Đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh trong lĩnh vực Xây dựng cơ bản của Công ty Cổ phần tài chính & phát triển doanh nghiệp (FBS)

Lời nói đầu Cạnh tranh xuất hiện cùng với nền kinh tế thị trường và nó như một tất yếu khách quan không thể xóa bỏ. Đồng thời, cạnh tranh cũng là một điều kiện thúc đẩy nền kinh tế thị trường phát triển. Đối với các doanh nghiệp, cạnh tranh quyết định sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp, thúc đẩy doanh nghiệp nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, ảnh hưởng đến uy tín của doanh nghiệp trên thị trường. Đối với người tiêu dùng, nhờ có cạnh tranh mà họ được thoả mãn được nhu cầu về hàng hoá

doc75 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1630 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh trong lĩnh vực Xây dựng cơ bản của Công ty Cổ phần tài chính & phát triển doanh nghiệp (FBS), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
và dịch vụ: chất lượng sản phẩm ngày càng cao với một mức giá ngày càng phù hợp. Đối với nền kinh tế quốc dân, cạnh tranh là động lực thúc đẩy sự phát triển bình đẳng của mọi thành phần kinh tế, tạo điều kiện để phát huy lực lượng sản xuất, nâng cao tiến bộ khoa học kỹ thuật, hiện đại hoá nền sản xuất xã hội, đó cũng là điều kiện để xoá bỏ độc quyền bất hợp lý, xoá bỏ bất bình đẳng trong kinh doanh, phát huy tính tháo vát và năng động, óc sáng tạo của các doanh nghiệp, gợi mở nhu cầu thông qua việc tạo ra nhiều sản phẩm mới, nâng cao chất lượng đời sống xã hội. ở nước ta trong thời kỳ kinh tế tập trung quan liêu bao cấp, cạnh tranh hầu như không tồn tại. Mọi quan hệ kinh tế trong giai đoạn này đều do Nhà nước chi phối, độc quyền quyết định, các doanh nghiệp không có môi trường cạnh tranh để phát triển mà tồn tại một cách bị động phục thuộc hoàn toàn vào Nhà nước. Chính vì vậy, nền kinh tế luôn bị kìm hãm và không thể phát triển. Trong giai đoạn hiện nay, Việt Nam đang tiếp tục xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của Nhà nước và người ta bắt đầu đề cập nhiều đến vấn đề cạnh tranh. Thực tế cho thấy rằng năng lực cạnh tranh của hầu hết hàng hoá của Việt Nam trên thị trường trong nước cũng như nước ngoài còn rất yếu kém. Vấn đề càng trở nên bức xúc khi áp lực cạnh tranh do quá trình tự do hoá thương mại trong khuôn khổ AFTA, trong khi đó các doanh nghiệp Việt Nam lại tỏ ra chưa sẵn sàng đối mặt với những thách thức từ cuộc cạnh tranh gay gắt ấy. Nếu tình hình này vẫn tiếp tục được duy trì thì nguy cơ tụt hậu của nền kinh tế Việt Nam sẽ rất nghiêm trọng, nhất là trong bối cảnh xu thế hôi nhập kinh tế khu vực và trên thế giới đang gia tăng Do vậy, để tồn tại, đứng vững và phát triển, khẳng định được của mình buộc các doanh nghiệp phải tìm giải pháp tốt nhất để tăng cường khả năng cạnh tranh của mình trên cả thị trường trong và ngoài nước. Vấn đề là phải làm gì và làm như thế nào để phát huy được lợi thế cạnh tranh của từng doanh nghiệp và của cả đất nước, tận dụng có hiệu quả những cơ hội có được, nhất là khi Việt nam đã trở thành thành viên của ASEAN, APEC và không lâu nữa sẽ gia nhập AFTA, WTO. Trước tình hình trên, Công ty cổ phần tài chính và phát triển doanh nghiệp (FBS) luôn đặt ra cho mình mục tiêu là phải nâng cao được khả năng cạnh tranh của mình trên thị trường. Trong những năm gần đây, Công ty đã có quyết định đúng đắn là phải tiếp tục đổi mới công nghệ, đổi mới và nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ giá thành sản phẩm để có thể duy trì và phát triển uy tín của mình trên thị trường. Nhằm vận dụng những kiến thức đã tìm hiểu được trong thời gian qua và góp một vài ý kiến trong qúa trình đầu tư nâng cao khả năng cạnh tranh của Công ty cổ phần tầi chính và phát triển doanh nghiệp (FBS), em đã lựa chọn đề tài: "Đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh trong lĩnh vực xây dựng cơ bản của Công ty cổ phần tài chính và phát triển doanh nghiệp (FBS)”. Vấn đề nâng cao năng lực cạnh tranh là vấn đề phức tạp nên bài viết này của em chỉ tập trung nghiên cứu một số chỉ tiêu, thực trạng, các vấn đề tồn tại, khó khăn và đưa ra giải pháp về đầu tư nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của Công ty cổ phần tài chính và phát triển doanh nghiệp (FBS). Ngoài lời mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của bài viết gồm 3 chương: Chương I: Lý luận chung về đầu tư, doanh nghiệp, cạnh tranh và đầu tư nâng cao khả năng lực cạnh tranh. Chương II: Thực trạng về đầu tư nâng cao khả năng cạnh tranh trong lĩnh vực xây dựng cơ bản của Công ty cổ phần tài chính và phát triển doanh nghiệp (FBS). Chương III: Một số giải pháp chủ yếu để đầu tư nâng cao được khả năng cạnh tranh của Công ty cổ phần tài chính và phát triển doanh nghiệp (FBS). Trong quá trình viết, em đã nhận được sự giúp đỡ rất nhiệt tình của các cô, chú trong phòng kinh doanh của Công ty cổ phần tài chính và phát triển doanh nghiệp (FBS). Đặc biệt là sự hướng dẫn nhiệt tình của TS Nguyễn Hồng Minh. Em xin chân thành cảm ơn tất cả những sự giúp đỡ quý báu và nhiệt tình đó . Chương I Lý luận chung về đầu tư, doanh nghiệp, cạnh tranh và đầu tư nâng cao khả năng lực cạnh tranh I. Một số vấn đề chung về đầu tư. 1. Khái niệm về đầu tư và đầu tư phát triển. Xuất phát từ phạm vi phát huy tác dụng của các kết quả đầu tư chúng ta có thể có những cách hiểu khác nhau về đầu tư. Đầu tư theo nghĩa rộng, nói chung là sự hy sinh các nguồn lực ở hiện tại để tiến hành các hoạt động nào đó nhằm thu về các kết quả nhất định trong tương lai lớn hơn nguồn lực đã bỏ ra để đạt được các kết quả đó. Nguồn lực đó có thể là tiền, là tài nguyên thiên nhiên, là sức lao động và trí tuệ. Những kết quả đó có thể là sự tăng thêm các tài sản tài chính (tiền vốn), tài sản vật chất (nhà máy, đường xá, các của cải vật chất khác...), tài sản trí tuệ (trình độ văn hóa, chuyên môn, khoa học kỹ thuật...) và nguồn nhân lực có điều kiện để làm việc với năng suất cao hơn trong nền sản xuất xã hội. Trong các kết quả đã đạt được như trên đây, những kết quả là các tài sản vật chất, tài sản trí tuệ và nguồn nhân lực tăng thêm có vai trò quan trọng trong mọi lúc, mọi nơi, không chỉ đối với người bỏ vốn mà còn đối với cả nền kinh tế. Theo nghĩa hẹp, đầu tư chỉ bao gồm những hoạt động sử dụng các nguồn lực ở hiện tại nhằm đem lại cho nền kinh tế - xã hội những kết quả trong tương lai lớn hơn các nguồn lực đã sử dụng để đạt được kết quả đó. Như vậy, nếu xem xét trong phạm vi quốc gia thì chỉ có hoạt động sử dụng các nguồn lực ở hiện tại trực tiếp làm tăng các tài sản vật chất, nguồn nhân lực và tài sản trí tuệ, hoặc duy trì sự hoạt đông của các tài sản và nguồn nhân lực sẵn có thuộc phạm trù đầu tư theo nghĩa hẹp hay đầu tư phát triển. Đối với một quốc gia, hay một nền kinh tế thì hoạt động đầu tư phát triển luôn đóng một vai trò quyết định trong sự đi lên phát triển hay hưng thịnh của chính quốc gia đó. Có thể hiểu đầu tư phát triển là hoạt động sử dụng các nguồn lực tài chính, nguồn lực vật chất, nguồn lực lao động và trí tuệ để xây dựng, sửa chữa nhà cửa và cấu trúc hạ tầng, mua sắm trang thiết bị và lắp đặt chúng trên nền bệ, bồi dưỡng đào tạo nguồn nhân lực, thực hiện chi phí thường xuyên gắn liền với các hoạt động của các tài sản này nhằm duy trì tiềm lực hoạt động của các cơ sở đang tồn tại và tạo tiềm lực mới cho nền kinh tế - xã hội, tạo việc làm và nâng cao đời sống của mọi thành viên trong xã hội. Với những tác dụng to lớn trên, chúng ta nhận thấy rằng chỉ có đầu tư phát triển mới làm cho nền kinh tế tăng trưởng, phát triển theo mục tiêu ta lựa chọn. 2. Những đặc điểm của hoạt động đầu tư phát triển. Hoạt động đầu tư phát triển có các điểm khác biệt với các loại hình đầu tư khác là: Đầu tư phát triển đòi hỏi một lượng vốn lớn và để nằm khê đọng trong suốt quá trình thực hiện đầu tư. Đây là cái giá phải trả khá lớn cho đầu tư phát triển. Thời gian để tiến hành một công cuộc đầu tư cho đến khi các thành quả của nó phát huy tác dụng thường đòi hỏi nhiều năm tháng với nhiều biến động xảy ra. Thời gian cần hoạt động để có thể thu hồi vốn đã bỏ ra đối với các cơ sở vật chất kỹ thuật, phục vụ sản xuất kinh doanh thường đòi hỏi nhiều năm tháng và do đó không tránh khỏi sự tác động hai mặt tích cực và tiêu cực của các yếu tố không ổn định về tự nhiên, xã hội, chính trị, kinh tế... Các thành quả của hoạt động đầu tư phát triển có giá trị sử dụng lâu dài trong nhiều năm, có khi hàng trăm năm, thậm chí tồn tại vĩnh viễn. Điều này nói lên giá trị lơn lao của các thành quả đầu tư phát triển Vị trí của các công trình xây dựng là cố định, các công trình này sẽ hoạt động ở ngay nơi mà nó được tạo dựng nên. Do đó, các điều kiện về địa hình có ảnh hưởng lớn đến quá trình thực hiện đầu tư cũng như tác động sau này của kết quả đầu tư. Ngoài ra, các yếu tố rủi ro đầu tư luôn luôn rình rập. Nếu người đầu tư, người quản lý không đánh giá đúng hay nhận dạng đủ các nhân tố rủi ro có thể xảy ra và có kế hoạch quản lý phòng ngừa thì rất dễ gây ra sự đổ vỡ cho dự án. 3. Vai trò của đầu tư phát triển. 3.1. Trên giác độ toàn bộ nền kinh tế của đất nước 3.1.1. Đầu tư vừa tác động đến tổng cung, vừa tác động đến tổng cầu. Về mặt cầu: đầu tư là một yếu tố chiếm tỷ trọng lớn trong tổng cầu của toàn bộ nền kinh tế . Theo số liệu của Ngân hàng Thế giới, đầu tư thường chiếm khoảng 24 - 28% trong cơ cấu tổng cầu của tất cả các nước trên thế giới. Đối với tổng cầu, tác động của đầu tư là ngắn hạn. Với tổng cung chưa kịp thay đổi, sự tăng lên của đầu tư làm cho tổng cầu tăng, kéo theo mức sản lượng cân bằng tăng và giá cả của các đầu vào của đầu tư tăng. Về mặt cung: khi thành quả của đầu tư phát huy tác dụng, các năng lực mới đi vào hoạt động thì tổng cung, đặc biệt là tổng cung dài hạn tăng lên, kéo theo sản lượng tiềm năng tăng và do đó giá cả giảm. Sản lượng tăng, giá cả giảm cho phép tăng tiêu dùng. Tăng tiêu dùng đến lượt mình lại tiếp tục kích thích sản xuất hơn nữa. Sản xuất phát triển là nguồn gốc cơ bản để tăng tích luỹ, phát triển kinh tế xã hội, tăng thu nhập cho người lao động, nâng cao đời sống của mọi thành viên trong xã hội. 3.1.2. Đầu tư có tác động hai mặt đến sự ổn định kinh tế . Sự tác động không đồng thời về mặt thời gian của đầu tư đối với tổng cầu và tổng cung của nền kinh tế làm cho mỗi sự thay đổi của đầu tư, dù là tăng hay giảm đều cùng một lúc vừa là yếu tố duy trì sự ổn định vừa là yếu tố phá vỡ sự ổn định của nền kinh tế của mọi quốc gia. Chẳng hạn, khi tăng đầu tư, cầu của các yếu tố của đầu tư tăng làm cho giá của hàng hoá có liên quan tăng đến mức một mức độ nào đó dẫn đến tình trạng lạm phát. Đến lượt mình, lạm phát làm cho sản xuất đình trệ, đời sống của người lao động gặp nhiều khó khăn do tiền lương ngày càng thấp hơn, thâm hụt ngân sách, kinh tế phát triển chậm lại. Mặt khác, tăng đầu tư làm cho cầu của các yếu tố có liên quan tăng, sản xuất của các ngành này phát triển, thu hút thêm nhiều lao động, giảm tình trạng thất nghiệp, nâng cao đời sống của người lao động, giảm tệ nạn xã hội. Tất cả các tác động này tạo điều kiện cho sự phát triển kinh tế. Khi giảm đầu tư cũng dẫn đến tác động hai mặt, nhưng theo chiều hướng ngược lại so với các tác động trên đây. Vì vậy, trong điều hành vĩ mô nền kinh tế, các nhà hoạt động chính sách cần thấy hết tác động hai mặt này để đưa ra các chính sách nhằm hạn chế các tác động xáu, phát huy tác động tích cực, duy trì được sự ổn định của toàn bộ nền kinh tế. 3.1.3. Đầu tư tác động đến tốc độ tăng trưởng và phát triển kinh tế: Kết quả nghiên cứu của các nhà kinh tế cho thấy: muốn giữ tốc độ tăng trưởng ở mức độ trung bình thì tỷ lệ đầu tư phải đạt được tư 15 - 25% so với GDP tuỳ thuộc vào ICOR của mỗi nước. Vốn đầu tư ICOR = Mức tăng GDP Từ đó suy ra: Vốn đầu tư Mức tăng GDP = ICOR Nếu ICOR không đổi, mức tăng GDP hoàn toàn phụ thuộc vào vốn đầu tư. ở các nước phát triển, ICOR thường lớn, từ 5 -7 do thừa vốn, thiếu lao động, vốn được sử dụng nhiều để thay thế cho lao động, do sử dụng công nghệ hiện đại có giá trị cao. Còn ở các nước chậm phát triển, ICOR thấp từ 2- 3 do thiếu vốn, thừa lao động nên có thể cần phải sử dụng lao động để thay thế cho vốn, do sử dụng công nghệ kém hiện đại, giá rẻ 3.1.4. Đầu tư và sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế: Kinh nghiệm của các nước trên thế giới cho thấycon đường tất yếu có thể tăng trưởng nhanh tốc độ mong muốn (từ 9 -10%) là tăng cường đầu tư nhằm tạo ra sự phát triển nhanh ở khu vực công nghiệp và dịch vụ. Đối với các ngành nông, lâm, ngư nghiệp do những hạn chế về đất đai và các khả năng sinh học, để đạt được tốc độ tăng trưởng từ 5 -6% là rất khó khăn. Như vậy, chính sách đầu tư quyết định quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở các quốc gia nhằm đạt được tốc độ tăng trưởng nhanh của toàn bộ nền kinh tế. Về cơ cấu lãnh thổ, đầu tư có tác dụng giải quyết những mất cân đối về phát triển giữa các vùng lãnh thổ, đưa những vùng kém phát triển thoát khỏi tình trạng đói nghèo, phát huy tối đa những lợi thế so sánh về tài nguyên, địa thế, kinh tế, chính trị,...của những vùng có khả năng phát triển nhanh hơn, làm bàn đạp thúc đẩy những vùng khác cùng phát triển. 3.1.5. Đầu tư với việc tăng cường khả năng khoa học và công nghệ của đất nước: Công nghệ là trung tâm của công nghiệp hoá. Đầu tư là điều kiện tiên quyết của sự phát triển và tăng cường khả năng công nghệ của nước ta hiện nay. Theo đánh giá của các chuyên gia công nghệ, trình độ công nghệ của Việt Nam lạc hậu nhiều thế hệ so với thế giới và khu vực. Theo UNIDO, nếu chia quá trình phát triển công nghệ thế giới làm 7 giai đoạn thì Việt Nam năm 1990 ở vào giai đoạn 1 và 2. Việt Nam đang là một trong 90 nước kém nhất về công nghệ. Với trình độ công nghệ lạc hậu này, quá trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá của Việt Nam sẽ gặp rất nhiều khó khăn nếu không đề ra được một chiến lược đầu tư phát triển công nghệ nhanh và vững chắc. Chúng ta đều biết rằng có hai con đường cơ bản để có công nghệ là tự nghiên cứu phát minh ra công nghệ và nhập công nghệ từ nước ngoài. Dù là tự nghiên cứu hay nhập từ nước ngoài cần phải có tiền, cần phải có vốn đầu tư. Mọi phương án đổi mới công nghệ không gắn với nguồn vốn đầu tư sẽ là những phương án không khả thi. 3.2. Đối với các cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ Đầu tư quyết định sự ra đời, tồn tại và phát triển của mỗi cơ sở. Chẳng hạn, để tạo dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật cho sự ra đời của bất kỳ cơ sở nào đều cần phải xây dựng nhà xưởng, cấu trúc hạ tầng, mua sắm và lắp đặt thiết bị máy móc trên nền bệ, tiến hành các công tác xây dựng cơ bản và thực hiện các chi phí khác gắn liền với sự hoạt động trong một chu kỳ của các cơ sở vật chất - kỹ thuật vừa tạo ra. Các hoạt động này chính là hoạt động đầu tư đối với các cơ sở sản xuất, kinh doanh dịch vụ đang tồn tại: sau một thời gian hoạt động, các cơ sở vật chất - kỹ thuật của các sơ sở này hao mòn, hư hỏng. Để duy trì được sự hoạt động bình thường cần định kỳ tiến hành sửa chữa lớn hoặc thay mới các cơ sở vật chất - kỹ thuật đã hư hỏng, hao mòn này hoặc đổi mới để thích ứng với điều kiện hoạt động mới của sự phát triển khoa học - kỹ thuật và nhu cầu tiêu dùng của nền sản xuất xã hội, phải mua sắm các trang thiết bị mới thay thế cho các trang thiết bị cũ đã lỗi thời, cũng có nghĩa là phải đầu tư. Đối với các cơ sở vô vị lợi (hoạt động không để thu lợi nhuận cho bản thân mình) đang tồn tại, để duy trì sự hoạt động, ngoài tiến hành sửa chữa lớn định kỳ các cơ sở vật chất kỹ thuật còn phải thực hiện các chi phí thường xuyên. Tất cả những hoạt động và chi phí này đều là những hoạt động đầu tư. 4. Đầu tư xây dựng cơ bản 4.1. Khái niệm: Đầu tư xây dựng cơ bản trong nền kinh tế quốc dân là một bộ phận của đầu tư phát triển. Đây là quá trình bỏ vốn để tiến hành các hoạt động xây dựng cơ bản nhằm tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất mở rộng ra các tài sản cố định trong nền kinh tế. Do vậy đầu tư xây dựng cơ bản là tiền đề quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế xã hội của nền kinh tế nói chung và của các cơ sở sản xuất kinh doanh nói riêng. Đầu tư xây dựng cơ bản là hoạt động chủ yếu tạo ra tài sản cố định đưa vào hoạt động trong lĩnh vực kinh tế xã hội, nhằm thu được lợi ích dưới nhiều hình thức khác nhau. Đầu tư xây dựng cơ bản trong nền kinh tế quốc dân được thông qua nhiều hình thức như xây dựng mới, cải tạo, mở rộng, hiện đại hoá hay khôi phục tài sản cố định cho nền kinh tế. 4.2. Vai trò của đầu tư xây dựng cơ bản: Để đảm bảo cho nền kinh tế xã hội không ngừng phát triển, điều kiện trước tiên và cần thiết là phải đầu tư xây dựng cơ bản. Trong một nền kinh tế xã hội, đối với bất kỳ một phương thức sản phẩm nào cũng đều phải có cơ sở vật chất, kỹ thuật tương ứng. Việc đảm bảo tính tương ứng đó là nhiệm vụ của hoạt động đầu tư xây dựng cơ bản. Đầu tư xây dựng cơ bản là điều kiện cần thiết để phát triển tất cả các ngành kinh tế quốc dân và thay đổi tỷ lệ cân đối giữa chúng. Những năm qua, ở nước ta do tăng cường đầu tư xây dựng cơ bản mà cơ cấu kinh tế đã có những biến đổi quan trọng. Cũng với việc phát triển các ngành kinh tế vốn có như cơ khí chế tạo, luyện kim, hoá chất, vận tải, nhiều ngành kinh tế mới đã bắt đầu xuất hiện như bưu điện, hàng không... Nhiều khu công nghiệp, nhiều vùng kinh tế mới đã và đang được hình thành. Mặt khác, đầu tư xây dựng cơ bản là tiền đề cho việc xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho các cơ sở sản xuất và dịch vụ, từ đó nâng cao năng lực sản xuất cho từng ngành và toàn bộ nền kinh tế quốc dân, tạo điều kiện phát triển sản xuất xã hội, tăng nhanh giá trị sản xuất và giá trị tổng sản phẩm trong nước, tăng tích luỹ, đồng thời nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân lao động, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ cơ bản về chính trị, xã hội... II. Doanh nghiệp - doanh nghiệp ngành xây dựng. 1. Khái niệm chung về doanh nghiệp. Doanh nghiệp là một tổ chức kinh tế được thành lập để thực hiện các hoạt động kinh doanh, thực hiện chức năng sản xuất, mua bán hàng hóa, dịch vụ nhằm đáp ứng các nhu cầu của con người, xã hội, và kiếm lợi nhuận thông qua các hoạt động hữu ích đó. Theo Điều 3 Luật Doanh nghiệp do Quốc hội thông qua ngày 12/6/1999, “Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh”. Theo khái niệm này, trừ loại hình kinh doanh cá thể, các tổ chức kinh tế đảm bảo các điều kiện về tài sản, tên riêng, trụ sở giao dịch và có giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh đều được gọi là doanh nghiệp. Có nhiều cách phân loại doanh nghiệp, nhưng cách phân loại thường được sử dụng nhiều nhất và có vai trò quan trọng nhất trong việc nghiên cứu hoạt động của doanh nghiệp là phân loại theo hình thức sở hữu. Theo đó, doanh nghiệp được phân thành các nhóm sau: Doanh nghiệp Nhà nước. Doanh nghiệp tư nhân. Công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần. Hợp tác xã. Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. 2. Doanh nghiệp ngành xây dựng Những năm trước đây, trong thời kỳ bao cấp với nền kinh tế tập trung mệnh lệnh, dịch vụ xây dựng do các doanh nghiệp của Nhà nước độc quyền cung ứng theo kế hoạch. Đến nay, mặc dù các doanh nghiệp thuộc sở hữu Nhà nước vẫn còn chiếm tỷ lệ cao trong lĩnh vực cung ứng dịch vụ xây dựng, nhưng cũng có khá nhiều doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân được thành lập. Đặc biệt là có sự tham gia của các nhà cung ứng dịch vụ nước ngoài. 2.1. Vai trò của doanh nghiệp ngành xây dựng. Các doanh nghiệp ngành xây dựng có nhiệm vụ tái sản xuất các tài sản cố định cho mọi lĩnh vực sản xuất và phi sản xuất của đất nước. Có thể nói không một ngành sản xuất nào, không một hoạt động văn hoá - xã hội nào là không sử dụng sản phẩm của ngành xây dựng. Các công trình xây dựng của các doanh nghiệp có vai trò tăng năng lực sản xuất kinh doanh của chính doanh nghiệp mình, đồng thời tạo sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước và tạo thêm chỗ làm cho người lao động, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho họ. Các doanh nghiệp ngành xây dựng phải sử dụng một lượng vốn lớn, do đó một sai lầm trong xây dựng có thể dẫn đến lãng phí lớn lao rất khó sửa chữa trong nhiều năm. Hoạt động của các doanh nghiệp ngành xây dựng đóng góp đáng kể vào giá trị tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân. 2.2. Đặc điểm và nội dung hoạt động của doanh nghiệp ngành xây dựng. Tình hình và điều kiện sản xuất trong các doanh nghiệp ngành xây dựng luôn thiếu tính ổn định, luôn biến đổi theo địa điểm xây dựng và giai đoạn xây dựng. Đặc điểm này đòi hỏi các doanh nghiệp xây dựng phải chú ý tăng cường tính cơ động, linh hoạt, gọn nhẹ về mặt trang bị tài sản cố định sản xuất, lựa chọn các hình thức tổ chức sản xuất linh hoạt, phấn đấu giảm chi phí có liên quan đến vận chuyển, lựa chọn vùng hoạt động thích hợp, lợi dụng tối đa lực lượng xây dựng tại chỗ và liên kết tại chỗ để có thể trúng thầu xây dựng. Thời gian xây dựng các công trình thường dài. Đặc điểm này làm cho vốn đầu tư xây dựng công trình và vốn sản xuất của doanh nghiệp xây dựng thường bị ứ đọng lâu tại công trình đang còn xây dựng, các doanh nghiệp xây dựng dễ gặp phải các rủi ro ngẫu nhiên theo thời gian, công trình xây dựng xong dễ bị hao mòn vô hình. Quá trình sản xuất xây dựng rất phức tạp, có những thời điểm đòi hỏi một số đơn vị tham gia xây dựng công trình cùng đến hiện trường thi công để thực hiện phần việc của mình, trong khi diện tích của công trình lại có hạn. Do đó đòi hỏi các doanh nghiệp xây dựng phải có trình độ tổ chức phối hợp cao trong sản xuất. Công việc xây dựng phải tiến hành ngoài trời nên chịu người ảnh hưởng của thời tiết, điều kiện làm việc nặng nhọc. Đặc điểm này đòi hỏi doanh nghiệp xây dựng phải lập tiến độ thi công hợp lý để tránh thời tiết xấu. Sản xuất xây dựng chịu ảnh hưởng của lợi nhuận chênh lệch do điều kiện của địa điểm xây dựng đem lại. Cùng một loại công trình xây dựng, nhưng nếu nó được đặt ở nơi có sẵn nguồn nguyên vật liệu xây dựng, nguồn máy móc cho thuê và sẵn nhân công, thì doanh nghiệp nhận thầu xây dựng ở trường hợp này có nhiều cơ hội hạ thấp chi phí sản xuất và thu được lợi nhuận cao. III. Cạnh tranh. 1. Cạnh tranh. 1.1. Khái niệm. Theo Mark “cạnh tranh tư bản chủ nghĩa là sự ganh đua, sự đấu tranh gay gắt giữa các nhà tư bản nhằm giành giật điều kiện thuận lợi trong sản xuất và mua bán hàng hóa để thu được lợi nhuận siêu ngạch”. Cạnh tranh là một quy luật khách quan của nền sản xuất hàng hóa, là một yếu tố trong cơ chế vận động của thị trường. Sản xuất hàng hóa càng phát triển, hàng hóa bán ra càng nhiều, số lượng người cung ứng càng đông thì cạnh tranh càng gay gắt. Kết quả trong cạnh tranh là sẽ có một số doanh nghiệp bị thua cuộc và bị gạt ra khỏi thị trường, trong khi đó một số doanh nghiệp sẽ tồn tại và phát triển hơn nữa. Cũng chính nhờ sự cạnh tranh không ngừng mà nền kinh tế thị trường vận động theo hướng ngày càng nâng cao năng suất lao động xã hội. Đó cũng là yếu tố đảm bảo cho sự thành công của mỗi quốc gia trên con đường phát triển. 1.2. Các loại hình cạnh tranh. Nếu căn cứ vào chủ thể tham gia thị trường, người ta chia cạnh tranh làm 3 loại: Cạnh tranh giữa người bán và người mua: là cuộc cạnh tranh diễn ra theo quy luật mua rẻ bán đắt. Cạnh tranh giữa người mua với nhau: là cuộc cạnh tranh theo quy luật cung cầu. Khi cung nhỏ hơn cầu thì cuộc cạnh tranh giữa người mua trở nên quyết liệt, giá cả hàng hóa dịch vụ sẽ tăng lên. Cạnh tranh giữa người bán với nhau: là cuộc cạnh tranh gay go và quyết liệt nhất. Đây là cuộc cạnh tranh quyết định sự sống còn của doanh nghiệp. Tất cả các doanh nghiệp đều muốn giành lợi thế cạnh tranh. Để có thể đứng vững và phát triển, các doanh nghiệp phải sử dụng mọi biện pháp khác nhau để tạo cho mình một lợi thế hơn đối thủ. Nếu căn cứ vào mức độ cạnh tranh trên thị trường, người ta chia ra: Thị trường cạnh tranh hoàn hảo: là hình thức cạnh tranh trên thị trường có nhiều người bán có ưu thế như nhau. Các sản phẩm bán ra được xem như đồng nhất. Các doanh nghiệp tham gia trên thị trường này chủ yếu tìm biện pháp cắt giảm chi phí vào sản xuất một số lượng sản phẩm đến mức giới hạn mà tại đó chi phí cận biên bằng doanh thu cận biên. Cạnh tranh không hoàn hảo là cạnh tranh trên thị trường mà phần lớn các sản phẩm là không đồng nhất với nhau. Người bán có thể ấn định giá linh hoạt theo khu vực bán sản phẩm, tùy theo khách hàng cụ thể và mức lợi nhuận mong muốn. Cạnh tranh độc quyền là cạnh tranh trên thị trường mà ở đó có một số người bán một số sản phẩm thuần nhất. Tóm lại, cạnh tranh là cuộc đấu tranh gay gắt, quyết liệt giữa các chủ thể hoạt động, nhằm giành giật những điều kiện sản xuất thuận lợi và nơi tiêu thụ hàng hóa, dịch vụ có lợi nhất, đồng thời tạo điều kiện thúc đẩy sản xuất hàng hóa phát triển. 1.3. Vai trò của cạnh tranh. Đối với các doanh nghiệp, cạnh tranh quyết định sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp, thúc đẩy doanh nghiệp nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, ảnh hưởng đến uy tín của doanh nghiệp trên thị trường. Đối với người tiêu dùng, cạnh tranh giúp họ thỏa mãn nhu cầu về hàng hóa và dịch vụ, chất lượng sản phẩm ngày càng cao cùng với mức giá cả ngày càng phù hợp với khả năng của họ. Đối với nền kinh tế quốc dân thì cạnh tranh là động lực thúc đẩy sự phát triển bình đẳng của mọi thành phần kinh tế, tạo điều kiện để phát huy lực lượng sản xuất, nâng cao tiến bộ khoa học kỹ thuật, hiện đại hóa nền sản xuất xã hội. Đó cũng là điều kiện để xóa bỏ độc quyền bất hợp lý, xóa bỏ bất bình đẳng trong kinh doanh, phát huy tính tháo vát, năng động và óc sáng tạo trong các doanh nghiệp, gợi mở nhu cầu thông qua việc tạo ra nhiều sản phẩm mới, nâng chất lượng đời sống xã hội, phát triển nền văn minh nhân loại. Tuy nhiên chúng ta không thể phủ nhận mặt tiêu cực của cạnh tranh. Để khắc phục được những tiêu cực đó thì vai trò của Nhà nước là hết sức quan trọng. 2. Lợi thế cạnh tranh. Đạt được một lợi thế cạnh tranh trên thị trường là mục đích của mọi doanh nghiệp đặc biệt các doanh nghiệp Việt nam hiện đang trong tình trạng cạnh tranh kém. Nhưng có phải mọi lợi thế cạnh tranh đều có ý nghĩa chiến lược hay có thể duy trì trong thời gian dài và liệu một lợi thế cạnh tranh có đảm bảm cho một chiến lược kinh doanh thành công hay không? Lợi thế cạnh tranh có phải là ở vốn, công nghệ, lao động hoặc các kỹ năng sản xuất không? Có thể thấy rằng, nguồn lực về vốn luôn là một nhân tố tác động đến lợi thế cạnh tranh của một doanh nghiệp. ở đây, không thể chỉ hiểu nguồn lực này là số lượng vốn có được mà trước hết nó phải là khả năng sử dụng nguồn vốn. Hiệu quả sử dụng vốn sẽ làm cho nhu cầu về vốn của doanh nghiệp giảm tương đối, do đó sẽ cần ít vốn hơn cho những nhu cầu kinh doanh nhất định, từ đó chi phí cho sử dụng vốn sẽ giảm đi, tăng lợi thế cạnh tranh về chi phí. Khi đã có vốn, một việc làm không thể thiếu của doanh nghiệp là đầu tư vào trang thiết bị, máy móc, công nghệ. Công nghệ được đầu tư phải không quá lạc hậu và phù hợp với quy mô cũng như phạm vi hoạt động của doanh nghiệp thì mới có thể nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm chi phí và tạo lợi thế cạnh tranh. Bên cạnh vốn và công nghệ thì có một đội ngũ cán bộ giàu kinh nghiệm, năng lực và một đội ngũ công nhân lành nghề, có kỷ luật lao động cao sẽ tạo ra cho doanh nghiệp một lợi thế cạnh tranh không chỉ trước mắt mà còn trong dài hạn. Vấn đề đặt ra là doanh nghiệp làm thế nào để nhận biết và đạt được lợi thế cạnh tranh dài hạn. Doanh nghiệp cũng cần phải biết xây dựng chiến lược kinh doanh khi có một lợi thế cạnh tranh và biết cạnh tranh với các doanh nghiệp khác có một lợi thế cạnh tranh dài hạn mà mình không có. Lợi thế cạnh tranh dài hạn không phải luôn dễ dàng xác định được. Các hãng sản xuất bột giặt đều cố gắng xây dựng các lợi thế, nhưng nó nhanh chóng bị bắt chước ngay sau đó. Trong thị trường hàng điện tử có hãng đã cố gắng lợi dụng một lợi thế hơn so với đối thủ của mình, nhưng lợi thế đó lại sớm trở nên không quan trọng với mong muốn của người tiêu dùng. Như vậy mọi nhà kinh doanh cần phải khám phá xem một lợi thế cạnh tranh dài hạn và sự thể hiện thực sự có ý nghĩa đối với cạnh tranh và chiến lược kinh doanh là gì? 2.1. Các điều kiện cho lợi thế cạnh tranh dài hạn. Mọi doanh nghiệp cần hiểu là họ cần một lợi thế cạnh tranh trước những khách hàng, người chọn hàng hóa của họ, chứ không phải trước các đối thủ cạnh tranh. Một lợi thế cạnh tranh có ý nghĩa chiến lược khi nó thỏa mãn ba điều kiện sau: Khách hàng phải nhận biết được sự khác biệt rõ ràng trong những đặc điểm quan trọng giữa sản phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp và sản phẩm, dịch vụ của các đối thủ cạnh tranh. Sự khác biệt đó là kết quả trực tiếp của sự chênh lệch về khả năng đáp ứng nhu cầu của khách hàng giữa doanh nghiệp và các đối thủ cạnh tranh. Sự khác biệt trong những đặc điểm quan trọng và khoảng cách về khả năng có thể hy vọng duy trì được lâu dài. 2.2. Lợi thế cạnh tranh trong hoạt động kinh doanh. Khái niệm chiến lược cạnh tranh như “một tập hợp các hoạt động được thiết kế để tạo ra một lợi thế lâu dài trước các đối thủ cạnh tranh” có thể chỉ ra rằng: có một lợi thế cạnh tranh dài hạn đồng nghĩa với thành công. Nói cách khác, những doanh nghiệp có lợi thế cạnh tranh dài hạn sẽ chắc chắn chiến thắng. Những đối thủ cạnh tranh thiếu một lợi thế cạnh tranh dài hạn nên rút lui khỏi thương trường để tránh các thảm họa tài chính... Tất nhiên, các kết luận có vẻ hiển nhiên này là sai lầm. Mặc dầu một lợi thế cạnh tranh dài hạn là một công cụ rất hiệu quả cho việc xây dựng các chiến lược kinh doanh xuất sắc, nó vẫn chỉ là một trong những nhân tố cần thiết mà thôi. Qua thực tế, các doanh nghiệp Việt Nam đã rút ra kết luận: Có lợi thế cạnh tranh dài hạn không chắc đã đảm bảo sự thành công về tài chính. Doanh nghiệp có thể thành công thậm chí khi đối thủ cạnh tranh có một lợi thế cạnh tranh dài hạn. Mưu cầu một lợi thế cạnh tranh dài hạn nhiều khi mâu thuẫn với chiến lược kinh doanh hợp lý. a. Thất bại với một lợi thế cạnh tranh dài hạn. Lợi thế cạnh tranh dài hạn có thể giúp một doanh nghiệp đạt được kết quả cao hơn so với đối thủ cạnh tranh, nhưng có ít nhất là 3 trường hợp mà người sở hữu nó sẽ thất bại: Nếu các nhu cầu thị trường không tồn tại: Trong rất nhiều trường hợp chi phí tối thiểu để sản xuất và tiêu thụ của một loại sản phẩm hay dịch vụ cụ thể vượt quá giá trị mà người tiêu dùng nhận được. Trong tình huống này, một lợi thế cạnh tranh dài hạn không thể cứu được người có nó. Nó chỉ có thể đảm bảo rằng tình trạng của các đối thủ cạnh tranh còn tồi tệ hơn nhiều. Nếu doanh nghiệp gặp phải một số rắc rối trong vận hành: Một lợi thế cạnh tranh dài hạn có thể cho phép quản lý tập trung hơn hoạt động của doanh nghiệp. Nhưng hàng ngàn doanh nghiệp thất bại do sự vận hành, hơn là do các lý do chiến lược. Nhiều doanh nghiệp Việt Nam rõ ràng là rơi vào trường hợp này. Nếu các đối thủ cạnh tranh phản ứng mạnh mẽ: Một lợi thế cạnh tranh dài hạn ít khi đặt doanh nghiệp hoàn toàn vượt tầm với của các đối thủ cạnh tranh chẳng hạn như các chính sách giảm giá để tăng tỷ phần thị trường có thể mất tác dụng do các đối thủ hạ theo. Trong những trường hợp này, doanh nghiệp phải lựa chọn cách hành động rất cẩn thận. Các hoạt động dễ bị bắt chước chỉ dẫn đ._.ến sự cạnh tranh mạnh mẽ và khi ấy những lợi thế của doanh nghiệp là mục tiêu của những đòn phản công của đối thủ. b. Cạnh tranh với đối thủ có một lợi thế cạnh tranh dài hạn. Không phải mọi người sản xuất đều có thể có một lợi thế cạnh tranh dài hạn, có những người sản xuất phải đương đầu với sự cạnh tranh trong vị trí bất lợi. Trong một số trường hợp họ vẫn có khả năng thành công. Những thị trường phát triển mạnh mẽ tạo ra tình huống như vậy. Sự tăng trưởng thị trường thực sự trong những thời kỳ nhất định... khiến các đối thủ yếu cũng có thể phát đạt. Ví dụ, sự bùng nổ trong thị trường phần mềm máy vi tính trong 5 năm gần đây đã làm cho nhiều công ty nhỏ bé trở nên giàu có. Chỉ khi thị trường tăng trưởng chậm lại hay các đổi thủ có lợi thế tăng lên, thị trường sẽ điều chỉnh sự cạnh tranh và tác động của lợi thế cạnh tranh và tác động của lợi thế cạnh tranh dài hạn mới thể hiện. Nếu doanh nghiệp dẫn đầu thị trường chỉ có một lợi thế hời hợt hay không quan trọng, nhiều đối thủ bất lợi có thể có khả năng thu hẹp khoảng cách. Mỗi đối thủ cạnh tranh đều có khả năng về một khía cạnh nào đó. Sau khi xem xét mọi khía cạnh, mỗi doanh nghiệp có thể tìm ra được lợi thế cạnh tranh trong phục vụ một số khách hàng nhất định. Những đối thủ bất lợi này có thể phải nhận những thu nhập thấp hơn so với đối thủ số một, nhưng những thu nhập này chắc chắn tồn tại. Trong thực tế, một số doanh nghiệp nhỏ vẫn có thể tồn tại có hiệu quả bên cạnh đối thủ số một khi thỏa mãn hai điều kiện sau: Nếu lợi thế của đối thủ số một bị hạn chế do giới hạn khả năng quá nhỏ so với quy mô thị trường. Do vậy, họ có thể mở rộng thị trường hơn nhưng sẽ không giữ được lợi thế dài hạn. Các cản trở như: sự khan hiếm các vật liệu chính , giới hạn khả năng hạ giá thành sản xuất, chi phí vận tải đắt đỏ, luật chống độc quyền... cũng giới hạn khả năng mở rộng lợi thế. Nếu kích thước của mỗi đối thủ là nhỏ bé so với quy mô thị trường, trong trường hợp này các đối thủ mạnh có thể mở rộng khả năng bằng cách chiếm tỷ phần từ các đối thủ yếu. Sự lựa chọn của doanh nghiệp nhỏ có thể là: + Rút lui khỏi thị trường. + Cố gắng chịu đựng tới khi các lợi thế bị xóa bỏ. + Tìm cách tạo ra một lợi thế mới: nếu một doanh nghiệp yếu chọn một lợi thế mới, nó phải chắc chắn rằng lợi thế này ưu việt hơn, hay các đối thủ khác không thể đối phó được cho tới khi doanh nghiệp củng cố được vị trí của mình. Nếu không các lợi thế của doanh nghiệp sẽ nhanh chóng bị bắt chước và sẽ bị loại bỏ. c. Tìm kiếm một lợi thế cạnh tranh dài hạn. Mặc dầu việc đạt được một lợi thế cạnh tranh dài hạn là mục tiêu của chiến lược cạnh tranh, nhưng lợi thế cạnh tranh dài hạn không phải là mục đích mà chỉ là một phương tiện để đạt được mục đích. Các doanh nghiệp tham gia thương trường không phải để chống lại các đối thủ cạnh tranh mà để làm giàu có thêm cho mình. Do đó, việc tạo ra một lợi thế cạnh tranh dài hạn nhưng làm giảm sự gia tăng tài sản có thể là một chiến lược tốt theo quan niệm cạnh tranh nhưng lại là một chiến lược tồi với doanh nghiệp. Rõ ràng vấn đề chủ yếu mà mỗi doanh nghiệp Việt nam quan tâm là làm thế nào để đạt được một lợi thế cạnh tranh dài hạn, hơn nữa doanh nghiệp phải biết sử dụng chúng trong xác lập chiến lược kinh doanh. Các điều kiện cho lợi thế cạnh tranh dài hạn và những tác động của lợi thế cạnh tranh dài hạn tới chiến lược phân tích ở trên đã cung cấp một cơ chế hoạt động cơ bản cho doanh nghiệp. Tất nhiên kết quả cuối cùng phụ thuộc vào sự vận dụng của từng doanh nghiệp. 3. Các công cụ cạnh tranh chủ yếu của doanh nghiệp. 3.1. Giá cả. Giá cả sản phẩm được sử dụng làm công cụ cạnh tranh thông qua chính sách giá bán mà doanh nghiệp áp dụng đối với thị trường có sự kết hợp với một số điều kiện khác. Các nhân tố ảnh hưởng đến giá cả mà doanh nghiệp có thể kiểm soát là chi phí sản xuất sản phẩm, chi phí bán hàng, và chi phí lưu thông. Để bán được hàng và nâng cao ưu thế trong cạnh tranh, các doanh nghiệp phải đưa ra giá cả sản phẩm thấp hơn các đối thủ cạnh tranh. Chính vì vậy, doanh nghiệp phải tìm mọi cách để hạ giá thành sản phẩm như thuê nhân công với giá thấp, đặt nhà máy tại nơi có nguồn nguyên vật liệu để tránh mọi chi phí vận chuyển... 3.2. Mẫu mã và chất lượng sản phẩm. Mẫu mã và chất lượng sản phẩm được hình thành từ khâu thiết kế sản phẩm cho đến khâu hoàn thành sản xuất sản phẩm và đem ra tiêu thụ sản phẩm. Có nhiều yếu tố tác động đến mẫu mã và chất lượng sản phẩm như trình độ thiết kế sản phẩm, chất lượng nguyên vật liệu làm nên sản phẩm đó, chất lượng họat động của máy móc thiết bị, tình trạng ổn định của công nghệ chế tạo và đặc biệt là chất lượng lao động của đội ngũ công nhân. Các nhà doanh nghiệp muốn cạnh tranh cần phải tuân thủ nguyên tắc chất lượng sản phẩm tuyệt đối với độ tin cậy cao khi. Ngoài ra, để có được lợi thế cạnh tranh thì các doanh nghiệp cũng phải luôn thay đổi mẫu mã phù hợp với thị hiếu của người tiêu dùng và đặc biệt nó phải có sức thu hút lớn đối với mọi đối tượng là khách hàng. 3.3. Mạng lưới tiêu thụ sản phẩm. Đó là tập hợp các kênh đưa sản phẩm của doanh nghiệp từ nơi sản xuất đến nơi tiêu thụ. Tùy theo từng đặc điểm của doanh nghiệp, của hàng hóa và thị trường tiêu thụ mà các doanh nghiệp áp dụng một loại kênh hoặc tập hợp các kênh với nhau thành kênh hỗn hợp để phát huy tối đa vai trò của các kênh tiêu thụ, sử dụng chúng như một công cụ cạnh tranh để đẩy mạnh hoạt động tiêu thụ hàng hóa. 3.4. Hoạt động giao tiếp khuếch trương. Hoạt động này bao gồm chào hàng, quảng cáo, tiếp thị, khuyến thị, chiêu khách và một số các hình thức khác. Trước hết, doanh nghiệp phải xác định xem bằng cách nào, với chi phí bao nhiêu để đưa sản phẩm đến tay người tiêu dùng và khuyến khích họ mua sản phẩm của mình mà không mua sản phẩm của người khác. Tiếp đến, doanh nghiệp phải nghiên cứu được khách hàng là ai? Ai là người mua chủ yếu? Sở thích của họ đối với sản phẩm nào? Bên cạnh đó, doanh nghiệp cũng phải nghiên cứu các phương án giới thiệu sản phẩm và các phương thức thanh toán linh hoạt, hợp lý. 3.5. Uy tín của doanh nghiệp. Uy tín là một công cụ cạnh tranh quan trọng của doanh nghiệp trước các đối thủ cạnh tranh. Do vậy, các doanh nghiệp phải luôn nâng cao uy tín của mình trên thị trường. Khi doanh nghiệp có uy tín cao thì chắc chắn sản phẩm của doanh nghiệp sẽ được khách hàng tiêu dùng nhiều hơn và như vậy thì doanh nghiệp đã đạt được lợi thế trong cạnh tranh. IV. Đầu tư nâng cao khả năng cạnh tranh . 1. Vốn và cơ cấu vốn đầu tư hợp lý. Vốn và cơ cấu vốn đầu tư là một trong những yếu tố quyết định đến khả năng cạnh tranh của một doanh nghiệp. Một doanh nghiệp hoạt động nếu như thiếu vốn thì không thể đạt được hiệu quả như mong muốn. Nhưng ngược lại nếu doanh nghiệp có nhiều vốn mà không có một cơ cấu vốn phù hợp với thực trạng hoạt động của công ty thì cũng không thể nâng cao được lợi nhuận cũng như hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh. Chính vì thế, để có thể nâng cao được khả năng cạnh tranh thì trước hết đòi hỏi doanh nghiệp phải có một lượng vốn nhất định, và đồng thời phải luôn có một cơ cấu vốn hợp lý. 2. Đầu tư vào tài sản cố định. Đầu tư vào tài sản cố định đóng vai trò quan trọng nhất trong hoạt động đầu tư nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp bởi hai lý do cơ bản sau: Thứ nhất, chi phí cho các hạng mục chiếm tỷ lệ cao trong tổng vốn đầu tư. Thứ hai, đó là bộ phận cơ bản tạo ra sản phẩm - hoạt động chính của mỗi doanh nghiệp. Như vậy, hoạt động đầu tư vào tài sản cố định đóng vai trò quan trọng nhất nếu không muốn nói là quyết định đối với phần lợi nhuận thu được cũng như khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Các hãng thường tăng cường thêm tài sản cố định khi họ thấy trước được những cơ hội có lợi để mở rộng sản xuất hoặc vì họ có thể giảm bớt chi phí bằng cách chuyển sang những phương pháp sản xuất dùng nhiều vốn hơn. Nhưng việc đầu tư quá lớn cho tài sản cố định lại đồng nghĩa với việc vốn khê đọng lớn. Do vậy, doanh nghiệp cần phải xác định mức hợp lý cho tài sản cố định, phù hợp với khả năng cũng như quy mô hoạt động của doanh nghiệp. Như chúng ta đã biết, trong quá trình sử dụng, tài sản cố định có sự giảm dần về giá trị, đây chính là sự hao mòn tài sản cố định. Chính vì đặc điểm này mà trong quá trình vận hành sử dụng các tài sản loại này, cần phải có sự tính toán khấu hao và giành một phần lợi nhuận của doanh nghiệp để hình thành nên quỹ đầu tư cho tài sản cố định. Khi tiến hành trích khấu hao cần phải xem xét các yếu tố: Tình hình tiêu thụ sản phẩm do tài sản cố định đó tạo ra trên thị trường Hao mòn vô hình của tài sản Vốn đầu tư cho tài sản cố định 3. Đầu tư vào nguồn nhân lực. Nếu như tài sản cố định là một bộ phận quan trọng hình thành nên năng lực sản xuất của doanh nghiệp thì có thể coi nguồn nhân lực là bộ phận quyết định đến việc vận hành quá trình sản xuất kinh doanh trong doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp có cơ sở vật chất hiện đại nhưng không có đội ngũ lao động có trình độ thì việc vận hành hoạt động sản xuất kinh doanh không hiệu quả và dẫn đến việc đưa doanh nghiệp thất bại trước các đối thủ cạnh tranh. Nguồn nhân lực trong cơ chế thị trường đóng một vai trò hết sức quan trọng, vì thế, trong chiến lược phát triển, doanh nghiệp không thể không đề cập đến vấn đề đầu tư đào tạo cho đội ngũ lao động của mình. Để hoạt động đầu tư có hiệu quả cần phân chia nguồn nhân lực ra thành đội ngũ cán bộ quản lý, đội ngũ cán bộ nghiên cứu và ứng dụng khoa học và đội ngũ công nhân trực tiếp lao động. Trong các doanh nghiệp, đội ngũ quản lý, đặc biệt là hàng ngũ giám đốc là một trong các yếu tố quan trọng để doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả, tuy nhiên phải thừa nhận rằng chúng ta chưa có những nhà quản lý doanh nghiệp giỏi theo cơ chế thị trường, vì vậy việc tổ chức đào tạo có tính hệ thống cho đối ngũ cán bộ này là cực kỳ quan trọng. Để có điều kiện tiếp cận với kinh nghiệm của các nước thì ngoài việc đầu tư tiền mới những chuyên gia giỏi của nước ngoài đến giảng dạy tại Việt nam, có phải cử những người có năng lực và phẩm chất đạo đức đi học ở các nước về quản lý doanh nghiệp. Việc tuyển chọn giám đốc và các chức danh khác trong doanh nghiệp cũng là yêu cầu bức xúc hiện nay. Cơ chế bổ nhiệm đề bạt hiện nay rõ ràng là không hiệu quả, do đó cần đầu tư cho cơ chế tuyển chọn giám đốc theo hình thức thi tuyển hoặc áp dụng hình thức thuê giám đốc theo hợp đồng có quy định quyền lợi và trách nhiệm rõ ràng. 4. Đầu tư vào tài sản vô hình. Khác với tài sản hữu hình, tài sản vô hình là các tài sản không có hình thái cụ thể, tuy nhiên nó có đóng góp quan trọng trong việc thúc đẩy sự phát triển của doanh nghiệp. Các tài sản vô hình đó có thể là uy tín của doanh nghiệp, bầu không khí làm việc, sự nổi tiếng của nhãn mác thương hiệu, vị trí thương mại... Các tài sản vô hình không trực tiếp tạo ra sản phẩm nhưng nó đã gián tiếp tác động làm cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp diễn ra nhanh hơn. Đầu tư hợp lý vào tài sản vô hình đồng nghĩa với việc thúc đẩy vị thế, lợi nhuận của doanh nghiệp tăng lên. Chẳng hạn, trước khi doanh nghiệp tung một sản phẩm mới ra thị trường thì doanh nghiệp buộc phải đầu tư cho việc thu thập, xử lý thông tin về nhu cầu thị trường đối với sản phẩm này và hiện nó đã được đáp ứng bao nhiêu và liệu nó có thể chiếm lĩnh được bao nhiêu thị phần... Có muôn vàn vấn đề liên quan đến hoạt động của doanh nghiệp thông qua tài sản vô hình. Chính vì thế doanh nghiệp cần phải có chính sách đầu tư phù hợp, cần phải xem cái nào là quan trọng cần thiết thì đầu tư trước còn lại sẽ tiến hành đầu tư dần dần, tránh đầu tư dàn trải. V. Các tiêu thức đánh giá khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp . 1. Thị phần mà doanh nghiệp chiếm lĩnh được. Một doanh nghiệp có khả năng cạnh tranh trước các đối thủ khi doanh nghiệp đó nâng cao được thị phần của mình hơn các đối thủ khác với cùng một đồng vốn đầu tư. Thị phần của doanh nghiệp càng lớn - đồng nghĩa với việc khẳng định ưu thế, vị thế lớn của doanh nghiệp trên thương trường - khẳng định sự chấp nhận về sản phẩm của doanh nghiệp của người tiêu dùng trên thị trường. Nó thể hiện sự thắng lợi của doanh nghiệp trong cạnh tranh giành thị trường. “Thương trường là chiến trường”, thất bại trên thương trường là việc không chiếm lĩnh được thị trường, không được thị trường chấp nhận, do đó nó cũng nguy hiểm không kém thất bại trên chiến trường. Trong chiến tranh, các bên tranh giành nhau từng vùng đất, vùng trời để khẳng định thế mạnh quân sự của mình; trong cạnh tranh trên thương trường, các bên cùng điều hành các thủ pháp và công đoạn chiếm lĩnh thị trường, nhằm thâu tóm thị trường, thu hút thêm khách hàng, để từ đó có điều kiện ngày càng bành trướng thế lực của doanh nghiệp trên thương trường. Khi đã thu hút được người khách hàng, có được một thị phần lớn, doanh nghiệp sẽ dễ dàng tiêu thụ được sản phẩm, nâng cao doanh thu, tăng lợi nhuận, điều đó có nghĩa là doanh nghiệp đã đạt được lợi thế cạnh tranh. 2. Hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp. Mức độ hiệu quả sử dụng vốn có thể xác định bằng 2 chỉ tiêu chính là Tỷ suất lợi nhuận trên vốn và Tỷ suất doanh thu trên vốn. Ngoài ra, xét về quyền lợi của nhà đầu tư, người ta có thể dùng chỉ tiêu Tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu để đánh giá khả năng sinh lời trên một đồng vốn của người góp vốn vào doanh nghiệp. Tỷ suất lợi nhuận trên vốn cho biết mức độ sinh lời của đồng vốn dùng trong kinh doanh. Tỷ lệ này cần bù đắp được chi phí cơ hội của việc sử dụng vốn. Thông thường, đồng vốn được coi là sử dụng có hiệu quả nếu tỷ lệ nói trên cao hơn mức sinh lời khi đầu tư vào các cơ hội khác, hay ít nhất phải cao hơn lãi suất tín dụng ngân hàng. Tỷ suất doanh thu trên vốn cho thấy mức doanh thu tạo ra trên một đồng vốn, ngoài ra nó còn cho biết mức quay vòng vốn. Tỷ suất này còn phụ thuộc vào đặc điểm kinh tế - kỹ thuật của ngành và chu kỳ sản xuất kinh doanh. Tình trạng hiệu quả thấp so với phí tổn sử dụng vốn sẽ làm cho các doanh nghiệp rơi vào vòng luẩn quẩn. Hiệu quả thấp cộng với thiếu vốn làm giảm sức cạnh tranh (về giá cả và chất lượng), từ đó thị phần bị thu hẹp, thậm chí mất thị trường, năng lực sản xuất không được tận dụng và hiệu quả sử dụng vốn lại càng thấp. Có nhiều người cho rằng cứ đạt được lợi nhuận là coi như có hiệu quả và có thể duy trì hoạt động kinh doanh. Điều đó là đúng nếu như không tính đến chi phí cơ hội sử dụng vốn, hoặc xét đến lợi ích xã hội của các hoạt động sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên, xét về khía cạnh sức cạnh tranh của doanh nghiệp thì kinh doanh có lãi chưa đủ mà cần phải đạt được một tỷ lệ lãi nhất định 3. Lợi nhuận mà doanh nghiệp đạt được. Mọi doanh nhân khi tham gia vào thương trường đều nhằm đạt được mục tiêu lợi nhuận tối đa. Khi doanh nghiệp đạt được mức lợi nhuận tối đa thì có nghĩa là doanh nghiệp đó đã đạt được lợi thế cạnh tranh cao hơn các đối thủ. Lợi nhuận của doanh nghiệp được xác định như sau: Lợi nhuận = tổng doanh thu - tổng chi phí - thuế B = P*Q - TC(q) - T Trong đó: P là giá sản phẩm Q là sản lượng sản xuất và tiêu thụ trong kỳ TC(q) là tổng chi phí để sản xuất và tiêu thụ ứng với Q sản phẩm T = P*Q*t là mức thuế mà doanh nghiệp phải nộp Như vậy, B = [ P(1-t) - AC ] Q, trong đó AC = TC/Q Vì lợi nhuận là mục tiêu hàng đầu, nên qua phương trình trên doanh nghiệp sẽ tự xác định cho mình mức sản lượng tiêu thụ và tiêu thụ với giá bán sản phẩm là bao nhiêu để doanh nghiệp có thể đạt mức lợi nhuận cao nhất mà các doanh nghiệp khác không thể đạt được. Và khi đó thì doanh nghiệp đã chiếm được lợi thế cạnh tranh trên thị trường. 4. Khả năng chủ động thích ứng với môi trường. Chủ động thích ứng với môi trường, đó là sự phản ứng nhanh nhạy, phù hợp với những thay đổi về mặt kinh tế - chính trị - xã hội, mà cụ thể hơn là những biến động về mặt pháp lý, chính sách, giá cả đầu vào, nhu cầu, thị hiếu của khách hàng... để luôn đi trước các doanh nghiệp khác. Đây là một phần trong việc thực hiện hạn chế rủi ro của doanh nghiệp. Rủi ro thường xuất phát từ những thay đổi của môi trường, nếu doanh nghiệp không thay đổi theo kịp sự biến động của môi trường thì doanh nghiệp sẽ bị tụt lại và hiển nhiên thất bại đang chờ doanh nghiệp. Ngược lại, một khả năng chủ động thích ứng với môi trường sẽ cho phép doanh nghiệp hạn chế được rủi ro, tăng khả năng cạnh tranh và tiếp tục tồn tại vững chắc trên thị trường. Chương II Thực trạng về đầu tư nâng cao khả năng cạnh tranh trong lĩnh vực đầu tư xây dựng cơ bản của Công ty cổ phần tài chính và phát triển doanh nghiệp(FBS). I. Tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty cổ phần tàI chính và phát triển doanh nghiệp(fbs). 1. Giới thiệu chung về công ty cổ phần tài chính và phát triển doanh nghiệp (FBS). 1.1. Quá trình hình thành và phát triển của công ty. Từ khi mở cửa nền kinh tế đến nay nước ta dã có nhiều biến đổi sâu sắc, từ một nước nông nghiệp lạc hậu bị chiến tranh tàn phá nặng nề, cơ sở hạ tầng yếu kém. Nước ta đã dần đi vào quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và đã đạt được những thành công đáng kể, từng bước xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ cho mục tiêu phát triển nền kinh tế nước ta đến năm 2020 trở thành nước công nghiệp. Nâng cao đời sống nhân dân để từng bước hội nhập với nền kinh tế khu vực và thế giới. Nền kinh tế càng phát triển thì tích lũy của nền kinh tế và tích lũy trong dân càng lớn, do đó mà nhu cầu đòi hỏi về cơ sở hạ tầng giao thông, công nghệ thông tin, nhà ở… càng cao. Xuất phát từ nhu cầu thực tế đó, công ty cổ phần tài chính và phát triển doanh nghiệp (FBS) đã được thành lập (tháng 6/2001) và đặt trụ sở chính tại số 28- Đường Trần Nhật Duật- Quận Hoàn Kiếm- Hà Nội. Nó hoạt động trên 2 lĩnh vực chính đó là : Xây dựng các công trình dân dụng và công nghiệp lớn nhỏ và kinh doanh vật liệu xây dựng (với phương châm “nhà ở cho mọi gia đình ”lấy tốc độ và chất lượng của sản phẩm làm vũ khí cạnh tranh , trong những năm qua công ty đã đạt được những kết quả cao trong thời gian qua). HĐQT 1.2. Sơ đồ cơ cấu tổ chức. Ban nhân lực hệ thống Ban Kinh doanh Chi nhánh Thái Bình Chi nhánh Gia Lai Chi nhánh Phú Yên Văn phòng đại diệnTPHCM Văn phòng đại diện Việt Trì Ban Tài chính Ban Phát triển dự án Ban TGĐ 1.3. Chức năng nhiệm vụ của các phòng ban. a> Hội đồng quản trị : Là cơ quan quản lý công ty, có toàn quyền nhân danh công ty quyết định mọi vấn đề hoạt động của công ty trừ những vấn đề thuộc thẩm quyền đại hội cổ đông. b> Ban tổng giám đốc: Đứng đầu là tổng giám đốc Công Ty do hội đồng quản trị bổ nhiệm có nhiệm vụ thay mặt các cổ đông chỉ đạo điệu hành hoạt động hàng ngày trong toàn công ty. Chịu trách nhiệm trước hội đồng quản trị về các nhiệm vụ và quyền hạn được giao. Dưới Tổng Giám Đốc có các Phó Tổng Giám Đốc do Tổng Giám Đốc đề nghị và thông qua hội đồng quản trị có nhiệm vụ giúp việc cho Tổng Giám Đốc, thay mặt cho Tổng Giám Đốc phụ trách các mảng hoạt động trong công ty. Có trách nhiệm báo cáo tình hình hoạt động của bộ phận mình phụ trách cho Tổng Giám Đốc. Ban phát triển dự án: Phụ trách các vấn đề liên quan đến các dự án . Thẩm định các dự án đầu tư của công ty, giám sát qúa trình hoạt động của các dự án. Thẩm định các dự án đầu tư, tổ chức đấu thầu, mời thầu, phê duyệt các dự án. Ban phát triển dự án có các chức năng, nhiệm vụ cơ bản sau: Tìm kiếm dự án: Đây là nhiệm vụ quan trọng của ban phát triển dự án và nó có ảnh hưởng lớn đến quá trình hoạt động của công ty, vì vậy nó đòi hỏi đội ngũ nhân viên phải có trình độ, năng lực và làm việc với tinh thần trách nhiệm rất cao. Để tìm kiếm và lựa chon dự án phù hợp giúp cho qúa trình hoạt động của công ty hiệu quả hơn. Tổ chức thẩm định các DAĐT: Sau khi tìm kiếm được các dự án phù hợp, công ty tiếp tục tiến hành thẩm định báo cáo tiền khả thi, báo cáo khả thi, thẩm định hồ sơ thiết kế kỹ thuật và tổng dự toán của dự án đầu tư. Một dự án đầu tư được coi là khả thi khi nó thoả mãn cả về mặt tài chính và kỹ thuật. Nếu dự án là khả thi, công ty sẽ tiến hành tổ chưc đấu thầu, mời thầu cho các dự án đầu tư. Thành lập ban mời thầu, ban xét thầu, sau đó tiến hành đấu thầu. Ban mời thầu có nhiệm vụ mời thầu và tiếp nhận các hồ sơ dự thầu, sau khi đóng thầu ban mời thầu có nhiệm vụ chuyển các hồ sơ mời thầu của các nhà thầu cho ban xét thầu làm việc: Ban xét thầu có nhiệm vụ xem xét các hồ sơ dự thầu của các nhà thầu lựa chọn nhà thầu nào đáp ứng tốt nhất yêu cầu, các tiêu chí, chi tiêu của dự án . Cuối cùng là công bố nhà thầu nào đã trúng thầu . Ban kinh doanh: Phụ trách về hoạt động kinh doanh của công ty, bao gồm các chức năng nhiệm vụ chính sau: Xây dựng kế hoạch kinh doanh của công ty. Để đảm bảo cho hoạt động kinh doanh của công ty đạt hiệu quả, để tránh tình trạng lãng phí thời gian, tiền bạc và để cho hoạt động kinh doanh của công ty đi đúng hướng công ty cần phải xây dựng một kế hoạch kinh doanh cụ thể phù hợp từng thời kỳ hoạt động của công ty. Xây dựng phương án, quy trình kinh doanh bán hàng Phương pháp chăm sóc khách hàng. Thực hiện nhiệm vụ Marketting, quảng cáo…. Ban tài chính : Có chức năng quản lý và báo cáo tình hình hoạt động tài chính của công ty với Tổng Giám Đốc. Xây dựng các phương án hoạt động tài chính phù hợp với mỗi thời kỳ khác nhau. Ban tài chính gồm có: - Phòng kế toán : Có chức năng nhiệm vụ sau: +> Tham mưu giúp việc cho ban Giám Đốc trong công tác quản lý và thực hiện các chế độ chính sách về kế toán tài chính của công ty theo quy định của pháp luật hiện hành. +> Chỉ đạo thực hiện toàn bộ công tác kế toán . +> Giám sát việc lưu chuyển đồng tiền +> Kế toán trưởng chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt động tài chính kế toán của công ty trước hội đồng thành viên. +> Kế toán trưởng chịu trách nhiệm giao dịch với các cơ quan thuế, ngân hàng và các hoạt động tài chính của công ty để thực hiện tốt kế hoạch kinh doanh đầu tư. +> Tổ chức bảo quản lưu trữ các tài liệu kế toán, giữ bí mật các tài liệu và số liệu kế toán thuộc bí mật của công ty. Quản lý các hoạt động đầu tư tài chính, giám sát và thực hiện các hoạt động đầu tư tài chính. Các ngân hàng thương mại VP Bank, Phương Nam Bank, A Châu Bank, Vietcom Bank, Techcom Bank. Mua cổ phần và thành viên sáng lập Ban nhân lực hệ thống : Thay mặt ban Giám Đốc trực tiếp quản lí đội ngũ nhân lực của công ty và báo cáo tình hình nhân lực của công ty cho ban Giám Đốc. Ban nhân lực hệ thống có chức năng nhiệm vụ sau: Tổ chức quản lý nguồn nhân lực Lập ra các văn phòng điều hành. Trung tâm tin học và hệ thống mạng máy tính. Tổ chức tuyển dụng nhân viên. Điều hành đội ngũ nhân viên. 1.4. Các hoạt động kinh doanh chính của công ty. Xây dựng các công trình công nghiệp, công cộng, nhà ở và xây dựng khác Trang trí nội thất, sân vườn Sản xuất vật liệu xây dựng thoát nước, cấu kiện bê tông Sản xuất ống cấp thoát nước, phụ tùng phụ kiện Kinh doanh nhà Kinh doanh vật liệu xây dựng Kinh doanh nhà hàng khách sạn. Xây dựng kênh, mương, đê, kè, trạm bơm thuỷ lợi vừa và nhỏ; các công trình kỹ thuật hạ tầng đô thị và khu công nghiệp Xây dựng các công trình xử lý chất thải loại vừa và nhỏ. II. tình hình sản xuất kinh doanh của công ty cổ phần tàI chính và phát triển doanh nghiệp(fbs). Từ khi thành lập đến nay, Công ty cổ phần tài chính và phát triển doanh nghiệp (FBS) chủ yếu thi công xây lắp các công trình xây dựng dân dụng và công nghiệp cho nên đối tượng chính để phục vụ là những công trình mà Công ty thắng thầu. Song để tăng năng lực xây lắp, tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh cũng như để bảo đảm sự tăng trưởng bền vững thì Công ty còn phải tập trung đầu tư vào việc tăng năng lực cung cấp cốp pha, kinh doanh vật liệu xây dựng , đầu tư vào máy móc thiết bị và tăng cường các hoạt động dịch vụ phục vụ khách hàng. Nhờ vậy mà trong những năm qua, công ty đã khẳng định được vị trí của mình trong Tổng công ty, cũng như trên thị trường trong và ngoài nước. Nhờ có chiến lược mở rộng thị trường, cụ thể là Công ty cổ phần tài chính và phát triển doanh nghiệp (FBS) đã chọn những thị trường phù hợp với khả năng và điều kiện có thể đáp ứng mà công ty đã tạo được thế đứng ổn định vững vàng trong thời buổi khó khăn. Hơn 85% giá trị sản xuất kinh doanh của Công ty có được là từ dịch vụ xây lắp các công trình dân dụng và công nghiệp. Trong giai đoạn tới, Công ty vẫn tiếp tục hướng tập trung chủ yếu vào tìm kiếm các dự án đầu tư xây dựng ở HN và các tỉnh lân cận. Do sức cạnh tranh của vật liệu ngoại cao cấp của thị trường nên công ty đã tự sản xuất vật liệu xây dựng (bao gồm việc sản xuất cấu kiện đúc sẵn, giàn giáo cốp pha cho thuê nhưng trong đó chủ yếu là sản xuất bê tông tươi) để có thể chủ động cung cấp cho các công trình xây dựng. Hơn thế nữa, công ty còn bán sản phẩm này cho các công trình khác và được đánh giá là có chất lượng rất tốt. Nhằm góp phần thúc đẩy sự tăng trưởng của đơn vị, đa dạng hóa sản phẩm và giải quyết công ăn việc làm ổn định cho cán bộ công nhân viên, Công ty xác định hướng mở rộng đầu tư xây dựng sản xuất vật liệu xây dựng là một hướng đi đúng đắn và sớm mang lại hiệu quả trong công tác kinh doanh của đơn vị. Bảng 1: Giá trị sản lượng sản xuất, kinh doanh trong 3 năm 2002 á 2004 Năm Số CT Giá trị sản lượng SXKD ( triệu đồng) Doanh thu ( triệu đồng) 2002 91 105.474 trong đó: 92.247 Giá trị SXXL: 93.231 Giá trị SXCN &VLXD khác:12.234 104.401 trong đó: 95 Giá trị SXXL: 96.742 2003 Giá trị SXCN &VLXD khác: 7.659 70.684 152.139 trong đó: 101 Giá trị SXXL: 139.503 2004 Giá trị SXCN &VLXD khác:12.636 113.281 Căn cứ vào kết quả sản xuất kinh doanh của Công ty từ năm 2002 đến năm 2004 (căn cứ vào kết quả cụ thể được thể hiện trong bảng) chúng ta thấy tình hình hoạt động sản xuất, kinh doanh của Công ty rất tốt, các chỉ tiêu năm sau nhìn chung đều cao hơn năm trước. Về giá trị sản lượng sản xuất kinh doanh cao nhất là năm 2004(152.139 triệu đồng) so với năm 2002 (105.474 triệu đồng) thì tăng lên 144%. Trong giai đoạn này, chúng ta nhận thấy rằng, tình hình giá trị sản lượng sản xuất kinh doanh năm 2003 (104.401 triệu đồng) có giảm so với năm 2002 (105.474 triệu đồng). Nguyên nhân của sự giảm sút này không phải là do số công trình thực hiện trong năm giảm mà do tình hình sản xuất công nghiệp và vật liệu xây dựng (chủ yếu là bê tông tươi) giảm. Tuy vậy, năm 2004, Công ty cổ phần tài chính và phát triển doanh nghiệp (FBS) đã khắc phục được tình hình này và tiếp tục tăng giá trị sản lượng. Về doanh thu, thấp nhất là năm 2003 (70.684 triệu đồng) còn cao nhất là năm 2004(113.281 triệu đồng). So với năm 2003, thì năm 2004 tăng lên 160%. Tình hình doanh thu của Công ty trong giai đoạn này có sự gia tăng,chỉ riêng có năm 2003 (70.684 triệu đồng) là giảm so với năm 2002(92.247 triệu đồng). Nguyên nhân là do doanh thu của công ty phụ thuộc khá nhiều vào khả năng sản xuất và tiêu thụ bê tông tươi . Năm 2005, Công ty cổ phần tài chính và phát triển doanh nghiệp (FBS) có đề ra kế hoạch định hướng như sau: Tổng giá trị sản lượng sản xuất kinh doanh: 165.000 triệu đồng Trong đó: Giá trị SXXL (sản xuất xây lắp) : 150.000 triệu đồng Giá trị SXCN và VLXD khác(sản xuất công nghiệp và vật liệu xây dựng khác): 15.000 triệu đồng Tổng doanh thu: 115.000 triệu đồng Như vậy, năm 2005 Công ty phấn đấu tăng giá trị sản lượng so với năm 2004 là 108,5% và tỷ lệ doanh thu tăng 101,5%. III. Tình hình đầu tư nâng cao khả năng cạnh tranh của công ty . 1. Vốn và cơ cấu vốn. Một trong những đặc điểm nổi bật của hoạt động xây dựng là thời gian kéo dài và khối lượng công việc lớn, các doanh nghiệp xây dựng thường phải ứng trước một số tiền lớn khi thi công. Do vậy, vấn đề vốn và tài chính có ý nghĩa rất quan trọng trong việc nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Vì lý do trên mà yếu tố vốn và tài chính luôn được Công ty cổ phần tài chính và phát triển doanh nghiệp (FBS) quan tâm. Việc ban hành “Quy chế quản lý tài chính” ngay từ khi thành lập đã giúp cho công tác quản lý tài chính của Công ty nhanh chóng đi vào nề nếp. Nếu như trước đây công tác hạch toán phân tán giữa các đơn vị gây khó khăn cho công tác quản lý tài chính thì hiện nay Công ty đã áp dụng thành công mô hình hạch toán kế toán tập trung. Từ khi thành lập, công ty cổ phần tài chính và phát triển doanh nghiệp (FBS) đã có một lượng vốn nhất định là 14.070.000.000 VNĐ gồm vốn đóng góp của các cổ đông(vốn tự có), một phần vay của các ngân hàng mà công ty có cổ phần và một số nguồn khác. Trong đó, vốn cố định là : 13.230.000.000 VNĐ vốn lưu động là : 840.000.000 VNĐ Theo nguồn vốn thì bao gồm: +Vốn đónggóp của các cổ đông(vốn tự có) :12.616.000.000 VNĐ. + Vốn vay của các ngân hàng : 154.000.000 VNĐ. + Vốn khác : 1.300.000.000 VNĐ Như vậy, lượng vốn ban đầu của công ty là khá lớn, song trong quá trình hoạt động để có thể nâng cao khả năng cạnh tranh thì công ty vẫn phải huy động vốn từ nhiều nguồn vốn. Trong kế hoạch về vốn và nguồn vốn trong năm 2005, Công ty cổ phần tài chính và phát triển doanh nghiệp (FBS) sẽ tăng nguồn vốn kinh doanh lên so với năm 2004 là 107% nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của mình. Trong đó, nguồn vốn tự bổ sung sẽ tăng 111%. Bên cạnh đó, nguồn vốn đầu tư của Công ty cũng sẽ tăng 137% so với năm 2004. Vay từ ngân hàng vẫn là nguồn vay chủ yếu của Công ty trong năm này và việc vay từ nguồn này tăng 144% ( năm 2004: 8.573,09 triệu đồng đến năm 2005 là: 12.362,65). Ngoài ra, công ty tiếp tục vay từ các quỹ đơn vị với một khoản không đổi so với năm trước. Bảng 2: Kế hoạch vốn và nguồn vốn năm 2005 TT Chỉ tiêu Thực hiện năm 2004 (Triệu đồng) Dự kiến KH năm 2005 (Triệu đồng) Tỷ lệ (%) 1 Nguồn vốn kinh doanh 11.533,18 12.329,80 107 Nguồn vốn tự bổ sung 6.936,75 7.733,37 111 Nguồn vốn khác 4.596,43 4.596,44 100 2 Nguồn vốn đầu tư 10.210,44 14.000,00 137 Vay trung và dài hạn ngân hàng 8.573,09 12.362,65 144 Từ các quỹ đơn vị 1.637,35 1.637,36 100 Với những cố gắng trong việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn và đảm bảo uy tín trong các quan hệ tài chính, đến nay, tình hình tài chính của Công ty đã có khả năng đáp ứng những yêu cầu cho việc đầu tư các công trình xây dựng lớn và nhỏ. Điều đó được thể hiện qua những số liệu và chỉ tiêu tài chính sau: Bảng 3: Bảng cân đối kế toán của Công ty cổ phần tài chính và ._.dùng. Đây là điều kiện thuận lợi để phát hành trái phiếu Công ty nhằm bổ sung vốn cho quá trình đầu tư đổi mới công nghệ, Công ty có thể sử dụng uy tín của Công ty và của sản phẩm của mình để huy động vốn nhàn rỗi trong dân và trong các doanh nghiệp khác. Song nếu Công ty muốn phát hành trái phiếu thì phải được sự cho phép của Nhà nước. Đồng thời Công ty phải tính toán để khi đưa vốn vào sử dụng phải đảm bảo thu lãi để có khả năng trả cả vốn lẫn lãi, tính đến lợi ích lâu dài của Công ty vì mức lãi suất của trái phiếu phải hấp dẫn hơn so với lãi suất thu hút của ngân hàng thì mới có thể huy động được nguồn vốn này. 1.4. Tận dụng chính sách cho trả chậm tiền máy móc, thiết bị của các Công ty nước ngoài Thông thường, khi chúng ta mua máy móc, thiết bị của các Công ty nước ngoài, họ thường cho chúng ta trả chậm một số tiền mua máy móc, thiết bị. Số tiền này tương đối lớn so với số vốn đầu tư đổi mới công nghệ của các doanh nghiệp Việt Nam. Vì vậy, Công ty Một số giải pháp chủ yếu để đầu tư nâng cao được khả năng cạnh tranh của Công ty cổ phần tài chính và phát triển doanh nghiệp (FBS) cần triệt để tận dụng chính sách này của các nước bán máy móc, thiết bị để có thêm vốn đầu tư đổi mới công nghệ. Ngoài ra, Công ty Một số giải pháp chủ yếu để đầu tư nâng cao được khả năng cạnh tranh của Công ty cổ phần tài chính và phát triển doanh nghiệp (FBS) còn có thể tạo thêm nguồn vốn thông qua các hình thức liên doanh, liên kết hoặc phát hành cổ phiếu. Đây là những biện pháp huy động vốn rất tốt mà nếu thực hiện được Công ty sẽ có thêm nguồn vốn để đầu tư đổi mới công nghệ mà không phải trả lãi cho các nguồn vốn tăng thêm đó. Tóm lại, tình trạng thiếu vốn làm cho các tổ chức kinh doanh ở Việt Nam nói chung bị lúng túng do không có tiền hoặc không có tiền kịp thời để mua các công nghệ và thiết bị tiên tiến hoặc phải chịu những thiệt thòi nhất định (chịu lãi suất cao, bị những ràng buộc về cạnh tranh...) khi vay vốn để tiến hành đổi mới công nghệ. Công ty cổ phần tài chính và phát triển doanh nghiệp (FBS) cũng gặp rất nhiều khó khăn do thiếu vốn trong quá trình đổi mới công nghệ. Chính vì vậy, Công ty chỉ có thể tiến hành đổi mới công nghệ đồng bộ dần dần và theo từng phần mà không thể đổi mới công nghệ toàn diện, đồng bộ có hệ thống ngay một lúc được. Điều này đã làm giảm bớt hiệu quả do việc đổi mới công nghệ đem lại. Hơn nữa, việc huy động đủ vốn đã khó nhưng việc sử dụng số vốn huy động được có hiệu quả lại càng khó hơn vì nó không chỉ ảnh hưởng tới khả năng trả nợ mà còn ảnh hưởng tới cả khả năng vay tiếp cho các dự án sau này. Vì thế, Công ty cần phải huy động đủ nguồn vốn cần thiết theo một cơ cấu tài chính tối ưu đồng thời phải lựa chọn các bước đổi mới công nghệ hợp lý và có hiệu quả nhất. 2. Sử dụng tư vấn và áp dụng hình thức đấu thầu trong quá trình đầu tư mua sắm và đổi mới công nghệ: Như ở trên đã trình bày, việc thu hút, huy động vốn đã khó và quan trọng nhưng làm thế nào để sử dụng nó một cách có hiệu quả trong quá trình đầu tư đổi mới công nghệ còn khó và quan trọng hơn nhiều. Đây cũng là câu hỏi chưa có lời giải đáp cuối cùng. Đề cập tới vấn đề này, người ta thường nêu lên hàng loạt các khía cạnh như: khoảng cách quá xa về khả năng công nghệ của nước ta so với những nước bán công nghệ, đội ngũ lao động của Việt Nam còn thiếu kiến thức, có trình độ yếu kém... Tuy nhiên, còn một yếu tố nữa hết sức quan trọng nhưng thường ít được quan tâm tới. Đó là khi tiến hành mua sắm, đổi mới công nghệ, các doanh nghiệp của Việt Nam thường không sử dụng tư vấn. Cứ giả sử rằng chúng ta đã có đầy đủ các yếu tố cần thiết để có thể tiến hành đổi mới công nghệ thì thử hỏi chúng ta sẽ thu được những gì trong quá trình đổi mới công nghệ khi mà chúng ta còn chưa thể trả lời được những câu hỏi tưởng chừng đơn giản sau đây: + Ta mua công nghệ gì là thích hợp? + Giá bao nhiêu là hợp lý? + Nên mua từ nước nào? + Các hợp đồng chuyển giao công nghệ như thế nào là chặt chẽ, không bị "hớ"? + Các vấn đề quản lý kinh tế, quản lý kỹ thuật được tiến hành như thế nào để dự án được duy trì và sinh lời? Những câu hỏi tất yếu phải đặt ra nhưng trong hiện tại chưa được quan tâm đúng mức ấy lại quyết định phần lớn sự thành bại của dự án đầu tư mua sắm và đổi mới công nghệ. Chính vì vậy, phần lớn những công nghệ được chuyển giao ở nước ta là do phía nước ngoài giới thiệu chứ không phải do tự các doanh nghiệp Việt Nam tìm kiếm. Nhưng các công nghệ mới ở Công ty cổ phần tài chính và phát triển doanh nghiệp (FBS) thì khác. Công ty đã cử cán bộ trực tiếp sang các Công ty nước ngoài tìm hiểu về các quy trình công nghệ sản xuất rồi tự lựa chọn công nghệ thích hợp và trực tiếp đặt hàng. Tuy nhiên, có một điểm còn hạn chế là cán bộ của Công ty cổ phần tài chính và phát triển doanh nghiệp(FBS) chưa thể có đầy đủ kiến thức về công nghệ sản xuất sản phẩm xây dựng tiên tiến. Do đó, có thể vấn đề xác định giá cả và kí kết hợp đồng chuyển giao công nghệ có những điểm chưa hợp lý. Chính vì thế, trong giai đoạn đầu tư đổi mới công nghệ sắp tới, Công ty nên sử dụng tư vấn để quá trình đổi mới công nghệ có thể đạt hiệu quả cao hơn. Dịch vụ tư vấn đầu tư hoạt động trong các quá trình: chuẩn bị đầu tư, thực hiện đầu tư và các hoạt động tư vấn khác có liên quan đến quá trình đầu tư. Bên cạnh việc sử dụng tư vấn, Công ty cổ phần tài chính và phát triển doanh nghiệp(FBS) có thể áp dụng hình thức đấu thầu để nâng cao hiệu quả của quá trình đổi mới công nghệ. Đây là một hình thức rất tiên tiến và đang được áp dụng rất phổ biến trên thế giới. Việc áp dụng hình thức đấu thầu có thể đem lại những hiệu quả sau: Phát huy được tính chủ động trong việc tìm kiếm các cơ hội tham gia dự thầu và đấu thầu. Các nhà thầu sẽ phải tích cực tìm kiếm các thông tin do các chủ đầu tư đang mời thầu trên các phương tiện thông tin đại chúng, trên thị trường, gây dựng các mối quan hệ với các tổ chức trong và ngoài nước, tự tìm cách tăng cường uy tín của mình để có thể nắm bắt được các cơ hội dự thầu. Việc tham dự đấu thầu, trúng thầu và tiến hành thi công theo hợp đồng làm cho nhà thầu tập trung đồng vốn của mình vào một trọng điểm đầu tư. Ngay từ quá trình tham gia đấu thầu, nếu trình độ kỹ thuật công nghệ của nhà thầu không cao thì cũng khó có cơ hội trúng thầu, hoặc nếu có trúng thầu thì cũng do trình độ thi công, năng lực dự toán của nhà thầu thấp kém rất dễ dẫn đến bị lỗ. Thực tế này đòi hỏi các nhà thầu phải không ngừng nâng cao trình độ về mọi mặt như: tổ chức quản lý, đào tạo đội ngũ cán bộ, đầu tư nâng cao năng lực máy móc thiết bị... Có như vậy mới đảm bảo thắng thầu, đảm bảo hiệu quả đồng vốn mình bỏ ra là có lãi, mặt khác nâng cao được trình độ thi công công trình, nâng cao uy tín trên thị trường. Chọn được thiết bị, công nghệ tiên tiến, đảm bảo công suất của các hãng nổi tiếng trên thế giới. Nếu Công ty cổ phần tài chính và phát triển doanh nghiệp(FBS) áp dụng hình thức đấu thầu trong quá trình đầu tư đổi mới công nghệ thì hiệu quả của quá trình này sẽ tăng lên rất nhiều. II. Công ty cổ phần tài chính và phát triển doanh nghiệp (FBS) cần áp dụng phương pháp quản lý chất lượng toàn diện. Việc nâng cao chất lượng sản phẩm có tầm quan trọng sống còn đối với các doanh nghiệp. Điều đó thể hiện ở những điểm sau: Chất lượng luôn là một trong những nhân tố quan trọng nhất để quyết định khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường. Chất lượng tạo uy tín, danh tiếng và là cơ sở cho sự tồn tại và phát triển lâu dài của doanh nghiệp. Tăng chất lượng sản phẩm tương đương với tăng năng suất lao động xã hội. Việc tăng chất lượng sản phẩm dẫn tới tăng giá trị sử dụng và lợi ích kinh tế - xã hội trên một đơn vị chi phí đầu vào, giảm lượng nguyên vật liệu sử dụng, tiết kiệm tài nguyên, giảm những vấn đề về ô nhiễm môi trường. Nâng cao chất lượng sản phẩm còn là biện pháp hữu hiệu kết hợp các loại lợi ích của doanh nghiệp, người tiêu dùng, xã hội và người lao động. Chất lượng làm tăng khả năng cạnh tranh về kinh tế của đất nước và góp phần khẳng định vị trí của sản phẩm Việt Nam trên thị trường thế giới. Vì vậy các doanh nghiệp cần quản lý chất lượng sản phẩm. Quản lý chất lượng là hệ thống các hoạt động, các biện pháp, phương pháp và quy định hành chính, kinh tế, kỹ thuật, tổ chức... dựa trên những thành tựu khoa học, kỹ thuật nhằm sử dụng tối ưu các tiềm năng trong doanh nghiệp để đảm bảo duy trì và không ngừng nâng cao chất lượng (thiết kế, sản xuất, tiêu thụ và tiêu dùng) nhằm thỏa mãn nhu cầu của xã hội với chi phí thấp nhất. Còn quản lý chất lượng toàn diện là cách tổ chức quản lý của một tổ chức tập trung vào chất lượng thông qua việc động viên để thu hút mọi thành viên tham gia tích cực vào quản lý chất lượng ở mọi cấp, mọi khâu nhằm đạt được thành công lâu dài nhờ việc làm thỏa mãn nhu cầu của khách hàng và đem lại lợi ích cho mọi thành viên, cho tổ chức đó và cho xã hội. Quản lý chất lượng toàn diện rộng hơn quản lý chất lượng vì nó biểu hiện sự nỗ lực của mọi thành viên trong toàn doanh nghiệp trong việc quản lý chất lượng nhằm đạt và vượt các định mức về chất lượng đã đề ra với các chi phí thấp nhất. Quản lý chất lượng toàn diện có những đặc trưng chủ yếu sau: Coi chất lượng là nhận thức của khách hàng. Mức độ thỏa mãn nhu cầu khách hàng chính là mức độ chất lượng đạt được. Khách hàng là người đánh giá, xác định mức độ chất lượng đạt được chứ không phải là các nhà quản lý hay người sản xuất. Đặc trưng này đòi hỏi doanh nghiệp phải chú ý đến nhu cầu của khách hàng, tìm hiểu yêu cầu của khách hàng về chất lượng sản phẩm để có thể biết được chất lượng sản phẩm phù hợp. Quản lý chất lượng toàn diện lấy con người làm trung tâm. con người là nhân tố cơ bản, có ý nghĩa quyết định đến việc tạo ra và nâng cao chất lượng sản phẩm. Mọi thành viên trong doanh nghiệp từ giám đốc, các cán bộ quản lý, cán bộ kỹ thuật đến người lao động đều có vai trò và trách nhiệm về chất lượng sản phẩm. Chất lượng sản phẩm phụ thuộc vào trình độ chuyên môn, kinh nghiệm, ý thức tự giác, lòng nhiệt tình và khả năng trang bị kiến thức, phương tiện quản lý chất lượng. Do đó, có thể coi quản lý chất lượng toàn diện là việc biến quản lý chất lượng thành quá trình tự quản của mọi thành viên trong doanh nghiệp. Vì vậy, để thực hiện được quản lý chất lượng toàn diện cần làm cho mọi thành viên ý thức được trách nhiệm của mình, được trang bị đầy đủ về kiến thức quản lý và gắn quyền lợi với chất lượng do mình làm ra. Ngoài ra, quản lý chất lượng toàn diện còn chú trọng tới vai trò của tổ nhóm chất lượng, coi đó là biện pháp không thể thiếu được nếu muốn quản lý chất lượng thu được kết quả tốt. Quản lý chất lượng toàn diện "lấy phòng ngừa làm chính với phương châm làm đúng ngay từ đầu, sản xuất không có phế phẩm". Nhiệm vụ của quản lý chất lượng toàn diện là tập trung cho các hoạt động hoạch định chiến lược, chính sách và hoàn thiện chất lượng. Trong đó, nhiệm vụ cơ bản là xác định mọi nguyên nhân dẫn đến sự không phù hợp của chất lượng sản phẩm và tìm cách loại bỏ chúng thông qua việc tiến hành liên tục các hoạt động nhằm loại trừ những trục trặc trong quá trình, nguyên nhân gây ra các trục trặc và khiếm khuyết của sản phẩm. Quản lý chất lượng toàn diện tập trung vào quản lý mọi yếu tố, mọi khâu trong quá trình sản xuất thay vì quản lý sản phẩm. Quản lý chất lượng toàn diện phát triển tính linh hoạt và không ngừng nâng cao chất lượng của toàn bộ hệ thống và các quá trình từ thiết kế đến sản xuất, tiêu thụ và tiêu dùng sản phẩm. Để hoạt động quản lý chất lượng toàn diện có thể áp dụng thành công trong thực tế cần phải đảm bảo các yêu cầu cơ bản sau đây: Chất lượng phải thực sự trở thành mục tiêu hàng đầu, có vai trò trung tâm trong hoạt động của doanh nghiệp. Phải hiểu biết đầy đủ, chính xác nhu cầu hiện tại và xu hướng vận động của nhu cầu trong tương lai; theo dõi, nắm bắt kịp thời những diễn biến của nhu cầu, thị hiếu trên thị trường để có phương hướng, biện pháp thích hợp, kịp thời. Đánh giá được nhận thức của khách hàng về mức độ chất lượng mà doanh nghiệp và các đối thủ cạnh tranh đã đạt được để có chiến lược về chất lượng sản phẩm thích hợp. Xoá bỏ mọi hàng rào ngăn cách, tạo điều kiện tốt nhất cho sự phối hợp hoạt động của các phòng, ban, bộ phận nhằm hoàn thiện chất lượng của toàn bộ hệ thống. Khi nảy sinh vấn đề liên quan đến chất lượng cần tập trung xem xét bản thân hệ thống và quá trình, phát hiện nguyên nhân và giải quyết kịp thời. Khuyến khích, tạo điều kiện hình thành các tổ chức tự quản về chất lượng; đào tạo, trang bị những kiến thức và phương tiện đo lường, đánh giá chất lượng cho công nhân; động viên nâng cao lòng tự trọng, tự hào về chất lượng công việc của mình. Phương pháp quản lý chất lượng toàn diện đã được rất nhiều Công ty ở Nhật Bản vận dụng thành công và kết quả của nó là sự vươn lên chiếm vị trí hàng đầu trên thế giới về chất lượng của các sản phẩm có nguồn gốc từ Nhật Bản. Công ty cổ phần tài chính và phát triển doanh nghiệp (FBS) đang trong quá trình đầu tư đổi mới công nghệ với các máy móc, thiết bị hiện đại, nếu không áp dụng các phương pháp quản lý hiện đại sẽ không khai thác hết công suất máy móc, thiết bị bởi khi mua máy móc, thiết bị hiện đại Công ty chỉ yêu cầu chuyên gia nước ngoài hướng dẫn sử dụng. Vì vậy, để có môt quy trình công nghệ mới hoàn thiện, Công ty cần phải trải qua quá trình sử dụng, qua các sự cố rồi bổ sung. Hơn nữa, nếu chỉ đổi mới máy móc, thiết bị mà không có cách quản lý thiết bị và quản lý con người có hiệu quả thì hiệu quả của đổi mới công nghệ sẽ bị hạn chế và có thể sau một thời gian đưa vào sử dụng các máy móc, thiết bị sẽ không đảm bảo các yêu cầu về chất lượng sản phẩm như lúc mới đưa vào sản xuất và vì thế sẽ không thể nâng cao được khả năng cạnh tranh cho công ty. Hiện nay, chất lượng các sản phẩm xây dựng của Công ty cổ phần tài chính và phát triển doanh nghiệp (FBS) vẫn đang tiếp tục đáp ứng nhu cầu của khách hàng nhưng để nâng cao chất lượng hơn nữa và hạ giá thành sản phẩm, Công ty nên áp dụng phương pháp quản lý chất lượng toàn diện. III. Thành lập phòng Marketing nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất, kinh doanh ở Công ty cổ phần tài chính và phát triển doanh nghiệp(FBS). Trong thế giới phức tạp ngày nay, tất cả chúng ta đều phải am hiểu marketing. Đối với các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh thì marketing lại càng đóng vai trò quan trọng hơn. Các doanh nghiệp này cần tìm hiểu và ứng dụng marketing và quản trị marketing vào hoạt động sản xuất, kinh doanh ở doanh nghiệp mình. Marketing là phân tích, lập kế hoạch, thực hiện và kiểm tra việc thi hành những biện pháp nhằm thiết lập, củng cố và duy trì những cuộc trao đổi có lợi với những người mua đã được chọn lựa để đạt được những nhiệm vụ xác định của doanh nghiệp như thu lợi nhuận, tăng khối lượng sản phẩm tiêu thụ, mở rộng thị trường... từ đó mới có thể nâng cao khả năng cạnh tranh của mình. Như vậy, hoạt động marketing sẽ góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Tuy nhiên, trong thời gian vừa qua, Công ty cổ phần tài chính và phát triển doanh nghiệp (FBS) chưa chú trọng lắm đến công tác marketing. Điều này được thể hiện rõ nét nhất qua mô hình tổ chức bộ máy quản lý của Công ty. Đó là việc Công ty chưa có phòng marketing tuy vẫn có những hoạt động marketing mang tính chất đơn lẻ. Các hoạt động marketing này chủ yếu nằm ở các phòng như: Phòng kế hoạch - Tiêu thụ (phụ trách vấn đề về kế hoạch hóa, chính sách giá cả, tiêu thụ sản phẩm, phát triển sản phẩm mới), Phòng kỹ thuật (phụ trách vấn đề nghiên cứu, thiết kế, chế thử sản phẩm mới, quảng cáo), Phòng cung ứng vật tư (phụ trách vấn đề vật tư cho sản xuất). Màu sắc Marketing ở Công ty chưa rõ nét, nó phụ thuộc vào các phòng nói trên và chưa được coi như chức năng cơ bản của Công ty. Để phát huy hơn nữa hiệu quả hoạt động sản xuất, kinh doanh, nâng cao vị thế cạnh tranh, Công ty cổ phần tài chính và phát triển doanh nghiệp (FBS) nên thành lập phòng Marketing với những chức năng và nhiệm vụ cơ bản sau: * Nghiên cứu thị trường: Xác định thị trường hiện tại và thị trường tiềm năng của Công ty, trong đó cần xác định quy mô, cơ cấu và sự vận động của các loại thị trường này. Công việc này hết sức quan trọng. Khi xác định được quy mô của thị trường, Công ty có thể biết được tiềm năng của thị trường đối với nó để từ đó xác định quy mô hoạt động sản xuất, kinh doanh của Công ty cho phù hợp. Việc xác định cơ cấu thị trường giúp Công ty đánh giá đươc cơ cấu địa lý, cơ cấu sản phẩm và cơ cấu sử dụng các loại sản phẩm xây dựng của Công ty trên thị trường. Từ đó, Công ty có thể đề ra các chính sách thích hợp về phương pháp, tiêu thụ sản phẩm, về cơ cấu sản phẩm thích hợp. Việc theo dõi sự vận động của thị trường giúp cho Công ty đề ra những chính sách ứng phó linh hoạt khi thị trường có biến động. Cụ thể, Công ty cổ phần tài chính và phát triển doanh nghiệp (FBS) nên chọn đoạn thị trường xây dựng cho các công trình có vốn đầu tư của Nhà nước hay nước ngoài bỏ vốn. Đây là đoạn thị trường mà hiện nay sản phẩm của Công ty đã đáp ứng được nhu cầu của khách hàng về chất lượng và giá cả nhưng lại chưa đáp ứng được nhu cầu về số lượng. Vì thế, Công ty cần cải tiến hệ thống phân phối sản phẩm hợp lý nhất. Trong những năm qua, Công ty đã thực hiện chuyển đổi cơ cấu sản phẩm thông qua đổi mới công nghệ. Nghiên cứu và dự báo nhu cầu của thị trường về các loại sản phẩm xây dựng của Công ty để xác định đối tượng tiêu thụ sản phẩm của Công ty, số lượng và cơ cấu mua từng loại sản phẩm, lý do mua... Từ đó Công ty sẽ đề ra những chính sách thích hợp để thoả mãn nhu cầu của khách hàng ở mức độ cao nhất. Đây chính là chính sách nâng cao chất lượng sản phẩm theo nhu cầu của khách hàng. * Nghiên cứu đối thủ cạnh tranh: Đây là công tác rất quan trọng và không thể thiếu trong hoạt động marketing đặc biệt là trong những ngành mà cạnh tranh diễn ra ngày càng quyết liệt như ngành xây dựng. Trong công tác này, Công ty cần chú ý đến hiệu quả hoạt động sản xuất, kinh doanh, những chính sách mà các đối thủ cạnh tranh đang áp dụng cũng như tiềm năng phát triển của họ. Từ đó, Công ty sẽ đề ra các biện pháp để ứng phó. Nếu Công ty không chú ý đến công tác này thì rất có thể thị phần của Công ty sẽ dần dần rơi vào tay họ. * Nghiên cứu, thiết kế, phát triển sản phẩm mới: Mỗi một Công ty cần phải biết cách tạo ra những sản phẩm mới. Nhiều chuyên gia có kinh nghiệm thuộc các Công ty nước ngoài đã đưa ra kết luận rằng: trong chiến lược sản phẩm của mỗi doanh nghiệp, vấn đề mấu chốt là phải bảo đảm trong bất kỳ thời điểm nào của hoạt động sản xuất, kinh doanh cũng phải có ít nhất một sản phẩm mới vì việc phát triển sản phẩm mới sẽ đem lại những hiệu quả kinh tế rất to lớn. Nếu doanh nghiệp nào cũng làm được như vậy thì việc phát triển sản phẩm mới sẽ đem lại những lợi ích thiết thực sau: Đối phó và giải quyết kịp thời hiện tượng trì trệ trong sản xuất, kinh doanh, bảo đảm sự liên tục của hoạt động sản xuất, kinh doanh. Bảo đảm việc phát triển và mở rộng thị trường tiêu thụ hàng hoá. Hiệu quả kinh tế sẽ cao, lợi nhuận thu về ngày càng nhiều. Ngoài ra, các Công ty còn phải biết cách quản lý sản xuất sản phẩm mới của mình trong điều kiện thị trường luôn luôn thay đổi, những biến đổi về công nghệ và tình hình cạnh tranh. Như chúng ta đã biết, trong một thời gian tồn tại, mọi sản phẩm, hàng hoá đều trải qua một chu kỳ sống gồm bốn giai đoạn: Giai đoạn tung ra thị trường, giai đoạn tăng trưởng, giai đoạn chín muồi và giai đoạn suy thoái. Sự tồn tại chu kỳ sống của sản phẩm hàng hoá có nghĩa là trước mắt Công ty nổi lên hai vấn đề lớn. Thứ nhất, Công ty phải kịp thời tìm kiếm những sản phẩm mới để thay thế những sản phẩm đang ở thời kỳ suy thoái (vấn đề nghiên cứu sản phẩm mới). Thứ hai, Công ty phải biết tổ chức kinh doanh có hiệu quả những sản phẩm hiện có trong từng giai đoạn của chu kỳ sống của chúng (vấn đề quan điểm chiến lược đối với những giai đoạn của chu kỳ sống của sản phẩm). Do những thay đổi nhanh chóng về thị hiếu, công nghệ và tình hình cạnh tranh, Công ty không thể chỉ dựa vào những sản phẩm hiện có. Người tiêu dùng muốn và chờ đợi những sản phẩm mới và hoàn hảo. Các đối thủ cạnh tranh cũng nỗ lực tối đa để cung cấp cho người tiêu dùng những sản phẩm mới đó. Vì thế, mỗi Công ty đều phải có chương trình thiết kế sản phẩm mới của mình. Do đó, Công ty cổ phần tài chính và phát triển doanh nghiệp (FBS) cần phải ý thức được rằng sự phát triển sản phẩm mới là một việc làm hết sức quan trọng. Việc tung ra thị trường một sản phẩm mới thành công cũng đồng nghĩa với việc hiệu quả hoạt động sản xuất, kinh doanh và lợi thế cạnh tranh của Công ty được nâng cao. Song bên cạnh đó, Công ty cần nghiên cứu thật kỹ trước khi tung sản phẩm mới ra thị trường để tránh những thất bại đáng tiếc. * Đưa ra các chính sách marketing phù hợp nhằm đẩy mạnh công tác tiêu thụ sản phẩm. Công tác tiêu thụ sản phẩm cũng góp phần rất lớn trong việc tạo nguồn vốn cho công ty. Trong giai đoạn 2001 á 2004, nhờ tiêu thụ hết sản phẩm mà Công ty cổ phần tài chính và phát triển doanh nghiệp (FBS) đã có vốn để trả nợ và tích luỹ trong quá trình tiếp theo. Để đẩy mạnh công tác tiêu thụ, Công ty cổ phần tài chính và phát triển doanh nghiệp (FBS) cần thực hiện các chính sách Marketing sau: Chính sách sản phẩm: Chính sách sản phẩm là nền tảng, là xương sống của chiến lược chung marketing. Trong cơ chế thị trường, vấn đề quan trọng bậc nhất đối với mỗi doanh nghiệp là phải xác định đúng đắn chiến lược sản phẩm phù hợp với khả năng của doanh nghiệp và đảm bảo thoả mãn nhu cầu đa dạng của thị trường, cả nhu cầu muôn màu muôn vẻ của người tiêu dùng. Chỉ khi hình thành được chính sách sản phẩm, Công ty mới có phương hướng đầu tư, nghiên cứu thiết kế, sản xuất hàng loạt. Nếu chính sách sản phẩm không đảm bảo một sự tiêu thụ chắc chắn nghĩa là Công ty không có thị trường chắc chắn về sản phẩm thì những hoạt động nói trên sẽ rất mạo hiểm. Chỉ khi thực hiện tốt chính sách sản phẩm thì các chính sách giá cả, phân phối, giao tiếp và khuyếch trương mới có điều kiện triển khai một các có hiệu quả. Từ những nhận thức trên đây, ta thấy chiến lược sản phẩm có vai trò to lớn đối với sự phát triển sản xuất, kinh doanh đúng hướng, gắn bó chặt chẽ giữa sản xuất và tiêu thụ, giữa kế hoạch và thị trường bảo đảm việc đưa sản phẩm hàng hóa ra thị trường được người tiêu dùng chấp nhận và sau đó đảm bảo việc phát triển và mở rộng thị trường trên cơ sở coi trọng công tác cải tiến và chế thử sản phẩm mới cũng như việc theo dõi sát sao chu kỳ sống của sản phẩm; bảo đảm việc đưa sản phẩm ra thị trường được tiêu thụ với tốc độ nhanh trên cơ sở áp dụng các biện pháp thích hợp nhằm giành thắng lợi trong cạnh tranh. Chính sách sản phẩm bao gồm những công việc sau: Nghiên cứu và dự báo hướng phát triển của sản phẩm trong tương lai, đánh giá công dụng của sản phẩm hiện có, vạch ra chính sách chủng loại hợp lý, nghiên cứu hoàn thiện bao bì sản phẩm; nghiên cứu và đề xuất việc chế tạo sản phẩm mới, xác định khả năng tiêu thụ sản phẩm mới, đánh giá những sản phẩm mới đưa vào sản xuất và chu kỳ sống của sản phẩm... Chính sách giá cả: chính sách giá đối với mỗi sản phẩm của các đơn vị sản xuất, kinh doanh là việc quy định mức giá bán hoặc trong một số trường hợp là nhiều mức giá. Chính sách giá của một số sản phẩm không được quy định một cách cứng nhắc khi tung sản phẩm ra thị trường mà nó được xem xét lại một cách định kỳ trong suốt "vòng đời sản phẩm" tùy theo những thay đổi về mục tiêu của Công ty, sự vận động của thị trường và chi phí của Công ty, tùy theo chính sách của các đối thủ cạnh tranh... việc quy định giá cả có ảnh hưởng to lớn đến khối lượng sản phẩm tiêu thụ của Công ty. Nó thường xuyên là tiêu chuẩn quan trọng trong việc mua và lựa chọn khách hàng. Giá cả có tác động mạnh mẽ đến thu nhập và do đó đến lợi nhuận của Công ty. Mặc dù trên thị trường hiện nay, cạnh tranh về giá cả đã nhường vị trí hàng đầu cho cạnh tranh về chất lượng và thời gian nhưng giá cả vẫn có vai trò quan trọng đối với các đơn vị sản xuất, kinh doanh, nhất là trong nền kinh tế Việt Nam. Rõ ràng, giá cả vẫn giữ một vị trí quan trọng trong quá trình tái sản xuất. Giá cả biểu hiện tập trung các quan hệ về lợi ích kinh tế và vị trí, vai trò của doanh nghiệp trên thị trường. Vì thế, việc xác lập một chính sách giá cả đúng đắn là điều kiện cực kỳ quan trọng đối với Công cổ phần tài chính và phát triển doanh nghiệp (FBS) nhằm đảm bảo hoạt động sản xuất, kinh doanh có lãi, đạt hiệu quả cao và chiếm lĩnh thị trường. Tuy nhiên, giá cả chịu tác động của rất nhiều nhân tố nên sự hình thành và vận động của nó rất phức tạp. Việc xác lập chính sách giá cả hợp lý đòi hỏi phải giải quyết tổng hợp nhiều vấn đề. Chính sách phân phối: Phân phối trong marketing là những quyết định đưa hàng hóa vào các kênh phân phối, một hệ thống tổ chức và công nghệ điều hòa, cân đối thực hiện hàng hóa nơi sản xuất đến các khách hàng cuối cùng nhanh nhất nhằm đạt lợi nhuận tối đa. Chính sách phân phối hợp lý sẽ làm cho quá trình kinh doanh an toàn, tăng cường được khả năng liên kết trong kinh doanh, giảm được sự cạnh tranh và làm cho quá trình lưu thông hàng hóa nhanh và hiệu quả. Mạng lưới phân phối sản phẩm của Công ty cổ phần tài chính và phát triển doanh nghiệp(FBS) hiện nay là tương đối tốt. Vị trí của Trạm sản xuất bê tông của công ty được đặt trên trục đường giao thông thuận tiện cho các phương tiện vận tải việc phân phối sản phẩm đến các khách hàng trong thành phố cũng như trong các vùng lân cận. Một trạm bê tông khác của Công ty được đặt tại Quảng Ninh nhằm cung cấp sản phẩm bê tông tươi cho thị trường Đông Bắc Bắc Bộ một cách thuận tiện nhất. Ngoài ra, Công ty còn có một hệ thống xe tải vận chuẩn Bê tông có công suất cao luôn sẵn sàng phục vụ khách hàng. Chính sách quảng cáo, giao tiếp và khuyếch trương: để đảm bảo công tác tiêu thụ sản phẩm đạt hiệu quả cao hơn nữa, Công ty cần chú ý công tác quảng cáo, giao tiếp và khuyếch trương. Đây là những biện pháp đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm rất tốt. Tuy nhiên, do Công ty cổ phần tài chính và phát triển doanh nghiệp (FBS) mới thành lập, nên công tác quảng cáo và khuếch trương lại càng co vai trò quan trọng trong việc nâng cao năng lực cạnh tranh của công ty. IV. Đào tạo đội ngũ cán bộ công nhân viên: Trong giai đoạn hiện nay, trước sự cạnh tranh ngày càng mạnh mẽ, nhất là trong lĩnh vực xây dựng thì Công ty cổ phần tài chính và phát triển doanh nghiệp (FBS) cần có những giải pháp nhất định về đào tạo và quản lý đội ngũ cán bộ công nhân viên trong công ty như: Chú ý tới khâu tuyển lao động đầu vào, thực hiện tuyển chọn chặt chẽ, vừa nâng cao được mặt bằng chung về trình độ và tay nghề, vừa giảm bớt chi phí đào tạo không cần thiết. Đối với hàng ngũ lãnh đạo và các cán bộ chủ chốt cần phải được đào tạo có cơ bản, hệ thống về cách tổ chức quản lý kinh doanh, về pháp luật kinh tế, tiền tệ tín dụng... để họ có thể trở thành một đội ngũ doanh nhân có năng lực, có phẩm chất bằng cách mời chuyên gia giỏi của nước ngoài đến giảng dạy tại Việt Nam, hoặc gửi họ đi học ở nước ngoài. Đối với đội ngũ đốc công, trưởng ca, tổ trưởng sản xuất phải được hưởng một chế độ lương, thưởng hợp lý nhằm động viên, khuyến khích họ điều hành tốt một tổ, một ca sản xuất cụ thể. Thực hiện đào tạo cho công nhân thông qua các cuộc thi nâng bậc để đánh giá phân bậc công nhân từ đó có phương thức đào tạo lại. Tạo cho cán bộ công nhân viên nhận thấy rõ quyền lợi của mình gắn liền với chất lượng sản phẩm. Có chế độ thưởng phạt rõ ràng. Trong công ty, giám đốc là người quản lý doanh nghiệp và là người trực tiếp sử dụng lao động. Vì vậy, trong giai đoạn hiện nay, Nhà nước vẫn cần chỉ đạo và hướng dẫn phương pháp xây dựng hệ thống tiền lương, định mức lao động, đơn giá tiền lương, quy định tiền lương bình quân theo ngành gắn với NSLĐ để các doanh nghiệp làm cơ sở tính chi phí tiền lương trong giá thành và phí lưu thông. Bên cạnh đó, công ty cần xây dựng quy chế trả lương của đơn vị mình để có điều kiện thực hiện việc gắn hưởng thụ theo mức độ cống hiến và làm cơ sở cho việc thực hiện quyền dân chủ của người lao động trong công ty. lời kết Trong giai đoạn hiện nay, việc đầu tư nâng cao khả năng cạnh tranh đã và đang làm thay đổi những yếu tố quyết định đến sự tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế đất nước. Đối với Công ty cổ phần tài chính và phát triển doanh nghiệp (FBS), việc tiếp tục đầu tư nâng cao khả năng cạnh tranh trong giai đoạn 2005 - 2008 là vấn đề hết sức cần thiết và cấp bách. Nâng cao khả năng cạnh tranh chẳng những quyết định sự sống còn của Công ty trong cơ chế thị trường mà còn tạo ưu thế cho Công ty về chất lượng và sản lượng sản phẩm trên thị trường. Dựa trên cơ sở lý luận về đầu tư và cạnh tranh cùng với tình hình thực tế của Công ty cổ phần tài chính và phát triển doanh nghiệp (FBS), em đã mạnh dạn phân tích thực trạng về tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh và khả năng cạnh tranh của Công ty trong lĩnh vực đầu tư xây dựng cơ bản, cũng như đề xuất một số biện pháp nhằm tiếp tục nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh, giúp Công ty tiếp tục phát triển và tăng trưởng ổn định và bền vững. Tuy nhiên, do còn hạn chế về trình độ và thời gian nên bài chuyên đề này chắc chắn không tránh khỏi một số sai sót. Em xin chân thành cảm ơn sự chỉ bảo nhiệt tình của thầy giáo hướng dẫn TS Nguyễn Hồng Minh cũng như các cô chú trong Công ty cổ phần tài chính và phát triển doanh nghiệp (FBS) đã giúp em hoàn thành bài chuyên đề tốt nghiệp này. Tài liệu tham khảo 1. Giáo trình Kinh tế đầu tư . Chủ biên: TS. Nguyễn Bạch Nguyệt – TS. Từ Quang Phương Nhà xuất bản thống kê 2. Giáo trình Lập và quản lý dự án đầu tư. Chủ biên: TS. Từ Quang phương 3. Tạp chí Tài chính doanh nghiệp . 4. Kinh tế và dự báo số 5, 6/2003. 5. Phát triển kinh tế số3/2002. 6. Thị trường Tài chính tiền tệ số 4/2004. 7. Con số và sự kiện số 2/2003; 6/2004. 8. Quy chế mới về quản trị tài chính DNNN. 9. Kết quả điều tra thực trạng DNNN, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hoạt động Thương nghiệp, Khách sạn, Nhà hàng, Du lịch và dịch vụ. 10. Nghị định 338/HĐBT, Quyết định 315/HĐBT, Chỉ thị 500/Ttg, Nghị định 59/CP của Chính phủ. 11. Luật Doanh nghiệp Nhà nước. 12. Các tạp chí và báo khác. ….. Mục lục ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docJ0069.doc
Tài liệu liên quan