Mục lục
Trang
Lời nói đầu 5
Chương I: Lý luận chung về đầu tư và cạnh tranh 7
I/ Đầu tư và đầu tư phát triển trong doanh nghiệp 7
Đầu tư 7
Khái niệm đầu tư 7
Đặc điểm của hoạt động đầu tư 7
Đầu tư phát triển trong doanh nghiệp 8
2.1.Khái niệm 8
2.2. Vai trò của đầu tư phát triển trong doanh nghiệp 8
2.3. Vốn và nguồn vốn trong doanh nghiệp 9
2.4. Nội dung đầu tư phát triển trong doanh nghiệp 11
2.4.1. Đầu tư Xây dựng cơ bản 11
2.4.2. Đầu tư phát triển khoa học công nghệ 12
2.
98 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1425 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh của Tổng Công ty Xây dựng Thăng Long, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
4.3. Đầu tư phát triển nguồn nhân lực 13
2.4.4. Đầu tư phát triển marketing 15
2.4.5. Đầu tư vào hàng dự trữ 17
2.4.6. Đầu tư vào tài sản vô hình 17
2.5. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động đầu tư của doanh nghiệp 18
2.5.1. Lợi nhuận kỳ vọng trong tương lai 18
2.5.2. Lãi suất tiền vay 18
2.5.3. Tỷ suất lợi nhuận trên vốn đầu tư 19
2.5.4. Chiến lược sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp 19
2.5.5. Dự đoán của hãng về tình trạng nền kinh tế trong tương lai 19
2.6. Kết quả và hiệu quả đầu tư trong doanh nghiệp 20
II/ Cơ sở lý luận về cạnh tranh của doanh nghiệp trong nền kinh tế
thị trường 22
Quan niệm về cạnh tranh và khả năng cạnh tranh 22
Các loại hình cạnh tranh 23
Các nhân tố tác động đến cạnh tranh 25
Sự đe doạ của các đối thủ tiềm ẩn 25
Nguy cơ từ những sản phẩm thay thế 26
Quyền lực của người mua 27
Quyền lực của nhà cung ứng 27
Cạnh tranh giữa các hãng trong ngành 28
Sự cần thiết phải đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp 28
III/ Mối quan hệ giữa đầu tư và năng lực cạnh tranh của một
doanh nghiệp 30
Chương II: Tình hình đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh của
Tổng công ty Xây dựng Thăng Long trong thời gian qua 32
I/ Giới thiệu chung về Tổng công ty 32
Quá trình hình thành và phát triển 32
Chức năng nhiệm vụ 34
Khái quát tình hình sản xuất kinh doanh 34
II/ Đánh giá năng lực cạnh tranh của Tổng công ty Xây dựng
Thăng Long trong thời gian qua 36
III/ Tình hình đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh của Tổng công ty
Xây dựng Thăng Long 39
Vốn và cơ cấu vốn của Tổng công ty 40
Cơ cấu đầu tư 46
Nội dung đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh 50
Đầu tư mua sắm máy móc thiết bị 50
Đầu tư sửa chữa máy móc thiết bị 52
Đầu tư phát triển khoa học công nghệ 53
Đầu tư nâng cao chất lượng nguồn nhân lực 55
Đầu tư xây dựng nhà xưởng 57
Các hoạt động đầu tư khác 59
Đánh giá tình hình đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh của
Tổng công ty Xây dựng Thăng Long 60
Những thành tựu đạt được 60
Những mặt hạn chế trong công tác đầu tư nâng cao năng lực
cạnh tranh của Tổng công ty 68
Chương III: Một số giải pháp đầu tư nhằm nâng cao năng lực
cạnh tranh của Tổng công ty Xây dựng Thăng Long 71
I/ Cơ hội và thách thức đặt ra cho Tổng công ty trong thời gian
tới 71
II/ Mục tiêu, phương hướng phát triển của Tổng công ty giai đoạn
2000- 2010 73
Một số định hướng đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh 73
Chiến lược huy động vốn 73
Đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật và đầu tư thiết bị- công nghệ là
nội dung chủ yếu của hoạt động đầu tư trong thời gian tới 74
Định hướng phát triên sản xuất kinh doanh 75
III/ Một số giải pháp đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh của
Tổng công ty Xây dựng Thăng Long 77
Nhóm giải pháp từ phía Doanh nghiệp 77
1.1. Giải pháp về thu hút vốn 77
1.2. Giải pháp về sử dụng vốn 80
1.2.1. Nâng cao chất lượng công tác xây dựng chiến lược đầu tư và
kế hoạch hoá đầu tư 80
1.2.2. Đổi mới cơ cấu kỹ thuật của vốn đầu tư 80
1.2.3. Đổi mới cơ cấu tái sản xuất của vốn đầu tư 81
1.2.4. Tiếp tục đổi mới máy móc thiết bị và công nghệ 82
1.2.5. Đầu tư phát triển nguồn nhân lực 85
1.2.6. Đầu tư thúc đẩy hoạt động marketing 88
1.2.7. Tăng cường quản lý chất lượng và tiến độ công trình 90
Một số kiến nghị từ phía Nhà nước 91
2.1. Hỗ trợ vốn cho các doanh nghiệp 90
2.2.Tăng cường đầu tư đổi mới và kiểm soát công nghệ trong Doanh
nghiệp Nhà nước 92
2.3.Đầu tư nâng cao trình độ cho những cán bộ chủ chốt 93
2.4.Xây dựng công ty Đầu tư tài chính Nhà nước để xóa chủ quản
đối với Doanh nghiệp Nhà nước 94
2.5.Đổi mới cơ cấu Doanh nghiệp Nhà nước 95
Kết luận 97
Danh mục tài liệu tham khảo 98
Lời nói đầu
Bước vào kỷ nguyên mới, thế giới hội nhập nền kinh tế quốc tế, nước ta cũng không ngoài vòng qui luật đó. Việt Nam đã đặt quan hệ với trên 170 nước trên toàn thế giới, ký hiệp định thương mại song phương Việt Nam- Hoa Kỳ, hội nhập thương mại AFTA khu vực Đông Nam á và tiến tới hội nhập tổ chức thương mại thế giới WTO. Từ đó Đảng và Nhà nước đã có sự chỉ đạo sát sao để các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế có sự chủ động hội nhập nền kinh tế khu vực và thế giới với các hình thức đa phương, song phương, khu vực, hợp tác liên doanh như thế nào cho có lợi khi làm ăn hợp tác với các doanh nghiệp nước ngoài.
Trong tiến trình chủ động hội nhập kinh tế quốc tế sẽ tạo ra những cơ hội lớn về lực lượng môi trường toàn cầu, các tiến bộ khoa học kỹ thuật, công nghệ, tự do hoá thương mại, dịch chuyển dòng đầu tư và thương mại toàn thế giới cũng như ở châu á . Song nó cũng tạo ra những thách thức to lớn đối với các doanh nghiệp và các nhà quản lý. Chấp nhận nền kinh tế hội nhập, là chấp nhận cạnh tranh ngay trên “sân nhà”. Do vậy, hội nhập kinh tế quốc tế sẽ dẫn tới những thời cơ, thách thức đòi hỏi các doanh nghiệp phải làm gì để nâng cao khả năng cạnh tranh của mình.
Đối với ngành Giao thông Vận tải trong thời kỳ CNH, HĐH đất nước, đòi hỏi xây dựng cơ sở hạ tầng cực kỳ lớn. Vì vậy ngành đã phát triển nhanh, có những Tổng công ty Xây dựng, Hàng hải, Hàng không...mạnh có vốn lớn, bề dày kinh nghiệm, đáp ứng nhu cầu phát triển trong nước và vươn ra thị trường nước ngoài làm ăn có hiệu quả, chắc chắn sẽ vững bước trên con đường hội nhập kinh tế quốc tế. Song đối với hầu hết các doanh nghiệp, cơ sở hạ tầng chưa đầy đủ, quy mô nhỏ, vốn ít, bề dày kinh nghiệm còn mỏng. Quả là vấn đề đáng quan tâm khi phải đối mặt với các tập đoàn nước ngoài.
Tổng công ty Xây dựng Thăng Long là một doanh nghiệp trực thuộc Bộ Giao thông Vận tải được thành lập năm 1973. Đây là doanh nghiệp xây dựng cầu đường lớn nhất Việt Nam. Cũng như nhiều doanh nghiệp Nhà nước khác, trong bối cảnh thị trường cạnh tranh gay gắt như hiện nay, Tổng công ty Xây dựng Thăng Long đã đặc biệt chú trọng đến việc đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh của mình. Song đây không phải là một việc làm đơn giản chút nào. Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề này, tôi đã mạnh dạn lựa chọn đề tài: “ Đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh của Tổng công ty Xây dựng Thăng Long làm chuyên đề thực tập tốt nghiệp.
Đề tài này tập trung đánh giá tình hình đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh của Tổng công ty Xây dựng Thăng Long trong thời gian qua từ đó thấy được những ưu điểm và nhược điểm để đưa ra những phương hướng và giải pháp thực hiện trong thời gian tới.
Nội dung của đề tài gồm 3 chương:
Chương I: Cơ sở lý luận về đầu tư và cạnh tranh.
Chương II: Thực trạng về năng lực cạnh tranh và tình hình đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh của Tổng công ty Xây dựng Thăng Long.
Chương III: Một số giải pháp về đầu tư nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của Tổng công ty Xây dựng Thăng Long.
Lời cuối, em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn tận tình của cô giáo Phạm Thị Thêu cũng như các cô, các chú phòng Kế hoạch- Đầu tư , Tổng công ty Xây dựng Thăng Long đã giúp đỡ em hoàn thành đề tài này.
Em xin chân thành cảm ơn !
Chương I
Lý Luận Chung Về Đầu Tư Và Cạnh Tranh
I/ Đầu Tư Và Đầu Tư Phát Triển Trong Doanh Nghiệp
1.Đầu Tư
1.1. Khái niệm đầu tư
Đầu tư theo nghĩa rộng nói chung là sự hy sinh các nguồn lực ở hiện tại để tiến hành các hoạt động nào đó nhằm thu về cho người đầu tư các kết quả nhất định trong tương lai lớn hơn các nguồn lực đã bỏ ra để đạt được các kết quả đó. Nguồn lực đó có thể là tiền, là tài nguyên thiên nhiên, là sức lao động và trí tuệ.
Những kết quả đó có thể là sự tăng thêm các tài sản tài chính (tiền vốn), tài sản vật chất ( nhà máy, đướng sá, các của cải vật chất khác...) và nguồn nhân lực có đủ điêu kiện để làm việc với năng suất cao hơn trong nền kinh tế xã hội.
Theo nghĩa hẹp, đầu tư chỉ bao gồm những hoạt động sử dụng các nguồn lực hiện tại, nhằm đem lại cho nền kinh tế xã hội những kết quả trong tương lai lớn hơn các nguồn lực đã sử dụng để đạt được các kết quả đó.
1.2. Đặc điểm của hoạt động đầu tư
Hoạt động đầu tư phát triển có sự khác biệt với các loại hình đầu tư khác, thể hiện ở những đặc điểm sau:
r Hoạt động đầu tư phát triển thường đòi hỏi một khối lượng vốn lớn, vốn này nằm khê đọng trong suốt quá trình thực hiện đầu tư. Đây là cái giá phải trả khá lớn của đầu tư phát triển
r Thời gian để tiến hành một công cuộc đầu tư cho đến khi các thành quả của nó phát huy tác dụng thường đòi hỏi nhiều năm tháng với nhiều biến động xảy ra.
r Thời gian cần hoạt động để có thể thu hồi đủ vốn đã bỏ ra đối với các cơ sở vật chất phục vụ sản xuất kinh doanh thường đòi hỏi nhiều năm tháng và do đó không thể tránh khỏi sự tác động hai mặt tích cực và tiêu cực của các yếu tố không ổn định về tự nhiên, xã hội, chính trị, kinh tế..
r Các thành quả của hoạt động đầu tư phát triển có giá trị sử dụng lâu dài nhiều năm, có khi hàng trăm, hàng ngàn năm và thậm trí tồn tại vĩnh viễn như các công trình kiến trúc nổi tiếng trên thế giới (Kim Tự Tháp cổ Ai Cập, Nhà thờ La Mã ở Rôm, Vạn Lý Trường Thành ở Trung Quốc…). Điều này nói lên giá trị lớn của các thành quả đầu tư phát triển.
r Các thành quả của hoạt động đầu tư là các công trình xây dựng sẽ hoạt động ở ngay nơi mà nó được tạo dựng nên. Do đó, các điều kiện về địa lý, địa hình, địa chất tại đó có ảnh hưởng lớn đến quá trình thực hiện đầu tư cũng như tác dụng sau này của các kết quả đầu tư. Việc xây dựng các nhà máy ở nơi có địa chất không ổn định sẽ không đảm bảo an toàn trong quá trình hoạt động sau này, thậm chí ngay cả trong quá trình xây dựng công trình.
r Mọi thành quả và hậu quả của quá trình thực hiện đầu tư chịu ảnh hưởng nhiều của các yếu tố không ổn định theo thời gian và điều kiện địa lý của không gian.
r Để đảm bảo cho mọi công cuộc đầu tư đem lại hiệu quả kinh tế xã hội cao đòi hỏi phải làm tốt công tác chuẩn bị. Sự chuẩn bị này được thể hiện trong việc soạn thảo các dự án đầu tư (lập dự án đầu tư), có nghĩa là phải thực hiện đầu tư theo dự án được soạn thảo với chất lượng tốt.
2. Đầu tư phát triển trong doanh nghiệp
2.1. Khái niệm
Đầu tư phát triển trong doanh nghiệp là hoạt động chi dùng vốn cùng với các nguồn lực khác trong hiện tại nhằm duy trì sự hoạt động và làm tăng thêm tài sản của doanh nghiệp, tạo thêm việc làm và nâng cao đời sống của các thành viên trong đơn vị.
2.2.Vai trò của đầu tư phát triển trong doanh nghiệp
Đầu tư quyết định sự ra đời, tồn tại và phát triển của mỗi doanh nghiệp. Để tạo dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho sự ra đời của bất kỳ doanh nghiệp nào đều cần phải xây dựng nhà xưởng, cấu trúc hạ tầng, mua sắm và lắp đặt thiết bị máy móc trên nền bệ, tiến hành các công tác xây dựng cơ bản và thực hiện các chi phí gắn liền với sự hoạt động trong một chu kỳ của các cơ sở vật chất -kỹ thuật vừa được tạo ra. Các hoạt động này chính là hoạt động đầu tư.
Đối với các cơ sở sản xuất - kinh doanh - dịch vụ đang tồn tại, sau một thời gian hoạt động, các cơ sở vật chất - kỹ thuật của các cơ sở này hao mòn, hư hỏng. Để duy trì được sự hoạt động bình thờng cần định kỳ tiến hành sửa chữa lớn hoặc thay thế mới các cơ sở vật chất -kỹ thuật đã hư hỏng, hao mòn hoặc đổi mới để thích ứng với điều kiện hoạt động mới của sự phát triển khoa học -kỹ thuật và nhu cầu tiêu dùng của nền sản xuất xã hội; mua sắm các trang thiết bị mới thay thế cho các trang thiết bị cũ đã lỗi thời, cũng có nghĩa là phải đầu tư.
Đầu tư phát triển trong doanh nghiệp cũng tạo điều kiện nâng cao chất lượng sản phẩm, tiết kiệm tăng năng lực cạnh tranh và là cơ sở để hạ giá thành, tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp.
2.3. Vốn và nguồn vốn trong doanh nghiệp.
a.Khái niệm
Theo nguồn hình thành và mục tiêu sử dụng ta có khái niệm vốn đầu tư như sau: Vốn đầu tư của doanh nghiệp là sô tiền mà doanh nghiệp tích luỹ được để đưa vào sử dụng trong quá trình tái sản xuất nhằm duy trì tiềm lực sẵn có và tạo ra tiềm lực mới cho doanh nghiệp.
Nguồn vốn của doanh nghiệp bao gồm hai bộ phận chủ yếu là: Vốn chủ sở hữu và vốn vay:
Nguồn vốn chủ sở hữu: Đối với tất cả các loại hình doanh nghiệp, vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp bao gồm các bộ phận chủ yếu sau:
+ Vốn góp ban đầu: Khi doanh nghiệp được thành lập bao giờ chủ doanh nghiệp cũng phải có một số vốn ban đầu nhất định do các cổ đông - chủ sở hữu góp. Đối với doanh nghiệp Nhà nước, vốn góp ban đầu chính là vốn đầu tư của Nhà nước. Chủ sở hữu của các doanh nghiệp Nhà nước chính là Nhà nước.
+ Nguồn vốn từ lợi nhuận không chia: Nguồn vốn tích luỹ từ lợi nhuận không chia là bộ phận lợi nhuận được sử dụng để tái đầu tư, mở rộng sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp. Nguồn vốn tái đầu tư từ lợi nhuận để lại chỉ có thể thực hiện được nếu như doanh nghiệp đã và đang hoạt động và có lợi nhuận, được phép tiếp tục đầu tư.
+ Phát hành cổ phiếu: Trong hoạt động sản xuất - kinh doanh, doanh nghiệp có thể tăng vốn chủ sở hữu bằng cách phát hành cổ phiếu mới. Đây được xem là nguồn tài chính dài hạn rất quan trọng đối với các doanh nghiệp.
Nguồn vốn vay: Có thể nói rằng đây là một trong những nguồn vốn quan trọng nhất không chỉ đối với sự phát triển của bản thân các doanh nghiệp mà còn đối với toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Không một doanh nghiệp nào không đi vay vốn nếu doanh nghiệp đó muốn tồn tại vững chắc trên thương trường. Trong quá trình hoạt động, các doanh nghiệp thường vay vốn để đảm bảo nguồn tài chính cho các hoạt động sản xuất - kinh doanh, đặc biệt là đảm bảo có đủ vốn cho các dự án mở rộng hoặc đầu tư chiều sâu của doanh nghiệp. Có thể thực hiện phương thức vay vốn dưới các hình thức sau:
Tín dụng ngân hàng
Tín dụng thương mại
Phát hành trái phiếu công ty
b .Nội dung vốn đầu tư trong doanh nghiệp
Trong doanh nghiệp vốn đầu tư được chia thành các khoản mục sau:
Chi phí để tạo ra tài sản cố định gồm: Chi phí ban đầu về đất đai, các khoản chi phí cho quá trình xây dựng, sửa chữa, cải tạo các kết cấu hạ tầng, các khoản chi phí cho quá trình mua sắm và lắp đặt máy móc thiết bị, chi phí để mua sắm các phương tiện vận tải và các khoản chi phí khác.
- Chi phí để tạo ra tài sản lưu động gồm: Chi phí nằm trong giai đoạn sản xuất như chi phí mua nguyên vật liệu, trả lương người lao động, chi phí về điện nước, nhiên liệu...và chi phí nằm trong giai đoạn lưu thông.
- Chi phí chuẩn bị đầu tư gồm: Chi phí cho việc nghiên cứu và phát hiện các cơ hội đầu tư, chi phí cho việc nghiên cứu tiền khả thi, nghiên cứu khả thi và chi phí thẩm định dự án
- Chi phí dự phòng
2.4. Nội dung đầu tư phát triển trong doanh nghiệp
Hoạt động đầu tư trong doanh nghiệp bao gồm những nội dung chủ yếu sau:
2.4.1. Đầu tư xây dựng cơ bản.
Đây là hoạt động rất quan trọng hay nói cách khác, để tiến hành được các hoạt động sản xuất kinh doanh thì doanh nghiệp bắt buộc phải bỏ một lượng vốn để đầu tư xây dựng cơ bản, không chỉ doanh nghiệp mà bất cứ tổ chức nào muốn tồn tại và hoạt động phải đầu tư xây dựng cơ bản, lượng vốn này thường chiếm một tỷ trọng khá lớn. Để đánh giá hết nội dung của đầu tư xây dựng cơ bản ta xét trên 2 góc độ:
+ Thứ nhất là đầu tư xây dựng hệ thống nhà xưởng, công trình.
Đối với một doanh nghiệp mà nói thì đây là yếu tố căn bản ban đầu để có thể tiến hành sản xuất kinh doanh.
Trước hết ta xét đối với doanh nghiệp kinh doanh trên lĩnh vực công nghiệp: Để tiến hành sản xuất ra sản phẩm thì bắt buộc phải có nơi, địa điểm, (nhà xưởng) để chứa các dụng cụ hàng hoá, máy móc thiết bị, để giao dịch ( cơ quan, trụ sở).
Đối với doanh nghiệp Xây dựng thì đây vừa là công việc vừa là sản phẩm của họ, khi hoàn thành công trình thì đó là tài sản của họ và họ sẽ chuyển giao, bán lại cho người khác.
Tóm lại đầu tư xây dựng nhà xưởng, trụ sở, cơ quan... là đầu tư bắt buộc ban đầu, bất kỳ một doanh nghiệp nào cũng phải bỏ một khoản vốn để tiến hành xây dựng cơ sở vật chất ban đầu. Hơn nữa khi mở rộng sản xuất kinh doanh thì đầu tư thêm vào xây dựng cơ bản là điều hiển nhiên.
Ví dụ: Việc công ty dầu khí Việt Nam xây dựng nhà máy sản xuất phân đạm Phú Mỹ, thì nhà máy đó là TSCĐ của công ty dầu khí, và vốn ban đầu bỏ ra xây dựng nhà máy là vốn đầu tư xây dựng cơ bản.
+ Thứ hai là việc đầu tư vào máy móc thiết bị.
Có nhà xưởng rồi, muốn sản xuất ra sản phẩm thì phải mua sắm máy móc thiết bị hay nói cách khác doanh nghiệp muốn mở rộng thêm sản xuất kinh doanh cũng cần mua thêm máy móc thiết bị, sau một thời gian sử dụng máy móc thiết bị cũ hỏng, khấu hao hết, máy móc bị hao mòn hữu hình thì đều phải tiến hành bỏ chi phí để sửa chữa mua sắm mới. Tất cả những nội dung đó đều được hiểu là đầu tư vào máy móc thiết bị. Như vậy ở bất cứ giai đoạn nào doanh nghiệp cũng cần hình thành một khoản quỹ để chi dùng cho việc sửa chữa, mua sắm, thay đổi máy móc thiết bị. Khoản quỹ này có thể là quỹ khấu hao hay quỹ dự phòng.
Các doanh nghiệp kinh doanh trên lĩnh vực khác nhau thì sử dụng các loại máy móc thiết bị khác nhau nhưng dù hoạt động trên bất kỳ lĩnh vực sản xuất nào thì đầu vào máy móc thiết bị là điều kiện cơ bản của sản xuất ( cũng có thể hiểu máy móc ở đây là các phương tiện giao thông). Giá trị máy móc thiết bị sẽ được chuyển dần vào sản phẩm và doanh nghiệp phải trích một phần lợi nhuận bù đắp phần thiếu hụt đó.
2.4.2. Đầu tư phát triển khoa học công nghệ.
Trong nền kinh tế toàn cầu hoá diễn ra ngày càng sâu sắc và khoa học công nghệ phát triển như vũ bão, tiến bộ khoa học công nghệ trở thành yếu tố quan trọng nhất trong tất cả các yếu tố quyết định năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp nói chung và DNNN nói riêng.
Theo đánh giá của Bộ Khoa học- Công nghệ và Môi trường, trình độ công nghệ của Việt Nam lạc hậu so với thế giới khoảng 20 năm, hiệu suất sử dụng khoảng 25-30% và mức độ hao mòn hữu hình từ 30-50%. Tất cả những kết quả trên đều lý giải vị sao năng suất lao động bình quân của ta thấp, mức tiêu hao cho một đơn vị sản phẩm cao ( cao hơn so với mức trung bình của thế giới là 1,5 lần), chất lượng sản phẩm thiếu ổn định và mẫu mã sản phẩm đơn điệu.
Trong khi đó, áp lực từ phía khách hàng đòi hỏi ngày càng cao về chất lượng sản phẩm, cùng với bối cảnh cạnh tranh quốc tế ngày càng gay gắt sẽ luôn luôn tạo sức ép phải đổi mới công nghệ, phương thức sản xuất và nâng cao khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp.
Đứng trước vấn đề này các doanh nghiệp Việt Nam cần phải làm gì để nâng vị thế cạnh tranh của sản phẩm của mình trên thương trường? Câu trả lời có tầm quan trọng hàng đầu là nhanh chóng đổi mới tư duy, phương thức sản xuất và đầu tư công nghệ hiện đại.
Ngày nay, công nghệ mới đã tạo cơ hội, cho phép doanh nghiệp tổ chức lại các qui trình sản xuất của mình một cách hiệu quả hơn. Công nghệ mới cũng đã đẩy tới việc giảm nhu cầu lao động bằng sức mạnh cơ bắp, thay vào đó là nhu cầu lao động về trí não, về kỹ năng tay nghề tăng lên. Vì thế, sự thay đổi công nghệ sẽ dẫn tới sự thay đổi về cơ cấu lao động, trong đó lao động có trình độ chuyên môn sâu sẽ có lợi thế, còn lao động giản đơn có kỹ năng thấp sẽ bị đe doạ. Vì vậy, việc các chủ doanh nghiệp khi có ý tưởng đổi mới công nghệ, thiết bị đôi khi vấp phải sự phản đối từ phía người lao động do những lo âu về giảm thu nhập, mất việc... tồn tại đồng hành với nhịp độ thay đổi công nghệ.
Lợi thế về chi phí lao động rẻ bị đẩy lùi trong xu hướng phát triển lao động có tay nghề chưa được chú trọng đẩy mạnh, đưa đến việc nắm bắt và ứng dụng phương thức sản xuất mới từ các nước tiên tiến của các doanh nghiệp Việt Nam còn chậm chạp và thiếu hiệu quả. Có một thực tế khó chối cãi là còn hiện tượng nhiều thiết bị, máy móc nhập về trị giá hàng triệu đến hàng vài tỷ đồng được đắp chiếu, nằm im lìm trong kho mà nguyên do chính là thiếu các kỹ sư có năng lực vận hành. Hậu quả là vốn chết, nhà xưởng bị chiếm chỗ và công nhân ngồi chơi. Là nước đi sau, trong điều kiện tiến bộ khoa học công nghệ, các doanh nghiệp Việt Nam chỉ cần cố gắng nắm bắt, tìm hiểu và sử dụng tối đa những công nghệ thiết bị mà họ định trang bị sẽ tạo nên một bước phát triển. Vì vậy, trước khi đi đến một quyết định đầu tư một thiết bị mới, các doanh nghiệp phải nắm được phương thức vận hành nó, phải trù tính những công cụ hỗ trợ, thậm chí còn phải biết xử lý, khắc phục những sự cố xảy ra và có kế hoạch đào tạo nhân lực kịp thời.
2.4.3. Đầu tư phát triển nguồn nhân lực.
Nguồn nhân lực được hiểu là nguồn lực con người, là một trong những nguồn lực quan trọng nhất của sự phát triển kinh tế xã hội. Nguồn nhân lực được hiểu trên hai khía cạnh:
Một là: nguồn nhân lực là toàn bộ sức lao động và khả năng hoạt động của lực lượng lao động xã hội.
Hai là: nguồn nhân lực là sức lao động, trình độ, ý thức của từng cá nhân và mối quan hệ qua lại giữa các cá nhân. Mặt thứ hai nói lên chất lượng của nguồn nhân lực và đang ngày càng được chú trọng, quan tâm hơn.
Trong mấy thập niên qua, chúng ta đã chứng kiến sự thay đổi mạnh mẽ của nền kinh tế, công nghệ và xã hội. Sự thay đổi mạnh mẽ này đã tạo ra những thách thức, sức ép đang không ngừng đè nặng lên đôi vai của các doanh nghiệp đó là:
r Mong đợi của khách hàng ngày càng tăng: Với mức sống nhìn chung đã được cải thiện trên toàn cầu, trình độ đào tạo của con người đang ngày càng cao thể hiện trong những nhu cầu sinh hoạt hiện đại, mong đợi và đòi hỏi về những sản phẩm và dịch vụ tốt hơn của đại bộ phận khách hàng ngày càng cao. Để cạnh tranh, các doanh nghiệp cần nắm bắt nhu cầu hiện tại cũng như dự đoán trước những mong muốn của khách hàng và đáp ứng chúng một cách nhanh chóng.
r Sản phẩm lỗi thời nhanh chóng: Công nghệ luôn đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển sản phẩm mới. Sự tiến bộ trong kỹ thuật tạo sản phẩm sẽ làm cho các sản phẩm hiện có trên thị trường trở nên lỗi thời một cách nhanh chóng. Điều này đòi hỏi các doanh nghiệp phải liên tục cải tiến, đổi mới sản phẩm.
r Cạnh tranh mạnh mẽ có tính toàn cầu: Toàn cầu hoá về kinh tế đã làm cho vấn đề cạnh tranh ngày càng gay gắt, khốc liệt hơn. Trong bối cảnh đó, dù muốn hay không các doanh nghiệp cũng đã và đang đối mặt với những khó khăn được tạo ra bởi những nhà cạnh tranh hùng mạnh với qui mô hoạt động đa quốc gia.
Để tồn tại và không ngừng phát triển, đòi hỏi các doanh nghiệp phải biết sử dụng một cách hiệu quả các nguồn lực của mình. Trong đó, nguồn nhân lực với nguồn tri thức sáng tạo vô tận là nguồn lực duy nhất có khả năng suy nghĩ về những thay đổi và làm cho những thay đổi này được thực hiện, là nguồn lực khiến cho các nguồn lực khác hoạt động và được xem là nguồn lực quý giá nhất trong việc tạo động lực phát triển cho mọi doanh nghiệp.
Mặt khác, một doanh nghiệp muốn vận hành tốt, tạo được nhiều sản phẩm có giá trị cao, chất lượng tốt, giá thành rẻ... thì cần phải có những yếu tố đầu vào cơ bản là: máy móc thiết bị - công nghệ; nguyên phụ liệu; nguồn vốn; nguồn nhân lực - con người...Trong số các nhân tố chủ yếu trên, yếu tố con người là vô cùng quan trọng vì rằng con người là chìa khoá để giải quyết mọi vấn đề, là nhân tố quyết định mọi sự thành bại trong các hoạt động. Trong bất kỳ một tổ chức nào, nếu có được những con người nhiệt tình với công việc, năng động, dám nghĩ, dám làm, chịu trách nhiệm vì công việc thì mới có thể giải quyết tốt được một loạt các bài toán đặt ra như: tìm thị trường, quyết định lựa chọn sản phẩm và thiết bị công nghệ đưa vào sản xuất, lựa chọn đầu tư ưu tiên cho khâu nào của quá trình sản xuất và phân phối... Và khi những vấn đề này được giải quyết tốt thì lập tức doanh nghiệp sẽ tạo ra được những sản phẩm có giá trị cao với chi phí thấp và một loạt các vấn đề khác liên quan cũng sẽ được giải quyết nhanh chóng, có hiệu quả.
2.4.4. Đầu tư phát triển Marketing.
Một công ty sản xuất ra những sản phẩm có chất lượng cao mà không thể phân phối hay đưa chúng ra thị trường để bán và thu lợi nhuận thì không thể tồn tại được. Bởi vậy, Marketing (MKT) là một trong những công cụ quan trọng đối với mỗi doanh nghiệp.
MKT có thể định nghĩa là một hệ thống các hình thức kinh doanh để hoạch định, định giá, chiêu mại và phân phối hàng hoá hay dịch vụ nhằm thu lợi nhuận từ thị trường, thị trường này bao gồm cả khách hàng công nghiệp, hộ tiêu dùng hiện tại và trong tương lai
Trước kia, MKT chủ yếu hướng vào giao dịch giờ đây nó chủ yếu hướng vào các mối quan hệ. Không chỉ đơn giản là việc thiết kế một hỗn hợp MKT tốt nhất để bán được hàng mà còn chú trọng tới việc xây dựng các mối quan hệ để giành và giữ khách hàng. Một khối lượng khách hàng lớn và trung thành sẽ đem lại cho công ty nguồn thu nhập lớn và ổn định, hay nói cách khác nó đem lại cho công ty một chỗ đứng trên thị trường. Cạnh tranh trên thị trường ngày càng trở nên quyết liệt, đối với mọi doanh nghiệp, cách thức để duy trì lòng trung thành của khách hàng chính là thoả mãn một cách tốt nhất những nhu cầu của họ.
Trong sự nghiệp kinh doanh của mọi doanh nghiệp trên thị trường thì MKT là vấn đề đặc biệt được chú trọng. Đối với các doanh nghiệp Việt Nam thì nó càng quan trọng hơn, bởi Việt Nam là thành viên của khu vực kinh tế phát triển năng động nhất thế giới ( Khu vực Đông Nam á ), hơn nữa trong tương lai không xa ASEAN sẽ từng bước tiến tới thành thị trường thống nhất, hàng hoá của các quốc gia trong khối sẽ lưu thông, buôn bán tự do trên thị trường Việt Nam ( đặc biệt là các doanh nghiệp Nhà nước), vì hàng hoá của chúng ta sẽ bị cạnh tranh gay gắt ngay trên thị trường nhà, các doanh nghiệp trong nước sẽ không còn được bảo vệ bằng hàng rào thuế quan như trước.
Doanh nghiệp Nhà nước (DNNN) vốn hoạt động kém năng động, sức cạnh tranh của sản phẩm yếu, việc xây dựng thương hiệu thì do tự phát, nhỏ lẻ thiếu đồng bộ, chuyên nghiệp. Nội dung của các chiến lược xây dựng thương hiệu không được định vị một cách rõ ràng, chưa nhận thức đầy đủ và đúng về vai trò của MKT. Theo nhận xét của chuyên gia về vấn đề MKT cho thấy: mặc dù một số DNNN đang tích cực đầu tư vào MKT song vẫn dè dặt, họ cho rằng chỉ vài chương trình quảng cáo thì coi như là hoàn thành xong vấn đề MKT , đó là tư tưởng sai lầm cần phải thay đổi.
Ngay trên thị trường nội địa chúng ta cũng bị cạnh tranh, chèn ép do các hàng hoá của nước ngoài gía hợp lý, chất lượng đảm bảo, mẫu mã phong phú... Hiện tại các doanh nghiệp cũng đã bắt đầu nhận thức được vai trò của MKT với các cuộc thi “ Sao vàng đất Việt”, sao đỏ, nhãn hiệu hàng Việt Nam chất lượng cao... song như vậy vẫn chưa đủ. Trên các siêu thị chủ yếu là hàng nhập khẩu, các doanh nghiệp vẫn chưa đầu tư xây dựng một hệ thống phân phối hoàn thiện điều này ảnh hưởng tới khả năng cung cấp sản phẩm.
Đối với hàng xuất khẩu thì công tác xúc tiến thương mại của ta còn yếu kém, việc tìm hiểu thông tin thị trường là rất hạn chế. Chính vì vậy mà sản phẩm của ta chưa có được chỗ đứng vững chắc trên thị trường nước ngoài.
Vậy có thể thấy hoạt động MKT trong các doanh nghiệp là còn yếu kém, để khắc phục tình trạng này các doanh nghiệp phải tích cực đầu tư cho hoạt động MKT, đa dạng hoá các hình thức, phương thức MKT nhằm tạo một hình ảnh sản phẩm ấn tượng, một thương hiệu vững mạnh và một thị trường ổn định để có mức tăng trưởng cao.
2.4.5. Đầu tư vào hàng dự trữ.
Hàng dự trữ của doanh nghiệp là toàn bộ nguyên vật liệu, bán thành phẩm, chi tiết, phụ tùng, thành phẩm được tồn trữ trong doanh nghiệp.
Trước đây người ta ít coi trọng đến đầu tư vào hàng dự trữ và coi đây là một hiện tượng bất thường, không đưa lại kết quả như mong muốn của doanh nghiệp. Trong nền kinh tế thị trường, yêu cầu hoạt động của doanh nghiệp cho thấy việc đầu tư vào hàng dự trữ là cần thiết bởi các lý do cơ bản sau:
r Nhằm giảm thiểu chi phí ( chi phí vận chuyển, chi phí đặt hàng và chi phí tồn trữ hàng).
r Đảm bảo cho quá trình sản xuất diễn ra liên tục.
r Cho phép mua nguyên vật liệu một cách hợp lý và kinh tế nhất.
2.4.6. Đầu tư vào tài sản vô hình.
Đầu tư vào tài sản vô hình của doanh nghiệp bao gồm các hoạt động như: Nghiên cứu và phát triển thị trường, đầu tư mua bản quyền, đầu tư cho quảng cáo hoặc tài trợ cho các chương trình, dự án...
Ngày nay các công ty có xu hướng khuyếch trương tài sản vô hình của mình bởi họ nhận thấy tăng đầu tư cho tài sản vô hình sẽ làm tăng đáng kể doanh thu và lợi nhuận. Theo điều tra thì trung bình các doanh nghiệp sử dụng từ 10 -20% chi phí cho hoạt động quảng cáo. Coca- Cola, hãng nước giải khát hàng đầu thế giới dành 40% chi phí cho hoạt động này, quảng cáo trên 524 nghìn lần một ngày bằng hơn 80 thứ tiếng với quảng cáo luôn luôn phản ánh phong cách hiện đại, đặc biệt nhấn mạnh vào lớp trẻ. Giờ đây có trên 160 nước ưa thích Coca-cola.
2.5. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động đầu tư của doanh nghiệp
Hoạt động đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh của một doanh nghiệp chịu sự tác động của nhiều nhân tố trong đó có những nhân tô chủ yếu sau:
2.5.1. Lợi nhuận kỳ vọng trong tương lai.
Mọi quyết định đầu tư nói chung và đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh nói riêng đều căn cứ trên mối quan hệ so sánh giữa lợi ích thu được với chi phí bỏ ra để tiến hành hoạt động đầu tư đó. Lợi nhuận mà các chủ đầu tư mong đợi và hy vọng sẽ đạt được trong tương lai khi tiến hành một công cuộc đầu tư hay lợi nhuận kỳ vọng là một trong những lợi ích thiết thực nhất mà các chủ đầu tư quan tâm. Đối với đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh thì lợi nhuận kỳ vọng chính là mức lợi nhuận tăng thêm mà doanh nghiệp có thể thu được khi tiến hành đầu tư nhằm nâng cao hơn nữa kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nếu phần lợi nhuận tăng thêm này lớn hơn chi phí huy động các nguồn lực thì doanh nghiệp sẽ thực hiện đầu tư và ngược lại doanh nghiệp sẽ giữ nguyên mức sản xuất kinh doanh hoặc chuyển hướng kinh doanh sang các loại sản phẩm khác.
2.5.2. Lãi suất tiền vay.
Lãi suất được hiểu theo một nghĩa chung nhất là giá cả của tín dụng - giá cả của quan hệ vay mượn hoặc cho thuê những dịch vụ về vốn dưới hình thức tiền tệ hay các dạng thức tài sản khác nhau. Khi đến hạn người đi vay sẽ phải trả cho người cho vay một khoản tiền dôi ra ngoài tiền vốn gọi là tiền lãi. Tỷ lệ phần trăm của số tiền lãi trên số tiền vốn cho vay gọi là lãi suất.
Như vậy, tiền lãi là số tiền phải trả do việc sử dụng tiền vốn. Lãi suất là lượng tiền lãi phải trả trong một đơn vị thời gian. Nói cách khác người ta phải trả cho cơ hội được vay tiền. Chi phí cho việc vay tiền được tính bằng số tiền trả hàng năm chia cho số tiền vay ( lãi suất). Lãi suất được hình thành trên cơ sở thị trường, tức là do quan hệ cung cầu về vốn trên thị trường quyết định.
Lãi suất gồm có lãi suất danh nghĩa và lãi suất thực tế:
Lãi suất danh nghĩa l._.à lãi suất trên các món vay tính bằng tiền.
Lãi suất thực tế là lãi suất đã được điều chỉnh theo lạm phát và được tính bằng cách lấy lãi suất danh nghĩa trừ đi tỷ lệ lạm phát. Lãi suất thực tế là lãI suất tính theo giá trị thực tế của hàng hoá và dịch vụ, phản ánh chi phí thực sự của việc vay tiền.
Trên thực tế, các nhà đầu tư thường đi vay vốn để tiến hành đầu tư, mà lãi suất lại là giá cả của khoản vay đó nên giá cao ( lãi suất cao) hơn tỷ suất lợi nhuận bình quân thì ít nhà đầu tư vay vốn và quy mô đầu tư theo đó cũng bị thu hẹp. Ngược lại, khi lãi suất ở mức thấp thì nhu cầu vay vốn tăng và qui mô đầu tư cũng tăng theo.
2.5.3. Tỷ suất lợi nhuận vốn đầu tư.
Tỷ suất lợi nhuận vốn đầu tư là chỉ tiêu phản ánh mức lợi nhuận thuần thu được từ một đơn vị vốn đầu tư được thực hiện.
Trong giai đoạn phát triển của một chu kỳ kinh doanh, tổng số hàng hoá và dịch vụ được sản xuất trong nền kinh tế tăng lên, thu nhập quốc dân tăng nên đầu tư sẽ sinh lợi cho các công ty. Tỷ suất lợi nhuận vốn đầu tư tăng, càng có nhiều cơ hội đầu tư, các công ty có nhiều ý định vay vốn đầu tư. Tỷ suất lợi nhuận vốn đầu tư trong một ngành, một lĩnh vực, một địa phương gia tăng sẽ kéo theo hoạt động đầu tư ở đó tăng theo. Các nhà đầu tư thấy ở đâu có tiềm năng mang lại nhiều lợi nhuận thì họ sẽ dốc vốn của mình để đầu tư vào đó. Lợi nhuận là mục tiêu hàng đầu của các nhà kinh doanh. Tỷ suất lợi nhuận vốn đầu tư là nhân tố quyết định tới việc có nên đầu tư của nhà đầu tư hay không. Mặt khác nó phản ánh khả năng hoàn vốn của một dự án, qua đó nó đánh giá hiệu quả của dự án đầu tư.
2.5.4. Chiến lược sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
Để chiếm lĩnh thị trường mục tiêu của mình các doanh nghiệp thực hiện các chiến lược kinh doanh khác nhau. Có doanh nghiệp thực hiện chiến lược hạ thấp chi phí sản xuất, có doanh nghiệp thực hiện chiến lược đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh. Nếu doanh nghiệp thực hiện chiến lược nâng cao năng lực cạnh tranh thì đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh là hoạt động phải đặt lên hàng đầu, doanh nghiệp sẽ dành nhiều nguồn lực cho hoạt động đầu tư này
2.5.5. Dự đoán của hãng về tình trạng nền kinh tế trong tương lai.
Hoạt động đầu tư có độ trễ rất lớn về mặt thời gian, vì đây là sự hy sinh tiêu dùng hiện tại để đạt các kết quả trong tương lai đặc biệt là với đầu tư phát triển, việc thực hiện đầu tư có thể sau nhiều năm mới thu kết quả. Chính vì vậy về tình trạng tốt xấu của nền kinh tế trong tương lai là một trong những tiêu chí để quyết định đầu tư.
2.6. Kết quả và hiệu quả đầu tư trong doanh nghiệp
a. Kết quả đầu tư
Kết quả đầu tư trong doanh nghiệp được thể hiện qua các chỉ tiêu cơ bản sau:
- Khối lượng vốn đầu tư thực hiện: là tổng số tiền đã chi để tiến hành các hoạt động của các công cuộc đầu tư bao gồm các chi phí cho công tác xây lắp, chi phí cho công tác mua sắm thiết bị và các chi phí khác theo quy định của thiết kế dự toán và được ghi trong dự án đầu tư được duyệt.
- Tài sản cố định huy động và năng suất phục vụ tăng thêm:
+ Tài sản cố định huy động là công trình hay hạng mục công trình, đối tượng xây dựng có khả năng phát huy tác dụng độc lập, đã kết thúc quá trình xây dựng, mua sắm, đã làm xong thủ tục nghiệm thu sử dụng, có thể đưa vào hoạt động được ngay.
+ Năng lực sản xuất phục vụ tăng thêm là khả năng đáp ứng nhu cầu sản xuất, phục vụ của các tài sản cố định đã được huy động vào sử dụng để sản xuất ra sản phẩm hoặc tiến hành các hoạt động dịch vụ theo quy định được ghi trong dự án đầu tư.
b.Hiệu quả đầu tư
Hiệu quả đầu tư trong một doanh nghiệp được chia làm 2 loại: Hiệu quả tài chính và hiệu quả kinh tế - xã hội.
Hiệu quả tài chính: Hiệu quả tài chính ( Etc) của hoạt động đầu tư trong doanh nghiệp là mức độ đáp ứng nhu cầu phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh dịch vụ và nâng cao đời sống của người lao động trong các doanh nghiệp trên cơ sở số vốn đầu tư mà doanh nghiệp đã sử dụng so với các kỳ khác, các doanh nghiệp khác hoặc so với định mức chung. Chúng ta có thể biểu diễn khái niệm này thông qua công thức sau:
Các kết quả mà cơ sở thu được do thực hện đầu tư
Etc =
Số vốn đầu tư mà cơ sở đã thực hiện để tạo ra các kết quả trên
Hiệu quả tài chính của hoạt động đầu tư trong doanh nghiệp được thể hiện qua một hệ thống các chỉ tiêu như: tỷ suất sinh lời của vốn đầu tư, sản lượng ( doanh thu ) tăng thêm bình quân năm trong kỳ nghiên cứu với vốn đầu tư thực hiện của doanh nghiệp, hệ số huy động tài sản cố định, tỷ suất sinh lời tăng thêm vốn tự có, số lần quay vòng tăng thêm của vốn lưu động, mức năng suất lao động tăng thêm hàng năm, thời hạn thu hồi vốn đầu tư và mức hoạt động hoà vốn.
- Hiệu quả kinh tế- xã hội:
Hiệu quả kinh tế- xã hội của hoạt động đầu tư trong doanh nghiệp là chênh lệch giữa các lợi ích mà nền kinh tế- xã hội thu được so với các đóng góp mà nền kinh tế và xã hội phải bỏ ra khi doanh nghiệp thực hiện đầu tư.
Hiệu quả kinh tế xã hội của hoạt động đầu tư trong doanh nghiệp được thể hiện qua một hệ thống các chỉ tiêu gồm:
+ Mức đóng góp cho ngân sách Nhà nước tăng thêm tính trên một đơn vị vốn đầu tư tăng thêm.
+ Số chỗ làm việc tăng thêm tính trên một đơn vị vốn đầu tư tăng thêm.
+ Mức tiết kiệm ngoại tệ tăng thêm tính trên một đơn vị vốn đầu tư.
+ Mức thu nhập của người lao động tăng thêm tính trên một đơn vị vốn đầu tư.
+ Mức tăng năng suất lao động của doanh nghiệp.
+ Mức nâng cao trình độ nghề nghiệp của người lao động.
+ Mức độ đáp ứng các mục tiêu trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
II. cơ sở lý luận về cạnh tranh của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường
Quan niệm về cạnh tranh và khả năng cạnh tranh
1.1. Cạnh tranh
Xét từ góc độ tổng thể nền kinh tế, cạnh tranh trong cơ chế thị trường có thể được hiểu là cuộc cạnh tranh giữa các chủ thể kinh tế tham gia vào thị trường nhằm giành giật các lợi ích kinh tế về mình.
Các chủ thể kinh tế ở đây chính là các bên bán và bên mua các loại hàng hoá mà họ mua được hay nói cách khác là họ muốn mua được hàng có chất lượng cao, thoả mãn nhu cầu tiêu dùng mà giá cả lại rẻ. Ngược lại, bên bán bao giờ cũng hướng tới tối đa hoá lợi nhuận bằng cách bán được nhiều hàng với giá cao. Vì vậy, các bên cạnh tranh với nhau để giành những phần có lợi hơn về mình.
Xét ở góc độ doanh nghiệp, cạnh tranh giữa các doanh nghiệp được Mác đề cập như sau: “ Cạnh tranh tư bản chủ nghĩa là sự ganh đua, sự đấu tranh gay gắt giữa các nhà tư bản nhằm giành giật những điều kiện thuận lợi trong sản xuất và tiêu thụ hàng hóa để thu lợi nhuận siêu ngạch”. ở đây, Mác đã đề cập đến vấn đề cạnh tranh trong một không gian hẹp chủ nghĩa tư bản, lúc này cạnh tranh được xem là sự lấn át, chèn ép lẫn nhau để tồn tại, quan niệm về cạnh tranh được nhìn nhận từ góc độ khá tiêu cực.
1.2. Khả năng cạnh tranh
Cho đến nay nay có nhiều quan niệm khác nhau về khả năng cạnh tranh của một doanh nghiệp.
Theo Dunning: Khả năng cạnh tranh là khả năng doanh nghiệp có thể cung ứng sản phẩm của mình trên các thị trường khác nhau mà không phân biệt nơi bố trí sản xuất của doanh nghiệp đó.
Theo Fafchams: Khả năng cạnh tranh của một doanh nghiệp chính là khả năng của doanh nghiệp đó có thể sản xuất ra sản phẩm với chi phí trung bình thấp hơn giá của nó trên thị trường. Theo quan niệm này thì doanh nghiệp nào sản xuất ra các sản phẩm tương tự như của các doanh nghiệp khác nhưng với chi phí thấp hơn thì được coi là có khả năng cạnh tranh cao hơn.
Cũng có quan niệm cho rằng khả năng cạnh tranh là khả năng giành được và duy trì thị phần trên thị trường và đạt được một mức lợi nhuận nhất định.
Mặc dù có nhiều quan điểm khác nhau về khả năng cạnh tranh song, các quan điểm này đều có chung một ý tưởng là khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp được đặc trưng bởi lợi nhuận và mức chiếm lĩnh thị trường. Vì vậy, để nâng cao khả năng cạnh tranh của mình, các doanh nghiệp phải tìm cách chiếm lĩnh thị trường và nâng mức lợi nhuận lên cao.
2.Các loại hình cạnh tranh
Căn cứ vào các tiêu chí khác nhau, người ta phân chia cạnh tranh thành các loại hình khác nhau:
- Căn cứ theo phạm vi nền kinh tế cạnh tranh được chia làm 2 loại:
+ Cạnh tranh giữa các ngành: Là cuộc cạnh tranh giữa các doanh nghiệp sản xuất, mua bán hàng hoá, dịch vụ trong các ngành kinh tế khác nhau nhằm thu được tỷ suất lợi nhuận cao. Cuộc cạnh tranh nhằm thu được tỷ suất cao giữa các ngành khác nhau đã được Mac phân tích rất rõ trong quá trình phân chia lợi nhuận giữa các nhà tư bản bỏ vốn đầu tư vào các ngành khác nhau của nền kinh tế và chính sự cạnh tranh này dẫn tới sự di chuyển vốn đầu tư từ các ngành có tỷ suất lợi nhuận thấp sang các ngành có tỷ suất lợi nhuận cao hơn, di chuyển vốn này dần hình thành nên tỷ suất lợi nhuận bình quân giữa các ngành với nhau, điều này có nghĩa là các nhà đầu tư đầu tư vào các ngành khác nhau với số vốn bằng nhau thì chỉ thu được lợi nhuận như nhau.
+ Cạnh tranh trong nội bộ ngành: Là sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp cùng sản xuất và tiêu thụ một loại hàng hoá. Cạnh tranh trong nội bộ ngành dẫn đến sự hình thành giá cả thị trường. Trong cuộc cạnh tranh này các doanh nghiệp thôn tính lẫn nhau, các doanh nghiệp lớn thâu tóm các doanh nghiệp nhỏ hơn bằng hình thức: sát nhập, mua lại. Những doanh nghiệp chiến thắng trong cuộc cạnh tranh này thì ngày càng mạnh hơn, những doanh nghiệp thua cuộc sẽ phải thu hẹp sản xuất kinh doanh, thậm chí phá sản, xoá sổ khỏi thị trường. Kết quả của hình thức cạnh tranh này là đến nay thế giới đã hình thành nên những tập đoàn kinh tế mạnh xuyên quốc gia thâu tóm toàn bộ ngành kinh tế trên toàn cầu trong lĩnh vực: điện tử, viễn thông, truyền thông...
- Căn cứ vào mức độ cạnh tranh trên thị trường, người ta chia ra:
+ Thị trường cạnh tranh hoàn hảo: là hình thức cạnh tranh trên thị trường có nhiều người mua và người bán độc lập với nhau. Tất cả các đơn vị hàng hoá trao đổi được coi là giống nhau. Những người mua và người bán đều có hiểu biết đầy đủ về các thông tin liên quan đến việc trao đổi, không có gì cản trở việc ra nhập và rút khỏi thị trường.
+ Thị trường cạnh tranh không hoàn hảo: là hình thức cạnh tranh trên thị trường mà phần lớn sản phẩm không đồng nhất với nhau. Người bán có thể ấn định giá linh hoạt theo khu vực bán sản phẩm, tùy theo khách hàng cụ thể và mức độ lợi nhuận mong muốn.
+ Cạnh tranh độc quyền là trường hợp trên thị trường có một số lượng người bán nhất định, họ có thể tự định ra giá cả đối với hàng hoá dịch vụ.
Căn cứ vào chủ thể tham gia thị trường người ta phân chia cạnh tranh ra làm 3 loại:
+ Cạnh tranh giữa người bán với người mua: là cuộc cạnh tranh diễn ra theo qui luật mua rẻ bán đắt.
+ Cạnh tranh giữa những người bán với nhau: là cuộc cạnh tranh gay go và quyết liệt nhất. Đây là cuộc cạnh tranh quyết định sự sống còn của mỗi doanh nghiệp. Tất cả các doanh nghiệp đều muốn giành lợi thế cạnh tranh. Để có thể đứng vững và phát triển các doanh nghiệp phải sử dụng mọi biện pháp khác nhau để tạo cho mình có được lợi thế hơn đối thủ cạnh tranh.
+ Cạnh tranh giữa những người mua với nhau: là cuộc cạnh tranh theo quy luật cung cầu. Khi cung nhỏ hơn cầu thì cuộc cạnh tranh giữa người mua trở nên quyết liệt, giá cả hàng hoá dịch vụ sẽ tăng lên
2.Các nhân tố tác động đến cạnh tranh trong một ngành
Sự đe doạ của các
đối thủ tiềm năng
Cạnh tranh giữa các đối thủ hiện tại trong ngành
Quyền lực
của người mua
Quyền lực của nhà cung ứng
Sự đe doạ của những
sản phẩm thay thế
Các nhân tố tác động đến cạnh tranh trong một ngành
Theo Michael E.Porter, thì có 5 nhân tố tác động tới cạnh tranh trong ngành: nguy cơ của sự gia nhập mới; nguy cơ về các sản phẩm thay thế; quyền lực của nhà cung ứng; quyền lực của người mua và tính sống còn trong cạnh tranh giữa các thành viên hiện tại của ngành kinh doanh.
3.1. Sự đe doạ của các đối thủ cạnh tranh.
Trong một ngành bất kỳ luôn tồn tại khả năng xuất hiện những công ty kinh doanh mới. Đó là những đối thủ tiềm ẩn của các công ty hiện tại. Có 8 trở ngại chính đối với việc gia nhập, sự hiện diện hoặc vắng mặt của các đối thủ tiềm ẩn tạo nên mức độ nguy cơ của sự gia nhập mới.
Trở ngại thứ nhất là sự tiết kiệm kinh tế hay lợi thế theo qui mô, ám chỉ sự giảm chi phí sản xuất trên mỗi đơn vị sản phẩm theo khối lượng sản xuất sản phẩm. Mặc dù khái niệm về lợi thế theo qui mô thường gắn với lĩnh vực sản xuất, nhưng nó cũng được áp dụng đối với việc nghiên cứu và phát triển, hành chính, marketing và các chức năng kinh doanh khác.
Hàng rào trở ngại chính thứ hai đó là sự khác biệt về sản phẩm, mức độ độc nhất có thể nhận biết được của sản phẩm, mức độ độc nhất có thể nhận biết được của sản phẩm. Mức độ khác biệt cao của sản phẩm và tính nhất quán về nhãn hiệu làm tăng giá trị đối với những sự gia nhập ngành trong tương lai.
Trở ngại thứ ba liên quan đến những yêu cầu về vốn. Vốn được đòi hỏi không chỉ để cho sản xuất những sản phẩm dịch vụ mà còn cho tài trợ Ngiên cứu và Phát triển, quảng cáo, dịch vụ và bán hàng ngoàI trời, tín dụng khách hàng và những vật phẩm tồn kho. Những nhu cầu lớn về vốn trong những ngành như dược phẩm, những máy tính có công suất cao, bộ nhớ rộng, hoá học và khai thác khoáng sản, biểu hiện những trở ngại hết sức ghê gớm.
Trở ngại thứ tư là các chi phí chuyển mối, chi phí gắn liền với việc thay đổi nhà cung ứng và những sản phẩm của người mua. Điều này có thể bao gồm việc đào tạo lại, các chi phí dụng cụ phù trợ, các chi phí về việc đánh gía các nguốn lực mới….. Các chi phí nhìn thấy trước của khách hàng trong việc chuyển đổi sang sản phẩm mới của đối thủ cạnh tranh có thể biểu hiện một trở ngại không thể vượt qua, ngăn cản những thành viên mới trong việc đạt được những thành công.
Trở ngại thứ năm là mức độ khó khăn của việc tham gia vào các kênh phân phối. Trong một chừng mực nào đấy, các kênh này đã đầy ắp hoặc không thể sử dụng, chi phí của việc gia nhập bị tăng lên một cách đáng kể bởi vì mỗi thành viên mới đều phải tạo ra và thành lập các kênh mới.
Chính sách của chính phủ cũng luôn là hàng rào trở ngại quan trọng. Trong một vài trường hợp, chính phủ sẽ tuyệt đối ngăn cấm việc tham gia cạnh tranh.
Các hãng kinh doanh đã được thành lập cũng quan tâm đến những lợi thế chi phí có được do độc lập về qui mô mà đây cũng là hàng rào cản trở việc gia nhập của các đối thủ mới.
Cuối cùng, việc mong chờ sự đáp lại của đối thủ cạnh tranh có thể là một hàng rào trở ngại chính. Nếu những thành viên mới bị những nhà cạnh tranh hiện tại phản ứng một cách mạnh mẽ việc gia nhập thì việc gia nhập tất nhiên bị khó khăn.
3.2. Nguy cơ từ những sản phẩm thay thế
Nhân tố thứ hai tác động đến cạnh tranh trong một ngành là nguy cơ của những sản phẩm thay thế. Tính khả dụng của các sản phẩm thay thế áp đặt mức giới hạn cho giá cả mà những nhà điều hành thị trường trong một ngành có thể phải tính đến , gía cao có thể khiến cho người mua phải chuyển sang sản phẩm thay thế.
3.3. Quyền lực của người mua
Mục đích cuối cùng của những khách hàng công nghiệp là phải trả mức giá thấp nhất có thể để có được những hàng hoá và dịch vụ được sử dụng như sản phẩm đầu vào. Do vậy, thông thường, lợi ích cao nhất của người mua sẽ được đáp ứng nếu họ có thể giảm lợi nhuận từ phía nhà cung cấp. Để làm được điều này, người mua phảI có một quyền lực vượt trội đối với tất cả các hãng trong ngành cung ứng.
Một cách mà họ có thể làm đó là mua với số lượng lớn và khi đó, các hãng cung ứng sẽ phụ thuộc vào kinh doanh của người mua để có thể tồn tại và phát triển. Cách thứ hai, khi những sản phẩm của nhà cung ứng được xem là tiêu chuẩn hoá hoặc không phân biệt thì người mua có khả năng mặc cả để có giá thấp bởi nhiều hãng khác có thể thỏa mãn nhu cầu như họ. Người mua cũng có thể sẽ khó mặc cả khi các sản phẩm hoặc dịch vụ của ngành cung ứng chiếm một phần đáng kể chi phí mua sắm của những hãng này. Nhân tố thứ tư đối với quyền người mua là sự sằn lòng và khả năng để có được mối liên hệ với nhà cung ứng về sau.
3.4. Quyền lực của nhà cung ứng
“Quyền lực của nhà cung ứng” của các hãng thuộc ngành là” mặt còn lại của đồng tiền” trong khi quyền lực của người mua là mặt trước. Nếu nhà cung ứng có đủ quyền lực vượt trên các hãng công nghiệp khác, thì họ có thể tăng giá đủ cao để tác động đáng kể tới lợi nhuận của những khách hàng có tổ chức.
Khả năng của nhà cung ứng để có được ảnh hưởng trong các hãng thuộc ngành được xác định bởi một vài nhân tố.
Nhà cung ứng sẽ có lợi thế nếu họ có qui mô lớn hơn các công ty trong ngành. Thứ hai, khi các sản phẩm hoặc dịch vụ của nhà cung ứng là những sản phẩm đầu vào quan trọng đối với các hãng thuộc ngành, hoặc được phân biệt, hoặc chịu được chi phí chuyển đổi, thì nhà cung ứng sẽ có ảnh hưởng đáng kể tới người mua. Nhà cung ứng cũng sẽ quan tâm tới quyền mặc cả nếu việc kinh doanh của họ không bị đe doạ bởi các sản phẩm thay thế. Nhân tố thứ tư đối với quyền của người cung ứng là sự sẵn lòng và khả năng của nhà cung ứng để theo đuổi một chiến lược hoà nhập có tầm quan trọng từ trên xuống dưới trong tương lai và phát triển các sản phẩm của riêng mình nếu họ không thể có được các điều khoản thoả mãn với những người mua.
3.5. Cạnh tranh giữa các hãng trong ngành.
Cuộc cạnh tranh khốc liệt giữa các hãng ám chỉ tất cả những hành động do các hãng thực hiện trong một ngành để cải thiện vị trí của họ và tận dụng được lợi thế của nhau, các hành động như: cạnh tranh giá cả, chiến dịch quảng cáo, vị trí sản phẩm, cố gắng tạo ra sự khác biệt... ở một mức độ nào đó, cuộc cạnh tranh khốc liệt giữa các hãng làm cải thiện mức độ lợi nhuận và khuyến khích tính ổn định trong ngành, đây là nhân tố tích cực. Nhưng ở một mức độ khác, nó lại làm giảm giá cả và dẫn đến khả năng lợi nhuận giảm và tạo ra tính bất ổn định trong ngành, đây là nhân tố tiêu cực. Một khi mà một ngành đang trong giai đoạn tăng trưởng chậm thì các hãng chỉ chú trọng vào thị phần trên thị trường và làm sao để có thể đạt được điều này với sự hy sinh các nhân tố khác. Thứ hai, các ngành mang đặc điểm chi phí cố định cao thì thường xuyên chịu áp lực là phải duy trì sản xuất với công suất tối đa để bù đắp các chi phí cố định. Khi mà một ngành tích luỹ vượt quá công suất , nghĩa là sản xuất quá nhiều, hành động cân đối công suất sẽ đẩy giá cả và mức độ lợi nhuận giảm. Nhân tố thứ ba tác động đến là thiếu chi phí chuyển đổi. Điều này sẽ là một áp lực làm giảm giá và khả năng lợi nhuận sẽ giảm xuống. Thứ tư, các hãng với mục tiêu cổ phần chiến lược cao trong việc đạt được thành công trong một ngành, nhìn chung là không ổn định do họ có thể luôn sẵn lòng chấp nhận một cách không hợp lý những tỷ lệ hoa lợi thấp để tự thiết lập nên bản thân, nắm giữ vị trí trên thị trường hay mở rộng qui mô.
4.Sự cần thiết phải đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
Trong cơ chế thị trường, giá cả thị trường là cốt lõi, quan hệ cung - cầu là trung tâm, cạnh tranh là sức sống, là thuộc tính cơ bản và là động lực mạnh mẽ nhất của sự phát triển. Tư tưởng về cạnh tranh đã từng được các nhà kinh tế học cổ điển như A. Smith và D. Ricardo đề cao, tư tưởng này từng tồn tại từ thế kỷ XVIII, khoảng hơn hai thế kỷ qua đa số các nước có nền kinh tế thị trường đã đạt được những thành tựu phi thường trong việc gia tăng khối lượng của cải cho xã hội. Động lực mạnh mẽ nhất của tăng trưởng kinh tế là sức sống của môi trường cạnh tranh.
ở Việt Nam kể từ khi đổi mới đặc biệt trong khoảng 10 năm qua khi chính sách kinh tế nhiều thành phần đi vào cuộc sống, tư tưởng cạnh tranh giữa các đơn vị và giữa các thành phần kinh t ế được thừa nhận, một số doanh nghiệp và mặt hàng của Việt Nam đã vươn ra thị trường tham gia cạnh tranh và cạnh tranh được với nước ngoài, biểu hiện kết quả bước đầu và chủ trương đúng đắn của Đảng ta trong phát triển kinh tế trong xu thế hội nhập. Tuy nhiên, trước sự cạnh tranh gay gắt của cơ chế thị trường, bên cạnh những thành tựu nhỏ bé đạt được sức cạnh tranh của phần lớn doanh nghiệp và hàng hoá của ta còn yếu kém cả về chất lượng, mẫu mã và giá cả. Sự hội nhập của Việt Nam hiện nay được đánh giá ở mức trung bình ngoại trừ lĩnh vực hạ tầng thông tin. Năm 2002, Việt Nam được xếp hạng về năng lực cạnh tranh thứ 62 trên 67 quốc gia, như vậy nhìn chung sức cạnh tranh của ta còn yếu. Vì vậy nâng cao sức cạnh tranh trong việc sản xuất và tiêu thụ hàng hoá là vấn đề sống còn của các doanh nghiệp trong xu thế hội nhập. Việt Nam đã là thành viên của ASEAN và đang trực tiếp buôn bán với hơn 100 quốc gia khác, đã ký kết hiệp định thương mại với hơn 70 nước và hiện đang trong giai đoạn đàm phán để gia nhập WTO. Trước hết theo lộ trình của khu vực mậu dịch tự do khu vực Đông Nam á mà thuế quan sẽ phải giảm dần tới 0% vào năm 2015 và trước mắt là từ 0-5% vào năm 2006. Trong xu thế này, hàng hoá của Việt Nam sẽ phải cạnh tranh gay gắt với hàng hoá cùng loại của các nước trên thế giới và trong khu vực, đặc biệt với các nước ASEAN và Trung Quốc, do vậy đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam trở thành nhu cầu bức xúc hiện nay.
III/ mối quan hệ giữa đầu tư và năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
Đầu tư và cạnh tranh là hai yếu tố không thể thiếu được đối với sự tồn tại và phát triển của mỗi doanh nghiệp. Đầu tư và cạnh tranh có mối quan hệ qua lại lẫn nhau và cùng hướng tới mục đích chung là tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp. Đầu tư làm tăng năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Đến lượt mình, khi năng lực cạnh tranh tăng lên, hiệu quả sản xuất kinh doanh tăng, lợi nhuận tăng làm cho đầu tư tăng. Mối quan hệ này được biểu diễn qua sơ đồ sau:
Lợi nhuận
Năng lực cạnh tranh
Đầu tư
Đầu tư quyết định sự ra đời, tồn tại và phát triển của mỗi doanh nghiệp. Mỗi doanh nghiệp khi tiến hành sản xuất kinh doanh đều phải xây dựng nhà xưởng, cấu trúc hạ tầng, mua sắm lắp đặt thiết bị và các chi phí khác. Hoạt động đầu tư này nhằm thực hiện các nội dung:
Giảm chi phí sản xuất dẫn tới việc giảm giá thành sản phẩm
Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn
Nâng cao trình độ tay nghề lao động
Nâng cao chất lượng sản phẩm và mở rộng năng lực sản xuất
Nhờ đó nâng cao được năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường. Như vậy, đầu tư là điều kiện cần để nâng cao năng lực cạnh tranh của mỗi doanh nghiệp. Đầu tư làm cho sản phẩm có chất lượng hơn, mẫu mã phong phú hơn, được người tiêu dùng biết đến nhiều hơn, từ đó nâng cao được vị thế của doanh nghiệp cũng là nâng cao được năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trên thương trường.
Khi năng lực cạnh tranh được nâng cao, khả năng tiêu thụ sản phẩm tăng, dẫn đến doanh thu tăng, lợi nhuận tăng, một phần lợi nhuận này lại được tiếp tục tái đầu tư vào doanh nghiệp trong các lĩnh vực: thiết bị nhà xưởng, công nghệ, nguồn nhân lực, và các tài sản vô hình khác... và nhờ đó hoạt động đầu tư được nâng lên.
Tóm lại, đầu tư và cạnh tranh luôn đồng hành cùng với sự tồn tại và phát triển của mỗi doanh nghiệp. Chúng tác động qua lại lẫn nhau và cùng hướng tới mục tiêu lợi nhuận. Đầu tư làm tăng năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp và ngược lại khi năng lực cạnh tranh được nâng cao, hiệu quả sản xuất kinh doanh tăng, lợi nhuận tăng, doanh nghiệp lại tiếp tục tái đầu tư
Chương II: tình hình đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh của tổng công ty xây dựng thăng long
I.giới thiệu chung về tổng công ty
Quá trình hình thành và phát triển.
Tổng Công ty Xây dựng Thăng Long là một doanh nghiệp lớn của Nhà nước được thành lập từ năm 1973. Đây là một doanh nghiệp xây dựng cầu đường lớn nhất Việt Nam.
Công trình đầu tiên là xây dựng cầu Thăng Long- cây cầu lớn nhất thời bấy giờ, với qui mô 2 tầng: tầng dưới là đường sắt và đường bộ, tầng trên là đường ô tô rộng 23m với tổng chiều dài trên 10km, là niềm tự hào của người dân Việt Nam trong những năm tháng khó khăn.
Sau gần 30 năm hoạt động Tổng Công ty đã xây dựng hàng trăm cây cầu lớn, hàng nghìn công trình dân dụng, đường, cảng sông, cảng biển, sân bay... như: cầu Kiền dây văng, cầu Sông Gianh, cầu Phù Đổng, cầu Việt Trì, cầu Chương Dương, cầu Yên Bái, cầu Cốc Lếu, cầu Bến Thuỷ, cầu Hoàng Long.. Đây là những công trình có quy trình thiết kế và thi công khó khăn trên nền móng phức tạp, phải có thiết bị thi công đặc chủng, khoa học, tiên tiến nhất, cùng cán bộ lãnh đạo chỉ huy, các kỹ sư, các nhà khoa học kỹ thuật tài năng, sáng tạo, công nhân lành nghề.
Với số lượng công trình tăng lên hàng năm, Tổng Công ty đã không ngừng lớn mạnh, phát triển với mức tăng trưởng nhanh, năm sau cao hơn năm trước, trở thành một trong những Tổng Công ty xây dựng cầu đường có vị thế lớn trong ngành Giao thông Vận tải. Năm 2000, giá trị tổng sản lượng đạt 1.139 tỷ đồng Việt Nam, năm 2001, gía trị tổng sản lượng lên tới 1500 tỷ đồng Việt Nam và năm 2002 là 2000 tỷ đồng Việt Nam.
Tổng Công ty Xây dựng Thăng Long đã và đang liên doanh với các Tập đoàn kinh tế của Nhật Bản, Hàn Quốc, Mỹ, Pháp, Thuỵ Sỹ... tham gia đấu thầu và thắng thầu nhiều dự án vốn đầu tư của nước ngoài như : cầu Đá Bạc, cầu Kiền dây văng, cầu Yên Lãnh, cầu Tạ Khoa, cầu Bình dây văng, đường Nội Bài- Bắc Ninh, đường R5 quốc lộ 18...
Tổng công ty Xây dựng Thăng Long với kinh nghiệm gần 30 năm xây dựng và trưởng thành , có tiềm năng hùng hậu về thiết bị công nghệ tiên tiến: Làm cầu dây văng, cọc khoan nhồi đường kính lớn 2.5m, sâu tới 85m, trong các hang động cắt tơ, khoan sâu vào tầng đá rắn.. Có đội ngũ chuyên gia, kỹ sư và công nhân lành nghề. Sẵn sàng cùng các Liên doanh thi công mọi công trình cầu, đường, bến cảng, tư vấn thiết kế, đào tạo công nhân kỹ thuật, sản xuất dầm bêtông có chiều dài tới 40m, các cầu thép, dầm thép, dầm bêtông dự ứng lực, ván khoan đúc hẫng cân bằng, trạm trộn bêtông Atphalt 100 tấn/giờ, trạm trộn bêtông xi măng 45m3 /giờ... Ngoài việc sản xuất máy móc, thiết bị thi công còn xuất nhập khẩu vật tư, thiết bị, lao động... ở trong nước và quốc tế.
Trong suốt 30 năm xây dựng và trưởng thành, Tổng công ty đã nhận được những phần thưởng cao quý từ Đảng và Nhà nước trao tặng như: Huân chương Hồ Chí Minh, Huân chương độc lập hạng I,II,III; Huân chương lao động hạng I,II,III( cho tập thể và cá nhân); các tập thể công ty, đội cầu, cá nhân được phong tặng danh hiệu anh hùng lao động. Tổng công ty cũng đạt được những thành tựu khoa học kỹ thuật như:
Huy chương Vàng chất lượng cao do Hiệp hội Xây dựng việt Nam trao tặng cho 5 công trình của Tổng công ty hoàn thành trong thập kỷ 90 thế kỷ 20.
Giải thưởng Cafor 2000, Giải thưởng Quốc tế dành cho các công trình cầu lớn chất lượng cao.
Hiện nay Tổng công ty gồm có 18 đơn vị thành viên đó là:
1.Công ty cầu 1 Thăng Long.
2.Công ty cầu 3 Thăng Long.
3.Công ty cầu 5 Thăng Long.
4.Công ty cầu 7 Thăng Long.
5.Công ty xây dựng số 9.
6.Công ty cầu 11 Thăng Long.
7.Công ty xây dựng Thăng Long.
8.Công ty xây dựng công trình Thăng Long.
9.Trung tâm công nghệ kĩ thuật hạ tầng Thăng Long.
10.Công ty xây dựng công trình kiến trúc Thăng Long.
11.Công ty thi công cơ giới Thăng Long.
12.Công ty chế tạo dầm thép và xây dựng Thăng Long.
13.Công ty đóng tàu và xây dựng Thăng Long.
14.Công ty lặn và xây dựng công trình Thăng Long.
15.Công ty tư vấn thiết kế Thăng Long.
16.Công ty thí nghiệm và xây lắp điện Thăng Long.
17.Trường kĩ thuật nghiệp vụ công trình Thăng Long.
18.Trung tâm y tế Thăng Long.
Chức năng nhiệm vụ
Tổng công ty Xây dựng Thăng Long có những chức nâng nhiệm vụ sau:
1.Xây dựng các công trình giao thông, công nghiệp và dân dụng trong và ngoài nước.
2.Sản xuất vật liệu xây dựng, cấu kiện bê tông, đúc sẵn dầm bê tông dự ứng lực.
3.Sản xuất dầm cầu thép, cấu kiện thép và các sản phẩm cơ khí.
4.Xây dựng các công trình ngầm dưới nước.
5.Cung ứng xuất nhập khẩu trực tiếp vật tư, thiết bị giao thông vận tải.
6.Vận chuyển vật tư, thiết bị cấu kiện phục vụ thi công.
7.Tư vấn thiết kế các công trình xây dựng.
8.Kinh doanh nhà nghỉ.
9.Đào tạo công nhân kỹ thuật, khám chữa bệnh, điều dưỡng.
Khái quát tình hình sản xuất kinh doanh
Năm 2004 có thể nói là năm Tổng công ty Xây dựng Thăng Long- Bộ Giao thông vận tải thành đạt trên cương vị là một nhà thầu lớn trong lĩnh vực xây dựng các công trình giao thông trong điều kiện cạnh tranh khắc nghiệt cùng với các cơ chế đấu thầu tuy về hình thức là đấu thầu theo thông lệ quốc tế song trong thực tế đã bị “ Việt Nam hoá nhiều” gây ra những trở ngại lớn đối với các nhà thầu.
Trong bản tổng kết sản xuất kinh doanh năm 2004, Tổng công ty Xây dựng Thăng Long đặt mục tiêu năm 2004 phấn đấu đạt giá trị sản lượng là 1.600.000 triệu đồng nhưng tính đến những ngày cuối cùng của năm 2004 Tổng công ty đã đạt giá trị sản lượng hơn 1.823.234 triệu đồng vượt 14% cụ thể là vượt 223.234 triệu đồng so với kế hoạch dự định. Nhiều công trình trọng điểm của Nhà nước và nhiều dự án quốc tế đã hoàn thành vượt tiến độ, đảm bảo chất lượng đưa vào sử dụng phục vụ phát triển sản xuất và dân sinh. Năm 2004 Tổng công ty đã tập trung chỉ đạo các công trình trọng điểm, giao ban dự án, để kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, liên tục phát động phong trào thi đua nên đã đảm bảo tiến độ hoàn thành bàn giao hơn 74 công trình với giá trị gần 1.108 tỷ đồng, đặc biệt là các công trình trọng điểm của Bộ Giao thông vận tải như:
- Nổi bật nhất là cầu Kiền, cây cầu dây văng lớn nhất ở phía Bắc do cán bộ công nhân viên Việt Nam tự xây dựng, đã hoàn thành thông xe ngày 28/9/2004. Việc hoàn thành cầu Kiền đánh dấu một bước tiến mới về khả năng công nghệ của Tổng công ty trong việc xây dựng các cầu có khẩu độ nhịp lớn, tĩnh không lớn với yêu cầu kiến trúc và mỹ thuật cao cho các thành phố lớn, các trung tâm du lịch như Hà Nội, Hải Phòng, TP. Hồ Chí Minh, Cần Thơ, Quảng Ninh...
- Các công trình khác như: Cầu Đá Bạc, dự án R5 Hải Phòng, dự án Bồng Sơn- Bàn Thạch, dự án 5 cầu đường sắt, dự án cầu Nhị Thiên Đường, cầu Tạ Khoa, dự án Nội Bài- Bắc Ninh. Một số công trình có tiến độ thi rút ngắn nhiều so với tiến độ ký hợp đồng như: Cầu Yên Lệnh đồng loạt thi công các trụ, xong toàn bộ thân mũ trụ để vượt lũ trước ngày 30/6/2004 và được Bộ Giao thông vận tải khen ngợi, phấn đấu thông xe vào tháng 5/2005.
Điều đặc biệt nữa là năm 2004 cũng là năm mà Tổng công ty Xây dựng Thăng Long đã tạo được uy tín lớn trong việc xây dựng các công trình vừa mang ý nghĩa chính trị và kinh tế to lớn vừa phải đạt yêu cầu khẩn trương về tiến độ, yêu cầu cao ._.tự bổ sung khác) phải ưu tiên cho việc đầu tư chiều sâu. Muốn vậy phải đánh giá chính xác tài sản doanh nghiệp. Thực hiện khấu hao nhanh những tài sản cố định cần thiết và khuyến khích doanh nghiệp nhanh chóng đổi mới máy móc thiết bị.
1.2.4. Tiếp tục đầu tư đổi mới máy móc, thiết bị và công nghệ
Đầu tư đổi mới máy móc thiết bị- công nghệ là một trong những giải pháp quan trọng nhất nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của Tổng công ty Xây dựng Thăng Long. Đầu tư cho máy móc, thiết bị- công nghệ của Tổng công ty trong thời gian tới cần tập trung theo những hướng sau:
Một là: Phải thường xuyên đổi mới thiết bị- công nghệ, đưa những tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất trong Tổng công ty. Đây là sự sống còn đảm bảo thắng thầu trong cơ chế đấu thầu hiện nay. Hiện tại đầu tư vào hai ngành nghề xây dựng cầu và đường như: khoan cọc nhồi đường kính lớn, cầu dây văng, dầm Prebeam, đúc hẫng cân bằng khẩu độ lớn, thi công đường theo qui trình AASHTO có thiết bị hiện đại như trạm bê tông át- phan, máy rải, đầm rung...
Hai là: Quan điểm đầu tư lấy ngắn nuôi dài, mạnh dạn đầu tư nhưng phải khai thác triệt để. Tổng công ty có đủ dây truyền khép kín như: Nhà máy chế tạo dầm thép, dầm bê tông, sản xuất trạm trộn bê tông xi măng, trạm trộn bê tông nhựa nóng, xà lan, hệ nổi, sản xuất vật liệu xây dựng, trạm thí nghiệm, trường công nhân kỹ thuật, trung tâm y tế...
Ba là: Việc đầu tư phải đồng bộ, đúng thủ tục, có hiệu quả. Việc mua sắm đầu tư thiết bị phải có luận chứng kinh tế kỹ thuật được duyệt qua Tổng công ty để thống nhất đồng bộ toàn Tổng công ty, tránh chồng chéo. Hạn chế việc mua thiết bị cũ, kém chất lượng, không đúng yêu cầu chất lượng mà dự án đang cần. Đầu tư phải gắn liền với dự án, công trình để hạch toán, khấu hao thu hồi vốn
Bốn là: Đẩy mạnh việc ứng dụng công nghệ thông tin trong sản xuất kinh doanh. Trong thời gian qua Tổng công ty đã ứng dụng công nghệ thông tin vào sản xuất điều hành như : thiết kế kỹ thuật, tính toán kết cấu, tính toán giá thành, thống kê báo cáo, truyền tin điều hành chỉ huy sản xuất.
Song nhìn chung, thiết bị đã cũ, chưa xây dựng được một mạng toàn Tổng công ty, chưa ứng dụng công nghệ thông tin vào quản lý. Vì vậy, trong thời gian tới Tổng công ty phải đầy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong sản xuất kinh doanh như:
+ Đầu tư một mạng để làm nền tảng cho việc xây dựng cơ sở dữ liệu chung của Tổng công ty.
+ Đẩy mạnh việc ứng dụng Internet.
+ Mạnh dạn ứng dụng các chương trình quản lý chuyên ngành.
+ Kết hợp xây dựng các phần mềm theo đặc thù Tổng công ty ( quản lý nhân sự, quản lý công văn, quản lý thiết bị, quản lý tiền lương...).
Năm là: Phải xác định chiến lược đầu tư hợp lý. Chiến lược đầu tư nâng cao năng lực máy móc thiết bị, đổi mới công nghệ là một bộ phận của chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp. Mức độ đầu tư như thế nào, công nghệ ra sao? đòi hỏi phải tính toán, cân nhắc cho phù hợp. Khi xây dựng chiến lược này phải căn cứ từ nhu cầu thị trường, phải nắm bắt được chiều hướng phát triển và dự đoán mức độ cạnh tranh trên thị trường để đưa ra được chiến lược cụ thể, đảm bảo hợp lý bước đi trong từng giai đoạn.
Hiện nay, tỷ lệ tài sản cố định chiếm từ 70- 75% tổng tài sản của Tổng công ty. Vì vậy, trong kế hoạch đầu tư máy móc thiết bị, trước hết cần soát xét lại máy móc thiết bị sẵn có, vạch ra kế hoạch sửa chữa, nâng cấp, nâng cao tính năng sử dụng và giảm các chi phí vận hành của máy móc cũ, thanh lý các máy móc lạc hậu, không còn đáp ứng được với yêu cầu cạnh tranh của Tổng công ty.
Mặt khác, trên cơ sở tính toán nâng cấp các máy móc thiết bị sẵn có Tổng công ty phải có kế hoạch đầu tư mua sắm mới các thiết bị quan trọng, đặc chủng cả về số lượng và chất lượng. Đây là cơ sở nâng cao vị trí và uy tín, tăng sức cạnh tranh, tạo nên phong cách xây dựng riêng cho nhà thầu, và hơn nữa tạo ra sự tin cậy của các chủ đầu tư và các khách hàng tiềm năng. Khi đầu tư mua sắm máy móc thiết bị phải tính toán đến các yếu tố ảnh hưởng trực tiếp tới hiệu quả của việc đầu tư như: Khoa học kỹ thuật phát triển, máy móc thiết bị được sản xuất ra nhiều hơn, tính năng kỹ thuật cao hơn, chủng loại đa dạng hơn, mặt khác các quy trình công nghệ trong xây lắp cũng được đổi mới, những điều đó đều làm tăng độ hao mòn vô hình của máy móc thiết bị. Việc đầu tư bằng nguồn vốn vay sẽ làm tăng thêm khoản dư nợ cho Tổng công ty, đồng nghĩa với việc giảm tỷ trọng vốn chủ sở hữu trong tổng nguồn vốn và như vậy cũng làm giảm tính chủ động của Tổng công ty. Một vấn đề quan trọng là phải gắn kết kế hoạch đầu tư với kế hoạch sản xuất kinh doanh, liên kết liên doanh của Tổng công ty, tránh tình trạng đầu tư máy móc xong thiếu việc làm. Đối với những công trình có tính đặc chủng về kỹ thuật, nếu đầu tư máy móc để đáp ứng yêu cầu xây dựng công trình sẽ dẫn tới khi thi công xong công trình thì máy móc thiếu việc làm và ứ đọng vốn.
Sáu là: Phải lựa chọn phương thức đầu tư phù hợp. Khi đầu tư tăng năng lực thiết bị để nâng cao sức cạnh tranh trong đấu thầu xây dựng, Tổng công ty cần phải căn cứ vào nguồn vốn, máy móc thiết bị hiện có, kế hoạch sản xuất kinh doanh và nghiên cứu thị trường để lựa chọn một trong các hình thức mua sắm sau:
Tín dụng thuê mua;
Thuê trực tiếp của các Tổng công ty khác
Mua mới thiết bị
Liên danh trong đấu thầu
Để mua sắm thiết bị với mục đích có được thiết bị tốt, giá cả hợp lý, Tổng công ty cần nghiên cứu lựa chọn phương thức mua sắm cụ thể; có thể lựa chọn một trong hai hình thức là mua trực tiếp hoặc mua sắm thông qua đấu thầu. Nhìn chung với những thiết bị có giá trị lớn, tính năng kỹ thuật phức tạp cần phải đấu thầu mua sắm bảo đảm tính cạnh tranh công bằng và minh bạch trong quá trình đấu thầu để lựa chọn nhà thầu phù hợp, đạt hiệu quả kinh tế của dự án.
Trong điều kiện thị trường thiết bị đa dạng, việc lựa chọn chính xác thiết bị thi công trong dự án đầu tư mua sắm thiết bị nhằm tiết kiệm chi phí đầu tư và nâng cao hiệu quả sử dụng. Có thể sử dụng phương pháp đánh giá Hồ sơ dự thầu thông qua hệ thống chấm điểm vận dụng kinh nghiệm thể thức đấu thầu của Hiệp hội Kinh tế các kỹ sư tư vấn trên cơ sở thực tiễn thị trường Việt Nam. Hiệu quả của phương pháp này là đáp ứng được nhiều chỉ tiêu đặt ra, có ý nghĩa thực tiễn giúp cho Tổng công ty mua được thiết bị cần thiết với tính năng kỹ thuật, chất lượng và hiệu quả kinh tế cao.
Theo quy định về phân cấp phê duyệt, quyết định các dự án đầu tư, các Tổng công ty Nhà nước được phép quyết định đầu tư các dự án quy mô nhóm A. Vì vậy, Tổng công ty trên quan điểm hiệu quả của việc đầu tư cần phải triển khai tổ chức hoạt động thẩm định giá thiết bị trong doanh nghiệp mình. Việc thầm định giá phải có các chuyên gia giỏi về thị trường, về kỹ thuật công nghệ cũng như về kinh tế. Trong quá trình triển khai cần tham khảo ý kiến các Bộ ngành chức năng như: Bộ Giao thông Vận tải, Bộ tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư... Tổ chức và xác định nội dung, phương pháp, quy trình thầm định hợp lý, phù hợp với điều kiện của doanh nghiệp. Bộ máy thẩm định phải gọn nhẹ, linh hoạt, không làm ảnh hưởng đến biên chế, tiến độ đầu tư mua sắm và tiết kiệm chi phí thẩm định.
Tóm lại, để nâng cao năng lực đấu thầu của Tổng công ty, vấn đề đầu tư máy móc thiết bị đồng bộ, hiện đại, đổi mới công nghệ thi công là giải pháp vừa có tính cấp bách vì đòi hỏi của thực tế, vừa có tính chiến lược cho việc phát triển của Tổng công ty.
1.2.5. Đầu tư phát triển nguồn nhân lực
Con người là một chủ thể, là một nhân tố đặc biệt trong số các nhân tố đầu vào của mọi hoạt động kinh tế. Nó khác biệt so với các nhân tố khác vì nó vừa là nhân tố động lực đảm bảo cho sự thành công trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nói riêng và của cả nền kinh tế nói chung, song đồng thời cũng là mục tiêu phục vụ mà các doanh nghiệp và cả xã hội phải hướng tới. Năng lực cạnh tranh của một doanh nghiệp chịu tác động bởi nhiều yếu tố song công bằng mà nói thì nguồn nhân lực là nguồn lực cơ bản quyết định- chất lượng nguồn nhân lực có ý nghĩa quan trọng đối với cơ cấu sản xuất, khả năng cạnh tranh, đến hoạt động khoa học công nghệ, đến quản lý và đầu tư ... do đó quyết định tốc độ tăng trưởng của doanh nghiệp. Do vậy, trong thời gian tới, Tổng công ty cần nhìn nhận nghiêm túc và đầu tư đúng mức cho phát triển nguồn nhân lực theo các hướng sau:
Thứ nhất: Không ngừng tạo điều kiện cho người lao động ( bao gồm cả công nhân lao động trực tiếp lẫn đội ngũ quản lý ở mọi cấp) được học tập, được đào tạo và đào tạo lại.
Trong xã hội thông tin, việc không ngừng nâng cao cập nhật kiến thức là một nhu cầu tất yếu, đặc biệt là trong giai đoạn hiện nay khi mà sự phát triển của mọi quốc gia đều hướng tới nền kinh tế tri thức- một xã hội của tinh thần không ngừng học hỏi, rèn luyện và nâng cao kiến thức.
Để nâng cao sức cạnh tranh thì việc đào tạo chuyên sâu là vô cùng cần thiết, vì có đào tạo chuyên sâu mới tạo ra được một đội ngũ quản lý giỏi. Ông cha ta đã từng nói “ Một người lo bằng một kho người làm”. Một khi có nhà lãnh đạo giỏi, họ là người am hiểu, nắm bắt được thực chất của vấn đề thì họ mới đặt ra được những yêu cầu cần phải thực hiện để nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp, đồng thời tạo điều kiện để thực hiện được các yêu cầu đặt ra. Trong thực tế chúng ta thấy không ít trường hợp có nhiều doanh nghiệp được đầu tư cơ sở vật chất và nguồn vốn khá lớn song vẫn hoạt động không hiệu quả, tại sao nhiều doanh nghiệp đứng trên bờ vực phá sản xong một khi chọn được giám đốc giỏi thì họ đã xoay chuyển được tình thế trên. Phải chăng lời giải ở đây chính là yếu tố con người. Chính vì vậy, việc đào tạo không thể chỉ được thực hiện một cách hình thức, chạy theo số lượng mà luôn phải cần chú ý đến chất lượng đào tạo.
Để đào tạo chuyên sâu, cũng cần phải chọn đúng người để đào tạo và phải đào tạo đúng những ngành có nhu cầu. Người được cử đi học phải là những người có khả năng tiếp thu và là những người ham học, có tinh thần trách nhiệm cao trong học tập.
Việc đào tạo chuyên môn cũng cần gắn liền với việc giáo dục phẩm chất, đạo đức và rèn luyện thể lực. Một cơ thể khoẻ mạnh, giàu sức sống cả về sức lực, trí tuệ và tinh thần sẽ là môi trường thuận lợi để hình thành và nuôi dưỡng nguồn tri thức tốt. Những hành động, quyết định của con người thông qua tri thức sẽ góp phần cải tạo, thúc đẩy doanh nghiệp phát triển hoặc kìm hãm doanh nghiệp phát triển. Do vậy, nếu con người được đào tạo và rèn luyện với những phẩm chất tốt thì những hành động của họ sẽ mang tính nhân bản hơn và sẽ tích cực thúc đẩy doanh nghiệp phát triển.
Thứ hai: Một vấn đề cũng không kém phần quan trọng trong việc nâng cao sức cạnh tranh thông qua yếu tố con người là tạo môi trường thuận lợi để người lao động được phát huy mọi tiềm năng sức sáng tạo của mình, được cống hiến nhiều hơn cho sự phát triển của doanh nghiệp. Đây là yếu tố cực kỳ quan trọng, vì con người có được đào tạo tốt, song nếu không có môi trường để phát huy thì chẳng khác nào đố là một món hàng chỉ để trưng bày và rồi nó sẽ mai một theo thời gian, song nếu ngược lại, nếu có môi trường làm việc tốt thì những nhân tố này sẽ được phát huy và cống hiến nhiều hơn. Do vậy, để có thể cống hiến được thì con người phải có môi trường làm việc phù hợp và được đặt vào đúng vị trí theo khả năng của mình.
Mặt khác, thông thường những người có tri thức là những người ham học hỏi thì ở một khía cạnh khác họ lại là những người mong được cống hiến và không chú ý nhiều đến vấn đề danh lợi. Vấn đề đặt ra là phải làm thế nào để họ có thể phát huy khả năng đem những tri thức của mình cống hiến cho doanh nghiệp, tạo ra được nhiều sáng kiến góp phần nâng cao sức cạnh tranh.
Có thể nói, sức sáng tạo của con người là nguồn sức mạnh vô tận đã giúp con người chinh phục, chiến thắng thiên nhiên và làm nên những kỳ tích to lớn để tồn tại và phát triển. Vấn đề là làm sao giải phóng được những tiềm năng và sức sáng tạo này, đừng vì những suy nghĩ hẹp hòi, ganh đua mà triệt tiêu động lực sáng tạo và sức cống hiến của họ.
Thứ ba: Phải giải quyết thoả đáng chế độ tiền lương cho người lao động. Vấn đề này được đặt ra ở khía cạnh không phải chỉ là để tạo điều kiện cho họ an tâm làm việc mà còn được xét đến ở khía cạnh kinh tế nhằm nâng cao sức cạnh tranh.
Thứ tư: Tăng cường công tác giáo dục nhằm nâng cao ý thức tổ chức kỷ luật và trách nhiệm của người lao động trước cá nhân và tập thể, từ đó họ có thể hoàn thành tốt công việc được giao một cách tự giác, không cần phải thúc giục, ra lệnh.
Thứ năm: Khuyến khích và tổ chức làm việc theo tổ, đội nhằm rèn luyện cho người lao động tinh thần làm việc hợp tác, qua đó phát huy tính năng đông, sáng tạo của cá nhân và tập thể người lao động.
Thứ sáu: Kiến tạo văn hóa tổ chức dựa trên cơ sở tôn trọng lẫn nhau. Một khi được tôn trọng, người lao động có động lực để rèn luyện, học tập và phát huy tối đa khả năng của mình, sẵn sàng vượt qua thử thách, trở ngại góp phần vào việc thực hiện thành công các chiến lược của doanh nghiệp.
Bên cạnh những nỗ lực của các doanh nghiệp trong việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực tại đơn vị mình, đòi hỏi phải có sự hỗ trợ về phí Nhà nước nhằm tạo một nguồn nhân lực có chất lượng trong xã hội để trên cơ sở đó các doanh nghiệp có điều kiện tuyển dụng nguồn nhân lực có chất lượng phù hợp với yêu cầu của mình.
1.2.6. Đầu tư thúc đẩy hoạt động Marketing
Marketing là một trong những công cụ quan trọng bậc nhất quyết định sự thành bại của các doanh nghiệp trong cơ chế thị trường. Nó là phương tiện hữu hiệu giúp các doanh nghiệp đối mặt với thị trường, giải quyết các vấn đề của mình thích ứng với nhu cầu của thị trường, hướng tới lợi nhuận cao và tạo ra ưu thế trong cạnh tranh.
Hiện nay, công tác marketing ở Tổng công ty Xây dựng Thăng Long chưa được thực hiện một cách bài bản dựa trên nguyên lý của môn khoa học này. Chi phí cho hoạt động marketing chiếm một tỷ trọng rất nhỏ trong tổng mức vốn đầu tư. Mặc dù là một trong Tổng công ty Xây dựng cầu đường lớn nhất Việt Nam song, Tổng công ty chưa được nhiều nhà đầu tư biết đến. Do đó, trong thời gian tới, Tổng công ty cần phải chú trọng hơn nữa cho hoạt động marketing nhằm vào các hướng sau:
Chiến lược phân đoạn thị trường và lựa chọn thị trường mục tiêu: Để thực hiện được chiến lược này, Tổng công ty phải tiến hành phân đoạn thị trường dựa trên những tiêu chí nhất định. Sau đây là một số cách phân đoạn thị trường cơ bản của Tổng công ty:
Phân đoạn thị trường theo khu vực địa lý: thị trường xây dựng miền Nam, miền Bắc, miền Trung.
Phân đoạn thị trường theo ngành: thị trường ngành xây dựng công nghiệp, ngành nông nghiệp, ngành giao thông vận tải.
Phân đoạn thị trường theo tính chất xã hội: thị trường thành phố, thị trường nông thô, thị trường miền núi...
Sau khi phân đoạn thị trường, Tổng công ty tiến hành lựa chọn thị trường mục tiêu là thị trường mà ở đó Tổng công ty có thể phát huy cao nhất hiệu quả sản xuất kinh doanh của mình.
Xác định chiến lược cạnh tranh: Tuỳ theo từng điều kiện cụ thể, Tổng công ty có thể lựa chọn một trong những chiến lược sau:
Cạnh tranh về giá: Bằng việc bỏ giá thầu thấp nhưng vẫn phải đảm bảo mang lại lợi nhuận.
Chiến lược đi đầu về chất lượng.
Chiến lược cạnh tranh bằng tính thẩm mỹ của công trình.
.v.v...
Trên đây là một số định hướng nhằm nâng cao chất lượng công tác marketing ở Tổng công ty Xây dựng Thăng Long.
1.2.7. Tăng cường quản lý chất lượng và tiến độ công trình.
Tình trạng để xẩy ra sự cố trong thi công, tiến độ kéo dài đang làm giảm lòng tin của các địa phương đối với Tổng công ty. Để giữ vững và phát huy uy tín của Tổng công ty, để đảm bảo chất lượng, tiến độ và hiệu quả của các dự án, Tổng công ty cần phải thực hiện một số biện pháp sau:
Khi triển khai dự án phải có kế hoạch đảm bảo chất lượng, kế hoạch thực hiện tiến độ. Mọi sai sót, hư hỏng, sự cố trong thi công, chậm tiến độ phải được qui rõ nguyên nhân, trách nhiệm của Ban điều hành dự án, của Công ty, của Đội và kịp thời xử lý.
Các công ty làm chậm tiến độ, nếu phải điều đơn vị khác đến thi công thì phải chịu bồi thường do chậm và phải chịu giá thuê đơn vị khác, tránh tình trạng “ dễ làm, khó bỏ”.
Kể từ năm 2005 trở đi, căn cứ vào Qui chế tổng thầu vừa ban hành, quan hệ kinh tế giữa Tổng công ty và các đơn vị ở các dự án tổng thầu sẽ chỉ là các quan hệ của Hợp đồng kinh tế, không còn hình thức Tổng công ty giao nhiệm vụ cho các công ty nữa. Các Giám đốc và Tổng Giám đốc sẽ thương thảo cụ thể các điều khoản trong Hợp đồng trước khi ký. Như vậy sẽ tạo sự chủ động cho các Công ty và tạo ra sự bình đẳng trong quan hệ kinh tế giữa Tổng công ty với các đơn vị. Và qua đóTổng công ty cũng chỉ ký Hợp đồng với các đơn vị thực sự có năng lực để tham gia dự án tổng thầu.
Phòng Kỹ thuật Tổng công ty phải xây dựng Kế hoạch đảm bảo chất lượng cho các Dự án, đăng ký công trình chất lượng cao, áp dụng hệ thống quản lý chất lượng ISO 9001- 2000.
Trên đây là một số giải pháp từ phía doanh nghiệp. Để hoạt động đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh của Tổng công ty đạt hiệu quả cao cần có sự hỗ trợ từ phía Nhà nước theo hướng sau:
2. Một số kiến nghị từ phía Nhà nước
2.1. Hỗ trợ vốn cho các doanh nghiệp
Khó khăn đối với hầu hết các doanh nghiệp hiện nay là thiếu vốn nghiêm trọng. Nhu cầu đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh là rất lớn trong khi nguồn vốn lại eo hẹp. Chính vì điều này mà không ít doanh nghiệp đang phải đối mặt với tình trạng sản xuất kinh doanh thua lỗ do thiếu vốn. Vì vậy, trong thời gian tới, Nhà nước cần có những giải pháp thích hợp nhằm hỗ trợ vốn cho các doanh nghiệp cụ thể là:
- Đổi mới chế độ vay tín dụng của Nhà nước để DNNN có điều kiện tăng vốn đầu tư, giải quyết tình trạng thiếu vốn triền miên, phải vay vốn ngắn hạn của ngân hàng để đầu tư dài hạn trong DNNN hiện nay. Về phía ngân hàng, phải hạ lãi suất cho vay, giúp các doanh nghiệp có điều kiện mở rộng sản xuất tăng nhanh vòng quay của vốn. Hiện nay, có nhiều DNNN không đủ vốn để đảm bảo sản xuất kinh doanh. Nhà nước cần có cơ chế để nắm bắt được đầy đủ thực trạng sử dụng vốn, tín dụng, việc bảo toàn vốn và cũng cần có các cơ chế, các chính sách cụ thể tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tự huy động vốn trong và ngoài nước, đặc biệt là nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư, cần chú trọng công tác kiểm toán nội bộ và kiểm toán Nhà nước thông qua chế độ báo cáo tài chính doanh nghiệp.
- Mở rộng hoạt động của thị trường vốn để làm phong phú và nâng cao tiềm lực tham gia thị trường vốn. Trong đó, hoàn thiện cơ chế hoạt động của thị trường chứng khoán tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong việc huy động vốn.
Tạo điều kiện thuận lợi khuyến khích doanh nghiệp thu hút vốn đầu tư thông qua kênh tín dung ưu đãi của Nhà nước và Nhà nước gián tiếp hỗ trợ doanh nghiệp thông qua hỗ trợ lãi suất sau đầu tư đối với các dự án đầu tư có hiệu quả.
Hoàn thiện chính sách hỗ trợ tài chính đối với doanh nghiệp Nhà nước thông qua các Quỹ hỗ trợ xuất khẩu và Quỹ bảo hiểm xuất khẩu theo hiệp hội ngành hàng, Quỹ hỗ trợ sắp xếp và cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước, Quỹ hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ...Đồng thời thực hiện chính sách bảo hộ hợp lý, có thời hạn hàng sản xuất trong nước phù hợp với các hoạt động và tiêu chuẩn quốc tế.
Tăng cường và thành lập mới các tổ chức dịch vụ tài chính hỗ trợ các doanh nghiệp thực hiện lành mạnh hoá tài chính của mình và tạo điều kiện cho họ phát triển, như củng cố và đổi mới hệ thống tín dụng, tăng cường các dịch vụ kiểm tóan, thông tin tư vấn tài chính, thành lập các Công ty mua bán nợ và tài sản thanh lý của doanh nghiệp, Công ty môi giới chứng khoán, Công ty đầu tư tài chính Nhà nước.
2.2. Tăng cường đầu tư, đổi mới và kiểm soát công nghệ trong Doanh nghiệp Nhà nước
Đổi mới công nghệ chính là một trong những yếu tố sống còn của doanh nghiệp. Nhà nước cần tập trung giúp đỡ các doanh nghiệp trong việc huy động vốn đầu tư đổi mới công nghệ để tăng sức cạnh tranh của mình, đồng thời cũng cần đưa ra các yêu cầu kiểm tra, kiểm soát việc đổi mới trang thiết bị và công nghệ của DNNN thông qua một hệ thống các giải pháp sau:
Một là: tiếp tục đổi mới và hoàn thiện môt trường thể chế, chính sách, cơ chế quản lý cho hoạt động đổi mới công nghệ ở các doanh nghiệp hướng vào:
- Một mặt tăng cường quản lý chặt chẽ hơn nữa ( kể cả việc quy định nghiêm ngặt hơn và xử lý nghiêm minh hơn đối với các vi phạm) hoạt động đầu tư đổi mới công nghệ ở các doanh nghiệp, mặt khác tạo điều kiện rộng rãi hơn nữa cho các DNNN chủ động nhiều hơn trong hoạt động đổi mới công nghệ. Những ách tắc cản trở trong các qui định chính sách và cơ chế quản lý Nhà nước đối với hoạt động này của doanh nghiệp cần được sớm tháo gỡ và xoá bỏ. Ví dụ như chế độ khấu hao, một số quy định về thuế, về tín dụng cho đổi mới công nghệ...
Tạo những áp lực, sức ép cần thiết, thậm chí gay gắt hơn nữa đối với các DNNN nhanh chóng tiếp cận và đổi mới công nghệ để nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm Việt Nam. Các nghiên cứu trong và ngoài nước đều chỉ ra rằng hiện tại áp lực, sức ép này còn chưa đủ lớn bởi vẫn còn những hỗ trợ, ưu đãi không cần thiết đối với các DNNN ( về tín dụng, về giá, về thị trường...) do vậy tạo ra tâm lý ỷ lại, trông chờ vào Nhà nước của các DNNN. Một nghiên cứu gần đây cũng chỉ ra rằng các DNNN vẫn chịu ảnh hưởng nhiều hơn của quản lý hành chính ( Bộ, ngành, UBND tỉnh) so với những áp lực của thị trường.
Khuyến khích và hướng mạnh các dòng đầu tư trực tiếp nước ngoài vào chuyển giao công nghệ mới, tiên tiến, nhằm nhanh chóng đổi mới công nghệ trong các liên doanh với DNNN. Theo phương hướng này cần tiếp tục cải thiện môi trường thương mại và môi trường đầu tư mà ý kiến của các nhà đầu tư nước ngoài đến nay vẫn cho rằng là khó khăn. Điều này có liên quan trước hết tới việc thay đổi hệ thống phê duyệt đầu tư phức tạp bằng một quy trình đăng ký đầu tư đơn giản hơn, ít lắt léo, vòng vèo và không phân biệt hình thức sở hữu cũng như các quy định trong quan hệ với đối tác đầu tư nước ngoài.
Hai là: tạo dựng hệ thống dịch vụ hỗ trợ việc chuyển giao, tiếp thu và đổi mới công nghệ cho các doanh nghiệp
Sự yếu kém trong các dịch vụ hỗ trợ là một cản trở lớn, thậm chí trong nhiều trường hợp còn gây thiệt hại về kinh tế lớn cho các doanh nghiệp trong hoạt động đầu tư đổi mới công nghệ, cần sớm được khắc phục. Việc tạo dựng dịch vụ hỗ trợ này trước hết nhằm tạo dựng:
Mạng lưới cung cấp các thông tin đủ, kịp thời về công nghệ.
Hệ thống tư vấn về công nghệ.
Hệ thống thẩm định về công nghệ.
Đào tạo cán bộ.
Hệ thống nghiên cứu và triển khai về công nghệ.
Hệ thống tài chính- tín dụng và ngân hàng phục vụ hoạt động đổi mới công nghệ ( các loại quỹ và ngân hàng chuyên dụng...)
Mạng lưới xúc tiến đầu tư nước ngoài.
2.3. Đầu tư nâng cao trình độ cho những cán bộ chủ chốt
Cán bộ chủ chốt không đáp ứng được yêu cầu căn bản về trình độ năng lực, phẩm chất đạo đức là nguyên nhân cơ bản gây ra tình trạng DNNN hoạt động kém hiệu quả. Với thực trạng đội ngũ cán bộ chủ chốt hiện nay, DNNN đòi hỏi Nhà nước có chương trình, kế hoạch đẩy mạnh đào tạo bồi dưỡng đội ngũ này với nội dung sát hợp cho từng đối tượng cụ thể.
Nhà nước cần kiện toàn và nâng cao năng lực cho các cơ sở bồi dưỡng, đào tạo cán bộ quản lý doanh nghiệp. Chú trọng bồi dưỡng, đào tạo cán bộ quản lý trên các mặt: đường lối, chính sách và pháp luật, kiến thức mới và kỹ năng hiện đại quản lý sản xuất kinh doanh trong điều kiện mới của cơ chế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế; tư duy chiến lược trong sản xuất kinh doanh và năng lực đón bắt những xu thế hiện đại trong khoa học công nghệ, trong tổ chức quản lý doanh nghiệp, phong cách làm việc và phương pháp phát huy trí tuệ, nỗ lực của người lao động và phát triển sản xuất kinh doanh...Kết hợp bồi dưỡng, đào tạo trong nước và nước ngoài qua trường lớp với khuyến khích dám nghĩ, dám làm và trưởng thành qua hoạt động thực tiễn.
2.4. Xây dựng công ty Đầu tư tài chính Nhà nước ( ĐTTCNN) để xoá chủ quản đối với DNNN
Theo đó thì sự quản lý của cơ quan chủ quản Nhà nước với DNNN sẽ không còn. Thay vào đó là việc sử dụng các công ty ĐTTCNN để: Thứ nhất là đổi mới mối quan hệ giữa Nhà nước và doanh nghiệp trên nguyên tắc phân định rõ quyền quản lý Nhà nước và quyền chủ sở hữu vốn của Nhà nước tại doanh nghiệp. Thứ hai, chuyển đổi việc quản lý có vốn của Nhà nước từ phương thức hành chính hiện nay sang phương thức kinh doanh vốn phù hợp với cơ chế thị trường. Cụ thể là chuyển từ cơ chế bao cấp về vốn- cấp vốn không hoàn lại- sang đầu tư tài chính vào doanh nghiệp- tức là công ty hoá quan hệ tài chính Nhà nước và doanh nghiệp; chuyển quan hệ Nhà nước với doanh nghiệp mang tính chất xin- cho sang quan hệ đối tác: Nhà nước góp vốn vào doanh nghiệp, là nhà đầu tư vốn vào doanh nghiệp. Thứ 3, đảm bảo cho doanh nghiệp có vốn đầu tư Nhà nước thực sự có quyền chủ động kinh doanh, tự chủ và tự chịu trách nhiệm về tài chính.
Theo tờ trình của Bộ tài chính, nguyên tắc chung là Nhà nước chỉ cấp vốn điều lệ, tức là giao vốn cho các công ty ĐTTCNN ( 100 đầu mối), còn lại khoảng 6000 DNNN được các nhà đầu tư vốn thông qua các công ty ĐTTCNN. Công ty ĐTTCNN là công ty tài chính, hoạt động theo luật DNNN, được Chính phủ uỷ quyền đầu tư vốn vào các doanh nghiệp thuộc các thành phần, thực hiện quyền sở hữu của Nhà nước về số vốn đầu tư đối với các doanh nghiệp. Quyền này được quy định trong pháp luật và được cụ thể hoá bằng hợp đồng kinh tế giữa doanh nghiệp với doanh nghiệp về việc đầu tư vốn. Nguồn vốn của công ty ĐTTCNN dự kiến hình thành từ vốn Nhà nước giao cho công ty bao gồm: vốn Nhà nước hiện có tại các công ty đã cổ phần hoá, từ các DNNN độc lập thuộc các ngành, các bộ. Đây là kế hoạch được thực hiện từ năm 2002 đến 2005. Nếu phương án này được thực hiện thì sẽ là một cuộc cách mạng trong quản lý vốn Nhà nước, từ đó tạo ra một cú hích lớn cho hoạt động đầu tư.
2.5. Đổi mới cơ cấu Doanh nghiệp Nhà nước
Đổi mới mạnh mẽ cơ cấu DNNN thông qua các biện pháp điều chỉnh cơ cấu đầu tư và thành lập mới DNNN, đồng thời sắp xếp lại DNNN hiện có.
Tiến hành kiểm kê phân loại DNNN để làm cơ sở cho việc sắp xếp. Xuất phát từ quy hoạch ngành và lãnh thổ, củng cố tổ chức và hỗ trợ cho các doanh nghiệp quan trọng, chuyển hướng kinh doanh đối với những doanh nghiệp không quy hoạch ngành nghề hoặc chính sách bảo vệ môi trường, pháp luật, hợp nhất những doanh nghiệp quá nhỏ vào các doanh nghiệp khác hoặc các Tổng công ty có liên quan về công nghệ hoặc thị trường, đẩy mạnh cổ phần hoá, bán đấu giá cho người lao động trong doanh nghiệp, chuyển thành doanh nghiệp tập thể hoặc cho đấu thầu quản lý đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ. Cùng với việc khẩn trương giảm số lượng các DNNN làm ăn kém hiệu quả, cần đẩy mạnh việc hình thành Tổng công ty là những tập đoàn kinh tế mạnh, là xương sống cho nền kinh tế. Nhà nước cần tiến hành tổng kết đánh gía một cách hệ thống thực trạng hoạt động của các DNNN để làm cơ sở cho phân loại cho doanh nghiệp hoạt động công ích, doanh nghiệp hoạt động kinh doanh, doanh nghiệp giữ 100% vốn, doanh nghiệp chỉ giữ cổ phần chi phối để có biện pháp kiện toàn về tổ chức tài chính cán bộ...Đối với những doanh nghiệp nhỏ hoạt động kém hiệu quả cương quyết thực hiện biện pháp giải thể, sáp nhập hoặc thực hiện theo luật Phá sản doanh nghiệp.
ổn định và hoàn thiện tổ chức Tổng công ty: Kịp thời chấn chỉnh những mặt chưa hoàn thiện, bổ sung đủ cán bộ lãnh đạo và phân cấp trách nhiệm cho hội đồng quản trị theo đúng quy định hiện hành đồng thời nghiên cứu đề ngị của Chính phủ sửa đổi những quy định chưa phù hợp. Hội đồng quản trị không phải là chủ sở hữu mà được Nhà nước giao một số quyền đại diện sở hữu ở DNNN tương đối lớn để phát huy trí tuệ tập thể và chịu trách nhiệm tập thể về bảo toàn và phát triển vốn của Nhà nước giao. Tăng cường hơn nữa vai trò của Tổng công ty trong việc xây dựng chiến lược, kế hoạch phát triển, tổ chức phối hợp trên cơ sở phát huy tính chủ động sáng tạo của các đơn vị thành viên.
Kết luận
Trong xu thế hội nhập và toàn cầu hoá, Việt Nam đã tích cực chủ động tham gia hội nhập với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới. Hội nhập quốc tế đã tạo ra cơ hội thuận lợi để Việt Nam phát huy các thế mạnh mở rộng thị trường, tranh thủ nắm bắt được công nghệ và tiến bộ kỹ thuật hiện đại của thế giới để phát triển nhanh và bền vững, tạo ra thế mạnh về chất lượng và giá thành sản phẩm khi thực hiện cạnh tranh. Hội nhập quốc tế cũng là thách thức đối với các doanh nghiệp Việt Nam về khả năng cạnh tranh, trình độ tay nghề người lao động, trình độ cán bộ quản lý.... Do vậy, doanh nghiệp của ta phải đủ mạnh để cạnh tranh thắng đối thủ trên “ sân chơi chung” bình đẳng. Thực tế này đã khẳng định vai trò và tầm quan trọng của việc đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp việt Nam. Tổng công ty Xây dựng Thăng Long là một trong những doanh nghiệp Xây dựng cầu đường lớn nhất Việt Nam. Nhận thức được tầm quan trọng đó, trong những năm qua, Tổng công ty đã nỗ lực nâng cao năng lực cạnh tranh thông qua các hoạt động đầu tư và đạt được nhiều thành tựu quan trọng như đã phân tích ở trên. Tuy nhiên, việc đầu tư như thế nào để đạt hiệu quả cao là một việc làm không đơn giản chút nào. Vì vậy, mặc dù có nhiều cố gắng song, hoạt động đầu tư của Tổng công ty cũng không tránh khỏi những tồn tại yếu kém cần khắc phục. Hy vọng rằng với các giải pháp đề ra sẽ giúp Tổng công ty ngày càng khẳng định được vị thế và uy tín của mình trên thị trường.
Do khả năng và thời gian có hạn nên bài viết không thể tránh khỏi những thiết sót. Vì vậy, em rất mong được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô để bài viết được hoàn thiện hơn. Một lần nữa, em xin chân thành cảm ơn cô giáo Phạm Thị Thêu và các thầy cô trong bộ môn đã giúp đỡ em hoàn thành bài viết này.
Danh mục tài liệu tham khảo
TS. Nguyễn Bạch Nguyệt- TS Từ Quang Phương- Giáo trình Kinh tế đầu tư- Bộ môn Kinh tế đầu tư
PGS. TS. Phan Công Nghĩa- Giáo trình Thống kê Đầu tư và Xây dựng- Khoa Thống kê- Bộ môn Thống kê kinh tế
Philip Koler- Giáo trình Quản trị marketing
Tạp chí Ngiên cứu Kinh tế số 264 tháng 5/2000
Tạp chí Kinh tế và Dự báo số 6/2003
Tạp chí Xây dựng
Tạp chí Phát triển kinh tế
Tạp chí Thông tin lý luận
Tạp chí Giao thông Vận tải
Tạp chí Thị trường vốn
Các Báo cáo Kết quả sản xuất kinh doanh và Báo cáo Đầu tư của Tổng công ty Xây dựng Thăng Long
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- J0027.doc