Đầu tư nhằm nâng cao sức cạnh tranh trong lĩnh vực kinh doanh LPG của Công ty Gas Petrolimex

LờI mở đầu Nền kinh tế nước ta đang ở giai đầu của nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Việc chuyển đổi nền kinh tế từ kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế hoạt động theo sự vận hành của cơ chế thị trường đã mở ra một thời kỳ mới đầy những cơ hội phát triển cũng như là những thách thức lớn lao cho các thành phần kinh tế, các doanh nghiệp ở Việt Nam. Một tất yếu kinh tế - một vấn đề thời sự nổi bật nhất trong nền kinh tế thị trường hiện nay, đó là cạnh tranh. Bởi vì, bất luậ

doc95 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1340 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Đầu tư nhằm nâng cao sức cạnh tranh trong lĩnh vực kinh doanh LPG của Công ty Gas Petrolimex, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n ở lĩnh vực nào, ngành hàng nào, thị trường đều có sự chia cắt bởi các doanh nghiệp trong và ngoài nước. Sự cạnh tranh ngày càng trở nên gay gắt hơn. Các doanh nghiệp không bao giờ chỉ thoả mãn với phần thị trường đã chiếm lĩnh được (vì như vậy có nghĩa là chấp nhận bị tiêu diệt - điều này rất nguy hiểm), mà luôn tìm cách vươn lên, mở rộng thị trường. Để đạt được điều này, các doanh nghiệp phải có sức cạnh tranh và cạnh tranh có hiệu quả. Và vì vậy, xây dựng một chiến lược cạnh tranh vơí những công cụ, biện pháp thích hợp nhằm tăng sức cạnh tranh là cơ sở đảm bảo giúp doanh nghiệp đứng vững và phát triển trong điều kiện cạnh tranh gay gắt trên thị trường. Chiến lược quan trọng - bản lề đó là đầu tư , chiến lược đầu tư và đưa ra những định hướng, giải pháp đầu tư cho doanh nghiệp- đây mới chính là cơ sở đảm bảo giúp doanh nghiệp phát triển trong điều kiện cạnh tranh hết sức gay gắt như hiện nay . Công ty Gas Petrolimex là một doanh nghiệp Nhà nước trực thuộc Tổng công ty xăng dầu Việt Nam (Petrolimex ) . Qua gần 3 năm hoạt động và phát triển, công ty đã tìm cho mình một vị trí khá ổn định trên thị trường LPG. Tuy nhiên, hiện nay, công ty đang phải đương đầu với sự cạnh tranh mạnh mẽ từ nhiều phía trên thị trường LPG tại Viêt Nam với sự tham gia của các doanh nghiệp có tiếng trong và ngoài nước như: Sài Gòn Petro, Shell... Để tiếp tục phát triển và mở rộng thị trường, công ty cần phải nghiên cứu tìm ra một hướng đi phù hợp để nâng cao sức cạnh tranh của mình, mà một hướng đi mà có thể cho là lâu dài và hiệu quả nhất đó là đầu tư để từ đó công ty mới có thể nâng cao sức cạnh tranh được vì vậy công ty mới có thể chiến thắng được các đối thủ cạnh tranh, đứng vững trên thị trường cạnh tranh khốc liệt này. Bắt đầu từ ý tưởng này, sau một thời gian thực tập tại Công ty Gas Petrolimex, em đã quyết định chọn đề tài ''Đầu tư nhằm nâng cao sức cạnh tranh trong lĩnh vực kinh doanh LPG của công ty Gas Petrolimex " là đề tài nghiên cứu của mình. Bài luận văn gồm 3 phần Lời mở đầu. Phần I: Lý luận chung về đầu tư và cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường Phần II: Đánh giá sức cạnh tranh và tình hình đầu tư của công ty Gas Petrolimex. Phần III: Một số giải pháp đầu tư nhằm nâng cao sức cạnh tranh trong lĩnh vực tiêu thụ mặt hàng LPG của công ty Gas Petrolimex Kết luận. Đây là một đề tài mới, nội dung nghiên cứu rộng, song với sự cố gắng của bản thân, đề tài đã được hoàn thành nhưng không thể tránh khỏi những thiếu sót, kính mong thầy cô giáo và các bạn đóng góp ý kiến để chuyên đề thực tập của em được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn : Cô : Th.S Nguyễn Thị Thu Hà - Giáo viên hướng dẫn. Chú : Lê Thanh Minh - Trưởng phòng Quản Lý Kĩ Thuật . Cô : Thị Anh - Phòng Quản Lý Kĩ Thuật. Anh : Nguyễn Đăng Công - Phòng Kinh Doanh. Cùng các cô chú, anh chị trong phòng và công ty đã giúp đỡ em trong thời gian thực tập. Sinh viên Nguyễn Thị Cúc Mục lục Lời mở đầu................................................................................................1 Phần I: Lý luận chung về đầu tư và cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường........................................................................................................6 I. Một số vấn đề cơ bản về cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường.......6 1. Cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường............................................6 1.1. Cạnh tranh.................................................................................6 1.1.1. Khái niệm............................................................................6 1.1.2. Vai trò của cạnh tranh đối với quá trình sản suất kinh doanh của doanh nghiệp...........................................................................8 1.2. Khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp.....................................9 1.2.1. Khái niệm............................................................................9 1.2.2. Các nhân tố tác động đến khả năng của doanh nghiệp......10 a. Sản phẩm và cơ cấu sản phẩm.........................................10 b. Yếu tố giá cả .................................................................11 c. Chất lượng sản phẩm.......................................................11 d. Tổ chức hoạt động tiêu thụ sản phẩm.............................12 e. Yếu tố thời gian..............................................................13 2. Vì sao phải tăng sức cạnh tranh của doanh nghiệp.........................14 3. Các nhân tố đã ảnh hưởng tới sức cạnh tranh của doanh nghiệp....15 3.1. Các nhân tố khách quan...........................................................15 3.1.1. Môi trường kinh tế quốc dân.............................................15 3.1.2. môi trương nghành............................................................17 3.2. Các nhân tố chủ quan..............................................................18 II. Đầu tư - yếu tố quan trọng để nêu sức cạnh tranh của doanh nghiệp19 1. Đầu tư là gì?...................................................................................19 1.1. Khái niệm..............................................................................19 1.2. Khái niệm và nội dung vốn đầu tư.........................................20 2. Vai trò của đầu tư đối với hoạt động sản xuất kinh doanh và nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp.....................................................21 3. Các hình thức đầu tư của doanh nghiệp..........................................21 3.1. Đầu tư cho đào tạo con người................................................21 3.2. Đầu tư vào tài sản cố định, đổi mới công nghệ và trâng thiết bị.............................................................................................................22 3.3. Đầu tư theo chiều rộng, đa dạng hoá và chuyên môn hoá sản xuất.........................................................................................................24 4. Những nhân tố tác động đến đầu tư của doanh nghiệp....................27 4.1. Doanh thu của doanh nghiệp................................................27 4.2. Chi phí đầu tư của doanh nghiệp...........................................27 4.3. Kỳ vọng ................................................................................28 Phần II: Đánh giá sức cạnh tranh và tình hình đầu tư của công ty gas Petrolimex..............................................................................................29 I. Giới thiệu chung về công ty Gas Petrolimex.......................................29 1. Lịch sử hình thành và phát triển công ty Gas Petrolimex...............29 1.1. Cơ cấu tổ chức bộ máy công ty...............................................30 1.2. Chức năng của công ty ...........................................................31 1.3. Nhiệm vụ của công ty..............................................................31 1.4. Ngành nghề kinh doanh ..........................................................31 2.Tình hình sản xuất và tiêu thụ LPG của công ty Gas Petrolimex....32 2.1.Sản lượng xuất bán..................................................................32 2.2. Nguồn cung ứng/ sản xuất LPG của công ty..........................33 2.3.Các khách hàng sử dụng LPG của công ty..............................36 2.4.Thị trường tiêu thụ ..................................................................37 II. Đánh giá sức cạnh tranh của công ty về mặt hàng LPG (để từ đó nắm bắt nhu cầu đầu tư ) ...............................................................................40 1.Tình hình cạnh tranh của công ty trên thị trường LPG Việt Nam ..40 2. Sức cạnh tranh của công ty ............................................................44 2.1. Thuận lợi.................................................................................44 2.1.1. Công tác nghiên cứu cải tiến chất lượng.........................44 2.1.2. Công tác Marketing.........................................................45 2.1.3. Công tác sản xuất............................................................48 2.1.4. Nguồn nhân lực...............................................................49 2.1.5. Khả năng tài chính của công ty.......................................49 2.2. Khó khăn..................................................................................49 2.2.1. Mạng lưới tiêu thụ sản phẩm...........................................49 2.2.2. Hoạt động xúc tiến khuyếch trương................................50 2.2.3. Cơ sở vật chất kỹ thuật....................................................50 2.2.4. Sự tác động của các chính sách vĩ mô.............................52 3. Đánh giá sức cạnh tranh của công ty...............................................52 III. Thực trạng thực hiên đầu tư trong việc nâng cao khả năng cạnh tranh của công ty trong thời gian qua .............................................................53 1. Những kết quả đạt được..................................................................53 1.1. Đối với các hoạt động đầu tư cho các khách hàng công nghiệp...53 1.2. Đối với công tác đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật........................58 2. Những mặt còn tồn tại....................................................................65 Phần III: Một số giải pháp đầu tư nhằm nâng sức cạnh tranh trong lĩnh vực tiêu thụ mặt hàng LPG của công ty Gas Petrolimex........................67 I. Định hướng phát triển của công ty trong thời gian tới.....................67 1. Mục tiêu hoạt động của công ty...................................................67 2. Phương hướng hoạt động của công ty...........................................67 3. Kế hoạch đầu tư của công ty trong thời gian tới ..........................68 II. Một số giải pháp đầu tư nâng sức cạnh tranh của công ty Gas Petrolimex..............................................................................................69 1. Đầu tư cho cơ sở vật chất và đổi mới công nghệ..........................69 2. Đầu tư đào tạo nguồn nhân lực và hoàn thiện bộ mày quản lý của công ty....................................................................................................77 3. Đầu tư mở rộng thị trường và tăng cường các hoạt động Marketing...............................................................................................80 3.1. Đầu tư cho công tác thăm dò tìm hiểu về các yêu cầu của thị trường và khách hàng..............................................................................80 3.2. Đầu tư để đa dạng hoá sản phẩm...........................................82 3.3. Sử dụng chính sách giá làm vũ khí cạnh tranh .....................83 3.4. Quản lý chặt chẽ mạng lưới bán hàng...................................85 3.5. Đầu tư cho hoạt động xúc tiến khuyếch trương sản phẩm.......86 III. Một số kiến nghị với nhà nước.........................................................88 Kết luận..................................................................................................92 Tài liệu tham khảo .................................................................................93 Phần I Lý luận chung về đầu tư và cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường . ==&== I - Một số vấn Đề cơ bản về cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường. 1.Cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường 1.1 Cạnh tranh 1.1.1 Khái niệm Kinh tế thị trường là nền kinh tế chủ yếu được điều tiết bởi thị trường. Nền kinh tế thị trường đòi hỏi phải giải quyết các vấn đề cơ bản: sản xuất cái gì, xản xuất như thế nào, sản xuất cho ai, và nó đều chịu sự tác động của các quan hệ cung cầu, quan hệ cạnh tranh và giá cả thị trường. Một điều tất yếu và là đặc trưng cơ bản nhất của nền kinh tế thị trường đó là: bất kỳ một doanh nghiệp nào tham gia hoạt động sản xuất kinh doanh một loại hàng hoá nào đó trên thị trường đều phải chấp nhận cạnh tranh. Cạnh tranh phát triển cùng với sự phát triển của nền sản xuất hàng hoá tư bản chủ nghĩa. Vậy cạnh tranh là gì ? Theo Marx " Cạnh tranh là sự ganh đua, sự đấu tranh gay gắt giữa các nhà tư bản nhằm giành giật những điều kiện thuận lợi trong sản xuất và tiêu thụ hàng hoá để thu được lợi nhuận siêu ngạch ". Còn theo cuốn từ điển kinh doanh (xuất bản 1992 ở Anh ), cạnh tranh trong cơ chế thị trường được định nghĩa là " sự ganh đua, sự kình định giữa các nhà kinh doanh nhằm tranh giành tài nguyên sản xuất cùng một loại về phía mình ". Như vậy, hiểu theo một nghĩa chung nhất, cạnh tranh là sự ganh đua giữa các doanh nghiệp trong việc giành giật thị trường và khách hàng. Thực chất của cạnh tranh là sự tranh giành về lợi ích kinh tế giữa các chủ thể tham gia thị trường. Đối với người mua, họ muốn mua được loại hàng hoá có chất lượng cao, với một mức giá rẻ. Còn ngược lại, các doanh nghiệp bao giờ cũng muốn tối đa hoá lợi nhuận của mình. Vì mục tiêu lợi nhuận, họ phải giảm chi phí và tìm cách giành giật khách hàng và thị trường về phía mình. Và như vậy, cạnh tranh sẽ xảy ra. Cạnh tranh là một điều tất yếu của thị trường. Các doanh nghiệp bắt buộc phải chấp nhận cạnh tranh, ganh đua với nhau, phải luôn không ngừng tiến bộ để giành được ưu thế tương đối so với đối thủ. Nếu như lợi nhuận là động lực thúc đẩy các doanh nghiệp tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh thì cạnh tranh bắt buộc họ phải tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh một cách có hiệu quả cao nhất nhằm thu được lợi nhuận tối đa. ở Việt Nam, cùng với sự chuyển đổi nền kinh tế, cạnh tranh được thừa nhận là một quy luật kinh tế khách quan và được coi như là một nguyên tắc cơ bản trong tổ chức điều hành kinh doanh trong từng doanh nghiệp. Do vậy, cạnh tranh là tất yếu của nền kinh tế thị trường, là một phương thức vận động của thị trường. Nói đến thị trường cũng có nghĩa là nói tới sự cạnh tranh giữa các chủ thể kinh tế. Không có cạnh tranh thì không có nền kinh tế thị trường. Do vậy, quá trình sản xuất và kinh doanh của doanh nghiệp buộc phải tuân theo những quy luật cạnh tranh. Quy luật cạnh tranh là cơ chế vận động của thị trường hay có thể nói cơ chế thị trường là vũ đài cạnh tranh, là nơi gặp gỡ của các đối thủ cạnh tranh (các doanh nghiệp), mà kết quả sẽ là một số doanh nghiệp bị thua cuộc và bị gạt ra khỏi thị trường, trong khi một số doanh nghiệp khác vẫn tồn tại và phát triển hơn nữa. Quy luật chọn lọc nghiệt ngã thông qua cạnh tranh của thị trường đã chia các doanh nghiệp thành hai nhóm: nhóm năng động và nhóm trì trệ. Điều đó đặt ra cho những doanh nghiệp đang yếu kém và lúng túng phải nhanh chóng thích nghi, vì nếu thích nghi được thì đó là cơ hội để phát triển và ngược lại, nếu không thích nghi thì đó là dấu hiệu của sự phá sản. Vì vậy, trong quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường đạt được một trình độ cạnh tranh cao là con đường đảm bảo chắc chắn cho sự tồn tại và phát triển của mỗi doanh nghiệp. Cạnh tranh trên thị trường giữa các doanh nghiệp được phân thành nhiều loại khác nhau. Nhưng xét theo phạm vi ngành kinh tế, cạnh tranh được chia làm 2 loại: Cạnh tranh giữa các ngành và cạnh tranh trong nội bộ ngành. Để giành lợi thế trên thị trường, các doanh nghiệp phải nắm vững các loại cạnh tranh này để xác định đúng đối thủ cạnh tranh, từ đó lựa chọn chính xác vũ khí cạnh tranh phù hợp với điều kiện và đặc điểm của mình. Cạnh tranh giữa các ngành: là cuộc đấu tranh giữa các nhà doanh nghiệp sản xuất, mua bán hàng hoá, dịch vụ trong các ngành kinh tế khác nhau nhằm thu lợi nhuận và có tỷ suất lợi nhuận cao hơn so với vốn đã bỏ ra và đầu tư vốn vào ngành có lợi nhất cho sự phát triển. Sự cạnh tranh giữa các ngành dẫn đến việc các doanh nghiệp luôn tìm kiếm những ngành đầu tư có lợi nhất nên đã chuyển vốn từ ngành ít lợi nhuận sang ngành có nhiều lợi nhuận. Sau một thời gian nhất định, sự điều chuyển tự nhiên theo tiếng gọi của lợi nhuận này, vô hình chung hình thành lên sự phân phối vốn hợp lí giữa các ngành sản xuất, dẫn đến kết quả cuối cùng là các chủ doanh nghiệp đầu tư ở các ngành khác nhau với số vốn bằng nhau chỉ thu được lợi nhuận như nhau. Cạnh tranh trong nội bộ ngành: là sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp cùng sản xuất và tiêu thụ, một loại hàng hoá hoặc dịch vụ nào đó. Cạnh tranh trong nội bộ ngành dẫn đến sự hình thành giá cả thị trường đồng nhất đối với hàng hoá dịch vụ cùng loại trên cơ sở giá trị xã hội của hàng hoá dịch vụ đó. Trong cuộc cạnh tranh này, các doanh nghiệp thôn tính lẫn nhau. Những doanh nghiệp chiến thắng sẽ mở rộng phạm vi họat động của mình trên thị trường, những doanh nghiệp thua cuộc sẽ phải thu hẹp kinh doanh, thậm chí bị phá sản. Trong nền kinh tế thị trường, mục tiêu tối cao và duy nhất trong kinh doanh của các doanh nghiệp là lợi nhuận tối đa, vì đó là thu nhập hiện tại của chủ sở hữu doanh nghiệp và là tiền đề để hiện đại hoá và phát triển doanh nghiệp, tạo thu nhập trong tương lai cho họ. Bên cạnh đó, trên thị trường có rất nhiều doanh nghiệp cùng kinh doanh một loại hàng hoá, cạnh tranh trên thị trường là không tránh khỏi vì đó là cuộc cạnh tranh vì lợi ích vật chất giữa các doanh nghiệp với nhau. Và như vậy, cạnh tranh lành mạnh là như là một động lực quan trọng để phát triển lực lượng sản xuất, tiến bộ khoa học kĩ thuật, quản lí, là điều kiện để giáo dục tính tháo vát, năng động, nhậy bén và óc sáng tạo của các nhà doanh nghiệp. 1.1.2 Vai trò của cạnh tranh đối với quá trình sản xuất kinh doanh ở các doanh nghiệp: Cạnh tranh là tất yếu trong nền kinh tế thị trường. Cội nguồn của sự cạnh tranh là sự tự do trong sản xuất kinh doanh, đa dạng kiểu dáng, nhiều thành phần kinh tế, nhiều người hoạt động sản xuất kinh doanh. Cạnh tranh thực chất là một cuộc chạy đua không có đích. Ai cảm nhận thấy đích thì người đó trở thành nhịp cầu cho các đối thủ vượt lên phía trước. Chạy đua về mặt kinh tế phải luôn luôn ở phía trước để tránh những trận đòn của người chạy phía sau, và không phải chỉ để thắng một trận tuyến giữa các đối thủ mà là để thắng trên hai trận tuyến. Đó là cạnh tranh giữa những người mua với người bán và cạnh tranh giữa những người bán với nhau. - Trong cơ chế thị trường, cạnh tranh giữ vai trò làm cho giá cả hàng hoá, dịch vụ giảm xuống, nhưng chất lượng hàng hoá dịch vụ ngày càng cao, phù hợp với mong muốn của người tiêu dùng. - Cạnh tranh sẽ loại bỏ các doanh nghiệp có chi phí cao trong sản xuất kinh doanh hàng hoá và khuyến khích các doanh nghiệp có chi phí thấp. Điều này đã tạo áp lực buộc các doanh nghiệp phải giảm chi phí đầu vào trong sản xuất kinh doanh. Cạnh tranh cho phép sử dụng các nguồn tài nguyên một cách tối ưu. Mặc dù điều này là phù hợp với lợi ích lâu dài của xã hội, song cũng làm cho một số doanh nghiệp bị phá sản và nạn thất nghiệp không thể khắc phục được. - Cạnh tranh là công cụ để tước quyền thống trị về kinh tế trong lịch sử. - Cạnh tranh buộc các doanh nghiệp phải không ngừng đưa tiến bộ khoa học kĩ thuật vào sản xuất. Đồng thời cạnh tranh cũng buộc các doanh nghiệp phải nắm bắt thông tin kịp thời, bắt được những thời cơ hấp dẫn. - Cạnh tranh đã tạo ra các nhà kinh doanh giỏi, chân chính. Tóm lại, cạnh tranh không phải là huỷ diệt mà là sự thay thế, thay thế những doanh nghiệp làm ăn thua lỗ, sử dụng lãng phí những nguồn lực của xã hội bằng các doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả, nhằm đáp ứng tốt hơn nhu cầu của xã hội, thúc đẩy nền kinh tế của đất nước phát triển. Có thể nói rằng, cạnh tranh lành mạnh _ động lực phát triển kinh tế của mỗi quốc gia cũng như của từng doanh nghiệp. Cạnh tranh là điều kiện quan trọng để phát triển lực lượng sản xuất, tiến bộ kĩ thuật, là điều kiện giáo dục tính tháo vát, năng động và sáng kiến cho các nhà sản xuất kinh doanh 1.2 Khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp 1.2.1 Khái niệm Hiện nay một doanh nghiệp muốn có một vị trí vững chắc trên thị trường và thị trường ngày càng được mở rộng thì cần phải có một tiềm lực đủ mạnh để có thể cạnh tranh trên thị trường . Cái đó chính là khả năng cạnh tranh của một doanh nghiệp . Khả năng cạnh tranh của một doanh nghiệp là khả năng ,năng lực mà doanh nghiệp có thể tự duy trì vị trí của nó một cách lâu dài trên thị trường cạnh tranh ,đảm bảo thực hiện một mức lợi nhuận ít nhất là bằng tỷ lệ đòi hỏi cho việc thực hiện các mục tiêu của doanh nghiệp Khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp thể hiện ở nhiều mặt. Các doanh nghiệp phải luôn luôn đưa ra các phương án, các giải pháp tối ưu nhất để giảm chi phí sản xuất để từ đó giảm giá thành , giá bán ,áp dụng tiến bộ khoa học kĩ thuật vào sản xuất , nâng cao hiệu quả quản lý để nâng cao chất lượng sản phẩm , tổ chức tốt mạng lưới bán hàng và biết chọn đúng thời điểm bán hàng nhằm thu hút được khách hàng , mở rộng thị trường . Chỉ tiêu tổng hợp nhất để đánh giá năng lực cạnh tranh của một doanh nghiệp là thị phần mà doanh nghiệp chiếm được . Thị phần càng lớn thể hiện rõ khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp càng mạnh . Để tồn tại và có sức cạnh tranh , doanh nghiệp phải chiếm giữ được một phần thị trường bất kể nhiều hay ít, chính điều này đã phản ánh được quy mô tiêu thụ của doanh nghiệp. Qua đó cũng có thể đánh giá khả năng cạnh tranh của mỗi doanh nghiệp ưu thế cũng như các điểm mạnh, điểm yếu tương đối của doanh nghiệp so với các đối thủ cạnh tranh trong nghành. Tăng khả năng cạnh tranh là một điều tất yếu của mỗi một doanh nghiệp hoạt động trong cơ chế thị trường. Để tăng khả năng cạnh tranh đòi hỏi doanh nghiệp phải thực hiện nghiêm ngặt một "chu trình chất lượng" và đảm bảo các yếu tố của chất lượng tổng hợp. Rõ ràng khi nói dến chất lượng chúng ta không thể bỏ qua các yếu tố giá cả và dịch vụ sau khi bán .Đó là những yếu tố mà khách hàng nào cũng quan tâm khi thấy sản phẩm mà họ định mua thoả mãn nhu cầu của họ. Ngoài ra vấn đề giao hàng đúng lúc , đúng thời hạn cũng là yếu tố vô cùng quan trọng . 1.2.2.Các nhân tố tác động đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp a.Sản phẩm và cơ cấu sản phẩm. Điều quan trọng nhất đối với một doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh là phải trả lời được những câu hỏi cơ bản: Sản xuất cái gì ? cho ai ? như thế nào? và như vậy có nghĩa là doanh nghiệp đã xây dựng cho mình một chính sách sản phẩm. Không một doanh nghiệp nào hoạt động trên thị trường mà lại không có sản phẩm kinh doanh cho dù là hữu hình hay vô hình.Vấn đề đặt ra cho các doanh nghiệp là phải làm cho sản phẩm của mình thích ứng được với thị trường một cách nhanh chóng thì mới có thể tiêu thụ hết trên thị trường, mở rộng thị trường, tăng sức cạnh tranh của doanh nghiệp. Để có thể cạnh tranh với các đối thủ trên thị trường, doanh nghiệp phải thực hiện đa dạng hoá sản phẩm. Sản phẩm của doanh nghiệp phải luôn được hoàn thiện không ngừng để có thể theo kịp nhu cầu thị trường bằng cách cải tiến các thông số chất lượng, mẫu mã, bao bì, đồng thời tiếp tục duy trì các loại sản phẩm hiện đang là thế mạnh của doanh nghiệp. Ngoài ra, doanh nghiệp cũng cần nghiên cứu các sản phẩm mới nhằm phát triển và mở rộng thị trường tiêu thụ hàng hoá. Đa dạng hoá sản phẩm không chỉ là để đảm bảo đáp ứng được nhu cầu thị trường, thu nhiều lợi nhuận mà còn là một biện pháp phân tán sự rủi trong kinh doanh khi mà cuộc cạnh tranh ngày càng trở nên gay gắt quyết liệt. Đi đôi với việc thực hiện đa dạng hoá sản phẩm, để đảm bảo đứng vững trong điều kiện cạnh tranh gay gắt, doanh nghiệp có thể thực hiện trọng tâm hoá sản phẩm vào một số loại sản phẩm nhằm cung cấp cho một nhóm người hoặc một vùng thị trường nhất định của mình. Trong phạm vi này, doanh nghiệp có thể phục vụ khách hàng một cách tốt hơn, có hiệu quả hơn các đối thủ cạnh tranh và như vậy, doanh nghiệp đã tạo dựng được một bức rào chắn, đảm bảo giữ vững được phần thị trường của mình. Ngoài ra, doanh nghiệp cũng cần phải thực hiện chiến lược khác biệt hoá sản phẩm, tạo ra các nét độc đáo riêng cho mình để thu hút, tạo sự hấp dẫn cho khách hàng vào các sản phẩm của mình, nâng cao uy tín của doanh nghiệp. Như vậy, sản phẩm và xác định cơ cấu sản phẩm tối ưu là một trong những yếu tố quyết định sức cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường. b. Yếu tố giá cả. Giá của một sản phẩm trên thị trường được hình thành thông qua quan hệ cung cầu. Người bán và người mua thoả thuận mặc cả với nhau để đi tới mức giá cuối cùng đảm bảo hai bên đều có lợi. Giá cả đóng vai trò quan trọng trong quyết định mua hay không mua của khách hàng. Trong nền kinh tế thị trường, có sự cạnh tranh của các doanh nghiệp, ''khách hàng là thượng đế '' họ có quyền lựa chọn những gì mà họ mà họ cho là tốt nhất, và cùng một loại sản phẩm với chất lượng tương đương nhau, chắc chắn họ sẽ lựa chọn mức giá bán thấp hơn, khi đó sản lượng tiêu thụ của doanh nghiệp sẽ tăng lên. Giá cả được thể hiện như một vũ khí để cạnh tranh thông qua việc định giá của sản phẩm: Định giá thấp, định giá ngang thị trường hay là chính sách định giá cao. Với một mức giá ngang thị trường giúp doanh nghiệp giữ được khách hàng, lựa chọn các chính sách giá thích hợp cho từng loại sản phẩm, từng giai đoạn trong chu kỳ sản phẩm hay tuỳ thuộc vào đặc điểm của từng vùng thị trường. c. Chất lượng sản phẩm. Nếu như trước kia, giá cả được coi là yếu tố quan trọng nhất trong cạnh tranh thì ngày nay nó đã phải nhường chỗ cho chỉ tiêu chất lượng sản phẩm. Trên thực tế, cạnh tranh bằng giá là ''biện pháp nghèo nàn'' nhất vì nó làm giảm lợi nhuận thu được, mà ngược lại, cùng một loại sản phẩm, chất lượng sản phẩm nào tốt đáp ứng được yêu cầu thì người tiêu dùng cũng sẵn sàng mua với một mức giá có cao hơn một chút cũng không sao, nhất là trong thời đại ngày nay khi mà khoa học kỹ thuật đang trong giai đoạn phát triển mạnh, đời sống của nhân dân được nâng cao rất nhiều so với trước. Chất lượng sản phẩm là hệ thống nội tại của sản phẩm được xác định bằng các thông số có thể đo được hoặc so sánh được thoả mãn những điều kiện kỹ thuật và những yêu cầu nhất định của người tiêu dùng và xã hội. Chất lượng sản phẩm được hình thành từ khâu thiết kế tới tổ chức sản xuất và ngay cả sau khi tiêu thụ hàng hoá và chịu tác động của nhiều yếu tố: công nghệ dây chuyền sản xuất, nguyên vật liệu, trình độ tay nghề lao động, trình độ quản lý... Chất lượng sản phẩm là một vấn đề sống còn đối với một doanh nghiệp đặc biệt là đối với các doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam khi mà họ đang phải đương đầu với các đối thủ cạnh tranh từ nước ngoài vào Việt Nam. Một khi chất lượng sản phẩm không được đảm bảo thì cũng có nghĩa là doanh nghiệp sẽ bị mất khách hàng, mất thị trường, nhanh chóng đi tới chỗ suy yếu và bị phá sản. Hiện nay, khi nền kinh tế ngày càng phát triển, một quan niệm mới về chất lượng đã xuất hiện: Chất lượng sản phẩm không chỉ là tốt, bền, đẹp mà nó còn do khách hàng quyết định. Quản lý chất lượng sản phẩm là yếu tố chủ quan còn sự đánh giá của khách hàng mang tính khách quan, ở đây, nhân tố khách quan đã tác động, chi phối yếu tố chủ quan. Đây là một quan niệm mới xuất phát từ thực tế là mức độ cạnh tranh trên thị trường ngày càng trở nên quyết liệt hơn. Chất lượng sản phẩm thể hiện tính quyết định sức cạnh tranh của doanh nghiệp ở chỗ : -Nâng cao chất lượng sản phẩm sẽ làm tăng tốc độ tiêu thụ sản phẩm, tăng khối lượng hàng hoá bán ra, kéo dài chu kỳ sống của sản phẩm. -Sản phẩm chất lượng cao sẽ làm tăng uy tín của doanh nghiệp, kích thích khách hàng mua hàng và mở rộng thị trường. -Chất lượng sản phẩm cao làm tăng khả năng sinh lời, cải thiện tình hình tài chính của doanh nghiệp. d. Tổ chức hoạt động tiêu thụ sản phẩm. Tiêu thụ sản phẩm là khâu cuối cùng của quá trình sản xuất kinh doanh, đây cũng là giai đoạn thực hiện bù đắp chi phí và thu lợi nhuận. Việc đầu tiên của quá trình tổ chức tiêu thụ sản phẩm là phải lựa chọn các kênh phân phối sản phẩm một cách hợp lý, có hiệu quả nhằm mục đích đáp ứng một cách tốt nhất các yêu cầu của khách hàng, nhanh chóng giải phóng nguồn hàng, để bù đắp chi phí sản xuất, thu hồi vốn. Xây dựng một hệ thống mạng lưới tiêu thụ sản phẩm tốt cũng có nghĩa là xây dựng một nền móng vững chắc để phát triển thị trường, bảo vệ thị phần của doanh nghiệp có được. Bên cạnh việc tổ chức màng lưới bán hàng, doanh nghiệp cũng cần đẩy mạnh các hoạt động hỗ trợ bán hàng như quảng cáo, khuyến mại, các dịch vụ sau bán hàng. Đây là một hình thức cạnh tranh phi giá, gây sự chú ý và thu hút khách hàng. Hoạt động tiêu thụ sản phẩm được tổ chức tốt sẽ làm tăng sản lượng bán hàng từ đó sẽ tăng doanh thu, tăng lợi nhuận dẫn tới tốc độ thu hồi vốn nhanh, kích thích sản xuất phát triển. Công tác tổ chức tiêu thụ tốt cũng là một trong những yếu tố làm tăng uy tín của doanh nghiệp trên thị trường. Các hoạt động như quảng cáo tham gia hội chợ, tổ chức hội nghị khách hàng... là những hình thức tốt nhất để giới thiệu về các sản phẩm và doanh nghiệp của mình từ đó giúp cho doanh nghiệp tìm ra được nhiều bạn hàng mới, mở rộng thị trường nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp. e. Yếu tố thời gian Sự phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ trong giai đoạn hiện nay làm thay đổi nhanh chóng nếp nghĩ, sở thích hay là nhu cầu của con người cũng như kéo theo sự rút ngắn của chu kỳ sản phẩm. Đối với các doanh nghiệp, yếu tố quan trọng quyết định thành công trong kinh doanh hiện đại chính là thời gian và tốc độ chứ không phải là các yếu tố truyền thống như nguyên vật liệu hay lao động. Những thay đổi nhanh chóng của tiến bộ khoa học kỹ thuật đã làm cho các cuộc cạnh tranh ngày càng trở nên gay gắt, khốc liệt hơn và trong cuộc chạy đua này những ai biết nắm bắt thời cơ, đi trước thì người đó sẽ thắng. Tốc độ cạnh tranh đã đạt tới một mức độ có thể gọi là "tốc độ tức khắc". Muốn chiến thắng trong cuộc chiến này, các doanh nghiệp phải biết tổ chức tốt hoạt động thu thập và xử lý thông tin thị trường, nắm bắt thời cơ, lựa chọn mặt hàng theo yêu cầu của thị trường, nhanh chóng tổ chức kinh doanh, tiêu thụ thu hồi vốn trước khi chu kỳ sản phẩm kết thúc. Hiện nay, ở nhiều nước phát triển cạnh tranh bằng thời gian là một biện pháp cạnh tranh rất quan trọng mang yếu tố sống còn của doanh nghiệp. Đi trước một bước trong cạnh tranh là đã giành được một chiến thắng quan trọng trong việc thu hút khách hàng và mở rộng thị trường, tăng tính cạnh tranh của doanh ngh._.iệp. Do vậy, khi xây dựng một chiến lược kinh doanh, các doanh nghiệp thường đề cập tới vấn đề " tốc độ thị trường ", "cạnh tranh dựa trên thời gian" và chú trọng tới vấn đề về chu kỳ sản phẩm, thời gian nắm bắt, thoả mãn nhu cầu thị trường, thời gian đầu tư, thờì gian thu hồi vốn, tốc độ công việc giao dịch và giao hàng, tốc độ của công tác nghiên cứu và triển khai... Ngoài các yếu tố này, vốn, quy mô doanh nghiệp... cũng sẽ tác động rất lớn tới sức cạnh tranh cũng như việc nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp. 2. Vì sao phải tăng sức cạnh tranh của doanh nghiệp. Thực chất của tăng sức cạnh tranh là tạo ra ngày một nhiều hơn các ưu thế về các mặt giá cả, giá trị sử dụng, chất lượng, uy tín của sản phẩm và doanh nghiệp, nhằm giành được những ưu thế tương đối trong cạnh tranh, đẩy nhanh tốc độ tiêu thụ. Trong cơ chế thị trường, cạnh tranh là một quy luật tất yếu khách quan. Các doanh nghiệp tham gia thị trường đều phải chấp nhận cạnh tranh. Cạnh tranh một mặt sẽ thúc đẩy sản xuất phát triển, mặt khác nó sẽ đào thải không thương tiếc những doanh nghiệp yếu thế không có đủ sức cạnh tranh. Do vậy để tồn tại và phát triển, các doanh nghiệp phải không ngừng phấn đấu tìm ra các giải pháp để giảm chi phí sản xuất, giá thành, giá bán sản phẩm, tổ chức hệ thống tiêu thụ môt cách tốt nhất, đúng lúc nhất mà vẫn đảm bảo chất lượng sản phẩm đặc biệt là trong giai đoạn hiện nay. Đi đôi với sự phát triển như vũ bão của khoa học kỹ thuật, những đòi hỏi, yêu cầu của người tiêu dùng ngày càng ở mức cao hơn. Để đáp ứng nhu cầu thị trường, đẩy nhanh tốc độ tiêu thụ sản phẩm, các doanh nghiệp buộc phải tiến hành các hoạt động marketing, tìm hiểu thị trường. Và trong cuộc chiến này người nào nhanh hơn người đó sẽ thắng. Như vậy, cùng với cạnh tranh, tăng sức cạnh tranh là một tất yếu khách quan. Để thắng thế trong các cuộc cạnh tranh, doanh nghiệp buộc phải không ngừng nâng cao sức cạnh tranh thông qua các yếu tố trực tiếp như giá thành, giá bán, chất lượng sản phẩm, uy tín của doanh nghiệp hay gián tiếp như các hoạt động quảng cáo, tham gia hội chợ... ở nước ta, từ một nền kinh tế tập trung bao cấp chuyển sang nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp nhà nước chắc chắn có phần nào bỡ ngỡ: Từ chỗ chỉ hoạt động sản xuất một cách thụ động cho tới chỗ phải tự quyết định lấy các vấn đề quan trọng mang tính sống còn của doanh nghiệp (sản xuất cho ai, sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào, bao nhiêu...) là cả một vấn đề. Các doanh nghiệp nhà nước buộc phải làm quen với điều này cũng như phải thích nghi với môi trường kinh doanh mới của cơ chế thị trường, chấp nhận các quy luật của thị trường cũng như là phải chấp nhận cạnh tranh. Đặc biệt là trong giai đoạn này, khi đất nước ta đang xâydựng một nền kinh tế mở, kêu gọi vốn đầu tư từ bên ngoài vào Việt Nam, các hãng nổi tiếng trên thế giới đầu tư vào nước ta ngày một nhiều và rõ ràng họ có nhiều ưu thế hơn mình về tiềm lực tài chính cũng như là trình độ kỹ thuật, kinh nghiệm quản lý. Chính điều này đã buộc các doanh nghiệp Việt Nam đặc biệt là các doanh nghiệp Nhà nước phải tìm cách nâng cao sức cạnh tranh của mình thì mới có thể tồn tại và phát triển được trên thị trường. 3. Các nhân tố đã ảnh hưởng tới sức cạnh tranh của doanh nghiệp. Một doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh bao giờ cũng gắn liền với môi trường kinh doanh và do vậy, nó phải chịu sự tác động, ảnh hưởng của nhiều nhân tố bao gồm cả chủ quan và khách quan. 3.1. Các nhân tố khách quan. 3.1.1. Môi trường kinh tế quốc dân. Môi trường kinh tế quốc dân hay còn gọi là môi trường tổng thể của một doanh nghiệp bao gồm 4 nhóm nhân tố chính. Nhóm nhân tố kinh tế. Đây là những nhân tố quan trọng nhất của môi trường hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Khi một nền kinh tế phát triển với tốc độ cao sẽ kéo theo sự tăng thu nhập cũng như khả năng thanh toán của người dân cũng tăng lên do vậy nhu cầu hay sức mua của nhân dân cũng sẽ tăng lên. Mặt khác nền kinh tế phát triển mạnh có nghĩa là khả năng tích tụ và tập trung tư bản lớn như vậy tốc độ đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh sẽ tăng lên. Đây chính là cơ hội tốt cho các doanh nghiệp phát triển. Doanh nghiệp nào có khả năng nắm bắt được những cơ hội này thì chắc chắn sẽ thành công và sức cạnh tranh cũng tăng lên. Tuy nhiên, do sự tăng trưởng của nền kinh tế sẽ kéo theo sự tăng lên một cách nhanh chóng số lượng các doanh nghiệp tham gia thị trường, và như vậy mức độ cạnh tranh sẽ lại trở nên gay gắt. Ai đi trước trong cuộc cạnh tranh này người đó sẽ thắng. Và ngược lại, khi nền kinh tế đang trong giai đoạn suy thoái, tỉ lệ lạm phát tăng làm cho giá cả sẽ tăng, sức mua của người dân bị giảm sút, các doanh ngiệp phải tìm mọi cách để giữ khách hàng, do đó sự cạnh tranh trên thị trường cũng sẽ khốc liệt hơn. Lãi suất cho vay của ngân hàng cũng là một nhân tố quan trọng ảnh hưởng tới sức cạnh tranh của doanh nghiệp. Với mức lãi suất đi vay cao, chi phí sản xuất của doanh nghiệp cũng sẽ tăng lên do phải trả lãi tiền vay lớn, do vậy sức cạnh tranh của doanh nghiệp cũng sẽ bị giảm đi đặc biệt là đối với các đối thủ có tiềm lực mạnh về tài chính. Các nhân tố lạm phát, tỉ giá hối đoái, tiền công, tiền lương... cũng ảnh hưởng tới hoạt động sản xuất kinh doanh sức cạnh tranh của từng doanh nghiệp cũng như là mức độ cạnh tranh trên thị trường. Nhân tố chính trị và pháp luật. Chính trị và pháp luật là nền tảng cho phát triển kinh tế cũng như là cơ sở pháp lý để các doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh trên thị trường. Luật pháp rõ ràng, chính trị ổn định là môi trường thuận lợi đảm bảo sự bình đẳng cho các doanh nghiệp tham gia cạnh tranh và cạnh tranh có hiệu quả. Mặt khác chúng cũng có thể đem lại những trở ngại, khó khăn thậm chí là rủi ro cho các doanh nghiệp. Ta có thể lấy ví dụ như các chính sách về xuất nhập khẩu về thuế, các khoản nộp ngân sách, quảng cáo là những yếu tố tác động trực tiếp kìm hãm hay tạo điều kiện để nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp. Các nhân tố khoa học công nghệ kỹ thuật. Khoa học công nghệ tác động một cách mạnh mẽ đến sức cạnh tranh cuả doanh nghiệp thông qua chất lượng sảnphẩm và giá bán. Bất kỳ một sản phẩm nào được sản xuất ra đều phải gắn liền với một công nghệ kỹ thuật nhất định. Công nghệ sản xuất sẽ quyết định chất lựơng sản phẩm cũng như tác động tới chi phí cá biệt của từng doanh nghiệp từ đó tạo ra sức cạnh tranh của tưng doanh nghiệp cũng như của toàn doanh nghiệp. Khoa học công nghệ mới cũng sẽ giúp cho các doanh nghiệp xử lý thông tin một cách chính xác và có hiệu quả nhất là trong thời đại bùng nổ thông tin như hiện nay. Để có thể cạnh tranh trong thời đại hiện nay, bất kỳ một doanh nghiệp nào cũng cần phải có đầy đủ và chính xác thông tin về thị trường và đối thủ cạnh tranh và biết cách xử lý có hiệu quả và khoa học công nghệ hiện đại sẽ giúp cho các doanh nghiệp có thể thu thập, xử lý, lưu trữ và truyền đạt thông tin một cách nhanh nhất, đầy đủ và chính xác nhất. Khoa học công nghệ mới sẽ tạo hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại của nền kinh tế quốc dân nói chung cũng như của từng doanh nghiệp nói riêng, đây là tiền đề để các doanh nghiệp ổn định nâng cao sức cạnh tranh của mình. Các nhân tố về điều kiện tự nhiên, văn hoá xã hội. Điều kiện tự nhiên của từng vùng sẽ tạo ra những điều kiện thuận lợi hoặc khó khăn cho doanh nghiệp trong việc cạnh tranh. Vị trí địa lý thuận lợi ở những thành phố lớn, phát triển hay trên các trục đường giao thông quan trọng... cũng như nguồn tài nguyên phong phú đa dạng sẽ tạo cơ hội cho doanh nghiệp phát triển, giảm chi phí thu được nhiều lợi nhuận song mức độ cạnh tranh tại những vùng này cũng sẽ hết sức quyết liệt buộc các doanh nghiệp phải luôn nâng cao sức cạnh tranh của mình để tồn tại và phát triển. Phong tục tập quán, lối sống, thị hiếu, trình độ văn hoá tác động một cách gián tiếp tới sức cạnh tranh của công ty thông qua khách hàng và cơ cấu nhu cầu của thị trường. ở từng khu vực thị trường, ở từng vùng khác nhau, lối sống cũng như sở thích thị hiếu, phong tục tập quán của người dân khác nhau. Do vậy doanh nghiệp cần có những biện pháp nghiên cứu kỹ thị trường, có những chính sách phù hợp với từng vùng, lựa chọn các kênh tiêu thụ thích hợp để đáp ứng một cách tốt nhất nhu cầu của từng vùng, từng loại thị trường. 3.1.2. Môi trường ngành. Môi trường ngành- đó là môi trường mà doanh nghiệp tham gia và chấp nhận cạnh tranh. Dovậy sự tác động của môi trường ngành tới sức cạnh tranh của doanh nghiệp là một điều tất yếu. Tốc độ tăng trưởng của ngành sẽ quyết định mức độ cạnh tranh của ngành đó. Khi tốc độ phát triển của ngành chậm thì mức độ cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trên thị trưởng đó sẽ cao và găy gắt hơn do chỉ cần một biến động như: sự mở rộng thị trường của doanh nghiệp này sẽ ảnh hưởng tới phần thị trường của các doanh nghiệp khác. Các doanh nghiệp phải cạnh tranh quyết liệt do vậy mỗi doanh nghiệp phải luôn luôn tìm cách bảo vệ phần thị trưởng của mình. Thêm vào đó số lượng các doanh nghiệp cạnh tranh và các đối thủ tiềm ẩn cũng là một nhân tố tác động đến sức cạnh tranh của một doanh nghiệp. Khi xem xét nghiên cứu thị trường, doanh nghiệp phải đánh giá nghiên cứu kỹ lưỡng từng đối thủ của mình: Quy mô khả năng tài chính, trình độ công nghệ, đặc điểm sản phẩm... để từ đó định ra mức độ cạnh tranh trên thị trường và đánh giá sức cạnh tranh của đối thủ cũng như của doanh nghiệp mình. Trong một ngành, nếu như các doanh nghiệp tham gia cạnh tranh có quy mô và thế lực ngang nhau thì sự cạnh tranh trên thị trường sẽ trở nên gay gắt hơn và khi đó sức cạnh tranh của doanh nghiệp hoặc cao hơn hoặc thấp đi. Mức độ cạnh tranh sẽ càng quyết liệt hơn khi mà có sự tham gia của các doanh nghiệp mới với công nghệ hiện đại, chất lượng sản phẩm hơn hẳn, do vậy doanh nghiệp cần phải biết sử dụng một cách hữu hiệu nhất những gì mà mình có được (uy tín, sản phẩm, thị trường...) và đưa ra các giải pháp mới để nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp. Sản phẩm thay thế: cũng là một nhân tố đe doạ tới sức cạnh tranh của các doanh nghiệp. Sự ra đời của các sản phẩm thay thế là một tất yếu nhằm đáp ứng được sự thay đổi của thị trường theo hướng ngày càng đa dạng và phong phú hơn. Sản phẩm thay thế luôn luôn được sản xuất trên những dây chuyền công nghệ tiên tiến hơn và rõ ràng nó có nhiều ưu điểm hơn. Do vậy, chính nó sẽ làm giảm sức cạnh tranh của các sản phẩm bị thay thế. Các doanh nghiệp khi tham gia thị trường bao giờ cũng phải tính đến mối đe doạ của các sản phẩm thay thế. Ngoài ra, khách hàng và nhà cung cấp cũng là những người tác động tới sức cạnh tranh của doanh nghiệp vì chất lượng sản phẩm có thể nói là do họ quyết định một cách gián tiếp. 3.2. Các nhân tố chủ quan Đây là những nhân tố tác động mạnh mẽ đến sức cạnh tranh của doanh nghiệp vì đây chính là nội lực của doanh nghiệp. Nguồn nhân lực : Đây chính là những người tạo ra sản phẩm một cách trực tiếp và gián tiếp. Đội ngũ cán bộ quản lý doanh nghiệp sẽ là những người quyết định các hoạt động sản xuất kinh doanh: Sản xuất cái gì, sản xuất cho ai, sản xuất như thế nào, khối lượng bao nhiêu. Mỗi một quyết định của họ có một ý nghĩa hết sức quan trọng liên quan tới sự tồn tại phát triển hay diệt vong của doanh nghiệp. Chính họ là những người quyết định cạnh tranh như thế nào, sức cạnh tranh của công ty sẽ tới mức bao nhiêu bằng những cách nào... Cùng với máy móc thiết bị và công nghệ, công nhân là những ngươì trực tiếp sản xuất ra sản phẩm. Sản lượng cũng như chất lựơng sản phẩm là do họ quyết định. Trình độ tay nghề cao cùng với một lòng hăng say làm việc là cơ sở đảm bảo chất lượng sản phẩm và tăng năng suất lao động. Đây là tiền đề để doanh nghiệp có thể tham gia cạnh tranh và đứng vững trên thị trường. Cơ sở vật chất kỹ thuật của doanh nghiệp. Một hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại cùng với một công nghệ tiên tiến phù hợp với quy mô sản xuất của doanh nghiệp chắc chắn sẽ làm tăng sức cạnh tranh của công ty lên rất nhiều. Với một cơ sở vật chất như vậy chất lượng sản phẩm được nâng cao hơn cùng với nó giá thành sản phẩm hạ đi kéo theo sự giảm giá bán trên thị trường, khả năng chiến thắng trong cạnh tranh của doanh nghiệp sẽ là rất lớn. Ngược lại, không một doanh nghiệp nào lại có sức cạnh tranh cao khi mà công nghệ sản xuất lạc hậu máy móc thiết bị cũ kỹ vì chính nó sẽ làm giảm chất lượng sản phẩm tăng chi phí sản xuất. Khả năng tài chính của doanh nghiệp: Đây là yếu tố quan trọng quyết định khả năng sản xuất cũng như là chỉ tiêu hàng đầu để đánh giá quy mô của doanh nghiệp. Bất cứ một hoạt động đầu tư, mua sắm trang thiết bị, nguyên vật liệu hay phân phối, quảng cáo... đều phải được tính toán dựa trên thực trạng tài chính của doanh nghiệp. Một doanh nghiệp có tiềm lực tài chính mạnh sẽ có khả năng trang bị các dây chuyền công nghệ sản xuất hiện đại, đảm bảo chất lượng, hạ giá thành, giá bán sản phẩm, tổ chức các hoạt động quảng cáo khuyến mại mạnh mẽ nâng cao sức cạnh tranh. Ngoài ra, với một khả năng tài chính hùng mạnh, một doanh nghiệp cũng có khả năng chấp nhận lỗ một thời gian ngắn, hạ giá sản phẩm nhằm giữ và mở rộng thị phần của doanh nghiệp để sau đó lại tăng giá, thu được lợi nhuận nhiều hơn. Uy tín của doanh nghiệp cũng là một yếu tố rất quan trọng, đó là cơ sở để doanh nghiệp có thể dễ dàng giành thắng lợi trong cạnh tranh vì họ đã có một lượng khách hàng quen thuộc,tín nhiệm. Uy tín của một doanh nghiệp được hình thành sau một thời gian dài hoạt động trên thị trường và là một tài sản vô hình mà doanh nghiệp cần phải biết giữ gìn và phát huy tài sản đó. Đặc biệt đối với các doanh nghiệp kinh doanh Gas thì khách hàng mua hàng dựa vào uy tín và các môí quan hệ quen biết : các khách hàng trong lĩnh vực công nghiệp và thương mại luôn tìm kiếm nguồn hàng ổn định với giá thành hợp lý nhằm ổn định sản xuất và giảm giá thành hàng sản xuất ra . Để đạt được mục tiêu này , đối với khách hàng này thường tìm kiếm các công ty có uy tín, chuyên nghành và khả năng cung ứng dồi dào . Đặc điểm này là ưu thế cho những công ty kinh doanh LPG nào hoạt động lâu năm và có uy tín lớn trên thị trường để giẵ vững và mở rộng thêm thị trường tiêu thụ LPG trong khu vực này . II. Đầu tư - yếu tố quan trọng để nâng sức cạnh tranh của doanh nghiệp 1. Đầu tư là gì ? 1.1 Khái niệm Thuật ngữ đầu tư (investment) có thể được hiểu đồng nghĩa với "sự bỏ ra ", "sự hi sinh ". Từ đó, có thể coi "đầu tư " là sự bỏ ra, sự hi sinh những cái gì đó ở hiện tại (tiền, sức lao động, của cải vật chất, trí tuệ ) nhằm đạt được những kết quả có lợi cho người đầu tư trong tương lai . Tất cả những hành động bỏ tiền ra để tiến hành các hoạt động nhằm mục đích chung là thu được lợi ích nào đó (về tài chính, về cơ sỏ vật chất, về nâng cao trình độ, bổ sung kiến thức...) trong tương lai, lớn hơn những chi phí đã bỏ ra . Và vì vậy , nếu xem xét trên giác độ từng cá nhân hoặc từng đơn vị đã bỏ tiền ra thì các hành động này đều được gọi là đầu tư. Như vậy , đầu tư trên giác độ nền kinh tế là sự hi sinh giá trị hiện tại gắn với việc tạo ra các tài sản mới cho nền kinh tế . 1.2 Khái niệm và nội dung vốn đầu tư Vốn đầu tư là tiền tích luỹ của xã hội , của các cơ sở sản xuất , kinh doanh dịch vụ , là tiết kiệm của dân và vốn huy động từ các nguồn khác được đưa vào sử dụng trong quá trình tái sản xuất xã hội nhằm duy trì tiềm lực sẵn có và tạo tiềm lực mới cho nền sản xuất xã hội . Để tiến hành đầu tư cần có vốn đầu tư, nội dung vốn đầu tư gồm có: - Các chi phí tạo ra tài sản cố định - Các chi phí tạo ra tài sản lưu động - Các chi phí chuẩn bị đầu tư - Các chi phí dự phòng Vốn đầu tư được hình thành từ các nguồn chủ yếu : - Vốn tự có - Vốn ngân sách cấp , được viện trợ - Vốn vay từ các trung gian tài chính huy động từ trong dân 2. Vai trò của đầu tư đối với hoạt động sản xuất kinh doanh và nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp. Đầu tư quyết định sự ra đời, tồn tại và phát triển của mỗi cơ sở. Chẳng hạn để tạo dựng cơ sỏ vật chất - kĩ thuật cho sự ra đời của bất kì cơ sở nào đều cần phải xây dựng nhà xưởng, cấu trúc hạ tầng, mua sắm và lắp đặt thiết bị máy móc trên nền bệ, tiến hành các công tác xây dựng cơ bản và thực hiện các chi phí gắn liền với sự hoạt động trong một chu kì của các cơ sở vật chất - kĩ thuật vừa tạo ra. Các hoạt động này chính là hoạt động đầu tư đối với các cơ sở sản xuất ,kinh doanh dịch vụ đang tồn tại, sau một thời gian hoạt động ,các cơ sở vật chất kỹ thuật của các cơ sở này hao mòn, hư hỏng. Để duy trì được sự hoạt động bình thường cần tiến hành sửa chữa lớn hoặc thay mới các cơ sở vật chất kỹ thuật đã hư hỏng, hao mòn này hoặc đổi mới để thích ứng với điều kiện hoạt động mới của sự phát triển khoa học kỹ thuật và nhu cầu tiêu dùng của nền sản xuất xã hội ,phải mua sắm để thay thế các trang thiết bị cũ đã lỗi thời, cũng có nghĩa là đầu tư. Đối với các cơ sở vô vị lợi (hoạt động không để thu lợi nhuận cho bản thân mình) đang tồn tại, để duy trì sư hoạt động, ngoài tiến hành sửa chữa lớn định kỳ các cơ sở vật chất kỹ thuật còn phải thực hiện các chi phí thường xuyên. Tất cả nhưng hoạt động và chi phí này đều là những hoạt động đầu tư. Một yếu tố quyết định để doanh nghiệp tồn tại là đầu tư. Nhưng chỉ để tồn tại không thôi thì chưa đủ, doanh nghiệp đó cần phải phát triển không ngừng, mở rộng và chiếm lĩnh thị trường, không ngừng nâng cao sức cạnh tranh của mình trước đối thủ thì lúc này đầu tư mới thực sự quan trọng và tiên quyết. Trước sự phát triển hùng mạnh của đối thủ về công nghệ máy móc, nguồn nhân lực và cụ thể hơn nữa là ưu thế hơn về giá bán, chất lượng sản phẩm, dịch vụ khách hàng ... thì lúc đó công việc quan trọng và tất yếu phải làm đối với doanh nghiệp là đầu tư ; đầu tư có thể là đầu tư vào tài sản cố định, cơ sở vật chất kĩ thuật , đào tạo đội ngũ lao động ...Từ những hoạt động đầu tư này doanh nghiệp mới có cơ hội để lấy lại vị trí của mình, khẳng định và mở rộng thị phần, chiếm lĩnh thị trường. Vậy đầu tư có vai trò rất lớn đối với việc nâng coa sức cạnh tranh của doanh nghiệp. Và tất nhiên không một doanh nghiệp nào lại không muốn nâng cao sức cạnh tranh của mình chỉ có điều họ có biết cách tính toán và đưa ra các giải pháp đầu tư phù hợp hay không mà thôi. 3. Các hình thức đầu tư của doanh nghiệp 3.1. Đầu tư cho đào tạo con người Theo Gonran một nhà tư tưởng Mỹ thì Mỹ là một đất nước mà ở đó "không phải bắt ai làm việc tốt bao giờ, mỗi người làm việc là vì mình ngay cả khi có trội hơn người bên cạnh ". Việc đào tạo chuyên môn và tái đào tạo ở mọi lĩnh vực đóng vai trò tối quan trọng trong việc nâng cao chất lượng và năng suất lao động .Trong khi cố giành vị trí xứng đáng trong trên thị trường thế giới ,các công ty Mỹ đã chi phí khá nhiều để đào tạo tay nghề và tái đào tạo cho cán bộ công nhân viên. Nửa cuối thập niên 80 chi phí này vào khoảng 50 tỷ$ (theo một số đánh giá khác thì phải là 170 tỷ$), lớn hơn nhiều so với chi phí của liên bang trong lĩnh vực này. Theo các doanh nhân và các chuyên gia thì việc thường xuyên nâng cao tay nghề cho công nhân, để họ có thể ứng dụng phù hợp các đIều kiện sản xuất đang thay đổi là một yếu tố không thể tách rời của quá trình đổi mới bộ máy sản xuất ở các xí nghiệp, các hãng nói riêng và ở cả ngành kinh tế nói chung . Một ví dụ điển hình là ở tập đoàn lớn Motorola, so với giữa những năm 80, chi phí đào tạo của tập đoàn này vào cuối thập kỷ đã tăng tới 20tr $, 1,5%quỹ lương dành để củng cố tay nghề cho công nhân. Mục tiêu đào tạo chính là để cho công nhân thích ứng được các điều kiện tự động hoá và phương thức kiểm soát mới trong sản xuất (năm 1991 ở mỗi quy trình sản xuất tỉ lệ phế phẩm cho phép là 3,4 chi tiết trên 1 triệu chi tiết ). Hàng năm gần 1/3 trong só 90 nghìn công nhân của Motorola phải dự khoá đào tạo với thời hạn chung là 2,3 triệu giờ với tổng chi phí là 39 triệu đô. Các chuyên gia kinh tế của hãng khẳng định hãng sẽ được hoàn lại khoảng 30 lần khối lượng đầu tư , nhờ có tay nghề của công nhân đã nâng cao chất lượng thực sự. Vấn đề cạnh tranh sản phẩm của doanh nghiệp có thể được khắc phục khi chi phí cho lao động sản phẩm hay giá thành của sản phẩm hàng hoá hạ thấp . Đứng trước vấn đề này doanh nghiệp phải lựa chọn bộ máy tinh xảo , có nhiều hiẻu biết , có trách nhiệm gọn nhe , cần giảm mức tối hiểu những nhân viên hành chính " vô thưởng vô phạt ". Dứt khoát về nhận thức , doanh nghiệp không phảI là nơi giải quyết các chính sách xã hội nữa, lĩnh vực đó do chính sách khác đảm nhiệm . Chúng ta phảI dứt khoát loại trừ các chi phí phô trương hình thức , tập chung vào các chi phí đào tạo con người ,chi phí tuyên truyền quảng cáo để làm rõ chất lượng và uy tín của sản phẩm do doanh nghiệp sản xuất . 3.2. Đầu tư vào tài sản cố định, công nghệ và trang thiết bị. Doanh nghiệp để khẳng định vị trí trên thị trường ,để đạt được hiệu quả sản xuất kinh doanh , giảm tối thiểu chi phí cho sản lượng cao đồng thời để thị trường chấp nhận ,đời hỏi thị trường phảI có chất lượng cao ,phải đạt được những tiêu chuẩn nhất định .Hiện tại nhiều ý kiến cho rằng các doanh nghiệp phải đổi mới trang thiết bị và cơ sở vật chất vì thiết bị máy móc của nhiều doanh nghiệp đã quá cũ kĩ .Chắc chắn việc mua sắm thiết bị mới , xây dựng nhà xưởng mới cho phù hợp với “yêu cầu mong muốn”doanh nghiệp sẽ có giá trị tài sản tăng và với thiết bị mới hiện đại đó sẽ cho sản phẩm mới tốt đẹp hơn .Điều đáng bàn ở đây là việc chuyển giá trị hao mòn của tàI sản cố định vào giá thành sản phẩm sẽ tăng lên , giá thành cao dẫn đến giá bán cao .Vậy để vẫn khẳng định vị trí trên thị trường có giá thành hợp lí dẫn đến thị trượng chấp nhận được thì cần phải tính toán tỉ mỉ ,cụ thể và toàn diện .Khi mua sắm các doanh nghiệp có thể thiết kế hoặc mua thiết bị có công suất bằng hoặc nhỏ hơn khả năng sản xuất và tiêu thụ, chi phí khấu hao sẽ hợp lí cho đơn vị sản phẩm sau đó mới tăng dần lên(kể cả thiết bị toàn bộ và thiết bị lẻ ). Trong khi mua sắm gia công thiết bị không cho phép quá dễ tính bỏ qua các yếu tố giá cả và tuổi thọ của thiết bị ,phải thăm dò giá cả hợp lí phổ biến ở nhiều địa điểm khác nhau để so sánh , với tinh thần trách nhiệm cao nhất tuyệt đối không được nhầm lẫn về chất lượng và chủng loại thiết bị mà mình mọng muốn. Trong những năm gần đây do thực hiện chính sách đổi mới nền kinh tế nước ta đã có sự thay da đổi thịt ,phát triển cả về công -nông nghiệp và dịch vụ .Cùng với sự phát triển đó các doang nghiệp ra đời gồm nhiều hình thức khác nhau , cũng đẫ nỗ nực tham gia vào công cuộc công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước ,tuy nhiên ngay ở một số lĩnh vực là thế mạnh của công nghiệp nước ta như sản xuất hàng tiêu dùng ,gia công hàng suất khẩu ,hàng công nghiệp chế biến từ các nguyên liệu trong nước ở nghành nông -lâm nghiệp ,thủy hải sản hay hàng thủ công mĩ nghệ ,mây tre đan sành gốm sứ ... Hiện nay vẫn khá thiếu máy móc thiết bị. Nhìn chung ,về mặt công nghệ thì nghành nào cũng lạc hậu so với thế giới 1 thế hệ ,rất nhiều thiết bị sử dụng trong nghành được nhập trước nghành giải phóng, nhiều máy móc hết khấu hao từ lâu .Chính sự thiếu thốn trình độ thiết bị khoa học kĩ thuật như vậy ,tuy đã bù đắp bằng lực lượng công nhân đông đảo ,nhưng vẫn gây hạn chế cho sự phát triển và hiệu quả của các doang nghiệp nói riêng và nền kinh tế Việt Nam nói riêng .Theo đánh giá của bộ công nghệ -môI trường thì các thiết bị của Việt Nam lạc hậu so với thế gới khoảng 30-50 năm vì vậy , mức tiêu hao nguyên liệu gấp từ 2-3 lần so với máy móc hiện tại. Có nhiều lí do để giảI thích tình trạng lạc hậu. Như chúng ta đã biết 1 số doanh nghiệp sau chiến tranh đã bị quốc hữu hoá. Mặt khác với số vốn ít ỏi của nhà nước, các xí nghiệp này không mua sắm được các thiết bị mới một lí do khác nữa là các xí nghiệp chủ yếu nhập máy móc từ các nước Đông âu và Liên Xô. Những máy móc này chủ yếu là những máy móc đã bị lỗi thời ở các nước đó, nhưng lại được nước ta tiếp nhận. Do đó cũng không tránh khỏi sự tụt hậu so với quốc tế ,làm cho hiệu quả không cao. Do đó để có thể đứng vững trong cơ chế thị trường và thu được hiệu quả ngày càng cao, các doanh nghiệp không còn con đường nào khác ngoài coi đầu tư chiều sâu là chiến lược lâu dài là quan trọng, dù có khó khăn cũng phải lấy ngắn nuôi dài. Nội dung của nó bao gồm đổi mới trang thiết bị dây truyền công nghệ, con người . Chúng ta đã có quá nhiều bài học điển hình khi thực hiện đổi mới trang thiết bị dây chuyền công nghệ mà không có tính toán, gây lãng phí nhiều cho nên việc đổi mới thiết bị hiện đại là cần thiết, nhưng phảI tính toán đến hai yếu tố là số lượng và giá trị đầu tư đổi mới thiết bị. Chắc chắn việc mua sắm thiết bị mới, xây dựng nhà xưởng mới cho phù hợp với yêu cầu mong muốn doanh nghiệp sẽ có giá trị tài sản tăng, giá thành cao dẫn đến giá bán cao. Hiện nay bộc lộ hiện tượng đó như nhà máy gạch Thạch bàn đầu tư thiết bị của Italia hiện đạI thì giá bán buộc phải cao hơn gạch Đồng Tâm Sài Gòn (180.000đ/m2/102.000đ/m2) hoặc xem lạI dịch vụ khách sạn cũng cho thấy rằng việc đầu tư hiện đại giá dịch vụ cũng tăng lên. Vậy các doanh nghiệp nước ta nên đầu tư như thế nào. Một điểm mang tính cấm là các doanh nghiệp không nên ồ ạt tìm mọi cách để đổi bằng được các thiết bị mới và hiện đại bằng mọi giá, ngược lại phảI xem xét để biến cảI hoặc thay đổi theo các yêu cầu sau : Tuyệt dối không được thiết kế hay đặt mua các hệ thống thiết bị có công suất lớn hơn khả năng sản xuất và tiêu thụ mà nên đặt công suất thiết bị bằng hoặc nhỏ hơn khả năng sản xuất và tiêu thụ chi phí khấu hao sẽ hợp lý cho sản phẩm sau đó tăng dần ; Không nhất thiết phảI cách mạng toàn bộ dây chuyền thiết bị một cách máy móc , dập khuôn mà phải xem xét các bộ phận nào vẫn còn duy trì được đỡ gây tốn kém vốn đầu tư , tuy nhiên phải tiến hành đổi mới đồng bộ những khâu cần thiết chẳng hạn như giữa khâu sản xuất sợi và khâu dệt , hiện nay hai khâu này ở nước ta còn nhiều khập khiễng khâu dệt thiết bị máy móc quá lạc hậu còn khâu may được đầu tư máy móc hiện đại dẫn đến sản xuất không được trôi chảy. Bên cạnh những quan điểm trên , kinh nghiệm của một số doanh nghiệp như công ty dệt may Texgamex (Thành phố Hồ Chí Minh) là phải có phương châm phải tìm được đầu ra trước khi đầu tư công nghệ , biện pháp này phát huy tối đa hiệu quả của công nghệ nhập. Cần tập trung đổi mới , đầu tu trang thiết bị của nhiều ngành sản phẩm mà thị trường trong nước và thế giới ( trước hết là ASEAN ) có nhu cầu và phải đẩm bảo cạnh tranh , phải cố gắng áp dụng cơ cấu công nghệ thích hợp . Mặt khác với nguồn vốn hiện có , cần tranh thủ tối đa việc tự nhập công nghệ hiện đại thông qua tự mua (nếu có khả năng và trình độ phù hợp ) hay viện trợ . Tuy nhiên một sự lựa chọn công nghệ phải xuất phát từ hiệu quả kinh tế, đi kèm với nhập công nghệ , các doanh nghiệp phảinâng cao trình độ khoa học kĩ thuật của mình để kịp thời ứng dụng , sáng tạo phù hợp với điều kiện nước nhà . Phải đẩm bảo tính đồng bộ trong dây chuyền công nghệ, nếu không sẻ gây lãng phí vốn , lãng phí nguyên nhiên vật liệu , và về lâu dài sẽ khó khắc phục . Để đảm bảo tính hiệu quả của công nghệ , trình độ quản lý phải được liên tục tái đào tạo và cập nhật nếu không công nghệ vô tri vô giác tự nó không thể giúp được chúng ta . Trước đây chúng ta quá phụ thuộc vào các chuyên gia nước ngoài cũng do chúng ta còn chưa có điều kiện về kinh tế và con nguời để điều hành , nay với sự phát triển của khoa học giáo dục , mạng lưới đào tạo rộng khắp , học tập để tiếp thu và phát huy khả năng sáng tạo của mình là tiết kiệm nhất. Bên cạnh đó chúng ta phải phát huy tính năng động và linh hoạt, học một biết mười để cải tiến và sáng tạo cho phù hợp với con người , điều kiện tự nhiên , tài nguyên , khí hậu Việt Nam Tóm lại , chiến lược đổi mới công nghệ là công việc về lâu dài , chúng ta không nên quá choáng ngợp trước sự phát triển của thị trường thế giới khi mở cửa mà thiếu thận trọng . Những năm qua nhiều doanh nghiệp đã phát triển nhờ đổi mới công nghệ , nhưng cũng có doanh nghiệp do quá vội vàng và bất cẩn đã gây lãng phí nhiều . Vấn đề ở đây là quan điểm và con người , chúng ta từng bước xác định quan điểm đúng đắn của mình và thực hiện quan điểm đó tất yếu sẽ thành công . 3.3 Đầu tư theo chiều rộng, đa dạng hoá và chuyên môn hoá sản xuất. Việc mở rộng quy mô sản xuất đầu tư theo chiều rộng hiện nay cũng được các doanh nghiệp áp dụng phổ biến .Tuy nhiên việc đầu tư này không chỉ thuần tuý là không chỉ theo đúng mặt hàng như cũ nữa mà đã có sự cải tiến về chất lượng, kiểu dáng mẫu mã để thích ứng với nhu cầu của thị trường . Hình thức này sẽ đầu tư theo hướng tập trung một số sản phẩm trên thị trường hiện tại ,công nghệ hiện tại trên cơ sở tìm các tính năng mới của sản phẩm ,thế hệ mới của sản phẩm . Lí do dẫn đến khuynh hướng đầu tư này là do sự pháy triển nhanh chóng của khoa học công nghệ đã tạo ra kĩ thuật sản xuất mới ,công nghệ mới đẫn đến xuất hiện sản phẩm tính năng cao hơn công nghệ hiện có và chu kì của sống của sản phẩm bị rút ngắn lại là điều hợp lí. Vậy để giảm rủi ro cần tạo ra về tính năng của sản phẩm mới cao hơn sản phẩm hiện có sao cho tạo ra thị trường mới ngay trên thị trường hiện tại, tao ra tính năng hoặc sản phẩm mới ngay trên ngành hiện tại, công nghệ sản xuất hiện tại và kết quà là tăng thành phần doanh thu, tăng lợi nhuận phát triển sản xuất kinh doanh của doanh nhân. Với hình thức đầu tư này thời gian thực hiện nhanh chóng, chi phí không cao bằng phát triển loại mặt hàng mới mà lại thu hút được sự quan tâm nhiệt tình của khách hàng nên được các nước phuơng tây, doanh nghiệp Nhật, và Việt Nam áp dụng. Và kết quả đạt dược thật đáng kinh ngạc thế hệ máy tính đời 386, 486, pentium chứng minh điều trên. Để thực hiện được hệ thống các mục tiêu kinh tế xã hội của mình , mỗi doanh nghiệp phải xác định được cơ cấu sản phẩm có hiệu quả . Tính hiệu quả của cơ cấu sản phẩm chỉ thích ứng với những điều kiện nhất định . Khi điều kiện kinh doanh thay đổi , cơ cấu sản phẩm của doanh nghiệp cũng phải thay đổi thích ứng . Cơ cấu sản phẩm của doanh nghiệp do vậy luôn là một “cơ cấu động ". Để thích ứng với sự biến động của môi trường kinh doanh , mỗi doanh nghiệp phải năng động hoàn thiện cơ cấu sản phẩm của mình . Sự hoàn thiện ấy có thể diễn ra theo một tron._. lưới đại lý bán hàng có hiệu quả, Công ty có thể giao cho các chi nhánh quản lý các tổng đại lý, đại lý trên địa bàn hoạt động của mình. Điều này không những giúp cho việc quản lý các đạ lý chặt chẽ hơn mà còn tránh được những mâu thuẫn có thể xảy ra trong việc tranh giành khách hàng giữa chi nhánh và đại lý. 3. Đầu tư mở rộng thị trường và tăng cường các hoạt động Marketing Tổ chức tốt các hoạt động Marketing có nghĩa làm tăng doanh thu, lợi nhuận, thu hút được sự chú ý của khách hàng. Để hoạt động bán hàng có hiệu quả, không chỉ đơn thuần là việc xây dựng một mạng lưới phân phối rộng khắp trên cả nước, đó mới là chỉ là cơ sở để tiêu thụ hàng hoá, nó còn bao gồm cả các chính sách về sản phẩm, giá cả, tổ chức kênh phân phối và các hoạt động quảng cáo, khuyếch trương...Để có sức cạnh tranh trên thị trường Công ty cần phải tổ chức thực hiện tốt các chính sách marketing này. 3.1. Đầu tư vào công tác thăm dò tìm hiểu về các yêu cầu của thị trường và khách hàng. Nghiên cứu thị trường là một yêu cầu bắt buộc đối với bất kỳ một doanh nghiệp nào tham gia thị trường cạnh tranh, vì nghiên cứu thị trường là nghiên cứu khả năng thâm nhập và mở rộng thị trường của các doanh nghiệp từ đó tìm cách nâng cao khả năng thích ứng với thị trường của doanh nghiệp mình. Do vậy, để phát triển thị trường, tăng sức cạnh tranh, công ty cần phải nắm bắt được những đặc điểm, nhu cầu của thị trường đó, các hoạt động nghiên cứu, khảo sát và phân đoạn thị trường phải được tiến hành thường xuyên, trên cơ sở đó để xây dựng được một hệ thống tiêu thụ phù hợp, xác định được thị trường thích hợp cho từng loại sản phẩm của công ty. Đi đôi với công tác nghiên cứu thị trường là những giải pháp để nghiên cứu, xâm nhập vào thị trường mới. Là một thành viên của Petrolimex, việc xâm nhập vào thị trường mới là một điều không quá khó đối với Công ty và mạng lưới các công ty, chi nhánh của Petrolimex có ở khắp nơi trong cả nước. Hơn nữa, thị trường LPG lại là một thị trường cạnh tranh tự do, không có sự độc quyền. Ngoài ra, mở rộng thị trường ra các nước lân cận là một giải pháp để tăng sức cạnh tranh của công ty và cũng là một hướng phát triển của Công ty. Bên cạnh nghiên cứu đối thủ cạnh tranh, các hoạt động nghiên cứu và phân tích những yêu cầu, đòi hỏi của khách hàng cũng cần được tăng cường hay nói chính xác hơn là phân tích khách hàng là một mảng quan trọng trong hoạt động nghiên cứu thị trường, nhất là đối với Công ty, khách hàng chủ yếu là những khách hàng công nghiệp lớn. Qua việc nghiên cứu khách hàng, công ty có thể nắm bắt được thông tin như: yêu cầu của khách hàng như thế nào, khách hàng sẽ quyết định mua ra sao...Từ đó sẽ giúp cho công ty có được quyết định đầu tư cho loại sản phẩm nào. Đối với các khách hàng công nghiệp, nhu cầu của họ thường là rất lớn, yêu cầu chất lượng phải cao. Do vậy, khi tiếp xúc với những khách hàng này, điều quan trọng là phải giới thiệu về đặc điểm, tính năng, cũng như chất lượng của các loại sản phẩm mà công ty đang kinh doanh, đồng thời cần nhấn mạnh tại sao sản phẩm của công ty sẽ đáp ứng được những đòi hỏi của khách hàng. Trong trường hợp này, giá bán sản phẩm cao hay thấp không phải là một điều quan trọng, song nêu công ty có những hình thức chiết khấu giảm giá, hay trả tiền từng đợt... đi kèm với các dịch vụ kỹ thuật miễn phí sẽ thu hút được sự chú ý, gây thiện cảm của khách hàng hơn. Đối với các hộ tiêu dùng lẻ, đây là những người có nhu cầu nhỏ, lẻ, song lại có số lượng khá lớn. Họ thường sử dụng các loại sản phẩm quen thuộc hoặc các loại sản phẩm gây được ấn tượng mạnh với một mức giá phải chăng, không được cao qúa cũng không được thấp quá. Đối với những khách hàng này, công ty nên tổ chức các hoạt động quảng cáo hấp dẫn. Hiện nay, sự hiểu biết về LPG của người tiêu dùng còn ít, việc ra quyết định của họ chịu ảnh hưởng của các đợt quảng cáo, khuyến mại hay mức giá mà các hãng đặt ra, do vậy, Công ty cần tiến hành các đợt quảng cáo, giới thiệu sản phẩm của mình cùng với các hoạt động giới thiệu về đặc điểm sản phẩm cho khách hàng biết để thu hút khách hàng về phía mình. Mặt khác, để xác định được sức cạnh tranh của mình trên thị trường, công ty cần phải nghiên cứu, phân tích đối thủ cạnh tranh một cách rõ ràng và có hệ thống. Có nghiên cứu đối thủ cạnh tranh, công ty mới có thể đưa ra các giải pháp thích hợp để giành chiến thắng trong cạnh tranh. Để tìm hiểu đối thủ cạnh tranh, công ty cần phải trả lời được những câu hỏi: + Đối thủ cạnh tranh chính của công ty là ai? + Mục tiêu của đối thủ cạnh tranh là gì? + Điểm mạnh, điểm yếu, khả năng tài chính của họ là như thế nào? + Các biện pháp mà họ áp dụng để xâm nhập và mở rộng thị trường?... Hiện nay, kinh doanh LPG là một ngành kinh doanh đem lại lợi nhuận cao, do vậy, nó gây sức hút rất mạnh với các doanh nghiệp trong ngành. Công ty cần có biện pháp để hạn chế sự mở rộng của các doanh nghiệp mới vào thị trường này. Công ty cần phải xác định rõ các mục tiêu của đối thủ cạnh tranh, mục tiêu nào là mục tiêu chính, và các chiến lược tổng thể, các chính sách về cạnh tranh, marketing... mà các hãng đang áp dụng, nó sẽ ảnh hưởng như thế nào tới phần thị trường của doanh nghiệp mình (như: mục tiêu của Sài Gòn và V.Gas là nắm giữ và tiếp tục mở rộng thị trường, với Shell Gas là xâm nhập vào thị trường...) Cùng với việc xác định mục tiêu của đối thủ, một điều mà công ty không thể bỏ qua là tìm hiểu những điểm mạnh, điểm yếu của đối phương, qua đó có thể đắnh giá được khả năng của mình trong cuộc chạy đua này. Bất cứ một doanh nghiệp nào, dù lớn đến đâu cũng không tránh khỏi có những nhược điểm mà đối thủ có thể lợi dụng tấn công. Trên thực tế, Công ty không thể so được với các đối thủ cạnh tranh nước ngoài về tiềm lực kinh tế, song các công ty nước ngoài cũng không phải là mạnh tuyệt đối. Công ty, tuy yếu thế về tài chính, song lại hơn hẳn đối thủ sự hiểu biết về thị trường LPG Việt Nam, cùng với mạng lưới phân phối rộng khắp, và các hoạt động dịch vụ kỹ thuật trước và sau bán hàng, đó cũng chính là một điểm yếu của của các công ty có vốn đầu tư của nước ngoài. Hiểu rõ điều đó giúp công ty biết những điểm mạnh của mình để phát huy trong cuộc chiến giành thị trường ngày một quyết liệt như hiện nay. Thông qua việc nghiên cứu các đối thủ cạnh tranh, Công ty gas Petrolimex có thể nghiên cứu các sản phẩm của họ, phân tích những ưu nhược điểm để từ đó đưa ra được các loại sản phẩm mới hoàn thiện hơn. Đó là cơ sở để xây dựng một chính sách sản phẩm đa dạng, hợp lí. 3.2. Đầu tư để thực hiện đa dạng hoá sản phẩm. "Một doanh nghiệp có thể tăng doanh số bán, mở rộng thị trường hay không tuỳ thuộc rất lớn khả năng xâm nhập thị trường, mở rộng chủng loại sản phẩm của doanh nghiệp". Đây là mục tiêu thế lực của một chính sách sản phẩm cũng là một yếu tố đẩ tăng sức cạnh tranh của công ty. Đa dạng hoá sản phẩm là một biện pháp mà bất kỳ một doanh nghiệp nào cũng phải nghĩ tới khi tìm cách tăng sức cạnh tranh của mình. Vì vậy, công ty có thể dựa vào sự nghiên cứu thị trường, khách hàng, đối thủ cạnh tranh để đưa ra một chủng loại sản phẩm hợp. Do vậy, việc nghiên cứu sản phẩm mới cũng như thực hiện đa dạng hoá sản phẩm là một điều cần thiết để công ty có thể mở rộng thị trường. Để có thể cạnh tranh trên thị trường, Công ty có thể thực hiện đa dạng hoá sản phẩm theo các hướng sau: - Tăng cường hoạt động đầu tư hỗ trợ khách hàng, đặc biệt là các khách hàng công nghiệp lớn, truyền thống nhằm giữ chân khách hàng. Đây là một điểm mạnh của công ty cần tiếp tục phát huy. - Với những loại sản phẩm mà lượng tiêu thụ sản phẩm ít, công ty vẫn tiếp tục duy trì sản xuất để phục vụ nhu cầu thị trường, giữ khách hàng, song cần xem xét quy mô, cơ cấu của nó một cách hợp lý. - Đầu tư nghiên cứu, chuẩn bị các phương án sản phẩm mới với tốc độ phát triển như vũ bão của khoa học kỹ thuật, tiến bộ của thiết bị máy móc hiện đại, đáp ứng một cách tốt nhất các yêu cầu của các phân đoạn thị trường. - Việc đa dạng hóa sản phẩm còn được thực hiện theo hướng tạo ra các những hình thức, kích cỡ khác nhau. - Kết hợp với đa dạng hoá là chuyên môn hoá. Khi thực hiên đa dạng hoá sản phẩm, cần xác định cho mình một cơ cấu sản phẩm tối ưu nhất : trong phưong án sản xuất phải lựa chọn những sản phẩm riêng của mình, tạo thế độc quyền. - Thực hiện đa dạng hoá sản phẩm là một trong những biện pháp hữu hiệu để mở rộng thị trường, tăng sức cạnh tranh của công ty trước các đối thủ cạnh tranh. Song để có thể đa dạng hoá một cách có hiệu quả thì công ty cần phải tăng cường các phương tiện kỹ thuật, các hoạt động thu thập, xử lý thông tin thị trường, mở rộng quan hệ hợp tác với các đối tác trong kinh doanh. 3.3. Sử dụng chính sách giá làm vũ khí cạnh tranh. Giá cả là vẫn một công cụ cạnh tranh khá hữu hiệu đặc biệt là trong nền kinh tế nước ta hiện nay.. Vai trò cạnh tranh của giá cả được thể hiện qua chính sách định giá của công ty. Với mục tiêu là mở rộng thị trường, giành được ưu thế trong cạnh tranh, Công ty cần áp dụng một chiến lược định giá phù hợp, có sức cạnh tranh để có thể cạnh tranh được với các đối thủ mạnh trong điều kiện mức độ cạnh tranh ngày càng gay gắt, trên thị trường tràn ngập bởi những loại nhãn hiệu nổi tiếng và phải phù hợp với từng loại thị trường. Hiện nay, giá bán sản phẩm là một điểm mạnh của Công ty trong cạnh tranh: hầu hết các loại sản phẩm mà công ty kinh doanh đều có mức giá bán ngang hoặc thấp hơn thị trường, song định giá cho một sản phẩm là một việc mang tính tổng hợp, do vậy Công ty cần phải xác định rõ mức ấn định giá bán cho một sản phẩm của mình nằm trong vùng giới hạn nào thu hút được những loại khách hàng nào, ở đoạn thị trường nào, có đủ sức cạnh tranh không? ở thành phố lớn: đây là những nơi có tốc độ phát triển mạnh, những yêu cầu đòi hỏi về chất lượng,độ an toàn cao, dịch vụ khách hàng tốt mức cạnh tranh ở những nơi này cũng hết sức gay gắt, do vậy, có thể áp dụng mức giá thị trường hoặc thấp hơn một ít so với mức giá thị trường với những loại sản phẩm có chất lượng cao đi kèm với những dịch vụ kỹ thuật miễn phí để thu hút khách hàng, song không được thấp quá so với giá thị trường, tránh tư tưởng sản phẩm có giá rẻ là sản phẩm không tốt. Đặc biệt là với những khách hàng công nghiệp, trong khi cân nhắc mua hàng, giá cả không phải là yếu tố quan trọng khi so với chất lượng sản phẩm và dịch vụ cung cấp. đối với các khách hàng này, công ty cũng không cần thiết đưa ra mức giá thấp. Tuy nhiên, ở những vùng nông thôn, công ty có thể định một mức giá thấp hơn hẳn thị trường với những loại sản phẩm có chất lượng bình thường, tính năng sử dụng không cao để thu hút khách hàng, vì ở những vùng này, thường là mức thu nhập thấp và yêu cầu kỹ thuật của họ không cao, đặc biệt là ở vùng đồng bằng sông Cửu Long, nhu cầu về các loại sản phẩm LPG chất lượng bình thường là rất lớn. Việc cung cấp một loại hàng có mức giá thấp ở đây hiện nay chủ yếu nằm trong tay các công ty trách nhiệm hữu hạn và các công ty xuất nhập khẩu của tỉnh. Với ưu thế về kỹ thuật của mình, Công ty cần áp dụng chính sách định giá thấp để mở rộng thị trường tại đây. Song có một điều cần chú ý khi bán giá giá thấp là công ty cần phải chú ý xem xét các phản ứng của đôí thủ cạnh tranh, tránh những phản ứng bất lợi cho mình. Công ty cũng có thể áp dụng một số hình thức thanh toán theo từng thời kỳ như triết khấu giảm giá, thanh toán chậm...để khuyến khích khách hàng mua với khối lượng lớn. Với các khách hàng lớn, có quan hệ hợp tác lâu dài, công ty cũng có thể định ra một chính sách giá riêng để tạo quan hệ tốt với họ, song cần phải có một chính sách hợp lý đảm bảo vẫn có lãi, tránh tình trạng dây dưa, công nợ khó đòi. Để tránh được tình trạng này, công ty cần phải tìm hiểu kỹ về khách hàng, nhất là các khách hàng lớn, trong đó phải chú trọng tới khả năng tài chính caủa họ. Để xây dựng một chính sách giá cả hợp lý, công ty cần phải tính tới các biện pháp để giảm tối đa chi phí để từ đó có thể hạ giá thành, đảm bảo lợi nhuận để tăng hiệu quả kinh doanh cũng như làm tăng sức cạnh tranh về giá của công ty. Giá thành sản phẩm bao gồm có giá nhập gốc, bảo hiểm, thuế, các loại chi phí trong sản xuất. Hiện nay, trong cấu thành giá của sản phẩm này chi phí vận chuyển chiếm một tỷ lệ khá lớn (khoảng 30% tổng chi phí). Do vậy, cần phải lên kế hoạch một cách hợp lý để sao cho chi phí vận chuyển là nhỏ nhất với khối lượng lớn nhất để đảm bảo cung ứng đủ cho thị trường. Đầu tư trạm chiết nạp là một trong những giải pháp mà công ty thực hiện để giảm chi phí vận chuyển và giá thành, giá bán sản phẩm. 3.4. Quản lý chặt chẽ mạng lưới phân phối bán hàng. Để có thể mở rộng thị trường của mình, bất kỳ một doanh nghiệp nào khi tham gia cạnh tranh đều phải có kế hoạch xây dựng một mạng lưới bán hàng càng rộng, lớn càng tốt vì đó chính là cơ sở tốt nhất để bảo vệ thị trường và xâm nhập thị trường mới, chống lại sự tranh giành thị trường từ các đối thủ cạnh tranh của mình. Với một hệ thống phân phối bao gồm đủ cả ba loại kênh, Công ty đã có mạng lưới các đại lý và Tổng đại lý rộng khắp trên cả nước. Đây là một điều kiện thuận lợi của công ty so với đối thủ cạnh tranh khác khi mà mức độ cạnh tranh ngày càng trở nên gay gắt hơn. Để tăng sức cạnh tranh của mình, cần phải xây dựng một hệ thống phân phối chắc chắn và có hiệu quả hơn các đối thủ cạnh tranh, phối hợp chặt chẽ với các chi nhánh, xí nghiệp, các công ty xăng dầu khu vực, tổ chức quản lý một cách có hiệu quả các Tổng đại lý và đại lý của mình. Đối với các tổng đại lý : đây thường là các công ty và chi nhánh xăng dầu thành viên của Petrolimex.Việc kinh doanh LPG không phải là chức năng chính của các công ty, chi nhánh này do vậy mà việc kinh doanh này không được chú ý nhiều và mang tính tự phát. Với các đại lý: đây chính là những cửa hàng trực tiếp bán các sản phẩm của Công ty. Hiện nay, số lượng đại lý trực tiếp của công ty chưa phải là nhiều song sự gắn bó giữa các công ty và các đại lý này còn thiếu sự chặt chẽ, khăng khít. Để quản lý mạng lưới đaị lý của mình một cách có hiệu qủa, công ty cần tổ chức sắp xếp lại mạng lưới đại lý. Đối với các đại lý mà lượng tiêu thụ ít thì có thể gom lại thành một đầu mối chính để tăng khả năng kiểm soát của mình. Một kênh phân phối nữa mà công ty cũng cần chú ý tơí là một mạng lưới bán lẻ. Chính họ là những người tiếp xúc trực tiếp với khách hàng, do vậy họ là những người thích hợp nhất để giớí thiệu, quảng cáo cho người tiêu dùng. Mặt khác họ lại là những người cung cấp thông tin cho công ty những thông tin cần thiết về khách hàng, sản phẩm, đối thủ cạnh tranh của công ty. Kênh phân phối này được rất nhiều hãng cạnh tranh áp dụng, song công ty hầu như lại không chú tới phần này. Phát triển mạng lưới bán lẻ này cũng có nghĩa là sẽ làm tăng phần thị trường của mình lên, đặc biệt là trong thị trường LPG vì số lượng những người tiêu dùng có nhu cầu nhỏ, lẻ chiếm một tỷ lệ khá lớn. Do vậy, số lượng đại lý cửa hàng bán lẻ càng nhiều thì thị trường của công ty càng được mở rộng. Để mở rộng mạng lưới này, công ty có thể tiến hành đầu tư trang bị cơ sở vật chất cho các cửa hàng này với các nhãn hiệu, biển quảng cáo của Công ty. Đây là một hình thức để giới thiệu cho mọi người về công ty, nâng cao uy tín của Công ty gas. Để thắt chặt mối quan hệ gắn bó giữa các đại lý, tổng đại lý và công ty, công ty cần phải có các hợp đồng kinh tế, trong đó quy định rõ các quyền lợi, nghĩa vụ của các bên,...Duy trì các hình thức khen thưởng trợ giúp khó khăn: những đại lý có mức tiêu thụ lớn cần phải được thưởng tỷ lệ hoa hồng, những đại lý ở xa, Công ty nên tăng mức trợ giá vận chuyển. Ngoài việc tổ chức tốt mạng lưới tổng đại lý và đại lý, nên tiếp tục đẩy mạnh các hoạt động bán trực tiếp tại công ty và các chi nhánh với nhiều hình thức bán khác nhau, đặc biệt là đối với các khách hàng quan trọng. Qua đó, công ty sẽ tạo được sự tín nhiệm của khách hàng, là cơ sở để làm ăn lâu dài với khách hàng, tăng khả năng tiêu thụ sản phẩm của công ty. Ngoài ra, công ty còn có thể hỗ trợ cho các đaị lý và tổng đại lý của mình bằng các hoạt động dịch vụ kỹ thuật. Trên các địa bàn, thị trường mới hay với các hàng lớn, có yêu cầu về mặt kỹ thuật mà các tổng đại lý và các đại lý khó có thể đáp ứng được, Công ty có thể cử các cán bộ kỹ thuật của mình xuống giúp hoặc là trực tiếp bán cho khách hàng. 3.5. Đầu tư cho các hoạt động xúc tiến, khuyếch trương sản phẩm. Các hoạt động xúc tiến, khuyếch trương bao gồm các biện pháp như quảng cáo, các hoạt động yểm trợ, xúc tiến bán hàng..., được sử dụng để thông tin về hàng hoá nhằm lôi kéo người mua về phía mình để có thể bán được hàng nhiều hơn và hơn hết là nó có thể giới thiệu về công ty, làm cho khách hàng biết được thế lực của mình, nâng cao uy tín của công ty. Đây là một hình thức thường được áp dụng để nâng cao sức cạnh tranh giữa các đối thủ trong thị trường cạnh tranh gay gắt, khốc liệt như hiện nay. Dự tính năm 2001 công ty sẽ đầu tư 5 tỷ cho khuyến mại vạ quảng cáo, đây là một chiến lược đầu tư quan trọng cuả công ty. Thị trường LPG mới bắt dầu vào giai đoạn phát triển song đây là một thị trường đầy tiềm năng do vậy lượng công ty tham gia vào thị trường này ngày một tăng. Công ty cần đẩy mạnh các hoạt động hỗ trợ bán hàng này để có thể tăng sức cạnh tranh của mình trong điều kiện các hãng khác cũng đang tăng cường hoạt động này. Công ty có thể xúc tiến các hoạt động khuyếch trương theo các hướng sau đây: - Đẩy mạnh các hoạt động dịch vụ kỹ thuật trước và sau bán hàng. Đây là một thế mạnh vượt trội các đối thủ khác của Công ty. Công ty cần tiếp tục đẩy mạnh những biện pháp này để thu hút khách hàng. - Mở rộng các hoạt động quảng cáo cho những hoạt động của công ty, đặc biệt là những sản phẩm mang nhãn hiệu Gas. Hoạt động quảng cáo được thực hiện nhằm tạo ra được sự chú ý của khách hàng và thông tin cho khách hàng về sản phẩm của mình. Công ty cần xây dựng những chương trình quảng cáo hấp dẫn, gây ấn tượng để thu hút khách hàng, kích thích sự chú ý của người mua thông qua các phương tiện thông tin đại chúng (tivi, đài, báo...), nâng cao uy tín của Công ty trên thị trường. Thêm vào đó, công ty nên quảng cáo sản phẩm của mình qua cách trình bày trên bao bì, nhãn hiệu sản phẩm. Trên các nhãn mác cần ghi rõ: + Tên gọi, ký hiệu, phân loại theo các chỉ tiêu quốc tế nào. + Hướng dẫn sử dụng sản phẩm. + Tên, địa chỉ của công ty. - Đi đôi với các hoạt động quảng cáo này là những đợt khuyến mãi. Công ty nên thường xuyên tổ chức các đợt khuyến mãi với các tặng vật lưu niệm mang biểu tượng riêng hay là các phiếu dự thi với giải thưởng lớn. - Tiến hành mở thêm các cửa hàng giới thiệu sản phẩm tại các trung tâm thành phố lớn hay các khu công nghiệp. Các cửa hàng này đồng thời đảm nhiệm các chức năng quảng cáo,yểm trợ bán hàng, đồng thời cũng là nơi thực hiện giao tiếp giữa công ty với khách hàng, là nơi thu hút khách hàng. Bên cạnh đó, công ty vẫn nên tiếp tục duy trì các hoạt động yểm trợ bán hàng như tổ chức các hội nghị khách hàng, tham gia hội chợ giới thiệu sản phẩm, in ấn phát hành các tài liệu về công ty và sản phẩm của mình. - Đẩy mạnh các hoạt động dịch vụ kỹ thuật, các hoạt động quảng cáo, khuyếch trương sẽ góp phần đẩy nhanh tốc độ tiêu thụ, tăng thị phần của công ty trên thị trường. Tuy nhiên, khi thực hiện các hoạt động khuyếch trương này, công ty cũng phải tính toán sao cho chi phí bỏ ra phải phù hợp với tình hình tài chính cũng như tương xứng với doanh thu thu được. III. Một số kiến nghị với Nhà nước: Nhà nước có thể giúp đỡ, tạo môi trường kinh tế xã hội thuận lợi, thúc đẩy sự cạnh tranh để các doanh nghiệp phát triển đầy đủ. Nhà nước không thể thay thế các doanh nghiệp trong việc nhận biết thị trường và xác định thay cho họ cách thức ứng xử thích hợp với điều kiện cạnh tranh cho dù đó có là doanh nghiệp nhà nước. Luật thuế giá trị gia tăng và thuế thu nhập doanh nghiệp : từ ngày 1/1/1999 luật thuế giá trị gia tăng bắt đầu được thực hiện, đồng thời Nhà Nước không cho phép các doanh nghiệp được nâng giá bán lên cao hơn từ thời điểm 31/12/1998 trở về trước trong 6 tháng đầu năm. Vì vậy tất cả các doanh nghiệp kinh doanh LPG nói riêng đều xây dựng kế hoạch thu lại lợi nhuận quý III năm 1999, do đó giá bán ra bình quân trên thị trường năm 2000 cao hơn giá bán bình quân năm 1998 khoảng 10%. Chính vì yếu tố này, đặc biệt là đợt biến động giá trong tháng 6-2000 dẫn đến cầu về tiêu dùng LPG chững lại làm cho các doanh nghiệp nói chung và công ty Gas Petrolimex nói riêng bị biến động trong việc thực hiện kế hoạch kinh doanh và thị phần sản phẩm Gas bán ra giảm so với thời gian trước đó. Hiện tại, nhu cầu tiêu thụ tại Việt Nam tập trung tại khu vực dân dụng,chiếm khoảng 90% nhu cầu. Nhu cầu sử dụng LPG trong lĩnh vực thương mại và công nghiệp lần lượt chiếm khoảng 20% và 15%. Cơ cấu này là phù hợp với Việt Nam và nó phản ánh thị trường LPG tại Việt Nam mới đang ở thời kì đầu. Cùng với đà phát triển của nhu cầu, nhu cầu sử dụng LPG cho công nghiệp và thương mại sẽ tăng dần do các khu vực này thường tiêu dungf LPG với khối lượng rrất lớn. Mặc dù tốc độ tăng trưởng trên là khá cao so với sự tăng trưởng chung trong khu vực và trên thế giới song theo đanghs giá của giới chuyên môn, mức tăng trưởng trên là thấp hơn so với tiềm năng của nhu cầu. Nguyên nhân của tình trạng trên là do trong giai đoạn từ khi hình thành trở lại tới nay, toàn bộ LPG tiêu dùng trong nước được nhâph khẩu do đó giá thành khá cao và không ổn định. Thêm nữa do quan điểm LPG là mặt hàng xa xỉ nên Nhà Nước đã áp dụng mức thuế suất khá cao đối với mặt hàng này( có lúc là 30 %, 20%). Chính vì thế nên giá bán lẻ dẫn đến cao và khá cao so với thu nhập và khả năng chi trả của người tiêu dùng. Thực tế hiện nay tại Việt Nam, đặc biệt tại khu vực phía Bắc chỉ có các gia đình có thu nhập tương đối khá mới sử dụng LPG. Điều này đã ảnh rất lớn sự tăng trưởng nhu cầu tiêu dùng LPG của người dân Việt Nam trong những năm qua và thời gian tới. Nhà nước phải diều chỉnh thường xuyên thuế xuất nhập khẩu gas ( cuối năm 2000 là 5% ) đồng thời phải qui định rõ mức giá trần bán lẻ tại các thị trường chính như Hà Nội, Đà Nẵng & TP Hồ Chí Minh để giá bán gas trên thị trường trong nước ít biến động, tạo sự ổn định về đầu vào của giá thành sản phẩm đối với cac nhà sản xuất cũng như tạo ra tâm lý tốt đối với người tiêu dùng... Bên cạnh mức giá, Sự quản lý lỏng lẻo tập trung đối với ngành hàng của Nhà Nước cũng là nguyên nhân làm chậm sự phát triển của thị trường. Biểu hiện của sự quản lý lỏng lẻo và thiếy tập trung này là việc cấp phép đầu tư không tính tới cân đối giữa cung và cầu thị trường về mặt hàng LPG cũng như việc thiếu các qui định pháp qui điều chỉnh hành vị, tiêu chuẩn hoá ngành hàng của các đối tượng tham gia. Thị trường LPG đã hình thành và phát triển từ năm 1994 mà mài tới thời diểm gần đây Chính phủ mới có Nghị định số 11/NĐ qui định về vận chuyển LPG, Bộ Thương Mại có Thông tư số 15/BTM ngày 15/03/1999 qui định các điều kiện đối với các doanh nghiệp kinh doanh LPG. Sự thiếu các văn bản pháp qui đã dẫn đến tình trạng phát triển lộn xộn trên thị trường, mỗi công ty sử dụng một loại tiêu chuẩn cho hàng hoá và các thiết bị của mình mà hậu quả của nó là sụ cạnh tranh thiếu lành mạnh, người tiêu dùng nghi ngờ về sự an toàn của sản phẩm - nhân tố có tính quyết định trong tiến trình quyết định sử dụng LPG thay thế cho cac loại nhiên liệu truyền thống. Tuy nhiên trong thời gian tới các hạn chế trên đây sẽ dần được khắc phục do Việt Nam đã bắt đâù sản xuất và cung cấp LPG ra thị trường nội địa từ giũa năm 1999. Sự kiện này một mặt sẽ cắt giảm giá thành mặt hàng gas, mặt khác nó cũng đặt ra yêu cầu đối với các cơ quan chức năng của Nhà nước trong việc hoạch định chính sách tiêu thụ, phát triển ngành hàng, trong đó việc ban hành các tiêu chuẩn ngành hàng là một trong những nội dung quan trọng. Thực tế Chính Phủ Việt Nam đã hình thành một tổ nghiên cứu thuộc Vụ Công nghiệp - Bộ Kế hoạch đầu tư nhằm phối hợp với các ngành các cấp trong việc tiêu thụ sản phẩm LPG do hiện nay và trong thời gian tới mức sản xuất sẽ vượt xa nhu cầu tiêu thụ nội địa. Bên cạnh sự kiện Việt Nam sản xuất được LPG, Việc cắt giảm thuế nhập khẩu đối với ngành hàng LPG theo kế hoạch hoà nhập AFTA sẽ góp phần đáng kể làm giảm giá thành LPG. Trong điều kiện nền kinh tế nước ta chuyển từ kế hoạch hoá tập trung sang hoạt động theo cơ chế thị trường, nhiều vấn đề mà Nhà nước phải giải quyết để tạo ra môi trường cạnh tranh thuận lợi cho sự phát triển của doanh nghiệp. Đây là một nội dung hết sức quan trọng có ý nghĩa quyết định đối với việc xây dựng và phát triển kinh tế. Đối với doanh nghiệp, môi trường kinh doanh trực tiếp chính là thị trường mà hàng ngày, hàng giờ họ phải đối mặt để giải quyết các phương án sản xuất kinh doanh. Nó chịu ảnh hưởng rất nhiều yếu tố kinh tế, pháp luật, chính trị, công nghệ, văn hoá và tâm lý xã hội...Vì vậy Nhà nước bằng những công cụ và phương pháp của mình có thể : Vừa tạo ra sức ép cạnh tranh với những điều kiện cạnh tranh như nhau cho các doanh nghiệp để khuyến khích các hành vi cạnh tranh lành mạnh, có hiệu quả; mặt khác, hạn chế và khắc phục những khuyết tật của thị trường, gắn liền với những hành vi cạnh tranh không lành mạnh như: Đầu cơ, lừa đảo, lừa dối khách hàng, buôn lậu, hàng giả, độc quyền, hối lộ.. để mọi doanh nghiêp đều tránh xa vùng cấm, bao gồm các thủ đoạn cạnh tranh không lành mạnh. Như vậy, quản lý vĩ mô của Nhà nước đối với doanh nghiệo nhằm nâng cao sức cạnh tranh phải bảo đảm tạo điều kiện hỗ trợ và bổ sung cho cơ chế cạnh tranh- cơ chế vận động của thị trường mà bất cứ doanh nghiệp nào muốn tồn tại và phát triển cũng phải thích ứng. Điều đó bao gồm cả hai khía cạnh: hình thành môi trường kinh doanh thuận lợi và khắc phục những mặt trái của cơ chế thị trường trong quá trình vận động và phát triển theo cơ chế cạnh tranh để mỗi doanh nghiệp với tư cách là một “đấu thủ “ được đua tài, cạnh tranh lành mạnh, giành hiệu quả cao. Trước sức ép của môi trường cạnh tranh, quá trình đổi mới nhằm nâng dần sức cạnh tranh của các doanh nghiệp, Nhà nước đòi hỏi cùng một lúc phải giải quyết các vấn đề vốn, công nghệ, thị trường, lao động, trình độ kinh doanh và quản lý.. Thích ứng với quy luật cạnh tranh của cơ chế thị trường. Giải quyết những vấn đề đó, tất nhiên chỉ riêng các doanh nghiệp không thể đảm đương nổi, mà đòi hỏi phải có sự hỗ trợ của Nhà nước thông qua các chính sách tài chính tiền tệ, các chính sách khuyến khích bảo trợ, các chính sách xã hội(lương, bảo hiểm xã hội..), chính sách thuế, và hơn hết là một khuôn khổ luật pháp đầy đủ, nghiêm túc, cũng như một cơ chế quản lý của Nhà nước đối với doanh nghiệp thích ứng với giai đoạn quá độ chuyển hoạt động sản xuất kinh doanh theo cơ chế thị trường. Trên đây, với những hiểu biết chưa thật đầy đủ, song em xin mạnh dạn đóng góp những ý kiến nhỏ bé của mình vào hoạt động của công ty với mong muốn thúc đẩy hơn nữa hoạt động đầu tư và kinh doanh nhằm tăng sức cạnh tranh của công ty trên thị trường LPG hiện nay. Kết luận Chúng ta không thể phủ nhận vai trò của đầu tư trong việc nâng cao sức cạnh tranh. Cạnh tranh thúc đẩy nền kinh tế phát triển, phát huy được hết mọi tiềm năng của xã hội và của từng doanh nghiệp. Các doanh nghiệp tham gia thị trường đều phải chấp nhận cạnh tranh và phải tìm cách giành được thắng lợi trong những cuộc cạnh tranh này. Tăng sức cạnh tranh của một doanh nghiệp xét cho cùng là để nhằm mở rộng thị trường, tăng doanh thu, là điều kiện để doanh nghiệp có thể tồn tại và phát triển được. Do vậy, tăng sức cạnh tranh của doanh nghiệp là một tất yếu mà bất kỳ một doanh nghiệp nào cũng phải thực hiện, mà yếu tố quan trọng để tăng sức cạnh tranh không còn gì khác là phải đầu tư. Công ty Gas Petrolimex được thành lập trong bối cảnh thị trường đang diễn ra một cuộc cạnh tranh gay gắt. Tham gia thị trường có nhiều hãng nổi tiếng trên thế giới cũng như Việt Nam như: Sài Gòn Petro, Shell, Mobil Unique...Nhờ có sự năng động nhậy bén trong hoạt động sản xuất kinh doanh cùng với những lợi thế của Petrolimex, công ty đã đứng vững và từng bước đi lên, lập cho mình một vị trí vững chắc trên thị trường. Song để có thể tiếp tục phát triển, giành thắng lợi trong cạnh tranh, Công ty cần phải có các biện pháp đầu tư phù hợp để cạnh tranh một cách có hiệu quả nhất. Chuyên đề: "Đầu tư nhằm nâng sức cạnh tranh trong kinh doanh LPG của công ty Gas Petrolimex " là kết quả của một quá trình nghiên cứu và vận dụng lý luận vào tìm hiểu thực trạng đầu tư và sức cạnh tranh của công ty trên thị trường. Em hy vọng rằng các giải pháp này sẽ có ích trong việc đề ra chiến lược cạnh tranh của công ty trong thời gian tới. Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn Cô Nguyễn Thị Thu Hà, Chú Lê Thanh Minh, Cô Trương Thị Anh và các cô chú anh chị Phòng Quản Lý Kĩ Thuật - Công ty Gas Petrolimex đã hướng dẫn, giúp đỡ cho em hoàn thành bài viết này. Danh mục tài liệu tham khảo ˜ & ™ 1. Giáo trình Kinh tế Phát triển - Trường Đại học Kinh tế Quốc dân Hà Nội - 1999. 2. Giáo trình Kinh tế Đầu tư - Trường Đại học Kinh tế Quốc dân Hà Nội - 2000. 3. Tạp chí Ngoại thương - Số 8/1999. 4. Tạp chí Đầu tư - Số 4/2000. 5. Tạp chí Thời báo Kinh tế - Số 10/2000. 6. Báo cáo tình hình quyết toán vốn đầu tư dự án hoàn thành từ 1994 - 1999 của Công ty Gas Petrolimex. 7. Báo cáo nghiên cứu khả thi dự án đầu tư kho bể, tồn chứa Đức Giang (Hà Nội), Nhà Bè của Công ty Gas Petrolimex. 8. Luận chứng Kinh tế kỹ thuật công trình kho tiếp nhận tồn chứa và phân phối LPG Thượng Lý (Hải Phòng). 9. Tạp chí Dự báo kinh tế - Số 7/2000. 10. Tài liệu Dự báo của các chuyên gia điều tra nghiên cứu thị trường Công ty BP - Anh. 11. Báo cáo của các chuyên gia dầu khí Petro Việt Nam. Bảng 1: Cơ cấu tổ chức Công ty Gas Petrolimex. Phòng quản lý kỹ thuật Phòng bán hàng và dịch vụ Kho Đức Giang Hệ thống cửa hàng bán lẻ Ban giám đốc Phòng tổ chức hành chính Phòng kinh doanh Phòng kế toán tài chính Chi nhánh Gas Hải Phòng Chi nhánh Gas Đã Nẵng Chi nhánh Gas Sài Gòn Chi nhánh Gas Cần Thơ Tổng đại lý thành viên Kho Thượng Lý Tổng đại lý thành viên Kho Nại Hưng Tổng đại lý thành viên Kho Nhà Bè Tổng đại lý thành viên Kho Trà Nóc ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc3026.doc
Tài liệu liên quan