Đầu tư nước ngoài (FDI) tại Việt Nam sau khi gia nhập WTO. Vấn đề đặt ra và giải pháp

MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU Ngày 11/01/2007, khi Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 150 của tổ chức Thương mại thế giới WTO là thời điểm đánh dấu bước ngoặt phát triển, hội nhập kinh tế sâu rộng của nền kinh tế Việt Nam với kinh tế toàn cầu. Tham gia WTO là tham gia vào sân chơi chung với nhiều cơ hội và cũng không ít những thách thức đặt ra trong quá trình tự do hóa thương mại và đầu tư quốc tế. Đầu tư của các nước vào Việt Nam là yếu tố quan trọng trong quá trình công nghiệp hóa – hiện đạ

doc30 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1817 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Đầu tư nước ngoài (FDI) tại Việt Nam sau khi gia nhập WTO. Vấn đề đặt ra và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
i hóa nước ta, lượng vốn đầu tư để thực hiện thành công nhiệm vụ trong giai đoạn 2006 -2010 ước tính cần 140 tỷ USD, đây là con số không nhỏ đối với một nước đang phát triển, có tỉ lệ tiết kiệm thấp như Việt Nam. Ba năm không phải là khoảng thời gian đủ dài để đánh giá hiệu quả của dòng vốn đầu tư nhưng với những biến động kinh tế trong ba năm vừa qua thì những kết quả từ làn sóng đầu tư nước ngoài thứ hai đổ vào nền kinh tế Việt Nam đã bước đầu chứng tỏ lợi ích khi chúng ta tham gia vào sân chơi lớn đồng thời chứng tỏ những nỗ lực của Việt Nam khi chấp nhận tham gia sân chơi chung này. Gia nhập WTO là điều kiện cần để Việt Nam thu hút có hiệu quả dòng vốn đầu tư, nhưng sử dụng có hiệu quả dòng vốn này để chúng tiếp tục làm cơ sở cho dòng vốn này tăng lên, thì đây vẫn đang là vấn đề đặt ra đối với Việt Nam. Trước yêu cầu đặt ra đó, tôi đã lựa chọn vấn đề “Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam sau khi gia nhập WTO. Vấn đề đặt ra và giải pháp” làm đối tượng nghiên cứu trong bài tập các nhân của mình. Do còn nhiều hạn chế về hiểu biết, trình độ lí luận cũng như thời gian nghiên cứu nên bài làm sẽ không thể tránh khỏi những thiếu sót, kính mong nhận được sự góp ý của cô giáo,TS Trần Mai Hương. Xin chân thành cảm ơn Cô! Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở đó nghiên cứu tổng quan về tác động của WTO tới dòng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, đồng thời đánh giá những kết quả và vấn đề còn tồn tại của Việt Nam khi thu hút dòng vốn này trong giai đoạn 2007 – 2009. Từ đó rút ra những nguyên nhân và đưa ra giải pháp để cải thiện tình hình thu hút vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam về cả số lượng và chất lượng. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu Tình hình thu hút vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam dưới tác động của gia nhập WTO Phạm vi nghiên cứu Giới hạn ở việc nghiên cứu vấn đề vốn đầu tư nước ngoài mà cụ thể là FDI và ODA. Phương pháp nghiên cứu Nghiên cứu theo phương pháp thống kê, so sánh, phân tích thống kê tình hình đầu tư và các yếu tố ảnh hưởng Bố cục của đề tài: gồm 3 phần chính: Phần I: Vốn đầu tư nước ngoài và tác động của WTO đến dòng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam Phần II: Thực trạng về dòng vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam sau khi gia nhập WTO Phần III: Giải pháp nâng cao hiệu quả thu hút và sử dụng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam trong bối cảnh gia nhập WTO Phần I VỐN ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI VÀ TÁC ĐỘNG CỦA WTO ĐẾN DÒNG VỐN ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI VÀO VIỆT NAM Sự cần thiết của dòng vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam hiện nay Để thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của Kế hoạch 5 năm 2006-2010 và đảm bảo tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân 7,5-8%/năm, nền kinh tế Việt Nam cần huy động tổng vốn đầu tư toàn xã hội khoảng 2.200 tỷ đồng (theo giá năm 2005), tương đương gần 140 tỷ USD (theo giá hiện hành là 160 tỷ USD), trong đó 65% huy động từ các nguồn vốn trong nước và 35% từ các nguồn vốn ngoài nước. Chính vì vậy, vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) và vốn đầu tư trực tiếp - gián tiếp nước ngoài là các nguồn vốn ngoài nước có vị trí quan trọng cần được định hướng thu hút và sử dụng có hiệu quả. Dòng vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam chủ yếu là vốn hỗ trợ phát triển chính thức ODA và vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI, hai nguồn vốn này trong những năm vừa qua đóng góp khoảng hơn 30% vào tổng nguồn vốn đầu tư toàn xã hội. Nguồn vốn ODA còn có quan hệ mật thiết với nguồn vốn FDI theo hướng thúc đẩy dòng vốn FDI vào, do tác động lan toả của ODA khi tập trung đầu tư vào cơ sở hạ tầng, tạo môi trường đầu tư thuận lợi thu hút FDI. Những nước chậm phát triển như Việt Nam thường có cơ sở hạ tầng kinh tế và xã hội thấp kém, nên việc thu hút vốn FDI vào lĩnh vực này thường gặp nhiều khó khăn do hiệu quả kinh tế không cao. Để nâng cao hiệu quả kinh tế, thu hút được nhiều vốn FDI thì cần phải có vốn ODA đi trước để xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, nâng cao hiệu quả đầu tư vì thường việc cải tạo cơ sở hạ tầng cần nhiều thời gian và vốn đầu tư rất lớn mà vốn đầu tư trong nước quá ít không thể nhanh chóng cải thiện được còn vốn FDI thì đòi hỏi hiệu quả nhanh chóng. Như vậy, thu hút và tối đa hoá hiệu quả sử dụng nguồn vốn ODA cùng với các chính sách thu hút vốn FDI  sẽ giúp thu hút nguồn ngoại lực cần thiết cho nhu cầu phát triển kinh tế nhanh và bền vững. Với những tiềm năng kinh tế sẵn có, việc khơi thông dòng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam là một yêu cầu bức thiết để hỗ trợ phát triển kinh tế - xã hội. Hội nhập kinh tế và đặc biệt là gia nhập tổ chức Thương mại Thế giới WTO là con đường để Việt Nam có thể tiếp cận và thu hút nguồn vốn đó một cách hiệu quả nhất. Tác động của WTO đến việc thu hút dòng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam Với những nỗ lực không ngừng, Việt Nam chính thức được kết nạp là thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại Thế giới WTO ngày 07/11/2006; các cam kết của Việt Nam với WTO chính thức có hiệu lực ngày 11/01/2007. Sau khi là thành viên của WTO, Việt Nam đã thực hiện nghiêm túc các cam kết đa phương và các cam kết mở cửa thị trường, tạo được uy tín, thế và lực trên trường quốc tế, có điều kiện mở rộng thị trường cho hàng hoá xuất khẩu, có môi trường thuận lợi hơn trong việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài, tiếp thu khoa học công nghệ, kỹ năng quản lý, đào tạo cán bộ, tham gia các vụ tranh chấp thương mại trên cơ sở công bằng, không phân biệt đối xử trong khuôn khổ WTO… Qua hơn ba năm gia nhập WTO và trên cơ sở đánh giá các cơ hội và thách thức cũng như đánh giá tác động của các cam kết gia nhập WTO từ góc độ thu hút và sử dụng nguồn vốn đầu tư nước ngoài, có thể nhận thấy một số tác động đối với việc thu hút và sử dụng nguồn vốn đầu tư nước ngoài đối với Việt Nam. Tác động đối với việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI Tác động tích cực đầu tiên mà WTO mang đến là mức độ rủi ro trong quyết định đầu tư vào Việt Nam chắc chắn sẽ ngày càng giảm mạnh song song với sự mở cửa ngày càng lớn nền kinh tế Việt NamN theo lộ trình cam kết với WTO. Luật pháp của Việt Nam càng phù hợp với thông lệ quốc tế, các rào cản dỡ bỏ... thì sẽ càng có tác động thúc đẩy FDI trong những năm tới đây. Khi đã là thành viên WTO, Việt Nam cam kết tuân thủ toàn bộ các hiệp định và nghị định mang tính ràng buộc của tổ chức này với nguyên tắc chính là mở cửa thị trường về hàng hoá và dịch vụ; không phân biệt đối xử giữa các đối tác; thực hiện các quy định về đầu tư; bảo hộ sở hữu trí tuệ; công khai minh bạch về chính sách, giải quyết tranh chấp thông quan cơ quan của WTO... sẽ có tác động đến môi trường kinh doanh ngày càng hấp dẫn hơn, tạo lòng tin cho các nhà đầu tư khi đến Việt Nam. Tư cách thành viên WTO tác động tích cực lên FDI vì sẽ đem lại một môi trường kinh doanh minh bạch hơn, tự do hơn, ít phân biệt đối xử hơn... là những điều mà bất cứ một nhà đầu tư nước ngoài nào có ý định làm ăn lâu dài và nghiêm túc tại Việt Nam đều đòi hỏi. Tác động tích cực thứ hai có thể thấy qua việc cắt giảm thuế quan nhập khẩu. Tác động này diễn ra chủ yếu đối với hàng hóa nhập khẩu đầu vào cho sản xuất hàng tiêu dùng trong nước, cũng như để phục vụ tiêu dùng tư nhân và chính phủ. Mức thuế nhập khẩu nói chung thấp đi sẽ làm giảm chi phí sản xuất và mặt bằng giá cả nói chung ở Việt Nam, và do đó làm tăng mức hấp dẫn của Việt Nam như là một cứ điểm cho các doanh nghiệp FDI sản xuất hướng xuất khẩu. Tác động thứ ba của WTO lên đầu tư đến thông qua cam kết tự do hóa thị trường dịch vụ của Việt Nam. Đây là một trong những cam kết mang tính cải cách lớn nhất từ trước đến nay đối với Việt Nam. WTO phân loại các cam kết về dịch vụ thành bốn loại: Cung cấp dịch vụ xuyên quốc gia (trao đổi thương mại trực tiếp về dịch vụ) Tiêu dùng các dịch vụ ở nước ngoài (ví dụ như du lịch) Hiện diện thương mại (ví dụ như FDI vào ngành dịch vụ ở VN) Hiện diện của thể nhân (người nước ngoài đến và cung cấp dịch vụ ở VN). Tự do hóa ngành dịch vụ, đặc biệt phân loại (1) và (3) nói trên, sẽ có tác động mạnh đến FDI. Trước hết, nhiều trong số các phân ngành dịch vụ bị đóng cửa/hạn chế chặt chẽ từ trước đến nay với đầu tư nước ngoài (như phân phối, vận tải, viễn thông, tài chính...) nay đã được mở rộng (mặc dù còn một số điều kiện hạn chế và một thời gian chuyển đổi, thường là năm năm), sẽ là một mảnh đất màu mỡ cho các nhà đầu tư nước ngoài khai thác. Thứ hai, tự do hóa ngành dịch vụ và kết quả là tính cạnh tranh được nâng cao sẽ dẫn đến năng suất trong các ngành này được cải thiện mạnh mẽ. Vì ngành dịch vụ liên quan đến toàn bộ các ngành kinh tế khác nên cải thiện năng suất trong ngành này sẽ góp phần nâng cao năng suất của cả nền kinh tế, góp phần đáng kể cải thiện chất lượng môi trường đầu tư, giảm chi phí và thời gian sản xuất tại Việt Nam. Điều này cũng tác động tích cực đến thu hút FDI hướng xuất khẩu như tác dụng giảm thuế nhập khẩu nói trên. WTO sẽ còn nhiều tác động trực tiếp và tích cực khác lên FDI vào Việt Nam thông qua việc xóa bỏ hoàn toàn các hạn chế về lượng (quota) của Mỹ và EU hay các nước thành viên khác áp đặt lên các sản phẩm xuất khẩu giàu hàm lượng lao động như dệt may, thủy sản, da giày, đồ gỗ... chừng nào Việt Nam không vi phạm các qui định về gian lận thương mại và bán phá giá. Với một lực lượng lao động dồi dào, tương đối có trình độ và chi phí rất cạnh tranh, lại ít rủi ro về chính trị, sức thu hút của Việt Nam trong mắt các nhà đầu tư nước càng được tái khẳng định khi chế độ quota được bãi bỏ, đặc biệt trong bối cảnh đầu tư quá tập trung và quá nhiều vào Trung Quốc (như trong trường hợp của FDI từ Nhật) tỏ ra rất rủi ro. Bên cạnh những cơ hội thuận lợi chủ yếu nêu trên, Việt Nam phải đối mặt với những thách thức rất lớn là cạnh tranh với các doanh nghiệp nước ngoài trong khi đó, khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp nước ta chưa cao, khiến các doanh nghiệp Việt Nam phải đứng trước hai sự lựa chọn : hoặc chấp nhận sự cạnh tranh, mạnh dạn đổi mới công nghệ, vận hành hệ thống quản lý tiên tiến, nâng cao chất lượng, hạ giá thành sản phẩm, dịch vụ, tạo sức cạnh tranh với sản phẩm, dịch vụ cùng loại, chiếm lĩnh thị trường trong nước và hướng tới xuất khẩu bền vững ; hoặc bị đào thải khỏi thị trường, mà hậu quả là số lao động thất nghiệp tăng cao, một gánh nặng cho xã hội và chính phủ. Thách thức lớn thứ hai khi gia nhập WTO là Việt Nam phải thực hiện hàng loạt những cam kết, những thỏa thuận đã ký trong những hiệp định thương mại song phương, đa phương, cũng như quy chế WTO, trong khi đó, hệ thống chính sách kinh tế của Việt Nam đang trong quá trình hoàn thiện, chưa đồng bộ. Ngoài ra, việc gia nhập WTO cũng đòi hỏi nhà nước cần đẩy nhanh việc đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực có khả năng tiếp thụ những tiến bộ khoa học - kỹ thuật, những công nghệ tiên tiến, những kinh nghiệm quản lý để đáp ứng yêu cầu của bộ máy quản lý đa năng và chuyên nghiệp hóa. Tác động của WTO đến thu hút vốn hỗ trợ phát triển chính thức ODA Thứ nhất, gia nhập WTO sẽ thúc đẩy tài trợ ODA, nhất là ODA từ các nhà tài trợ song phương và các tổ chức phi chính phủ. Thông qua các nguyên tắc và định chế của WTO về quan hệ thương mại, mậu dịch, đầu tư... Việt Nam có điều kiện mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại với nhiều đối tác quốc tế hơn và ngược lại, nhiều đối tác tìm thấy được lợi ích kinh tế trong quan hệ với Việt Nam. Khi có nhiều quốc gia quan hệ kinh tế với nước ta và quan hệ kinh tế ngày càng phụ thuộc lẫn nhau, số lượng doanh nghiệp có quan hệ kinh tế song phương ngày càng nhiều, quy mô ngày càng lớn sẽ giúp cho các tài trợ ODA cho Việt Nam sẽ tăng lên. Bởi lẽ, ODA có đặc điểm là thông qua tài trợ ODA, nước tài trợ muốn gia tăng ảnh hưởng của mình đến nước nhận tài trợ, qua đó để nhận được các lợi ích về kinh tế, chính trị. Mặt khác, vì lợi ích kinh tế, trong một bối cảnh nhất định các doanh nghiệp có lợi ích kinh tế tại Việt Nam có thể thông qua đại diện của họ trong chính quyền nước mình thúc đẩy tài trợ cho Việt Nam. Ngày nay các doanh nghiệp thường quan tâm đến việc thực hiện trách nhiệm xã hội tại nơi họ kinh doanh thông qua tài trợ trực tiếp hoặc thông qua các tổ chức phi chính phủ để thực hiện các dự án tài trợ phát triển, qua đó cũng giúp tăng cường ODA. Các nước tài trợ ODA thường có chính sách trợ giúp, ưu đãi doanh nghiệp của nước tài trợ thông qua các rằng buộc về cung cấp ODA trong việc thuê tư vấn, chọn nhà thầu... khi có ngày càng nhiều doanh nghiệp của nước tài trợ có quan hệ kinh tế với nước ta thì mức độ cạnh tranh giữa các doanh nghiệp của các nước tài trợ sẽ cao hơn, qua đó có cơ hội nâng cao hiệu quả sử dụng ODA. Thứ hai, thực hiện các cam kết gia nhập WTO nhất là các cam kết đa phương sẽ thúc đẩy cải cách hành chính, điều chỉnh hệ thống pháp luật phù hợp với chuẩn mực quốc tế hơn. Điều này góp phần giúp phát triển và hoàn thiện chính sách và thể chế quản lý và sử dụng ODA, nhất là hài hoà hoá quy định và thủ tục quản lý và thực hiện dự án ODA với các nhà tài trợ. Theo hướng này, việc rà soát hệ thống pháp luật để điều chỉnh cho phù hợp với các cam kết quốc tế sẽ thúc đẩy cải cách hành chính cũng như định hướng hoàn thiện luật pháp phù hợp với thông lệ quốc tế về tính minh bạch, tính đồng bộ, tính công bằng và hợp lý. Việc hoàn thiện khung pháp lý cho hoạt động quản lý nguồn vốn ODA theo hướng tăng cường phân cấp và hài hoà với các khung quản lý các nguồn vốn công đã được thúc đẩy một bước thông qua việc ban hành Nghị định 131/2006/NĐ-CP và các thông tư hướng dẫn Nghị định này về quản lý và sử dụng vốn ODA thời gian vừa qua là một minh chứng. Thứ ba, sau khi gia nhập WTO sẽ giúp nhận thức rõ hơn, sâu sắc hơn các mâu thuẫn trong quá trình phát triển, qua đó chính sách sử dụng và quản lý nguồn vốn ODA sẽ phù hợp và có hiệu quả hơn. Khi gia nhập WTO, tham gia ngày càng chặt chẽ và sâu, rộng vào các chuỗi giá trị toàn cầu sẽ tạo điều kiện khoảng cách giàu - nghèo cũng như các mâu thuẫn phát triển vùng - miền gay gắt hơn, các vấn đề xã hội, môi trường trong quá trình phát triển kinh tế, mâu thuẫn giữa năng lực đội ngũ cán bộ công chức và yêu cầu hội nhập... sẽ ngày càng thể hiện rõ. Các mâu thuẫn trong quá trình phát triển sẽ trở thành các thách thức, các yêu cầu thực tế từ cuộc sống giúp cho nhận thức của bộ máy quản lý nhà nước cũng như cả hệ thống chính trị được thống nhất hơn và yêu cầu phải tập trung nguồn lực để giải quyết. Trên cơ sở đó, việc sử dụng và quản lý nguồn vốn ODA sẽ được tập trung và có hiệu quả hơn. Thứ tư, nguy cơ khủng hoảng đến từ những biến động của thị trường hàng hoá, tiền tệ thế giới có thể ảnh hưởng nghiêm trọng đến thu hút và hiệu quả sử dụng nguồn vốn ODA. Gia nhập WTO, những biến động trên thị trường hàng hoá, tài chính, tiền tệ quốc tế sẽ tác động mạnh hơn, sâu sắc hơn đến thị trường trong nước, tiềm ẩn nguy cơ khủng hoảng kinh tế. ảnh hưởng đến các cân đối vĩ mô, môi trường đầu tư và qua đó ảnh hưởng đến thu hút và sử dụng ODA, đặc biệt là khả năng trả nợ của nước ta. Điều này thể hiện khá rõ thị trường tài chính, tiền tệ nước ta thời gian qua. Việc nhập siêu, lạm phát cao kỷ lục thời gian gần đây thể hiện rõ những biến động trên thị trường hàng hoá, tiền tệ quốc tế tác động mạnh đến Việt Nam và yếu kém của nền kinh tế nước ta. Từ bất ổn của kinh tế vĩ mô sẽ ảnh hưởng đến khả năng thu hút và hiệu quả sử dụng của các dự án đầu tư, nhất là các dự án FDI và ODA. Nếu tình trạng này kéo dài sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến việc giải ngân của số lượng vốn cam kết, đăng ký cũng như giảm hiệu quả sử dụng của các nguồn vốn này và lâu dài sẽ ảnh hưởng đến khả năng trả nợ vốn vay của nước ta. Nhất là các khoản nợ nước ngoài của Việt Nam bắt đầu đến hạn trả vốn gốc và ngày càng tăng trong những năm tiếp theo. Đây sẽ là một thách thức không nhỏ đối với Chính phủ những năm tới. Gia nhập WTO là một cú hích mạnh cho vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, có ý nghĩa không chỉ ở khía cạnh sẽ đem lại một nguồn vốn bổ sung khổng lồ bên cạnh nguồn vốn đầu tư huy động từ trong nước, mà thậm chí còn quan trọng hơn thế, có tác dụng tích cực đến thúc đẩy cải cách hành chính, điều chỉnh hệ thống pháp luật phù hợp với chuẩn mực quốc tế hơn; cải thiện năng suất và tính cạnh tranh của toàn bộ nền kinh tế nhờ tự do hóa các ngành từ trước đến nay đóng cửa với đầu tư nước ngoài như ngành dịch vụ, đặc biệt những ngành có hàm lượng trí thức cao - tiếp thị, quảng cáo, tư vấn, quản lý, tài chính, bảo hiểm, tin học, thương mại điện tử, cung ứng, phân phối - là cấu thành thiết yếu của một nền kinh tế tri thức mà Việt Nam đang theo đuổi. Phần II THỰC TRẠNG VỀ DÒNG VỐN ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM SAU KHI GIA NHẬP WTO Kết quả thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam từ khi gia nhập WTO Sau khi gia nhập tổ chức WTO, dưới những tác động tích cực cải thiện thiện chí của các nhà đầu tư nước ngoài đối với môi trường và cơ hội đầu tư tại Việt Nam, làn sóng đầu tư vào Việt Nam đã đạt được nhiều thành tích nổi bật. FDI và sự gia tăng đột biến sau khi gia nhập WTO Bảng 1: Tình hình vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam giai đoạn 2007 – 2009 ( Đơn vị vốn: tỉ USD) Năm 2007 2008 2009 Tổng vốn đầu tư 21,36 71,7 21,48 Số dự án mới 1406 1.557 839 VĐT đăng kí 18,73 66,5 16,34 Số dự án tăng vốn 380 397 215 VĐT đăng kí thêm 2,63 5,2 5,14 VĐT thực hiện 8 11,5 10 Tỉ trọng vốn giải ngân 37,45% 16,03% 46,55% Nếu như năm 2006, vốn FDI đầu tư vào Việt Nam khoảng 12 tỉ USD (tính chung cả vốn thực hiện lẫn vốn đăng ký), thì con số này liên tục tăng nhanh vào các năm sau. Cụ thể, năm 2007 khoảng hơn 21 tỉ USD; năm 2008 khoảng hơn 71 tỉ USD. Và ngay như năm 2009, năm thế giới đang chìm trong cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu, lượng FDI rót vào Việt Nam tuy có giảm sút mạnh nhưng cũng ước đạt hơn 21 tỉ USD. Trong năm 2008, Việt Nam đã thu hút được 1.557 dự án mới với tổng vốn đầu tư đăng ký 66,5 tỷ USD, gấp 3,55 lần mức thu hút 2007. Trong cùng kỳ, 397 lượt dự án đã được điều chỉnh tăng vốn đăng ký với tổng vốn đầu tư đăng ký tăng thêm 5,2 tỷ USD, gấp 1,98 lần năm 2007. Tính cả cấp mới và tăng thêm, vốn đầu tư đăng ký vào Việt Nam 2008 đạt mức kỷ lục 71,7 tỷ USD, gấp 3,35 lần so với năm 2007. Trong năm 2009, Việt Nam đã thu hút được 839 dự án FDI đăng ký mới với tổng vốn đầu tư đạt 16,345 tỷ USD, bằng 24,6% so với cùng kỳ năm 2008. Cùng trong năm này, đã có 215 lượt dự án tăng vốn với tổng vốn tăng thêm đạt 5,137 tỷ USD, bằng 98,3% so với con số tương ứng của năm ngoái. Năm 2009, lượng vốn FDI giải ngân đạt khoảng 10 tỷ USD, bằng 87% so với cùng kỳ năm ngoái (năm 2008 giải ngân đạt khoảng 11,5 tỷ USD). Theo báo cáo của Hiệp hội doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, tính đến cuối năm 2009, cả nước có 10.854 dự án FDI của 89 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam với số vốn đăng ký khoảng 175 tỉ USD. Đây là những con số khá ấn tượng bởi nó không chỉ góp phần vào việc tăng trưởng kinh tế của Việt Nam mà còn cho thấy sự quan tâm của các nhà đầu tư nước ngoài, trong đó có những đối tác lớn như Mỹ và EU, đối với thị trường còn mới mẻ và đầy tiềm năng này. Cùng với sự gia tăng mạnh mẽ về quy mô vốn đăng ký, cơ cấu FDI theo ngành, lĩnh vực, theo đối tác đầu tư và theo vùng lãnh thổ tiếp tục có những chuyển biến tích cực. Trong 3 năm 2007-2009, vốn FDI đăng ký tập trung vào lĩnh vực công nghiệp và xây dựng, chiếm 56,7%; tiếp đến là lĩnh vực dịch vụ, chiếm 41,8%; lĩnh vực nông lâm ngư nghiệp vẫn chiếm tỷ lệ thấp trong cơ cấu đầu tư, chỉ đạt 1,2% tổng vốn đăng ký. Bảng 2: Cơ cấu vốn FDI giai đoạn 2007 - 2009 Năm 2007 2008 2009 Tỉ trọng các ngành (% vốn đầu tư) + Công nghiệp – xây dựng + Dịch vụ - du lịch + Nông nghiệp 81% 17,6% 1,4% 55,7% 43,9% 1,4% 22,8% 76% 1,2% Với bước tạo đà năm 2006, năm 2007 sự đầu tư có bước vượt bậc về số vốn đăng kí cũng như là số dự án được thực hiện. Xu hướng đầu tư tập trung chủ yếu vào lĩnh vực công nghiệp – xây dựng chiếm 81%, dịch vụ - du lịch chiếm 17,4%, nông – lâm – ngư nghiệp chiếm 1,6%, qua đó ta thấy CN-XD được ưu tiên hơn. Năm 2007, có trên 45 nước đầu tư vào Việt Nam. Trong số các quốc gia và vùng lãnh thổ, nhiều nhất là Hàn Quốc 4,46 tỷ USD, quần đảo Virgin ơ Anh 4,3 tỷ USD chiếm 24%, Đài Loan 1,7 tỷ USD chiếm 9,5%, Malayxia 1,09 tỷ USD chiếm 6,1%, Trung Quốc 0,46 tỷ USD chiếm 2,6%, Hoa Kỳ 0,36 tỷ USD chiếm 2,0%, các quốc gia còn lại chiếm 0,28% với số vốn 5,14 tỷ USD. Năm 2008, vốn đăng ký cấp mới tập trung chủ yếu vào lĩnh vực công nghiệp và xây dựng, với 537 dự án có tổng vốn đăng ký 32,5 tỉ USD, chiếm 53,7% về số dự án và 55,7% tổng vốn đầu tư đăng ký; lĩnh vực dịch vụ có 480 dự án với tổng vốn đăng ký 26,2 tỉ USD, chiếm 42% về số dự án và 43,9% về vốn đầu tư đăng ký. Số còn lại thuộc lĩnh vực nông - lâm - ngư nghiệp. Bên cạnh đó, cơ cấu đầu tư đã chuyển dịch dần sang lĩnh vực dịch vụ với sự xuất hiện của một số dự án quy mô lớn trong lĩnh vực bất động sản, cảng biển. Điều này sẽ góp phần nâng cao chất lượng khu vực dịch vụ, bao gồm tài chính, ngân hàng, bảo hiểm... góp phần thúc đẩy sự phát triển của các ngành kinh tế trong thời gian tới. Năm đã có 44 quốc gia và vùng lãnh thổ đăng ký đầu tư tại Việt Nam, trong đó có 11 quốc gia và vùng lãnh thổ có đăng ký mức vốn đầu tư trên 1 tỉ USD. Ma-lai-xi-a đứng đầu với 49 dự án, vốn đăng ký 14,9 tỉ USD, chiếm 4,2% về số dự án và 25,5% về vốn đầu tư đăng ký. Đài Loan đứng thứ 2 với 127 dự án, vốn đầu tư 8,6 tỉ USD, chiếm 12,8% về số dự án và 14,8% về vốn đầu tư đăng ký. Nhật Bản đứng thứ 3 với 95 dự án, vốn đầu tư 7,2 tỉ USD, chiếm 9,4% về số dự án và 12,89% về vốn đầu tư đăng ký. Kết quả trên cho thấy, các nhà đầu tư từ quốc gia và vùng lãnh thổ thuộc châu á vẫn chiếm đa số trong tổng vốn FDI đăng ký tại Việt Nam. Do vậy, để thu hút được nhiều hơn vốn FDI vào Việt Nam từ các nước có tiềm năng kinh tế thuộc châu Âu và châu Mỹ, việc xây dựng và triển khai chiến lược thu hút vốn FDI từ các quốc gia và vùng lãnh thổ thuộc các châu lục này càng trở nên cấp thiết và phải được phối hợp đồng thời với việc nhanh chóng đưa các bộ phận đại diện cơ quan xúc tiến đầu tư tại các khu vực trọng điểm đi vào hoạt động. Năm 2009 vừa qua, đã có 43 quốc gia và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư tại Việt Nam. Các nhà đầu tư lớn nhất lần lượt là Hoa Kỳ với tổng vốn đăng ký là 9,8 tỷ USD; Cayman Islands đứng thứ 2 với tổng vốn đăng ký 2,02 tỷ USD; đứng thứ 3 là Samoa với tổng vốn đăng ký 1,7 tỷ USD; Hàn Quốc đứng thứ 4 với 1,66 tỷ USD vốn đăng ký... Bà Rịa-Vũng Tàu là địa phương thu hút nhiều vốn FDI lớn nhất trong năm 2009, với 6,73 tỷ USD vốn đăng ký mới và tăng thêm. Tiếp theo là Quảng Nam, Bình Dương, Đồng Nai và Phú Yên với quy mô vốn đăng ký lần lượt là 4,1 tỷ USD; 2,5 tỷ USD; 2,36 tỷ USD và 1,7 tỷ USD. Trong ba lĩnh vực dẫn đầu về thu hút vốn FDI, dịch vụ du lịch (khách sạn, nhà hàng) vẫn là lĩnh vực thu hút sự quan tâm lớn nhất của các nhà đầu tư nước ngoài với 8,8 tỷ USD vốn cấp mới và tăng thêm. Trong đó, có 32 dự án cấp mới với tổng vốn đầu tư là 4,9 tỷ USD và 8 dự án tăng vốn với số vốn tăng thêm là 3,8 tỷ USD. Kinh doanh bất động sản đứng thứ 2 với 7,6 tỷ USD vốn đăng ký mới và tăng thêm. Đứng thứ ba là lĩnh vực công nghiệp chế biến và chế tạo với số vốn đăng ký đạt 2,97 tỷ USD, trong đó có 2,2 tỷ USD đăng ký mới và 749 triệu USD vốn tăng thêm.   FDI đầu tư vào lĩnh vực bất động sản tăng mạnh trong năm 2009 đã góp phần cải thiện hình ảnh hạ tầng ViệtNam. Theo các chuyên gia kinh tế Việt Nam, sự gia tăng vốn FDI vào lĩnh vực bất động sản cũng có nhiều vấn đề đáng bàn vì đây là lĩnh vực tiềm ẩn nhiều rủi ro vì hiện tượng giá bất động sản ở Việt Nam giá tăng mạnh nên Việt Nam cần xây dựng một chiến lược và quy hoạch rõ ràng cho các nhà đầu tư nước ngoài khi đầu tư vào lĩnh vực này. Nguyên nhân dẫn đến sự gia tăng đột biến vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đăng kí trong thời gian qua Nguyên nhân chính là do có nhiều tác động từ việc gia nhập WTO. Gia nhập WTO đã có tác động tích cực đến các yếu tố sau: Thứ nhất, việc gia nhập WTO đã góp phần nâng cao vị thế của nước ta trên trường quốc tế về kinh tế, chính trị, ngoại giao,… Các đối tác kinh tế, thương mại đánh giá Việt Nam như là một đối tác quan trọng và giàu tiềm năng của khu vực Ðông - Nam Á. Vai trò của nước ta trong các hoạt động của WTO, ASEAN, APEC, ASEM và các tổ chức quốc tế ngày càng được nâng cao. Ðặc biệt, việc trở thành Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an LHQ nhiệm kỳ 2008 - 2009 đã chứng tỏ uy tín quốc tế ngày càng cao của Việt Nam. Thứ hai, việc điều chỉnh thể chế kinh tế, hoàn thiện từng bước khung pháp lý, xóa bỏ các rào cản và nâng cao tính minh bạch trong chính sách kinh tế, thương mại, cải thiện môi trường kinh doanh đã làm tăng hiệu quả và thúc đẩy kinh tế phát triển bền vững hơn. Mặc dù chịu ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính, tiền tệ toàn cầu, nhưng GDP năm 2009 đạt trên 5%, năm 2008 vẫn tăng trưởng ở mức 6,23%, xuất khẩu vẫn bảo đảm nhịp độ tăng trưởng khá: Năm 2007, tổng kim ngạch xuất khẩu đạt 48,56 tỷ USD, tăng 21,9% so với năm 2006; Năm 2008, dù đa số các thị trường lớn rơi vào suy thoái nhưng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam vẫn rất đáng khích lệ, ước tính đạt khoảng 63 tỷ USD, tăng 29,5% so với năm 2007. Thị trường xuất khẩu của Việt Nam đã đa dạng hơn và hàng hóa của Việt Nam đã thâm nhập tốt hơn, đứng vững hơn trong các thị trường lớn như Hoa Kỳ, EU,… Thứ ba, do việc điều chỉnh chính sách kinh tế theo các cam kết quốc tế, môi trường kinh doanh và đầu tư trở nên thông thoáng và minh bạch hơn, dẫn đến việc gia tăng luồng vốn FDI vào Việt Nam; điều này phản ánh qua sự tăng đột biến của vốn đầu tư 3 năm vừa qua, qua đó cho thấy niềm tin của các nhà đầu tư nước ngoài vào tiến trình hội nhập, mở cửa thị trường, cũng như vào triển vọng và tiềm năng phát triển kinh tế của Việt Nam, tin tưởng vào sự ổn định chính trị, xã hội và những quyết sách tích cực và hiệu quả của Chính phủ Việt Nam trong việc đối phó với cơn khủng hoảng tài chính hiện nay. Thứ tư, việc mở cửa thị trường dịch vụ theo cam kết WTO góp phần phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật, nâng cao trình độ công nghệ cho các nhà sản xuất, dẫn tới việc tăng cường thu hút đầu tư nước ngoài. Mặt khác, thông qua việc liên doanh, hợp tác với nước ngoài, các doanh nghiệp Việt Nam cũng được tăng cường thêm về vốn, trình độ quản lý, nhân sự và phát triển công nghệ. Thứ năm, ngành công nghiệp Việt Nam đã phát triển theo hướng tích cực, sản xuất công nghiệp đạt năng suất tương đối cao: Năm 2007 giá trị sản xuất công nghiệp đạt trên 574 nghìn tỷ đồng, tăng 17,1% so với 2006; Năm 2008 ước đạt 650 nghìn tỷ đồng tăng 14,6% so với năm 2007; Các ngành sản xuất sử dụng nhiều lao động như thủy sản, may mặc, giày dép, đồ nội thất, thủ công cũng có tốc độ tăng trưởng cao. Một số vấn đề làm hạn chế tác động của WTO đến thu hút vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam và nguyên nhân Thực tiễn ĐTNN vào Việt Nam trong giai đoạn vừa qua cũng đã bộc lộ một số tồn tại và hạn chế ở cả môi trường đầu tư và tình hình đầu tư. Sự tăng trưởng mạnh mẽ, mang tính đột biến của nguồn vốn FDI vào Việt Nam đã làm cho những mặt hạn chế vốn có nhưng chưa hoặc chậm được khắc phục của môi trường đầu tư của nước ta ngày càng bộc lộ rõ nét và trở nên gay gắt hơn. Bên cạnh đó, một số vấn đề mới phát sinh cũng đang bắt đầu có những tác động tiêu cực đến môi trường đầu tư làm hạn chế khả năng thu hút và sử dụng vốn đầu tư của nền kinh tế. Những hạn chế còn tồn tại Thứ nhất là chưa cải thiện tình hình giải ngân vốn đầu tư, nếu như trong 5 năm 2001-2005 vốn thực hiện đạt 14,3 tỷ USD, chiếm 64,8% tổng vốn đăng ký mới thì năm 2007 mới giải ngân gần 8 tỉ USD đạt khoảng 37,5%, năm 2008 với lượng vốn đăng kí đạt kỉ lục 71 tỉ USD nhưng giải ngân lại chỉ có 11 tỉ hay 16% và năm 2009 giải ngân 10 tỉ đạt 46%. Con số tỉ trọng tăng lên trong năm 2009 cũng chưa phản ánh được hiệu quả tăng vốn, con số tuyệt đối cho thấy rằng lượng vốn giải ngân chỉ nằm trong một giới hạn nhất định là khoảng 10 tỉ USD. Điều này cho thấy khả năng giải ngân vốn của Việt Nam là còn rất yếu, đầu vào của vốn cao nhưng đầu ra lại không hiệu quả, đây sẽ làm giảm tác động “đầu tư kéo đầu tư” của vốn đầu tư nước ngoài. Thứ hai, lĩnh vực đầu tư nước ngoài ngày càng tập trung vào khu vực dịch vụ - du lịch – bất động sản, giảm dần đầu tư vào công nghiệp xây dựng và nhất là chiếm tỉ trọng quá nhỏ vào nông – lâm – ngư nghiệp. Lĩnh vực nông nghiệp chỉ đạt khoảng hơn 1% tổng số vốn đầu tư với số dự án dưới 50 dự án. Lĩnh vực dịch vụ - du lịch – bất động sản có sự tăng trưởng nhảy vọt, năm 2007 là 17 %, năm 2008 là gần 44% và đạt 76 % năm 2009. Điều này cho thấy cơ cấu vốn đầu tư không hợp lí, không phù hợp với một nước đang phát triển cần nhiều tỉ trọng vốn cho ngành công nghiệp, nông nghiệp như nước ta. Vốn tập trung quá nhiều vào lĩnh vực dịch vụ - du lịch, khách sạn, bất động sản đồng nghĩa với việc không đóng góp vào sự gia tăng giá trị sản xuất của nền kinh tế. Theo số liệu giai đoạn 2005 -2008, FDI vào công nghiệ chế tạo và chế biến giảm liên tục từ năm 2005 đến năm 2008 (70,4% năm 2005 xuống 68,9% năm 2006, 51% năm 2007 và còn 36% năm 2008) và chủ yếu là đầu tư vào công nghiệp lắp ráp nhằm tận dụng lao động rẻ, giá trị gia tăng thấp. Trong khi đó, đầu tư vào khai thác tài nguyên và vào bất động sản (cũng là một dạng khai thác tài nguyên đất đai) tăng lên. Đầu tư vào khai thác mỏ từ 0,8% năm 2005 lên 1,2% năm 2006 và lên tới 18,5% năm 2008, đầu tư  vào khách sạn, nhà hàng, khu nghỉ dưỡng từ 0,9% năm 2005 tăng đến 15,1% năm 2008. Đó là chưa kể đến hiệu ứng sân golf làm mất một diện tích không ít đất đai (trong đó có đất nông nghiệp) và có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường. Nguyên nhân chính dẫn đến hiện tượng trên là do chất  lượng nguồn nhân lực thấp và công nghiệp hỗ trợ không phát triển. Cơ cấu đầu tư như vậy không đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Thứ ba đó là vấn đề ưu đãi đầu tư (ƯĐĐT). Hệ thống ưu đãi còn nhiều phức tạp. Có rất nhiều loại ƯĐĐT khác nhau, các ƯĐĐT lại được quy định rải rác trong các luật và các văn bản dưới luật khác nhau. Hơn nữa, sự phức tạp càng được nhân lên do các địa phương tiếp tục đưa ra các ưu đãi riêng của địa phương mình một cách tùy tiện để cạnh tranh thu hút đầu tư. Sự cạnh trạnh này thường dẫn đến tình trạng “đua đến kiệt sức” trong nội bộ một quốc gia . Bên cạnh đó tính hiệu quả của hệ thống ƯĐĐT thấp. Chính sách ƯĐĐT ở Việt ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc26622.doc
Tài liệu liên quan