224.3
9.5
272,3
11.5
290.4
12.3
316,7
13.4
3. Đất chưa sử dụng
196.0
8.3
193.6
8.2
174.7
7.4
144,4
6.2
132.2
5.6
117,3
5
Nguồn: Niên giám thống kê các tỉnh vùng Đông Nam Bộ; Niên giám thống kê của tổng cục thống kê năm 2000, 2005 và 2007; Quy hoạch sử dụng đất các tỉnh.
Năm 2007 diện tích đất được đưa vào sử dụng phần lớn là đất nông nghiệp, chiếm 81,6% diện tích đất tự nhiên của vùng (năm 2007). Trong đó, đất sản xuất nông nghiệp chiếm hơn 57% . Đất sản xuất nông nghiệp của vùng ngày càng được sử dụng hợp lý, khai thác có hiệu quả. Đất phi nông nghiệp là 316.700 ha, chiếm 13,2% diện tích đất tự nhiên, tăng 144.4 ha so với năm 2003, việc tăng nhanh đất phi nông nghiệp trong những năm gần đây chủ yếu đưa vào phát triển công nghiệp và xây dựng cơ sở hạ tầng. TP.Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bình Dương và Bà Rịa- Vũng Tàu là tỉnh có tỷ lệ đất phi nông nghiệp khá cao.
Có thể nhận thấy rằng diện tích đất dành cho phát triển công nghiệp trong thời gian qua về cơ bản là phù hợp, tuy nhiên để bảo đảm quỹ đất chuẩn bị đầu tư phát triển công nghiệp cho những năm tới và triển vọng dài hơn cần xem xét bổ sung quỹ đất cho mục đích này.
Tài nguyên khoáng sản là nguyên liệu đầu vào cho phát triển công nghiệp
Theo đánh giá mới đây, ngoài trừ khoáng sản dầu khí cho phép khai thác với quy mô công nghiệp, thì vùng Đông Nam Bộ không nhiều tài nguyên khoáng sản có giá trị phục vụ cho phát triển công nghiệp. Loại khoáng sản của vùng có thể phân thành các nhóm sau:
Nhóm khoáng sản nhiên liệu
Nhóm khoáng sản nhiên liệu gồm dầu khí với trữ lượng dầu mỏ đã xác minh có thể đưa vào khai thác khoảng 400 triệu m3 dầu và 100 tỷ m3 khí. Dầu khí phân bố rộng trên vùng thềm lục địa tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu với trữ lượng dự báo dầu mỏ 3 - 4 tỷ tấn và trên 500 tỷ m3 khí. Với tiềm năng khí có thể cho phép phát triển công nghiệp dầu khí tương đối ổn định trong thời gian dài.
Ngoài ra còn có than bùn với trữ lượng nhỏ phục vụ cho phát triển kinh tế của các địa phương trong vùng.
Nhóm tài nguyên vật liệu xây dựng
Nhóm tài nguyên vật liệu xây dựng gồm có đá vôi cho sản xuất xi măng được phân bố ở tỉnh Tây Ninh và Bình Phước với quy mô khá lớn. Một số nguyên liệu chất phụ dung khác như đất sét ở Tây Ninh, puzơlan ở Bình Phước và Đồng Nai.
Đá xây dựng, đá ốp lát được phân bố trên khắp các tỉnh trong vùng với trữ lượng không lớn lắm phục vụ chủ yếu cho nhu cầu trong vùng.
Nhóm khoáng sản kim loại
Vùng Đông Nam Bộ là vùng khá nghèo về khoáng sản kim loại. Trong vùng chỉ có 2 tỉnh là Bình Phước và Đông Nai có trữ lượng quặng dự báo khoảng 216,7 triệu tấn quặng nguyên.
Tóm lại. Ngoài tài nguyên dầu khí, thì tài nguyên khoáng sản khác của vùng vùng Đông Nam Bộ không nhiều, và chủ yếu phục vụ cho nhu cầu sản xuất và tiêu dùng tại địa phương.
Tài nguyên nước
Nguồn nước mặt
Vùng Đông Nam Bộ có 3 con sông lớn chạy qua đó là sông Đồng Nai, sông Sài Gòn và sông Vàm Cỏ Đông, với lưu lượng khá lớn cung cấp nước cho sản xuất và đời sống của nhân dân trong vùng. Ngoài ra, còn có 264 con sông các cấp, diện tích lưu vực khoảng 44,1 ngàn km2. Tổng lượng nước trung bình hàng năm khoảng 37 tỷ m3. Trữ lượng nước mặt của vùng tương đối thấp so với cả nước, chỉ chiếm 4%.
Bên cạnh các sông suối, vùng còn có các hồ và đập chứa nước. Hồ chứa nước Dầu Tiếng đã được xây dựng tại thượng nguồn sông Sài Gòn, là công trình thủy lợi lớn nhất nước, với dung tích hữu hiệu khoảng 1,45 tỷ m3.
Nhìn chung, nguồn nước mặt trong vùng còn nhiều hạn chế, ảnh hưởng nhất định đến sản xuất và phát triển kinh tế trong vùng.
Nguồn nước ngầm
Nguồn nước ngầm trong vùng phân bố không đồng đều. Tỉnh Tây Ninh, Đồng Nai và TP.Hồ Chí Minh có nguồn nước ngầm phân bố rộng khắp với lưu lượng nước lớn, vào mùa khô vẫn có thể khai thác nước ngầm để đảm bảo cho sinh hoạt và sản xuất, ở một số vùng ven biển ở tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu nguồn nước ngầm đang cạn kiệt dần và đang bị nhiễm mặn, phèn, ảnh hưởng đến khả năng phục vụ nhu cầu sản xuất.
Tóm lại khác với nguồn nước mặt, nguồn nước ngầm của vùng Đông Nam Bộ có trữ lượng khá lớn so với các vùng khác trong cả nước. Đó là nguồn nước quan trọng để khai thác cho mục đích phát triển kinh tế, phát triển công nghiệp.
Tài nguyên rừng
Đất lâm nghiệp của vùng Đông Nam Bộ hiện là 463,5 nghìn ha, chiếm 19,6% diện tích tự nhiên. Diện tích rừng phân bố chủ yếu tập trung nhiều ở tỉnh Đồng Nai và Bình Phước.
Mục tiêu quan trọng nhất đối với quỹ rừng ở đây là bảo vệ môi trường, bảo đảm cân bằng sinh thái, chống xói mòn đất canh tác, giảm lũ xô cho vùng hạ du và phát triển du lịch. Khôi phục vốn rừng đã mất, trồng thêm và tái tạo quỹ rừng là một trong những nhiệm vụ cần được quan tâm đặc biệt trong chương trình bảo vệ môi trường sinh thái của các địa phương trong vùng.
Các điều kiện, yếu tố nguồn lực kinh tế - xã hội cho phát triển công nghiệp và KCN vùng Đông Nam Bộ
Nguồn nhân lực cho phát triển công nghiệp và KCN
Dân số và nguồn nhân lực có chất lượng khá là yếu tố thuận lợi để phát triển kinh tế - xã hội, phát triển công nghiệp và khu công nghiệp nói riêng.
Dân số
Theo số liệu thống kê, năm 2007, dân số toàn vùng là 12,07 triệu người, chiếm khoảng 14,3 % dân số cả nước. TP.Hồ Chí Minh là thành phố đông dân nhất trong vùng và của cả nước với số dân là hơn 6 triệu dân, chiếm trên 50% dân số toàn vùng và 7,3% dân số cả nước.
Phân bố dân cư trong vùng không đồng đều giữa các tỉnh, thành phố. Trong khi dân số tại TP. Hồ Chí Minh chiếm khoảng 51%, thì Bình Phước chỉ là 6,7%. Mật độ dân số của vùng là 516 người/km2, gấp hơn 2 lần mật độ dân số của cả nước (254 người/km2), TP Hồ Chí Minh có mật độ dân số cao nhất (2909người/km2). Bình Phước là địa phương có mật độ dân số thấp nhất (118 người/km2).
Đông Nam Bộ là vùng có tỷ lệ tăng dân số khoảng 2,45%, cao nhất cả nước (1,3%). Tốc độ gia tăng dân số tự nhiên của vùng có xu hướng giảm liên tục từ 16,7%o năm 1997 xuống 14,3%o vào năm 2002 và 11,5%o vào năm 2007 nhưng tỷ lệ tăng cơ học của vùng tương đối cao so với vùng khác và có xu hướng tăng dần. Nguyên nhân là do quá trình di cư cơ học từ các vùng khác đến làm ăn sinh sống tại vùng Đông Nam Bộ, trong đó luồng di cư lớn nhất là từ vùng Đông Bắc Bộ.
Vùng Đông Nam Bộ có tỷ lệ đô thị hóa cao nhất cả nước. Trong khi tỷ lệ này của cả nước là 27,36% thì vùng Đông Nam Bộ có tới 54,1% dân số sống ở khu vực thành thị, cao gấp hai lần so với cả nước. Đặc biệt có T.P Hồ Chí Minh là địa phương có tỷ lệ đô thị hóa cao nhất 86,2%.
Đặc điểm của dân số vùng Đông Nam Bộ. Nguồn nhân lực dồi dào, với trình độ dân trí cao hơn hẳn các địa phương khác trong cả nước một lợi thế quan trọng của vùng tạo ra lợi thế so sánh cho bản thân vùng và là điều kiện quan trọng để phát huy tác động lan toả, cung cấp nguồn nhân lực có trình độ cao cho các khu vực khác trong cả nước.
Lao động
Theo số liệu thống kê, lao động trong độ tuổi năm 2007 của vùng khoảng 7,8 triệu người, chiếm 65% dân số toàn vùng, gần 80% trong độ tuổi lao động từ 15 đến 44 tuổi. Đây là lợi thế về nguồn lực lao động của vùng có khả năng tiếp thu nhanh và hiệu quả các kiến thức khoa học kỹ thuật.
Lao động và cơ cấu lao động đang làm việc trong các ngành kinh tế ở các địa phương được thể hiện ở biểu 2.
Bảng số liệu cho thấy TP. Hồ Chí Minh có cơ cấu lao động lao động chủ yếu tập trung trong lĩnh vực dịch vụ (chiếm 57%) và công nghiệp – xây dựng (39,1%), lĩnh vực nông nghiệp chỉ có 2,2 % lao động. Điều này một lần nữa khẳng định rõ vai trò trung tâm dịch vụ của thành phố đối với cả vùng Đông Nam Bộ. Trong khi đó tỉnh Bình Phước, Tây Ninh cơ cấu lao động trong lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp còn khá lớn và sự chuyển dịch cơ cấu lao động theo chiều hướng tích cực còn chậm.
Biểu 2. Số lượng lao động có việc làm ở vùng Đông Nam Bộ phân theo ngành kinh tế năm 2007
Đơn vị: người
Tỉnh, thành phố
Toàn ngành KT
Nông nghiệp
CN và XD
Dịch vụ
Tổng số
%
Tổng số
%
Tổng số
%
Tổng số
%
1. Đồng Nai
1212105
19.4
484504
40.0
466597
38.5
261004
21.5
2. Bình Dương
633561
10.1
105562
16.7
330966
52.2
197033
31.1
3. Bà Rịa - Vũng Tàu
455007
7.3
167817
36.9
125981
27.7
211209
46.4
4. TP. Hồ Chí Minh
2885708
46.2
62255
2.2
1129484
39.1
1643969
57.0
5. Bình Phước
439616
7
284206
64.6
86320.5
19.6
69089
15.7
6. Tây Ninh
619218
9.9
249019
40.2
193638
31.3
176562
28.5
Tổng số
6245215
100
1353362
21.7
2332987
37.4
2558866
41.0
Nguồn: Thực trạng lao động việc làm ở Việt Nam 2007, Trung tâm thông tin-Thống kế lao động và xã hội.
Như vậy, có thể thấy Đông Nam Bộ là vùng có nguồn lao động khá dồi dào và có trình độ cao. Đây là lực lượng lao động cho phát triển KT-XH nói chung và phát triển công nghiệp nói riêng, nhưng đồng thời cũng sẽ là áp lực lớn cho tạo việc làm cho lực lượng lao động này.
Hệ thống kết cấu hạ tầng
Hệ thống giao thông
Vùng Đông Nam Bộ có mạng lưới giao thông khá phát triển, với 3 loại hình: giao thông đường bộ, đường sắt, đường thủy.
Hệ thống giao thông trên địa bàn được phân bố khá hợp lý, mật độ đường giao thống cao, nhiều tuyến được đầu tư đã mang lại hiệu quả lớn về kinh tế và xã hội. Hệ thống giao thông đối ngoại đã được quan tâm đầu tư nâng cấp, bao đảm thông thương và giao lưu kinh tế giữa các địa phương trong vùng và các vùng khác.
Giao thông đường bộ
Trên địa bàn vùng Đông Nam Bộ có 5 tuyến đường quốc lộ đi qua với tổng chiều dài khoảng 1240 km và một hệ thống đường tỉnh lộ, đường nông thôn. Mật độ đường bộ đạt khoảng 0,92km/km2.
Mặc dù mạng lưới giao thông đường bộ của vùng không dày đặc như ở đồng bằng sông Hồng, nhưng các con đường chính ở Đông Nam Bộ có chất lượng khá cao so với các vùng.
Giao thông đường thủy
Giao thông đường biển ở Đông Nam Bộ đóng vai trò hàng đầu trong việc đảm bảo xuất và nhập khẩu hàng hóa. Vùng có 3 cụm cảng chính: cụm cảng khu vực TP.HCM, khu vực Đồng Nai và khu vực Vũng Tàu-Thị Vải. Trong đó, cảng Sài Gòn hiện là cảng lớn nhất khu vực phía Nam, phục vụ không những cho các tỉnh vùng Đông Nam Bộ mà cho các tỉnh vùng đồng bằng sông Cửu Long.
Bên cạnh hệ thống cảng biển, vùng còn có một hệ thống cảng cạn (ICD) ở Phước Long, Transimex, Biên Hoà, Trường Thọ, Sóng Thần (trong KCN Sóng Thần) và Tân Tạo (trong KCN Tân Tạo) với chức năng vừa là các điểm thông quan nội địa, vừa là các điểm tập kết và chuyển tiếp hàng hoá xuất nhập khẩu.
Giao thông đường sắt
Hiện trong vùng chỉ có một tuyến đường sắt Bắc-Nam qua các tỉnh Đồng Nai - Bình Dương - TP.Hồ Chí Minh với chiều dài 118km. Đường sắt đã xây dựng khá lâu nên các thiết bị như đường ray, nhà ga ...đã cũ, lạc hậu. Do đó, việc đi lại, thông thương giữa các tỉnh trong vùng bằng đường sắt hiện còn hạn chế.
Dự kiến đến năm 2015 ngoài việc nâng cấp tuyến đường sắt Thống Nhất đạt tiêu chuẩn đường quốc gia, còn cải tạo và xây dựng mới tuyến đường sắt từ TP. Hồ Chí Minh đi các tỉnh... nhằm đảm bảo vận chuyển hàng hóa nội vùng và liên vùng.
Giao thông đường hàng không
Trong vùng có 3 sân bay đó là sân bay Tân Sơn Nhất, sân bay Biên Hòa, sân bay Vũng tàu. Trong đó sân bay Tân Sơn Nhất đóng một vai trò quan trọng ._.trong việc bảo đảm vận chuyển hành khách và trung chuyển hành hóa quốc tế, liên vùng, kiểm soát không lưu ở khu vực phía Nam. Đây là sân bay tốt nhất tại Việt Nam hiện nay.
Hệ thống điện
Vùng Đông Nam Bộ là vùng khá thuận lợi và khả năng cung cấp điện, có lưới điện quốc gia chạy qua, là vùng có tiềm năng thủy điện lớn, lại có trữ lượng khí lớn nhất trong cả nước với hệ thồng truyền tải và phân phối được quy hoạch và đầu tư xây dựng đồng bộ hạ tầng ngành điện, đảm bảo thuận lợi cho nhu cầu phát triển các khu công nghiệp của vùng.
Hệ thống cấp thoát nước đã và đang được đầu tư đảm bảo công suất đáp ứng nhu cầu phát triển KT-XH nói chung và phát triển khu công nghiệp nói riêng
Cấp nước đô thị và các KCN
Tổng công suất cấp nước hiện có trên địa bàn là 1.282.349 m3/ngày. Trong đó, khu vực đô thị được cấp nước 70-90%. Nhìn chung, hầu hết các tỉnh, thành phố trong vùng đã có hệ thống cấp nước sạch, tuy nhiên chỉ phục vụ được một phần nhu cầu của sinh hoạt và sản xuất trong vùng.
Để đáp ứng nhu cầu nước cho sinh hoạt và sản xuất trong vùng các tỉnh vùng Đông Nam Bộ đã xây dựng chiến lược cấp nước cho các tuyến liên vùng để bảo đảm an toàn nguồn nước.
Hệ thống thoát nước
Hệ thống thoát nước mới được xây dựng ở các đô thị lớn, song nhìn chung đều chưa đáp ứng yêu cầu. Nhiều nơi thường xảy ra ngập úng vào mùa mưa, gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Cho đến nay, hệ thống thoát nước thải của nhiều điểm dân cư đô thị và cống thoát ngoài KCN ở một số các KCN như KCN Linh Trung III tỉnh Tây Ninh, KCN dệt may…vẫn đang là vấn đề bức xúc, cần được quan tâm đầu tư thoả đáng để đảm bảo môi trường sống không ô nhiễm cho nhân dân và sự hoạt động của các KCN.
Hạ tầng thông tin liên lạc
Về lĩnh vực thông tin liên lạc, hiện nay hệ thống các bưu điện, bưu cục đã phủ kín địa bàn toàn vùng. Tính đến cuối năm 2007, số máy điện thoại trong vùng trung bình khoảng 35 máy/100 dân cao so với cả nước (24 máy/100 dân).
Đánh giá chung: Hệ thống kết cấu hạ tầng vùng Đông Nam Bộ khá đồng bộ, đã đáp ứng được phần nào yêu cầu phát triển KT-XH của vùng. Trong tương lai khi nhiều KCN mới vào hoạt động thì hệ thống kết cấu hạ tầng hiện là quá tải cần có kế hoạch đầu tư cải tạo và xây dựng mới.
Khả năng cung cấp nguyên liệu đầu vào tại các địa phương trong vùng cho phát triển công nghiệp và khu công nghiệp
Về nguồn nguyên liệu từ sản xuất nông nghiệp
Do các yếu tố địa lý, điều kiện tự nhiên, vùng Đông Nam Bộ có nhiều thuận lợi cho việc phát triển một nền nông nghiệp đa dạng. Mặc dù trong mấy năm gần đây diện tích gieo trồng bị thu hẹp dần nhưng năng suất, sản lương cây trồng tăng đều qua các năm. Năm 2007 sản lượng cây lương thực có hạt đạt 1.48 triệu tấn. Ngoài ra trong vùng còn có các cây lương thực khác như sắn, khoai lang và các cây củ lấy bột khác... và cây công nghiệp như cây cà Phê, cao su, hồ tiêu, điều, mía đường với qui mô khá lớn đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong vùng và là nguyên liệu đầu vào cho ngành công nghiệp chế biến.
Về tài nguyên rừng
Thực hiện các chương trình trồng rừng phủ xanh đất trống đồi núi trọc, bình quân mỗi năm vùng Đông Nam Bộ trồng được 4-5 nghìn ha. Tuy nhiên hiện nay hầu hết rừng đã đang bị khai thác quá mức làm cho diện tích rừng đang giảm đi rất nhiều. từ 640 nghìn ha rừng năm 2000 xuống còn 463,5 nghìn ha vào năm 2007.
Về nguồn thủy sản
Đông Nam Bộ có tiềm năng thủy-hải-sản khá dồi dào. Năm 2007, sản lượng thủy sản toàn vùng là 325 nghìn tấn (trong đó khai thác 237 nghìn tấn; nuôi trồng 88 nghìn tấn), chiếm gần 9% sản lượng thủy sản cả nước. Đây là nguồn cung cấp nguyên liệu dồi dào cho ngành công nghiệp chế biến của vùng.
Tóm lại, có thể nói nguồn nguyên liệu từ nông lâm thủy sản tại chỗ không nhiều để phát triển công nghiệp chế biến với qui mô lớn. Tuy nhiên, do hệ thống giao thông thuận tiện kết nối với nhiều tỉnh khác ngoài vùng có khả năng về phát triển nông nghiệp, nên công nghiệp chế biến vùng Đông Nam Bộ vẫn có khả năng phát triển trên cơ sở nguồn nguyên liệu ở ngoài vùng.
Ảnh hưởng của bối cảnh kinh tế thế giới đối với sự phát triển công nghiệp, KCN vùng Đông Nam Bộ
Trong những năm của thập kỷ 90 của thế kỷ trước, toàn cầu hóa và tự do hóa đã tạo điều kiện cho các dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đến với các nước đang phát triển. Quá trình hội nhập tạo điều kiện cho vùng Đông Nam Bộ tiếp cận nhanh hơn, dễ dàng hơn vào thị trường thế giới và khu vực. Ngược lại, sự phát triển kinh tế vùng cũng chịu sự tác động mạnh mẽ của thị trường thế giới.
Cơ hội đối với phát triển KCN vùng Đông Nam Bộ
Tháng 1/2007, Việt nam đã trở thành thành viên chính thức của tổ chức thương mại thế giới (WTO) và đang thực hiện nhiều cam kết quốc tế khác. Sau khi Việt Nam chính thức trở thành thành viên chính thức của WTO, các quan hệ kinh tế ngày càng mở rộng, làn sóng đầu tư nước ngoài vào Việt nam trở nên mạnh mẽ.
Sự tăng lên của dòng vốn FDI sẽ kéo theo sự phát triển của hoạt động mua bán, chuyển giao công nghệ. Việc tiếp cận thị trường hàng hóa và dịch vụ ở tất cả các nước thành viên với mức thuế nhập khẩu đã được cắt giảm không bị phân biệt đối xử đã tạo điều kiện cho Việt Nam mở rộng xuất khẩu và thúc đẩy sự phát triển của các KCN, KCX.
Những thách thức
Hiện nay 75% vốn FDI trên thế giới là đầu tư lẫn nhau giữa các nước đang phát triển, trong khi đó các nước có thu nhập thấp chỉ tiếp nhận được khoảng 7%. Nhiều quốc gia, trong đó có Hàn Quốc và các nước ASEAN, coi việc cải thiện môi trường thu hút đầu tư FDI nhằm vươn lên trên các nước khác là giải pháp chiến lược phục hồi và phát triển kinh tế. Áp lực cạnh tranh với các nước trong cùng khu vực là thách thức lớn đối với Việt nam trong việc thu hút FDI, đặc biệt trong bối cảnh môi trường đầu tư Việt Nam hiện nay so với các nước xung quanh bị đánh giá là mất tính dần tính cạnh tranh và độ rủi ro cao hơn các nước trong khu vực.
Hội nhập quốc tế kéo theo việc mở cửa thị trường, hướng đến một sân chơi bình đẳng hơn, điều đó mang lại thách thức đối với công nghiệp Việt Nam , trong đó có các tỉnh vùng Đông Nam Bộ để nâng cao năng lực canh tranh, thâm nhập các thị trường thới giới đồng thời cạnh tranh để khai thác thị trường trong nước, tham gia vào mạng lưới sản xuất, phân phối, mạng lưới công nghiệp toàn cầu. Đồng thời hội nhập cũng kéo theo việc thực hiện các cam kết quốc tế. Các biện pháp trợ giúp, hỗ trợ trực tiếp của chính phủ trong phát triển công nghiệp, phát triển KCN dần phải dỡ bỏ.
Đánh giá chung
Những lợi thế cho phát triển các KCN
Vị trí địa lý của vùng là một trong những lợi thế cơ bản để phát triển công nghiệp và KCN trên địa bàn
Nằm trọn trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, Đông Nam Bộ là một trong những vùng kinh tế phát triển năng động nhất, có tốc độ tăng trường kinh tế nhanh và cao ( khoảng 11,58%/năm giai đoạn 2003-2007), cao hơn mức trung bình cả nước (hơn 8,1%).
Cửa ngõ giao lưu thuận lợi với các nước trong khu vực và trên thế giới bằng đường biển và đường không và mở rộng quan hệ kinh tế với các tỉnh Tây Nguyên, các tỉnh Duyên hải Miền Trung... đó là điều kiện thuận lợi đặc biệt cho các khu công nghiệp phát triển.
- Điều kiện cơ sở hạ tầng, đặc biệt là giao thông, vận tải đang được đầu tư phát triển (Đường bộ, đường thủy, đường sắt, đường hàng không) với năng lực thông qua lớn,
- Đông Nam Bộ có các trung tâm kinh tế lớn của đất nước: trung tâm lớn nhất cả nước về kinh tế, công nghiệp, thương mại, dịch vụ và khoa học kỹ thuật
- Vùng Đồng Nam Bộ có nguồn nguyên liệu cho sản xuất công nghiệp khá phong phú, đa dạng. Là vùng chuyển tiếp giữa vùng kinh tế Tây Nguyên - nơi giàu tài nguyên rừng và cây công nghiệp dài ngày; vùng ven biển Nam Trung Bộ phong phú về tài nguyên khoáng sản và tài nguyên biển và Đồng bằng sông Cửu Long - vựa lúa lớn nhất của cả nước,.. Điều này có ý nghĩa rất lớn đối với sự phát triển các ngành công nghiệp chế biến trong vùng.
Nguồn tài nguyên dầu khí với trữ lượng lớn (chiếm khoảng 93,3% trữ lượng dầu đã xác minh của cả nước).
- Đông Nam Bộ là nơi tập trung nguồn nhân lực có chất lượng cao, có hệ thống các trường đào tạo và trung tâm nghiên cứu khoa học..
Những hạn chế cho phát triển các KCN
- Các địa phương trong vùng có nhiều tiềm năng cho phát triển du lịch, dịch vụ, do vậy phải lựa chọn và giải quyết mâu thuẫn giữa phát triển công nghiệp và phát triển du lịch dịch vụ.
- Kết cấu hạ tầng đã phát triển nhưng vẫn chưa theo kịp với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội của vùng và đang có dấu hiệu ngày càng quá tải. Quy hoạch đô thị quản lý đô thị và KCN còn bất cập.
- Nguồn nhân lực cho phát triển công nghiệp còn nhiều bất cập cả về số lượng và chất lượng. Mặc dù qui mô dân số ở mức khá cao và chất lượng dân số được đánh giá là khá tốt nhưng vẫn chưa đủ để đáp ứng nhu cầu phát triển công nghiệp tập trung qui mô lớn và đòi hỏi đào tạo kỹ năng ở vùng Đông Nam.
- Nhu cầu nước ngọt cho phát triển công nghiệp tập trung ở quy mô lớn (các KCN tập trung ) là rất lớn. Mặc dù các địa phương trong vùng đã có các nguồn nước có thể bảo đảm cung cấp đủ cho nhu cầu phát triển KT-XH, song sự phát triển của một số KCN có thể ảnh hướng trực tiếp tới nguồn tài nguyên nước, làm giảm khả năng cung cấp nước trong tương lai, đòi hỏi phải có đầu tư sớm với qui mô lớn.
- Thách thức từ quá trình hội nhập. Toàn cầu hóa kéo theo sự cạnh tranh mạnh mẽ về thu hút đầu tư giữa các quốc gia trong khu vực và giữa các tỉnh, thành phố. Đây là thách thức lớn đối với vấn đề phát triển KCN vùng Đông Nam Bộ.
Việt Nam đang hội nhập ngày càng sâu vào nền kinh tế thế giới. Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Các biện pháp hỗ trợ, can thiệp từ Chính phủ không theo nguyên tắc của kinh tế thị trường sẽ bị hạn chế và xóa bỏ.
HIỆN TRẠNG ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN CÁC KHU CÔNG NGHIỆP VÙNG ĐÔNG NAM BỘ GIAI ĐOẠN 2002 - 2007
Khái quát tình hình phát triển KCN vùng Đông Nam Bộ
Số lượng các KCN
Vùng Đông Nam Bộ thành lập và phát triển các KCN khá sớm so với các vùng khác trong cả nước, và đã có những bước phát triển khá nhanh và hiệu quả. Tháng 9 năm 1991, khu chế xuất (KCX) Tân Thuận được thành lập tại TP. Hồ Chí Minh với diện tích 300 ha. Đây là KCX, đầu tiên tại vùng Đông Nam Bộ và cũng là KCX đầu tiên ở Việt Nam. Đến nay vùng Đông Nam Bộ đã có 75 KCN (chiếm 42% tổng số KCN của cả nước) được thành lập theo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ, với quy mô diện tích đất phát triển KCN là 21.394 ha, chiếm trên 44,1% diện tích KCN của cả nước.
Biểu 3. Một số chỉ tiêu phát triển KCN vùng Đông Nam Bộ so với cả nước đến năm 2007
TT
Chỉ tiêu
Vùng ĐNB
Cả nước
ĐNB so với cả nước (%)
1
Số KCN (khu)
75
179
41.9
2
Diện tích đất KCN (ha)
- Tổng diện tích KCN (ha)
21394
48486
44.1
- Diện tích đất có thể cho thuê (ha)
14445
32913
43.9
- Diện tích đất đã thuê (ha)
7869
16172
48.7
- Diện tích trung bình /1 KCN (ha)
285
271
- Tỷ lệ lấp đầy KCN
54.5
49.1
3
Số dự án thu hút vào KCN
- Số dự án đăng ký
3387
7088
47.8
- Số dự án đang SXKD
2476
3940
62.8
- Tỷ lệ DA SXKD/DA đăng ký (%)
73.1
55.6
4
Vốn đầu tư vào dự án CN (tr USD)
-Vốn đăng ký
27865
55768
65.6
- Vốn thực hiện
14942
28549
70.5
-Vốn TH/ vốn đăng ký (%)
53.6
51.2
5
Quy mô dự án
-Vốn đăng ký (tr USD/ dự án)
8.2
7.9
- Vốn đăng ký (tr USD/ ha đất CN)
3.5
3.4
6
Tổng số lao động VN ( người)
640681
1562254
41.0
Nguồn: Báo cáo tình hình triển khai thực hiện quy hoạch các KCN – KCX của Ban quản lý các KCN – KCX các tỉnh vùng Đông Nam Bộ, năm 2007; Tình hình hoạt động của các KCN cả nước 12/ 2007, Vụ Quản lý KCN và KCX, Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
Trong 75 KCN, hiện đã có 52 KCN đang hoạt động và 23 KCN đang trong thời kỳ xây dựng cơ bản.
Các KCN vùng Đông Nam Bộ đạt tỷ lệ lấp đầy khá cao so với mức trung bình cả nước. Tính đến hết năm 2007, diện tích có thể cho thuê của KCN trong vùng Đông Nam Bộ là 14.445 ha, trong đó có 7869 ha đất công nghiệp đã cho thuê, đạt tỷ lệ lấp đầy là 54,5%, cao hơn so với mức trung bình của cả nước (49,1%). Trong khi tại nhiều KCN trong các vùng trong nước chỉ đạt tỷ lệ lấp đầy khoảng từ 30% đến 87% thì tại vùng Đông Nam Bộ đã có 33 khu đã lấp đầy được từ 80 – 100% diện tích đất công nghiệp có thể cho thuê, trong đó có 14 KCN, KCX đạt tỷ lệ lấp đầy 100% (gồm KCN Biên Hòa II, Biên Hòa I, Gò Dầu, LOTECO , KCN Tam Phước, KCN Định Quán ở Đồng Nai; KCN Sóng thần II, Tân Đồng Hiệp A, Mỹ Phước II ở Bình Dương; KCN Tân Thới Hiệp, Lê Minh Xuân, Linh Trung I, ở TP. Hồ Chí Minh) chiếm 53,8% so với cả nước (26 KCN). Đặc biệt có KCN đang triển khai xây dựng cơ sở hạ tầng nhưng đã đạt tỷ lệ cho thuê khá cao như KCN Bàu Xéo ở Đồng Nai đạt tỷ lệ lấp đầy 90%. Bên cạnh đó, cũng còn có một số KCN mặc dù đã được thành lập lâu nhưng đạt tỷ lệ lấp đầy khá thấp như KCN Mỹ Xuân B1 (Bà Rịa – Vũng Tàu) được thành lập từ năm 1998 như mới đạt tỷ lệ lấp đầy 9,6%; Cái Mép (Bà Rịa-Vũng Tàu) thành lập năm 2002 tỷ lệ lấp đầy 36,8%; Mỹ Xuân A2 (Bà Rịa – Vũng Tàu) thành lập năm 2001 tỷ lệ lấp đầy đạt 35,4%.
Trong các địa phương trong vùng thì Tây Ninh là tỉnh có tỷ lệ lấp đầy cao nhất (77%), sau đó là Đồng Nai (65,1%) và TP.Hồ Chí Minh (64,3%), tỉnh có tỷ lệ lấp đầy thấp nhất là Bà Rịa –Vũng Tàu là 41,5%.
Biểu 4. Một số chỉ tiêu của các KCN phân theo địa phương đến năm 2007
TT
Tên KCN, KCX
Số KCN
Diện tích (ha)
Lao động (người)
Tổng DT
đất có thể cho thuê
Đất đã cho thuê
%
1
Đồng Nai
26
7009
4752
3094
65.1
198467
2
Bình Dương
22
6312
4390
2081
47.4
163625
3
BR - V.Tàu
8
4643
3109
1290
41.5
16635
4
TP.Hồ Chí Minh
15
2728
1734
1116
64.4
237544
5
Bình Phước
2
309
199
87
43.7
900
6
Tây Ninh
2
393
261
201
77.0
23510
Tổng số
75
21394
14445
7869
54.5
640681
Nguồn: Tổng hợp Báo cáo tình hình triển khai thực hiện quy hoạch các KCN – KCX của Ban quản lý các KCN – KCX các tỉnh vùng Đông Nam Bộ, năm 2007; Báo cáo tình hình hoạt động của các KCN cả nước 12/ 2007, Bộ Kh và Đầu tư.
Vùng Đông Nam Bộ cũng là vùng có hệ số tập trung KCN khá cao so với các vùng khác trong cả nước. Tuy nhiên có sự phân bố các KCN không đồng đều theo địa phương. TP. Hồ Chí Minh, tỉnh Bình Dương, Đồng Nai và Bà Rịa – Vũng Tàu là địa phương tập trung nhiều KCN nhất với tổng diện tích là 20.693 ha chiếm tới 96,7% diện tích KCN trong vùng. Trong đó, tỉnh Đồng Nai có số lượng KCN nhiều nhất (26 KCN) với diện tích là 7.127 ha, chiếm 32,8% diện tích toàn vùng, tỉnh Bình Phước có 2 KCN diện tích 309 ha chỉ chiếm 1.4% diện tích KCN toàn vùng.
Quy mô KCN
Phát huy lợi thế so sánh của vùng trong phát triển công nghiệp, vùng Đông Nam Bộ đã sớm hình thành và phát triển các KCN, KCX. Đến nay vùng Đông Nam Bộ đã có một hệ thống các KCN khá lớn về quy mô và đa dạng về ngành nghề. Theo số liệu báo cáo của Vụ quản lý KCN và KCX diện tích đất KCN toàn vùng là 21.394 ha, chiếm 44,1% diên tích đất KCN của cả nước. Bên cạnh các KCN, KCX được thành lập trước với diện tích nhỏ như KCN Bình Chiểu (ở TP. Hồ Chí Minh) với diện tích 21 ha, KCN Bình Đường (Bình Dương) diện tích 17 ha nhiều KCN, thì trong những năm gần đây các địa phương trong vùng đã quy hoạch và phát triển nhiều KCN có diện tích khá lớn như KCN Mỹ Phước III ở tỉnh Bình Dương có diện tích 987 ha, đây cũng là KCN lớn nhất của cả nước (không kể KCN Dung Quất với diện tích 14.000 ha), Phú Mỹ III 800 ha (Bà Rịa-Vũng Tàu),... nâng quy mô diện tích bình quân của KCN trong vùng từ 153,2 ha/1KCN (đến năm 2002) lên tới 285 ha/1KCN. (đến năm 2007). Trong đó thì tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu là địa phương có qui mô KCN bình quân lớn nhất (580 ha/1 KCN) sau đó đến Bình Dường (287 ha/1KCN) và Đồng Nai (270 ha/1KCN) và ít nhất là tỉnh Bình Phước có 155 ha/1KCN.
Sự tăng lên của quy mô KCN trong vùng không chỉ do sự thành lập các KCN mới với quy mô lớn mà còn do sự mở rộng của các KCN đang hoạt động. Theo số liệu báo cáo của ban quản lý các KCN giai đoạn 2002 – 2007 ở vùng Đông Nam Bộ có 11 KCN xin cấp giấy phép thành lập mới và 7 KCN xin cấp giấy phép để mở rộng diện tích hoặc bổ sung thêm vốn theo từng giai đoạn I và II của quy hoạch như KCN AMATA (Đồng Nai) giai đoạn 1 và 2 và mở rộng xin cấp giấy phép năm 2007, KCN Việt Nam - Singapore (Bình Dương) thành lập năm 1996 xin cấp giấy phép lần 2 năm 2004, KCN Mỹ Xuân B1 ( Bà Rịa – Vũng Tàu) thành lập năm 1998, xin cấp giấy phép lần 2 năm 2006, giấy phép lần 3 năm 2007 ... Điều đó cho thấy các KCN trong vùng có chiều hướng phát triển khá mạnh cả về qui mô diện tích và khối lượng vốn đầu tư.
Thực trạng đầu tư phát triển các KCN vùng Đông Nam Bộ
Quy mô và tốc độ tăng vốn đầu tư
Quy mô vốn đầu tư
Đông Nam Bộ là khu vực có mức đầu tư vào các KCN khá cao. Trong suốt thời kỳ 2002 - 2007, vốn đầu tư vào các KCN trên địa bàn luôn chiếm tỷ trọng cao trong tổng vốn đầu tư phát triển toàn vùng. Theo số liệu của vụ quản lý KCN và KCX, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, năm 2007 vốn đầu tư vào các KCN vùng Đông Nam Bộ đạt khoảng 45.975 tỷ đồng, chiếm hơn 47,4% vốn đầu tư vào các KCN cả nước và bằng gần 50% tổng vốn đầu tư phát triển toàn vùng.
Biểu 5. Vốn đầu tư vào các KCN vùng Đông Nam Bộ
Đơn vị: tỷ VNĐ; %
Năm
Vốn ĐT thực hiện vào các KCN trong năm
Tổng VĐT phát triển toàn vùng
GDP (tỷ đ-HH)
So sánh
VĐT vào các KCN/VĐT toàn vùng(%)
VĐT vào các KCN/GDP(%)
2002
49417
56305.2
178494
87.8
27.7
2003
38174
72586.2
219662
52.6
17.4
2004
39773
74064.8
257949
53.7
15.4
2005
36128
78161.9
288046
46.2
12.5
2006
39518
92181.5
318762
42.9
12.4
Ước 2007
45975
105344.4
363272
43.6
12.7
Nguồn: Tổng hợp Báo cáo tình hình triển khai thực hiện quy hoạch các KCN – KCX của Ban quản lý các KCN – KCX các tỉnh vùng Đông Nam Bộ; Số liệu thông kế của TCTK; Báo cáo của Vụ Quản lý KCN và KCX, Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
Trong những năm gần đây, môi trường đầu tư vùng Đông Nam Bộ được nên việc thu hút các dự án đầu tư vào KCN trong vùng khá thuận lợi và triển khai nhanh hơn so với các doanh nghiệp ngoài KCN và so với các vùng khác. Thêm vào đó, thời gian xây dựng cơ bản của các dự án đầu tư vào KCN trong vài năm gần đây lại tương đối ngắn (khoảng 2-3 năm sau khi cấp giấy phép đầu tư đã đi vào sản xuất kinh doanh) đã tạo nhiều điều kiện thuận lợi cho vùng Đông Nam Bộ thu hút một khối lượng lớn vốn đầu tư vào KCN. Do đó, quy mô vốn đầu tư vào các KCN trong vùng Đông Nam Bộ không ngừng tăng qua các năm. Năm 2002, vốn đầu tư sản xuất công nghiệp thực hiện ở KCN vùng Đông Nam Bộ chỉ đạt 23.942 tỷ đồng tăng lên 44.013 tỷ đồng vào năm 2007.
Ngược lại với xu hướng tăng nhanh của quy mô vốn đầu tư KCN toàn vùng, quy mô vốn đầu tư trung bình của một dự án đầu tư trong KCN vùng đang có xu hướng chững lại, một nguyên nhân quan trọng là do môi trường đầu tư trong các KCN có nhiều ưu đãi hơn đầu tư ngoài KCN nên các nhà đầu tư của các doanh nghiệp trong nước đang có xu hướng đầu tư vào các KCN.
Quy mô đầu tư phát triển các KCN trong những năm qua thường chiếm khoảng 12-13% GDP toàn vùng. Đây là mức huy động vốn khá cao so với các vùng khác trong cả nước.
Tốc độ tăng vốn đầu tư
Là một vùng kinh tế năng động, vốn đầu tư vào các KCN tăng lên khá nhanh, trung bình mỗi năng tăng khoảng 3207 tỷ đồng, xu hướng tăng vốn đầu tư được thể hiện rõ trong biểu đồ 1.
Theo biểu 5 và đồ thị 1, tốc độ tăng vốn đầu tư vào các KCN trong vùng tăng khá nhanh năm 2003 tốc độ tăng vốn đầu tư so với năm 2002 tăng 42,8% nhưng đến năm 2007 đã đạt 71,1% so với vốn đầu tư năm 2002.
Sau năm 2004 và năm 2005 có xu hướng tăng chững lại so với các năm trước, từ năm 2006 đến nay Đông Nam Bộ luôn giữ mức tăng vốn đầu tư vào các KCN tương đối ổn định và tăng nhanh. Mức tăng vốn đầu tư năm 2006 đạt 9,38% so với năm 2005. Năm 2007 đạt tốc độ tăng vốn liên hoàn 16,34%.
Nguồn: Tổng hợp Báo cáo tình hình thực hiện vốn đầu tư của Ban quản lý các KCN vùng ĐNB; Báo cáo của Vụ Quản lý KCN và KCX, Bộ KH và Đ.
Một điều đáng chú ý là trong khi những năm trước đây, tốc độ tăng vốn đàu tư KCN vùng Đông Nam Bộ luôn cao hơn so với trung bình cả nước thì từ năm 2006 đến nay, tốc độ tăng vốn đầu tư KCN bình quân cả thời kỳ của vùng Đông Nam Bộ đạt 11%/năm, thấp hơn so với trung bình cả nước (14%). Nguyên nhân chủ yếu là do dòng vốn đầu tư phát triển các KCN ở Việt Nam đang có xu hướng chuyển dịch vào các tỉnh vùng Đồng bằng sông Hồng, đặc biệt vào các tỉnh có vị trí khá thuận lợi và đang chú trọng đầu tư phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng, cải thiện chất lượng môi trường đầu tư như: tỉnh Vĩnh Phúc, Bắc Ninh, Hải Dương, Quảng Ninh… nên đã thu hút được một lượng vốn đầu tư khá lớn. Như vậy, mặc dù hiện nay các KCN vùng Đông Nam Bộ vẫn chiếm vị trí đầu cả nước trong khả năng thu hút vốn đầu tư nhưng trong tương lai, các KCN này sẽ chịu sự cạnh tranh gay gắt từ các địa phương khác. Điều này đòi hỏi cần có giải pháp hữu hiệu, phù hợp để tăng cường thu hút đầu tư trong thời gian tới.
Sự tăng vốn đầu tư vào các KCN vùng Đông Nam Bộ thời gian qua có sự đóng góp rất lớn của vốn đầu tư sản xuất công nghiệp.
Nguồn: Tổng hợp số liệu báo cáo của Ban quản lý KCN các tỉnh vùng Đông Nam Bộ qua các năm.
Đồ thị 2 cho thấy hai xu hướng phát triển trái chiều của nguồn vốn đầu tư hạ tầng KCN và nguồn vốn đầu tư sản xuất trong KCN. Trong giai đoạn 2002 - 2007, mức tăng nguồn vốn đầu tư hạ tầng KCN có xu hướng giảm dần. Đặc biệt, từ năm 2005 đến nay, đầu tư hạ tầng KCN liên tiếp đạt mức tăng thấp hơn so với năm 2002. Trong khi đó, vốn đầu tư sản xuất KCN liên tục tăng với tốc độ nhanh và vững chắc. Năm 2003, tốc độ tăng vốn đầu tư sản xuất KCN đạt 44,25% so với năm 2002 và tăng dần đến giá trị 83,83% năm 2007. Đây cũng là xu thế tất yếu của quá trình hình thành và phát triển các KCN.
Nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng đất và giảm sức nặng của cơ sở hạ tầng xã hội, trong những năm gần đây các địa phương trong vùng hướng vào việc thu hút các dự án đầu tư có công nghệ sản xuất cao và sử dụng ít lao động nên mặc dù tốc độ tăng vốn đầu tư của KCN vùng Đông Nam Bộ đang có xu hướng thấp hơn so với cả nước nhưng trung bình suất đầu tư/chỗ việc làm ở các KCN vùng Đông Nam Bộ vẫn luôn cao hơn so với cả nước (trung bình cả thời kỳ cao gấp 1,14 lần so với bình quân cả nước).
Biểu 6. Vốn Đầu tư sản xuất/chỗ làm việc của các KCN vùng Đông Nam Bộ so với các KCN cả nước
Chỉ tiêu
2002
2003
2004
2005
2006
2007
1. Vùng ĐNB
- Vốn TH (tr USD)
3318
5477
7723
9836
12192
14942
- Lao động (người)
217815
253873
309196
422750
517397
640681
- Vốn/Lao động (1000 USD/Chỗ làm việc)
15.2
21.6
25.0
23.3
23.6
23.3
2. Cả nước
- Vốn TH (tr USD)
6342
10449
14210
17724
22806
28549
- Lao động (người)
470298
534013
686644
847193
1118254
1562254
- Vốn/Lao động (1000 USD/Chỗ làm việc)
13.5
19.6
20.7
20.9
20.4
18.3
3. Hệ số so sánh (ĐNB/cả nước)
1.1
1.1
1.2
1.1
1.2
1.3
Nguồn: Tổng hợp Báo cáo của Ban quản lý KCN và KCX các tỉnh vùng ĐNB, Báo cáo của Vụ Quản lý KCN và KCX.
Theo số liệu báo cáo của Ban quản lý các KCN trong vùng cho thấy vốn đầu tư/chỗ làm việc của các KCN vùng Đông Nam Bộ liên tục tăng đều qua các năm: từ mức 15,2 nghìn USD/chỗ làm việc (năm 2002), tăng lên đạt mức 23,3 nghìn USD/chỗ làm việc vào năm 2007. Trong khi đó, vốn đầu tư/chỗ làm việc của bình quân các KCN cả nước trong cùng thời kỳ chỉ tăng từ 13,5 nghìn USD/chỗ làm việc lên 18,3 nghìn USD/chỗ làm việc năm 2007. Xét cả thời kỳ suất đầu tư /1 chỗ làm việc của KCN vùng luôn gấp từ 1,1 đến 1,3 lần so với cả nước. Như vậy, có thể thấy mức đầu tư phát triển KCN trên địa bàn vùng Đông Nam Bộ vẫn ở mức cao so với cả nước.
Tóm lại, vùng Đông Nam Bộ là vùng kinh tế khá năng động, hình thành và phát triển KCN trong vùng sớm, số lượng KCN đông, quy mô diện tích các KCN trong vùng tương đối lớn so với các vùng khác trong cả nước. Tình hình thu hút đầu tư vào các KCN trong vùng tương đối nhanh so với các vùng khác của cả nước. Trong những năm qua sự phát triển nhanh của các KCN trong vùng đã đóng góp vào quá trình phát triển công nghiệp cả nước nói chung và phát triển KT – XH của vùng nói riêng.
Cơ cấu đầu tư
Cơ cấu vốn đầu tư theo nội dung đầu tư
Xét về nội dung đầu tư thì vốn đầu phát triển các KCN gồm 02 vốn đầu tư cho phát triển cơ sở hạ tầng KCN và vốn đầu tư cho hoạt động sản xuất kinh doanh trong KCN.
Vốn đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng KCN là vốn đầu tư do các nhà kinh doanh cơ sở hạ tầng KCN thực hiện, đầu tư chủ yếu tập trung vào đền bù, giải phóng mặt bằng và thực hiện các hạng mục chính của công trình như hệ thống đường, hệ thống cấp thoát nước, đường điện, các công trình tiện nghi, tiện ích công cộng (Trung tâm điều hành, cây xanh, hồ điều hòa), trạm xử lý nước thải… Ngoài ra, nhà xây dựng hạ tầng KCN còn cần phải xây dựng các công trình hỗ trợ tích cực cho các hoạt động của KCN như căng tin, văn phòng làm việc, khu dịch vụ thương mại, chi nhánh ngân hàng đầu tư, hải quan, bưu điện, công an, khu vui chơi.
Đây là nguồn vốn đầu tư khá quan trọng, ảnh hưởng nhiều đến sự hoạt động có hiệu hiệu quả KCN.
Theo số liệu báo cáo của ban quản lý KCN của các tỉnh cho thấy vốn đầu tư hạ tầng KCN vùng Đông Nam Bộ tăng đều qua các năm. Tính đến tháng 12/2007 tổng vốn đăng ký đầu tư cơ sở hạ tầng là 868 tr USD và 38.237 tỷ đồng và thực hiện được 460 triệu USD và 15.514 tỷ đồng. trong 5 năm qua nhìn chung vốn đầu tư hạ tầng chỉ thực hiện được khoảng 50-55% vốn đầu tư nước ngoài và trên 40-50% đối với đối với nguồn vốn trong nước. Năm 2004 là năm thực hiện vốn đầu tư khá cao 56% đối với vốn nước ngoài và 63% đối với vốn trong nước. Mặc dù vùng Đông Nam Bộ có tỷ lệ vốn thực hiện cao hơn các vùng khác nhưng điều này cũng cho thấy rõ ràng thực hiện vốn đầu tư cơ sở hạ tầng chưa tốt, còn không ít các KCN chưa đầu tư xong các hạng mục và các công trình tiện ích trong các KCN đặc biệt là hệ thống xử lý chất thải, trồng cây xanh và ….đây là các vấn đề đang lo ngại về môi trường hiện nay khi số lượng các KCN tăng và quy mô KCN cũng ngày càng lớn. Đây là nội dụng dung rất quan trọng của đoàn kiểm tra liên ngành về tình hình thực hiện quy hoạch các KCN trên phạm vi cả nước nói chung và KCN vùng Đông Nam Bộ nói riêng .
Trong 5 năm tới, vùng Đông Nam Bộ có khả năng thu hút thêm khoảng 600 – 700 triệu USD vốn đầu tư phát triển hạ tầng các khu công nghiệp (tương đường khoảng 9.600 – 11.200 tỷ đồng). Vì vậy, để đảm bảo lượng vốn này sẽ phát huy tác dụng thực trong nền kinh tế, cần phải có biện pháp hữu hiệu để nâng cao tỷ lệ thực hiện vốn đầu tư hạ tầng cũng như phát triển đồng bộ cơ sở hạ tầng ngoài hàng rào KCN.
Vốn đầu tư sản xuất kinh doanh trong KCN là dòng vốn đầu tư vào các dự án sản xuất kinh doanh trong hàng rào KCN. Các hạng mục đầu tư của nguồn vốn này khá đa dạng, thuộc nhiều ngành, nhiều lĩnh vực. Do đó, tùy thuộc chiến lược phát triển kinh tế của từng nước, trong từng thời kỳ, cũng như vào chủ trương phát triển công nghiệp của từng địa phương và vào tính chất ngành nghề của từng KCN…mà vốn đầu tư sản xuất trong KCN sẽ tập trung vào các ngành, lĩnh vực khác nhau. Ở vùng Đông Nam Bộ, trong những năm đầu thành lập và phát triển các KCN thì các dự án thu hút vào các KCN trong vùng chủ yếu là các dự án sử dụng nhiều lao động như dệt may, chế biến lương thực thực phẩm, VLXD …
Tính đến tháng 12/2007 trên toàn vùng Đông Nam Bộ đã có 3387 dự án đăng ký đầu tư vào các KCN trên địa bàn (chiếm 47,8% số dự án đăng ký vào các KCN cả nước), với diện tích 7869 ha (hơn 48,7 % diện tích đã cho thuê của cả nước). Trong tổng số 3387 dự án đăng ký đã có 2476 dự án đã đi vào sản xuất kinh doanh, 911 dự án đang xây dựng cơ bản.
Cùng với sự tăng nhanh số lượng dự án đầu tư vào sản xuất kinh doanh trong KCN thì khối lượng vốn đầu tư sản xuất trong KCN trong vùng cũng tăng nhanh. Theo số liệu báo cáo của vụ quản lý KCN và KCX tính đến 12/2007, lượng vốn đăng ký đầu tư vào các KCN trong vùng Đông Nam Bộ đạt 27865 triệu USD, chiếm tới khoảng 65,6% tổng vốn đăng ký của cả nước năm 2007. Tỷ lệ thực hiện vốn đầu tư sản xuất là 53,6%, cao hơn so với cả nước (51%). Điều này cho thấy vùng Đông Nam Bộ không chỉ có khả năng thu hút vốn đầu tư hơn so với các vùng khác trong cả nước mà còn nhanh chóng đưa lượng vốn này phát huy tác dụng trong sản xuất. Đây là tiền đề thúc đẩy sự tăng vốn trong tương lai của vùng. Theo tính toán của các chuyên gia thuộc Bộ Kế hoạch và Đầu tư, trong giai đoạn 2006 – 2010, các KCN vùng Đông Nam Bộ có khả năng thu hút thêm khoảng 12 tỷ USD cho đầu tư phát triển sản xuất công nghiệp (khoảng 19.200 tỷ đồng).
Về cơ cấu nội dung đầu tư. Theo số liệu báo cáo của Vụ quản lý KCN và KCX, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, nhìn chung tỷ trọng vốn đầu tư cơ sở hạ tầng chỉ chiếm khoảng từ 5-8% tổng vốn đầu tư phát triển KCN.
Trong giai đoạn từ năm 2002 đến năm 2007 cơ cấu vốn đầu tư có sự chuyển dịch đáng kể theo hướng tăng dần tỷ trọng nguồn vốn đầu tư sản xuất công nghiệp (từ 89,6% năm 2002 tăng lên 95,7 % tổng vốn đầu tư năm 2007) và giảm dần tỷ trọng nguồn vốn đầu tư cơ sở hạ tầng KCN ( từ 10,4 % năm 2002 xuống còn 4,3 % vào năm 2007). Đây là một xu hướng tất yếu đối với sự phát triển của KCN. Trong những năm đầu khi mới hình thành và phát triển các KCN, lượng vốn đầu tư vào các KCN chủ yếu tập trung vào lĩnh vực cơ sở hạ tầng. Nhưng sau một thời gian nhất định, khi đầu tư phát triển cơ sở bắt đầu phát huy tác dụng, nguồn vốn này sẽ có xu hướng giảm dần, đồng thời tăng dần tỷ trọng vốn đầu tư phát triển sản xuất, đây là xu hướng tất yếu của quá trình hình thành và phát triển các KCN. Đầu tư phát triển KCN vùng Đông Nam Bộ cũng không nằm ngoài xu thế đó.
Biểu 7. Cơ cấu vốn đầu tư thực hiện theo nội dung đầu tư vào các KCN vùng Đông Nam Bộ thời kỳ 2002-2007
Đơn vị : %
Chỉ tiêu
2002
2003
2004
2005
2006
2007
Tổng vốn đầu tư
100.0
100.0
100.0
100.0
100.0
100.0
Đầu tư hạ tầng KCN
10.4
9.5
9.6
6.4
4.6
4.3
Đầu tư sản xuất trong KCN
89.6
90.5
90.4
93.6
95.4
95.7
Nguồn: Tổng hợp Báo cáo tình hình triển khai thực hiện quy hoạch các KCN – KCX của Ban quản lý các KCN – KCX các tỉnh vùng Đông Nam Bộ, năm 2007.
Như vậy, có thế thấy, trong giai đoạn 2002 – 2007 vốn đầu tư vào các KCN vùng Đông Nam Bộ chủ yếu dưới dạng vốn đầu tư sản xuất kinh doanh. Do đó, quy mô cũng như tốc độ tăng vốn đầu tư sản xuất có ý nghĩa quyết định đối với đầu tư phát triển KCN vùng cũng như sự phát triển k._.ở hạ tầng, bao gồm cả hạ tầng trong và ngoài hàng rào KCN. Do đó, để nâng cao hiệu quả đầu tư ở các KCN, trước hết phải thực thi các biện pháp phát triển và hoàn thiện hệ thống hạ tầng phục vụ cho phát triển KCN.
Đối với hạ tầng kỹ thuật trong hàng rào KCN
Bên cạnh những cơ chế chính sách chung của Nhà nước, chính quyền các tỉnh trong vùng cần xây dựng các biện pháp chính sách cụ thể khuyến khích đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng các KCN một cách đồng bộ. Hạ tầng KCN đóng một vai trò đặc biệt quan trọng trong thu hút đầu tư phát triển sản xuất tại các KCN. Hạ tầng đồng bộ, phù hợp với tính chất ngành nghề, với thị trường đầu vào và đầu ra của sản xuất công nghiệp sẽ là điều kiện thuận lợi để thu hút đầu tư vào các ngành sản xuất lựa chọn.
Đầu tư phát triển hạ tầng KCN trong giai đoạn tới của vùng đòi hỏi một lượng vốn lớn, ước khoảng 54028.3 tỷ đồng. Do đó, thời gian tới cần hình thành cơ chế chính sách thu hút đầu tư phát triển hạ tầng để xây mới các KCN đồng thởi vẫn đảm bảo duy trì, bảo dưỡng được các hạng mục công trình nhằm đáp ứng tốt nhất nhu cầu cảu các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp trong vùng :
Đảm bảo mặt bằng để đầu tư phát triển KCN:
Trên cơ sở danh mục các KNC dự kiến theo từng giai đoạn, căn cứ theo các quy định của pháp luật hiện hành, UBND các tỉnh cần xây dựng các biện pháp bảo tồn, duy trì, có kế hoạch cụ thể để đảm bảo sử dụng hiệu quả mặt bằng đất trước khi giao đất cho phát triển KCN, đẩm bảo cung cấp mặt bằng với chi phí giải phóng mặt bằng thấp nhất.
Nghiên cứu xây dựng cơ chế giá đền bù, giải phóng mặt bằng phù hợp với thực tiễn của từng KCN, trong khi đảm bảo các nguyên tắc chung theo quy định của pháp luật.
Tăng cường hiệu lực của các quy định pháp luật về chính sách đất đai, đảm bảo hiệu lực của các cơ quan, các cấp chính quyền trong việc thực thi pháp luật liên quan đến quản lý đất đai và tài nguyên trong từng tỉnh.
Đổi mới nội dung và phương thức thu hút đầu tư phát triển hạ tầng
Kinh nghiệm thu hút đầu tư phát triển KCN ở Nhật Bản và Trung Quốc cho thấy việc đổi mới nội dung, hình thức, phương pháp thu hút đầu tư (hay còn gọi là “tiếp thị lãnh thổ”_territorial marketing) có vị trí và tác dụng đặc biệt quan trọng đối với thu hút đầu tư phát triển hạ tầng KCN. Theo đó, cần:
Có các biện pháp công khia thông tin phát triển các KCN. Cần phải xác định rõ đầu tư phát triển các KCN có phạm vi liên quan về không gian không chỉ giới hạn trong các doanh nghiệp Nhà nước, doanh nghiệp trong tỉnh, mà còn cả các doanh nghiệp trong phạm vi cả nước và nước ngoài.
Xây dựng quy trình nghiên cứu, lựa chọn quy trình nghiên cứu, lựa chọn các nhà đầu tư một cách thuận tiện và nhanh chóng hướng tới lựa chọn các nhà đầu tư có tiềm năng cho phát triển các KCN.
Khai thác tối đa các phương tiện thông tin để cung cấp đầy đủ các thông tin về phát triển các KCN trên địa bàn tưng tỉnh như : xây dựng và quản lý, vận hành và cập nhật thông tin trên một website về phát triển các KCN trên địa bàn từng tỉnh.
Tạo nguồn vốn phát triển các KCN
Cần xác định việc đầu tư phát triển hạ tầng KCN không phải là kinh doanh bất động sản mà trái lại là điều kiện để thu hút các nhà đầu tư trong và ngoài nước vào KCN. Nguồn thu chủ yếu cho Ngân sách Nhà nước chính là nguồn thu từ sản xuất của doanh nghiệp trong KCN. Trên cơ sở đó, vốn đầu tư phát triển hạ tầng KCN có thể xem xét trên các khía cạnh sau:
Ở những nơi có điều kiện thu hút đầu tư vào KCN, nhất là đầu tư nước ngoài thì việc đầu tư phát triển hạ tầng KCN có thể cho các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế đầu tư, hoặc cũng có thể cho các nhà đầu tư nước ngoài cùng liên doanh với doanh nghiệp trong nước để đầu tư xây dựng và phát triển hạ tầng KCN.
Ở những địa phương có cơ sở hạ tầng yếu kém, xa trung tâm TP. Hồ Chí Minh cần có sự hỗ trợ đặc biệt và tập trung vốn đầu tư từ Ngân sách Nhà nước trong một khoảng thời gian ngắn nhất định (3-5 năm) để đầu tư hoàn chỉnh một số hạ tầng thiết yếu cho bên trong và đầu nối với bên ngoài hàng rào KCN. Ngoài ra cần cho vay tín dụng dài hạn, ưu đãi, vay vốn nước ngoài… để tạo điều kiện cho các KCN ở các vùng khó khăn như Tây Ninh, Bình Phước có cơ hội xây dựng được nhanh chóng các KCN tập trung để phát triển công nghiệp tỉnh nhà, thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, góp phần thúc đẩy sự phát triển nhanh chóng của vùng.
Thành lập quỹ “hỗ trợ đầu tư phát triển hạ tầng KCN” ở các tỉnh, thành phố. Vốn của quỹ được huy động từ nhiều vốn như: Ngân sách cấp 1 lần (vốn điều lệ) và bổ sung hàng năm, vận động các doanh nghiệp trong tỉnh đóng góp, vốn vay tín dụng ưu đãi, vốn thu từ kinh doanh bất động sản và các nguồn vốn khác.
Ngoài các nguồn vốn đầu tư từ Ngân sách hoặc các nguồn vốn hỗ trợ cảu Nhà nước, còn cần có nguồn vốn chủ lực cho việc đầu tư phát triển hạ tầng KCN dưới hinh thức xã hội hóa vốn đầu tư như: thực hiện việc cổ phần hóa các công ty phát triển hạ tầng KCN, bán cổ phiếu, trái phiếu để người dân có điều kiện tham gia góp vốn đầu tư xây dựng KCN.
Khuyến khích người dân có đất trong các khu quy hoạch bị giải tỏa để xây dựng KCN góp vốn cổ đông bằng tiền đền bù giá trị quyền sử dụng đất dưới các hình thức cổ phiếu, trái phiếu …
Cho thuê lại đất trong KCN để giải quyết tình trạng đọng vốn của công ty hạ tầng và giúp cho việc kêu gọi các nhà đầu tư vào lấp kín diện tích cho thuê dễ dàng hơn.
Ngoài ra có thể xem xét xây dựng cơ chế bảo lãnh tạo điều kiện cho các doanh nghiệp kinh doanh hạ tầng có thể khai thác nguồn vốn tín dụng ngân hàng cho phát triển hạ tầng KCN.
Đối với hạ tầng kỹ thuật ngoài hàng rào KCN
Việc xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật trong KCn là yếu tố quan trọng để tạo môi trường hấp dẫn cho các nhà đầu tư. Tuy nhiên, nếu thiếu những yếu tố thuận lợi cho các công trình hạ tầng kỹ thuật ngoài hàng rào như hệ thống giao thông, cấp điện, cấp nước, thông tin liên lạc, thì cho dù các công trình hạ tầng kỹ thuật trong hàng rào có thuận lợi đến đâu cũng không thể hấp dẫn nhà đầu tư. Vì vậy, hàng năm cần bố trí Ngân sách địa phương kết hợp với nguồn hỗ trợ của Trung ương tập trung bố trí nguồn vốn thích đang để đầu tư bằng các phương thức linh hoạt khác để tạo vốn như : dùng quỹ đất để xây dựng hạ tầng, khuyến khích hình thức BOT, hoặc cho chủ công ty phát triển hạ tầng KCN được hưởng một số ưu đãi về tài chính và cho trừ dần vào các khoản nộp Ngân sách hàng năm khi họ bỏ vốn ra để đầu tư cho các công trình hạ tầng ngoài hàng rào, phục vụ cho đầu nối với công trình bên trong hàng rào KCN được đồng bộ và phát huy tác dụng tốt.
Phát triển đồng bộ các thể loại tập trung công nghiệp
Hiện nay ở nhiều địa phương trong vùng có tình trạng đua nhau để thành lập KCN. Việc hình thành ồ ạt KCN mà chưa tính đến tính khả thi đã ít nhiều làm giảm hiệu quả phát triển KCN chung của toàn vùng. Do đó, từ kinh nghiệm phát triển KCN của nhiều quốc gia như Trung Quốc, Nhật Bản …, vùng Đông Nam Bộ có thể xây dựng 3 loại KCN: KCN tập trung, cụm công nghiệp vừa và nhỏ, làng nghề công nghiệp. Trong đó, cụm công nghiệp vừa và nhỏ là một mô hình tập trung công nghiệp được hình thành ở các huyện thị vùng nông thôn tập hợp theo ngành nghề, mô hình thích hợp để thúc đẩy phát triển kinh tế tư nhân, phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ, phát triển công nghiệp nông thôn.
Theo chiến lược này, không nên xây dựng quá nhiều KCN trong một thời gian, cần chú trọng phát triển các làng nghề và các cụm công nghiệp vừa và nhỏ. Doanh nghiệp đầu tư vào cụm công nghiệp vừa và nhỏ, các làng nghề truyền thống được chuyển dịch sản xuất vào khu tập trung có điều kiện mở rộng mặt bằng sản xuất, mở rộng quy mô về sản phẩm, lao động cũng như đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng và xử lý chất thải.
Việc kết hợp hài hòa giữa các hình thức tập trung công nghiệp sẽ giúp phát huy lợi thế của từng địa phương trong chiến lược phát triển công nghiệp, đặc biệt đối với các địa phương chưa đủ tiềm lực phát triển KCN có quy mô. Qua đó, thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế địa phương theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn; đồng thời giảm thiểu ô nhiễm môi trường ở nông thôn.
Hình thành hệ thống liên kết hỗ trợ phát triển KCN
Đầu tư phát triển đồng bộ dịch vụ phục vụ KCN
Hình thành và phát triển thị trường công nghệ
Bước đầu cần duy trì tổ chức chợ công nghệ và thiết bị hàng năm trên địa bàn các tỉnh, đồng thời xây dựng “chợ ảo” về công nghệ và thiết bị gắn kết daonh nghiệp thật thông qua các chợ thật. Tăng cường khả năng tư vấn cho doanh nghiệp đánh giá chuyển giao, mau bán công nghệ cũng như vai trò trung gian giữa các doanh nghiệp trong việc mua bán công nghệ.
Đối với các dịch vụ phụ trợ khác
Khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư xây dựng các khu du lịch, các khách sạn, nhà hàng, bệnh viện, trường học đạt tiêu chuẩn quốc tế để đáp ứng nhu cầu khách vãng lai, đặc biệt là phục vụ hội nghị, hội thảo, học tập hoặc nghỉ ngơi cảu các nhà đầu tư.
Chính quyền địa phương sẽ đầu tư hoặc có sự hỗ trợ cần thiết để phát triển hệ thống xe buýt công cộng, với sự thuận tiện về giờ giấc, điểm đi đến, hoạt động thường xuyên hơn và trên nhiều tuyến đường … đáp ứng nhu cầu đi lại của công nhân và nhân dân. Các doanh nghiệp cần hỗ trợ và tạo điều kiện đáp ứng nhu cầu đi lại của công nhân .
Phát triển mạnh mẽ thị trường tài chính, tín dụng, trong đó cần triển khai rộng các mạng lưới giao dịch ở các KCN để phục vụ các hoạt động thanh toán, thu hút nguồn vốn và mở rộng đầu tư.
Đầu tư phát triển các ngành công nghiệp phụ trợ
Công nghiệp phụ trợ là khái niệm chỉ tạp hợp các doanh nghiệp sản xuất những sản phẩm công nghiệp có vai trò hỗ trợ cho việc sản xuất các thành phẩm chính. Các sản phẩm này có thể là các linh kiện, phụ kiện, phụ tùng, bao bì, nguyên liệu … Phát triển công nghiệp phụ trợ có ý nghĩa rất lớn đối với vấn đề phát triển các KCN, đặc biệt có ảnh hưởng mạnh mẽ đối với dòng vốn FDI vào các KCN.
Một trong các tiêu chí để xem xét đầu tư đối với mỗi doanh nghiệp là yếu tố đầu vào của sản xuất. Hầu hết các doanh nghiệp FDI phải mua một lượng lớn đầu vào từ vào các công ty khác. Do đó, nếu có thể mua các yếu tố này từ các doanh nghiệp trong nước có thể giảm được đáng kể chi phí sản xuất. Mặt khác, các hợp đồng trực tiếp với các nhà cung ứng địa phương còn cho phép các doanh nghiệp FDI tăng tính chuyên môn hóa, tính linh hoạt, khả năng ứng dụng công nghệ và sản xuất tốt hơn, nhanh hơn vào các điều kiện địa phương. Điều đó giải thích tại các cụm cung ứng mạnh làm tăng tầm quan trọng trong các quyết định đầu tư của các công ty nước ngoài, nhất là đối với các hoạt động có giá trị cao.
Đối với các nước có hệ thống ngành công nghiệp phụ trợ phát triển, có kahr năng đáp ứng tót nhu cầu của các doanh nghiệp FDI có thể thu hút được cá nhà đầu tư nước ngoài xây dựng những cơ sở sản xuất có quy mô lớn, trình độ công nghệ cao. Do đó, yêu cầu cần có các giải pháp phát triển các ngành công nghiệp phụ trợ:
Cấn có các biện pháp hỗ trợ hình thành liên kết giữa các doanh nghiệp FDI và các doanh nghiệp trong nước
Nâng cao vai trò của các nhà cung cấp công cộng và tư nhân, các hỗ trợ về tài chính, công nghệ và đào tạo để củng cố sự phát triển của các nhà cung cấp tiềm năng. Thiếu dạng hỗ trợ theo định chế này, các doanh nghiệp trong nước sẽ không có được các chứng nhận chất lượng đào tạo đồi hỏi hoặc vốn cần thiết để tăng tính cạnh tranh và đáp ứng được yêu cầu của các doanh nghiệp FDI, do đó, khó trở thành các nhà cung ứng đầu vào của họ.
Chính quyền địa phương hỗ trợ tạo ra sự cân bằng vị trí đàm phán giữa người mua và nhà cung cấp bằng việc cung cấp một số hỗ trợ như: hỗ trợ về thông tin …
Hỗ trợ nâng cao năng lực công nghệ của các công ty địa phương
Năng lực công nghệ của các doanh nghiệp trong nước là tố quyết định khả năng của họ đối với yêu cầu trở thành nhà cung cấp của các doanh nghiệp FDI hoạt động trong một thị trường cạnh tranh ngày càng tăng. Ngày càng nhiều các doanh nghiệp FDI đòi hỏi nhà cung cấp phải đáp ứng được các tiêu chuẩn chất lượng như ISO 9000, QS 9000, HACCP và VDA. Do vậy, việc nâng cấp công nghệ của các nhà cung cấp địa phương được coi là ưu tiên đối với nước chủ nhà.
Giải pháp về tài trợ
Trong khi khả năng giúp các nhà cung cấp thảo thuận về giá trong nền kinh tế thị trường là giới hạn cần có sự bảo hộ hợp pháp chống laijc ác thảo thuận và các thực hành kinh doanh không bình đẳng. Chính phủ, địa diện là các chính quyền địa phương sẽ đóng vai trò đảm bảo tài trợ hợp pháp trong các hợp đồng của cá nhà cung cấp với các công ty lớn và cung cấp cho các nhà cung cấp các thông tin về giá chuẩn, cá cơ hội kinh doanh thay thế.
Thông qua các biện pháp như: khuyến khích việc giảm bớt thanh toán chậm thông qua thuế, giảm thuế thu nhập để khuyến khích việc thanh toán ngay cho các nhà cung cấp, giới hạn thanh toán chậm bằng luật pháp … Chính phủ có thể đảm bảo tăng cường khả năng tài chính cho các doanh nghiệp trong nước .
Nhóm giải pháp phát triển bền vững KCN vùng Đông Nam Bộ
Sau gần 20 năm phát triển, các KCN vùng Đông Nam Bộ đã gặt hái được những thành tựu to lớn, khẳng định được vai trò quan trọng của vùng Đông Nam Bộ trong phát triển kinh tế đất nước. Tuy nhiên, xem xét trên khía cạnh phát triển bền vững, phát triển KCN vùng Đông Nam Bộ còn nhiều bất cập. Vì vậy, cấp thiết phải đề ra các giải pháp để khắc phục tình trạng này
Xây dựng quy hoạch phát triển KCN vùng
Do tầm quan trọng của vùng kinh tế Đông Nam Bộ, việc xây dựng KCN vùng cần phải có một chiến lược, kế hoạch dài hạn với các nội dung cơ bản như sau:
Căn cứ vào tiềm năng phát triển của các địa phuơng, cần có chính sách ưu tiên phát triển ngành trong từng KCN nhằm phát huy lợi thế của từng địa phương, từng KCN. Theo đó, cần đưa ra các chính sách thích hợp cho các loại hình công nghiệp, từ đó tạo ra lực đẩy đối với phát triển kinh tế vùng.
Quy hoạch tổng thể KCN cần mang tầm chiến lược.
Để thực hiện được điều đó cần có sự phối kết hợp giữa các ngành, các tỉnh trong vùng. Quyết định thành lập KCN ngoaif vieec trên kiến nghị của tỉnh, thành phố, có sự đóng góp của các cơ quan liên quan. Đồng thời cần xem xét đến các yếu tố: tính chuyên ngành của KCN, khả năng thu hút công nghệ cao, khả năng bổ sung cho nhau giữa các KCN trong một tỉnh, trong toàn vùng Đông Nam Bộ, sự cạnh tranh lẫn nhau giữa các KCN trong tỉnh, trong vùng. Tuy nhiên điều quan trong nhất là xây dựng KCN cần gắn với nhu cầu thị trường trong và ngoài nước nhằm tránh quan điểm chủ quan duy ý chí, dẫn tới sự thành lập tự phát các KCN.
Đảm bảo chất lượng quy hoạch KCN.
Quy hoạch của các KCN cần gắn với quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của từng địa phương trong vùng và với quy hoạch phát triển chung của vùng, phương án đền bù giải tỏa, việc xử lý các vấn đề môi trường, khả năng cung cấp nguồn nhân lực … Quy hoạch không chỉ nói chung về bố trí địa điểm, vị trí của KCN mà còn phải tính tới cả hướng bố trí ngành công nghiệp, sản phẩm sẽ sản xuất, phù hợp với đặc điểm dân cư, đất đai, tài nguyên, gía cả lao động và yêu cầu về môi trường của từng khu vực. Ngoài ra, việc bố trí các KCN cần quan tâm đến hạ tầng xã hội và hạ tầng kỹ thuật, đảm bảo sự kết hợp hài hòa giữa hai hệ thống hạ tầng.
Xây dựng chuẩn mực và cơ cấu lại các KCN.
Để thực hiện được mục tiêu nâng chất lượng các KCN trong vùng ngang tầm khu vực và quốc tế, trước tiên cần thay đổi quan niệm về KCN. Xây dựng KCN không chỉ với mục tiêu thu hút vốn đầu tư bằng mọi cách mà còn phải đặt các mục tiêu khác như: tính hiệu quả, tính bền vững, khả năng lan tỏa đến các khu vực khác… Từ đó, tiến hành chuyển đổi mô hình KCN trong vùng theo hướng hiện đại, cụ thể:
Cần xác định tiêu chuẩn các xí nghiệp đầu tư vào KCN về quy mô, ngành nghề và công nghệ để tạo hiệu quả đầu tư cao.
Đối với một số KCN cần định hướng phát triển các ngành sản xuất tư liệu sản xuất, các ngành công nghiệp nặng, các ngành có hàm lượng chất xám cao và vốn lớn.
Chuyển từ KCN chỉ bao gồm chuyên môn hóa sản xuất công nghiệp, chuyên môn hóa sản xuất cho xuất khẩu sang mô hình KCN tổng hợp, bao gồm: sản xuất công nghiệp và thương mại (xuất khẩu và tiêu thụ nội địa), dịch vụ phục vụ cho hoạt động KCN (ngân hàng, bưu điện …).
Thực hiện sự liên kết toàn diện theo xu hướng thị trường mở, bao gồm liên kết trong nội bộ KCN và liên kết giữa các KCN trong vùng.
Xây dựng chiến lược phát triển nguồn nhân lực
Mặc dù Đông Nam Bộ là vùng có chất lượng nguồn nhân lực cao nhất trong cả nước nhưng hiện nay người lao động trong vùng vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển của các KCN cả về chất lượng và số lượng.
Theo tính toán của các chuyên gia thuộc Bộ Lao động Thương binh và Xã hội dựa trên tốc độ phát triển của các KCN vùng Đông Nam Bộ, trung bình mỗi năm nhu cầu lao động của của các KCN vùng Đông Nam Bộ tăng từ 10 – 15%, chủ yếu là nhu cầu tìm kiếm lao động có chất lượng cao. Trong khi đó, chính sách đào tạo nguồn nhân lực của vùng còn chậm thi hành, công tác đào tạo nguồn nhân lực còn chưa đáp ứng được yêu cầu của các doanh nghiệp trong các KCN. Điều này dẫn tới việc không ít các doanh nghiệp trong các KCN phải tiến hành đào tạo lại người lao động. Thống kê cho thấy gần 80% các doanh nghiệp sau khi tuyển dụng người lao động phải thực hiện khóa đào tạo ngắn ngày trong vòng 1-2 tháng. Hiện nay, đã có không ít các KCN tự tổ chức các lớp đào tạo và xây dựng liên kết với các trường đại học nhằm thu hút được nguồn nhân lực có trình độ cao, phù hợp với yêu cầu công việc nhưng kết quả còn rất hạn chế. Tình trạng thừa lao động giản đơn nhưng thiếu lao động có tay nghề trong khi nhu cầu là rất lớn vẫn diễn ra. Do đó, nhiều doanh nghiệp đã phải mở các lớp đào tạo ngay trong doanh nghiệp để đáp ứng nhu cầu nhân lực của doanh nghiệp.
Bên cạnh đó, ở Đông Nam Bộ có một thực tế là các lao động sau khi nghỉ Tết thường không quay lại làm việc, gây tổn hại nghiêm trọng đến hoạt động sản xuất kinh doanh trong các KCN. Cuối năm 2007, có đến 30% số công nhân làm việc trong các doanh nghiệp KCN nghỉ Tết không quay trở lại làm việc. Sở dĩ có tình trạng trên là do một mặt là do mức lương tối thiểu thấp, chậm được điều chỉnh, mặt khác do điều kiện nơi ở của người lao động không được đảm bảo. Vì phần lớn lao động trong các KCN trong vùng là lao động nhập cư nên họ thường tận dụng cơ hội về thăm nhà để tìm kiếm việc làm ở địa phương với thu nhập ròng khá hơn do tiết kiệm được chi phí ăn, ở, đi lại.
Vì vậy, trong thời gian tới cần phải xây dựng chiến lược phát triển nguồn nhân lực dài hạn. Theo đó, cần:
Đẩy mạnh hơn nữa công tác xã hội hóa đào tạo nghề, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Ở những đô thị lớn như TP. Hồ Chí Minh và các vùng công nghiệp phát triển có nhu cầu lớn về đào tạo công nhân và có khả năng thanh toán cho đào tạo nghề như tỉnh Đồng Nai, Bình Dương cần phát triển hệ thống các cơ sở đào tạo nghề tư nhân hoạt động không vì lợi nhuận, giảm bớt sự phụ thuộc vào các cơ sở đào tạo nghề của Nhà nước.
Chú trọng đào tạo nghề theo yêu cầu của thị trường, đơn đặt hàng của doanh nghiệp. Có thể thành lập Ủy ban liên tỉnh về đào tạo nguồn nhân lực cho các KCN vùng Đông Nam Bộ. Ủy ban này sẽ là cấu nối giữa các KCN và các cơ sở đào tạo nghề trong và ngoài nước. Ngoài ra, Ủy ban còn có tác dụng hỗ trợ, mở rộng đào tạo nghề với nước ngoài theo mô hình của Trung tâm đào tạo nghề Việt Nam – Singapore tại Bình Dương.
Đảm bảo nhu cầu chỗ ở và nơi làm việc cho người lao động để họ yên tâm sản xuất. Cần phải xác định rõ việc xây dựng nhà ở công nhân phải là sự kết hợp giữa chính quyền địa phương, nhân dân và doanh nghiệp theo hướng xã hội hóa trong việc tạo quỹ nhà. Bên cạnh việc đầu tư của Nhà nước, bằng các đòn bẩy kinh tế tạo thuận lợi cho nhân dân xây dựng nhà cho thuê, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp xây dựng nhà ở cho công nhân thuê hoặc bán trả góp. Ngoài ra, các doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động phải có các dự án đầu tư xây dựng nhà ở cho công nhân của doanh nghiệp hoặc có hợp đồng với các tổ chức, cá nhân kinh doanh nhà trọ nhằm hợp tác giải quyết vấn đề chỗ ở cho công nhân theo nguyên tắc cộng đồng cùng chịu trách nhiệm và cùng có lợi.
Đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu trong nội bộ KCN theo hướng hiệu quả và phù hợp với sự phát triển khoa học công nghệ
Để đảm bảo phát triển bền vững, có hiệu quả KCN, cần chuyển dịch cơ cấu nội bộ KCN theo hướng:
Chuyển từ KCN sản xuất sản phẩm thâm dụng lao động, tài nguyên sang KCN sử dụng nhiều vốn và công nghệ kỹ thuật cao.
Chuyển từ KCN bao gồm ngành sản xuất gây ô nhiễm môi trường sang sản phẩm công nghiệp sạch.
Chuyển từ KCN sản xuất kinh doanh đơn thuần sang KCN kết hợp sản xuất kinh doanh với nghiên cứu hoạt động khoa học công nghệ và triển khai công nghệ kỹ thuật cao.
Qua phân tích về cơ cấu đầu tư sản xuất trong các ngành, lĩnh vực ở các KCN vùng Đông Nam Bộ, có thể thấy tại các KCN vùng đang diễn ra quá trình này. Tuy nhiên, với tốc độ còn chậm. Vì vậy, trong thời gian tới, cần có biện pháp để đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu theo hướng tiến bộ này.
Đối với Ban quản lý các KCN: cần lựa chọn kỹ càng các dự án trước khi xét duyệt cấp phép đầu tư. Đối với các địa phương phát triển như TP. Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bình Dương nên lập danh mục các dự án ưu tiên phát triển. Theo đó, từ chối cấp phép các dự án không có tác dụng nhiều đến sự phát triển của quá trình chuyển dịch cơ cấu nội bộ KCN. Bên cạnh đó, đối với các dự án đã hoạt động trong các KCN cần đưa ra chuẩn mức chung quy định rõ chất lượng sản phẩm, trình độ công nghệ và mức độ ô nhiễm cho phép để từng bước nâng cao chất lượng chung các dự án đầu tư trong KCN.
Đối với cơ quan quản lý địa phương: cần có các biện pháp hỗ trợ như giảm thuế sử dụng đất, hỗ trợ ưu đãi đầu tư đối với các doanh nghiệp đầu tư trong các lĩnh vực khoa học công nghệ cao, sản xuất ít gây ô nhiễm. Ngoài ra, cần xây dựng chiến lược phát triển công nghệ vùng với hệ thống các văn bản pháp quy về hoạt động chuyển giao công nghệ nhằm tạo điều kiện tốt nhất cho hoạt động chuyển giao công nghệ trong các doanh nghiệp FDI.
Kết hợp hài hòa giữa các yếu tố cơ sở hạ tầng kinh tế, xã hội và môi trường
Phát triển KCN, KCX là chiến lược phát triển dài hạn ở vùng Đông Nam Bộ. Vì vậy, khi xem xét đến vấn đề phát triển KCN vùng không chỉ đánh giá dựa trên các chỉ tiêu hiệu quả kinh tế - xã hội trước mắt mà cần nhìn nhận về lâu dài ảnh hưởng sự phát triển đến đời sống xã hội của người dân trong vùng, mà đặc biệt là đối với môi trường sống của người dân vùng Đông Nam Bộ.
Cùng với sự phát triển nhanh của các KCN ở các địa phương trong vùng thời gian qua là hàng loạt các vấn đề môi trường nảy sinh. Theo thời gian, các vấn đề ấy càng trở nên gay gắt hơn đòi hỏi phải có biện pháp xử lý kịp thời từ phía các cơ quan quản lý địa phương, Ban quản lý các KCN và người dân trong vùng.
Đối với các cơ quan quản lý địa phương:
Xây dựng và hoàn thiện công tác quản lý chất thải công nghiệp tại các KCN, KCX trong vùng. Trước hết, cần minh bạch hóa hệ thống quản lý môi trường ở các KCN, tránh tính trạng thiếu rõ ràng, chồng chéo trong quản lý dẫn đến tình trạng chậm trễ trong giải quyết và khắc phục hậu quả các vấn đề môi trường mới phát sinh. Phân cấp trong quản lý là một ý kiến hay và cần được áp dụng triệt để. Tuy nhiên, cần xác định rõ phân cấp trong quản lý cũng gắn liền với phân cấp phạm vi chịu trách nhiệm để tránh tình trạng đùn đẩy, né tránh của các cơ quan quản lý.
Xây dựng các quy chuẩn, định mức môi trường chung để làm căn cứ xác định các doang nghiệp vi phạm và xét duyệt các dự án đầu tư.
Ban hành văn bản pháp luật quy định rõ hình thức xử phạt và mức độ áp dụng đối với từng loại vi phạm. Cần có biện pháp xử phạt nặng, thậm chí đối với các trường hợp gây hậu quả nghiêm trọng đối với môi trường sống có thể truy tố theo pháp luật hình sự để răn đe chung.
Bên cạnh việc xử phạt các doanh nghiệp vi phạm, cần có biện pháp khuyến khích đối với các doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả và tuân thủ nghiêm ngặt pháp luật về môi trường thông qua các biện pháp hỗ trợ về thuế môi trường, ưu đãi đầu tư …
Đối với Ban quản lý KCN
Trước tiên, cần xác định Ban quản lý KCN là cơ quan chịu trách nhiệm cao nhất trong trường hợp các sai phạm về môi trường phát sinh ảnh hưởng đến môi trường sống của người dân trong vùng. Do đó, ban quản lý các KCN cần xây dựng chuẩn mức môi trường, tiến hành cơ cấu lại các dự án đầu tư trong doanh nghiệp. Trên cơ sở đó, loại bỏ dần các doanh nghiệp hoạt động gây ô nhiễm cao.
Trong quá trình hoạt động, cần kiểm tra chặt chẽ hoạt động của các doanh nghiệp để đảm bảo các dự án hoạt động tuân thủ nghiêm chỉnh các cam kết môi trường.
Đối với người dân
Cần phối kết hợp với các cơ quan quản lý địa phương trong việc quản lý, giám sát hoạt động của doanh nghiệp trong KCN. Nếu có trường hợp vi phạm cần báo ngay cho cơ quan chức năng giải quyết.
Nhóm giải pháp hoàn thiện tổ chức quản lý KCN
Xác định rõ vai trò, nhiệm vụ và thẩm quyền trách nhiệm của Ban quản lý các KCN
Tuy vai trò, chức năng, nhiệm vụ quyền hạn của Ban quản lý KCN đã được quy định rõ trong Quy chế KCN, KCX, khu công nghiệp cao theo Nghị định số 36/CP của Chính phủ và Thông tư số 151/TT-BTCCBCP của Bộ Nội vụ hướng dẫn cụ thể về vấn đề này nhưng đến nay đã có nhiều thay đổi không phù hợp với tình hình thực tế phát triển KCN vùng Đông Nam Bộ. Do đó, để tiếp tục hoàn thiện công tác quản lý KCN cần làm rõ các nội dung sau:
Xác định rõ nội dung công tác quản lý Nhà nước của Ban quản lý làm những gì và đến đâu. Trong đó, phân định cụ thể các công việc nào do Ban quản lý chủ trì thực hiện một cách độc lập theo chức năng, thẩm quyền của mình, những việc nào phối hợp với các Sở, ban ngành cảu UBND cấp tỉnh để xử lý vấn đề có liên quan.
Cần xác định cụ thể những loại nội dung công việc hoạt động “hỗ trợ” cho doanh nghiệp, các dự án đầu tư vào KCN.
Về mặt thể chế chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Ban quản lý cần quy định theo 3 mức độ rõ ràng và cụ thể: loại công việc tham mưu và chuẩn bị văn bản để UBND cấp tỉnh trình Chính phủ , Thủ tướng Chính phủ và các Bộ, ngành xem xét quyết định; loại công việc tham mưu và chuẩn bị văn bản trình UBND cấp tỉnh xem xét quyết định theo thẩm quyền; công việc tự xem xét quyết định, tự chịu trách nhiệm theo phân cấp hoặc ủy quyền.
Kiện toàn lại các phòng chuyên môn nghiệp vụ
Tùy theo yêu cầu và đặc điểm từng địa phương trong vùng, quyết định tên gọi của các Ban quản lý và các tổ chức chuyên môn nghiệp vụ để dảm bảo tính phù hợp và hiệu quả thiết thực. Tuy nhiên, đối với một số tổ chức có tính chất “khung cứng” cần thống nhất chung về tên gọi các đơn vị chuyên môn nghiệp vụ của Ban quản lý như văn phòng, tổ chức thanh tra …
Có thể lập ra tổ chức chuyên trách để giúp Ban quản lý làm công tác thanh tra kiểm tra, hoặc lồng ghép giao cho các phòng chuyên môn nghiệp vụ tươg ứng làm công tác thanh tra, kiểm tra các hoạt động thuộc lĩnh vực mình phụ trách.
Song song với đó, cần xác định rõ biên chế làm công tác thanh tra, kiểm tra có KCN cấp tỉnh để đảm bảo ổn định kinh tế - chính trị - xã hội trên địa bàn.
Phân tách và kiện toàn các tổ chức hoạt động hỗ trợ dịch vụ công
Cần phân định rõ giữa nội dung công việc quản lý Nhà nước với nội dung hỗ trợ dịch vụ công để bóc tách và kiện toàn các tổ chức làm dịch vụ công của Ban quản lý.
Từ đó, thiết lập một số tổ chức hỗ trợ dịch vụ công như: Trung tâm hỗ trợ - dịch KCN, Trung tâm tư vấn – xúc tiến đầu tư, Trung tâm môi trường, Trung tâm lao động việc làm, Trung tâm đào tạo nghề. Việc thành lập các trung tâm hoạt động hỗ trợ - dịch vụ các KCN tiến tới chuyển dần các loại nội dung không nhất thiết do các phòng chuyên môn nghiệp vụ quản lý Nhà nước phải làm để chuyển giao cho các Trung tâm này thực hiện sẽ thiết thực hơn, hiệu quả hơn., phù hợp với xu hướng cải cách hành chính Nhà nước.
KẾT LUẬN
Hơn 15 năm đã trôi qua kể từ khi KCX Tân Thuận – KCX đầu tiên ra đời trong công cuộc đổi mới của Việt Nam, thực tế phát triển của các KCN vùng Đông Nam Bộ đã cho thấy phát triển KCN, KCX là chủ trương đúng đắn, mang tính đột phá trong tư duy và quản lý kinh tế của Đảng và Nhà nước ta.
Với ý nghĩa xây dựng và hình thành chiến lược kinh tế quan trọng đưa đất nước đến năm 2020 về cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại hóa, thời gian qua, các KCN vùng Đông Nam Bộ đã góp phần thúc đẩy phát triển công nghiệp vùng Đông Nam Bộ đưa tốc độ tăng trưởng kinh tế vùng lên mức cao nhất trong cả nước, góp phần giữ vững vị trí đầu tàu trong nền kinh tế quốc dân của vùng Đông Nam Bộ. Sự hình thành các trung tâm công nghiệp gắn với phát triển đô thị theo hướng lan tỏa đã tạo ra bước chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp và công nghiệp chế biến phục vụ xuất khẩu và tiêu thụ trong nước.
Bên cạnh đó, sự phát triển của các KCN trong vùng cũng đạt được những hiệu quả xã hội to lớn như: tạo thêm nhiều cơ hội việc làm, đặc biệt là cho lao động dư thừa ở nông thôn; hình thành nên một lực lượng lao động mới có chất lượng cao đáp ứng được yêu cầu phát triển của vùng, góp phần quan trọng nâng cao năng lực công nghệ vùng Đông Nam Bộ…
Tuy nhiên thực trạng phát triển của các KCN trong vùng thời gian qua đã bộc lộ những hạn chế nhất định. Để nâng cao hiệu quả hoạt động và vị thế của các KCN trong nền kinh tế, phát huy vai trò động lực trong phát triển kinh tế vùng, thời gian tới cần phải giải quyết triệt để các vấn đề trên đòi hỏi sự tham gia của nhiều bên, trong đó, Nhà nước vẫn đóng vai trò chủ đạo.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Trường Đại học Kinh tế quốc dân, Bộ môn Kinh tế đầu tư (2007), Giáo trình Kinh tế đầu tư, Hà Nội.
Sở Kế hoạch và Đầu tư các tỉnh vùng Đông Nam Bộ (2002, 2003, 2004, 2005, 2006, 2007), Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội.
Ban quản lý các khu công nghiệp thuộc các tỉnh vùng Đông Nam Bộ (2002, 2003, 2004, 2005, 2006, 2007), Báo cáo tình hình các khu công nghiệp.
Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2006), Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội vùng Đông Nam Bộ và vùng kinh tế trọng điểm phía Nam đến năm 2020.
Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2003), Điều chỉnh quy hoạch phát triển các khu công nghiệp tập trung ở Việt Nam đến năm 2010.
Bộ Công nghiệp (2006), Báo cáo tổng hợp dự án “Quy hoạch tổng thể phát triển công nghiệp vùng kinh tế trọng điểm phía Nam đến năm 2015, tầm nhìn đến năm 2020”.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 6288.doc