Đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh tại Công ty cổ phần chứng khoán Thăng Long. Thực trạng và giải pháp

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT TTCK CTCK ĐHĐCĐ HĐQT TGĐ VĐT PR R&D TSC SSI BVSC BSC VCBS VIETINBANKSC AGRISECO Thị trường chứng khoán Công ty chứng khoán Đại hội đồng cổ đông Hội đồng quản trị Tổng giám đốc Vốn đầu tư Quan hệ công chúng Nghiên cứu và phát triển. Công ty cổ phần chứng khoán Thăng Long Công ty cổ phần chứng khoán Sài Gòn Công ty cổ phần chứng khoán Bảo Việt Công ty TNHH chứng khoán ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam Công ty TNHH chứng khoán ng

doc102 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1487 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh tại Công ty cổ phần chứng khoán Thăng Long. Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ân hàng ngoại thương Việt Nam Công ty TNHH chứng khoán ngân hàng công thương Việt Nam Công ty chứng khoán Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam DANH MỤC BẢNG, BIỂU, SƠ ĐỒ Sơ đồ, bảng, biểu Trang Bảng 1.1: Thị phần giao dịch của một số CTCK giai đoạn 2005 – 2008 ... 25 Bảng 1.2: Dịch vụ bỏa lãnh phát hành của một số CTCK tính đến tháng 6/2007 ……………………………………………………………………... 27 Sơ đồ 2.1: Cơ cấu tổ chức của công ty chứng khoán Thăng Long………... 33 Bảng 2.2: Quy mô và tốc độ tăng VĐT của TSC giai đoạn 2005 – 2008…. 46 Bảng 2.3: Tổng tài sản của TSC giai đoạn 2000 – 2008 ………………….. 47 Bảng 2.4: VĐT vào cơ sở hạ tầng, khoa học công nghệ của TSC trong tổng VĐT giai đoạn 2005 - 2008 ………………………………………….. 50 Bảng 2.5: Tỷ trọng VĐT vào cơ sở hạ tầng, khoa học công nghệ của TSC giai đoạn 2005 – 2008 ……………………………………………………... 51 Bảng 2.6: .VĐT vào nguồn nhân lực của TSC giai đoạn 2005 – 2008 …… 52 Bảng 2.7: Tỷ trọng VĐT vào nguồn nhân lực trong tổng VĐT của TSC giai đoạn 2005 -2008 …………………………………………………….... 53 Bảng 2.8: Cơ cấu trình độ nguồn nhân lực của TSC giai đoạn 2006 – 2008 ……………………………………………………………………………… 55 Biểu đồ 2.9: VĐT cho hoạt động R&D của TSC giai đoạn 2005 – 2008 … 57 Biểu đồ 2.10: Tỷ trọng VĐT cho hoạt động R&D trong tổng VĐT của TSC giai đoạn 2005 – 2008 ……………………………………………….. 58 Bảng 2.11: Vốn đầu tư cho hoạt động PR, marketing của TSC giai đoạn 2005 – 2008 ……………………………………………………………….. 59 Biểu đồ 2.12: tỷ trọng VĐT cho hoạt động PR, marketing trong tổng VĐT của TSC giai đoạn 2005 – 2008 ………………………………………….. 59 Bảng 2.13: Tổng hợp mạng lưới hoạt động của một số CTCK năm 2008 ... 63 Bảng 2.14: So sánh vốn điều lệ và tổng tài sản của một số CTCK ……….. 70 Bảng 2.15: Doanh thu và lợi nhuận sau thuế của một số CTCK giai đoạn 2007 – 2008 ……………………………………………………………….. 71 Bảng 2.16: Lợi nhuận sau thuế của một số CTCK năm 2008 …………….. 71 Bảng 2.17: Tốc độ tăng số lượng tài khoản và giá trị giao dịch tại TSC giai đoạn 2003 – 2008 ………………………………………………………….. 73 Bảng 2.18: Doanh thu tự doanh của TSC giai đoạn 2005 – 2008 ………… 74 Bảng 2.19: Doanh thu bảo lãnh phát hành của TSC giai đoạn 2005 -2008 .. 75 Bảng 2.20: Doanh thu hoạt động tư vấn của TSC giai đoạn 2005 – 2008 … 76 LỜI MỞ ĐẦU Thị trường chứng khoán đóng vai trò là một trong những kênh huy động vốn trung và dài hạn hữu hiệu trong nền kinh tế thị trường. Tại Việt Nam thị trường chứng khoán đã manh mún phát triển từ năm 2000 nhưng phải đến sau khi ra nhập tổ chức thương mại thế giới thì thị trường chứng khoán mới sôi động và các công ty chứng khoán lần lượt ra đời. Các công ty chứng khoán chính là cầu nối giữa nhà đầu tư với thị trường. Cùng với xu thế hội nhập ngày càng phát triển thì càng có nhiều công ty chứng khoán trong nước và nước ngoài ra đời với những quy mô và đặc điểm khác nhau. Điều này đã tạo ra một môi trường cạnh tranh ngày càng gay gắt giữa các công ty chứng khoán. Do đó, việc đầu tư để nâng cao năng lực cạnh tranh của công ty trên thị trường là hết sức cần thiết. Xuất phát từ sự cần thiết phải đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh của các công ty chứng khoán và sau một thời gian thực tập thực tế tại công ty cổ phần chứng khoán Thăng Long, em đã quyết định lựa chọn đề tài cho khóa luận tốt nghiệp là: Đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh tại công ty cổ phần chứng khoán Thăng Long. Thực trạng và giải pháp. Ngoài phần mở đầu và kết luận, bài viết được chia thành ba chương: Chương 1: Lý luận chung về năng lực cạnh tranh và đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh của công ty chứng khoán. Chương 2: Thực trạng đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh tại công ty cổ phần chứng khoán Thăng Long. Chương 3: Một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh tại công ty cổ phần chứng khoán Thăng Long. Do kiến thức của bản thân còn nhiều hạn chế và thời gian thực tập có hạn nên bài viết chắc sẽ không tránh khỏi một vài thiếu sót. Em rất mong nhận được sự đóng góp của quý thầy cô và các anh chị làm việc tại công ty cổ phần chứng khoán Thăng Long để bài viết của em được hoàn thiện hơn. Em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới Ths. Phan Thu Hiền, Bộ môn kinh tế đầu tư, khoa đầu tư – Đại học Kinh Tế Quốc Dân đã trực tiếp hướng dẫn em hoàn thành bài viết này, cũng như toàn thể các thầy cô giáo trong trường Đại học Kinh Tế Quốc Dân đã truyền đạt cho em những kiến thức quý báu. Đồng thời, em cũng xin cảm ơn các anh chị làm việc tại công ty cổ phần chứng khoán Thăng Long đã tận tình giúp đỡ em trong thời gian thực tập tại công ty. CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ NĂNG LỰC CẠNH TRANH VÀ ĐẦU TƯ NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA CÔNG TY CHỨNG KHOÁN. 1.1. Những vấn đề lý luận chung về công ty chứng khoán. 1.1.1. Khái niệm. Công ty chứng khoán là doanh nghiệp hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực chứng khoán thông qua việc thực hiện một hoặc một vài dịch vụ chứng khoán chính là môi giới chứng khoán, tự doanh chứng khoán, bảo lãnh phát hành chứng khoán và tư vấn đầu tư chứng khoán với mục đích tìm kiếm lợi nhuận. 1.1.2. Vai trò. Các công ty chứng khoán là một tác nhân quan trọng thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế nói chung và của thị trường chứng khoán nói riêng. Nhờ có các CTCK mà các doanh nghiệp có thể huy động vốn một cách nhanh chóng và hiệu quả thông qua việc phát hành chứng khoán, các nhà đầu tư cá nhân và tổ chức có thể tham gia vào thị trường dễ dàng và thuận lợi. Nhìn chung, các CTCK có một số vai trò chính sau: Thứ nhất, huy động vốn. Thị trường chứng khoán là một trong những kênh huy động vốn trung và dài hạn hữu hiệu. Một công cụ hiệu quả để thực hiện chức năng này của TTCK chính là các CTCK. Nó chính là kênh dẫn vốn từ nơi thừa vốn sang nơi thiếu vốn; là cầu nối giữa nhà phát hành và nhà đầu tư thông qua nghiệp vụ bảo lãnh phát hành và cũng là cầu nối giữa những nhà đầu tư thông qua nghiệp vụ môi giới chứng khoán. Thứ hai, can thiệp bảo vệ giá chứng khoán, góp phần ổn định thị trường. Khi giá chứng khoán biến động bất lợi do tình hình chung của thị trường, các CTCK thực hiện các giao dịch mua bán nhằm ổn định lại thị trường theo yêu cầu can thiệp của cơ quan quản lý và tự bảo vệ mình hay khách hàng của mình khi thực hiện các đợt phát hành hay bảo lãnh phát hành. Thứ ba, hỗ trơ các nhà đầu tư khi tham gia vào TTCK thông qua các nghiệp vụ của mình, góp phần thúc đẩy TTCK phát triển. Các CTCK ngoài việc thực hiện các giao dịch mua bán theo lệnh của khách hàng thì còn cung cấp cho các báo cáo phân tích ngành, phân tích công ty, phân tích cổ phiếu, trái phiếu và tư vấn cho khách hàng. Từ đó, giúp cho khách hàng có một cái nhìn đầy đủ về thị trường và đưa ra các quyết định đúng đắn, sáng suốt 1.1.3. Mô hình công ty chứng khoán. Hiện nay, trên thế giới tồn tại hai mô hình cơ bản của CTCK là: mô hình đa năng kinh doanh chứng khoán và tiền tệ và mô hình chuyên doanh chứng khoán. 1.1.3.1. Mô hình đa năng kinh doanh chứng khoán và tiền tệ. Theo mô hình này, các ngân hàng thương mại hoạt động với tư cách là chủ thể kinh doanh chứng khoán, bảo hiểm và kinh doanh tiền tệ. Mô hình này chia thành hai loại: - Loại đa năng một phần: các ngân hàng muốn kinh doanh chứng khoán, kinh doanh bảo hiểm phải lập công ty độc lập hoạt động tách rời. - Loại đa năng hoàn toàn: Các ngân hàng được kinh doanh chứng khoán, kinh doanh bảo hiểm bên cạnh kinh doanh tiền tệ. Ưu điểm của mô hình này là ngân hàng có thể kết hợp nhiều lĩnh vực kinh doanh, nhờ đó giảm bớt rủi ro cho hoạt động kinh doanh chung và có khả năng chịu đựng các biến động của TTCK. Mặt khác, với thế mạnh về chuyên môn và vốn, ngân hàng có thể tận dụng để kinh doanh chứng khoán một cách hiệu quả. Tuy nhiên, mô hình này cũng bộc lộ một số hạn chế như: Do có thế mạnh về tài chính, chuyên môn nên ngân hàng thương mại tham gia kinh doanh chứng khoán có thể gây lũng đoạn thị trường, trong trường hợp quản lý nhà nước về lĩnh vực chứng khoán và quản trị điều hành thị trường còn yếu. Thêm vào đó, do tham gia nhiều lĩnh vực nên làm giảm tính chuyên môn hóa, khả năng thích ứng và linh hoạt kém. Trong trường hợp TTCK có nhiều rủi ro, ngân hàng có xu hướng bảo thủ rút khỏi TTCK để tập trung kinh doanh tiền tệ. 1.1.3.2. Mô hình chuyên doanh chứng khoán. Theo mô hình này, hoạt động chuyên doanh chứng khoán sẽ do các công ty độc lập, chuyên môn hóa trong lĩnh vực chứng khoán đảm nhận; các ngân hàng không được tham gia kinh doanh chưng khoán. Mô hình này khắc phục được hạn chế của mô hình đa năng: giảm rủi ro cho hệ thống ngân hàng, tạo điều kiện cho các công ty chứng khoán kinh doanh chuyên môn hóa, thúc đẩy sự phát triển thị trường chứng khoán 1.1.4. Các nghiệp vụ kinh doanh của công ty chứng khoán. 1.1.4.1. Nghiệp vụ môi giới chứng khoán. Môi giới chứng khoán là một hoạt động kinh doanh chứng khoán trong đó công ty chứng khoán làm đại diện, trung gian mua bán chứng khoán cho khách hàng để hưởng hoa hồng, phí dịch vụ. Mức phí này sẽ được tính bằng một tỷ lệ phần trăm nhất định so với giá trị hợp đồng giao dịch. Trong nghiệp vụ này, các CTCK chỉ được đề xuất thời điểm mua bán chứng khoán để khách hàng tham khảo và thực hiện các giao dịch theo lệnh của khách hàng. Do đó, khách hàng chính là người chịu trách nhiệm về kết quả của các giao dịch này. Hoạt động môi giới tuân theo một số nguyên tắc: ký kết hợp đồng dịch vụ với khách hàng, mở tài khoản chứng khoán cho khách hàng, nhận các lệnh mua hoặc bán của khách hàng, thanh toán và quyết toán các doanh vụ, cung cấp các giấy chứng nhận chứng khoán. 1.1.4.2. Nghiệp vụ tự doanh chứng khoán. Tự doanh là việc công ty chứng khoán tiến hành các giao dịch mua bán chứng khoán cho chính mình nhằm thu lợi nhuận. Hoạt động tự doanh của CTCK được thực hiện qua cơ chế giao dịch trên Sở giao dịch chứng khoán hoặc thị trường phi tập trung. Trên thị trường tập trung, lệnh giao dịch của CTCK được thực hiện tương tự như lệnh của khách hàng. Trên thị trường phi tập trung, hoạt động tự doanh có thể được thực hiện trực tiếp giữa công ty với các đối tác hoặc thông qua một hệ thống mạng thông tin. Tùy vào hoạt động, cơ cấu tổ chức của mỗi CTCK mà có một quy trình riêng, phù hợp. Tuy nhiên, nếu đứng trên giác độ chung nhất thì quy trình hoạt động tự doanh có thể xuất phát từ việc xây dựng chiến lược đầu tư. Tiếp theo là khai thác, tìm kiếm các cơ hội đầu tư; Sau đó, phân tích, đánh giá chất lượng cơ hội đầu tư; Trên cơ sở này, tiến hành thực hiện đầu tư và cuối cùng là quản lý đầu tư và thu hồi vốn. Trong hoạt động tự doanh, các CTCK phải quản lý tách biệt chứng khoán của từng nhà đầu tư, tách biệt tiền và chứng khoán của nhà đầu tư với tiền và chứng khoán của công ty chứng khoán. Ngoài ra, phải ưu tiên thực hiện lệnh của khách hàng trước lệnh của công ty Luật chứng khoán năm 2006 ... Điều này góp phần đảm bảo tính minh bạch, công bằng trong giao dịch chứng khoán khi mà các CTCK có nhiều lợi thế hơn khách hàng về tìm kiếm thông tin và phân tích thị trường. 1.1.4.3. Nghiệp vụ bảo lãnh phát hành chứng khoán. Bảo lãnh phát hành chứng khoán là việc tổ chức bảo lãnh giúp tổ chức phát hành thực hiện các thủ tục trước khi chào bán chứng khoán, tổ chức việc phân phối chứng khoán, nhận mua một phần hay toàn bộ chứng khoán của tổ chức phát hành để bán lại hoặc mua số chứng khoán còn lại chưa phân phối hết và giúp bình ổn giá chứng khoán trong giai đoạn đầu sau khi phát hành. Việc bảo lãnh phát hành thường đươc thực hiện theo một trong các hình thức: - Bảo lãnh theo phương thức cam kết chắc chắn: là phương thức mà tổ chức bảo lãnh cam kết với tổ chức phát hành sẽ mua hết lượng chứng khoán với một mức giá thỏa thuận và phân phối lại cho công chúng tại mức giá chào bán ra công chúng. - Bảo lãnh với cố gắng cao nhất: là phương thức mà tổ chức bảo lãnh chỉ đóng vai trò đại lý phát hành cho tổ chức phát hành. Tổ chức bảo lãnh chỉ cam kết sẽ cố gắng để bán được nhiều nhất chứng khoán ra thị trường theo mức giá xác định. Số chứng khoán không bán hết sẽ được trả lại cho tổ chức phát hành, tổ chức bảo lãnh nhận được hoa hồng bảo lãnh trên số chứng khoán bán được hoặc trên số vốn huy động được. - Bảo lãnh tất cả hoặc không: là phương thức tổ chức phát hành chỉ thị cho tổ chức bảo lãnh phát hành phải bán trọn đợt phát hành, nếu không bán được hết họ sẽ hủy bỏ đợt phát hành đó. Với phương thức này, tổ chức bảo lãnh phải hết sức cố gắng nếu họ không muốn bị thiệt hại về kinh tế (mất phí bảo lãnh …) và giảm sút về uy tín ( do đợt phát hành bị hủy bỏ) - Bảo lãnh theo phương thức tối thiểu – tối đa: là phương thức trung gian pha trộn giữa cam kết chắc chắn và cố gắng cao nhất. Tổ chức phát hành yêu cầu tổ chức bảo lãnh bán tối thiểu một lượng chứng khoán nhất định và cố gắng hết sức để bán tối đa lượng chứng khoán phát hành. Nếu lượng chứng khoán bán ra thấp hơn lượng tối thiểu thì toàn bộ đợt phát hành sẽ bị hủy bỏ, tổ chức bảo lãnh không nhận được bất cứ một khoản hoa hồng nào. - Bảo lãnh theo phương thức dự phòng: là phương thức thường được áp dụng khi một công ty đại chúng phát hành bổ sung thêm cổ phiếu thông qua hình thức phát hành đặc quyền mua trước cho cổ đông hiện hữu. Có thể có một số cổ đông hiện hữu không mua thêm cổ phần nữa do thiếu vốn, do muốn phân tán rủi ro … Do vậy, tổ chức phát hành cần có một tổ chức bảo lãnh phát hành dự phòng sẵn sàng đứng ra mua những quyền mua không được thực hiện và chuyển thành những cổ phiếu để bán ra công chúng. 1.1.4.4. Nghiệp vụ tư vấn đầu tư chứng khoán. Tư vấn đầu tư chứng khoán là việc công ty chứng khoán cung cấp cho nhà đầu tư kết quả phân tích, công bố báo cáo phân tích và khuyến nghị liên quan đến sở hữu chứng khoán. Trong nghiệp vụ này lại được chia thành tư vấn doanh nghiệp và tư vấn đầu tư. Tư vấn doanh nghiệp thường mang lại nguồn thu lớn hơn so với tư vấn đầu tư. Tư vấn doanh nghiệp bao gồm các dịch vụ như: tư vấn chuyển đổi hình thức sở hữu doanh nghiệp, tư vấn tái cấu trúc tài chính doanh nghiệp, tư vấn phát hành, xác định giá trị doanh nghiệp … Còn tư vấn đầu tư là tư vấn về các loại cổ phiếu, trái phiếu cho khách hàng, từ đó giúp khách hàng có được nhận định của chính mình và đưa ra quyết định đầu tư. Những thông tin mà các nhân viên tư vấn đưa ra chỉ là những nhận định mang tính chất cá nhân và không hoàn toàn chính xác tuyệt đối. Do đó, các nhà đầu tư cần phải biết cân nhắc kỹ lưỡng trước khi sử dụng những thông tín đó để đưa ra quyết định đầu tư. 1.2. Năng lực cạnh tranh của công ty chứng khoán. 1.2.1. Khái niệm. Nói đến năng lực cạnh tranh là nói đến một cái gì đó trừu tượng. Người ta không thể cân, đo, đong, đếm nó một cách chính xác được. Tuy nhiên, nói một cách khái quát thì năng lực cạnh tranh của một CTCK chính là thực lực, là khả năng, lợi thế của công ty so với các công ty khác trong cùng một ngành, trong việc thỏa mãn tốt nhất các nhu cầu của khách hàng nhằm tăng thị phần hay gia tăng lợi nhuận. Như đã nói ở trên, không thể cân, đo một cách chính xác được năng lực cạnh tranh của một công ty. Tuy nhiên, chúng ta vẫn có thể đánh giá một cách định tính thông qua một số chỉ tiêu như lợi nhuận, thị phần, số lượng khách hàng … Việc đánh giá này cần phải đặt trong một mặt bằng tương xứng. Một thực tế cho thấy răng, không có ai hay cái gì là hoàn hảo tuyệt đối. CTCK cũng vậy, nó cũng có điểm mạnh và điểm yếu của mình. Do đó, một công ty cần phải nắm bắt được những điểm mạnh của mình và cố gắng tập trung phát huy thế mạnh đó, đồng thời hạn chế những điểm yếu. Có như vậy mới có thể cạnh tranh với các đối thủ khác trên thị trường. 1.2.2. Một số nhân tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của công ty chứng khoán. 1.2.2.1. Nhân tố khách quan Tình hình kinh tế - chính trị - xã hội trong nước và ngoài nước. Thị trường chứng khoán nói chung và các công ty chứng khoán nói riêng được coi là một bộ phận trong cơ thể nền kinh tế nói chung. Do đó, một khi cơ thể đó không khỏe thì các bộ phận trong nó cũng sẽ không thể hoạt động bình thường được. Thực tế cho thấy rằng, trong giai đoạn vừa qua, nền kinh tế thế giới rơi vào một cuộc khủng hoảng trầm trọng đã kéo theo sự sụt giảm đáng kể của thị trường thế giới nói chung và thị trường trong nước nói riêng. Ở Việt Nam thời gian qua đã có khá nhiều công ty làm ăn thua lỗ, bị phá sản, buộc phải sát nhập hoặc bị mua lại. Trong tình hình đó, chỉ có những công ty có tiềm lực, có năng lực cạnh tranh vững mạnh thì mới có thể trụ vững. Cũng tương tự như vậy đối với tình hình chính trị. Nếu như chiến tranh thê giới xảy ra thì chắc chắn nền kinh tế không thể phát triển bình thường được. Một hệ quả tất yếu là các bộ phận cấu thành nên nó cũng sẽ không thể khỏe mạnh được. Như vậy thì sẽ không còn sức để có thể cạnh tranh được nữa. Tóm lại, khi mà tình hình kinh tê – chính trị - xã hội trong và ngoài nước không ổn định thì càng đòi hỏi các công ty phải nâng cao năng lực cạnh tranh để có thể đứng vững. Sự phát triển của thị trường chứng khoán Thị trường chứng khoán là một bộ phận quan trọng cấu thành nên thị trường tài chính, là một trong số các kênh huy động vốn trung và dài hạn hữu hiệu của nền kinh tế. Sự phát triển của thị trường chứng khoán có ảnh hưởng đến toàn bộ nền kinh tế nói chung và hoạt động của các công ty chứng khoán nói riêng. Có thể thấy rằng, khi thị trường chứng khoán mới thành lập, còn non trẻ thì số lượng các công ty chứng khoán dược thành lập rất dè dặt và với số vốn ít ỏi. Lúc này mức độ cạnh tranh còn yếu. Nhưng khi thị trường đã phát triển hơn, đặc biệt vào giai đoạn 2006 - 2007 thì hàng loạt các công ty chứng khoán được thành lập và vốn điều lệ của các công ty cũng tăng lên đáng kể. Cạnh tranh lúc này trở nên gay gắt hơn nhiều. Các công ty sinh sau đẻ muộn muốn cạnh tranh được với các bậc đàn anh đi trước thi buộc phải có những yếu tố mới và khác biệt, phải tăng năng lực cạnh tranh của mình mới có thể đứng vững trên thị trường. Môi trường pháp lý và các cơ chế chính sách của Nhà nước về chứng khoán và thị trường chứng khoán. Ở quốc gia nào cũng thế, trong bất kỳ lĩnh vực nào cũng vậy, nếu không có một môi trường pháp lý thì tất cả sẽ trở nên rối loạn, không thể kiểm soát. Kết quả tất yếu sẽ là suy thoái, khủng hoảng, chiến tranh … Mỗi một nước sẽ có những quy định khác nhau về quy mô vốn, chiến lược kinh doanh, biểu phí, điều kiện lên sàn … Điều này ảnh hưởng không nhỏ đến năng lực cạnh tranh của các công ty. Ngược lại, một môi trường pháp lý thiếu nhất quán, thiếu chặt chẽ sẽ tạo ra những kẽ hở để một số đối tượng có thể lợi dụng lừa đảo, gây mất lòng tin của nhà đầu tư vào các công ty chứng khoán, làm giảm hiệu quả hoạt động của các công ty khác. Đối thủ cạnh tranh. Các đối thủ là một nhân tố không thể thiếu trong bất kỳ lĩnh vực nào. Không có đối thủ thì sẽ không có cạnh tranh, không có cạnh tranh thì sẽ không có động lực để các công ty phát triển. Đối thủ cạnh tranh ở đây không chỉ là những đối thủ hiện tại trên thị trường mà còn phải tính đến cả những đối thủ tiềm năng sẽ xuất hiện trong tương lai. Những đối thủ mới với những lợi thế như: mở ra những tiềm năng mới; có động cơ và ước vọng giành được thị phần; đã tham khảo kinh nghiệm từ những CTCK đang hoạt động; có được những thống kê đầy đủ và dự báo về thị trường … Như vậy, bất kể thực lực của CTCK mới là thế nào thì các CTCK hiện tại đã thấy một mối đe dọa về khả năng thị phần bị chia sẻ. Ngoài ra, các CTCK mới có những kế sách và sức mạnh mà các CTCK hiện tại chưa thể có thông tin và chiến lược ứng phó. Chính sự xuất hiện của đối thủ mới này đã kích thích khả năng tiềm ẩn của các công ty khác phát triển. Càng có nhiều đối thủ thì mức độ cạnh tranh càng gay gắt và càng đòi hỏi các CTCK phải thường xuyên quan tâm đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng các dịch vụ cung ứng để chiến thắng trong cạnh tranh, nếu không sẽ bị đào thải khỏi thị trường. 1.2.2.2. Nhân tố chủ quan Tiềm lực tài chính Vốn chính là nền tảng cho mọi hoạt động trong công ty. Không có vốn thì sẽ không có công ty, không có cơ sở vật chất kỹ thuật, không có đội ngũ nhân sự. Mà không có những yếu tố này thì một công ty cũng không thể hoạt động được. Nếu một công ty có tiềm lực tài chính vững mạnh thì sẽ có điều kiện để đầu tư vào cơ sở hạ tầng, mua sắm thiết bị công nghệ hiện đại hay đào tạo được đội ngũ nhân sự trình độ cao. Những yếu tố này tạo nên tính cạnh tranh giữa các công ty. Tuy nhiên, không phải công ty nào có tiềm lực tài chính vững mạnh cũng có năng lực cạnh tranh cao. Bởi nếu nguồn vốn đó không được sử dụng hợp lý thì cũng không thể phát huy được hiệu quả, gây lãng phí. Chiến lược kinh doanh Có nhà xưởng, máy móc, nhân công nhưng lại thiếu đi phương thức quản lý hay chiến lược kinh doanh thì cũng sẽ không thể thành công. Mỗi một công ty trong những ngành nghề khác nhau, thậm chí trong cùng một ngành nghề lại có những đặc điểm khác nhau, có thể là về nguồn vốn, về nhân sự hay các sản phẩm dịch vụ. Do đó, mỗi công ty sẽ có một chiến lược kinh doanh của riêng mình, có thể là chiến lược chủ động, thụ động hay kết hợp cả hai. Điều này còn tùy thuộc vào tình hình của thị trường và đặc điểm của mỗi công ty. Đặc biệt, kinh doanh chứng khoán là một ngành nghề kinh doanh nhiều rủi ro do thị trường luôn biến động và rất khó nhận định. Chính vì thế, những chiến lược kinh doanh mang tính ngắn hạn, sẽ là phù hợp với các CTCK. Một công ty có chiến lược kinh doanh tốt, linh hoạt và phù hợp với những biến động của thị trường thì sẽ phát triển tốt hơn, thu lợi nhuận cao hơn và có điều kiện để đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh của mình trên thị trường. Đây cũng là một yếu tố ảnh hưởng không nhỏ đến năng lực canh tranh của các công ty chứng khoán. Đội ngũ nhân sự. Đội ngũ nhân sự chính là nhân tố vận hành hoạt động của một công ty. Một công ty không có đội ngũ nhân sự cũng giống như một ngôi nhà hoang, không người ở và máy móc trong đó cũng không thể hoạt động được. Đặc biệt trong lĩnh vực chứng khoán thường đòi hỏi hàm lượng chất xám thì nguồn nhân lực lại càng quan trọng. Nó chính là một trong những nhân tố ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của một CTCK. Trong quá trình giao dịch trực tiếp với khách hàng, nhân viên chính là một hiện hữu chủ yếu của sản phẩm dịch vụ, có thể làm tăng thêm giá trị của sản phẩm dịch vụ cũng như làm giảm đi, thậm chí làm hỏng giá trị sản phẩm dịch vụ. Thêm vào đó, nhân viên chính là lực lượng chủ yếu chuyển tải thông tin tín hiệu từ thị trường, từ khách hàng, từ đối thủ cạnh tranh đến các nhà hoạch định chính sách của công ty. Với một đội ngũ nhân viên môi giới nhiệt tình, chu đáo, am hiểu thị trường hay đội ngũ nhân viên phân tích, tư vấn giàu kinh nghiệm chính là một lợi thế trong việc thu hút khách hàng cũng như tạo nên uy tín cho công ty. Từ đó, góp phần làm tăng khả năng cạnh trạnh của công ty trên thị trường. Cơ sở vật chất và khoa học công nghệ. Một ngôi nhà nếu như không có cái móng vững chắc thì sẽ không thể đứng vững trước gió lớn. Công ty chính là một ngôi nhà chung và cơ sở vật chất chính là nền móng ban đầu của ngôi nhà đó. Vì vậy, nếu cơ sở vật chất không vững thì công ty cũng sẽ rất dễ đổ vỡ. Một CTCK muốn thành lập cũng phải đáp ứng những yêu cầu nhất định về cơ sở vật chát kỹ thuật Luật chứng khoán năm 2006 chẳng hạn như về diện tích, về lượng vốn đầu tư cho nó ... Tuy nhiên, cũng không phải cơ sở vật chất càng to, đẹp thì công ty hoạt động càng hiệu quả. Nó chỉ là một phần, bởi lẽ, đây chỉ là cái vỏ, cái quan trọng là ruột bên trong. Đó là đội ngũ nhân sự, đó là các thiết bị, phần mềm công nghệ … Đây thực sự là một yếu tố tạo nên lợi thế cạnh tranh giữa các công ty chứng khoán. Bởi lẽ, kinh doanh chứng khoán là một ngành nghề đặc biệt, nó đòi hỏi nguồn thông tin có độ chính xác cao để đưa ra những phân tích, nhận định đúng đắn. Những thông tin, phân tích, nhận định đưa ra càng chính xác thì càng tạo được lòng tin đối với các nhà đầu tư. Từ đó, tạo nên uy tín cho công ty. Điều này, chỉ có thể thực hiện được nếu có hệ thống phần mềm công nghệ hiện đại. Một công ty đáp ứng được những yêu cầu về cơ sở vật chất cũng như có một hệ thống phần mềm công nghệ hiện đại sẽ thực sự tạo ra được tính cạnh tranh với các đối thủ khác. Hoạt động nghiên cứu và phát triển, marketing. Thông qua hoạt động nghiên cứu và phát triển sẽ tạo ra những sản phẩm – dịch vụ thỏa mãn được nhu cầu của khách hàng. Và thông qua hoạt động marketing sẽ giúp cho khách hàng biết đến những sản phẩm – dịch vụ đó. Một công ty có hoạt động nghiên cứu và phát triển, marketing được thực hiện tốt thì sẽ tạo ra những sản phẩm có chất lượng, đáp ứng được nhu cầu của khách hàng, từ đó tạo ra được lợi thế cạnh tranh so với công ty khác. Ngược lại, nếu một công ty cho ra đời một sản phẩm mới mà không tiến hành nghiên cứu, tìm hiểu thị trường cũng như nhu cầu của khách hàng trước thì chắc chắn sản phẩm đó sẽ sớm bị đào thải, công ty sẽ làm ăn thua lỗ, năng lực cạnh tranh không tránh khỏi giảm sút. 1.2.3. Một số tiêu chí đánh giá năng lực cạnh tranh của công ty chứng khoán. 1.2.3.1. Một số tiêu chí định tính. Sự đa dạng và chất lượng sản phẩm – dịch vụ Cái mà khách hàng quan tâm chính là các sản phẩm dịch vụ của công ty có thỏa mãn được nhu cầu của họ hay không. Do đó, sự đa dạng về chủng loại và chất lượng của các sản phẩm chính là yếu tố quan trọng trong việc thu hút khách hàng, đồng thời thể hiện khả năng cạnh tranh của công ty. Với đặc tính riêng của ngành kinh doanh chứng khoán là các sản phẩm dịch vụ hầu như không có sự khác biệt thì các CTCK phát huy khả năng cạnh tranh của mình không chỉ bằng những sản phẩm – dịch vụ cơ bản mà còn thể hiện ở tính độc đáo, sự đa dạng của sản phẩm - dịch vụ của mình. Một công ty mà có thể tạo ra sự khác biệt riêng cho từng loại sản phẩm – dịch vụ của mình trên cơ sở những sản phẩm – dịch vụ truyền thống sẽ làm cho danh mục sản phẩm – dịch vụ của công ty đó trở nên đa dạng hơn. Điều này sẽ đáp ứng được hầu hết các nhu cầu khác nhau của khách hàng khác nhau, từ đó dễ dàng chiếm lĩnh thị phần và làm tăng sức mạnh cạnh tranh của công ty. Thực tế cho thấy, các CTCK mới thành lập chắc chắn sẽ chưa có tên tuổi và chưa được nhiều người để ý tới. Do đó, để có thể cạnh tranh được với các công ty đã có tên tuổi trên thị trường thì họ phải tập trung vào các sản phẩm dịch vụ tiên ích phục vụ khách hàng. Bởi các công ty lớn, có tên tuổi thì thường có số lượng khách hàng lớn, nên họ không đủ điều kiện quan tâm cụ thể đến từng khách hàng, đặc biệt là các khách hàng cá nhân nhỏ lẻ. Đây chính là một cơ hội đối với các công ty mới thành lập. Từ việc thu hút những khách hàng nhỏ lẻ thông qua sự đa dạng và chất lượng của các sản phẩm dịch vụ tiện ích thì các CTCK mới thành lập sẽ dần dần tạo lập được chỗ đứng trên thị trường và gây dựng được lòng tin đối với khách hàng. Từ đó, tăng tính cạnh tranh của mình trên thị trường. Uy tín và kinh nghiệm hoạt động. Uy tín và kinh nghiệm không phải là một khả năng bẩm sinh, vừa sinh ra đã có. Mà phải trải qua thời gian cùng với quá trình rèn luyện, đúc kết mới có được. Uy tín được xây dựng một phần dựa trên nền tảng của kinh nghiệm. Do đó, một công ty mới thành lập sẽ chưa thể tạo lập uy tín của mình trên thị trường ngay được, mà phải xuất phát từ thực lực cùng với những kiến thức và kinh nghiệm đã tích lũy được để gây dựng nên thương hiệu cũng như uy tín của riêng mình. Từ đó, dần dần nâng cao năng lực cạnh tranh của mình trên thị trường. Một công ty có uy tín và kinh nghiệm hoạt động sẽ thu hút được nhiều khách hàng hơn, thị phần sẽ lớn hơn, lợi nhuân cao hơn .... Do đó, sẽ có điều kiện để đầu tư vào cơ sở vật chất, kỹ thuật, vào nguồn lực con người và năng lực cạnh tranh sẽ cao hơn. Trình độ nguồn nhân lực Dù sản xuất bất kỳ sản phẩm nào cũng phải cần đến bàn tay của con người một cách trực tiếp hoặc gián tiếp. Do đó, nhân lực chính là yếu tố không thể thiếu trong mỗi quy trình sản xuất của bất kỳ một loại hình doanh nghiệp nào. Đặc biệt, đối với các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ như các CTCK thì yếu tố con người có vai trò quan trọng trong việc thể hiện chất lượng của dịch vụ. Đội ngũ nhân viên chính là người trực tiếp đem lại cho khách hàng những cảm nhận về công ty và sản phẩm dịch vụ của công ty, đồng thời tạo niềm tin của khách hàng đối với công ty. Tuy nhiên, mỗi một ngành nghề sẽ đòi hỏi trình độ nguồn nhân lực khác nhau. Chẳng hạn, trong làng nghề sản xuất thủ công thì không đòi hỏi trình độ người lao động phải cao nhưng lại đòi hỏi sự khéo léo. Còn trong ngành nghề kinh doanh chứng khoán, một ngành nghề kinh doanh đặc biệt, sản phẩm của các CTCK chủ yếu là các sản phẩm dịch vụ tiện ích đòi hỏi hàm lượng chất xám lớn. Chính vì thế mà yêu cầu về trình độ và chất lượng nguồn nhân lực cũng cao hơn. Kỹ năng quản trị đối với nhà điều hành; trình độ chuyên môn nghiệp vụ và kỹ năng thực hiện nghiệp vụ đối với nhân viên: đây là tiêu chí quan trọng quyết định đến chất lượng dịch vụ mà CTCK cung cấp cho khách hàng. Ngoài yêu cầu về trình độ chuyên môn thì còn đòi hỏi nhân viên phải có kỹ năng giao tiếp, kỹ năng tìm kiếm khách hàng, khả năng phân tích, óc phán đoán nhanh nhạy … Các CTCK cần một đội ngũ những nhà điều hành giỏi để giúp bộ máy vận hành hiệu quảvà một đội ngũ nhân viên với kỹ năng nghiệp vụ cao, có khả năng tư vấn cho khách hàng để tạo được lòng tin với khách hàng và ấn tượng tốt về công ty. Đây là những yếu tố then chốt giúp CTCK cạnh tranh giành khách hàng. Như vậy, chất lượng nguồn nhân lực có vai trò quan trọng và quyết định đối với năng lực cạnh tranh của một CTCK. Chất lượng nguồn nhân lực là kết quả của sự cạnh tranh trong quá khứ đồng thời lại chính là năng năng lực cạnh tranh của CTCK trong tương lai. Có một đội ngũ cán bộ điều hành và nhân viên giỏi, có khả năng sáng tạo và thực thi chiến lược sẽ giúp công ty hoạt động ổn định và bền vững. Có thể khẳng định nguồn nhân lực đủ về số lượng và đầy về chất lượng là một biểu hiện năng lực cạnh tranh cao của CTCK. Mức độ hiện đại của cơ sở vật chất, phần mềm công nghệ. Khi gặp một người lần đầu thì cái chúng ta nhìn thấy trước tiên chính là diện mạo bên ngoài của họ. Cơ sở vật chất chính là diện mạo bên ngoài của các công ty. Một công ty có cơ sở vật chất khang trang, rộng rãi, đẹp đẽ chắc chắn sẽ được đánh giá cao hơn, thu hút được sự chú ý của nhiều khách hàng hơn so với các công ty có cơ sở vật chất nhỏ hẹp. Giống như một bông hoa đẹp, rự._.c rỡ nhiều màu sắc chắc chắn sẽ thu hút được nhiều loài ong, bướm. Nhưng nếu bông hoa này không có nhiều mật ngọt thì chúng cũng sẽ nhanh chóng bỏ đi. Các công ty cũng vậy, nếu như chỉ có cái vỏ mà không có cái chất bên trong thì cũng không thể tạo ra được những sản phẩm có chất lượng và giữ chân được khách hàng. Đó chính là hệ thống máy móc thiết bị, bảng điện tử, phần mềm công nghệ hỗ trợ tìm kiếm, phân tích thông tin ... Đây là những công cụ hỗ trợ tích cực cho cả đội ngũ nhân viên trong công ty lẫn các khách hàng. Bởi lẽ, đầu tư chứng khoán phụ thuộc rất nhiều vào các luồng thông tin trên thị trường. Mà thông tin thường rất đa dạng và có từ nhiều nguồn nên cần phải được sàng lọc một cách cẩn thận trước khi sử dụng. Hệ thống các thiết bị, phần mềm càng hiện đại thì việc tìm kiếm, sàng lọc thông tin càng dễ dàng, phân tích thông tin càng chính xác. Điều này sẽ giúp đưa ra những nhận định chính xác, giúp nhà đầu tư cũng như giúp công ty đưa ra quyết định đầu tư đúng đắn, tạo lòng tin cho khách hàng. Tóm lại có thể cho rằng, cơ sở vật chất, phần mềm công nghệ càng hiện đại thì càng làm tăng năng lực cạnh tranh của CTCK. 1.2.3.2. Một số tiêu chí định lượng. Nguồn vốn và tổng tài sản. Điều đầu tiên khi chúng ta đánh giá, xem xét một doanh nghiệp là nguồn vốn của doanh nghiệp đó. Bởi không có tiền thì sẽ không thể làm được gì. Từ nguồn vốn của công ty ta có thể thấy được thực lực tài chính cũng như khả năng chống đỡ rủi ro của công ty đó. Nếu có một nguồn vốn lớn thì các CTCK sẽ có điều kiện để đầu tư công nghệ hiện đại, mở rộng cơ sở vật chất hay thuê đội ngũ nhân viên có trình độ chuyên môn giỏi.Từ đó, tạo ra lợi thế cạnh tranh cho chính mình. Hay có một nguồn vốn lớn thì công ty có thể đầu tư nhiều hơn vào hoạt động tự doanh để thu lợi nhuận, góp phần bổ sung nguồn vốn cho các hoạt động khác. Qua đây có thể cho rằng, một CTCK có năng lực cạnh tranh là một công ty có nguồn vốn dồi dào, luôn đảm bảo huy động trong những trường hợp khẩn cấp. Tuy nhiên nguồn vốn này cần được huy động và sử dụng một cách hợp lý thì nó mới có thể phát huy tối đa tác dụng. Thị phần. Thị phần là phần thị trường mà một CTCK chiếm lĩnh được. Đây chính là tiêu chí rõ nhất cho thấy năng lực cạnh tranh của một CTCK. Thị phần càng lớn thì càng chứng tỏ năng lực cạnh tranh của công ty lớn. Bởi để có được thị phần lớn đòi hỏi CTCK phải có những lợi thế cạnh tranh nhất định so với các công ty khác như kinh nghiệm, uy tín, sản phẩm dịch vụ phải có chất lượng tốt … Thường thì các CTCK lớn, có nhiều uy tín và kinh nghiệm chiếm phần lớn thị phần trên thị trường. Doanh thu, lợi nhuận Đây là nhân tố đánh giá hiệu quả hoạt động của một công ty. Doanh thu, lợi nhuận cao chứng tỏ công ty đó hoạt động hiệu quả. Một khi có lợi nhuận cao thì sẽ có điều kiện để đầu tư mở rộng quy mô, nâng cao chất lượng sản phẩm, từ đó nâng cao năng lực cạnh tranh của công ty. Ngược lại, một công ty làm ăn thua lỗ triền miên, doanh thu không đủ bù đắp chi phí bỏ ra thì sẽ không còn động lực để tiếp tục hoạt động, chất lượng sản phẩm dịch vụ kém và chắc chắn năng lực cạnh tranh sẽ không còn. Tỷ suất lợi nhuận Tỷ suất lợi nhuận trước thuế và lãi vay trên tổng nguồn vốn = Lợi nhuận trước thuế và lãi vay × 100% Tổng nguồn vốn bình quân trong kỳ Chỉ tiêu này phản ánh cứ bỏ ra 100 đồng vốn (không phân biệt nguồn vốn tự có hay vốn vay) vào hoạt động kinh doanh trong kỳ thì tạo ra được bao nhiêu đồng lợi nhuận trước thuế và lãi vay. Nếu tỷ suất lợi nhuận trước thuế và lãi vay lớn hơn lãi suất vay vốn mà công ty vay thì sẽ làm gia tăng tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu vì sau khi công ty phải trả lãi vay theo lãi suất vay thực tế trong kỳ, phần lợi nhuận còn lại sẽ thuộc sở hữu của công ty. Như vậy, trong tường hợp này, công ty tiếp tục đi vay để làm gia tăng tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu. Ngược lại, công ty sẽ không đi vay nếu như tỷ suất lợi nhuận trước thuế và lãi vay nhỏ hơn lãi suất vay vốn vì lúc này công ty phải trích thêm phần lợi nhuận trước thuế được tạo ra từ các nguồn vốn khác (ngoài nguồn vốn vay) bù đắp chi phí lãi vay phải trả trong kỳ. Chỉ tiêu này đã đánh giá được thực chất lợi nhuận mà công ty tạo ra được khi chưa trả lãi vay, nộp thuế cho Nhà nước cũng như phần lợi nhuận còn lại của công ty. Do đó, nó đánh giá được trình độ quản lý sản xuất, kinh doanh cũng như trình độ sử dụng có hiệu quả mọi nguồn vốn huy động cho hoạt động kinh doanh của công ty.. Số lượng khách hàng. Khách hàng chính là nhân tố quyết định sự tồn tại, phát triển của bất kỳ doanh nghiệp nào và cũng là động lực thúc đẩy các công ty nâng cao năng lực cạnh tranh. Trên thị trường, các CTCK luôn tìm cách thu hút khách hàng thông qua giá phí và chất lượng các dịch vụ tiện ích hỗ trợ khách hàng. Một CTCK có thể thu hút được khách hàng của các công ty khác, gia tăng số lượng khách hàng của công ty mình chứng tỏ công ty đó có năng lực cạnh tranh cao. Số lượng khách hàng càng lơn thì càng chứng tỏ lợi thế cạnh tranh của công ty trong việc thu hút khách hàng. Giá phí sản phẩm - dịch vụ Đây chính là yếu tố mà khách hàng quan tâm khi tìm đến các CTCK và cũng là nguồn thu của các CTCK. Mỗi một CTCK có một mức giá phí khác nhau tùy thuộc vào quy mô công ty hay tình hình biến động của thị trường. Nếu thị trường biến động bất lợi thì việc giảm giá phí sẽ là một nhân tố để thu hút khách hàng và tăng khả năng cạnh tranh. Tất nhiên không phải công ty khác giảm bao nhiêu thì công ty mình cũng giảm bấy nhiêu mà phải xuất phát từ tình hình cụ thể của công ty. Và ngược lại, khi thị trường phát triển sôi động, thì việc tăng giá phí trong một hạn mức cho phép sẽ giúp CTCK có thêm một khoản thu để bù đắp cho những chi phí bỏ ra. Một công ty mà có giá phí cao hơn so với công ty khác thì chắc chắn công ty đó phải có một lợi thế cạnh tranh nào đó hơn hẳn so với công ty kia. Do đó, đây cũng được coi là một trong các tiêu chí để đánh giá năng lực cạnh tranh của CTCK. 1.3. Đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh của công ty chứng khoán. 1.3.1. Đầu tư vào cơ sở vật chất, máy móc thiết bị công nghệ. Muốn tạo ra được sản phẩm thì trước hết phải có nhà xưởng, máy móc. Trong CTCK thì nhà xưởng chính là các trụ sở, phòng giao dịch và máy móc chính là hệ thống các máy vi tính, bảng điện tử và đặc biệt là các phần mềm công nghệ. Chỉ trên cơ sở kỹ thuật công nghệ hiện đại mới cho phép tạo ra những bước phát triển đột phá và nổi bật trong sản phẩm dịch vụ chứng khoán, tạo ra tiện ích tối đa cho khách hàng. Công nghệ còn giúp cho các CTCK giảm chi phí, giảm thời gian giao dịch, tăng độ an toàn cho khách hàng, từ đó nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ ngân hàng. Đầu tư vào cơ sở vật chất trong các CTCK chính là hoạt động đầu tư mở rộng và phát triển mạng lưới hoạt động ở khắp nơi. Một mạng lưới hoạt động rộng khắp sẽ góp phần tạo lập thêm thị trường, tăng số lượng khách hàng, từ đó gia tăng thị phần của công ty. Còn đầu tư vào máy móc thiết bị chính là việc mua sắm những thiết bị hiện đại, những phần mềm công nghệ tiên tiến, góp phần phục vụ đắc lực cho hoạt động giao dịch, tìm kiếm và phân tích thông tin. Từ đó, nâng cao chất lượng sản phẩm để cạnh tranh trên thị trường. 1.3.2. Đầu tư vào nguồn nhân lực. Nhân lực chính là nhân tố vận hành hoạt động của một công ty. Đặc biệt, kinh doanh chứng khoán là ngành kinh doanh dịch vụ, vì vậy, có thể nói nguồn nhân lực là nhân tố rất quan trọng tạo nên chất lượng sản phẩm của các CTCK trong quá trình hoạt động. Một đội ngũ nhân lực có trình độ cao, chuyên nghiệp sẽ tạo ra những sản phẩm có chất lượng tốt, góp phần làm tăng lợi nhuận của công ty và chắc chắn năng lực cạnh tranh của công ty sẽ tăng. Do đó, đầu tư vào nguồn nhân lực là cần thiết. Đầu tư vào nguồn nhân lực trong CTCK được thực hiện thông qua việc đầu tư cho hoạt động đào tạo và đào tạo lại nhân viên, cử nhân viên đi học tập trong nước và ngoài nước, hay đầu tư cho hoạt động tuyển dụng, chính sách lương thưởng. Đây chính là những yếu tố để thu hút nhân tài cho công ty và cũng là động lực để thúc đẩy đội ngũ nhân viên trong công ty làm việc nhiệt tình, có hiệu quả. 1.3.3. Đầu tư vào hoạt động PR, marketing, nghiên cứu, phát triển sản phẩm mới. Không phải sản phẩm nào được sản xuất ra cũng thỏa mãn được nhu cầu của khách hàng. Một sản phẩm đã không thỏa mãn được nhu cầu của khách hàng thì chắc chắn sớm hay muộn nó cũng sẽ bị đào thải. Do đó, trước khi đi vào sản xuất một sản phẩm nào đó, người ta luôn có bước nghiên cứu thị trường, tìm hiểu nhu cầu của khách hàng. Và sau khi tạo ra sản phẩm, để khách hàng có thể biết đến sản phẩm thì cần có các hoạt động quảng cáo, giới thiệu sản phẩm. Trong các CTCK cũng gần như vậy, trước khi đưa ra một sản phẩm dịch vụ mới để cạnh tranh với các công ty khác thì cũng phải nghiên cứu tình hình biến động của thị trường, nhu cầu của các nhà đầu tư … từ đó đưa ra sản phẩm phù hợp. Và cũng cần có những hoạt động quảng cáo cho sản phẩm mới. Một sản phẩm dù có tốt đến đâu thì cũng không thể chiếm lĩnh được thị trường nếu không được khách hàng tiếp nhận và kiểm nghiệm. Chính vì thê mà đầu tư cho hoạt động marketing, nghiên cứu, phát triển sản phẩm là hết sức cần thiết. Trong các CTCK, đầu tư cho hoạt động PR, marketing chính là đầu tư cho việc tổ chức các buổi giới thiệu sản phẩm, các buổi trao đổi, gặp gỡ giữa các chuyên gia phân tích, tư vấn với các nhà đầu tư … Tất cả những hoạt động này giúp các CTCK có thể tìm hiểu được nhu cầu của các nhà đầu tư và cũng giúp công ty gây dựng được hình ảnh, thương hiệu và uy tín, tạo lợi thế cạnh tranh trên thị trường. 1.4. Tác động của đầu tư đến nâng cao năng lực cạnh tranh của công ty chứng khoán. Nhân lực và hệ thống máy móc, thiết bị, công nghệ chính là những nhân tố không thể thiếu trong việc tạo ra các sản phẩm dịch vụ của bất kỳ một loại hình doanh nghiệp nào. Ngoài ra, việc xây dựng thương hiệu, hình ảnh công ty thông qua các hoạt động PR, marketing cũng hết sức cần thiết. Tất cả các hoạt động đầu tư cho nguồn nhân lực, máy móc thiết bị, công nghệ hay đầu tư cho hoạt động PR, marketing đều tác động trực tiếp đến chất lượng sản phẩm dịch vụ cũng như thị phần hoạt động của một CTCK. Từ đó, tác động đến năng lực cạnh tranh của công ty đó. 1.4.1. Thị phần 1.4.1.1. Hoạt động môi giới chứng khoán. Môi giới chứng khoán là nghiệp vụ đặc trưng, cơ bản của các CTCK. Đặc biệt là đối với các công ty nhỏ, khi mới thành lập thường chỉ có hai nghiệp vụ là môi giới và tư vấn. Cũng giống như các CTCK khác ở Việt Nam, TSC đã thực hiện dịch vụ môi giới ngay từ khi mới thành lập. Tính đến hết ngày 30/6/2007, số tài khoản giao dịch chứng khoán tại các CTCK đạt 255.185 tài khoản (tăng 169.001 tài khoản, tương đương 196% so với thời điểm ngày 31/12/2006). Trong đó, đối với những CTCK đã có bề dày hoạt động, đều chiếm tỷ trọng cao về số lượng nhà đầu tư mở tài khoản giao dịch như: CTCK ngân hàng ngoại thương (VCBS) có 34.490 tài khoản, chiếm 13.49% tổng số tài khoản toàn thị trường; BVSC có 34.395 tài khoản, chiếm 13,48%; SSI có 26.746 tài khoản, chiếm 10,48%; BSC có 24.525 tài khoản, chiếm 9,61%. Và TSC có 12.238 tài khoản, chiếm 4.8% … Bên cạnh đó, một số CTCK tuy mới triển khai hoạt động nhưng đã thu hút được khá nhiều nhà đầu tư, như CTCK ngân hàng Sài Gòn thương tín (SBS) đạt 7.720 tài khoản, chiếm 3,03% thị phần, CTCK An Bình (ABS) đạt 6.104 tài khoản, chiếm 2.39% thị phần, CTCK Vndirect đạt 5.195 tài khoản, chiếm 2.04% thị phần... Tổng giá trị giao dịch chứng khoán của nhà đầu tư trong tháng 6/2007 qua các CTCK đạt 25.196 tỷ đồng. Những CTCK có doanh số môi giới giao dịch lớn đa số là những công ty đã có nhiều năm hoạt động, có nhiều nhà đầu tư mở tài khoản. Bảng 1.1: Thị phần giao dịch của một số CTCK giai đoạn 2005 – 2008 Đơn vị tính: % Năm CTCK 2005 2006 2007 2008 VCBS 18.93 20.38 25,25 22,17 ACBS 12.21 11.06 13,34 21,91 SSI 11.67 10.54 12,91 10,92 TSC 8.15 7.09 7.85 5.39 BVSC 8.82 7.41 8,66 3.7 BSC 6.01 4.89 5,21 4.82 Nguồn: www.saga.vn Nhìn vào bảng trên ta thấy, thị phần giao dịch của một số CTCK lớn có xu hướng gia tăng không đáng kể. Sở dĩ như vậy là do sự gia tăng nhanh chóng số lượng các CTCK trên thị trường. Điều này đã khiến cho miếng bánh thị trường bị chia thành nhiều phần nhỏ hơn. Trong tình hình đó, chỉ có những công ty có tiềm lực, có chính sách đầu tư đúng đắn, hợp lý mới có thể gia tăng được thị phần của mình. 1.4.1.2. Hoạt động tự doanh. Đây là một hoạt động khó khăn và phức tạp, hoạt động này có thể mang lại cho CTCK những khoản lợi nhuận lớn nhưng cũng có thể gây ra những tổn thất không nhỏ. Để thực hiện nghiệp vụ này thành công, ngoài đội ngũ nhân viên phân tích thị trường có nghiệp vụ giỏi và nhanh nhạy với những biến động của thị trường, CTCK còn phải có một chế độ phân cấp quản lý và đưa ra những quyết định đầu tư hợp lý, trong đó việc xây dựng chế độ phân cấp quản lý và ra quyết định đầu tư... là một trong những vấn đề then chốt, quyết định sự sống còn của CTCK. Năm 2004, cùng với môi giới, nghiệp vụ tự doanh cũng được các CTCK chú trọng thực hiện, nhiều công ty tăng vốn điều lệ để được thực hiện nghiệp vụ này như CTCK Sài Gòn tăng vốn 2 lần lên 20 tỷ đồng, CTCK Thăng Long tăng vốn từ 9 tỷ lên 43 tỷ đồng, CTCK Ngân hàng đầu tư và phát triển và CTCK Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn tăng vốn lên 100 tỷ để gia tăng tiềm lực tài chính, có điều kiện mở rộng các loại hình kinh doanh chứng khoán. Tổng giá trị giao dịch và doanh thu tự doanh đã tăng mạnh qua các năm mặc dù mức độ có khác nhau ở từng công ty. Hiện đã có sự thay đổi về kết cấu danh mục đầu tư chứng khoán tự doanh ở các CTCK. Nếu như 2 năm đầu mới đi vào hoạt động (2000-2002), các công ty tập trung vào tự doanh cổ phiếu chưa niêm yết thì bắt đầu từ nửa cuối năm 2002 đến nay các công ty tập trung vào tự doanh trái phiếu và cổ phiếu niêm yết. Tổng giá trị chứng khoán tự doanh tính tại thời điểm ngày 30/6/2007 đạt 9.667 tỷ đồng (tăng 4.671 tỷ đồng, tương đương 48,31% so với thời điểm 01/01/2007). Đối với 14 CTCK đã hoạt động lâu năm, giá trị chứng khoán tự doanh tính tại thời điểm ngày 30/6/2007 đạt 5.997 tỷ đồng (tăng 1.000 tỷ đồng, tương đương 16,69% so với giá trị ngày 01/1/2007), trong đó giá trị chứng khoán tự doanh của TSC đạt 675 tỷ đồng. Một số công ty có giá trị tự doanh cuối kỳ tăng khá nhanh và đạt giá trị cao. Đối với khối CTCK được cấp phép vào cuối năm 2006 thì đến thời điểm 30/6/2007, giá trị chứng khoán tự doanh của khối công ty này đạt 3.345 tỷ đồng (chiếm 35,63% giá trị tự doanh của 59 CTCK). Một số công ty đã đẩy nhanh nghiệp vụ tự doanh mặc dù hoạt động chưa lâu như: CTCK Ngân hàng Sacombank (giá trị chứng khoán tự doanh đạt 571 tỷ đồng), CTCK Vndirect (giá trị chứng khoán tự doanh đạt 587 tỷ đồng), CTCK Ngân hàng Đông Nam Á (giá trị chứng khoán tự doanh đạt 458 tỷ đồng). 1.4.1.3. Hoạt động bảo lãnh phát hành. Dịch vụ bảo lãnh phát hành là hoạt động cao cấp và rủi ro nhất của các công ty chứng khoán. Dịch vụ này đòi hỏi các công ty chứng khoán phải có đầy đủ chức năng thực hiện và có uy tín trên thị trường. Hoạt động bảo lãnh phát hành của các CTCK 6 tháng đầu năm 2007 vẫn tập trung chủ yếu là bảo lãnh phát hành các loại trái phiếu như trái phiếu chính phủ cho Kho bạc Nhà nước, trái phiếu ngân hành, trái phiếu đô thị … Bảng 1.2: Dịch vụ bảo lãnh phát hành của một số CTCK tính đến tháng 6/2007 CTCK Khối lượng bảo lãnh Giá bảo lãnh (đồng) Hình thức bảo lãnh Số hợp đồng bảo lãnh Giá trị bảo lãnh (triệu đồng) BVSC 5.314 33.500 Chắc chắn 1 178 ACBS 880.000 67.000 Chắc chắn 1 58.960 TSC 108.758 451.000 Chắc chắn 2 49.050 Nguồn: www.saga.vn Tính đến giữa năm 2007 mới có được 4 hợp đồng bảo lãnh phát hành được thực hiện. Điều này cho thấy, có rất ít CTCK thực hiện dịch vụ này và các công ty chưa chú trọng đầu tư tìm kiếm khách hàng, đào tạo nhân sự, xây dựng quy trình chuẩn để triển khai nghiệp vụ này. Sang năm 2008, thị trường sụt giảm nên số lượng hợp đồng cũng như giá trị bảo lãnh tăng lên không đáng kể và chủ yếu vẫn là các CTCK lớn chiếm ưu thế. Doanh thu mà hoạt động này đem lại cho các CTCK vẫn còn quá nhỏ mặc dù đã đầu tư nhiều hơn cho hoạt động này. 1.4.1.4. Hoạt động tư vấn. Tư vấn đầu tư chứng khoán Tính đến thời điểm tháng 10/2007, mảng hoạt động này nhìn chung đã bắt đầu tiến triển với số hợp đồng tư vấn đầu tư chứng khoán của các công ty đạt 55 hợp đồng (tại thời điểm 1/1/2007 chỉ có 6 hợp đồng tư vấn đầu tư). Điều này cho thấy trong sự phát triển, các CTCK đang dần chuyển sang hướng quan tâm, chú trọng hơn đến hoạt động chăm sóc khách hàng. Tuy nhiên, so với khoảng 255.000 tài khoản giao dịch chứng khoán tại các CTCK , số hợp đồng trên là không đáng kể và tiềm năng để các CTCK phát triển mảng hoạt động này là không nhỏ. Tuy là CTCK được cấp phép cuối năm 2006 và triển khai hoạt động chưa lâu, CTCK An Bình hiện đang có số hợp đồng tư vấn đầu tư chứng khoán lớn nhất (50 hợp đồng). Tư vấn niêm yết. Tổng số hợp đồng tư vấn niêm yết tính đến cuối năm 2007 của các CTCK là 100 hợp đồng (so với 67 hợp đồng tại thời điểm 1/1/2007). Như vậy, hoạt động tư vấn niêm yết có những dấu hiệu khả quan hơn so với thời điểm đầu năm. Hiện nay, TSC cũng là một trong những CTCK uy tín, đang thực hiện nhiều hợp đồng tư vấn niêm yết như: SSI (42 hợp đồng), CTCK Ngân hàng Á Châu (34 hợp đồng), CTCK Ngân hàng Đông Nam Á ( 15 hợp đồng), CTCK Thăng Long ( 18 hợp đồng) … Tư vấn khác. Tổng số hợp đồng tư vấn khác tại ngày 30/6/2007 là 305 hợp đồng, trong đó có 77 hợp đồng được ký, 42 hợp đồng được thanh lý trong tháng 6/2007. Các hợp đồng  này chủ yếu là hợp đồng tư vấn cổ phần hóa và bán đấu giá cổ phần. Các công ty có nhiều hợp đồng tại thời điểm này là SSI (62 hợp đồng), CTCK ngân hàng Á Châu (55 hợp đồng), Vietinbanksc (40 hợp đồng). Với đội ngũ nhân sự giỏi chuyên môn nghiệp vụ và các quy trình tư vấn cổ phần hóa, xác định giá trị doanh nghiệp … TSC cũng có một số lượng hợp đồng tư vấn khác đáng kể, 27 hợp đồng. Nhìn chung, hoạt động tư vấn của các CTCK đã có những phát triển đáng kể so với thời gian đầu, đã chú trọng hơn đến nghiệp vụ tư vấn. Không chỉ những công ty đã hoạt động lâu năm mà những công ty được cấp phép trong năm 2006 cũng đã triển khai hoạt động này khá tốt. Doanh thu từ hoạt động này ngày càng đóng góp quan trọng vào tổng doanh thu của các CTCK. 1.4.2. Chất lượng sản phẩm – dịch vụ. 1.4.2.1. Hoạt động môi giới. Từ việc đầu tư cho hoạt động PR, marketing sẽ góp phần tạo nên thương hiệu, hình ảnh của công ty. Kết hợp với đội ngũ nhân viên môi giới được đào tạo bài bản cả về kiến thức chuyên môn cũng như các kỹ năng giao tiếp, thuyết phục khách hàng và hệ thống phần mềm hỗ trợ giao dịch hiện đại như phần mềm nhập lệnh, khớp lệnh … sẽ góp phần làm tăng chất lượng dịch vụ môi giới, thu hút thêm nhiều khách hàng, làm tăng số lượng tài khoản cũng như giá trị giao dịch. Do đó, thị phần của công ty sẽ tăng lên. 1.4.2.2. Hoạt động tự doanh. Tự doanh chính là hoạt động đem lại nguồn thu chính cho các CTCK. Nhân tố quan trọng quyết định hiệu quả của hoạt động này chính là nguồn nhân lực, đặc biệt là đội ngũ lãnh đạo. Do đó, việc đầu tư cho đội ngũ nhân sự tham gia vào hoạt động này là rất quan trọng. Với sự hỗ trợ của các phần mềm công nghệ và các kênh tìm kiếm thông tin cùng bộ phận phân tích được đào tạo chuyên nghiệp sẽ góp phần hỗ trợ tích cực cho ban lãnh đạo công ty trong việc ra các quyết định đầu tư đúng đắn. Từ đó sẽ làm tăng doanh thu và lợi nhuận của công ty. Lợi nhuận cao sẽ có điều kiện để tiếp tục tăng cường đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh của công ty. 1.4.2.3. Hoạt động bảo lãnh phát hành. Hoạt động này lại chịu tác động khá nhiều từ hoạt động đầu tư cho PR, marketing. Bởi hoạt động này góp phần tạo ra thương hiệu, hình ảnh của một công ty. Mà một công ty có kinh nghiệm, uy tín, thương hiệu sẽ được nhiều khách hàng tín nhiệm. Thêm vào đó là một đội ngũ nhân viên nhanh nhẹn,giỏi chuyên môn, nghiệp vụ sẽ là những nhân tố tích cực thúc đẩy sự gia tăng của số lượng hợp đồng bảo lãnh cũng như giá trị của các hợp đồng. Càng có nhiều hợp đồng thành công thì uy tín của công ty càng được nâng lên, góp phần tạo ra lợi thế cạnh tranh cho công ty về sản phẩm dịch vụ này và cũng đóng góp tích cực vào doanh thu, lợi nhuận của công ty. 1.4.2.4. Hoạt động tư vấn. Chất lượng của dịch vụ này lại phụ thuộc nhiều vào trình độ chuyên môn và kinh nghiệm của các chuyên viên tư vấn. Từ việc đầu tư cho các phần mềm công nghệ trong tìm kiếm, thu thập thông tin sẽ tạo ra các báo cáo phân tích chính xác. Trên cơ sở các báo cáo này và đội ngũ chuyên viên tư vấn được đào tạo chuyên sâu và có nhiều kinh nghiệm sẽ giúp khách hàng cũng như chính công ty đưa ra được các quyết định đầu tư đúng đắn. Từ đó, làm tăng thêm uy tín của công ty, thu hút thêm được nhiều khách hàng, tăng năng lực cạnh tranh và đóng góp tích cực vào lợi nhuận của công ty. CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN CHỨNG KHOÁN THĂNG LONG. 2.1. Khái quát về công ty cổ phần chứng khoán Thăng Long. 2.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển của công ty cổ phần chứng khoán Thăng Long. Công ty chứng khoán Thăng Long (TSC) ra đời từ tháng 5/2000 dưới hình thức ban đầu là công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên với vốn chủ sở hữu 100% của ngân hàng thương mại cổ phần Quân Đội. Đây là một trong những ngân hàng thương mại cổ phần hàng đầu Việt Nam với vốn điều lệ hiện nay khoảng trên 2000 tỷ đồng, tông tài sản là trên 31.000 tỷ đồng và 65 điểm giao dịch trên toàn quốc. Mục đích thành lập TSC của ngân hàng Quân đội là phát triển kinh doanh chứng khoán, cung cấp bộ sản phẩm ngân hàng – chứng khoán cho các khách hàng của ngân hàng Quân đội, đồng thời thu hút thêm khách hàng đầu tư chứng khoán sử dụng các dịch vụ của ngân hàng Quân đội TSC là một trong năm công ty chứng khoán đầu tiên được thành lập tại Việt Nam, với vốn điều lệ ban đầu là 9 tỷ đồng. Từ khi thành lập đến nay, TSC luôn giữ vững vị thế là một trong năm CTCK hàng đầu tại Việt Nam và thực hiện đầy đủ các nghiệp vụ chứng khoán theo quy định của ủy ban chứng khoán Nhà nước. TSC không chỉ là địa chỉ tin cậy đối với các nhà đầu tư cá nhân khi tham gia vào TTCK, mà còn được biết đến với tư cách là một đơn vị cung cấp các dịch vụ tư vấn cổ phần hóa chuyên nghiệp cho nhiều doanh nghiệp lớn như:viglacera, vinavico, viettronics Tân Bình, …Không những thế, TSC còn được nhận một số danh hiệu như: thành viên giao dịch tiêu biểu giai đoạn 2005 – 2007 của sàn giao dịch Hà Nội, danh hiệu thương hiệu cạnh tranh 2007, danh hiệu tập thể lao dộng vững mạnh toàn diện 2007 Để có được những thành tích đó, kể từ khi thành lập đến nay, công ty đã phải trải qua một quá trình vận động không ngừng cả về chất và lượng. Công ty đã liên tục tăng vốn điều lệ và mở thêm các chi nhánh và phòng giao dịch. Cụ thể: - Tháng 5/2000: được thành lập bởi ngân hàng thương mại cổ phần Quân Đội với vốn điều lệ 9 tỷ đồng và các nghiệp vụ: môi giới, tư vấn, lưu ký chứng khoán. Trụ sở chính đặt tại 14C – Lý Nam Đế - Hoàn Kiếm – Hà Nội. - Tháng 3/2003: khai trương chi nhánh tại thành phố Hồ Chí Minh. - Tháng 8./2003: tăng vốn điều lệ lên là 43 tỷ đồng và trở thành công ty chứng khoán với đầy đủ các nghiệp vụ theo luật định: môi giới, tự doanh, tu vấn, bảo lãnh phát hành chứng khoán. - Tháng 5/2006: tăng vốn điều lệ lên là 80 tỷ đồng, đồng thời tăng số lượng chi nhánh/ văn phòng lên hai điểm và chuyển trụ sở chính về tầng 6, tòa nhà Hà Nội Toserco – 273 Kim Mã – Ba Đình – Hà Nội. - Tháng 12/2006: tăng vốn điều lệ lên là 120 tỷ đồng. - Tháng 10/2007: tăng vốn điều lệ lên là 250 tỷ đồng. TSC đã là một trong 8 đơn vị đủ tiêu chuẩn tham gia vào đợt thử nghiệm nhập lệnh từ xa đầu tiên của sở giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh. - Tháng 12/2007: chuyển đổi hình thức sở hữu từ công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên sang công ty cổ phần và tăng vốn điều lệ lên là 300 tỷ đồng. - Tháng 12/2008: tăng vốn điều lệ lên 420 tỷ đồng - Dự kiến năm 2010: sẽ tăng vốn điều lệ lên là 1000 tỷ đồng. 2.1.2. Cơ cấu tổ chức và chức năng nhiệm vụ của các phòng ban. 2.1.2.1. Cơ cấu tổ chức. Cơ cấu bộ máy tổ chức và quản lý của công ty được tổ chức theo mô hình công ty cổ phần, chi tiết theo sơ đồ dưới đây: Sơ đồ 2.1: Cơ cấu tổ chức của công ty chứng khoán Thăng Long. Đại hội đồng cổ đông Ban kiểm soát Hội đồng quản trị Ban pháp chế Ban tổng giám đốc Ban quản lý rủi ro và kiểm soát nội bộ Hội sở Chi nhánh Trung tâm CNTT Khối hành chính nhân sự Khối tài chính Khối KH nước ngoài và tổ chức Khối tư vấn doanh nghiệp Khối phân tích Khối đầu tư Khối môi giới Khối marketing (Nguồn: công ty chứng khoán Thăng Long) 2.1.2.2. Chức năng, nhiệm vụ của các phòng ban Chức năng, nhiệm vụ của công ty. Cũng như mọi doanh nghiệp khác, nhiệm vụ chính của công ty là tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh và đem lại lợi nhuận cho công ty và các cổ đông, cụ thể: - Là một trong những kênh huy động vốn hữu hiệu cho nền kinh tế. - Hỗ trợ khách hàng tham gia đầu tư vào thị trường chứng khoán - Thực hiện đầu tư và quản lý danh mục đầu tư cho khách hàng. - Thực hiện hoạt động đầu tư chứng khoán cho chính công ty thông qua hoạt động tự doanh chứng khoán. - Thu hút sự tham gia và hợp tác với các tổ chức chuyên nghiệp vào thị trường chứng khoán góp phần thúc đẩy TTCK phát triển. …. Chức năng, nhiệm vụ của các phòng ban. Đại hội đồng cổ đông (ĐHĐCĐ) Là cơ quan có thẩm quyền cao nhất của công ty, có nhiệm vụ: - Thông qua kế hoạch phát triển của công ty; thông qua báo cáo tài chính hàng năm, các báo cáo của ban kiểm soát, hội đồng quản trị. - Thông qua, sửa đổi, bổ sung điều lệ công ty. - Quyết định đầu tư hoặc bán số tài sản có giá trị bằng hoặc lớn hơn 50% tổng giá trị tài sản của công ty tính theo báo cáo tài chính đã được kiểm toán gần nhất. Hội đồng quản trị (HĐQT) Là cơ quan có đầy đủ quyền hạn để thực hiện tất cả các quyền nhân danh công ty trừ những thẩm quyền thuộc về ĐHĐCĐ. Cụ thể: - Quyết định kế hoạch phát triển sản xuất kinh doanh và ngân sách hàng năm. - Xác định mục tiêu hoạt động và mục tiêu chiến lược trên cơ sở các mục đích chiến lược do ĐHĐCĐ thông qua. - Quyết định cơ cấu tổ chức của công ty và quy chế quản lý nội bộ công ty. - Đề xuất mức cổ tức hàng năm và xác định mức cổ tức tạm thời, tổ chức việc chi trả cổ tức. Đề xuất việc tái cơ cấu lại hoặc giải thể công ty. - Duyệt chương trình, nội dung tài liệu phục vụ họp ĐHĐCĐ, hoặc thực hiện các thủ tục hỏi ý kiến để ĐHĐCĐ thông qua quyết định. Chủ tịch HĐQT là đại diện theo pháp luật của công ty. Danh sách thành viên HĐQT của TSC: 1. Ông Lê Văn Bé - Chủ tịch HĐQT 2. Ông Lê Đình Ngọc - Phó Chủ tịch HĐQT 3. Ông Phạm Tuân - Thành viên HĐQT 4. Ông Phạm Viết Thích - Thành viên HĐQT 5. Ông Trịnh Khắc Hậu - Thành viên HĐQT Ban kiểm soát Ban kiểm soát gồm 3 thành viên do đại hội đồng cổ đông bầu ra. Ban kiểm soát có những quyền hạn và trách nhiệm sau: - Thực hiện giám sát HĐQT, TGĐ trong việc quản lý và điều hành công ty; chịu trách nhiệm trước ĐHĐCĐ trong thực hiện các nhiệm vụ được giao. - Kiểm tra tính hợp lý, hợp pháp, tính trung thực và mức độ cẩn trọng trong quản lý, điều hành hoạt động kinh doanh, trong tổ chức công tác kế toán, thống kê và lập báo cáo tài chính. - Thẩm định báo cáo tài chính hàng năm và sáu tháng, tình hình kinh doanh của công ty, báo cáo đánh giá công tác quản lý của HĐQT và trình lên ĐHĐCĐ. - Kiến nghị HĐQT hoặc ĐHĐCĐ các biện pháp sửa đổi, bổ sung, cải tiến cơ cấu tổ chức quản lý, điều hành hoạt động kinh doanh của công ty. Danh sách thành viên ban kiểm soát: 1. Bà Vũ Cẩm La Hương - Trưởng ban kiểm soát 2. Bà Lê Thu Vân - Thành viên ban kiểm soát 3. Bà Thẩm Thị Thúy - Thành viên ban kiểm soát Ban tổng giám đốc (TGĐ) Ban TGĐ do HĐQT bổ nhiệm. TGĐ là người đứng đầu và chịu trách nhiệm điều hành toàn bộ hoạt động hàng ngày của công ty theo nhiệm vụ được giao. Ban TGĐ thực hiện các nhiệm vụ sau: - Quản lý và điều hành các hoạt động, công việc hàng ngày của công ty thuộc thẩm quyền của TGĐ theo quy định của pháp luật và điều lệ. - Thực hiện các nghị quyết của HĐQT và ĐHĐCĐ, kế hoạch kinh doanh và kế hoạch đầu tư của công ty đã được HĐQT và ĐHĐCĐ thông qua. - Ký kết và tổ chức thực hiện các hợp đồng kinh tế, dân sự và các loại hợp đồng khác phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh và các hoạt động khác của công ty. - Quyết định bổ nhiệm, miễn nhiệm, khen thưởng, kỷ luật đối với các chức danh quản lý của công ty mà không thuộc đối tượng do HĐQT bổ nhiệm. Ban pháp chế và kiểm soát nội bộ. - Giải trình với cơ quan kiểm toán, cơ quan thuế nhà nước về những khoản chi tiêu, thu được trong hoạt động kinh doanh của công ty. - Kiểm tra tính pháp lý, hợp pháp của các hợp đồng. Cố vấn về những vấn đề liên quan tới luật pháp, những quy định của chính phủ, uỷ ban chứng khoán nhà nước cho các bộ phận khi họ có thắc mắc không hiểu. - Bảo mật hồ sơ, tài liệu thông tin liên quan đến công tác kiểm tra, thanh tra vụ việc theo quy định; thực hiện quản lý thông tin và lập các báo cáo về kiểm tra nội bộ theo quy định. Khối môi giới Thực hiện giao dịch cho các nhà đầu tư, quản lý tài khoản và cung cấp các dịch vụ hỗ trợ đầu tư cho khách hàng. Nhiệm vụ chủ yếu của khối môi giới là: Mở và quản lý tài khoản giao dịch của khách hàng. Hướng dẫn, hỗ trợ và thực hiện giao dịch của khách hàng. Khai thác và phát triển mạng lưới khách hàng. Quản lý và thực hiện chăm sóc khách hàng. Chủ trì, phối hợp với các đơn vị khác tổ chức thực hiện đại lý đấu giá. Giữ vai trò đầu mối thanh toán bù trừ và kết nối với trung tâm lưu ký chứng khoán. Khối đầu tư Quản lý và tổ chức thực hiện các hoạt động tạo lập, sử dụng nguồn vốn , tổ chức và thực hiện hoạt động đầu tư, tự doanh và các hoạt động khác của công ty. quản lý nguồn vốn: Theo dõi, quản lý các nguồn lực tài chính của công ty. Xây dựng kế hoạch tạo lập và sử dụng nguồn vốn của công ty. Điều hòa, cân đối tài chính phục vụ hoạt động kinh doanh của công ty. quản lý đầu tư Thu thập thông tin, thực hiện phân tích phục vụ công tác đầu tư. Xây dựng và quản lý danh mục đầu tư. Thiết lập các kênh khai thác đầu tư. Khối tư vấn doanh nghiệp Đây là nơi cun._. với nước ngoài, cho phép sáp nhập các CTCK, tiến tới thực hiện việc niêm yết cổ phiếu của CTCK. 3.2. Định hướng phát triển của công ty cổ phần chứng khoán Thăng Long. Trong thời điểm hiện tại, các công ty chứng khoán đang hoạt động trên thị trường chứng khoán Việt Nam phải tìm kiếm cho mình cơ hội để phát triển và tăng trưởng trong dài hạn. Với một chiến lược kinh doanh ngắn hạn thì mức độ rủi ro là vô cùng lớn. Thị trường đang biến động khó lường, theo như đánh giá thì đây là quá trình thị trường đào thải những công ty làm ăn không hiệu quả, chất lượng hoạt động kém. Xứng đáng là đàn anh trên thị trường, TSC vẫn giữ vững được vị thế của minh. Sở dĩ như vậy là do định hướng chiến lược phát triển của công ty trong từng thời kỳ kết hợp với đội ngũ nhân sự chuyên nghiệp và hệ thống công nghệ hiện đại. Theo đó, mục tiêu chiến lược của TSC trong thời gian tới: - Trở thành trung gian tài chính tin cậy trên thị trường chứng khoán đối với nhà đầu tư tổ chức và nhà đầu tư cá nhân, gia tăng thị phần hoạt động của các hoạt động. Trong bối cảnh như hiện nay thì năng lực cạnh tranh là một yếu tố sống còn. Do đó, mục tiêu của công ty là phải nâng cao năng lực cạnh tranh trên thị trường thông qua hoạt động đầu tư vào nguồn nhân lực, vào công nghệ … - Liên kết, hợp tác với các tập đoàn tài chính lớn để đa dạng hóa nguồn vốn của công ty, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư. - Tăng cường đầu tư vào công nghệ, nhân sự, đầu tư có chiến lược nhằm nâng cao chất lượng các hoạt động nghiệp vụ của công ty. - Tạo ra thương hiệu hàng đầu và lợi nhuận cao. Thương hiệu mạnh chính là nền tảng cho lợi nhuận cao. Chính xuất phát từ quan điểm này mà công ty sẽ không ngừng đầu tư để khẳng định thương hiệu của minh. - Mở rộng mạng lưới ở các tỉnh miền trung, một vùng có nhiều tiềm năng phát triển và mức độ cạnh tranh còn thấp. thêm vào đó, việc mở thêm các phòng giao dịch hay đại lý nhận lệnh ở các trung tâm lơn như Hà Nội và Hồ Chí Minh cũng là một trong những chiến lược của công ty. - Trở thành một trong những tổ chức tài chính hàng đầu tại Việt Nam trong lĩnh vực ngân hàng đầu tư và môi giới chứng khoán. Phấn đấu đến năm 2010 tăng vốn điều lệ của công ty lên 1000 tỷ đồng. 3.3. Vận dụng mô hình SWOT để nâng cao năng lực cạnh tranh của công ty cổ phần chứng khoán Thăng Long. 3.3.1. Phát huy thế mạnh. Ngày nay, khi áp lực cạnh tranh trong hoạt động kinh doanh chứng khoán càng gia tăng, các CTCK luôn tìm mọi cách để nâng cao sức mạnh cạnh tranh của mình, trong đó, việc tận dụng những lợi thế mà mình có sẵn để phát huy sức mạnh được coi là bước đi ngắn nhất và hiệu quả nhất. Một số lợi thế mà TSC sẽ phát huy : Thứ nhất, tận dụng mạng lưới rộng khắp để phát triển sản phẩm dịch vụ công nghệ cao ở những thành phố lớn. Thứ hai, đẩy mạnh quan hệ hợp tác với các quỹ đầu tư, các CTCK quốc tế để học hỏi, tích lũy thêm kinh nghiệm. Thứ ba, tranh thủ sự ủng hộ và giúp đỡ của các cổ đông chiến lược của công ty để phát triển công nghệ, nâng cao chất lượng nhân sự, củng cố và phát huy thị phần … 3.3.2. Khắc phục điểm yếu. Không chỉ riêng TSC mà bất cứ CTCK nào cũng luôn tồn tại những yếu kém nhất định. Do vậy, khắc phục những điểm yếu của mình và biến chúng thành những lợi thế, những cơ hội nhằm tăng cường sức mạnh cạnh tranh là điều mà bất cứ công ty nào cũng mong muốn. Để làm được điều này, TSC cần phải: Thứ nhất, nâng cao chất lượng nhân sự trên cơ sở xây dựng và đào tạo một đội ngũ nhân viên với một tư tưởng mới, hiểu và nhận biết được tầm quan trọng củ khách hàng đối với sự tồn vong và phát triển của công ty. Đào tạo một đội ngũ nhân viên với tinh thần làm việc hết mình, cống hiến vì sự nghiệp của TSC. Thứ hai, hoàn thiện cơ sở hạ tầng, đảm bảo tính đồng bộ về lĩnh vực công nghệ. Tinh giảm bớt những chi nhánh và phòng giao dịch để tạo dễ dàng cho đầu tư phát triển công nghệ cũng như tạo bộ mặt cho công ty. Tránh tình trạng có quá nhiểu phòng giao dịch, chi nhánh với cơ sở hạ tầng, trang thiết bị … thấp vì điều này sẽ làm giảm vị thế của TSC với khách hàng. Thứ ba, đa dạng hóa nguồn vốn đầu tư và điều chỉnh cơ cấu đầu tư hợp lý. Một cơ cấu đầu tư hợp lý sẽ đem lại lợi nhuận cao. TSC cần đa dạng hóa nguồn vốn thông qua việc đa dạng hóa phương thức huy động vốn như: huy động một phần vốn từ cán bộ nhân viên của công ty thông qua việc phát hành thêm cổ phần mới. Điều này không chỉ làm tăng nguồn vốn của công ty mà còn gắn chặt lợi ích của nhân viên với lợi ích của công ty; Không chỉ huy động từ nội bộ công ty mà còn có thể huy động từ các tổ chức tín dụng khác trên thị trường thông qua phát hành cổ phiếu, trái phiếu ra bên ngoài, tăng vốn điều lệ của công ty … Thứ tư, xây dựng hệ thống quy trình thực hiện đối với từng nghiệp vụ. Với mỗi một nghiệp vụ sẽ có đặc điểm riêng. Do đó, cần xây dựng và chuẩn hóa quy trình tác nghiệp của từng nghiệp vụ bao gồm: quy trình môi giới, quy trình tư vấn, quy trình tự doanh hay quy trình kiểm soát rủi ro … Một quy trình hoàn thiện sẽ giúp cho công ty cũng như khách hàng có thể kiểm soát và hạn chế được những rủi ro khi tham gia đầu tư trên thị trường chứng khoán. Theo đó, cần chú ý một số điểm sau khi xây dựng các quy trình nghiệp vụ: Phải dựa trên một quy trình chuẩn đối với từng nghiệp vụ; từ đó có thể bổ sung thêm các bước nhỏ hơn để quy trình được rõ ràng hoặc lược bỏ bớt một số bước không cần thiết để tiết kiệm chi phí; phải tạo ra được sự liên kết, hỗ trợ giữa các nghiệp vụ với nhau; phải thường xuyên cập nhật và điều chỉnh các quy trình này cho phù hợp với từng giai đoạn phát triển của thị trường. 3.3.3. Tận dụng cơ hội. Hội nhập không chỉ mở ra nền kinh tế Việt Nam những cơ hội mới mà còn tạo ra vô số những cơ hội cho ngành kinh doanh chứng khoán nói chung và TSC nói riêng. Thế nhưng, việc tận dụng những cơ hội đó như thế nào để biến chúng thành sức mạnh và sử dụng chúng như là một công cụ để gia tăng sức mạnh trong cạnh tranh mới là điều quan trọng. Để biến những cơ hội đó thành chìa khóa cho sự thành công của TSC thì TSC cần phải: Thứ nhất, nhanh chóng phát triển những sản phẩm – dịch vụ mang tính công nghệ cao dựa trên những lợi thế sẵn có. Thứ hai, tranh thủ sự hợp tác với các quỹ đầu tư, các CTCK nước ngoài để tiếp cận phương pháp quản lý chuyên nghiệp, công nghệ mới. 3.3.4. Vượt qua thử thách. Có lẽ điều mà các CTCK nói chung và TSC nói riêng là làm sao và làm như thế nào với những điểm mạnh, trên sự hiểu rõ về những điểm yếu đang tồn tại của mình với việc tận dụng những cơ hội của thị trường để vượt qua mọi thử thách đang và sẽ đối mặt phía trước. Để biến những lợi thế mà mình đang có, những cơ hội mà thị trường đã tạo ra trên những điểm yếu của mình để vượt qua những thử thách của thị trường nhằm tạo lợi thế trong cạnh tranh, TSC cần phải: Thứ nhất, tăng cường sức mạnh tài chính để đầu tư phát triển công nghệ mới, hoàn thiện cơ sở hạ tầng, nâng cấp trang thiết bị nhằm cải tiến “tốc độ” truyền tải dữ liệu giữa các chi nhánh và hội sở, giữa chi nhánh và phòng giao dịch đảm bảo sự chính xác, an toàn và nhanh chóng trong mọi giao dịch. Tránh tình trạng tắc nghẽn khi giao dịch, gây thiệt hại cho khách hàng và ảnh hưởng đến uy tín của công ty. Bên cạnh đó, cần chú trọng đến công tác quản trị mạng, vì một khi các sản phẩm công nghệ cao được sử dụng thì vấn đề trộm cắp thông tin, tài sản của khách hàng sẽ tinh vi hơn và hậu quả nghiêm trọng hơn. Thứ hai, tiếp tục hoàn thiện chế độ tiền lương, chế độ đãi ngộ, công tác tuyển dụng để thu hút nguồn nhân lực có chất xám đảm bảo tạo ra một đội ngũ nhân viên giàu nghị lực, đủ năng lực để quản lý và điều hành trong giai đoạn hiện tại và kế thừa trong tương lai. Thứ ba, tạo nên sự khác biệt trong chính hoạt động kinh doanh của mình dựa trên các sản phẩm, con người và chất lượng dịch vụ. 3.4. Một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của công ty cổ phần chứng khoán Thăng Long. 3.4.1. Đa dạng hóa các sản phẩm dịch vụ truyền thống và phát triển sản phẩm mới. So với thực trạng các sản phẩm dịch vụ truyền thống mà TSC đang sử dụng thì tính chất đa dạng về sản phẩm truyền thống còn quá thấp. Bên cạnh đó, các CTCK luôn tung ra thị trường những sản phẩm mới, mang tính công nghệ cao, đáp ứng được ngày càng nhiều nhu cầu của người tiêu dùng như giao dịch điện tử, quản lý danh mục đầu tư … Vì thế, việc đa dạng hóa các sản phẩm dịch vụ của TSC là cần thiết. Dưới đây là một số giải pháp để phát triển và đa dạng hóa các sản phẩm dịch vụ của TSC: Thứ nhất, thành lập phòng nghiên cứu thị trường và phát triển sản phẩm bên cạnh phòng marketing nhằm nghiên cứu nhu cầu, thị hiếu và xu hướng của người tiêu dùng trên cơ sở những lợi thế vốn có củ TSC để đưa ra những sản phẩm mới đáp ứng được nhu cầu của người tiêu dùng. Thứ hai, đa dạng hóa các sản phẩm mới trên nền tảng của sản phẩm truyền thống để thích ứng với nhiều đối tượng khách hàng khác nhau; phân khúc thị trường để cung ứng những sản phẩm phù hợp với nhu cầu của khách hàng và lợi thế của TSC. Thứ ba, hoàn thiện tốt nhất cơ sở hạ tầng, công nghệ thông tin đảm bảo sự phát triển được các dòng sản phẩm mang tính công nghệ cao. Đảm bảo sự đồng bộ về mặt công nghệ giữa các chi nhánh và phòng giao dịch, tránh tình trạng tắc nghẽn đường truyền, gây tâm lý không tốt cho người tiêu dùng, cũng như làm nền tảng cho sự phát triển những sản phẩm mới. 3.4.2. Đầu tư nâng cao chất lượng các sản phẩm - dịch vụ Việc hoàn thiện và nâng cao chất lượng các sản phẩm dịch vụ là một biện pháp hữu hiệu để thu hút thêm khách hàng, mở rộng thị phần, tăng năng lực cạnh tranh. Theo đó, công ty cần chọn những sản phẩm có thế mạnh, không ngừng cải tiến nâng cao chất lượng, đa dạng hóa các sản phẩm dịch vụ theo nhu cầu ngày càng đa dạng và tăng cao của xã hội. Theo đó, TSC cần phải: Thứ nhất, xây dựng được đội ngũ cán bộ công nhân viên giao dịch có trình độ nghiệp vụ chuyên môn cao; có tinh thần trách nhiệm tốt, có phẩm chất đạo đức tốt; tác phong công việc nghiêm chỉnh, tính tình trung thực, luôn xem khách hàng là thượng đế. Nhân viên phải hiểu và nhận biết được sự sống còn của ngân hàng chính là khách hàng … biết thông cảm và có những quan tâm chia sẻ đối với những khách hàng thường xuyên, cũng như những khách hàng mới. Điều này sẽ giúp khách hàng cảm thấy thân thiện khi đến giao dịch và giúp họ trở thành khách hàng truyền thống và gắn bó lâu dài với công ty. Thứ hai, hoàn thiện cơ sở vật chất kỹ thuật, cơ sở hạ tầng tốt; trang thiết bị và công nghệ hiện đại; vị trí kinh doanh hợp lý, không gian giao dịch thoáng mát, lịch sự và văn minh. Điều này sẽ giúp khách hàng cảm thấy an tâm hơn khi đến giao dịch với công ty. Thứ ba, tiếp tục hoàn thiện công nghệ, chất lượng chuyên môn của nhân viên đảm bảo tính chính xác, kịp thời, bỏa mật và an toàn cho tài sản của khách hàng khi đến giao dịch. Thư tư, mỗi chi nhánh, phòng giao dịch phải đảm bảo được đội ngũ cán bộ nhân viên hướng dẫn, trả lời và giải quyết những vấn đề thắc mắc, khiếu nại của khách hàng một cách nhanh nhất, đảm bảo quyền lợi của khách hàng trên sự hài hòa lợi ích của công ty. Tránh tình trạng gây bất mãn, thờ ơ hay lảng tránh trả lời những khiếu nại của khách hàng, mỗi nhân viên không được tranh cãi với khách hàng dù bất kỳ trường hợp nào, mà phải hướng dẫn, giải thích cho khách hàng biết những gì khách hàng chưa hiểu hay hiểu nhầm lẫn đảm bảo giữ được hòa khí giữa khách hàng và công ty. 3.4.3. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực thông qua hoạt động đào tạo. Từ bấy lâu nay, vấn đề nhân sự luôn được các doanh nghiệp đặt lên hàng đầu, nó có vai trò quan trọng quyết định đến sự phát triển hay diệt vong của một doanh nghiệp nói chung. Khi mà thị trường tài chính Việt Nam đã và đang phát triển khá mạnh trong những năm gần đây thì vấn đề nguồn nhân lực càng được đề cao hơn bao giờ hết. Để có được đội ngũ nhân viên đủ khả năng đáp ứng được yêu cầu kinh doanh trong môi trường cạnh tranh ngày càng gay gắt của thị trường mở cửa, TSC cần tập trung thực hiện các giải pháp sau: - Tiến hành sắp xếp bố trí hợp lý đội ngũ cán bộ quản lý và nhân viên hiện có trong công ty. Cần phát hiện người có năng lực, bố trí họ vào những công việc phù hợp với ngành nghề, trình độ và năng lực sở trường. Bổ sung những cán bộ, nhân viên đủ tiêu chuẩn, có triển vọng phát triển, đồng thời thay thế những cán bộ, nhân viên không đủ năng lực, không đủ tiêu chuẩn, vi phạm pháp luật và đạo đức. Đây là giải pháp quan trọng để nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả công tác của đội ngũ cán bộ hiện có mà chưa cần đến việc đào tạo, bồi dưỡng. - Tạo sự gắn bó về quyền lợi và trách nhiệm của đội ngũ nhân viên với công ty bằng các chính sách như: đầu tư cho đào tạo, bảo đảm công ăn việc làm ổn định cho nhân viên kể cả khi có biến động, xây dựng chế độ tiền lương và thưởng theo hướng khuyến khích nhân viên có những đóng góp tích cực cho sự phát triển của công ty. Đa dạng hóa các kỹ năng và đảm bảo khả năng thích ứng của đội ngũ nhân viên khi cần có sự điều chỉnh nhân sự trong nội bộ công ty. Biện pháp này sẽ giúp các công ty có thể dễ dàng điều chỉnh nhân sự khi có những biến động, giảm được chi phí để tuyển dụng hay thuyên chuyển nhân viên. - Tiêu chuẩn hóa cán bộ, nhân viên trong công ty. Ở mỗi ngành nghề, vị trí công tác, cung bậc công việc đòi hỏi kiến thức, kỹ năng về chuyên môn khác nhau. Do đó tiêu chuẩn hóa cán bộ phải cụ thể hóa đối với từng ngành nghề, từng loại công việc và phải phù hợp, đáp ứng được yêu cầu phát triển trong từng thời kỳ. Khi xây dựng hệ thống tiêu chuẩn, cần phải tham khảo các CTCK khác nhưng vẫn giữ được nét văn hóa kinh doanh riêng của TSC. Áp dụng cơ chế bổ sung và đào thải nhân lực để duy trì đội ngũ cán bộ quản lý kinh doanh, nhân viên tinh thông nghiệp vụ, đáp ứng yêu cầu cạnh tranh của thị trường. Đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, lao động để có trình độ chuyên môn nghiệp vụ, ngoại ngữ, sử dụng thành thạo vi tính, am hiểu thị trường thế giới và thông lệ quốc tế. - Xây dựng kế hoạch đào tạo cán bộ phù hợp với kế hoạch chung của công ty. Theo đó, nên phân cấp nhân viên theo trình độ nghiệp vụ để đào tạo. Lựa chọn hình thức đào tạo phù hợp. Có thể đào tạo trực tiếp tại nơi làm việc hoặc đào tạo chính quy ở trong nước hay nước ngoài. Tùy từng đối tượng và tùy từng điều kiện mà công ty nên quyết định lựa chọn hình thức nào cho phù hợp. - Nâng cao chất lượng tuyển dụng từ cách thức tổ chức cho đến nội dung tuyển dụng. Có làm tốt công tác này từ đầu thì mới đảm bảo đội ngũ nhân sự chất lượng, đáp ứng tốt yêu cầu công việc sau này. Theo đó, công tác tổ chức tuyển dụng cần được tiến hành cẩn thận, tỉ mỉ, phải có sự giám sát chặt chẽ để tránh tình trạng lợi dụng mối quan hệ hay đi cửa sau. Điều này sẽ gây thiệt hại cho công ty sau nay. 3.4.4. Đầu tư cho cơ sở vật chất một cách đồng bộ, hiện đại hóa công nghệ thông tin và phát triển các phần mềm ứng dụng tiên tiến. Tăng cường đầu tư ở đây không phải là tăng lượng VĐT mà là đầu tư có trọng điểm, có kế hoạch, tránh đầu tư tràn lan. Theo đó, công ty nên tập trung đầu tư vào những thiết bị, những bộ phận thật sự cần thiết, thực hiện tiết kiệm trong đầu tư. - Tăng cường đầu tư cho hoạt động nghiên cứu lựa chọn công nghệ phù hợp với quy mô, trình độ của nhân viên. Nếu đầu tư cho công nghệ quá hiện đại mà không đầu tư cho đội ngũ nhân sự vận hành thì sẽ không phát huy được hiệu quả của công nghệ. Kéo theo sự thất thoát, lãng phí nguồn lực. - Không ngừng nâng cấp và cải thiện các phần mềm công nghệ của công ty để đảm bảo độ an toàn, bảo mật thông tin cho khách hàng. Hơn nưa, đầu tư chứng khoán đòi hỏi phải theo dõi sự biến động của thị trường một cách thường xuyên và đưa ra các dự báo một cách chính xác. Nếu công nghệ cũ, lạc hậu thì sẽ không thể cập nhật thông tin chính xác được và do đó cung không thể dự báo một cách chính xác. Vì thế, việc nâng cấp công nghệ thường xuyên là thực sự cần thiết. - Xây dựng và hoàn thiện hệ thống thông tin và website của công ty. Để khách hàng biết đến tên tuổi của công ty, tham gia sử dụng các sản phẩm dịch vụ một cách linh hoạt. 3.4.5. Phát triển, mở rộng mạng lưới kinh doanh. Một mạng lưới kinh doanh rộng sẽ góp phần tăng thị phần, từ đó gia tăng lợi nhuận của công ty và cũng tạo ra năng lực cạnh tranh cho công ty. Do đó, mở rộng các mạng lưới kinh doanh là cần thiết. Tuy nhiên không phải phát triển, mở rộng một cách bừa bãi mà phải dựa vào điều kiện thực tế của công ty, cũng như phải nghiên cứu tình hình thị trường trong từng giai đoạn và đặc biệt là phải có chiến lược cụ thể phù hợp với mục tiêu và định hướng dài hạn của công ty. Theo đó cần chú ý một số vấn đề: - Việc mở thêm các chi nhánh, phòng giao dịch hay đại lý nhận lệnh phải được đầu tư về vật chất tiền bạc và nhân lực tương xứng với mục tiêu mà công ty đặt ra. Các chi nhánh phải liên kết với nhau thành một hệ thống thống nhất, chặt chẽ, bền vững để không bị phá vỡ bởi bất kỳ xung lực nào từ môi trường bên ngoài. - Việc mở rộng mạng lưới kinh doanh là nhằm phục vụ tốt hơn nhu cầu của khách hàng. Do đó, trước khi mở thêm một chi nhánh, phòng giao dịch hay đại lý nhận lệnh ở một nơi nào đó thì cần phải tìm hiểu, phân tích toàn diện các yếu tố nội tại của công ty, các yếu tố thuộc về thị trường, khách hàng và các yếu tố khác thuộc môi trường vĩ mô của kinh doanh. - Phải thường xuyên kiểm tra, giám sát, đánh giá hoạt động của các chi nhánh để có sự quản lý và điều chỉnh hệ thống một cách có căn cứ và kịp thời. Tránh để tình trạng một chi nhánh nào đó hoạt động kém hiệu quả gây ảnh hưởng xấu đến hình ảnh của công ty, làm giảm năng lực cạnh tranh của công ty. - Tăng cường công tác tuyên truyền, quảng cáo cho các chi nhánh mới mở để thu hút được sự chú ý của khách hàng và cũng để nâng cao vị thế của công ty trên thị trường. 3.4.6. Tăng cường công tác nghiên cứu thị trường. Nghiên cứu thị trường là công việc cần thiết đầu tiên đối vời bất cứ doanh nghiệp nào trong quá trình kinh doanh. Một doanh nghiệp không thể khai thác hết tiềm năng của mình cũng như không thoả mãn tất được nhu cầu của khách hàng nếu không có được đầy đủ các thông tin chính xác về thị trường. Thông qua việc nghiên cứu thị trường, TSC sẽ nắm được những thông tin cần thiết về giá cả, cung cầu hàng hóa và dịch vụ mà công ty đang kính doanh hoặc sẽ kinh doanh để đề ra những phương án chiến lược và biện pháp cụ thể được thực hiện mục tiêu kinh doanh đề ra. Quá trình nghiên cứu thị trường là quá trình thu thập thông tin, số liệu về thị trường, phân tích so sánh số liệu đó và rút ra kết luận, từ đó đề ra các biện pháp thích hợp đối với công ty. Để công tác nghiên cứu thị trường đạt hiệu quả cao, TSC nên kết hợp cả hai phương pháp nghiên cứu tại bàn và phương pháp nghiên cứu tại hiện trường. Công ty nên tiến hành nghiên cứu thị trường theo trình tự sau: xác định mục tiêu nghiên cứu thị trường, xây dựng hệ thống các chỉ tiêu nghiên cứu thị trường, xác định và lựa chọn phương pháp nghiên cứu, xây dựng kế hoạch nghiên cứu, thực hiện, điều chỉnh kế hoạch và viết báo cáo. 3.4.7. Xây dựng chiến lược xúc tiến hỗn hợp trong hoạt động Marketing. Hoạt động xúc tiến hỗn hợp trong marketing là sự kết hợp tổng hợp các hoạt động sau: quảng cáo, khuyến mại, chào hàng hay bán hàng cá nhân và tuyên truyền. Toàn bộ các hoạt động xúc tiến trên phải được phối hợp để đạt tác dụng truyền thông tối đa tới người tiêu dùng. Theo đó, TSC cần: - Trước hết, cần xác định được đâu là khách hàng mục tiêu: có thể là những khách hàng tiềm năng của sản phẩm của Công ty, những người đang sử dụng sản phẩm dịch vụ của công ty, những người quyết định mua hoặc có ảnh hưởng đến quyết định mua sản phẩm dịch vụ. Khách hàng mục tiêu có ảnh hưởng quan trọng đến các quyết định truyền thống của Công ty như: Nói cái gì? Nói như thế nào? Nói khi nào? Nói ở đâu và Nói với ai? - thứ hai, quyết định mục tiêu, ngân sách, hình thức, nội dung và phương tiện quảng cáo: Mục tiêu quảng cáo phải xuất phát từ các mục tiêu trong kinh doanh của Công ty và các mục tiêu marketing. Ví dụ: mục tiêu doanh số, lợi nhuận, thị phần, các mục tiêu này nâng cao uy tín của Công ty, của sản phẩm… Ngân sách quảng cáo: phải dựa vào mục tiêu, khả năng của công ty và mức chi của các công ty cạnh tranh cùng cỡ trên thị trường. Về hình thức phải sinh động, lôi cuốn người xem nhưng vẫn đảm bảo rõ ràng. Nội dung thì phải đáng tin cậy và tạo nên sự tin tưởng hoàn toàn nơi khách hàng. Còn phương tiện quảng cáo thì tùy theo khách hàng và loại sản phẩm kinh doanh của công ty mà có thể chọn phương tiện quảng cáo cho phù hợp như: báo, đài, Tivi, phim ảnh quảng cáo, Quảng cáo bằng thư gửi qua bưu điện, quảng cáo bằng Pano, áp phich vv... - thứ ba, tổ chức thực hiện các chương trình khuyến mại nhằm kích thích thị trường đáp ứng nhanh và mạnh hơn đối với sản phẩm và dịch vụ của Công ty. Chẳng hạn: tặng quà hay giảm giá sản phẩm dịch vụ … - thứ tư, thực hiện công tác tuyên truyền hay chính là PR: đôi khi có tác dụng mạnh, đạt hiệu quả cao nhất lại tón kém ít hơn quảng cáo. Để tuyên truyền cho Công ty có thể mời các nhà chính trị lỗi lạc, các nhà nghệ thuật nổi tiếng đến thăm Công ty mình. Cũng có thể tổ chức những bữa tiệc lớn, mời phóng viên báo chí, đài phát thanh, đài truyền hình và các quan chức đến dự nhân ngành thành lập Công ty, ngày đón nhận huân chương lao động v.v… hoặc tham gia các chương trình tài trợ cho các phong trào văn nghệ, thể thao, cấp học bổng cho sinh viên các trường Đại học, xây nhà tình nghĩa, nhận nuôi dưỡng các bà mẹ anh hùng suốt đời.v..v. 3.4. Một số đề xuất kiến nghị. 3.4.1. Hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán. Mặc dù đã đạt được những kết quả đáng kể, song thị trường chứng khoán Việt Nam vẫn đang trong quá trình hình thành và phát triển, nhiều yếu tố mới được phát sinh. Vì vậy, việc sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện Luật chứng khoán là cần thiết và xuất phát từ những lý do sau: Thứ nhất, trong thời gian qua, quá trình thực hiện Luật đã gặp phải một số vướng mắc do quy định chưa đầy đủ và phù hợp. Do đó, cần thiết phải sửa đổi, bổ sung để đảm bảo hiệu lực của công tác quản lý và đảm bảo thị trường hoạt động một cách có tổ chức, an toàn, hiệu quả. Đồng thời, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư. Thứ hai, sau khi Việt Nam ra nhập WTO, nhiều vấn đề phấp lý nảy sinh cần phải điều chỉnh để đáp ứng nhu cầu hội nhập nhưng vẫn đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các doanh nghiệp và tổ chức, cá nhân tham gia thị trường. Xuất phát từ một số lý do nêu trên, việc hoàn thiện các văn bản pháp luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán là rất cần thiết. Theo đó, việc sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện nên chú ý một số nội dung như: Một là, mở rộng phạm vi điều chỉnh và đối tượng áp dụng. Bổ sung hoạt động phát hành chứng khoán riêng lẻ của công ty đại chúng; việc chào bán và niêm yết chứng khoán của các pháp nhân nước ngoài trên TTCK Việt Nam; việc chào bán các chứng khoán phái sinh và thị trường giao dịch cho các loại chứng khoán này cùng các sản phẩm quỹ đầu tư mới. Hai là, thống nhất sử dụng khái niệm “sở giao dịch chứng khoán” đối với TTCK tập trung cho phù hợp với thông lệ quốc tế, tạo điều kiện trong việc mở rộng hợp tác quốc tế về TTCK, đồng thời phù hợp với tình hình thực tiễn của thị trường hiện nay, khi trung tâm giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội đều đã được chuyển đổi thành mô hình sở giao dịch chứng khoán.. Ba là, bổ sung thêm một số quy định để tạo cơ chế trong quản lý giám sát các công ty đại chúng, đặc biệt trong giám sát việc đảm bảo tư cách của công ty đại chúng, giám sát việc thực hiện và tuân thủ nghĩa vụ công ty đại chúng. Bốn là, bổ sung quy định về quyền và nghĩa vụ của ngân hàng thanh toán giao dịch chứng khoán; quy định việc quản lý đăng ký, lưu ký, thực hiện quyền đối với chứng khoán của các doanh nghiệp Việt Nam phát hành và niêm yết tại các thị trường nước ngoài. Năm là, bổ sung thêm các quy định về tổ chức, hoạt động của các CTCK, công ty quản lý quỹ, quỹ đầu tư chứng khoán, tổ chức lưu ký, người hành nghề chứng khoán. Sáu là, sửa đổi một số quy định về mức xử phạt và các hành vi vi phạm để đảm bảo tính khả thi của pháp luật và phù hợp với các văn bản pháp luật có liên quan về xử lý vi phạm mới được sửa đổi, bổ sung. 3.4.2. Từng bước phát triển các công cụ phái sinh, phát triển thị trường trái phiếu chuyên biệt. Càng có nhiều loại chứng khoán thì khả năng đa dạng hóa danh mục đầu tư càng dễ dàng, sự lựa chọn không hạn chế nếu công ty, nhà đầu tư nào có đủ khả năng về mặt tài chính. Như đã nêu ở trên thị trường các công cụ chứng khoán phái sinh có những đặc tính cực kỳ hấp dẫn. Nhưng thị trường Việt Nam chưa thấy xuất hiện. Để chuẩn bị cho sự phát triển của thị trường chứng khoán phái sinh chính phủ cần nghiên cứu, điều chỉnh để thị trường chứng khoán Việt Nam chấp nhận được loại chứng khoán này. Đồng thời cũng nên tạo ra một thị trường trái phiếu chuyên biệt đảm bảo cho việc đầu tư dễ dàng hơn. Nhà đầu tư cũng như chuyên viên chứng khoán nhìn thấy được sự giao dịch dễ dàng, mở rộng danh mục đầu tư ra các công cụ chứng khoán khác, giảm thiểu rủi ro hệ thống. Ngoài ra, phải quản lý thị trường OTC để tránh sự hoạt động không kiểm soát như hiện nay gây ra những tác động xấu đến thị trường. Tóm lại những kiến nghị đưa ra là đều nhằm mục tiêu ổn định thị trường chứng khoán trong ngắn hạn, trung hạn, dài hạn thông qua việc tác động vào nhà đầu tư, vào trực tiếp thị trường, các công ty chứng khoán. 3.4.3. Chính phủ, bộ tài chính không nên can thiệp quá sâu vào thị trường chứng khoán và hoạt động của công ty chứng khoán. Các công ty chứng khoán là các pháp nhân có năng lực tài chính tiến hành kinh doanh một cách độc lập. Họ có thể tiến hành các hoạt động kinh doanh của họ độc lập. Họ chịu sự điều chỉnh của cơ chế thị trường và quy luật giá trị. Vì thế không cần có sự can thiệp sâu, quá cụ thể vào hoạt động của công ty từ phía chính phủ. Trong khoảng đầu năm nay chính phủ đã ban hành quy định buộc các công ty chứng khoán hạn chế bán chứng khoán trong danh mục mà họ nắm giữ ra ngoài thị trường, để đảm bảo thị trường không thể giảm sâu hơn nữa. Chính vì thế làm cho rất nhiều công ty cảm thấy bất ổn. Những chính sách can thiệp của chính phủ đang làm thị trường có những diễn biến phức tạp và khó đoán hơn. Việc có bàn tay can thiệp của nhà nước vào thị trường chỉ làm cho thị trường biến động lớn hơn. Mà việc đưa ra những dự kiến về việc sẽ có biện pháp gì để giải quyết vấn đề hiện nay trong thời gian tới. Nhưng lại không thấy được một hành động cụ thể nào cả chỉ làm cho nhà đầu tư, những công ty chứng khoán mất lòng tin vào nhà nước. Nhà nước nên hành động chứ không phải là dùng lời nói không, có hành động tích cực mà có hiệu quả thì đó mới là biện pháp hữu hiệu. 3.4.4. Cho phép tiếp tục triển khai cho vay kinh doanh chứng khoán đối với các ngân hàng thương mại. Mới đây siết chặt chỉ thị 03/2007/CT-NHNN về kiểm soát, quy mô, chất lượng tín dụng và cho vay đầu tư và kinh doanh chứng khoán đối với ngân hàng thương mại, làm cho ngân hàng định trệ hoạt động. Nhà đầu tư thiếu tiền để đầu tư. Nó lại tác động gián tiếp đến hoạt động tự doanh thông qua việc thị trường giảm số lượng giao dịch, giá trị giao dịch giảm, chỉ số VN-index giảm. Chỉ thị này cũng làm cho hoạt động Repo có cơ hội nhưng tác động của nó đối với mảng đầu tư lại lớn hơn nhiều vì thu lợi từ đầu tư nhiều hơn rất nhiều so với việc thu phí từ hoạt động Repo. Tại sao? Có một điều có thể trả lời cho lập luận này đó là do số lượng nhà đầu tư có nhu cầu Repo trên thị trường ít, bị cạnh tranh gay gắt. Kiếm được khách hàng với số lượng lớn là rất khó khăn, trong khi nếu thị trường ổn định thì ngoài khoản thu từ đầu tư còn thêm khoản thu từ hoạt động Repo. Việc nới nỏng chỉ thị này có tác động ngay trong ngắn hạn nhằm cứu thị trường còn có tác động trong lâu dài. KẾT LUẬN Qua ba chương, bài viết đã làm rõ được một số lý luận về năng lực cạnh tranh và hoạt động đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh của các công ty chứng khoán, cũng như thực trạng hoạt động đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh tại công ty cổ phần chứng khoán Thăng Long. Từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh tại công ty. TSC thực sự đã chứng tỏ được bản lĩnh của mình trên thị trường. Mặc dù thị trường chứng khoán hiện nay có nhiều biến động nhưng công ty cổ phần chứng khoán Thăng Long vẫn giữ vững được vị thế, thương hiệu của mình. Điều này cho thấy chiến lược đầu tư đúng đắn cũng như năng lực cạnh tranh của công ty. Qua bài viết này và thời gian thực tập tại công ty cổ phần chứng khoán Thăng Long, em đã học hỏi và tích lũy thêm được một số kiến thức về chứng khoán và thị trường chứng khoán cũng như các hoạt động tại công ty chứng khoán. Được sự giúp đỡ tận tình của Ths. Phan Thu Hiền và các anh chị làm việc tại công ty cổ phần chứng khoán Thăng Long, em đã cố gắng hoàn thành bài viết này. Mặc dù vẫn còn vài chỗ thiếu sót nhưng em rất mong nhận được sự ủng hộ của quý thầy cô và các ban. Em xin chân thành cảm ơn ! TÀI LIỆU THAM KHẢO Ủy ban chứng khoán Nhà nước, trung tâm nghiên cứu và bồi dưỡng nghiệp vụ chứng khoán, TS. Đào Lê Minh (2002), giáo trình những vấn đề cơ bản về chứng khoán và thị trường chứng khoán, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Trường đại học Kinh tế Quốc dân, khoa đầu tư, TS. Phạm Văn Hùng (2008), giáo trình thị trường vốn, Nxb Đại học Kinh tế Quốc dân, Hà Nội. Học viện tài chính, PGS.TS Nguyễn Thị Mùi (2006), kinh doanh chứng khoán, Nxb Tài chính, Hà Nội. Ủy ban chứng khoán Nhà nước, báo cáo tổng kết thị trường chứng khoán Việt Nam 6 tháng đầu năm 2008. Luật chứng khoán năm 2006 Ban pháp chế - ủy ban chứng khoán nhà nước, “Sửa đổi, bổ sung luật chứng khoán. Những vấn đề đặt ra và thời gian thực hiện”, tạp chí chứng khoán Việt Nam, số 1 + 2, tháng 1 + 2 năm 2009, trang 28 – 30. Nguyễn Thu Hằng, “thực trạng công ty chứng khoán tại Việt Nam – thực tế hoạt động và những thách thức tiềm ẩn”, tạp chí chứng khoán Việt Nam, số 10, ngày 15/10/2007. Báo cáo tài chính của công ty cổ phần chứng khoán Thăng Long. Website: www.thanglongsc.com.vn www.ssc.gov.vn www.sanotc.com www.hastc.org.vn www.thongtindubao.gov.vn www.vir.com.vn MỤC LỤC Trang ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docTH2597.doc