Tài liệu Đầu tư nước ngoài vào Việt Nam: PHẦN MỞ ĐẦU:
Với việc coi khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài (ĐTNN) là một bộ phận quan trọng của nền kinh tế, đóng góp lớn vào tăng trưởng GDP, sau 20 năm thu hút đầu tư (1988-2007), VN đã gặt hái được những thành công ngoài mong đợi.
Một trong những yếu tố cơ bản làm nên sức hút về ĐTNN trong 20 năm qua, là chủ trương nhất quán của Chính phủ VN trong việc coi ĐTNN là một bộ phận hữu quan của nền kinh tế. Đặc biệt, Luật Đầu tư nước ngoài được ban hành từ năm 1987 và Luật Đầu tư chung hợ... Ebook Đầu tư nước ngoài vào Việt Nam
19 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1333 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
p nhất Luật ĐTNN và Luật Khuyến khích đầu tư trong nước năm 2005 đã tạo ra sự thống nhất trong hệ thống pháp luật về đầu tư, tạo sân chơi bình đẳng, không phân biệt đối xử giữa các nhà đầu tư.
Cùng với Luật Đầu tư, Chính phủ đã ban hành một loạt các văn bản pháp luật tháo gỡ các khó khăn vướng mắc, trở ngại trong hoạt động của ĐTNN, tuỳ từng hoàn cảnh cụ thể, Chính phủ đã có những biện pháp hỗ trợ DN trong xây dựng hạ tầng cơ sở, như đường giao thông, hệ thống cấp/thoát nước, hoàn chi phí ứng trước xây dựng đường điện tới chân hàng rào, giảm giá, phí tiến tới quy định một giá điện, nước, cước viễn thông, vận tải... cho DN FDI nhằm giảm chi phí đầu vào, giúp tăng năng lực cạnh tranh.
Mặc dù đạt được những kết quả khả quan, song ĐTNN thời gian qua cũng bộc lộ những điểm cần hoàn thiện để đạt mục tiêu thu hút mạnh mẽ hơn nguồn vốn này. Một trong những điểm mấu chốt là cần hoàn thiện tư duy kinh tế.
Những vấn đề đặt ra cho nhà nước và các cơ quan có liên quan cũng như các doanh nghiệp trong nước về thực trạng và những giải pháp cho tình hình hiện nay đang được dư luận quan tâm. Vì vậy em chọn đề tài này để nghiên cứu với mục đích muốn hiểu rõ hơn được phần nào về đầu tư nước ngoài vào Việt Nam.
Đây là một vấn đề rộng cả về mặt lý luận cũng như thực tiễn, dù rất cố gắng tìm kiếm tài liệu và nghiên cứu nhưng với kiến thức còn hạn chế nên bài nghiên cứu của em không thể tránh khỏi những thiếu sót, rất mọng nhận được sự góp ý của thầy cô.
Em xin chân thành cảm ơn cô giáo… đã hướng dẫn em rất nhiệt tình trong quá trình nghiên cứu.
PHẦN NỘI DUNG:
1. Khái quát chung về đầu tư nước ngoài
Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam được ban hành tháng 12/1987 đã tạo ra khuôn khổ pháp lý cơ bản cho các hoạt động đầu tư nước ngoài trực tiếp tại Việt Nam. Trước đòi hỏi của thực tế và sự góp ý của các nhà đầu tư nước ngoài, Luật đã có một số lần được sửa đổi, bổ sung, nổi bật là các lần sửa đổi vào những năm 1996 và năm 2002 nhằm tạo ra một môi trường đầu tư thông thoáng, hấp dẫn hơn để khuyến khích các nhà đầu tư nuớc ngoài đầu tư vào những mục tiêu trọng điểm và những lĩnh vực ưu tiên, nhất là trong ngành công nghiệp chế biến, chế tạo hướng vào xuất khẩu và các vùng kinh tế trọng điểm của đất nước.
Bằng việc cho ra đời Luật đầu tư 2005 và Luật Doanh nghiệp 2005 (cùng có hiệu lực từ 1/7/2006) Chính phủ Việt Nam đã tạo ra bước tiến dài trong việc điều chỉnh, cải tiến để tạo thêm hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nước ngoài như được quyền đầu tư kinh doanh tất cả những gì pháp luật không cấm, thay vì chỉ được làm những việc cơ quan Nhà nước cho phép. Nguyên tắc này được áp dụng cho khu vực kinh tế tư nhân trong nước từ năm 2000, nay được áp dụng chung cho cả khu vực nước ngoài.
Ngoài ra việc đẩy mạnh tháo gỡ những khó khăn vướng mắc cho các nhà đầu tư nước ngoài, chỉnh sửa thuế thu nhập cá nhân theo hướng hạ thấp mức thuế, đẩy mạnh việc thực hiện cơ chế một cửa, giảm giá dịch vụ viễn thông xuống ngang bằng mức giá tại các nước trong khu vực, nâng cấp cơ sở hạ tầng, mở rộng lĩnh vực đầu tư, cho phép các doanh nghiệp nước ngoài được đầu tư vào một số lĩnh vực trước đây chưa cho phép như viễn thông, bảo hiểm, kinh doanh siêu thị… do vậy đã tạo nên một môi trường đầu tư hấp dẫn hơn.
Những biện pháp cải cách trên đã trở thành một trong những yếu tố quan trọng góp phần khôi phục và tăng nhanh nguồn vốn FDI đầu tư vào Việt Nam trong năm 2005. FDI tăng nhanh trở lại còn do các nguyên nhân quan trọng khác như sự ổn định về chính trị, kinh tế, an ninh và quốc phòng; nền kinh tế tiếp tục đạt mức tăng trưởng cao; công cuộc đổi mới kinh tế theo cơ chế thị trường tiếp tục được duy trì và đẩy mạnh; mức sống của người dân được nâng cao góp phần làm tăng mức cầu nội địa; tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế được đẩy mạnh, uy tín và thương hiệu của các loại hàng hóa sản xuất tại Việt Nam trên các thị trường thế giới ngày càng được nâng cao.
2.Nổi bật hiệu quả cuả đầu tư nước ngoài:
Tính đến thời điểm này năm ngoái cả nước thu hút hơn 15 tỷ USD vốn đầy tư trực tiếp nước ngoài và dự kiến năm nay sẽ thu hút trên 16 tỷ USD gấp rưỡi so với lượng vốn trên 10 tỷ USD của năm 2006. Điểm nổi bật trong thu hút đầu tư nước ngoài năm nay là có nhiều tập đoàn, công ty xuyên quốc gia có thương hiệu mạnh trên thế giới đầu tư vào nước ta với số vốn lớn hơn; các dự án thuộc lĩnh vực công nghệ cao như: điện tử, luyện kim, các ngành dịch vụ tài chính, ngân hàng, bảo hiểm…sau 1 năm gia nhập WTO, thu hút ĐTNN của Việt Nam đã có những bước phát triển vượt bậc với 20,3 tỉ USD vốn đăng ký. Đây là một kết quả thực sự nổi bật.
FDI vào Việt Nam đã đóng góp cho nền kinh tế rất lớn. Hiện có trên 8.590 dự án của 81 nước và vùng lãnh thổ đang hoạt động có tổng vốn đầu tư trên 83,1 tỉ USD, trong đó vốn thực hiện đạt 29,2 tỷ USD. Vốn FDI chiếm tỷ trọng 18% tổng vốn đầu tư xã hội, đóng góp 16,2% GDP, chiếm 19,78% kim ngạch xuất khẩu (chưa kể dầu thô) và 37% giá trị sản xuất công nghiệp của cả nước.
Tác động cụ thể của dòng vốn FDI là đã tạo ra các khu công nghiệp tập trung. Hiện nay cả nước có trên 150 khu công nghiệp - khu chế xuất, dự kiến đến năm 2015 sẽ thành lập mới thêm 115 khu công nghiệp và mở rộng 27 khu công nghiệp.
Rõ ràng FDI đã tạo ra những khu công nghiệp tập trung để các doanh nghiệp nước ngoài và Việt Nam vào sản xuất tại đó, thay vì những nhà máy công nghiệp trước đây nằm rải rác trong các thành phố. Giá trị sản xuất công nghiệp của các khu công nghiệp trên cả nước chiếm khoảng 30% tổng giá trị sản xuất công nghiệp cả nước. Vì là khu công nghiệp tập trung nên thủ tục cấp phép tại các khu công nghiệp hoàn thiện hơn theo cơ chế một cửa, đơn giản và hạ tầng cũng như dịch vụ hải quan thuận tiện.
Một thành công nữa là Việt Nam đã thu hút được các tập đoàn lớn vào kinh doanh tại Việt Nam. Điều đó đã tạo ra uy thế cho Việt Nam cũng như giá trị sản phẩm trên trường quốc tế. Hiện có trên 110 các tập đoàn đa quốc gia (TNCs) trong danh sách 500 tập đoàn đa quốc gia lớn nhất thế giới (do tạp chí uy tín Fortune 500 công bố) đã đầu tư vào Việt Nam với tổng vốn đăng ký là 11,09 tỉ USD, chiếm một tỉ trọng lớn, 20% tổng vốn FDI của cả nước.
Các tập đoàn này đầu tư vào các lĩnh vực giữ vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế của Việt Nam. Ví dụ như trong lĩnh vực dầu khí có BP, Statoil, ConocoPhilips, Petronas, Chevron; điện năng lượng có BP, EDF, Tokyo Electric, AES; ôtô-xe máy có Honda, Toyota, DaimlerCrysler, Yamaha...; điện tử có Sony, Matsushita, Samsung, Toshiba, Cannon...
3.Thực trạng và triển vọng:
3.1 Tình hình FDI từ 1988 đến 2006
Tính chung, giai đoạn 1988-2006, cả nước hiện có 6.813 dự án đầu tư nước ngoài còn hiệu lực với tổng vốn đăng ký trên 60 tỷ USD. Đến nay đã có 76 quốc gia và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư tại Việt Nam, trong đó các nước châu Á chiếm 67% tổng vốn đăng ký; các nước châu Âu chiếm 29% tổng vốn đăng ký và các nước châu Mỹ chiếm 29% tổng vốn đăng ký. Riêng 5 nền kinh tế dẫn đầu về đầu tư vào Việt Nam là Đài Loan, Nhật Bản, han, Hồng Kông và Singapore đã chiếm 60,6% tổng vốn đăng ký.
Về cơ cấu đầu tư, lĩnh vực công nghiệp và xây dựng thu hút nhiều dự án đầu tư nhất, chiếm 67,5% về số dự án và trên 62% tổng vốn đầu tư, tiếp theo là lĩnh vực dịch vụ, nông-lâm-ngư nghiệp.
Những thành phố lớn ở các vùng kinh tế trọng điểm vẫn là những địa phương dẫn đầu về thu hút đầu tư nước ngoài. Cụ thể, TP.Hồ Chí Minh chiếm gần 30,2% số dự án và 23,4% tổng vốn đăng ký; Hà Nội chiếm 11,11% số dự án, 16,74% tổng vốn đăng ký; Đồng Nai chiếm 11,45% số dự án và 15% tổng vốn đăng ký; Bình Dương chiếm 18,44% số dự án, gần 10% tổng vốn đăng ký. Hình thức đầu tư chủ yếu các các dự án đầu tư vào Việt Nam là 100% vốn nước ngoài, chiếm trên 76%; các dự án liên doanh chiếm 20,6%, số còn lại được thực hiện theo hình thức hợp doanh, Công ty cổ phần và Công ty quản lý vốn.
3.2 Kết quả của năm 2006-2007
Năm 2006 ghi nhận một con số kỷ lục. Vốn đầu tư nước ngoài đăng ký vào Việt Nam đạt 10 tỷ USD – cao nhất trong suốt gần 2 thập kỷ qua, kể từ khi thực hiện Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1987. FDI thu hút năm 2006 tăng hơn 49,1% so với năm 2005, và vượt 57% kế hoạch đầu năm đề ra. Kết quả này là con số cao nhất từ trước đến nay, vì kỷ lục cũ là năm 1996 khi FDI vào Việt Nam đạt mức 8,6 tỷ USD. Hơn cả mong đợi, đầu tư nước ngoài vào Việt Nam năm 2006 không chỉ là sự hồi phục mạnh mẽ mà thực sự đã có bước đột phá ngoạn mục.
Trong số vốn thu hút, vốn cấp mới đạt 7,839 tỷ USD với 833 dự án được phép; vốn tăng thêm 2,632 tỷ USD. Bên cạnh đó, mức vốn đưa vào thực hiện đạt 4,1 tỷ USD, tăng 18,7%. Quy mô các dự án mới có mức vốn bình quân đạt 9,4 triệu USD tăng cao hơn so với năm 2005 là 4,6 triệu USD/dự án. Bà Rịa-Vũng Tàu là địa phương dẫn đầu về số vốn cấp mới với 1,69 tỷ USD chiếm 22,39% số vốn đầu tư cả nước, trong đó chỉ riêng dự án thép Posco đã có mức vốn 1,12 tỷ USD. TP.Hồ Chí Minh đứng thứ 2 với số vốn đăng ký 1,3 tỷ USD. Đặc biệt, Hà Tây từ vị trí 34 năm ngoái vươn lên chiếm vị trí thứ 3 của Bình Dương với 17 dự án và 805 triệu USD. Bình Dương đứng thứ 4 và Quảng Ngãi đứng thứ 5. Phân theo nguồn đầu tư, Hàn Quốc dẫn đầu chiếm 31,9% số vốn cấp mới, Hồng Kông đứng thứ 2 với 15% vốn cấp mới, Nhật Bản đứng thứ 3 với 10,3%, Mỹ chiếm vị trí thứ 4 với 9,5% số vốn cấp mới.
Trong con số 10 tỷ USD đăng ký năm 2006, có tới gần 2,4 tỷ USD vốn tăng (chiếm gần ¼ tổng vốn) từ các dự án đã hoạt động tại Việt Nam, trong đó nhiều dự án tăng vốn lần thứ hai. Điều này minh chứng thuyết phục cho nhận xét rằng đầu tư nước ngoài vào Việt Nam không phải là một “làn sóng thời thượng”. Các doanh nghiệp nước ngoài đã đến Việt Nam và nhận thấy những cơ hội và họ đã quyết định tăng quy mô vốn tại thị trường này. Song song với số vốn cấp mới, vốn FDI thực hiện đạt khoảng 4,1 tỷ USD, tăng 24,2% so với năm trước, cũng là mức cao nhất từ trước tới nay.
Thu hút vốn FDI năm 2006 đã đánh dấu một bước chuyển mới về chất mà cụ thể chúng ta đã thu hút được nhiều dự án lớn của các Tập đoàn xuyên quốc gia có công nghệ cao. Lần đầu tiên Việt Nam có những dự án công nghiệp lớn trên 1 tỷ USD (Công ty Thép Osco 1,126 tỷ USD) và lần đầu tiên chúng ta thu hút được những dự án công nghệ cao như dự án đầu tư sản xuất chíp điện tử của Intel với số vốn gần 1 tỷ USD. Nhiều Tập đoàn công nghiệp lớn trên thế giới đã chọn Việt Nam là điểm đầu tư sản xuất cho cả khu vực, đưa Việt Nam tham gia vào chu trình sản xuất mang tính toàn cầu của các Tập đoàn lớn.
Về hoạt động sản xuất kinh doanh, khu vực doanh nghiệp FDI cũng tiếp tục đạt mức tăng trưởng cao, với doanh thu trong năm nay ước đạt 29,4 tỷ USD, tăng 31,3% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, doanh thu xuất khẩu (trừ dầu thô) đạt khoảng 14,6 tỷ USD, tăng 31,2% so với cùng kỳ, nếu tính cả dầu thô ước đạt 22,6 tỷ USD, chiếm trên 57% giá trị xuất khẩu của cả nước. Năm 2006, sản xuất công nghiệp của khu vực có vốn FDI tăng 19,5%, tăng cao hơn mức tăng trưởng chung của công nghiệp cả nước. Riêng giá trị sản xuất công nghiệp của các doanh nghiệp trong khu công nghiệp, khu chế xuất ước đạt 14 tỷ USD, tăng 25% so với năm 2005. Các doanh nghiệp có vốn FDI cũng nộp ngân sách nhà nước đạt 1,26 tỷ trong năm 2006, tăng 17,3% so với năm 2005 và tạo việc làm cho trên 1,12 triệu lao động trực tiếp, chưa kể đến số lao động gián tiếp.
Năm 2007 là năm đầu tiên Việt Nam gia nhập WTO, thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài là rất tốt.
Qua số liệu đầu tư nước ngoài trên thế giới, cho thấy 70-75% dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài di chuyển trong nội bộ các nước phát triển, chỉ có 25-30% di chuyển đến các nước đang phát triển và kém phát triển. Điều đó cho thấy các nước chủ đầu tư không phải chỉ dựa vào khai thác lợi thế của các nước nhận đầu tư là có nguồn tài nguyên dồi dào và lao động rẻ. Tài nguyên dồi dào và lao động rẻ không phải là nhân tố quan trọng thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Ở nước ta, bên cạnh nguồn vốn trong nước đóng vai trò quyết định, vốn đầu tư nước ngoài là một trong những nguồn vốn quan trọng. Trong nguồn vốn nước ngoài, FDI được coi là nguồn vốn thích hợp đối với nước ta. Vai trò của FDI trong những năm qua đã được khẳng định, đóng góp tích cực vào tăng trưởng và phát triển kinh tế đất nước. Đầu tư nước ngoài hiện chiếm khoảng trên 13% GDP cả nước.
Cạnh tranh thu hút vốn đầu tư cũng đang diễn ra quyết liệt giữa nước ta với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới, nhất là các nước khu vực Đông và Nam Âu, khu vực Đông Nam Á với hoàn cảnh tương tự, nhưng có một số mặt lợi thế hơn ta.
Theo đại sứ Nhật Bản tại VN trên thế giới đang có cuộc cạnh tranh đầu tư rất khốc liệt và VN cần phải nhìn nhận rằng môi trường đầu tư của VN chưa hấp dẫn. Khi hàng rào quan thuế bị bãi bỏ, các công ty đa quốc gia sẽ tập trung sản xuất tại những nước có phí tổn thấp nhất trong khu vực AFTA. Thách thức của VN là làm sao giữ chân các cơ sở hiện có của các công ty đa quốc gia và tạo cơ hội để các công ty đa quốc gia đầu tư vào VN.
Thực vậy nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào VN đang có xu hướng chựng lại. Giai đoạn 1991-1995 vốn đầu tư nước ngoài chiếm trên 25% tổng vốn đầu tư toàn xã hội, giai đoạn 1996-2000 chiếm 24%, 2 năm 2001-2002 chỉ chiếm hơn 18,5%.
Chúng ta thường nhấn mạnh Việt Nam là thành viên của ASEAN, nằm trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương với những lợi thế về vị trí địa lý, tài nguyên và lao động, đặc biệt là môi trường kinh tế chính trị ổn định, nên là thị trường có tiềm năng thu hút vốn FDI. Qua số liệu đầu tư nước ngoài trên thế giới, cho thấy 70-75% dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài di chuyển trong nội bộ các nước phát triển, chỉ có 25-30% di chuyển đến các nước đang phát triển và kém phát triển. Điều đó cho thấy các nước chủ đầu tư không phải chỉ dựa vào khai thác lợi thế của các nước nhận đầu tư là có nguồn tài nguyên dồi dào và lao động rẻ. Tài nguyên dồi dào và lao động rẻ không phải là nhân tố quan trọng thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Để thấy rõ các nguyên nhân khiến môi trường đầu tư VN kém hấp dẫn thu hút FDI, chúng ta thây phụ thuộc khá nhiều vào chính sách nhà nước đối với hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài. Thực vậy với số dân tương đồng với VN, tỉnh Quảng Đông thu hút đầu tư từ Nhật nhiều hơn gấp đôi, khoảng 20 tỷ yên. Năm 2001 VN thu hút số vốn đầu tư từ Nhật chỉ bằng 1/33 của Trung Quốc, 1/12 của Thái Lan, bằng 1/5 cuả Malaysia hoặc Indonesia. Trung Quốc trở thành nước thu hút đầu tư nhiều nhất thế giới.
3.3 Triển vọng
Triển vọng tăng trưởng đầu tư nước ngoài của Việt Nam trong những năm tới, theo nhiều chuyên gia nghiên cứu trong và ngoài nước, còn do Việt Nam đã hội tụ đủ 3 điều kiện cơ bản để các nhà đầu tư quyết định bỏ vốn đầu tư là môi trường đầu tư ổn định, có tiềm năng và có tính dài hạn.
Môi trường đầu tư kinh doanh của Việt Nam ngày càng được cải thiện, với sự ra đời của Luật doanh nghiệp, Luật đầu tư đã góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật và tạo dựng môi trường cởi mở hơn cho nhà đầu tư. Việc phân cấp toàn diện về quản lý đầu tư nước ngoài cho địa phương theo quy định mới của Chính phủ đã tạo điều kiện để nâng cao vai trò quản lý và tính chủ động của các địa phương trong quản lý đầu tư. Tại Diễn đàn Đầu tư APEC tháng 11/2006, các nhà đầu tư tại Việt Nam đều đánh giá tích cực những bước cải cách về môi trường kinh doanh của nước sở tại, đồng thời, họ cũng kêu gọi những nhà đầu tư khác vào làm ăn ở Việt Nam.
Việt Nam đang được coi là một thị trường đầu tư đầy triển vọng và có tính dài hạn cao. Theo kết quả một cuộc thăm dò được Ngân hàng Hợp tác Quốc tế Nhật Bản (JBIC) công bố mới đây, Việt Nam đã lần đầu tiên vượt qua Thái Lan, đứng ở vị trí thứ ba trong danh sách 10 nước có triển vọng nhất đối với các doanh nghiệp Nhật Bản, chỉ sau Trung Quốc và Ấn Độ. Đặc biệt với việc tháng 11/2006 Việt Nam chính thức trở thành thành viên WTO đã tạo điều kiện cho việc mở rộng thị trường xuất khẩu và kinh doanh dịch vụ ra thế giới. Với tình hình chính trị ổn định, nền kinh tế mới nổi tăng trưởng nhanh, Việt Nam đã trở thành điểm ngắm đầu tư của những nhà đầu tư nước ngoài. Một ví dụ tiêu biểu là sự kiện 100 Tập đoàn nằm trong danh sách của Tạp chí Fortune tới Việt Nam tham gia các sự kiện của APEC, và hàng loạt hợp đồng giá trị cao đã được ký ngay bên lề.
Bên cạnh đó, một lý do hết sức quan trọng đó là sự phục hồi của dòng đầu tư nước ngoài. Theo Tổ chức Thương mại và Phát triển của Liên hợp quốc (UNCTAD), đầu tư nước ngoài giảm trong 3 năm đầu của thập kỷ mới, nhưng đã tăng mạnh trở lại trong 3 năm gần đây (năm 2004 tăng 27% so với 2003 và năm 2005 tăng 29% so với 2004). Trong số các nước đang phát triển, Đông Nam Á đang là địa chỉ ưa chuộng của các nhà đầu tư.
Theo Cục đầu tư nước ngoài, hiện vốn liếng dự án đầu tư nước ngoài dành cho năm 2007 còn khá tiềm năng, hứa hẹn con số 10 tỷ USD vốn đầu tư cho năm tới sẽ tiếp tục được duy trì. Cụ thể, Mỹ có khoảng 3-4 dự án lớn tầm cơ xấp xỉ dự án của Intel đang chuẩn bị các thủ tục để vào Việt Nam. Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Kông, Singapore là những nhà đầu tư truyền thống, đầy tiềm lực cũng đang có một số dự án quy mô lớn trong giai đoạn chuẩn bị. Bên cạnh đó, thực hiện cam kết gia nhập WTO, thời gian tới Việt Nam sẽ mở cửa đầu tư một số lĩnh vực như ngân hàng, viễn thông, bán lẻ, điện lực và tài chính. Đây cũng là một điều kiện tạo sức hút lớn với các nhà đầu tư nước ngoài.
Tuy nhiên, bên cạnh những nhân tố tích cực đó, còn không ít những cản trở đối với thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài trong những năm tới, trong đó nổi bật lên nhất là những yếu tố sau:
Cản trở lớn nhất là sự yếu kém về năng lực cạnh tranh trên cả 3 cấp độ: quốc gia, doanh nghiệp và sản phẩm. Theo đánh giá năng lực cạnh tranh của WEF (Diễn đàn kinh tế thế giới), năm 2006, Việt Nam xếp hạng 77/125 quốc gia, tụt 3 hạng so với năm 2005.
Thứ hai, môi trường kinh doanh, mặc dù đã được cải thiện đáng kể trong những năm qua, nhưng nhìn chung, môi trường đầu tư ở Việt Nam vẫn còn nhiều bất cập, đặc biệt là chi phí sản xuất có xu hướng gia tăng do giá cả một số mặt hàng, nhất là giá nhiên liệu (giá điện, than) tăng đáng kể sẽ ảnh hưởng đến giá thành và tính cạnh tranh của một số sản phẩm. Chất lượng nguồn nhân lực của Việt Nam còn yếu kém, dẫn tới sự giảm lợi thế và khả năng cạnh tranh về mặt lao động. Hơn nữa, cải cách hành chính mặc dù đã tích cực triển khai các năm qua, nhưng còn nhiều vấn đề đòi hỏi cần tiếp tục tháo gỡ trong những năm tới.
Thứ ba, hệ thống kết cấu hạ tầng của nước ta tuy đã được nâng cấp, nhưng nhìn chung vẫn còn yếu kém so với các nước trong khu vực. Đặc biệt, tình trạng thiếu điện nếu không được khắc phục sẽ ảnh hưởng lớn tới hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp và gây tâm lý lo ngại đối với các nhà đầu tư mới. Tương tự, sự tăng trưởng nhanh của nền kinh tế cũng đang dẫn tới nguy cơ quá tải của hệ thống giao thông, cảng biển, thông tin viễn thông và cấp thoát nước.
Tóm lại, triển vọng thu hút đầu tư của Việt Nam trong những năm tới đang đứng trước các cơ hội rất lớn. Tuy nhiên, những cản trở đối với dòng vốn từ bên ngoài đổ vào Việt Nam cũng đang đặt ra nhiều thách thức đòi hỏi nhà nước và các cơ quan quản lý, khuyến khích đầu tư cần có những giải pháp kịp thời nhằm tháo gỡ những khó khăn cho các nhà đầu tư, cải thiện môi trường kinh doanh và cải thiện hình ảnh Việt Nam trong con mắt các nhà đầu tư nước ngoài.
4. Hạn chế
Tuy nhiên tình hình thu hít vốn và sử dụng vốn đầu tư của nước ngaofi vào nước ta còn tồn tại một số hạn chế nhất định
Thứ nhất : Có 2 quan điểm trong thu hút FDI vào Việt Nam. Quan điểm thứ nhất cho rằng tăng thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài về mặt số lượng, bất kể vào lĩnh vực nào quy mô bao nhiêu, miễn là đầu tư, quan điểm thứ hai cho rằng đã đến lúc chúng ta phải tăng thu hút FDI về mặt chất lượng, ưu đãi đối với những lĩnh vực công nghệ kỹ thuật cao, những lĩnh vực sản xuất tư liệu sản xuất. Quan điểm thứ nhất hiện nay là phổ biến, hầu như các tỉnh, thành phố đều tập trung mọi cố gắng thu hút FDI vào địa bàn của mình bất kể ngành nào, sản phẩm gì, vì vậy FDI quá tập trung vào các ngành chế biến lương thực - thực phẩm: rượu, bia, nước giải khát, các ngành sản xuất hàng tiêu dùng, chưa có sự đầu tư thích đáng vào ngành sản xuất tư liêu sản xuất, chỉ đầu tư lắp ráp cơ khí điện tử
Thứ hai: Chính sách nội địa hóa chưa thỏa đáng. Đáng lẽ cần phải tăng cường nội địa hóa thì chính sách của Việt Nam còn chưa chú trọng, chính vì lẽ đó đã làm cho sản phẩm của FDI ở Việt Nam đắt hơn ở Thái Lan và các nước khác. Ví dụ chính sách nội địa hóa của ta đối với ngành công nghiệp ô tô xe máy ít tham vọng hơn các quốc gia khác trong ASEAN như Thái Lan, Malaysia,… Đối với việc lắp ráp hoàn tất, Việt Nam đòi hỏi 5% vào năm thứ 5, là 30% vào năm thứ 10, Thái Lan đòi hỏi 60% vào năm thứ 5. Chính sách đó ảnh hưởng quan trọng đến sự phát triển các ngành liên quan và hỗ trợ, các ngành này phát triển rất ít và rất chậm trong thời gian qua và phải nhập phụ tùng linh kiện từ bên ngoài, do đó làm tăng giá thành sản phẩm, giảm khả năng cạnh tranh
Thứ ba: VN không có chính sách chuyển giao công nghệ như các nước Trung Quốc , Hàn Quốc… Vì vậy sau 10 năm nước ta có nhiều hãng ô tô nổi tiếng thế giới đầu tư nhưng các chuyên gia kêu rằng có lẽ VN vĩnh viễn sẽ không có ngành công nghiệp ô tô. Để có ngành CN ôtô phải đạt tỷ lệ nội địa hóa 40%, giá thành của ô tô sản xuất trong nước cao hơn khu vực khá lớn là do tỷ lệ nội địa hóa quá thấp, đến nay tỷ lệ nội địa hóa của các doanh nghiệp ô tô từ 2-10%. Tham gia WTO năm 2005 nếu không đạt tỷ lệ nội địa hóa thấp nhất là 20% thì công nghiệp ô tô VN sẽ khó có.
Thứ tư : Chính sách giá chưa hợp lý, chi phí đầu tư vào VN còn quá cao, làm giảm khả năng cạnh tranh của sản phẩm VN, làm nản lòng các nhà đầu tư. Theo JETRO Nhật bản cho biết cước phí viễn thông, chi phí lưu thông giao nhận, điện.. hiện nay tại VN quá cao. Cước điện thoại quốc tế của VN cao gấp khoảng 7 lần so với Singapore, gần 6 lần so với Malaysia, 4 lần so với Jakarta, khoảng 3 lần so với Bangkok và gần 2 lần so với Trung Quốc. Chi phí lưu thông giao nhận nếu gửi hàng container thì cao gần gấp 3 lần so với Singapore, khoảng 2,5 lần so với Kuala Lumpur, khoảng 2 lần Jakarta, Thượng Hải. Các chi phí và lệ phí liên quan đến giao nhận tại các cảng biển và sân bay quá cao. Có 12 loại phí và lệ phí bất hợp lý mà doanh nghiệp phải nộp như phí lưu kho sân bay 1.200 đ/kg, phí an ninh 230 đ/kg, phí lao vụ 0,06 USD/kg, phụ phí xăng dầu 30 USD/container 20 feet, 60 USD/container 40 feet, hàng lẻ 2,5 USD/m3, phí nâng hạ 300.000-360.000đ/container 20 feet, thu phí đường bộ 80.000 đồng/ lượt đối với xe tải 18 tấn trở lên. Giá điện cao hơn 50%, giá nước cao hơn 71% so với ASEAN, Trung Quốc.
Để giảm chi phí đầu vào, mà hiện nay chủ yếu là do các doanh nghiệp nhà nước nắm, cần ngăn chặn việc biến độc quyền nhà nước thành độc quyền doanh nghiệp đối với các doanh nghiệp nhà nước. Cần xây dựng Luật cạnh tranh và nhanh chóng thông qua.
Thứ năm : Chi phí cho đất đai ngày càng tăng. Từ năm 1996 trở lại đây thị trường kinh doanh đất sôi động. Đất đai ngày càng giá cao. Giá đất lớn, giá đền bù lớn, giá san lấp mặt bằng lớn. Giá cả đất đai của thành phố VN cao hơn so với các nước trong khu vực, giá thuê đất TP.HCM gấp 4-6 lần Trung Quốc, 6 lần Thái Lan. Tình hình này ảnh hưởng lớn đến thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Thứ sáu: Ngoài ra quan điểm nới lỏng đầu vào quản lý chặt đầu ra, hậu kiểm thay thế tiền kiểm như các nhà đầu tư nước ngoài từng nói chính phủ VN chỉ khuyến khích đầu tư không khuyến khích sản xuất, tiền hậu bất nhất không nhất quán. Đó là một trong những nguyên nhân làm cho thu hút FDI của ta giảm. Bài học Trung Quốc là trước cho, sau lấy có tính làm ăn lâu dài là những kinh nghiệm trong thu hút FDI.
Tóm lại nguyên nhân chủ yếu khiến môi trường đầu tư VN giảm thu hút đầu tư nước ngoài là do giá đầu vào như nhiên liệu, nguyên liệu, vật liệu còn cao, chi phí cơ sở hạ tầng như cước viễn thông quốc tế, tiền thuê đất, chi phí lưu thông hàng hóa cao, thuế thu nhập của người nước ngoài cao nhất tại khu vực ASEAN. Ngoài ra môi trường đầu tư VN thiếu hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, không nhất quán và không minh bạch .
5. Một số giải pháp
-Cần chú trọng phát triển các ngành sử dụng nhiều lao động, song điều đó không có nghĩa là không chú trọng thu hút FDI vào phát triển các ngành sản xuất tư liệu sản xuất, công nghiệp nặng để đảm bảo sản xuất hiệu quả, nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm trong hội nhập kinh tế quốc tế. Bài học quan trọng nhất của các nước NIC trong những năm qua là phải xây dựng được một cơ cấu sản phẩm hợp lý, một cơ cấu sản phẩm phải tự sản xuất các tư liệu sản xuất cung cấp cho toàn bộ nền kinh tế, tập trung thu hút FDI vào các sản phẩm có hàm lượng kỹ thuật, vốn cao do các sản phẩm công nghiệp nhẹ sử dụng nhiều lao động mất khả năng cạnh tranh quốc tế, sức lao động không còn là lợi thế nữa
-Cần có chính sách ưu tiên phát triển ngành trong từng tỉnh và khu công nghiệp mà vừa qua chúng ta còn chưa có. Trước hết cần coi trọng và nâng cao hiệu quả đầu tư nước ngoài dựa trên lợi thế của từng tỉnh và khu công nghiệp. Đối với một số vùng cần nêu bật định hướng thu hút FDI vào một số ngành, các ngành sản xuất tư liệu sản xuất, các ngành công nghiệp có hàm lượng khoa học và vốn cao,các ngành hỗ trợ và liên quan.
-chính sách nội địa hóa của ta cần phải tích cực hơn và phải được giải quyết từ đầu từ gốc, thể hiện khi duyệt các dự án đầu tư nước ngoài và quy định thời gian nội địa hóa ngắn. Vừa qua Bộ tài chính đưa ra chính sách tỷ lệ nội địa hóa càng cao, thuế suất càng giảm. Tỷ lệ nội địa hóa trên 65-80% thì thuế nhập khẩu phụ tùng chỉ còn 5-7% và trên 80% thì thuế nhập khẩu chỉ còn 3-5%, 40% thì thuế nhập khẩu linh kiện là 15%. Khuyến khích nội địa hóa trong khi chính sách nội địa hóa đối với FDI đưa ra tỷ lệ thấp, mặt khác năng lực sản xuất phụ tùng, máy móc để lắp ráp xe máy của doanh nghiệp trong nước còn yếu, giá thành cao thì cũng vẫn chỉ tiếp tục làm nẩy sinh gian lận.
-Cần phải có chính sách chuyển giao công nghệ đối với các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài, nếu không chúng ta sẽ chỉ là một thị trường tiêu thụ khổng lồ với dân số 80 triệu dân cho các nước.
-Cần ngăn chặn việc biến độc quyền nhà nước thành độc quyền doanh nghiệp đối với các doanh nghiệp nhà nước. Cần xây dựng Luật cạnh tranh và nhanh chóng thông qua.
-Chính phủ cần kiểm soát chặt thị trường bất động sản do thị trường bất động sản là một thị trường không hoàn hảo, dễ dẫn đến những độc quyền trong cạnh tranh, tạo nên cơn sốt giá, nâng giá đất giả tạo, làm cho chi phí đầu tư của FDI nước ta cao hơn so với các nước trong khu vực.
-Để tranh thủ cơ hội thuận lợi nhằm tạo một làn sóng đầu tư mới, đòi hỏi phải có những giải pháp thích hợp nhằm khắc phục khó khăn, trở ngại, tiếp tục cải thiện mạnh mẽ môi trường đầu tư. Các chính sách mới phải đủ sức hấp dẫn để khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào các dự án thuộc các lĩnh vực ưu tiên như: sản xuất vật liệu mới, năng lượng mới; sản xuất sản phẩm công nghệ cao, công nghệ sinh học, công nghệ thông tin; cơ khí chế tạo; các dự án nuôi trồng, chế biến nông, lâm, thuỷ sản; sản xuất giống nhân tạo, giống cây trồng và giống vật nuôi; bảo vệ môi trường sinh thái; nghiên cứu, phát triển và ươm tạo công nghệ cao; xây dựng và phát triển kết cấu hạ tầng; dự án quan trọng có quy mô lớn; phát triển giáo dục, đào tạo, y tế; phát triển ngành nghề truyền thống và những lĩnh vực sản xuất, dịch vụ khác cần khuyến khích.
Ngoài ra, cần tiếp tục tập trung thu hút FDI từ các tập đoàn đa quốc gia (TNCs) theo cả hai hướng: thực hiện những dự án lớn, công nghệ cao hướng vào xuất khẩu; tạo điều kiện để một số TNCs xây dựng các trung tâm nghiên cứu, phát triển, vườn ươm công nghệ gắn với đào tạo nguồn nhân lực. Nghiên cứu để có các giải pháp thu hút đầu tư thích hợp đối với TNCs của các nước phát triển, trước hết là Nhật Bản, Hoa Kỳ và EU.
Bên cạnh đó cần triển khai thực hiện có hiệu quả Luật Đầu tư và Luật Doanh nghiệp năm 2005. Ngoài các Nghị định hướng dẫn đã được ban hành, cần tiếp tục xây dựng các văn bản hướng dẫn còn thiếu và các văn bản hướng dẫn thi hành các luật mới khác có liên quan đến hoạt động đầu tư, kinh doanh. Tiến hành rà soát để sửa đổi, bổ sung các chính sách thuế, chính sách ưu đãi đầu tư và các chính sách khác nhằm khuyến khích hơn nữa đầu tư vào các lĩnh vực và địa bàn ưu tiên. Rà soát và có chương trình triển khai đầy đủ, theo đúng tiến độ các cam kết hội nhập liên quan đến mở cửa thị trường; công bố các cam kết của nước ta với các nước trong các Hiệp định song phương và đa phương để tạo sự minh bạch về các lĩnh vực đầu tư có điều kiện.
Về thủ tục hành chính, nhất thiết phải minh bạch hóa quy trình, thủ tục hành chính đối với đầu tư nước ngoài; tăng cường thực hiện cơ chế “một cửa” trong việc giải quyết thủ tục đầu tư; rà soát các vướng mắc về thủ tục hành chính ở tất cả các lĩnh vực, các cấp nhằm đẩy nhanh tiến độ cấp phép đầu tư mới và điều chỉnh giấy chứng nhận đầu tư, các thủ tục liên quan tới triển khai dự án đầu tư như thủ tục về đất đai, xuất nhập khẩu, cấp dấu, xử lý tranh chấp... Đồng thời, cần quan tâm xử lý dứt điểm các vướng mắc trong quá trình cấp, điều chỉnh giấy chứng nhận đầu tư và các vấn đề vướng mắc trong quá trình hoạt động của doanh nghiệp.
Về kết cấu hạ tầng, phải tiếp tục tập trung sức nâng cấp hệ thống kết cấu hạ tầng, trước mắt giải quyết tốt vấn đề nhu cầu năng lượng cho các nhà đầu tư, bảo đảm trong mọi trường hợp không để xảy ra tình trạng thiếu điện đối với cơ sở sản xuất. Có cơ chế khuyến khích tư nhân đầu tư phát triển các công trình kết cấu hạ tầng, trong đó có các nhà máy điện độc lập, các công trình giao thông, cảng biển...
Về xúc tiến đầu tư, công bố Danh mục dự án quốc gia kêu gọi đầu tư nước ngoài giai đoạn 2006 - 2010 và chuẩn bị các tài liệu đầu tư làm cơ sở tiến hành vận động đầu tư theo các phương thức mới, nhằm vào các tập đoàn lớn và các dự án trọng điểm. Chủ động tiếp cận và hỗ trợ các nhà đầu tư tiềm năng có nhu cầu đầu tư vào Việt Nam; chuẩn bị để sớm đặt thêm các văn phòng đại diện xúc tiến đầu tư tại một số địa bàn trọng điểm ở nước ngoài.
Nếu các giải pháp cơ bản nói trên được thực hiện nhất quán với sự phối hợp chặt chẽ giữa các bộ, ngành và giữa Trung ương với địa ph._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 12438.doc