LỜI NÓI ĐẦU
Trong xu thế hội nhập nền kinh tế toàn cầu, Việt Nam đang từng bước khẳng định vị trí của mình trên trường quốc tế cũng như trong khu vực. Để có được những thành tựu đúng đắn như ngày hôm nay là do sự chuyển hướng đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta chuyển từ nền kinh tế tập trung bao cấp sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Việc phát triển kinh tế được nhà nước ta tập trung vào một số ngành mũi nhọn, trong đó ngành mũi nhọn hàng đầ
103 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1661 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Đầu tư nước ngoài vào tìm kiếm - Thăm dò - khai thác Dầu khí tại Tổng Công ty Dầu khí Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
u là công nghiệp Dầu khí.
Ngành Dầu khí đòi hỏi số vốn đầu tư rất lớn, mức độ rủi ro cao, trình độ khoa học công nghệ hiện đại, tính quốc tế hoá rộng rãi, trong khi nền công nghiệp Dầu khí nước ta còn non trẻ, thiếu vốn, thiếu kỹ thuật, thiếu đội ngũ cán bộ có kinh nghiệm trong tổ chức quản lí. Việc mở rộng các quan hệ kinh tế đối ngoại, mà trước hết là đẩy mạnh quan hệ hợp tác - đầu tư là một đòi hỏi tất yếu khách quan nhằm từng bước xây dựng và phát triển ngành công nghiệp Dầu khí nói chung và các hoạt động Tìm kiếm - thăm dò - khai thác Dầu khí nói riêng, để làm sao ngành Dầu khí có thể phát triển mạnh mẽ và có đủ sức cạnh tranh trong tiến trình hội nhập khu vực và quốc tế trên cơ sở hợp tác bình đẳng, hai bên cùng có lợi, đặc biệt trong điều kiện từ năm 2006, Việt Nam sẽ mở cửa để hội nhập với các nước trong khu vực.
Trữ lượng và tiềm năng dầu khí đã phát hiện của Việt Nam (đến 31/12/2004) khoảng 4,6 tỉ m3 quy đổi, tương đối khiêm tốn so với các quốc gia có tài nguyên dầu khí khác. Đa số là mỏ nhỏ và chứa khí là chủ yếu. Để đảm bảo trữ lượng xác minh cho việc tăng sản lượng khai thác dầu khí trong giai đoạn 2005 – 2010, 2010 – 2020, PetroVietnam cần thiết phải đẩy mạnh công tác Tìm kiếm - thăm dò - khai thác dầu khí với nhịp độ cao. Khối lượng công việc này đòi hỏi vốn đầu tư rất lớn, lại chịu rủi ro cao. Vì vậy ngành Dầu khí cần có một tổ hợp các giải pháp thu hút đầu tư nước ngoài nhiều hơn nữa.
Đứng trước thực tiễn đó, trong thời gian thực tập tại Viện Dầu khí thuộc Tổng Công ty Dầu khí Việt Nam, em đã chọn đề tài “Đầu tư nước ngoài vào Tìm kiếm - thăm dò - khai thác Dầu khí tại Tổng Công ty Dầu khí Việt Nam” làm chuyên đề tốt nghiệp cho mình, với mong muốn tìm hiểu một cách chi tiết cụ thể thực trạng cũng như kết quả mà chúng ta đạt được trong lĩnh vực này.
Kết cấu chuyên đề gồm 2 chương:
Chương 1: Thực trạng đầu tư nước ngoài vào Tìm kiếm - thăm dò - khai thác Dầu khí tại Tổng Công ty Dầu khí Việt Nam. Trong đó khái quát giới thiệu chung về ngành Công nghiệp Dầu khí Việt Nam, về kết quả Đầu tư TK - TD - KT nói chung và kết quả Đầu tư nước ngoài vào TK - TD - KT nói riêng.
Chương 2: Một số giải pháp và kiến nghị nhằm thu hút Đầu tư nước ngoài vào TK - TD - KT Dầu khí. Trong đó nêu lên mục tiêu phương hướng phát triển, cơ hội – thách thức và một số giải pháp và kiến nghị nhằm thu hút Đầu tư nước ngoài vào TK - TD - KT Dầu khí.
Mặc dù đã rất cố gắng nhưng do kiến thức còn hạn chế, lại không được đi sâu vào thực tế nên chuyên đề vẫn còn rất nhiều thiếu sót. Kính mong các Thầy Cô xem xét đánh giá và hướng dẫn thêm để chuyên đề được hoàn thiện hơn nữa.
Em xin cảm ơn các cô chú anh chị của Viện Dầu khí Việt Nam, đặc biệt là sự hướng dẫn giúp đỡ tận tình của Thầy giáo – Tiến sĩ Nguyễn Hồng Minh, đã giúp đỡ em hoàn thành đề tài này.
Em xin chân thành cảm ơn!
CHƯƠNG 1: THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI VÀO TÌM KIẾM – THĂM DÒ – KHAI THÁC DẦU KHÍ TẠI TỔNG CÔNG TY DẦU KHÍ VIỆT NAM.
1.1. NGÀNH CÔNG NGHIỆP DẦU KHÍ VÀ CÔNG NGHIỆP DẦU KHÍ VIỆT NAM.
1.1.1. Ngành Công nghiệp Dầu khí.
1.1.1.1. Đặc thù.
Đứng trên góc độ của nhà đầu tư, có thể rút ra các đặc trưng chính như sau:
a) Công nghệ cao.
Có thể nói ngành Dầu khí trên thế giới đang sử dụng những công nghệ hịên đại nhất trong tất cả các lĩnh vực và đang là ngành dẫn đầu trong phát triển và ứng dụng các công nghệ ngày càng tiên tiến hơn. Hiện nay công nghệ thăm dò địa chấn cho phép thu tín hiệu 4 chiều, 4 thành phần; công nghệ khoan cho phép khoan ngang, thậm chí khoan theo các nhánh hình xương cá và khoan vùng nước sâu tới hàng nghìn mét.
Dầu khí là ngành Công nghiệp trẻ ở Việt Nam nhưng là ngành Công nghiệp phát triển trên thế giới. Trong suốt quá trình phát triển đó, lĩnh vực này đã ứng dụng hầu như tất cả những công nghệ tiên tiến đã được phát minh trong nhiều lĩnh vực khác nhau. Trong hoạt động dầu khí, nếu không ứng dụng được những công nghệ cao thì không thể thu được kết quả.
b) Vốn lớn.
Để ứng dụng được những công nghệ cao thì cần phải có một khối lượng vốn đầu tư khá lớn. Mọi nhà đầu tư vào lĩnh vực dầu khí đều phải tính đến khả năng sử dụng lượng vốn lớn và ứng dụng công nghệ tiên tiến nhất hiện có. Thông thường khi đầu tư vào một lô tìm kiếm thăm dò, các công ty phải bỏ ra hàng trăm triệu USD. Thực hiện một giếng khoan thăm dò với chiều sâu khoảng 4000m thì chi phí ước khoảng 10 triệu USD. Để đánh giá và lập sơ đồ công nghệ mỏ dầu, khí nhiều khi phải khoan hàng chục giếng khoan thăm dò rất tốn kém.
c) Nhiều rủi ro nhưng lợi nhuận cao.
Nhiều rủi ro.
Các rủi ro trong hoạt động Dầu khí có thể kể đến như: rủi ro về tỉ giá hối đoái, rủi ro về tỉ lệ lạm phát, rủi ro chính trị, giá cả, rủi ro địa chất, địa lí, rủi ro về kĩ thuật, rủi ro về thị trường cũng như chất lượng dầu khí… Có những quốc gia sau vài chục năm thăm dò dầu khí mới phát hiện được các mỏ dầu khí có giá trị công nghiệp (Canada mất 40 năm, Việt Nam sau gần 30 năm tìm kiếm thăm dò dầu khí mới phát hiện ra các mỏ dầu có giá trị công nghiệp).
Các loại rủi ro đó xuất hiện bất cứ lúc nào, trong bất cứ giai đoạn nào của hoạt động Dầu khí. Ví dụ như có mỏ khai thác có triển vọng chứa dầu khí, có các biểu hiện dầu khí nhưng không có giá trị công nghiệp; cũng có thể dầu thô khai thác được lại có hàm lượng lưu huỳnh, phốt pho cao (S, P lớn hơn 0,1%)… Rủi ro lớn nhất trong hoạt động dầu khí là rủi ro trong Tìm kiếm – thăm dò. Trong đó, rủi ro về trữ lượng và khả năng khai thác là lớn nhất. Xác suất các giếng khoan thấy dầu bình quân chỉ đạt khoảng 26 – 30%. Các hoạt động trong các khâu khác (lọc, hóa dầu, xử lí, vận chuyển, phân phối, kinh doanh sản phẩm dầu khí…) ít chịu rủi ro hơn trong chính bản thân khâu đó, nhưng lại gián tiếp chịu rủi ro do khâu Tìm kiếm – thăm dò mang lại. Rủi ro trong Tìm kiếm – thăm dò có thể làm mất toàn bộ vốn đầu tư, còn rủi ro trong các khâu khác của hoạt động đầu tư (lĩnh vực lọc, hoá dầu và chế biến kinh doanh) chỉ có thể làm giảm lợi nhuận của quá trình đầu tư đó.
Nếu kết quả tìm kiếm thăm dò không đạt kết quả (thường xác suất xảy ra điều này rất cao), số tiền đầu tư coi như mất trắng. Các sự cố trong khi khoan, khai thác, vận chuyển dầu khí thường gây ra những tổn thất vô cùng lớn. Sự cố chìm giàn khoan dầu P-36 ngoài khơi Braxin tháng 3/2001 đã gây tổn thất tới 450 triệu USD cho công ty Petrobras.
Có thể tạm chia chúng ra làm 4 loại: rủi ro địa chất, rủi ro thương mại, rủi ro kỹ thuật, rủi ro khác, trong đó rủi ro địa chất và rủi ro thương mại là các rủi ro chủ yếu.
- Rủi ro địa chất: là những rủi ro liên quan đến địa chất mỏ khai thác, có thể do xác định sai cấu tạo địa chất, xác định sai xác suất tồn tại một tích tụ dầu khí và có khả năng khai thác...
- Rủi ro thương mại: Để đánh giá hiệu quả từ việc khai thác dầu khí, thường sử dụng chỉ tiêu NPV:
trong đó: R1, R2, R3,... Rn – thu nhập ròng nhận được vào cuối năm 1,2,3... (đây là thu nhập sau khi đã trừ thuế và các khoản thu khác).
i – lãi suất chiết khấu (%)
n - số năm đầu tư xác định theo thời hạn đầu tư trong hợp đồng.
Việc khai thác dầu khí không đạt được hiệu quả kinh tế, tức là NPV âm, thì được coi là rủi ro thương mại.
- Rủi ro kỹ thuật: Việc xác định các tham số cần thiết cho việc khai thác dầu sẽ gây ra các rủi ro kỹ thuật. Các tham số (yếu tố) đó là: độ bão hoà dầu, hiệu suất thu hồi, chiều dày vỉa sản phẩm,...
- Rủi ro khác: đó là các rủi ro do sự cố xảy ra có tác động tiêu cực đến thu chi tài chính gồm các rủi ro về thiên tai, hoả hoạn, thời tiết và các vấn đề có liên quan đến chính trị.
Lợi nhuận lớn.
Khi các phát hiện dầu, khí có tính thương mại và đưa vào phát triển, khai thác thì sẽ thu được một khoản lợi nhuận lớn. Thông thường, nếu có phát hiện thương mại, chi phí cho một thùng dầu chỉ bằng khoảng 1/3 giá bán. Chẳng hạn, khu vực Trung Đông là khu vực có tiềm năng dầu khí lớn, chi phí sản xuất chỉ khoảng 1USD/thùng; trong khi đó giá bán có lúc đạt trên 30 USD/thùng, thậm chí tại thời điểm sốt dầu, giá bán đạt trên 70 USD/thùng.
Có thể nói nhờ đặc trưng rất hấp dẫn này mà các nhà đầu tư đã chấp nhận rủi ro để bỏ vốn đầu tư vào hoạt động dầu khí.
d) Hợp tác quốc tế.
Xuất phát từ các đặc thù trên: nhiều rủi ro và sử dụng vốn đầu tư lớn cho nên hợp tác quốc tế trở thành một đặc thù mang tính phổ biến của ngành Dầu khí. Rất khó có thể tìm thấy một công ty hay quốc gia nào có hoạt động dầu khí lại không có hợp tác quốc tế.
Hợp tác quốc tế nhằm mục đích san sẻ rủi ro và tạo ra một khối lượng vốn đầu tư đủ lớn cho hoạt động của mình. Tuỳ thuộc điều kiện cụ thể của mỗi nước hay mỗi công ty mà chú ý nhiều hơn tới từng mục tiêu cụ thể. Với các nước có tiềm lực lớn về vốn và mạnh về công nghệ thì hợp tác quốc tế chủ yếu nhằm mục đích san sẻ rủi ro. Hầu hết các công ty dầu khí có chiến lược phát triển theo mạng là đầu tư ở nhiều nơi, nhiều nước và theo chiều dọc, tức là tổ chức hoạt động dầu khí toàn bộ các khâu. Tính quốc tế của các hoạt động dầu khí còn thể hiện ở chỗ, do công nghệ cao và mang tính chuyên ngành sâu, hầu như mọi công ty đều không thể tự mình thực hiện toàn bộ chuỗi công việc, từ đó hình thành và phát triển lĩnh vực dịch vụ dầu khí, hiện nay có rất nhiều công ty dịch vụ Dầu khí trên thế giới, tại Việt Nam và phát triến rất mạnh.
Gần đây trong xu thế toàn cầu hoá nói chung, Dầu khí là một trong những ngành đi đầu trong việc hợp nhất các công ty lớn xuyên quốc gia. Với Việt Nam, do hoạt động dầu khí còn non trẻ nên hợp tác quốc tế vừa để san sẻ rủi ro, vừa để huy động vốn, công nghệ và học tập kinh nghiệm của nước ngoài.
Tóm lại: Với quốc gia có nền kinh tế đang phát triển và ngành Dầu khí mới được hình thành như Việt Nam thì những đặc trưng trên càng được thể hiện khá rõ nét. Khi quyết định đầu tư cho bất kì dự án dầu khí nào, nhà đầu tư trước hết phải xem xét tới các đặc trưng trên và lượng hóa được các đặc trưng đó (lượng hoá mức độ rủi ro, trình độ công nghệ, vốn đầu tư và lợi nhuận có thể có…)
1.1.1.2. Các công đoạn chính của hoạt động Dầu khí.
Hoạt động dầu khí được chia thành 3 lĩnh vực chính:
Tìm kiếm – thăm dò –khai thác
Vận chuyển – Tàng trữ
Chế biến – kinh doanh phân phối sản phẩm
Hoạt động Tìm kiếm - thăm dò - khai thác: Còn gọi là lĩnh vực Thượng nguồn, hoặc khâu đầu, hoặc UPSTREAM: được tính từ khi bắt đầu các hoạt động khảo sát địa vật lý, xử lí tài liệu địa chấn, khoan thăm dò… cho tới khi đưa dầu hoặc khí lên tới miệng giếng.
Hoạt động vận chuyển – tàng trữ dầu khí: Còn gọi là lĩnh vực Trung nguồn, hoặc khâu giữa, hoặc MIDSTREAM: là khâu nối liền khai thác với chế biến và tiêu thụ. Quá trình phát triển của nó gắn liền với quá trình khai thác dầu khí, bao gồm các kho chứa, các hệ thống vận chuyển bằng đường ống và tàu dầu.
Các hoạt động thuộc lĩnh vực chế biến dầu khí, kinh doanh, phân phối sản phẩm…: Còn gọi là lĩnh vực Hạ nguồn, hoặc khâu sau, hoặc DOWNSTREAM: Bao gồm các hoạt động lọc, hóa dầu, chế biến dầu và khí. Nó được tính từ khi nhận dầu (hay khí) từ nơi xuất của khu khai thác đến quá trình lọc, chế biến, hoá dầu và kinh doanh, phân phối các sản phẩm dầu, khí đó.
Trên thế giới, mỗi công đoạn có sức hấp dẫn riêng của nó; có quan hệ phụ thuộc hoặc quyết định chi phối lẫn nhau. Tuy vậy, hoạt động trong lĩnh vực Thượng nguồn có sức hấp dẫn cao nhất (mặc dù có rủi ro lớn) vì thu được nhiều lợi nhuận nhất. Trong lĩnh vực Hạ nguồn, đầu tư vào hoạt động kinh doanh, bán lẻ có thể thu được lợi nhuận lớn; còn đầu tư vào lọc dầu ít có sức hấp dẫn và lợi nhuận không cao (đôi khi còn bị lỗ), nhưng người ta vẫn đầu tư vào khâu này vì nhiều mục đích khác nhau, trong đó quan trọng nhất là vì chiến lược an toàn năng lượng và làm tiền đề cho các ngành công nghiệp khác phát triển (ví dụ công nghiệp hoá chất, phân bón…).
Khai thác
65.0%
Hoá dầu
6,4%
Lọc dầu
28,6%
Biểu đồ 1: Tỉ trọng thu nhập bình quân từ các khâu của các Tập đoàn dầu khí lớn (giai đoạn 1985 – 2003)
1.1.2. Ngành Công nghiệp Dầu khí Việt Nam.
1.1.2.1. Lịch sử hình thành và phát triển.
So với các ngành công nghiệp khác trong nước, ngành Dầu khí được coi là phát triển sau. Tuy nhiên với sự hấp dẫn của nó và sự quan tâm ưu tiên đặc biệt của Đảng và Chính phủ, trong vòng 30 năm trở lại đây, ngành Công nghiệp đặc thù này đã phát triển rất mạnh và trở thành một trong những ngành có vai trò quan trọng nhất trong nền kinh tế quốc dân hiện nay.
Trải qua 30 năm xây dựng và phát triển, ngành Dầu khí Việt Nam đã không ngừng lớn mạnh và trưởng thành, vượt qua nhiều khó khăn thử thách lập nên những thành tựu trên chặng đường tìm kiếm, thăm dò và khai thác nguồn tài nguyên vô cùng quý giá này, phục vụ công cuộc phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Có thể tạm phân chia tiến trình phát triển của ngành Dầu khí Việt Nam theo các giai đoạn như sau:
Thời kỳ trước 1975:
Trong giai đoạn này, trong điều kiện đất nước còn chia cắt, các hoạt động thăm dò dầu khí đi theo hai hướng khác nhau:
Ở miền Bắc, với sự giúp đỡ về tài chính và kỹ thuật của Liên-xô và một số nước XHCN Đông Âu (cũ), Tổng cục Địa chất đã tiến hành một số hoạt động thăm dò địa vật lý, địa chất tại vùng trũng sông Hồng. Công tác thăm dò đã được triển khai tương đối rộng rãi ở khu vực miền võng Hà nội, bao gồm khảo sát địa vật lý và khoan thăm dò. Trong khảo sát địa vật lý đã áp dụng hầu như toàn bộ các kỹ thuật mà Liên Xô có lúc bấy giờ. Thời kỳ đầu (1962 – 1971) chủ yếu chỉ khoan nông (khoảng dưới 160m) nhưng sau đó (1974 – 1975) tiến hành khoan một số giếng khoan sâu (trên 3000m) ở Thái Bình và đã có một số phát hiện dầu khí .
Trong khi đó ở miền Nam, hoạt động thăm dò diễn ra mạnh mẽ hơn: từ khi chính quyền Nam Việt Nam ban hành Luật khuyến khích đầu tư nước ngoài (Luật số 011/70), một loạt các công ty của Mỹ, Nhật, Canada đã đầu tư dưới dạng Hợp đồng Nhượng địa để thăm dò dầu khí trên thềm lục địa Nam Việt Nam, và kết quả là một loạt các giếng đã có phát hiện dầu, trong đó giếng cao nhất cho lưu lượng khoảng 2.400 thùng dầu/ngày. Năm 1974 công ty dầu khí Mỹ Mobil đã ký kết với chính quyền miền Nam cũ thăm dò và phát hiện thấy dầu tại các mỏ Bạch Hổ và Rồng (sau này xí nghiệp Liên doanh Vietsovpetro tiếp nhận).
Giai đoạn từ 1975 đến 1987:
Đây là giai đoạn từ sau khi thống nhất đất nước đến khi Luật Đầu tư Nước ngoài tại Việt Nam được ban hành.
Trong giai đoạn này, hoạt động thăm dò dầu khí được đẩy lên ở mức cao hơn trên toàn lãnh thổ Việt Nam, đặc biệt là về tổ chức, quy mô, chiều sâu kỹ thuật sau khi Tổng cục Dầu khí được thành lập vào tháng 9/1975.
Tiếp theo đó các công ty chuyên ngành đã được thành lập: Công ty Dầu khí I, Công ty Dầu khí II, Công ty Địa Vật lý, Viện Dầu khí, Trường Công nhân Kỹ thuật Dầu khí, Đoàn Đồng bằng Cửu Long, Công ty Vật tư Thiết bị…
Quy mô và phạm vi hợp tác đã được mở rộng: ngoài việc Liên Xô giúp đầu tư thăm dò mạnh mẽ hơn ở vùng trũng sông Hồng, ở phía Nam ta cũng tự đầu tư khoan giếng thăm dò ở đồng bằng sông Cửu Long. Nhịp độ đầu tư thăm dò tăng dần với việc gọi vốn đầu tư nước ngoài từ các công ty dầu khí quốc tế (ngoài Mỹ) dưới dạng Hợp đồng Dịch vụ. Các hoạt động dầu khí được triển khai ra toàn quốc. Trong thời gian này, một số công ty tư bản nước ngoài như Deminex (Đức), BowValley (Canada), Agip (ý) đã vào ts dầu khí ở thềm lục địa phía Nam. Mặc dù đã có một vài phát hiện dầu khí nhnưg do nhiều lý do khác nhau mà câc công ty này ầu dã hoàn trả diện tích và rút lui.
Đỉnh điểm của giai đoạn này là việc ra đời của Xí nghiệp Liên doanh Vietsovpetro (1981) với việc phát hiện mỏ dầu lớn cho Việt Nam, mỏ Bạch Hổ (1986). Tấn dầu thô đầu tiên đã được khai thác tại mỏ Bạch Hổ vào tháng 6/1986. Đây là một cái mốc đặc biệt quan trọng đánh dấu sự phát triển của ngành Dầu khí Việt Nam.
Bên cạnh các hoạt động sản xuất, sự nghiệp hợp tác quốc tế trong tư vấn, đào tạo và nghiên cứu, mặc dù có sự cấm vận của Mỹ, đã được chú trọng và đẩy mạnh. Nhờ có Luật Đầu tư Nước ngoài tại Việt Nam (1987) và chính sách mở cửa kinh tế của Đảng và Nhà nước, ngành Dầu khí Việt Nam đã bước vào một thời kỳ phát triển mạnh mẽ, đặc biệt là đối với công tác thăm dò khai thác.
Giai đoạn từ 1987 đến nay:
Tổng cục Dầu khí được chuyển đổi thành Tổng Công ty Dầu khí Việt Nam, với tư cách là một Công ty Dầu khí Quốc gia, đã tiến hành ký hàng chục hợp đồng hợp tác kinh doanh thăm dò dầu khí với các công ty dầu khí có danh tiếng trên thế giới.
Hệ thống luật pháp điều chỉnh hoạt động dầu khí trong nền kinh tế thị trường đã được hoàn thiện, đảm bảo cho việc đầu tư được ổn định (Luật Dầu khí, Luật Thuế, Luật Lao động…).
Việc hợp tác thăm dò được mở rộng ra với các công ty Mỹ sau khi hết cấm vận đã tạo điều kiện cho việc áp dụng các công nghệ cao trong thăm dò khai thác.
Các hình thức hợp đồng được đa dạng hóa với việc ra đời các Liên doanh Điều hành chung.
Tháng 4/1995, khí đồng hành từ mỏ Bạch Hổ đã được đưa vào bờ để phát điện tại nhà máy nhiệt điện Bà Rịa, đánh dấu sự ra đời của ngành công nghiệp khí Việt Nam với nhiều triển vọng to lớn.
Đặc biệt là với việc tăng nhanh sản lượng khai thác của mỏ Bạch Hổ và các phát hiện dầu khí mới của các Nhà thầu đã và đang đưa vào khai thác đã khẳng định vai trò quan trọng của ngành Dầu khí Việt Nam trong nền kinh tế quốc dân.
Khối lượng công tác thăm dò thực hiện được trong vòng 18 năm trở lại đây đã gấp hàng chục lần so với toàn bộ hoạt động trước đó với tổng số vốn đầu tư ước chừng 7,2 tỷ USD.
Hiện nay, toàn bộ dầu thô Việt Nam được xuất bán cho các công ty nước ngoài (Nhật, Singapor, Mỹ, Hàn Quốc ...) nhưng sau này một phần sẽ được đưa vào chế biến tại nhà máy lọc dầu số 1 ở Việt Nam với công suất 6,5 triệu tấn/năm, tiếp theo là nhà máy lọc dầu số 2 cũng sẽ được xây dựng, làm cơ sở cho công nghệ hoá dầu ở Việt Nam ngày càng phát triển.
Để xây dựng nền công nghiệp dầu khí Việt Nam phát triển một cách toàn diện, ngoài những dự án có sự đầu tư trực tiếp của nước ngoài trong khâu tìm kiếm thăm dò khai thác và chế biến dầu khí, Tổng công ty dầu khí Việt Nam cũng sẽ chú trọng những dự án phát triển năng lực dịch vụ kỹ thuật cao để nâng cao tỷ trọng doanh thu từ dịch vụ dầu khí của chính Tổng công ty dầu khí Việt Nam và các doanh nghiệp trong nước, mở rộng kinh doanh ở khâu phân phối sản phẩm, tăng cường nghiên cứu khoa học công nghệ phục vụ sản xuất, chú trọng công tác đào tạo cán bộ, mở rộng hợp tác với các cơ sở khoa học và doanh nghiệp trong nước, từng bước có sự lựa chọn tham gia đầu tư ở nước ngoài, xây dựng Tổng công ty Dầu khí Việt Nam ngày càng hoàn thiện và phát triển, góp phần vào sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
1.1.2.2. Vai trò vị trí của ngành Dầu khí trong tiến trình phát triển và đổi mới nền kinh tế đất nước.
Đối với nước ta, vai trò và ý nghĩa của dầu khí càng trở nên quan trọng trong thời kì đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Không chỉ là vấn đề thu nhập kinh tế đơn thuần, trong những năm qua dầu khí đã góp phần đáng kể vào ngân sách quốc gia, làm cân đối hơn cán cân xuất nhập khẩu thương mại quốc tế. Từ thế bị động ta đã chuyển sang thế chủ động trong việc thu hút vốn đầu tư, tiếp thu công nghệ hiện đại nước ngoài, phát triển ngành nghề dịch vụ, giải quyết công ăn việc làm...
Với mức đóng góp đáng kể vào Ngân sách Nhà nước nói chung và kim ngạch xuất khẩu nói riêng, ngành Dầu khí được biết đến là một ngành có đóng góp rất lớn vào sự phát triển kinh tế chung của đất nước. Đến tháng 6/2005, toàn ngành Dầu khí Việt Nam đã khai thác 200 triệu tấn dầu quy đổi. Với sản lượng khai thác như vậy, Tổng Công ty Dầu khí Việt Nam đã thu được 34 tỷ USD từ xuất khẩu dầu thô, đem lại nguồn thu cho ngân sách Nhà nước (NSNN) hơn 18 tỷ USD. Chỉ tính riêng 5 năm (2001 – 2005), tổng doanh thu đạt 330 nghìn tỷ đồng, nộp NSNN 200 nghìn tỷ đồng. Tính bình quân mỗi năm, ngành Dầu khí đóng góp khoảng 25% NSNN, đứng thứ 3 trong khu vực Đông Nam Á về xuất khẩu và đứng thứ 4 về khai thác dầu thô. Hàng năm, thu nhập do khai thác và xuất khẩu dầu thô đứng ở vị trí hàng đầu và chiếm khoảng gần 1/4 trong tổng thu nộp NSNN.
Ngành Dầu khí được Đảng và Chính phủ xếp là một trong những ngành kinh tế mũi nhọn trong tiến trình công nghiệp hoá – hiện đại hoá đất nước, Tổng công ty Dầu khí cũng được xếp hạng là doanh nghiệp Nhà nước hạng đặc biệt. Điều đó phần nào cho thấy vai trò và vị trí của ngành Dầu khí đối với tiến trình phát triển và đổi mới nền kinh tế đất nước.
Có thể tóm tắt một số đóng góp chính của ngành Dầu khí như sau:
- Mang lại nguồn thu ngoại tệ đáng kể cho Ngân sách Nhà nước thông qua việc chia sản phẩm và các loại thuế (thuế tài nguyên, thuế thu nhập);
- Thu hút đầu tư nước ngoài vào các hoạt động dầu khí tại Việt Nam;
- Thu hút chuyển giao công nghệ và chuyển dịch kỹ thuật tiên tiến vào Việt nam;
- Tạo ra công ăn việc làm đáng kể cho bản thân cán bộ công nhân viên ngành Dầu khí cũng như một số ngành nghề dịch vụ cho Dầu khí;
- Phát triển mạnh quan hệ hợp tác quốc tế; chúng ta có quan hệ hợp tác với nhiều nước, các công ty, các viện nghiên cứu liên quan đến hoạt động dầu khí;
- Đội ngũ cán bộ của ngành Dầu khí, một bộ phận cấu thành của lực lượng lao động xã hội, được đào tạo, rèn luyện và trưởng thành đáng kể.
30 năm qua, Ngành Dầu khí Việt Nam đã không ngừng lớn mạnh với sản lượng dầu khai thác ngày càng tăng, cung cấp năng lượng cho Đất nước và xuất khẩu, góp phần rất quan trọng trong thời kỳ đẩy mạnh sự nghiệp CNH, HĐH ở nước ta. Ngành Dầu khí Việt Nam đã đóng góp khoảng 400 tỷ đồng xây dựng các công trình phúc lợi công cộng, tu bổ các di tích lịch sử, tích cực tham gia ''Quỹ đền ơn đáp nghĩa'', ''Quỹ vì người nghèo'', ''Quỹ nạn nhân chất độc da cam'' và nhiều quỹ từ thiện khác.
1.1.3. Giới thiệu về Tổng công ty Dầu khí Việt Nam.
1.1.3.1. Lịch sử hình thành và phát triển.
Ngành dầu khí Việt Nam có lịch sử hình thành và phát triển hơn 30 năm. Trong những năm vừa qua đã đạt được những thành tựu đáng kể trong công tác thăm dò và khai thác dầu khí, trở thành một ngành Công nghiệp mũi nhọn trong cơ cấu kinh tế nước ta. Quá trình hình thành ngành Dầu khí gắn liền với sự ra đời của Tổng công ty dầu khí Việt Nam, trải qua những mốc quan trọng như sau:
- Năm 1961: Thành lập Đoàn địa chất 36 trực thuộc Tổng cục Địa chất, làm nhiệm vụ tìm kiếm - thăm dò dầu khí;
- Năm 1969: Chuyển Đoàn địa chất 36 thành Liên đoàn Địa chất 36;
- Năm 1975: Thành lập Tổng cục Dầu khí Việt Nam trên cơ sở Liên đoàn Địa chất 36 của Tổng cục Địa chất và một số bộ phận của Tổng cục hoá chất;
- Năm 1977: Thành lập Công ty Dầu khí Việt Nam trực thuộc Tổng cục Dầu khí làm nhiệm vụ hợp tác tìm kiếm - thăm dò - khai thác dầu khí với nước ngoài tại Việt Nam;
- Tháng 4/1990: Sát nhập Tổng cục dầu khí vào Bộ công nghiệp nặng;
- Tháng 6/1990: Thành lập Tổng công ty Dầu khí Việt Nam trên cơ sở các đơn vị cũ của Tổng cục Dầu khí;
- Tháng 5/1992: Tổng công ty Dầu khí Việt Nam tách khỏi Bộ công nghiệp nặng và trực thuộc Thủ tướng Chính phủ. Tổng công ty Dầu khí Việt Nam có tên giao dịch quốc tế là PETROVIETNAM;
- Tháng 5/1995: Tổng công ty Dầu khí Việt Nam được Thủ tướng Chính phủ ra quyết định là Tổng công ty Nhà nước, có tên giao dịch quốc tế là PETROVIETNAM.
Tổng công ty Dầu khí Việt Nam là Tổng công ty Nhà nước do Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập, hoạt động theo mô hình Tổng Công ty 91, được tiến hành các hoạt động dầu khí trên toàn lãnh thổ, lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa và hải đảo thuộc chủ quyền nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và được tiến hành các hoạt động dầu khí ở nước ngoài khi Chính phủ cho phép. Mọi hoạt động tìm kiếm, thăm dò, khai thác dầu khí của các tổ chức cá nhân khác tại Việt Nam chỉ được tiến hành trên cơ sở ký kết hợp đồng với Tổng công ty dầu khí Việt Nam.
1.1.3.2. Chức năng nhiệm vụ.
Là công ty dầu khí quốc gia thuộc quyền quản lý của Nhà nước, Petrovietnam được giao nhiệm vụ triển khai thực hiện toàn bộ các hoạt động liên quan đến việc phát hiện, khai thác và làm gia tăng giá trị của nguồn tài nguyên dầu khí tại Việt Nam, tiến hành các hoạt động kinh doanh đa lĩnh vực và thực hiện các nhiệm vụ khác do Nhà nước giao phù hợp với pháp luật Việt Nam.
1.1.3.3. Lĩnh vực hoạt động.
Kể từ khi được thành lập, hoạt động kinh doanh của Petrovietnam đã phát triển mạnh mẽ và rộng khắp, mang lại hiệu quả cao từ khâu đầu đến các khâu sau. Hiện nay PetroVietnam có hơn 30 đơn vị thành viên, triển khai các hoạt động liên quan đến công nghiệp dầu khí không chỉ ở lãnh thổ Việt Nam mà còn cả ở nước ngoài.
Các hoạt động chính của PetroVietnam bao gồm:
Tìm kiếm, thăm dò, khai thác DK.
Vận chuyển, tàng trữ và chế biến DK.
Thương mại DK.
Hoạt động tài chính, bảo hiểm.
Dịch vụ Dầu khí.
Nghiên cứu khoa học.
1.1.3.4. Cơ cấu tổ chức.
Cơ cấu tổ chức hiện nay của PetroVietnam gồm nhiều đơn vị thành viên và các công ty liên doanh, hoạt động kinh doanh phát triển bao trùm khắp các lĩnh vực của ngành công nghiệp Dầu khí tại Việt Nam, từ thăm dò và khai thác dầu khí, tàng chứa, vận chuyển, chế biến, phân phối sản phẩm dầu khí, đến các hoạt động dịch vụ, thương mại, tài chính, bảo hiểm dầu khí.
Các công ty thành viên trong lĩnh vực TDKT:
- Công ty Thăm dò Khai thác Dầu khí (PVEP)
- Công ty Đầu tư & Phát triển Dầu khí (PIDC)
- Xí nghiệp Liên doanh Dầu khí Vietsovpetro
TỔNG CÔNG TY DẦU KHÍ VIỆT NAM
BỘ MÁY QUẢN LÍ TỔNG CÔNG TY
ĐƠN VỊ HẠCH TOÁN PHỤ THUỘC
DNNN HẠCH TOÁN ĐỘC LẬP
ĐƠN VỊ SỰ NGHIỆP
CÁC LIÊN DOANH
P. TCCB và ĐTạo
P. Kế hoạch
P. Tài Chính
P. Kế toán
P. Thương mại
P. HĐQT
P. Vận chuyển XL và phân phối khí
P. KHCN và MT
P.Thăm dò và Khai thác
P. LĐ và TLương
P. Thanh tra
Văn phòng
Cty DVụ Kỹ thuật DK
Cty thiết kế XD DK
Cty Chế biến và KD sản phẩm dầu
Cty DD khoan và hoá phẩm DK
Cty Bảo hiểm
Cty Thương mại DK
Cty tư vấn ĐT XD DK
Cty TD -KT -DK
Cty Giám sát PSC
Trung tâm đào tạo và CUNL DK
Viện Dầu khí
Trung tâm NCPT Chế biến DK
Trung tâm NCPT An toàn DK
XNLD Vietsovpetro
Cty NMLD Việt Nga
Các LD có vốn góp của TCTy
P. Chế biến DK
Cty Dịch vụ du lịch DK
Trung tâm TTLLDK
Sơ đồ 1: SƠ ĐỒ TỔ CHỨC TỔNG CÔNG TY DẦU KHÍ VIỆT NAM
1.1.3.5. Kết quả sản xuất kinh doanh 5 năm gần đây.
Năm 2005, toàn ngành Dầu khí đạt kim ngạch xuất khẩu hơn 7 tỷ USD, tăng hơn mức kỷ lục đã đạt năm 2004 gần 1,33 tỷ USD, Tổng doanh thu của Tổng công ty tăng 34%. Ngành dầu khí cũng đã nộp ngân sách Nhà nước trên 50.000 tỷ đồng, tăng 1.850 tỷ đồng so với năm 2004, tăng khoảng 28% so với năm 2004. Đây là năm thứ 5 trong giai đoạn 2001 – 2005, ngành Dầu khí dẫn đầu các ngành kinh tế cả nước về kim ngạch xuất khẩu và nộp Ngân sách Nhà nước.
Trong giai đoạn 2001 - 2005, Tổng công ty dầu khí đóng góp hàng năm khoảng 25% tổng thu ngân sách Nhà nước, doanh thu liên tiếp tăng và tăng mạnh (xem bảng 1), tốc độ gia tăng trữ lượng dầu khí khá cao, góp phần quan trọng bảo đảm an ninh năng lượng cho phát triển kinh tế của đất nước cũng như góp phần quan trọng vào việc hoàn thành kế hoạch kinh tế - xã hội năm 2005 và giai đoạn 2001 – 2005.
Bảng 1: Tổng hợp KQSXKD giai đoạn 2001 – 2005 (Đơn vị: Nghìn USD)
2001
2002
2003
2004
2005
Doanh thu
1.084.655
1.904,090
3.173,709
3.058.126
3.314.902
Trừ: Doanh thu của các đối tác liên doanh
(801.318)
(827,122)
(1.390,630)
(1.259.272)
(1.308.176)
Doanh thu thuần
1.084.655
1.076,968
1.783,079
1.798.854
2.006.726
Giá vốn hàng bán
478.720
(478,713)
(685,903)
(821.583)
(1.015.012)
Lãi gộp
605.935
598,255
1.097,176
977.271
991.714
Thu nhập hoạt động khác
7.359
10.672
15.248
16.101
14.687
Chi phí bán hàng
9.162
(17,734)
(30,799)
(28.521)
(28.800)
Chi phí quản lý
11.546
(27,267)
(27,267)
(40.872)
(49.034)
Chi phí hoạt động khác
(8.194)
(9.186)
(11.952)
(11.669)
(14.076)
Lãi hoạt động
592.586
553,254
1.041,200
912.310
914.491
Chi phí tài chính
11.600
33,239
67,619
(3.194)
(6,147)
Thu nhập đầu tư liên doanh
(17.419)
(9,046)
(6,964)
65.729
81.341
Thu nhập đầu tư khác
9.173
18,505
2,805
16.614
22.674
Lợi nhuận trước thuế
598.405
595,952
1.104,660
991.459
1.012.359
Thuế thu nhập doanh nghiệp
229.383
(190,718)
(424,451)
(365.112)
(403.602)
Lợi nhuận sau thuế
369.022
505,234
680,209
626.347
608.757
(Lỗ) Quyền lợi cổ đông thiểu số
164.704
(0,649)
(0,657)
412
588
Lãi ròng hợp nhất
204.318
404,585
679,552
626.759
609.345
(Nguồn: Báo cáo hằng năm PetroVietnam )
1.1.3.6. Mối quan hệ giữa hoạt động của TCT và vấn đề Đầu tư nước ngoài.
Tổng Công ty Dầu khí Việt Nam vừa là đơn vị trực tiếp quản lí hợp hoạt động của các Nhà thầu nước ngoài trong khi đầu tư vào ngành Dầu khí Việt Nam, vừa là đơn vị cùng tham gia trực tiếp vào hoạt động đó dưới hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh, liên doanh với những tỉ lệ % nhất định. Ngành Dầu khí không cho phép các nhà đầu tư nước ngoài hoạt động dưới hình thức doanh nghiệp 100%, mà trong tất cả các hợp đồng đều phải có mặt PetroVietnam.
PetroVietnam chính là đơn vị hoạch định chính sách, quy hoạch, kế hoạch... liên quan đến đầu tư nước ngoài vào ngành Dầu khí Việt Nam, đồng thời tổ chức quản lí giám sát hoạt động, thu hồi lãi dầu và phần lợi nhuận đã thoả thuận, từ đó tổng hợp lại rồi mới nộp cho Nhà nước.
1.2 CÔNG TÁC TÌM KIẾM – THĂM DÒ – KHAI THÁC VÀ VẤN ĐỀ ĐTNN VÀO CÁC HOẠT ĐỘNG NÀY.
1.2.1. Công tác Tìm kiếm – thăm dò – khai thác DK.
1.2.1.1. Mô tả.
Một quá trình đầu tư Tìm kiếm - thăm dò - khai thác có thể chia làm 3 giai đoạn chính, thể hiện trên sơ đồ sau:
Giai đoạn thăm dò
Đánh giá sơ bộ triển vọng lô hợp đồng
Chọn vùng cấu tạo triển vọng
Khảo sát ĐVL nghiên cứu địa chất
Khoan thăm dò
N.cứu kết quả khoan và đánh giá phát hiện
Đánh giá đối tượng và chọn vị trí khoan
Thiết kế, gọi thầu chế tạo phương tiện thiết bị
Kế hoạch phát triển, khai thác thử
Lập kế hoạch phát triển tổng thể
Nghiên cứu vỉa
Giai đoạn phát triển
Tính trữ lượng
Thẩm lượng
Hoạt động khai thác thứ cấp
Thu gom xử lý, tàng trữ
Vận hành và bảo trì giếng
Giai đoạn khai thác
Khoan khai thác
Lắp đặt phương tiện thiết bị
Vận hành thử
Đo đếm và giao bán sản phẩm
a) Giai đoạn Tìm kiếm – Thăm dò.
a.1. Giai đoạn Thăm dò.
Nghiên cứu địa chất.
- Tái xử lí, tái minh giải tài liệu.
- Thu nổ địa chấn (2D, 3D).
- Xử lí tài liệu địa chấn.
- Minh giải tài liệu địa chấn.
- Đánh giá triển vọng dầu khí (sinh, chắn, chứa…).
- Xác định vị trí giếng khoa._.n.
Xác lập và trình duyệt các báo cáo cần thiết.
- Báo cáo đánh giá tiềm năng.
- Xác định vị trí khoan và chương trình khoan.
- Báo cáo đánh giá tác động môi trường.
- Báo cáo thiết kế chi tiết giếng khoan.
Khoan.
- Chuẩn bị:
+ Chuẩn bị vật tư thiết bị (mua sắm ống chống, xi măng hoá phẩm…)
+ Chuẩn bị căn cứ dịch vụ.
+ Khảo sát địa chất công trình.
+ Giải phóng mặt bằng, làm nền khoan…
+ Đấu thầu giàn khoan.
+ Đấu thầu tàu dịch vụ, trực thăng.
+ Các dịch vụ khác (thử vỉa, bơm trám, thả ống chống, dự báo thời tiết).
- Thi công:
+ Giám sát toàn bộ quá trình thi công.
+ Cập nhật thông tin, so sánh với dự kiến.
+ Phân tích mẫu.
Lập báo cáo tổng kết.
- Xác định tiềm năng dầu khí.
- Chương trình thăm dò tiếp theo.
- Tuyên bố phát hiện.
- Báo cáo hoàn trả diện tích.
a.2. Giai đoạn thẩm lượng.
Giai đoạn thẩm lượng thường kéo dài 3 – 5 năm, với mục đích xác định chính xác các cấp trữ lượng dầu khí, các thông số kỹ thuật tầng chứa thuộc khu vực thăm dò nhằm làm cơ sở cho việc thiết kế phát triển và khai thác mỏ.
Trong giai đoạn này nhà đầu tư phải thực hiện khối lượng rất lớn, đặc biệt là khoan thẩm lượng. Các công việc chính phải làm cũng giống như giai đoạn thăm dò song với mức độ chính xác và chi tiết hơn.
Kết thúc giai đoạn thẩm lượng, Nhà thầu (Chủ đầu tư) phải lập báo cáo đánh giá trữ lượng (Reserves Accessment Report), rồi thông qua PetroVietnam trình Hội đồng trữ lượng Nhà nước phê duyệt.
b) Giai đoạn phát triển.
Giai đoạn phát triển được bắt đầu khi hoàn tất RAR. Đây là giai đoạn cực kì quan trọng, đòi hỏi Nhà đầu tư tập trung nhiều nhân lực và vốn nhất.
Để phát triển mỏ, trên cơ sở RAR được Chính phủ phê duyệt, Nhà thầu phải lập kế hoạch phát triển mỏ FDP trình PV, bao gồm các nội dung:
- Trữ lượng (phân tích cụ thể các thông số địa chất).
- Giải pháp công nghệ tối ưu (đưa ra các phương án khai thác để lựa chọn phương án tối ưu).
- Đánh giá tác động môi trường.
- Chi phí đầu tư (tổng mức đầu tư).
- Tổ chức triển khai (sơ đồ tổ chức, đào tạo nhân lực…)
- Tiến độ thực hiện: nhân lực, thời gian (thông qua chương trình Microsoft Project).
- Đánh giá kinh tế: Hiệu quả kinh tế, độ nhạy…
c) Giai đoạn Khai thác.
Giai đoạn Khai thác bắt đầu từ khi có First Production (first oil, first gas…). Trên thực tế phải cần một giai đoạn chuẩn bị trước từ 6 tháng – 1 năm.
Bước vào giai đoạn này, công việc chính của Nhà thầu là:
- Quản lí, giám sát, cập nhật thông tin trong quá trình khai thác.
- Đánh giá khả năng khai thác thực tế so với kế hoạch.
- Làm các thủ tục cần thiết (cầu, cảng) để xuất hoặc bán sản phẩm.
- Kiểm soát dòng tiền, tính chi phí thu hồi, lãi, thuế.
- Điều chỉnh kế hoạch cho phù hợp với thực tế.
1.2.1.2. Đặc thù của một Dự án Tìm kiếm - thăm dò - khai thác Dầu khí.
Dự án Đầu tư Dầu khí là dự án có suất đầu tư lớn, rủi ro rất cao.
- Khi quyết định đầu tư Dự án vẫn chưa xác định được:
+ Quy mô đầu tư, thị trường tiêu thụ.
+ Công nghệ sản xuất, thị trường sản xuất.
+ Công suất, chủng loại và chất lượng sản phẩm.
- Toàn bộ chi phí đầu tư và vận hành đều được thu hồi lại dưới hình thức thu hồi chi phí theo luật.
- Không áp dụng khấu hao tài sản như các dự án thông thường.
- Thời gian ngừng khai thác (đóng cửa mỏ) chỉ ước đoán.
- Các dự án đầu tư khác, giai đoạn đầu tư sẽ chấm dứt khi dự án chuyển sang giai đoạn khai thác. Các dự án đầu tư dầu khí thì ngược lại, để tăng cao hiệu quả đầu tư, giảm thiểu rủi ro…, hoạt động đầu tư thường thực hiện theo hình thức cuốn chiếu.
- Để tính được việc đầu tư có hiệu quả hay không cần phải đầu tư một số tiền khá lớn (vài chục triệu USD).
1.2.1.3. Kết quả TK – TD – KT đạt được.
Việt Nam là một quốc gia có tiềm năng Dầu khí, với diện tích thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế gần 1 triệu km2 bao gồm 7 bể trầm tích Đệ Tam: Sông Hồng, Phú Khánh, Cửu Long, Nam Côn Sơn, MaLay – Thổ Chu, Tư Chính – Vũng Mây, nhóm bể Trường Sa và Hoàng Sa (Sơ đồ 2).
Sơ đồ 2: Các bể trầm tích Đệ Tam Việt Nam
Hoạt động TKTD Dầu khí ở Việt Nam đã được bắt đầu triển khai ở miền võng Hà Nội từ những năm 60 dưới sự giúp đỡ của Liên Xô cũ. Năm 1975, mỏ khí Tiền Hải C đã được phát hiện ở miền võng Hà Nội và đưa vào khai thác từ năm 1981 cho đến nay. Ở thềm lục địa phía Nam, hoạt động TKTD được tiến hành từ những năm 1970 bởi các công ty Dầu khí nước ngoài như Mobil, Pecten, Union Texas,…
Khi Tổng cục Dầu mỏ và Khí đốt Việt Nam thành lập vào năm 1975, công tác TKTD được triển khai trên phạm vi cả nước, ở đất liền (miền võng Hà Nội, Đồng bằng Sông Cửu Long) và thềm lục địa phía nam bằng các hợp đồng đầu khí với các Công ty AGIP (Italia), DEMINEX (Đức) và BOWVALLEY (Canada).
Năm 1981, VietsovPetro ra đời và đến năm 1986 dòng dầu công nghiệp đầu tiên đã được phát hiện ở mỏ Bạch Hổ. Hai năm sau (1998) dầu tiếp tục được phát hiện trong móng nứt nẻ trước Đệ tam. Sự phát hiện này làm thay đổi phân bố trữ lượng và đối tượng khai thác tại mỏ Bạch Hổ, góp phần tăng nhanh sản lượng khai thác hằng năm đồng thời đưa ra quan điểm địa chất mới trong thăm dò Dầu khí ở bể Cửu Long nói riêng và ở thềm lục địa Việt Nam nói chung.
Từ khi có Luật Đầu tư nước ngoài (29/12/1987) và Luật Dầu khí (6/7/1993), đã có hàng chục công ty, tập đoàn Dầu khí lớn trên thế giới đầu tư vào TKTD trên toàn thềm lục địa Việt Nam. Ngoài các hoạt động TKTD do các Nhà thầu Dầu khí nước ngoài, trong những năm qua PetroVietnam đã và đang tích cực đầu tư, tự điều hành các dự án TKTD ở trong nước và đã có những bước đi ban đầu trong việc đầu tư TKTD Dầu khí ở nước ngoài. Cho đến nay, nhiều đề án dầu khí ở nước ngoài đã được ký kết và đang được thực hiện trong đó có các đề án mà PetroVietnam là nhà điều hành. Đây là mốc đánh dấu sự trưởng thành vượt bậc của PetroVietnam trên con đường trở thành tập đoàn Dầu khí có hoạt động cả ở trong và ngoài nước.
So với các nước khác trong khu vực, ngành Dầu khí Việt Nam tuy phát triển sau nhưng lại có những bước tiến nhanh chóng, ổn định và vững chắc. Sản lượng dầu tìm kiếm và khai thác tăng mạnh theo thời gian.
Bảng 2: Sản lượng khai thác dầu thô của các nước Asean
(Đơn vị: tấn/ngày đêm)
Năm
Brunay
Việt Nam
Philippin
Indonexia
Malaixia
Thái Lan
Mianma
1980
33.25
0
1.30
104.68
35.97
0
3.51
1985
19.74
0
1.04
152.99
57.53
5.19
3.77
1990
17.4
6.62
0.65
181.56
82.08
4.45
1.82
1991
24.16
10.39
0.39
104.29
83.12
6.23
1.69
1992
21.43
14.42
1.30
197.40
83.89
7.01
1.82
1993
21.89
16.36
0.65
190.39
81.82
6.88
1.82
1994
21.56
18.70
0.39
190.39
83.12
7.01
1.95
1995
23.25
23.37
0.52
191.69
88.96
7.92
2.08
2000
23.28
38.96
0.47
170.13
87.01
7.79
2.08
2001
23.92
39.28
0.72
182.14
88.65
8.25
2.68
2002
24.65
40.34
0.79
191.46
89.24
8.92
2.54
2003
24.78
40.68
0.80
192.04
89.56
8.46
2.45
2004
25.01
41.09
0.75
192.82
90.21
8.75
2.89
Tổng
229.88
168.1
7.43
1665.66
772.15
60.73
23.22
(Nguồn: Tạp chí Dầu khí số 9/2005)
Biểu đồ 2: Sản lượng dầu các nước Asean
Ở trong nước, đến nay 51 hợp đồng Dầu khí PSC, JOC và BCC đã được ký kết, trong đó 27 hợp đồng đang hoạt động. Tổng số vốn đầu tư TKTD cho đến nay đạt trên 7 tỷ USD. Nhiều kỹ thuật và công nghệ mới tiên tiến được áp dụng đã đem lại thành quả to lớn, tiếp theo việc phát hiện dầu trong móng nứt nẻ trước Đệ tam tại mỏ Bạch Hổ đã phát hiện nhiều mỏ dầu mới như các mỏ Rồng, Hồng Ngọc, Rạng Đông, Sư Tử Đen, Sư Tử Vàng, Sư Tử Trắng (bể Cửu Long), Đại Hùng (bể Nam Côn Sơn) và B10 (miền võng Hà Nội).
Ngoài việc tham gia cùng với các Nhà thầu trong các hợp đồng Dầu khí, trong thời gian qua PetroVietnam đã và đang tích cực đầu tư, tự điều hành dự án TKTD ở Tư Chính – Vũng Mây, miền Võng Hà Nội, Vịnh Bắc Bộ, Vùng biển miền Trung (bể Phủ Khánh) và đang khai thác mỏ Đại Hùng, Tiền Hải C; đã khảo sát khoảng 30.000 km địa chấn 2D, 830 km2 địa chấn 3D, và khoan hơn 10 giếng khoan TKTD và thẩm lượng với tổng chi phí khoảng 150 triệu USD và 200 tỷ VNĐ. Công tác tự đầu tư đã cho phép đi trước 1 bước trong giải quyết các mục tiêu các điều tra cơ bản đánh giá tiềm năng Dầu khí phục vụ hoạch định chiến lược TKTD tiếp theo cũng như tạo cơ sở kêu gọi đầu tư nước ngoài. Bên cạnh một số kết quả TKTD ban đầu đáng khích lệ (hai phát hiện khí, giếng khoan thẩm lượng 05 – 1 – ĐH 14X cho kết quả 650 tấn dầu/ngày), công tác tự đầu tư đã góp phần nâng cao năng lực điều hành của PetroVietnam.
Bảng 3: Các đề án tự đầu tư TKTD Dầu khí
TT
Tên dự án
Năm
Khối lượng
1
Địa chấn 2D, khoan – Tư Chính
1993 , 1995
12.000km
1GK
2
Địa chấn 2D – VBB
1995, 1998
7600km
3
Khoan TD MVHN
2002
2004 - 2005
2GK
2GK
4
Khoan khai thác TH – 02
2002
1GK
5
Thu nổ địa chấn 3D – VBB
2003
831km2
6
Thu nổ địa chấn 2D PK&TC - VM
2003
9.672km
7
Đại Hùng (khoan TD)
2003 - 2004
2GK
Nhiều chương trình nghiên cứu khoa học cấp Nhà nước, cấp ngành với hàng trăm đề tài - nhiệm vụ nghiên cứu và triển khai công nghệ đã được thực hiện, góp phần định hướng và giải quyết các vấn đề khoa học – công nghệ do thực tế TKTD đặt ra, có đóng góp nhất định vào thành tựu trong TKTD Dầu khí của PetroVietnam.
Qua hơn 40 năm hoạt động TKTD trên lãnh thổ và thềm lục địa Việt Nam, Ngành Dầu khí và các công ty Dầu khí nước ngoài đã tiến hành khảo sát gần 300.000km tuyến địa chấn 2D, khoảng 30.000km2 địa chấn 3D, khoan trên 600 giếng khoan thăm dò, thẩm lượng và khai thác (biểu đồ 3, 4) với tổng chi phí trên 7 tỷ USD. Đã phát hiện trên 70 mỏ/phát hiện trong đó có 10 mỏ đang khai thác với tổng sản lượng đang khai thác từ các mỏ này đến tháng 12 – 2005 đạt trên 195 triệu m3 dầu và 22 tỷ m3 khí. Nhiều phát hiện Dầu khí khác (ở các bể Sông Hồng, Cửu Long, Nam Côn Sơn, MaLay – Thổ Chu) đã và đang được thẩm lượng và phát triển.
Biểu đồ 3 : Kết quả thu nổ địa chấn giai đoạn 1988 – 2004
Biểu đồ 4: Số giếng khoan thăm dò, phát triển theo năm.
Biểu đồ 5: Số giếng khoan TD – TL theo bể trầm tích
Tuỳ thuộc vào độ sâu của giếng khoan, đối tượng và số lượng vỉa thử, nhiệt độ, áp suất và tính phức tạp khác của cấu trúc địa chất mà chi phí giếng khoan cũng biến động theo. Chi phí cho 1 giếng khoan dao động trong khoảng 3 - 4 triệu USD (giếng nông ngoài khơi hoặc vùng đất liền Anzoil) đến 30-40 triệu USD (vùng áp suất cao ở bể Nam Côn Sơn). Chi phí trung bình là vào khoảng 9 triệu USD/giếng thăm dò & thẩm lượng ở chiều sâu 3-4 nghìn mét, trong điều kiện bình thường là tương đương với chi phí phổ biến ở khu vực Châu Á Thái Bình Dương.
Trong số gần 600 giếng khoan thăm dò và thẩm lượng thực hiện trong hơn mười năm qua, chỉ có 12 giếng khoan có sự cố nặng (chiếm 9%) phải huỷ giếng, khoan lại hoặc không còn được sử dụng:
Biểu đồ 6: Phân loại sự cố giếng khoan.
Kết quả công tác TKTD trong thời gian qua đã xác định được các bể trầm tích Đệ tam có triển vọng dầu khí: Sông Hồng, Phú Khánh, Cửu Long, Nam Côn Sơn, Malay – Thổ Chu, Tư Chính – Vũng Mây, nhóm bể Trường Sa và Hoàng Sa, trong đó có các bể: Cửu Long, Nam Côn Sơn, Malay – Thổ Chu và Sông Hồng gồm cả đất liền (miền võng Hà Nội) đã phát hiện và đang khai thác dầu khí. Tuy nhiên, do đặc điểm hình thành và phát triển riêng của từng bể trầm tích nên chúng có đặc điểm cấu trúc, địa tầng trầm tích cũng như các điều kiện về hệ thống dầu khí khác nhau, do vậy tiềm năng dầu khí của mỗi bể có khác nhau với các đặc trưng chính về dầu khí đã phát hiện của các bể như sau:
Bể Cửu Long.
Chủ yếu phát hiện dầu, trong đó có 5 mỏ đang khai thác (Bạch Hổ, Rồng, Rạng Đông, Hồng Ngọc, Sư Tử Đen) và nhiều mỏ khác (Sư Tử Vàng, Sư Tử Trắng,…) đang chuẩn bị phát triển. Đây là bể chứa dầu chủ yếu ở thềm lục địa Việt Nam.
Bể Nam Côn Sơn.
Phát hiện cả dầu và khí (tỷ lệ phát hiện khí, khí – condensat cao hơn) trong đó có 2 mỏ đang khai thác là mỏ dầu Đại Hùng và mỏ khí Lan Tây – Lan Đỏ, ngoài ra còn có một số mỏ khí đang phát triển (Rồng Đôi – Rồng Đôi Tây, Hải Thạch,…).
Bể Sông Hồng.
Chủ yếu phát hiện khí, trong đó có mỏ Tiền Hải “C” ở đồng bằng Sông Hồng (miền võng Hà Nội) đang được khai thác.
Bể Malay - Thổ Chu.
Phát hiện cả dầu và khí trong đó có các mỏ dầu – khí: Bunga Kekwa – Cái Nước, Bunga Raya, Bunga Seroja ở vùng chồng lấn giữa Việt Nam và Malaixia đang được khai thác.
Ở nước ngoài, từ cuối những năm 1990, PetroVietnam đã có chủ trương và từng bước triển khai đầu tư TKTD dầu khí ở nước ngoài. Cho đến nay, PetroVietnam đã tham gia vào 7 đề án thăm dò khai thác (TDKT) ở nước ngoài, trong đó có 2 đề án là nhà điều hành. Các đề án này đang trong giai đoạn thăm dò và thẩm lượng. Dự kiến cuối năm 2006 đầu 2007, PetroVietnam sẽ có sản lượng dầu đầu tiên từ các đề án đầu tư nước ngoài. Đây là mốc đánh dấu sự trưởng thành vượt bậc của Tổng công ty Dầu khí Việt Nam trên con đường trở thành tập đoàn Dầu khí có hoạt động ở trong và ngoài nước.
Theo đánh giá của Tổng công ty Dầu khí Việt Nam, tổng trữ lượng dầu khí của các phát hiện từ những hợp đồng đầu tư ra nước ngoài hiện đạt 120 triệu m3 quy dầu, trong đó phần mang về nước (tính theo tỷ lệ mà VN tham gia) khoảng 80 triệu m3 quy đổi. Tổng công ty đã trực tiếp điều hành 2 dự án tại Iraq và Angeri, tham gia 3 dự án tại Malaysia và 2 dự án tại Indonesia, đang giành quyền lựa chọn tham gia vào 1 dự án tại Mông Cổ. Giai đoạn 2005 – 2010, PetroVietnam sẽ đẩy nhanh tiến độ tìm kiếm dự án mới ở nước ngoài để có thể ký được 6 – 7 dự án tìm kiếm thăm dò và khai thác.
Bảng 4 : Các đề án đầu tư TDKT dầu khí ở nước ngoài.
TT
Tên dự án
Khu vực đầu tư
Tỷ trọng tham gia của PV (%)
Thời điểm tham gia
1
Hợp đồng (HĐ) phát triển mỏ Amara
Irắc
100 (điều hành)
29/04/2002
2
HĐ thăm dò - thẩm lượng dầu khí lô 433a & 416b
Angieri
40 (điều hành)
30/06/2003
3
HĐ PSC lô PM304
Malaixia
4.5+10.5= 15
01/08/2000
4
HĐ PSC lô SK305
Malaixia
30
16/06/2003
5
HĐ PSC lô Đông Bắc Madura I
Inđônêxia
20
14/10/2003
6
HĐ PSC lô Đông Bắc Madura II
Inđônêxia
5
14/10/2003
7
HĐ PSC các lô 19, 21, 22 Tamtsag
Mông Cổ
05/11/1999
Như vậy, trong 30 năm qua, đặc biệt kể từ khi có chính sách đổi mới, mở cửa đến nay, hoạt động TKTD dầu khí đã được PetroVietnam triển khai rất tích cực, đồng bộ, toàn diện ở cả trong và ngoài nước, ở cả khu vực các hợp đồng dầu khí (đầu tư nước ngoài) lẫn tự đầu tư, tự điều hành; năng lực quản lý và điều hành công tác TKTD đã có những bước trưởng thành đáng kể và đã mang lại những kết quả quan trọng trong xác định/gia tăng trữ lượng và sản lượng khai thác dầu khí hàng năm đóng góp quan trọng vào sự phát triển của đất nước.
Tuy nhiên, do công tác TKTD chủ yếu dựa vào đầu tư nước ngoài nên mức độ không đồng đều, mới tập trung chủ yếu ở vùng có triển vọng nước nông tới 200m, diện tích các lô đã ký hợp đồng, đã có hoạt động dầu khí chỉ chiếm khoảng 1/3 diện tích toàn thềm lục địa, gần 2/3 diện tích còn lại chủ yếu ở vùng nước sâu, xa bờ,… chưa có tài liệu hoặc mới chỉ nghiên cứu địa vật lý khu vực cần phải được đẩy mạnh công tác TKTD. Cạnh tranh trong thu hút đầu tư nước ngoài vào TKTD trong khu vực rất gay gắt cần tiếp tục hoàn thiện các chính sách khuyến khích các công ty dầu khí quốc tế đầu tư vào Việt Nam. Công tác đầu tư, tự điều hành TKTD ở trong và ngoài nước còn nhỏ bé và chưa đáp ứng yêu cầu do thiếu kinh nghiệm, chưa có hành lang pháp lý phù hợp và hạn chế về cơ chế điều hành hiện hành.
1.2.2. ĐTNN vào TK – TD – KT Dầu khí Việt Nam.
1.2.2.1. Vai trò.
Để phát triển ngành Công nghiệp Dầu khí, ít nhất cần 3 yếu tố:
- Nguồn tài nguyên có trong lòng đất.
- Công nghệ hiện đại và Nguồn nhân lực trình độ cao để sử dụng hiệu quả công nghệ đó.
- Có nguồn vốn Đầu tư đủ lớn để thực hiện các đề án Thăm dò, Khai thác, Chế biến và Phân phối.
Việt Nam là một nước đang phát triển, nếu không nói là một nước còn thuộc dạng nghèo. Tài nguyên của chúng ta tuy không nhiều nhưng vẫn đủ để phát triển ngành công nghiệp Dầu khí. Cái mà chúng ta thiếu chính là công nghệ hiện đại, nguồn nhân lực có trình độ cao và đặc biệt là vốn đầu tư. Hằng năm chúng ta cần một lượng vốn cho Đầu tư phát triển là rất lớn, mọi ngành nghề đâu đâu cũng cần đến vốn đầu tư. Việc huy động nguồn vốn nội địa cho một ngành tiêu tốn khổng lồ như ngành Dầu khí dù nó mang lại Lợi nhuận rất cao là một điều rất khó khăn. Việc thu hút đầu tư nước ngoài không những giải quyết cho chúng ta một phần rất lớn về vốn đầu tư mà còn là cơ hội lớn để chúng ta học hỏi kinh nghiệm quản lí, tiếp thu khoa học công nghệ hiện đại. Vai trò của ĐTNN là quan trọng, và là một đòi hỏi khách quan mà ngành Dầu khí nói riêng và nền kinh tế nói chung rất cần phải có.
1.2.2.2. Chủ trương chính sách Đầu tư.
Nhờ có đường lối đổi mới và mở cửa của Đảng, nước ta đã vượt ra khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế xã hội, bước vào thời kỳ phát triển mới, đặc biệt từ khi Nhà nước ban hành Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam (29/12/1987) và Luật Dầu khí (06/7/1993).
Hai bộ luật trên đã tạo ra khuôn khổ pháp lí cơ bản cho việc khuyến khích đầu tư nước ngoài tại Việt Nam nói chung và đầu tư tìm kiếm, thăm dò, khai thác dầu khí nói riêng trên cơ sở tôn trọng độc lập chủ quyền và tuân thủ pháp luật của Việt Nam, bình đẳng và cùng có lợi.
Ngày 07/11/1998 Thủ tướng Chính phủ đã ra quyết định về khuyến khích đầu tư đối với hoạt động dầu khí tại các vùng nước sâu, xa bờ và khu vực có điều kiện địa lí, địa chất, kinh tế, kỹ thuật đặc biệt khó khăn.
Ngày 9/6/2000 Quốc hội đã thông qua Luật sửa đổi bổ sung Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam và Luật sửa đổi bổ sung một số điều khoản của Luật Dầu khí đối với Dự án khuyến khích đầu tư.
Nội dung cơ bản liên quan đến định chế tài chính nhằm khuyến khích đầu tư tìm kiếm, thăm dò, khai thác Dầu khí tại các vùng nước sâu, xa bờ và khu vực có điều kiện khó khăn và các khu vực có dự án khuyến khích đầu tư, có thể tóm tắt như sau:
Bảng 5: Các định chế tài chính trong lĩnh vực ĐTNN vào TK - TD - KT DK
Định chế tài chính
Luật Dầu khí 1993
Luật sửa đổi 2000
Nghị định 164/2003/NĐ-CP
Thuế tài nguyên
6-25% / 0-10%
4-25% / 0-10%
Thuế TNDN
50%
32% (có thể được miễn thuế 2 năm và giảm 50% 2 năm)
từ 28 – 50% (TTCP quyết định mức thuế cụ thể phù hợp với từng cơ sở theo đề nghị của BT Bộ TC)
Thuế xuất khẩu
4%
4%
Thuế chuyển lợi nhuận
10%
5%
Thời hạn hợp đồng
25 năm
30 năm
Thu hồi chi phí
Không quy định
70%
Thuế nhập khẩu thiết bị
?
Miến thuế
Các điều khoản cơ bản của hợp đồng dầu khí hiện nay:
Thời hạn của hợp đồng
Đối với dầu: không quá 25 năm với 5 năm tìm kiếm thăm dò
Đối với khí: không quá 30 năm với 7 năm tìm kiếm thăm dò
Diện tích hợp đồng: Không quá 2 lô (hoặc 4 lô trong các trường hợp đặc biệt)
Quyền tham gia của PV: Theo thỏa thuận
Chương trình công tác và ngân sách: Vừa cố định vừa có thể lựa chọn:
Thời hạn đối với mỗi giai đoạn tìm kiếm thăm dò
Cam kết công việc tối thiểu (địa chấn, khoan, v.v…)
Cam kết tài chính sơ bộ tối thiểu
Chế độ thuế t ài nguyên.
Thuế tài nguyên tùy theo sản lượng khai thác như sau:
Bảng 6: Thuế tài nguyên.
Dầu thô
Dự án thông thường
Dự án khuyến khích
Đến 20.000 thùng/ngày
6%
4%
Trên 20.000-50.000 thùng/ngày
8%
6%
Trên 50.000-75.000 thùng/ngày
10%
8%
Trên 75.000-100.000 thùng/ngày
15%
10%
Trên 100.000-150.000 thùng/ngày
20%
15%
Trên 150.000 thùng/ngày
25%
20%
Khí thiên nhiên
Đến 5 triệu m3/ngày
0%
0%
Trên 5 triệu – 10 triêu m3/ngày
5%
3%
Trên 10 triệu m3/ngày
10%
6%
Thuế thu nhập doanh nghiệp: Thông thường 50%, 28% đối với các dự án khuyến khích đầu tư, miễn thuế cho năm đầu và giảm 50% cho năm tiếp theo. Chính phủ cũng có thể cho phép miễn thuế 2 năm đầu và giảm 50% cho 2 năm tiếp theo.
Thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài: 3-7%
Thuế giá trị gia tăng: 0-10% (miễn thuế đối với vật tư thiết bị nhập khẩu, không sản xuất được trong nước).
Thuế xuất khẩu: 4% đối với dầu thô, không áp dụng đối với khí thiên nhiên, thuế được khấu trừ.
Thu hồi chi phí tối đa: Thông thường 50%, 70% đối với các dự án khuyến khích
Phân chia lợi nhuận: Lũy tiến theo tỷ lệ.
Về hình thức đầu tư:
Theo quy định của Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1987, nhà đầu tư nước ngoài được đầu tư theo 3 hình thức: doanh nghiệp Liên doanh; Hợp đồng hợp tác kinh doanh và doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. Cùng với những quy định về hình thức đầu tư, quá trình xây dựng và hoàn thiện Luật Đầu tư nước ngoài luôn bổ sung những phương thức đầu tư mới như: Đầu tư Xây dựng hạ tầng Khu Chế xuất, Khu Công nghiệp, Khu Công nghệ cao; Đầu tư theo phương thức Hợp đồng BOT, BOT, BT (1992). Những hình thức này vẫn được duy trì cho đến nay.
Trong hoạt động Dầu khí thì hình thức đầu tư có những nét riêng biệt, tuy vậy vẫn tuân theo Luật Đầu tư nước ngoài đã quy định. Các hình thức đầu tư bao gồm doanh nghiệp Liên doanh; hợp đồng phân chia sản phẩm PSC, hợp đồng Liên doanh Điều hành chung JOC, Hợp đồng Hợp tác kinh doanh BCC (tất cả những hình thức này đều là biến dạng của Hợp đồng hợp tác kinh doanh mà Luật đã quy định).
Về khuyến khích và đảm bảo đầu tư.
Các quy định về khuyến khích và đảm bảo đầu tư luôn là một nội dung quan trọng của pháp luật về Đầu tư nước ngoài. Các quy định về khuyến khích và bảo đảm đầu tư bao gồm các vấn đề chủ yếu sau đây:
- Ban hành các danh mục định hướng đầu tư và quy định quyền tự chủ của nhà đầu tư trong việc lựa chọn cơ hội đầu tư: Nghị định 24/2000/NĐ-CP của Chính phủ đã ban hành 5 danh mục về dự án khuyến khích và đặc biệt khuyến khích đầu tư, địa bàn khuyến khích đầu tư, lĩnh vực đầu tư có điều kiện và lĩnh vực không được cấp phép đầu tư. Hoạt động TK - TD - KT thuộc dang mục Dự án khuyến khích đầu tư quy định của Nghị định này, nếu xuất khẩu trên 80% sản phẩm trở lên thì thuộc danh mục dự án đặc biệt khuyến khích đầu tư.
Tóm lại: Khi các nhà đầu tư nước ngoài muốn tham gia đầu tư vào Tìm kiếm - thăm dò - khai thác Dầu khí tại Việt Nam thì cần phải biết rõ về các chủ trương chính sách như: Hình thức đầu tư, Công tác triển khai dự án và tổ chức kinh doanh, Chế độ kế toán, Bảo hiểm, Quản lí ngoại hối, Quan hệ ngoại hối, Đất đai, Xây dựng, Đấu thầu, Thủ tục cấp giấy phép đầu tư, Đảm bảo đầu tư, Xử lí tranh chấp… thông qua các văn bản pháp luật sau:
- Luật Đầu tư nước ngoài sửa đổi 9/1996.
- Nghị định 24/2000/NĐ-CP, Nghị định 27/2003/NĐ-CP, Nghị định 164/2003/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành Luật Đầu tư nước ngoài.
- Luật Dầu khí năm 1993 (đã sửa đổi, bổ sung ngày 9/6/2000)
- Nghị định số 48/2000/NĐ-CP ngày 12/9/2000 quy định chi tiết thi hành Luật Dầu khí.
- Nghị định số 34/2001/NĐ-CP ngày 6/7/2001 của Chính phủ ban hành Quy chế đấu thầu dự án Tìm kiếm - thăm dò - khai thác dầu khí.
- Quyết định số 216/1998/QĐ-TTg ngày 7/11/1998 của TTCP về khuyến khích đầu tư đối với hoạt động dầu khí tại các vùng nước sâu, xa bờ và khu vực có điều kiện địa lý, địa chất, kinh tế, kỹ thuật đặc biệt khó khăn.
- Quyết định số 41/1999/QĐ-TTg ngày 8/3/1999 của TTCP ban hành Quy chế quản lí an toàn trong các hoạt động dầu khí.
- Quyết định số 116/2001/QĐ-TTG ngày 2/8/2001 của TTCP về một số ưu đãi, khuyến khích đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực hoạt động dầu khí.
- Quyết định số 395/1998/QĐ-BKHCNMT ngày 10/4/1998 của Bộ trưởng Bộ Khoa học, công nghệ và môi trường về việc ban hành Quy chế bảo vệ môi trường trong việc Tìm kiếm - thăm dò - phát triển mỏ - khai thác – tàng trữ - vận chuyển - chế biến dầu khí và các dịch vụ liên quan.
- Quyết định số 229/2001/QĐ-BKH ngày 18/5/2001 của Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư ban hành Danh mục vật tư thiết bị phục vụ hoạt động dầu khí trong nước sản xuất được.
- Thông tư số 48/2001/TT-BTC ngày 25/6/2001 của Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện quy định về thuế đối với các tổ chức, cá nhân tiến hành hoạt động tìm kiếm, thăm dò và khai thác dầu khí theo quy định của Luật Dầu khí.
1.2.2.3. Các hình thức huy động ĐTNN.
Nhìn chung, các dạng hợp đồng thăm dò khai thác dầu khí thông thường đều đã được áp dụng tại Việt Nam:
Hợp đồng Nhượng địa (CC).
Hợp đồng Dịch vụ (SC).
Hợp đồng Chia Sản phẩm (PSC).
Hợp đồng Liên doanh (JV).
Hợp đồng Liên doanh Điều hành chung (JOC).
Hợp đồng Địa chấn không Độc quyền (S. E).
Hợp đồng Địa chấn Lựa chọn (S. O).
Hợp đồng Hợp tác kinh doanh (BCC).
Dạng hợp đồng dầu khí đầu tiên được áp dụng tại Việt Nam là hợp đồng tô nhượng mà chính quyền Sài Gòn trước đây ký với các công ty Pecten, Mobil, Esso và Marathon để tiến hành các hoạt động dầu khí ở miền Nam Việt Nam.
Sau ngày giải phóng hoàn toàn đất nước, tháng 9 năm 1975, Tổng cục Dầu khí Việt Nam được thành lập, sau đó lập ra Tổng công ty Dầu khí Việt Nam (tháng 9 năm 1997), hầu hết các hợp đồng dầu khí giữa PetroVietnam và các đối tác nước ngoài được ký kết dưới hình thức Hợp đồng chia sản phẩm (PSC), một hình thức của Hợp đồng Hợp tác Kinh doanh (BCC) theo Luật Đầu tư Nước ngoài tại Việt Nam (1988-1996-2000) và Luật Dầu khí (1993-2000). Điều khoản cơ bản của dạng hợp đồng này là nhà đầu tư đồng ý tiến hành mọi hoạt động tìm kiếm, thăm dò bằng nguồn tài chính của riêng mình, nếu có phát hiện thương mại nhà đầu tư tiếp tục chi cho các hoạt động phát triển, khai thác. Lượng dầu khí khai thác lên sau khi nộp thuế tài nguyên sẽ được chia theo tỷ lệ sản lượng cho nước chủ nhà.
Việc lựa chọn hình thức hợp đồng áp dụng, đặc biệt là với công việc thăm dò khai thác dầu khí, một lĩnh vực có tầm quan trọng về phương diện kinh tế chính trị là việc làm cần có sự thận trọng.
Trong giai đoạn 1988 – 2000, dạng Hợp đồng Chia Sản phẩm (PSC) đã được lựa chọn là chủ yếu để áp dụng cho việc thăm dò khai thác dầu khí tại Việt Nam. Việc lựa chọn này đã tỏ ra hợp lý với việc hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài, đồng thời góp phần tích cực trong quá trình chuyển giao công nghệ, đào tạo nhân lực và giúp nước chủ nhà hội nhập dần dần với nền công nghiệp dầu khí quốc tế. Hình thức đặc biệt của PSC là JOC áp dụng trong những năm gần đây cho thấy PetroVietnam đã trưởng thành, có thể từng bước tham gia điều hành và tiến tới tự điều hành.
1.2.2.4. Kết quả ĐTNN vào TK – TD – KT Dầu khí.
Sau hơn 18 năm hợp tác với nước ngoài đầu tư thăm dò tìm kiếm dầu khí dưới dạng Hợp đồng Chia Sản phẩm, với chi phí đầu tư đáng kể (trên 7 tỷ USD), phần lớn từ nước ngoài, ta đã thực hiện được một khối lượng công việc khổng lồ.
Kết quả đáng kể nhất là: với khối lượng thông tin kỹ thuật rất lớn thu được từ công tác khoan và nghiên cứu địa chất, địa vật lý, ta đã có được một hình ảnh tổng thể về tiềm năng dầu khí của Việt Nam. Các trữ lượng tiềm năng của các bể trầm tích chính như: Cửu Long, Nam Côn Sơn, Sông Hồng, Tây Nam, vùng chồng lấn … cơ bản đã được xác định. Điều này đã giúp cho Nhà nước hoạch định chiến lược phát triển kinh tế dài hạn và điều chỉnh chính sách đầu tư.
a. Vốn đầu tư:
Trong giai đoạn từ 1988 - 2005, ngoại trừ Xí nghiệp Liên doanh Vietsovpetro, với 40 hợp đồng dầu khí ký kết với các công ty dầu khí nước ngoài năm 2000 và 50 hợp đồng năm 2005, tổng chi phí đầu tư của các Nhà thầu cho hoạt động TKTD & KT dầu khí tính đến hết quý II năm 2000 đạt khoảng 3,62 tỷ USD; một con số không nhỏ nếu tính đến mức GDP còn rất khiêm tốn của nước ta. Đến hết tháng 12/2005 con số này đã lên đến 7,2 tỷ USD (gấp đôi năm 2000 trở về trước).
Ngoài các khoản thu về thuế tài nguyên, dầu lãi tiếp tục gia tăng, trong thời gian qua việc ký kết và thực hiện các hợp đồng trên đã tạo ra những khoản thu đáng kể cho Ngân sách Nhà nước, cụ thể ta đã thu được khoảng 520 triệu USD từ Hoa hồng Chữ ký và Tiền Đào tạo do Nhà thầu cung cấp, 180 triệu USD tiền thuế Nhà thầu phụ và thuế Thu nhập cá nhân người nước ngoài phát sinh từ các hoạt động của Nhà thầu.
Bảng 7: VỐN ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI
Trong lĩnh vực TKTD và KT Dầu khí từ năm 1988 đến 12/2005
(ĐVT: USD)
TT
Nhà ĐTNN
Lô HĐ
VĐT luỹ kế từ năm 1988 đến nay
Ghi chú
1
BP
06.1, 05.2, 05.3
844.106.262
2
Cocono, Pedco (Cuu Long JOC)
TKDT
456.917.800
3
BP - Statoil
117 – 118 – 119
74.000.000
PSC kết thúc 15/11/95
4
Conoco - Phillips
16.2, 133 – 134
46.665.460
5
JVPC
15.2
989.871.621
6
SOCO (Hoang Long JOC )
16.1
56.582.521
7
Hoan Vu JOC
9.2
81.948.960
8
KNOC
11.2
135.332.633
9
Petronas (Lamson JOC)
01 & 01/97
16.930.000
10
Petronas (46 - CN )
46 – CN
29.194.716
11
Petronas
01 & 02
527.580.000
12
Petronas, Talisman (T.Son JOC)
46/02
33.347.579
13
Petronas, Pertaminna (Conson JOC)
10 & 11.1
13.474.045
14
Unocal
TKDT
73.235.830
15
Unocal
TKDT
63.639.028
16
Premier Oil
12E/12W
56.170.000
17
Unocal
B & 48/95, 52/97
136.874.858
18
VRJ
9.3
22.060.440
19
Vamex
07 – 08
3.363.771
20
Vietgazprom
112
16.596.026
21
Talisman
PM3 – CAA,46CN
1.216.438.173
22
Maurel & Prom
VHTN
75.182.540
23
Đại Hùng
05.1a
506.000.000
24
BHP
120 – 121
22.000.000
PSC kết thúc 30/4/94
25
Secab - Cairn
22
9.000.000
PSC kết thúc 28/8/94
26
Secab - IPL
115
17.000.000
PSC kết thúc 28/12/94
27
Sceptre - Resourse
111
10.000.000
PSC kết thúc 30/11/94
28
OMV
104
26.000.000
PSC kết thúc 31/12/99
29
OMV
111
18.369.563
30
Shell
112 – 114 – 116,10
153.000.000
PSC kết thúc 1992 (Lô 112,114,116) & 28/4/96 (Lô 10)
31
Total
102 – 106 – 107,11 – 1
155.000.000
32
Enterprise
17,21
71.000.000
33
Petro Canada
3 – 12 – 20
32.000.000
PSC kết thúc 28/11/93
34
Idemitsu
102 – 91
28.000.000
PSC kết thúc 30/9/95
35
Lasmo
04 – 2
9.000.000
PSC kết thúc 31/5/96
36
P.Astra
04-3
70.000.000
PSC kết thúc 21/12/96
37
British Gas
04-1
49.000.000
PSC kết thúc 28/10/97
38
MJC
05-1B
116.000.000
PSC kết thúc 31/7/97
39
Fina
46,50&51
152.000.000
40
Vietsovpetro
Bạch Hổ-Rồng
75.000.000
Tổng cộng
7.202.881.826
(Nguồn: Công ty Đầu tư & Phát triển Dầu khí PIDC)
Bảng 8: Tình hình thực hiện đầu tư của giai đoạn Tìm kiếm Thăm dò và Khai thác dầu khí trong giai đoạn 1988 - 2004 (đơn vị USD)
Năm
Số NT
Chi phí thu hồi
Chi phí không thu hồi
Tổng chi phí đầu tư
1988
3
8,043,323
4,150,000
12,193,323
1989
6
47,774,942
3,300,000
51,074,942
1990
10
127,821,292
5,076,485
132,897,777
1991
13
149,037,189
3,825,164
152,862,354
1992
22
97,910,517
60,764,583
158,675,099
1993
24
280,973,217
84,272,462
365,245,679
1994
25
481,591,003
39,554,862
521,145,865
1995
20
424,450,391
1,516,403
425,966,794
1996
21
453,271,502
7,615,794
460,887,296
1997
16
314,101,091
._.tập trung vào các khu vực/ lô sau đây:
+ Khôi phục và đẩy mạnh TKTD ở bể Sông Hồng, miền võng Hà Nội nhằm phát hiện 40 – 50 tỷ m3 khí làm cơ sở cho việc xây dựng khu công nghiệp sử dụng khí ở phía Bắc sau năm 2010; Bể Phú Khánh nhằm làm rõ tiềm năng dầu khí, phát hiện khoảng 30 – 4 triệu m3 quy dầu;
+ Tập trung TKTD ở các lô/ khu vực mới như 25-31 (Bể Cửu Long); 19, 20, 21, 05-2, 06/94 (Bể Nam Côn Sơn); 135, 136 (bể Tư Chính – Vũng Mây); 36-40 (Bể Malay – Thổ Chu); 41 – 44 (Bể Phú Quốc);
+ Đẩy mạnh TKTD và thẩm lượng ở các lô đã có hợp đồng dầu khí, tại mỏ đang khai thác và áp dụng các biện pháp công nghệ nâng cao hệ số thu hồi dầu nhằm tăng trữ lượng khai thác.
Tiếp tục tăng cường quảng bá, thu hút đầu tư nước ngoài vào TKTD dầu khí dưới các hình thức hợp tác linh hoạt, tiếp tục hoàn thiện các chính sách, điều kiện khuyến khích đầu tư nước ngoài, phấn đấu ký 6 – 12 hợp đồng dầu khí mới trong giai đoạn 2005 – 2010, đặc biệt ưu tiên các lô còn mở tại các bể Sông Hồng, Phú Khánh, Tư Chính – Vũng Mây, Nam Côn Sơn, các vùng nước sâu xa bờ nhằm sớm xác định được trữ lượng dầu khí tại các khu vực này.
Chủ động đẩy mạnh công tác tự đầu tư và điều hành công tác TKTD ở trong nước tại các vùng còn mở có triển vọng và tại các khu vực đã có phát hiện dầu khí song chưa được khẳng định tính thương mại để tạo bước đột phá, nâng cao tính hấp dẫn đối với nhà đầu tư nước ngoài cũng như nhằm gia tăng trữ lượng dầu khí.
Tiếp tục đẩy mạnh đầu tư TKTD ra nước ngoài, đồng thời theo cả 2 hướng: triển khai có hiệu quả các dự án hiện có và tiếp tục tìm kiếm cơ hội ký thêm 5 – 6 hợp đồng mới tại các khu vực trọng điểm có tính hấp dẫn cao về dầu khí (Trung Đông, Bắc Phi, Nga, SNG, Đông Nam Á…), trong đó ưu tiên mua 1 – 2 tài sản để giảm thiểu rủi ro và nâng cao hiệu quả đầu tư.
Tăng cường đầu tư nâng cao năng lực và chất lượng công tác nghiên cứu khoa học – công nghệ đảm bảo khoa học đi trước một bước và định hướng cho công tác TKTD. Ưu tiên đánh giá lại tiềm năng dầu khí của từng bể trầm tích để có các quan điểm TKTD mới; triển khai ứng dụng các giải pháp, công nghệ mới nhằm nâng cao hệ số thu hồi dầu, phát triển và khai thác các mỏ tới hạn, các mỏ khí có hàm lượng CO2 cao (hiện tại không thương mại). Triển khai chương trình nghiên cứu tổng thể về móng để nhanh chóng làm chủ công nghệ TKTD và KT dầu trong móng granit nứt nẻ.
2.2. CƠ HỘI, THUẬN LỢI
Có nguồn tài nguyên đáng kể, với trữ lượng tiềm năng dầu khí dự báo của Việt Nam là đáng kể: 3,0 - 4,5 tỷ m3 quy dầu, trong đó chủ yếu là khí (trên 50%). Trữ lượng đã phát hiện gần 1 tỷ m3 quy dầu, chiếm 30 – 35% trữ lượng và tiềm năng dự báo (số liệu tại hội nghị khoa học 25 năm thành lập ngành Dầu khí). Đó là cơ sở vững chắc cho các hoạt động Thượng nguồn.
So với các ngành công nghiệp khác, ngành Dầu khí có thu hút được nhiều nguồn tài chính khá dồi dào thông qua các hoạt động của các nhà thầu nước ngoài trong tìm kiếm – thăm dò (hoa hồng, phí đào tạo, cam kết tài trợ…). Lĩnh vực Thượng nguồn có tăng trưởng và doanh thu khá.
Năng lực nguồn nhân lực: Tổng công ty đã xây dựng được đội ngũ với hơn 22.000 cán bộ, công nhân kỹ thuật, bao gồm đủ các ngành nghề, có trình độ chính trị, quản lý, chuyên môn và ngoại ngữ có thể thực hiện tốt các nhiệm vụ nghiên cứu khoa học và sản xuất kinh doanh của Ngành.
Uy tín của Tổng công ty ngày càng được nâng cao, mặt khác lại được đảm bảo về các điều kiện pháp lý của Nhà nước, do vậy sẽ rất thuận lợi trong việc kêu gọi đầu tư, huy động vốn vay để triển khai thực hiện các dự án lớn, là tiền để vững chắc tiến tới mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh ở nước ngoài.
Các đối tác nước ngoài tham gia hợp đồng hợp tác kinh doanh đều là những tập đoàn kinh tế mạnh, có nhiều kinh nghiệm điều hành, có tiềm lực tài chính và làm chủ được khoa học công nghệ tiên tiến nên sẽ rất thuận lợi cho các dự án Thượng nguồn.
2.3. KHÓ KHĂN THÁCH THỨC.
Bên cạnh các thành tựu và cơ hội nói trên, trong thời gian tới hoạt động TKTD dầu khí của PetroVietnam còn phải đối mặt với không ít khó khăn và thách thức.
Trên bình diện chung, khó khăn của tất cả các nước hiện nay là nhu cầu năng lượng tăng rất cao; nguồn tài nguyên dầu khí ngày càng cạn kiệt; khả năng gia tăng trữ lượng và phát hiện các mỏ dầu khí lớn ngày một khó khăn; Điều kiện TKTD (nước sâu, xa bờ…) ngày một phức tạp, khắc nghiệt, đòi hỏi công nghệ và chi phí rất cao; các nước thông qua các công ty dầu khí quốc gia đẩy mạnh thu hút đầu tư nước ngoài và tự đầu tư cho TKTD. Đồng thời, các nước đều có nhu cầu đầu tư ra nước ngoài để bù đắp thiếu hụt năng lượng ở trong nước; sự cạnh tranh quốc tế trong lĩnh vực dầu khí ngày càng quyết liệt do sự sát nhập các công ty dầu đa quốc gia và sự tăng trưởng kinh tế rất nhanh của một số nước như Trung Quốc và Ấn Độ dẫn đến các quốc gia này có những thay đổi về chính sách và có những đầu tư khổng lồ cho các dự án năng lượng, gây rất nhiều khó khăn cho các công ty có tiềm năng kỹ thuật và tài chính hạn chế.
Ở trong nước, tiềm năng dầu khí của ta là có hạn, không phải là lớn so với các nước trong khu vực và không thể tái tạo. Các bể trầm tích có tiềm năng dầu khí cao đã được thăm dò, khả năng tìm ra các mỏ dầu khí mới với trữ lượng đáng kể là thấp, do vậy, các khu vực này chủ yếu sẽ phát hiện các mỏ dầu khí có trữ lượng nhỏ và phân tán, điều kiện khai thác khó khăn hơn.
Tiềm năng dầu khí chưa phát hiện còn lại được đánh giá đủ lớn chủ yếu tập trung ở vùng nước sâu, xa bờ (Bể Phủ Khánh và Tư Chính – Vũng Mây, nhóm bể Hoàng Sa và Trường Sa) hoặc các bể trước Kainozoi…, song chưa được đầu tư nghiên cứu điều tra cơ bản thoả đáng để khẳng định tiềm năng dầu khí.
Nguồn trữ lượng thu hồi tại các mỏ và phát hiện chỉ đảm bảo duy trì khai thác dầu thô ổn định ở mức 17 – 19 triệu tấn/năm cho tới năm 2012, sau đó nếu không có bổ sung nguồn trữ lượng mới sản lượng khai thác dầu thô sẽ sụt giảm nhanh chóng ảnh hưởng tới sự bền vững của Tổng Công ty Dầu khí Việt Nam nói riêng và nền kinh tế quốc dân nói chung. Trong khi đó, trữ lượng khí đã phát hiện đủ lớn cho phép gia tăng đáng kể sản lượng khai thác song việc gia tăng sản lượng khí còn phụ thuộc vào khả năng phát triển thị trường do thị trường khí ở nước ta còn nhỏ, phát triển chậm, chưa tương xứng với tiềm năng khí thiên nhiên của Việt Nam.
Khả năng thu hút đầu tư nước ngoài vào Việt Nam có nhiều khó khăn do tiềm năng dầu khí của ta có hạn, nhiều nước mở các diện tích cho thăm dò khai thác, kèm theo các điều kiện ưu đãi hấp dẫn cho đầu tư nước ngoài cạnh tranh hết sức gay gắt với ta.
Giá thành TKTD để phát hiện một đơn vị trữ lượng dầu khí sẽ tăng đáng kể do điều kiện địa chất – địa lý sẽ phức tạp và khó khăn, đòi hỏi chi phí lớn.
Việc đầu tư ra nước ngoài nhằm bổ sung trữ lượng để duy trì sản lượng dầu khí và sự phát triển bền vững của PetroVietnam sau năm 2012 là hết sức cần thiết. Tuy nhiên, như đã nói ở trên, cạnh tranh quốc tế rất quyết liệt và rất khó khăn đối với những công ty dầu có tiềm năng kỹ thuật và tài chính hạn chế, kinh nghiệm hoạt động quốc tế ít, các cơ chế hành lang pháp lý cho các hoạt động dầu khí ở nước ngoài thiếu, chưa hoàn chỉnh như chúng ta.
Mặc dù có nhiều khó khăn và thách thức như vậy, song, các cơ hội vẫn là cơ bản. Với đội ngũ cán bộ, kinh nghiệm và các thành tựu đã đạt được của 30 năm hoạt động, chúng ta vững tin vào sự phát triển bền vững của Tổng Công ty Dầu khí Việt Nam để có những đóng góp nhiều hơn cho sự nghiệp công nghiệp hoá – hiện đại hoá đất nước.
2.4. MỘT SỐ GIẢI PHÁP.
2.4.1. Tăng cường công tác nghiên cứu, khảo sát đảm bảo cung cấp những tài liệu tham khảo đầy đủ, đáng tin cậy về các lô cho các nhà đầu tư nước ngoài.
Để tạo điều kiện thuận lợi cho các Nhà thầu nước ngoài vào tìm hiểu và xúc tiến đầu tư, PetroVietnam cần có những thông tin cần thiết và chính xác về các lô hợp đồng.
Cho đến 12/2005, PetroVietnam đã kí được 50 hợp đồng tìm kiếm, thăm dò và khai thác Dầu khí của tổng số 171 lô. Các lô chưa đầu tư hầu hết có thông tin quá ít hoặc độ rủi ro cao. Do đó để thu hút vốn đầu tư nước ngoài, PetroVietnam cần xúc tiến các hoạt động nghiên cứu tổng hợp tài liệu đã có, đông thời khảo sất thêm lô mới một cách có chọn lọc trên toàn thềm lục địa cũng như đất liền. Thực tế, PetroVietnam chưa có đủ điều kiện để thực hiện tốt công tác này, vì vậy cần thúc đẩy thu hút đầu tư từ các công ty nước ngoài bằng cách ký kết các hợp đồng nghiên cứu chung địa chất, địa vật lý hoặc hợp đồng khảo sát địa chấn một cách không độc quyền; sớm xây dựng cơ sở dữ liệu về địa chất cho từng bồn trũng và toàn thềm lục địa.
2.4.2. Đưa ra các điều kiện kinh tế mềm dẻo, thích hợp và hấp dẫn cạnh tranh trong khu vực đối với các mỏ nhỏ, nước sâu, xa bờ, điều kiện địa chất khó khăn.
PetroVietnam đã ký hợp đồng và triển khai hoạt động ở phần lớn các lô được đánh giá có triển vọng. Những lô còn lại ít triển vọng hơn, khả năng chỉ có mỏ nhở hoặc ở vùng nước sâu có nhiều yếu tố rủi ro. Hiện nay, số dự án đầu tư nước ngoài vào Tìm kiếm – Thăm dò – Khai thác ở khu vực này còn rất ít. Tình trạng này có nguyên nhân xuất phát từ các chính sách thiếu sự mềm dẻo, linh hoạt, các mức thuế còn cao so với các nước khác. Vì vậy chúng ta cần có những chủ trương chính sách mà đưa ra cấc điều kiện kinh tế mềm dẻo hơn nữa để thu hút nhà đầu tư nước ngoài vào những lô này.
Để khuyến khích đầu tư nước ngoài hơn nữa, Nhà nước có thể giảm mức thuế tài nguyên xuống dưới 4% đối với cả dầu và khí, thuế thu nhập doanh nghịêp cũng có thể giảm xuống 25% thay vì mức 28% như hiện nay, cũng như quy định miễn giảm thuế áp dụng như đối với các lĩnh vực đầu tư nước ngoài khác. Tại các khu vực có độ rủi ro cao, ít triển vọng, Nhà nước có thể cho phép PetroVietnam nới lỏng về cam kết công việc và tài chính, cũng như mở rộng khung tỉ lệ thu hồi chi phí và chia dầu lãi. Cũng có thể áp dụng thí điểm dầu lãi và thu hồi chi phí dựa trên tổng sản lượng khai thác hoặc yếu tố IRR, thay vì sản lượng hằng ngày, như một số nước khác.
2.4.3. Đào tạo và tái đào tạo nhằm củng cố, nâng cao trình độ chuyên môn, kiến thức cho cán bộ công nhân viên trong Ngành theo kịp với nhịp độ quốc tế.
Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư nước ngoài cũng có nghĩa chúng ta phải đàm phán để kí kết được các hợp đồng hợp tác đầu tư nước ngoài với các điều khoản có lợi nhất cho phía Việt Nam mà đối tác có thể chấp nhận được. Muốn vậy, cán bộ trong ngành Dầu khí cần nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, đặc biệt là các cán bộ tham gia đàm phán hợp đồng cũng như các người làm việc trong các ban quản lí dự án. Điều này là vô cùng cần thiết vì các công ty Dầu khí quốc tế đều muốn làm việc với các đối tác có hiểu biết, có trình độ chuyên môn vững chắc để quá trình hợp tác diễn ra được thuận lợi.
Cùng với việc tìm kiếm thêm được nhiều mỏ, đưa thêm mỏ vào khai thác thì việc thiếu hụt cán bộ cũng trở nên hệ trọng và cấp thiết. Do vậy việc tìm kiếm và đào tạo ngày càng nhiều những cán bộ chuyên gia cho ngành Dầu khí luôn là một công tác mang tính chiến lược của Tổng công ty Dầu khí nói riêng và các trường Đại học kỹ thuật nói chung.
Bên cạnh công tác đào tạo chúng ta cũng cần phải nỗ lực tiếp cận công nghệ hiện đại bằng nhiều cách như cử cán bộ đi đào tạo hoặc sang làm việc cùng các công ty Dầu khí quốc tế, cũng như phải có chế độ tuyển dụng – đãi ngộ phù hợp.
2.4.4. Đa dạng hoá các hình thức hợp tác.
Trong các hình thức Đầu tư nước ngoài vào Dầu khí, căn cứ vào lợi ích thực tế của từng hình thức, có thể thấy rằng Liên doanh điều hành chung JOC là hình thức tiên tiến nhất, đem lại nhiều lợi ích nhất cho ngành Dầu khí, tuy vậy các nhà đầu tư nước ngoài lại không mấy mặn mà. Do vậy cần phải có những chủ trương cũng như tổ chức thực hiện sao cho có thể ngày càng phát triển cả về số lượng các JOC cũng như chất lượng hoạt động của chúng, đặc biệt là chất lượng hoạt động của phía Việt Nam trong các JOC đó.
Ngoài việc hợp tác đầu tư theo các hình thức quy định trong Luật Đầu tư nước ngoài, việc hợp tác đầu tư trong lĩnh vực KHCN và Đào tạo, chuẩn bị nhân lực rất quan trọng. Do đó, cần đa dạng hoá việc hợp tác đầu tư với nước ngoài, có thể với các hình thức như sau:
- Tranh thủ nguồn vốn từ nước ngoài (đối tác liên doanh).
- Mua và chuyển giao công nghệ trực tiếp.
- Hợp tác trong lĩnh vự bảo vệ môi trường, xử lí rác thải…
- Họp tác trong lĩnh vực đào tạo, tái đào tạo cán bộ kỹ thuật, chuẩn bị nhân lực …
- Hợp tác trong trợ giúp kỹ thuật, quản lí và vận hành các dự án lớn.
- Hợp tác trong vấn đề tư vấn và kỹ thuật.
2.4.5. Phát triển cơ sở hạ tầng cho ngành Dầu khí, tạo điều kiện cho các nhà đầu tư nước ngoài.
Xuất phát từ đặc thù hoạt động tại những vùng có điều kiện địa chất, địa lí khó khăn mà cơ sở hạ tầng ngành Dầu khí có những nét riêng biệt.
Thứ nhất: Hầu hết các mỏ chứa dầu khí lại ở ngoài khơi xa bờ, đội ngũ cán bộ công nhân viên làm việc ngoài đó luôn cần một lực lượng tiếp viện đầy đủ và đều đặn, mà con đường vận tải duy nhất là bằng đường hàng không và đường thủy, trong đó thuận tiện nhất vẫn là hàng không. Trước năm 2000, các dịch vụ này còn kém, các công ty dịch vụ Dầu khí còn chưa phát triển, còn thiếu các phương tiện kỹ thuật để có thể phục vụ một cách kịp thời và hiệu quả. Hiện nay
Việc mở rộng chức năng của các công ty dịch vụ Dầu khí cần phải được PetroVietnam luôn chú trọng. Cần ngày càng mở rộng hơn nữa khu căn cứ dịch vụ cảng, hoàn chỉnh cơ sở hậu cần gồm có kho bãi, các phương tiện chuyên chở vật tư kỹ thuật phục vụ cho hoạt động dầu khí ở ngoài khơi xa.
Thứ hai: Vấn đề dịch vụ chăm sóc đời sống hàng ngày cho người nước ngoài làm việc tại Việt Nam. Vì các dự án đầu tư có thời hạn khá dài, nên chúng ta cần tạo điều kiện cho cuộc sống gia đình của họ được thuận lợi. Hiện nay, tại Vũng Tàu mới chỉ có một trường học dành cho liên doanh Vietsovpetro cho trẻ em Nga, vì thế rất cần thiết xây dựng những trường học mới cho con cháu các chủ đầu tư nước ngoài khác.
Thứ ba: là vấn đề liên quan đến tình trạng chăm sóc sức khỏe cán bộ công nhân viên người nước ngoài. Họ sống và làm việc tại Việt Nam nên cần được đảm bảo về mặt y tế trước hết là phòng chữa được các bệnh thông thường. Trong những trường hợp đặc biệt như sự cố, tai nạn lao động, họ cũng cần được đảm bảo chăm sóc chu đáo, có thể chuyển ra nước ngoài nếu cần. Do đó chúng ta phải lập được một lưới dịch vụ y tế đồng bộ cả trong nước và nước ngoài sẵn sàng tiếp nhận những trường hợp khẩn cấp.
Tóm lại, quan trọng nhất vẫn là phải nâng cao năng lực cạnh tranh của các công ty dịch vụ Việt Nam vì tỷ trọng dịch vụ trong chi phí đầu tư rất lớn, mà các công ty Việt Nam chưa đáp ứng được các dịch vụ đòi hỏi công nghệ cao và thuờng là chỉ đứng ra làm môi giới hoặc liên doanh. Nhà nước cần có cơ chế hỗ trợ thích đáng.
2.4.6. Hoàn thiện hơn nữa các thủ tục hành chính, giảm thiểu thời gian xét duyệt dự án đầu tư.
Đây là công tác cần sự phối hợp nhịp nhàng giữa các cơ quan Nhà nước chức năng, bao gồm Thủ tướng Chính phủ, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Công nghiệp
Đây là vấn đề tồn tại từ những ngày đầu tiên triển khai các dự án đầu tư nước ngoài và ngày càng làm cho các nhà đầu tư mệt mỏi, chán nản mỗi khi vấp phải các thủ tục hành chính từ cấp Trung ương đến địa phương. Như trước đây đã làm và đã làm tốt Nhà nước nên cho phép PetroVietnam tiến hành lựa chọn đối tác hợp tác thông qua hình thức đàm phán một cách mềm dẻo mà không nhất thiết lúc nào cũng phải đưa ra đấu thầu.
Một số thủ tục phê chuẩn của Chính phủ nên được uỷ quyền cho PetroVietnam, ví dụ như việc phê chuẩn diện tích phát triển mỏ, chấp nhận gia hạn cho Nhà thầu để hoàn tất cam kết công việc… Bên cạnh đó, Nhà nước cần giảm thiểu thủ tục phiền hà trong việc cấp hạn ngạch nhập khẩu hàng hóa, máy móc, thiết bị phục vụ cho hoạt động Dầu khí. Các thủ tục hoàn thuế VAT cho Nhà thầu cần được cải tiến, tránh tình trạng chiếm dụng vốn quá lâu hoặc gây phiền hà trong việc trình nộp, giải thích các vụ việc.
Trong quá trình triển khai hợp đồng, các chi tiêu của Dự án liên quan đến các hợp đồng dịch vụ với giá trị mỗi hợp đồng kể cả các dịch vụ khẩn cấp đều từ vài triệu đến vài chục triệu USD. Như vậy theo quy định tiến hành về thủ tục đấu thầu của các Nghị định 42, 43, 92 và 93/CP được áp dụng cho các dự án đầu tư nước ngoài thì đa số các hoạt động của một dự án Dầu khí đều thông qua những thủ tục đấu thầu phức tạp tốn kém thời gian và tiền bạc, đặc biệt là không đáp ứng được yêu cầu sản xuất. Do đó, để duy trì hoạt động bình thường của các dự án thăm dò và khai thác dầu khí, Nhà nước cần có một số thay đổi về thủ tục đấu thầu áp dụng riêng cho ngành Dầu khí để tránh rườm rà, tiết kiệm thời gian và hiệu quả cao. Nhà nước cũng cần có những quy định phân cấp cụ thể về phê duyệt dự án đầu tư. Việc đấu thầu lô, hợp đồng cũng cần được tiến hành minh bạch và phù hợp với thông lệ quốc tế hơn.
2.4.7. Tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư khai thác mỏ khí.
Theo kết quả TK – TD, Việt Nam có tiềm năng về khí lớn hơn dầu. Nhưng cho đến nay, các dự án về khí triển khai rất chậm và gặp nhiều trở ngại mà nguyên nhân chủ yếu là do Việt Nam chưa có chính sách xây dựng một thị trường tiêu thụ khí ổn định cũng như chưa có những điều khoản hợp lí trong các hợp đồng đối với mỏ khí.
Vì vậy, để đẩy nhanh tiến độ thực hiện các dự án khí hiện có cũng như thu hút thêm nhiều vốn đầu tư của nước ngoài vào các mỏ khí, Nhà nước cần có chính sách về thuế, và giá khí linh hoạt để PetroVietnam có thể nhanh chóng đi tới sự thoả thuận trong đàm phán với các đối tác nước ngoài.
Đối với dầu mỏ ta chỉ cần khai thác được là có thể bán ngay ra nước ngoài. Khác với dầu, khí khai thác được chưa thể bán ngay ra nước ngoài vì hiện giờ chúng ta chưa có hệ thống đường ống vận chuyển khí quốc tế mà chỉ bán trong nước với khối lượng khiêm tốn. Do đó để phát triển các hoạt động khai thác khí thì trước hết Việt Nam cần tạo ra một thị trường tiêu thụ khí ổn định. Muốn vậy, PetroVietnam cần chủ động trong việc xây dựng hệ thống đường ống dẫn khí tới những khu vực thị trường tiêu thụ khí có tiềm năng phát triển, đồng thời tham gia đầu tư một phần và nghiên cứu kế hoạch xây dựng tổ hợp các nhà máy điện, nhà máy sản xuất Methanol, PVC, PS, PP, phân Ure…
2.4.8. Sớm xem xét và phê duyệt các qui chế, qui định đầu tư TDKT dầu khí ở nước ngoài.
PetroVietnam cần tích cực xây dựng cơ chế chính sách đầu tư ra nước ngoài và chính sách nhân viên để Chính phủ và TCT xem xét và ban hành thực hiện. Đó chính là những cơ sở pháp lý để có thể triển khai nhiệm vụ đầu tư TDKT dầu khí ra nước ngoài.
2.5. KIẾN NGHỊ.
Trên cơ sở nghiên cứu tình hình hợp tác đầu tư trong khu vực, ở Việt Nam và của Tổng Công ty; căn cứ các kinh nghiệm trong quá trình xây dựng và triển khai dự án cũng như các đặc thù, các điểm thuận lợi, khó khăn của Tổng Công ty trong bối cảnh hiện nay; căn cứ nhiệm vụ chiến lược Tổng Công ty trong giai đoạn tới năm 2010 và 2020 cũng như sự cần thiết của hợp tác đầu tư đối với ngành Dầu khí nói chung và lĩnh vực Thượng nguồn nói riêng; Xin đề xuất một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực Thượng nguồn của Tổng Công ty như sau:
2.5.1. Đối với Nhà nước:
Cần tích cực đàm phán giải quyết tranh chấp ở các khu vực chồng lấn, giáp ranh để thúc đẩy hoạt động đầu tư vào khu vực này. Thềm lục địa Việt Nam giáp ranh với nhiều nước như Malayxia, Indonexia, Trung Quốc, Campuchia, Thai Lan tạo nên nhiều vùng chồng lấn. Một số vùng này được các chuyên gia nước ngoài đánh giá là có tiềm năng dầu khí. Hiện nay do chưa có thoả thuận giữa Chính phủ Việt Nam và Chính phủ các nước nên chưa hoạt động đầu tư nào được tiến hành ngoại trừ khu vực chồng lấn với Malayxia (PM3) đã đi vào khai thác.
Hoàn thiện cơ chế tạo lập và phát triển vốn hợp lí, đảm bảo cho ngành Dầu khí có khả năng tích luỹ vốn nhanh. Để có thể thực hiện có hiệu quả các giải pháp nêu trên, đặc biệt là tăng cường hoạt động nghiên cứu khảo sát, tham gia vào các liên doanh với cổ phần cao… PetroVietnam cần có lượng vốn tích luỹ lớn nhờ vào sự hỗ trợ của Nhà nước.
Cần hỗ trợ vốn cho PetroVietnam bằng cách cho giữ lại toàn bộ lợi nhuận sau thuế của PetroVietnam trong xí nghiệp liên doanh Vietsovpetro, lợi nhuận sau thuế thu được từ hoạt động Dầu khí. Điều đó sẽ tạo điều kiện cho PetroVietnam tăng khả năng về vốn cho đầu tư phát triển và làm chỗ dựa về tài chính để thu xếp vốn trên thị trường tài chính tín dụng trong và ngoài nước.
Cần có Quỹ Thăm dò Dầu khí (rủi ro) vào khoảng 50 – 75 triệu USD/ năm.
Cần đảm bảo sự công bằng và bình đẳng giữa các loại hình đầu tư hợp tác, chấp nhận tỷ lệ lợi nhuận hợp lý của PetroVietnam trong các hình thức này. Hơn nữa, chính sách thuế cũng phải hợp lý và ưu đãi hơn. Chỉ đạo các ngành áp dụng nhất quán và đồng bộ các điều khoản thuế đối với hoạt động dầu khí. Đồng thời cần cải thiện hơn nữa quan hệ chính trị, kinh tế đối ngoại với các quốc gia trên thế giới, phát triển quan hệ với các tổ chức tài chính và kinh tế quốc tế để tạo không khí thuận lợi cho đầu tư nước ngoài.
Cần đảm bảo sự ổn định và nhất quán trong quá trình thực thi Luật Đầu tư nước ngoài, Luật Dầu khí và các luật liên quan khác. Mặt khác cũng cần phân định đối tượng áp dụng của luật chung với luật đặc thù để tránh tình trạng áp dụng chồng chéo theo hướng lắp ráp hỗn tạp các điều khoản cho là có lợi nhất đối với nước chủ nhà để làm tổn hại quyền lợi của nhà đầu tư một cách méo mó so với tư tưởng chỉ đạo khi xây dựng luật. Cơ chế và thủ tục của các cơ quan chức năng cần tiến theo hướng phù hợp với thông lệ quốc tế.
2.5.2. Đối với PetroVietnam:
Cần xây dựng ngay cơ sở dữ liệu toàn ngành, cập nhật thường xuyên thông tin trong ngành và quốc tế.
Mềm dẻo hơn trong việc đàm phán, mà vẫn đảm bảo quyền lợi quốc gia.
Cơ chế tài chính cấp vốn cho công tác tự đầu tư và hợp tác đầu tư phù hợp.
Cơ cấu tổ chức phù hợp, ổn định và có định hướng lâu dài.
Xây dựng các đơn vị thăm dò khai thác và dịch vụ dầu khí phù hợp với việc đổi mới doanh nghịêp Nhà nước và tiếp thu kinh nghiệm của các công ty Dầu khí quốc tế và quốc gia.
Có chính sách tuyển dụng, đào tạo phát huy được nội lực của từng cá nhân và đáp ứng được nhu cầu phát triển của ngành.
Đầu tư thỏa đáng cho việc thuê các chuyên gia dầu khí nước ngoài để tranh thủ khả năng kinh nghiệm và học hỏi từ họ, từ đó nhanh chóng nắm bắt công nghệ và phương thức quản lý tiên tiến.
Tăng cường hợp tác với các đối tác, nâng cao vị thế của PetroVietnam trên trường quốc tế.
Xây dựng và phát triển nguồn nhân lực chuyên sâu, đặc biệt là lĩnh vực phát triển và khai thác mỏ để đáp ứng nhiệm vụ trong những năm tới.
Xây dựng chính sách đãi ngộ thỏa đáng đối với người có năng lực để hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, tránh tình trạng “chảy máu chất xám”.
Sớm xem xét và phê duyệt các qui chế, qui định đầu tư TDKT dầu khí ở nước ngoài.
Tiếp tục hỗ trợ các công ty thành viên nâng cấp trụ sở làm việc và bổ sung cơ sở vật chất để phục vu tốt các nhiệm vụ TCT giao.
Cho phép các công ty thành viên tổ chức các lớp đào tạo, bồi dưỡng chuyên sâu nhằm chuẩn bị nhân lực cho các dự án TD-KT dầu khí ở nước ngoài.
Trang bị cho các công ty thành viên hoạt động trong lĩnh vực Tìm kiếm - thăm dò - khai thác những phần mềm kỹ thuật chuyên dụng về thăm dò, khai thác mỏ, thiết bị để phục vụ cho công tác đánh giá, tìm kiếm các cơ hội và triển khai các dự án đầu tư trong và ngoài nước.
KẾT LUẬN
Tóm lại, nhờ có chính sách đổi mới mở cửa của Đảng và Nhà nước ta, trong 18 năm qua ngành Dầu khí đã thu hút được nhiều công ty dầu Quốc tế đầu tư vào thăm dò khai thác dầu khí ở thềm lục địa Việt Nam, tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển Ngành Dầu khí trong khi nguồn vốn trong nước không đủ để đầu tư. Nguồn vốn ODA của chính phủ các nước cũng đã giúp cho việc hoạch định chính sách, xây dựng các cơ sở nghiên cứu khoa học, nghiên cứu qui hoạch phát triển khí tổng thể và một số dự án lớn khác của ngành. Những thành tựu to lớn trong thăm dò và khai thác dầu khí vừa tạo tiền đề cho giai đoạn phát triển tiếp theo của Ngành vừa vạch ra định hướng phát triển cho một số ngành khác.
Thời gian gần đây, nhịp độ đầu tư nước ngoài vào ngành Dầu khí Việt Nam có dấu hiệu tăng trưởng trở lại do giá dầu thô tương đối. Tuy nhiên mức độ đầu tư còn chưa đạt đỉnh của những năm 1990 – 1993 và còn chứa nhiều yếu tố bất ổn, nhất là trong lĩnh vực Tìm kiếm - thăm dò - khai thác, số lượng hợp đồng ký kết hàng năm còn ít và không đều. Điều này có thể dẫn tới sự thiếu hụt vốn đặc biệt cho khâu tìm kiếm, thăm dò dầu khí và sẽ ảnh hưởng đến việc gia tăng trữ lượng dầu khí, đảm bảo duy trì và gia tăng sản lượng khai thác dầu khí của Ngành Dầu khí, nhất là giai đoạn sau năm 2010. Do đó ta phải nhìn nhận một cách khách quan những vấn đề tồn tại đó là thủ tục hành chính còn quan liêu, phức tạp, hệ thống luật pháp chưa được đồng bộ hoàn thiện, các nguồn chính sách kinh tế chưa thông thoáng là những rào cản đối với việc thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài phát triển ngành Dầu khí thời gian qua.
Để đạt được những mục tiêu đặt ra trong thời gian tới cần có những giải pháp hữu hiệu khắc phục triệt để những tồn tại đó để tăng cường thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài phát triển ngành Dầu khí ngày càng vững mạnh. Trong đó yếu tố quan trọng nhất vẫn là các điều kiện kinh tế của hợp đồng sao cho mềm dẻo, đơn giản, tránh tình trạng phức tạp, không ổn định hoặc khác thường với thông lệ quốc tế. Mặt khác PetroVietnam cũng cần đầu tư trước cho nghiên cứu sâu và cơ bản về mặt địa chất nhằm chủ động có nhiều số liệu, nhiều thông tin chính xác, đủ tin cậy và hấp dẫn của lô (diện tích) để đưa ra đấu thầu cũng như lựa chọn đầu tư. Nguồn vốn cho nghiên cứu được trích theo tỉ lệ % từ tổng đầu tư cho hoạt động TKTD, có thể từ 2 – 3 %. Bên cạnh đó cũng phải tăng cường hơn nữa việc đánh giá tiềm năng trữ lượng cũng như kết quả công tác TK – TD – KT theo một phân cấp thống nhất và một hệ thống cơ sở dữ liệu đồng bộ, thuận lợi cho việc cập nhật tài liệu hàng năm, từ đó xây dựng quy hoạch phát triển, đầu tư TK – TD – KT cho từng thời kì cụ thể kể cả về quy mô, mức độ, tiến độ và giải pháp công nghệ.
Đứng trước chặng đường 30 năm hình thành và phát triển của ngành Dầu khí nói chung, 18 năm thu hút Đầu tư nước ngoài nói riêng, chúng ta không khỏi xúc động và tự hào, bởi tất cả những gì đạt được thực sự là rất lớn. Từ ngày ban đầu còn chập chững từng bước đi một, nay ngành Dầu khí đã là một ngành kinh tế mũi nhọn hàng đầu, đóng góp rất lớn cho sự phát triển kinh tế - xã hội nước ta. Chúng ta hi vọng và tin tưởng trong tương lai sẽ ngày càng có được những kết quả to lớn hơn nữa trong lĩnh vực Tìm kiếm - thăm dò - khai thác Dầu khí nói riêng, trong sự phát triển của ngành Dầu khí cũng như sự phát triển của nền kinh tế quốc dân nói chung, đưa Việt Nam vững bước tiến vào hội nhập kinh tế thế giới.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. PetroVietnam - 25 năm phát triển
2. Trang web của Tổng công ty dầu khí Việt Nam: PetroVietnam.com
3. Vietsovpetro - 25 năm phát triển
4. Trang web google.com
5. Giáo trình Kinh tế dầu khí - NXB - Giao thông vận tải
6. 10 năm tìm kiếm thăm dò khai thác dầu khí
7. Tạp chí dầu khí
8. Tạp chí thông tin dầu khí thế giới
PHỤ LỤC: Vị trí các lô trong các bể trầm tích Việt Nam.
MỤC LỤC
Trang
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Biểu đồ
Trang
Biểu đồ 1: Tỉ trọng thu nhập bình quân từ các khâu của các Tập đoàn dầu khí lớn (giai đoạn 1985 – 2003).
8
Biểu đồ 2: Sản lượng dầu các nước Asean
26
Biểu đồ 3 : Kết quả thu nổ địa chấn giai đoạn 1988 – 2004
28
Biểu đồ 4: Số giếng khoan thăm dò, phát triển theo năm.
28
Biểu đồ 5: Số giếng khoan TD – TL theo bể trầm tích
29
Biểu đồ 6: Phân loại sự cố giếng khoan.
30
Biểu đồ 7: Chi phí đầu tư TK - TD - KT theo hạng mục
44
Biểu đồ 8: Tỷ trọng giá trị xuất khẩu của Vietsovpetro so với cả nước
55
Biểu đồ 9: Thành phần các Nhà thầu theo khu vực địa lí.
64
Biểu đồ 10 : Doanh thu dịch vụ địa phương
66
Biểu đồ 11: Thành phần các nhà điều hành theo năng lực
67
Biểu đồ 12: Số km thu nổ địa chấn 2D
67
Biểu đồ 13: Số km2 thu nổ địa chấn 3D.
68
Sơ đồ
Sơ đồ 1: SƠ ĐỒ TỔ CHỨC TỔNG CÔNG TY DẦU KHÍ VIỆT NAM
16
Sơ đồ 2: Các bể trầm tích Đệ Tam Việt Nam
24
Bảng
Bảng 1: Tổng hợp KQSXKD giai đoạn 2001 – 2005
18
Bảng 2: Sản lượng khai thác dầu thô của các nước Asean
25
Bảng 3: Các đề án tự đầu tư TKTD Dầu khí
27
Bảng 4 : Các đề án đầu tư TDKT dầu khí ở nước ngoài
32
Bảng 5: Các định chế tài chính trong lĩnh vực ĐTNN vào TK - TD - KT DK.
34
Bảng 6: Thuế tài nguyên
35
Bảng 7: VỐN ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI
Trong lĩnh vực TKTD và KT Dầu khí từ năm 1988 đến 12/2005
40
Bảng 8 Tình hình thực hiện đầu tư của giai đoạn Tìm kiếm Thăm dò và Khai thác dầu khí trong giai đoạn 1988 - 2004 (đơn vị USD)
42
Bảng 9: Tổng hợp chi phí đầu tư của các Nhà thầu phân theo hạng mục trong giai đoạn 1988 - 2004:
43
Bảng 11: Hiện trạng các Hợp đồng Hợp tác Đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực TK - TD - KT Dầu khí Việt Nam
46
Bảng 12: Sản lượng khai thác dầu thô Vietsovpetro 1991 – 2005
52
Bảng 13: Sản lượng khí của Vietsovpetro
53
Bảng 14: Doanh thu từ dịch vụ cho bên ngoài
53
Bảng 15: Một số chỉ tiêu chủ yếu trong giai đoạn 1991 - 2004
54
Bảng 16: Tỷ trọng giá trị xuất khẩu dầu mỏ của Vietsovpetro so với cả nước
55
Bảng 17: Đánh giá chung các lô Nhà thầu hoàn trả.
57
Bảng 18: Tổng kết các hình thức đầu tư
63
Bảng 19: Doanh thu dịch vụ địa phương và tỷ lệ so với vốn đầu tư
65
Bảng 20: Chi phí dầu khí và kiểm toán giai đoạn 1988 – 2004
70
Bảng 21: Lực lượng lao động làm việc tại các Nhà thầu Dầu khí
73
Bảng 22: Mức lương của lao động địa phương trong ngành Dầu khí
74
BẢN CAM KẾT
Tên tôi là: Lê Vũ Sao Mai
Sinh viên lớp: Kinh tế đầu tư 44C
Trong thời gian thực tập vừa qua tại Phòng Kinh tế Dầu khí - Viện Dầu khí - Tổng Công ty Dầu khí Việt Nam tôi đã chọn cho mình đề tài: “Đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực Tìm kiếm - thăm dò - khai thác Dầu khí của Tổng Công ty Dầu khí Việt Nam” để làm chuyên đề thực tập tốt nghiệp cho mình.
Tôi xin cam đoan bản chuyên đề này là công trình của tôi không sao chép luận văn, chuyên đề của người khác. Các số liệu sử dụng trong chuyên đề là có thực, lấy từ nhiều nguồn khác nhau. Nếu sai tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm.
Ngày 29 tháng 4 năm 2006.
Sinh viên
Lê Vũ Sao Mai.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 36401.doc