Lời nói đầu
Trong điều kiện hội nhập vào nền kinh tế thế giới và khu vực, vấn đề nâng cao khả năng cạnh tranh có ý nghĩa quyết định đối với sự tồn tại và phát triển của các doanh nghiệp Việt Nam và sự tăng trưởng kinh tế của đất nước. Mỗi chủ thể kinh tế phải tự vận hành, tự quyết định tất cả mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của mình, từ hoạt động thăm dò thị trường, quyết định đầu tư máy móc thiết bị, dây truyền công nghệ, đến hoạt động tiêu thụ sản phẩm. Trong toàn bộ hoạt động của doanh ngh
90 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1441 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Đầu tư nâng cao khả năng cạnh tranh trong Công ty Phát triển XNK và Đầu tư VIEXIM, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
iệp, đầu tư phát triển là hoạt động lớn nhất, có tính quyết định nhất đối với sự ra đời, tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Có như vậy doanh nghiệp mới khẳng định vị trí của mình trên thị trường.
Trong xu thế chung đó Công ty Phát triển xuất nhập khẩu và Đầu tư VIEXIM đã hoà nhịp cùng sự phát triển của đất nước. Là một doanh nghiệp Nhà nước sản xuất và lắp ráp xe gắn máy, khi mà nhu cầu đi lại của người dân Việt Nam không ngừng tăng lên, sự ra đời của hàng loạt các Công ty sản xuất xe gắn máy khác với đầy đủ các nhãn mác nổi tiếng, chủng loại phong phú, chất lượng cao để có một vị trí xứng đáng trên thị trường đầy cam go và cạnh tranh gay gắt Công ty đã phải làm gì. Trong thời gian thực tập tại Công ty Phát triển Xuất nhập khẩu và đầu tư VIEXIM tôi đã tâp trung nghiên cứu thực trạng hoạt động đầu tư và khả năng cạnh tranh của Công ty, vì vậy tôi đã lựa chọn chuyên đề với đề tài” Đầu tư nâng cao khả năng cạnh tranh trong Công ty Phát triển xuất nhập khẩu và Đầu tư VIEXIM ”. Đề tài được chia làm 3 chương:
Chương 1: Lý luận chung về đầu tư và cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường
Chương 2: Thực trạng về khả năng cạnh tranh và tình hình đầu tư ở Công ty Phát triển Xuất nhập khẩu và Đầu tư VIEXIM
Chương 3: Một số giải pháp nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh trong Công ty Phát triển Xuất nhập khẩu và Đầu tư VIEXIM.
Đề tài tập trung vào nghiên cứu về tình hình đầu tư và nâng cao khả năng cạnh tranh của Công ty và giải pháp hoàn thiện.Tôi hy vọng qua đề tài này sẽ góp phần hoàn thiện ít nhiều thực trạng đầu tư của Công ty hiện nay. Qua đây tôi xin gửi lời cảm ơn tới thầy cô giáo trường Đại học KTQD đã cho tôi những kiến thức trong suốt quá trình học tập tại trường. Đặc biệt cảm ơn thầy giáo Nguyễn Hồng Minh đã tận tình chỉ bảo hướng dẫn tôi hoàn thiện chuyên đề này.
Tôi xin cảm ơn tập thể cán bộ Công ty Phát triển Xuất nhập khẩu và đầu tư VIEXIM đã giúp đỡ tôi trong quá trình thực tập tại Công ty.
Vì thời gian và trình độ hiểu biết có hạn nên đề tài không tránh khỏi những thiếu xót và khiếm khuyết, mong các thầy cô giáo đóng góp ý kiến để đề tài ngày càng hoàn thiện hơn.
ChươngI
Lý luận chung về đầu tư và cạnh tranh
trong nền kinh tế thị trường
I. Một số vấn đề cơ bản về cạnh tranh
1. Cạnh tranh vấn đề tất yếu trong nền kinh tế thị trường
1.1. Khái niệm
Kinh tế học định nghĩa cạnh tranh là sự tranh giành thị trường để tiêu thụ sản phẩm giữa các doanh nghiệp. Theo Mark cạnh tranh tư bản chủ nghĩa là sự ganh đua, sự đấu tranh gay gắt giữa các nhà tư bản nhằm giành giật điều kiện thuận lợi trong sản xuất và hàng hoá để thu lợi nhuận siêu ngạch. Như vậy đã là kinh tế thị trường đương nhiên phải có cạnh tranh và cạnh tranh theo nghĩa là tranh giành khách hàng ( thị phần ) thì chỉ có trong khuôn khổ của nền kinh tế thị trường. Một điều tất yếu và đặc trưng cơ bản của nền kinh tế thị trường đó là: Bất kỳ một doanh nghiệp nào tham gia vào sản xuất kinh doanh một loại hàng hóa nào đó trên thị trường đều phải chấp nhận cạnh tranh. Cạnh tranh phát triển cùng với sự phát triển của nền sản xuất hàng hoá. Sản xuất hàng hóa càng tăng sản xuất bán ra càng nhiều sản lượng, người cung ứng càng đông thì cạnh tranh càng gay gắt, kết quả trong cạnh tranh sẽ có một doanh nghiệp thua cuộc và bị gạt ra khỏi thị trường trong khi đó có một số doanh nghiệp sẽ tồn tại và phát triển hơn nữa. Chính vì quy luật khắc nghiệt đó làm cho doanh nghiệp phải luôn phấn đấu hết khả năng để thích nghi sự lựa chọn. Do vậy, trong nền kinh tế thị trường các doanh nghiệp biết mình phải làm gì, làm thế nào và vì sao phải làm như vậy, có thế thì doanh nghiệp mới xác định được phương hướng, mục tiêu thắng thế trong cạnh tranh.
1.2 Các loại hình cạnh tranh
Nếu căn cứ vào mức độ cạnh tranh trên thị trường người ta chia làm hai loại.
Thị trường cạnh tranh hoàn hảo: Là tình trạng thị trường trong đó số người mua và số người bán một mặt hàng nhiều đến nỗi không ai có khả năng ảnh hưởng giá cả trên thị trường. Tình trạng thị trường không đạt được như trên tức là có ít nhất một người bán hàng lớn đến mức có thể ảnh hưởng tới giá cả thị trường thì được coi là cạnh tranh không hoàn hảo biểu hiện dưới dạng độc quyền hoàn toàn(Tuyệt đối) là trường hợp một nghành chỉ có một nhà cung cấp duy nhất; Độc quyền nhóm tức một ngành do một số ít nhà cung cấp chi phối. Kinh tế chính trị học Mark- LêNin còn đề cập tới một dạng độc quyền đặc biệt trong nền kinh tế thị trường TBCN là CNTB độc quyền Nhà nước, tức là sự câu kết giữa các nhóm tài phiệt tư bản với Nhà nước TBCN tạo ra CNTB độc quyền Nhà nước một hình thức mà theo LêNin là giai đoạn tột cùng của CNTB.
Xét theo phạm vi nền kinh tế cạnh tranh chia ra làm cạnh tranh giữa các ngành và cạnh tranh trong nội bộ ngành:
Cạnh tranh giữa các ngành: Là cuộc cạnh tranh giữa các doanh nghiệp sản xuất, mua bán hàng hoá, dịch vụ trong các ngành kinh tế khác nhằm thu lợi nhuận và có tỉ suất lợi nhuận cao hơn so với vốn bỏ ra và đầu tư vào ngành có lợi nhất cho sự phát triển.
Sự cạnh tranh giữa các ngành dẫn đến các doanh nghiệp luôn tìm kiếm những ngành đầu tư có lợi nhất nên đã chuyển vốn từ ngành ít lợi nhuận sang ngành có nhiều lợi nhuận. Sau một thời gian nhất định sự dịch chuyển tự nhiên vô hình chung hình thành nên sự phân phối hợp lý giữa các ngành sản xuất dẫn đến kết quả cuối cùng là các chủ doanh nghiệp đầu tư ở các doanh nghiệp khác nhau với số vốn bằng nhau chỉ thu được lợi nhuận như nhau.
Cạnh tranh trong nội bộ ngành: Là sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp cùng sản xuất và tiêu thụ một loại hàng hoá. Cạnh tranh trong nội bộ ngành dẫn đến sự hình thành giá cả thị trường, trong cuộc cạnh tranh này các doanh nghiệp thôn tính lẫn nhau. Những doanh nghiệp chiến thăng sẽ mở rộng phạm vi hoạt động của mình trên thị trường, những doanh nghiệp thua cuộc sẽ phải thu hẹp kinh doanh, thậm chí phá sản.
Vì cạnh tranh là hiện tượng phổ biến trong nền kinh tế thị trường và để đạt được mục tiêu lợi nhuận những người tham gia thị trường phải thông qua sự cạnh tranh. Cạnh tranh là một động lực quan trọng để phát triển sản xuất, tiến bộ khoa học kỹ thuật, quản lý là điều kiện giáo dục tính tháo vác, năng động và sáng tạo của các doanh nghiệp.
2.Khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp
2.1 Khái niệm
Cho đến nay có nhiều quan điểm về khả năng cạnh tranh của một doanh nghiệp Fafchams cho rằng: Khả năng cạnh tranh của một doanh nghiệp là khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp đó có thể sản xuất sản phẩm với chi phí biến đổi trung bình thấp hơn giá trị của nó trên thị trường. Theo cách hiểu này, doanh nghiệp có khả năng sản xuất ra sản phẩm có chất lượng tương tự của doanh nghiệp khác nhưng với chi phí thấp hơn thì được coi là khả năng cạnh tranh cao hơn.
Dunning lập luận rằng: Khả năng cạnh tranh là khả năng cung cấp sản phẩm của chính doanh nghiệp trên thị trường khác nhau mà không bố trí nơi sản xuất của doanh nghiệp đó.
Randal cho rằng: Khả năng cạnh tranh là khả năng giành được và duy trì thị phần trên thị trường và lợi nhuận nhất định.
Một quan niệm cho rằng khả năng cạnh tranh là trình độ của công nghệ có thể sản xuất sản phẩm theo đúng yêu cần của thị trường, đồng thời duy trì mức thu nhập thực tế của mình.
Có thể cho rằng các quan niệm trên xuất phát từ các góc độ khác nhau, nhưng đều có liên quan đến hai khía cạnh chiếm lĩnh thị trường và có lợi nhuận. Như vậy, khi thị phần tăng lên cho thấy khả năng cạnh tranh được nâng cao. Thị phần lớn thể hiện rõ khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp càng mạnh. Để tồn tại và có sức mạnh, doanh nghiệp phải chiếm giữ một phần thị trường bất kể nhiều hay ít, chính điều này sẽ phản ánh được quy mô tiêu thụ của doanh nghiệp. Qua đó cũng đánh giá khả năng cạnh tranh của mỗi doanh nghiệp, ưu thế cũng như các điểm mạnh, điểm yếu tương đối của doanh nghiệp so với đối thủ cạnh tranh trong ngành. Do đó, để có được khả năng cạnh tranh thì doanh nghiệp luôn phải đối mặt với nhiều vấn đề lớn, tác động đến các yếu tố bên trong lẫn bên ngoài khi nền kinh tế thị trường thì vấn đề cạnh tranh càng gay gắt càng đòi hỏi các doanh nghiệp phải nâng cao năng lực giành phần thắng về mình.
2.2. Các công cụ cạnh tranh chủ yếu của doanh nghiệp.
a. Cơ cấu sản phẩm.
Trong cơ chế thị trường mỗi doanh nghiệp phải luôn bám sát những diễn biến của quan hệ cung cầu trên thụ trường để xác định danh mục và cơ cấu sản phẩm của mình. Trong sự tồn tại của mình thị trường luôn vận động và nảy sinh những nhu cầu mới, đặt ra những đòi hỏi mới cao hơn, khắt khe hơn với những sản phẩm tồn tại, làm mất đi sản phẩm đã lỗi thời. Sự vận động của thị trường là tự nhiên, mang tính phổ biến ở tất cả các nước trên thế giới. Đặt mình trong môi trường đa dạng và luôn vận động như vậy để tồn tại và phát triển mỗi doanh nghiệp công nghiệp luôn hoàn thiện sản phẩm đang sản xuất ngay khi chúng đang ở giai đoạn hưng thịnh. Song song với công việc ấy của môi trường kinh doanh, người kinh doanh có tầm nhìn xa phải luôn biết hoàn thiện cái đang hoàn thiện và chuẩn bị đón lấy cái mới ngay trong hiện tại, không chờ đến khi thị trường từ chối sản phẩm của mình mới lo ứng phó. Chính sự chủ động này, doanh nghiệp có được tính tích cực trong “ hướng dẫn tiêu dùng” tác động tích cực đến thị trường, tạo lợi thế so với các đối thủ cạnh tranh trên thì trường. ở những hãng trên thế giới, người ta rất chú trọng việc tung ra một sản phẩm độc đáo để chiếm lĩnh thị trường, chẳng hạn các hãng “Digital” “Jep”...luôn dẫn đầu phong trào sản xuất các sản phẩm để đáp ứng linh hoạt cho người tiêu dùng. Trong tình hình nhu cầu, thời cơ kinh doanh đa dạng, sự lựa chọn có cân nhắc của mỗi doanh nghiệp phải nhằm vào những cơ hội nào có thể nhanh chóng phát huy được lợi thế tương đối so với các doanh nghiệp khác. Như vậy, sự đa dạng và vận động của thị trường đòi hỏi mỗi doanh nghiệp phải năng động cải tiến, hoàn thiện cơ cấu sản phẩm của mình theo hướng đa dạng hoá nếu không muốn bị đào thải khỏi môi trường kinh doanh.
b. Chất lượng sản phẩm.
Chất lượng sản phẩm là yếu tố hàng đầu để thắng thế trong cạnh tranh.Mỗi sản phẩm có đặc trưng khác nhau, vấn đề chính là chất lượng sản phẩm của doanh nghiệp phải luôn đạt mức cao so với các sản phẩm cùng loại của doanh nghiệp khác và chất lượng đó luôn được giữ vững hoặc được nâng cao hơn. Kinh nghiệm thực tế cho thấy, các Công ty thành đạt trong kinh doanh đều là các Công ty có thái độ giống nhau đối với chất lượng sản phẩm. Nguyên tắc của họ là chất lượng sản phẩm tuyệt đối với độ tin cậy cao khi sử dụng và lòng trung thực trong quan hệ mua bán. Công ty Digital coi chất lượng là mục đích chủ yếu của hãng; họ cho rằng phát triển không phải là mục đích chủ yếu, mục đích của hãng là trở thành một tổ chức của chất lượng và thực hiện sao cho hãng có thể tự hào về sản phẩm của mình, một khi đạt được chất lượng thì sự phát triển tự nó sẽ đến. Như vậy chất lượng đóng vai trò quan trọng trong khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp, quyết định sự tồn tại của doanh nghiệp trên thị trường. Nhờ tăng chất lượng sản phẩm, dịch vụ vị thế doanh nghiệp ngày càng được củng cố và mở rộng, uy tín, danh tiếng tăng giúp doanh nghiệp thu hút được nhiều khách hàng, tăng doanh thu, tăng sản xuất, tạo điều kiện cho cải tiến sản đổi mới sản phẩm làm cho chúng ngày càng thích ứng với mong đợi của khách hàng. Nâng cao chất lượng là biện pháp hữu hiệu kết hợp các loại lợi ích của doanh nghiệp, người tiêu dùng và người lao động tạo động lực mạnh mẽ cho sự phát triển của doanh nghiệp trong tương lai, tăng chất lượng sản phẩm đồng nghĩa với tăng năng suất lao động xã hội, tăng chất lượng dẫn đến tăng giá trị sử dụng và lợi ích kinh tế xã hội trên một đơn vị đầu vào, giảm nguyên liệu sử dụng, tiết kiệm tài nguyên, giảm vấn đề về ô nhiễm môi trường.
Nâng cao chất lượng sẽ giảm chi phí do giảm phế phẩm công việc phải sửa chữa, sử dụng tốt hơn nhiều, máy móc thiết bị, mở rộng thị trường nhờ chất lượng cao hơn và giới thiệu tốt hơn, phát triển sản xuất đảm bảo việc tăng thu nhập cho người lao động.
Tóm lại, chất lượng hàng hoá là yếu tố cạnh tranh được nhìn nhận theo quan điểm tổng hợp. Đây là bài toán đòi hỏi có lời giải riêng của từng tổ chức cung cấp hàng hóa dịch vụ. Khó hay dễ, câu trả lời cũng rút ra từ những lời giải riêng mà thôi.
c. yếu tố giá cả
Trong doanh nghiệp chiến lược giá cả là thành viên thực sự của chiến lược sản phẩm, và cả hai chiến lược này lại phụ thuộc vào mục tiêu chiến lược của doanh nghiệp. Định giá có ý nghĩa cực kỳ quan trọng vì nó là yếu tố quyết định sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Giá của sản phẩm trên thị trường được hình thành thông qua quan hệ cung cầu. Người bán và người mua thoả thuận mặc cả với nhau để đi tới một mức giá cuối cùng cả hai bên cùng có lợi. Giá cả đóng vai trò quan trọng trong quyết định mua hoặc không mua của khách hàng: Khách hàng cần giá thành sử dụng của hàng hoá dịch vụ đó cho nên khách hàng chỉ chọn mua những hàng hoá có chất lượng sản phẩm tương đương nhưng giá thấp hơn số hàng hoá dịch vụ cùng loại. Vì vậy các doanh nghiệp phải làm sao để sản xuất ra những hàng hoá dịch vụ có mức chất lượng thoả mãn khách hàng vừa khống chế giá thành phải dưới giá bán càng nhiều càng tốt. Tính quy luật chung của cầu hàng là khi giá cao thì ít người mua và giá hạ thì nhiều người mua. Giá hạ sẽ khuyến khích người ta mua thêm và người ít tiền cần có thể mua được mức cầu tăng lên, do vây không phải căn cứ bán giá cao là thu được lợi nhuận cao hoặc ngược lại không phải cứ bán giá thấp là lợi nhuận giảm. Doanh nghiệp phải tính toán nhiều phương án định giá ứng với mỗi giá là một lượng cầu. Từ các phương án này ta chọn ra phương án có thể thu được lợi nhuận nhất.
Như vậy, với một mức giá phù hợp doanh nghiệp sẽ tạo được chỗ đứng của mình trên thị trường, làm sức mạnh để phát triển sức cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường và lợi thế với các đối thủ cạnh tranh.
d, Mạng lưới tiêu thụ sản phẩm.
Mục tiêu của tiêu thụ sản phẩm là phát triển cầu sản phẩm của doanh nghiệp nhằm ngày càng bán được nhiều hàng và mở rộng sản xuất. Về hệ thống tiêu thụ sản phẩm; việc tiêu thụ được doanh nghiệp thực hiện thông qua các tổ chức tiêu thụ của doanh nghiệp trong đó kể cả các bộ phận có tính chất độc lập về kinh tế như mở cửa hàng hoặc chi nhánh của Công ty. Cũng có thể lựa chọn một trong các chỉ tiêu thụ sau:
- Cung cấp sản phẩm, dịch vụ cho người tiêu dùng.
- Bán sản phẩm, dịch vụ cho doanh nghiệp thương mại lẻ.
- Bán sản phẩm, dịch vụ cho doanh nghiệp thương mại tổng hợp bán buôn.
- Bán sản phẩm, dịch vụ cho doanh nghiệp thương mại chuyên bán buôn
Việc xác định hệ thống kênh tiêu thụ hàng hoá, dịch vụ phụ thuộc vào đặc điểm sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp cũng như đặc điểm của sản phẩm hàng hoá, dịch vụ mà doanh nghiệp muốn tiêu thụ.Thực chất khi xác định hệ thống kênh tiêu thụ doanh nghiệp đã xác định hệ thống các điểm bán hàng của mình, việc xác định này dựa trên kết quả nghiên cứu thị trường, các điểm bán hàng phải được bố trí ở vị trí thuận lợi đảm bảo thu hút được nhiều khách hàng nhất. Muốn vậy, các điểm bán hàng tư liệu sản xuất phải đảm bảo thuận tiên cho xe cộ đi lại và ra vào; các điểm bán hàng tiêu dùng phải tính đến vị trí đông dân cư, giao thông thuận tiện. Bên cạnh việc tổ chức mạng lưới bán hàng, doanh nghiệp cần đẩy mạnh các hoạt động hỗ trợ bán hàng như quảng cáo. Trong toàn bộ các biện pháp nhằm hạn chế hoặc xoá bỏ các trở ngại trên thị trường tiêu thụ, quảng cáo được coi là công cụ đóng vai trò quan trọng hướng con người vào những hoạt động nhất định, kích thích tiêu dùng sản phẩm của doanh nghiệp. Các hình thức như khuyến mại, các dịch vụ sau bán hàng, yểm trợ bán hàng... là hình thức cạnh tranh phi giá, gây sự chú ý của khách hàng tới sản phẩm của doanh nghiệp.
Hoạt động tiêu thụ tốt sẽ làm tăng sản lượng bán hàng từ đó tăng doanh thu, tăng lợi nhuận dẫn đến tốc độ thu hồi vốn nhanh, kích thích sản xuất phát triển.
Công tác tiêu thụ tốt là một trong yếu tố tăng uy tín của doanh nghiệp trên thị trường, cùng với kỹ thuật yểm trợ bán hàng như chào hàng, quảng cáo triển lãm hội chợ... các hoạt động xúc tiến bán hàng, xuất bản các tài liệu nhằm đẩy mạnh bán hàng và xuất khẩu thực hiện các dịch vụ hỗ trợ sản phẩm như bán kèm theo phụ tùng thay thế cho khách hàng mua sản phẩm của doanh nghiêp, đây là hoạt động cần thiết để đẩy mạnh bán hàng trên thị trường, là con đường đi tới chiến thắng trong cạnh tranh. Quy mô hoạt động của doanh nghiệp càng lớn thì chi phí ngay càng cao và trở thành yếu tố quan trọng cho sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp trong cuộc đua tranh trên thương trường.
e.Vị trí của doanh nghiệp trên thị trường.
Vị trí của doanh nghiệp ảnh hưởng tới khả năng cạnh tranh của sản phẩm. Vị trí của doanh nghiệp đi liền với tên tuổi nhãn hiệu sản phẩm. Mang đến cho người tiêu dùng sự tin cậy về sản phẩm, về chất lượng, giá cả mẫu mã kiểu dáng… Một doanh nghiệp được coi là có vị trí trên thị trường thì nhãn hiệu sản phẩm của doanh nghiệp đó cũng được coi là mạnh, điều đó sẽ tạo được vị thế bền vững trong cạnh tranh. Sản phẩm càng nổi tiếng thì khả năng gia tăng thị phần của nó trên thị trường ngày càng tăng.
Một doanh nghiệp mạnh với sản phẩm nổi tiếng sẽ làm cho nhân viên của Công ty có niềm tự hào, làm việc nhiệt thành hơn, cống hiến nhiều hơn cho sự thành công của doanh nghiệp. Một nhãn hiệu tốt giúp tăng giá trị của sản phẩm trên thị trường tạo lợi nhuận bền vững cho Công ty sau này; hững ích lợi của nhãn hiệu còn có tác dụng khi đến với khách hàng sẽ khắc hoạ hình ảnh của doanh nghiệp hoặc sản phẩm trong tiềm thức và tình cảm của khách hàng. Khi nhắc tới nhãn hiệu người tacó thể nghĩ ngay tới sản phẩm, những đặc trưng, ích lợi và thậm chí cả nền văn hoá của doanh nghiệp sở hữu nhãn hiệu. Nhãn hiệu tốt làm cho khách hàng không phải mất nhiều thời gian khi mua sắm ,đảm bảo tin cậy tuyệt đối. Hãng Honda là một ví dụ điển hình về vị trí của hãng trên thị trường. Người tiêu dùng không băn khoăn về chất lượng sản phẩm bởi uy tín của hãng đã đi sâu vào trong tiềm thức của mỗi người tiêu dùng. Như vậy vị trí của các doanh nghiệp trên thương trường sẽ tạo cho các doanh nghiệp được vị thế cạnh tranh.
2.3. Vai trò của cạnh tranh và sự cần thiết khách quan của việc nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp.
Cạnh tranh là rất yếu trong nền kinh tế thị trường, cội nguồn của sự cạnh tranh là sự tự do trong sản xuất kinh doanh, đa dạng hoá kiểu dáng, nhiều thành phần kinh tế, nhiều người hoạt động sản xuất kinh doanh. Cạnh tranh thực chất là cuộc chạy đua không có đích, ai cảm nhận thấy đích thì người đó trở thành nhịp cầu cho các đối thủ vượt lên phía trước.
Đối với doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường, cạnh tranh quyết định sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Cạnh tranh tạo ra động lực cho sự phát triển của doanh nghiệp, thúc đẩy doanh nghiệp tìm mọi biện pháp nâng cao hiệu quả trong sản suất kinh doanh, không ngừng đầu tư tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất đồng thời cạnh tranh buộc các doanh nghiệp phải nắm bắt thông tin kịp thời , bắt được thời cơ hấp dẫn.
Đối với ngưòi tiêu dùng nhờ có cạnh tranh người tiêu dùng có thể lựa chọn hàng hoá và dịch vụ ngày càng đa dạng phong phú với chất lượng cao hơn, phù hợp hơn với khả năng mua của họ. Cạnh tranh làm cho người tiêu dùng được tôn trọng hơn và lợi ích của họ được đảm bảo hơn vì chính những quyết định mua sắm của người tiêu dùng quyết định sự thành công hoặc thất bại cua doanh nghiệp trên thị trường.
Đối với nền kinh tế quốc dân nói chung:Cạnh tranh là môi trường, là động lực thúc đẩy sự phát triển bình đẳng của mọi thành phần kinh tế trong nền kinh tế thị trường, góp phần xoá bỏ những độc quyền, xoá bỏ những bất bình đẳng trong kinh doanh.
Cạnh tranh bảo đảm thúc đẩy sự phát triển của khoa học kỹ thuật, sự phân công lao động xã hội ngày càng tỉ mỉ và chi tiết.
Cạnh tranh làm tăng tính tháo vát và óc sáng taọ, cho các nhà doanh nghiệp, tạo ra những nhà kinh doanh giỏi, chân chính. Cạnh tranh thúc đẩy sự đa dạng hoá sản phẩm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của xã hội, kích thích nhu cầu tăng, làm nảy sinh những nhu cầu mới, góp phần nâng cao chất lượng, đời sống xã hội.
Như vậy cạnh tranh tạo được cái lợi nhất định cho các doanh nghiệp, toàn xã hội, phát huy được mặt mạnh của cạnh tranh sẽ tạo được cái thế cho doanh nghiệp đạt được mục tiêu của mình.
Với sự phát triển như vũ bảo của nên kinh tế ngày nay cùng với sự hội nhập của nền kinh tế thế giới buộc các doanh nghiệp phải chấp nhận cạnh tranh thì mới có thể tồn tại và phát triển trên thị trường. Cạnh tranh một mặt sẽ thúc đẩy sản xuất phát triển, mặt khác nó sẽ đào thải không thương tiếc những doanh nghiệp yếu thế không đủ sức cạnh tranh. Do vậy để tồn tại và phát triển các doanh nghiệp phải không ngừng phấn đấu để tìm ra các giải pháp để giảm chi phí sản xuất, giá thành sản xuất, giá bán sản phẩm, tổ chức hệ thống tiêu thụ một cách tốt nhất, đúng lúc mà vẫn bảo đảm chất lượng sản phẩm đặc biệt trong giai đoạn hiện nay.
3. Các nhân tố ảnh hưởng tới khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp.
3.1. Nhân tố khách quan.
Môi trường nền kinh tế quốc dân trong nước.
* Các yếu tố kinh tế.
Trong môi trường kinh doanh các yếu tố kinh tế dù ở bất kỳ cấp độ nào cũng có vai trò quan trọng và quyết định hàng đầu, bởi lẽ sự hình thành hệ thống tổ chức quản lý và các thiết chế của hệ thống đó có ảnh hưởng trực tiếp và quyết định đến chiều hướng và cường độ của các hoạt động kinh tế trong nền kinh tế nói chung cũng như trong từng ngành, từng vùng và từng doanh nghiệp nói riêng.
Các nhân tố kinh tế bao gồm trạng thái phát triển của nền kinh tế, tỉ lệ lạm phát, tỷ giá hối đoái, lãi suất ngân hàng, các chính sách kinh tế của Nhà nước ...
Các nhân tố trong môi trường nền kinh tế quốc dân tương đối rộng, nó ảnh hưởng đế nhiều mặt, nhiều ngành nhiều lĩnh vực của đời sống kinh tế, do đó các doanh nghiệp, cần chọn lọc các ảnh hưởng. (Trong thực tế ngoài các phương pháp phân tích được áp dụng, có thể áp dụng các phương pháp dự báo phù hợp).
* Các nhân tố chính trị và pháp luật
Các yếu tố chinh trị và pháp luật là nền tảng quy định các yếu tố khác của môi trường kinh doanh. Có thể nói quan điểm đường lối chính trị nào, hệ thống pháp luật và chính sách nào sẽ có môi trường kinh doanh đó. Nói cách khác quan điểm đường lối chính trị, hoạt động của cơ quan Nhà nước có thể tạo ra thời cơ hoặc cản trở hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Đường lối mở cửa của Đảng và Nhà nước ta đã tạo ra nhiều điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp nước ta và các đối tác Nhà nước phải gặp gỡ, trao đổi, tham quan tìm hiểu cơ hội đầu tư và thiết lập các mối quan hệ hợp tác, liên doanh liên kết kinh tế.
*Các yếu tố về kỹ thuật – công nghệ.
Trong môi trường kinh doanh, các nhân tố về kỹ thuật- công nghệ có vai trò quan trọng, ngày càng quyết định. Tiến bộ kỹ thuật và công nghệ ảnh hưởng một cách trực tiếp và quyết định đến hai yếu tố tạo nên khả năng cạnh tranh của các sản phẩm và dịch vụ trên thị trường đó là chất lượng và giá bán của các sản phẩm đó. Do đó nó có tác động đến thị trường, nhà cung cấp, đến khách hàng, quá trình sản xuất và vị thế cạnh tranh của các doanh nghiệp trên thị trường các ảnh hưởng còn hiện diện khá rõ nét trong lĩnh vực thu thập, xử lý, lưu trữ và truyền đạt thông tin kinh tế xã hội phục vụ cho hoạt động kinh doanh và việc tạo ra các điều kiện phát triển kinh doanh với tốc độ cao, bền vững và bảo vệ môi trường sinh thái.
* Các nhân tố về văn hoá - xã hội.
Các nhân tố về văn hoá - xã hội ảnh hưởng một cách chậm chạp, song cũng rất râu sắc đến môi trường kinh doanh, sự xung đột về văn hoá - xã hội, lợi ích trong qúa trình mở của và hội nhập đã đặt các yếu tố này ở vị trí quan trọng trong các yếu tố chung của môi trường kinh doanh hiện nay.
Trong thực tế các vấn đề về phong tục tập quán, lối sống, trình độ dân trí, tôn giáo, tín ngưỡng... có ảnh hưởng sâu sắc đến cơ cấu của thị trường. Chẳng hạn, kết cấu dân cư và trình độ dân trí có ảnh hưởng hầu hết đến thẩm mỹ thị hiếu…tiếp đó đòi hỏi về mẫu mã chủng loại, màu sắc.
Nguyên tắc “cùng có lợi” đã buộc các đối tác trong quá trình kinh doanh, trong hợp tác, liên doanh và liên kết kinh tế phải thực hiện quá trình dung hoà lợi ích. Sự khác biệt về quan điểm kinh doanh, về trình độ, về dân tộc... có thể tạo ra các cản trở hoặc thuận lợi khi dung hoà lợi ích. Vì vậy, trong kinh doanh đòi hỏi phải khéo léo phân chia ích lợi thành hai loại để thực hiện quá trình dung hoà có hiệu quả.
*Các yếu tố về tự nhiên.
Trong thực tế, các yếu tố tự nhiên có thể tạo ra các thuân lợi hoặc khó khăn ban đầu đối với hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, của ngành kinh doanh, thậm chí cho sự kinh doanh của một quốc gia. Tuy vậy, các cơ hội hoặc bất lợi do các yếu tố tự nhiên gây ra chỉ trong thời gian và không gian nhất định, vượt qua giới hạn đó các yếu tố này sẽ không còn ảnh hưởng lớn. Kinh nghiệm lịch sử cho thấy Nhật Bản bị thiệt hại nặng nề sau đại chiến lần thứ hai và là một trong số các quốc gia nghèo tài nguyên thiên nhiên trên thế giới, song các khó khăn đó chỉ làm chậm chứ không thể cản trở Nhật Bản vươn lên thành một quốc gia hùng mạnh về kinh tế, không thể cản trở các Công ty sản xuất ôtô, môtô, hàng điện tử… hàng đầu của Nhật Bản như Mitsubishi, Hon da,Toyota, JVC, Sony, Panasonic…vươn lên thành các Công ty sản xuất ôtô và hàng điện tử hàng đầu thế giới.
b. Môi trường cạnh tranh nội bộ ngành.
*Khách hàng.
Khách hàng là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến kinh doanh của doanh nghiệp. Vì về thực chất khách hàng là thị trường của doanh nghiệp, số lượng, kết cấu khách hàng, quy mô nghiên cứu, động cơ mua hàng, thị hiếu, yêu cầu của họ …là yếu tố cần phải tính đến trong hoạch định kinh doanh. Mặt khác mối quan hệ khách hàng, doanh nghiệp và các đối thủ cạnh tranh chi phối đến nhiều mặt của hoạt động kinh doanh, thậm chí tạo ra yêu cầu phải thay đổi chiến lược.
* Số lượng các doanh nghiệp trong ngành và các doanh nghiệp tiềm ẩn.
Số lượng doanh nghiệp và quy mô sản xuất- kinh doanh của chúng ảnh hưởng đến khả năng cung cấp hàng hoá và dịch vụ của ngành và mức độ gay gắt của cuộc cạnh tranh nội bộ ngành. Thứ đến, sự hợp tác chống lại sự thâm nhập của các doanh nghiệp mới vào ngành và sự hợp tác chống cạnh tranh của hàng hoá nhập khẩu, các thông tin về các đối thủ cạnh tranh và tình hình thị trường … là đặc biệt quan trọng khi hoạch định chiến lược.
*Số lượng và sức ép của các nhà cung cấp, các yếu tố đầu vào phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp ảnh hưởng lớn đến môi trường cạnh tranh nội bộ ngành. Số lượng đông đảo các nhà cung cấp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau là thể hiện sự phát triển thị trường các yếu tố đầu vào. Thị trường càng phát triển bao nhiêu càng tạo ra khả năng lớn cho sự lựa chọn các yếu tố đầu vào tối ưu bấy nhiêu.
Mặt khác sức ép của các nhà cung cấp cũng có thể tạo ra nhiều thuận lợi hoặc khó khăn cho các nhà sản xuất kinh doanh. Sức ép này sẽ gia tăng trong các trường hợp như sau:
- Một số Công ty độc quyền cung cấp.
- Không có sản phẩm thay thế.
- Nguồn cung ứng trở nên khó khăn.
- Nhà cung cấp bảo đảm yếu tố đầu vào quan trọng nhất cho doanh nghiệp.
* Sức ép của sản phẩm thay thế.
Trong nền kinh tế thị trường, sản phẩm thay thế ra đời là một đòi hỏi tất yếu nhằm đáp ứng sự thay đổi nhu cầu của thị trường ngày càng biến động nhanh theo hướng đa dạng hơn, phong phú hơn và ngày càng cao cấp hơn. đòi hỏi về sản phẩm thay thế hoặc sức ép của các sản phẩm thay thế có thể tạo thuận lợi cho nhóm doanh nghiệp này và gây khó khăn thậm chí tổn thất cho nhóm doanh nghiệp khác.
Sản phẩm thay thế thường có sức canh tranh mạnh hơn sản phẩm bị thay thế. Tuy vậy, đối với các sản phẩm bị thay thế cần tiếp tục phát triển kinh doanh theo hai hướng.
- Đầu tư đổi mới kỹ thuật – công nghệ, nâng cao chất lương sản phẩm để cạnh tranh bình đẳng với các sản phẩm thay thế.
- Sự phát triển của hoạt đông môi giới, hoạt đông tư vấn kinh doanh.
Trong nền kinh tế thị trường các hoạt động nay được pháp luật công nhận và tạo môi trường pháp lý thuận lợi cho hoạt động. Hoạt động tư vấn môi giới kinh doanh càng phát triển bao nhiêu càng làm cho thi trường thêm thông suốt và làm cho môi trường kinh doanh thêm thuận lợi.
3.2. Các yếu tố chủ quan.
Đây là nhân tố bên trong tác động mạnh tới quá trình hoạt đông kinh doanh của doanh nghiệp quyết đinh khả năngcạnh tranh của doanh nghiệp.
a. Cơ sở vật chất kỹ thuật của doanh nghiệp.
Một hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại cùng với một công nghệ tiên tiến phù hợp với quy mô sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp chắc chắn sẽ làm tăng sức cạnh tranh của Công ty. Một hệ thống cơ sở vững chắc hiện đại sẽ nâng cao chất lượng sản phẩm từ đó hạ giá thành sản phẩm tăng sức cạnh tranh tương đối so với sản phẩm khác ảnh hưởng rất lớn tới hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp tạo điều kiện đưa sản phẩm của doanh nghiệp xâm nhập vào thị trường, chiếm lĩnh thị trường và khách hàng.
b. Marketing.
Marketing là nội dung đầu tiên của việc phân tích và đánh giá được khả năng bên trong của doanh nghiệp. Marketing liên quan và được quyết định bởi một số vấn đề như chủng loại sản phẩm, sản phẩm và chất lượng sản phẩm, thị phần, giá sản phẩm, niềm tin của khách hàng đối với sản phẩm, chất lượng và chi phí phân phối hàng hoá, hiệu quả quảng cáo và xúc tiến bán hàng.
Hoạt động Marketing tốt đánh gía được khả năng riêng biệt của doanh nghiệp về mức độ thích ứng của sản phẩm với nhu cầu thị trường và vị thế của doanh nghiệp trên thị trường.
c.Khả năng sản xuất, nghiên cứu và phát triển.
Đây là nhân tố bên trong quan trọng của mỗi doanh nghiệp. Nhờ bộ máy sản xuất thích ứng mới có thể tạo ra những sản phẩm có khả năng đáp ứng nhu cầu đa dạng của thị trường. Mặt khác, khả năng sản xuất, nghiên cứu và phát triển liên quan trực tiếp đến vấn đề chất lượng và chi phí sản xuất sản phẩm, đó là hai ưu thế cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường.
Khả năng sản xuất tập trung chủ yếu vào các vấn đề: năng lực và chất lượng sản xuất, chi phí và thời hạn sản xuất, đặc điểm sản xuất, tác động của kinh nghiệm và quy mô. Phân tích khả năng R&D hướng tới các vấn đề: phát triển sản phẩm, khả năng phát triển sản phẩm mới, tiềm năng nghiên cứu bằng sáng chế...
d. Nguồn nhân lực.
Con người._. có vị trí quan trọng trong mọi quá trình sản xuất, thông qua hoạt động của con người mà các khâu của quá trình quản lý chiến lược ( kinh doanh, tổ chức thực hiện, kiểm tra, đánh giá, được thực hiện có chất lượng cao).
Nguồn nhân lực trong doanh nghiệp bao gồm: cán bộ lãnh đạo doanh nghiệp là người có vai trò quan trọng trong quá trình chiến lược, cán bộ quản lý là người trực tiếp làm công tác chức năng và thực hành công tác quản lý sản xuất- kinh doanh; các thợ cả, nghệ nhân và công nhân có tay nghề cao.
Thực trạng về số lượng, chất lượng cơ cấu...các loại lao động hiện có trong doanh nghiệp và khả năng phát triển nguồn nhân lực là nhân tố không thể thiếu, quyết định cạnh tranh. Một doanh nghiệp mạnh là một doanh nghiệp có đội ngũ lao động sáng tạo, khả năng chuyên môn và phù hợp với yêu cầu đòi hỏi ngày càng gay gắt về nhân lực của thị trường.
e. Về cơ cấu tổ chức của doanh nghiệp.
Cơ cấu tổ chức của doanh nghiệp phù hợp với chức năng- nhiệm vụ của Công ty và bị chi phối bởi cơ cấu sản xuất- kinh doanh phản ánh thực trạng của doanh nghiệp, các mối quan hệ, lề lối làm việc... Một cơ cấu tổ chức hợp lý đồng nghĩa với điều lệ hoạt động, hệ thống nội quy, quy chế nội bộ xây dựng rõ ràng và phù hợp. Với những vướng mắc như thiếu, chưa phù hợp...các quy định đối với các bộ phận, tổ chức kinh doanh, quản lý mới ra đời, sự chồng chéo trong hệ thống nội quy, hiệu lực hoạt động của bộ máy quản lý, bầu không khí và nề nếp làm việc trong doanh nghiệp, quy định về quan hệ công tác giữa bộ máy quản lý với cơ cấu kinh tế- xã hội của doanh nghiệp ảnh hưởng đó tác động mạnh tới quá trình sản xuất- kinh doanh từ đó quyết định khả năng uy tín sản phẩm doanh nghiệp trên thị trường.
f. Tình hình tài chính của doanh nghiệp.
Đối với các Công ty kinh doanh, phân tích tình trạng tài chính doanh nghiệp có vai trò quan trọng trong quá trình chuẩn bị thông tin trong xây dựng chiến lược, vốn, nhu cầu, cơ cấu nguồn vốn, phân bổ nguồn vốn, hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trên thị trường chỉ tiêu tài chính đánh giá vị thế của doanh nghiệp trên thị trường, khả năng tài chính càng mạnh thì doanh nghiệp có khả năng trang bị các dây truyền công nghệ sản xuất hiện đại, đảm bảo chất lượng, hạ giá thành sản phẩm, mở rộng thị phần của doanh nghiệp, thu được lợi nhuận nhiều hơn.
Số vòng quay của vốn sản xuất kinh doanh
=
Doanh thu tiêu thụ
Vốn sản xuất kinh doanh
Số vòng quay của vốn lưu động
=
Doanh thu tiêu thụ
Vốn lưu động
Doanh lợi/Vốn sản xuất kinh doanh
=
Thu nhập ròng
Vốn sản xuất kinh doanh
Thể hiện nội lực bên trong của doanh nghiệp giúp doanh nghiệp đưa ra phương hướng đầu tư đúng đắn phù hợp với khả năng tài chính của doanh nghiệp đồng thời đánh giá được khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp thông qua công thức:
KN = ( TSTC * k ) - CTH + HMTD
KN : khả năng cạnh tranh
TSTC :Tổng giá trị tài sản tự có hay vốn lưu động tự có = tsc/tsn
HMTD:Mức tín dụng
K= 10 tính cho tổng vốn lưu động
CTH :Lượng vốn khách hàng chiếm dụng
Công thức trên cho thấy khi một doanh nghiệp chiếm lĩnh một lượng vốn thực có càng lớn thì càng có có khả năng cạnh tranh trên thị trường, một điều chứng tỏ vai trò tài chính rất quan trọng quyết định sức mạnh của các doanh nghiệp trên thị trường.
II. Đầu tư trong doanh nghiệp yêu cầu tất yếu để nâng cao sức cạnh tranh.
1. Đầu tư.
1.1. Khái niệm.
Đầu tư có thể được hiểu đồng nghĩa với sự hy sinh nguồn lực ở hiện tại để đạt được những kết quả có lợi cho người đầu tư trong tương lai. Trên giác độ nền kinh tế đầu tư tác động đến tổng cung , tổng cầu , sự ổn định tăng trưởng và phát triển nền kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tăng cường khả năng khoa học công nghệ của đất nước.
Xét trên giác độ của doanh nghiệp, đầu tư quy định sự ra đời, tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Đầu tư tạo điều kiện nâng cao khả năng cạnh tranh trong doanh nghiệp, nâng cao chất lượng sản phẩm, tạo điều kiện giảm chi phí trong sản xuất, tăng lợi nhuận góp phần đổi mới khoa học công nghệ, thiết bị, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của doanh nghiệp. Hay nói cách khác đầu tư nâng cao khả năng trong doanh nghiệp là hoạt động đầu tư (có thể là đầu tư tài sản cố định, cơ sở vật chất, đào tạo đội ngũ cán bộ) nhằm mục đích lấy lại vị thế của mình khẳng định và mở rộng thị phần, chiếm lĩnh thị trường.
1.2 Khái niệm và nội dung vốn đầu tư.
Vốn đầu tư là tiền tích luỹ của xã hội, của các cơ sở sản xuất, kinh doanh dịch vụ, là tiết kiệm của dân và vốn huy động từ các nguồn khác được đưa vào sử dụng trong quá trình tái sản xuất xã hội nhằm duy trì tiềm lực sẵn có và tạo tiềm lực mới cho nền sản xuất xã hội.
Nội dung của vốn đầu tư.
Các chi phí tạo ra tài sản cố định.
Các chi phí tạo ra tài sản lưu động.
Các chi phí chuẩn bị đầu tư.
Các chi phí dự phòng.
Vốn đầu tư được hình thành từ các nguồn chủ yếu:
Vốn tự có.
Vốn ngân sách, được viện trợ.
Vốn vay từ các trung gian tài chính huy động từ trong dân.
2.Vai trò của đầu tư trong hoạt động sản xuất kinh doanh và nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp.
Đầu tư quyết định sự ra đời, tồn tại và phát triển của mỗi cơ sở, bất kỳ sự ra đời của một cơ sở nào đóng góp cho sự phát triển chung của toàn xã hội cũng xuất hiện đầu tư. Đầu tư xây dựng, mua sắm máy móc thiết bị, nguyên vật liệu, thực hiện các chi phí gắn liền sự hoạt động trong một chu kỳ của các cơ sở vật chất kỹ thuật vừa tạo ra. Sau một thời gian hoạt động các cơ sở vật chất kỹ thuật bị hao mòn hư hỏng. Để duy trì được sự hoạt động bình thường cần tiến hành sửa chữa lớn hoặc thay mới các cơ sở vật chất kỹ thuật đã hư hỏng hao mòn; để thích ứng với điều kiện hoạt động mới của sự phát triển khoa học kỹ thuật và nhu cầu tiêu dùng của nền sản xuất xã hội, phải mua sắm để thay thế các trang thiết bị đó có nghĩa là đầu tư.
Trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh chỉ có đầu tư ban đầu chưa đủ, các doanh nghiệp muốn khẳng định mình trên thị trường cần phải tiếp tục đầu tư có thể đầu tư theo chiều rộng sản xuất kinh doanh, hay đầu tư theo chiều sâu thay máy móc thiết bị công nghệ phù hợp với sự tiến bộ của khoa học công nghệ. Đầu tư có nhiều khía cạnh trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp liên tục và thường xuyên quan tâm tới lĩnh vực đầu tư. Từ các hoạt động đầu tư doanh nghiệp khẳng định vị trí của mình trên thị trường, mở rộng thị phần chiếm lĩnh thị trường từ đó nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp, tạo thế mạnh so với các đối thủ khác. Đầu tư đúng lúc, đúng hướng, biết tạo ra những cơ hội đầu tư doanh nghiệp sẽ đạt được hiệu quả cao trong quá trình kinh doanh.
3. Hoạt động đầu tư trong doanh nghiệp.
3.1. Đầu tư vào nguồn nhân lực
a. Vai trò
Mối quan hệ theo chiều thuận giữa năng suất lao động và lợi nhuận của doanh nghiệp được K. Mark làm sáng tỏ trong học thuyết giá trị lao động. Theo K. Mark với cùng một lượng tiền lương(v) được xác định, nếu kéo dài thời gian lao động sẽ làm tăng giá trị do người công nhân tạo ra (Vm) do đó tăng giá trị thặng dư Vm, tuy nhiên thời gian lao động không thể kéo dài được, vì vậy tăng năng suất lao độnglà phương pháp tối ưu để tạo ra giá trị thặng dư cao.
Trên cơ sở đầu tư đúng hướng và có hiệu quả, doanh nghiệp sẽ nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ năng người lao động phát huy tối đa khả năng của mình trong công việc. Đầu tư cho nguồn nhân lực là một hoạt động hỗ trợ doanh nghiệp trong việc thực hiện mục tiêu cơ bản của mình là lợi nhuận. Đầu tư vào nguồn nhân lực là phương tiện để khai thác và sử dụng có hiệu quả nguồn lực, là nhân tố khẳng định giá trị vô hình của tổ chức thực hiện mục tiêu kinh doanh.
b.Hình thức đầu tư
Đầu tư nguồn nhân lực được thực hiện bởi các hình thức thực hiện chế độ tiền lương, tiền thưởng, đầu tư cho cải thiện môi trường làm việc của người lao động, đầu tư cho công tác thi đua khen thưởng. Các hoạt động đầu tư đó đảm bảo lợi ích của người lao động, làm cho người lao động nhận thấy được lợi ích của mình gắn bó chặt chẽ với lợi ích của doanh nghiệp.
- Đầu tư vào công tác đào tạo
Đào tạo quyết định phẩm chất chính trị, năng lực quản lý trình độ tay nghề. Đào tạo của doanh nghiệp có thể lựa chọn đào tạo bên ngoài do các tổ chức chuyên trách đảm nhận hay tổ chức các khoá đào tạo nội bộ.
Đối tượng đào tạo:
+Đào tạo cho lực lượng cán bộ quản lý, cán bộ chuyên môn: Việc đào tạo thông qua chi phí tham gia hội thảo, tham quan thực tế, đào tạo ngắn hạn dài hạn các nghiệp vụ quản lý…làm cho họ năng động, sáng tạo trong công việc, trong các tình huống khó khăn, nâng cao trình độ nhận thức để đáp ứng trên thị trường.
+ Đào tạo cán bộ nghiên cứu khoa học là cấp bách cho các doanh nghiệp vì họ sẽ là người đem tri thức mới và đưa tiến bộ khoa học kỹ thuật vào hoạt động sản xuất kinh doanh, góp phần không ngừng cho sự lớn mạnh của doanh nghiệp.
+ Đào tạo nâng cao tay nghề cho công nhân: đây là lực lượng chịu ảnh hưởng mạnh của công tác đào tạo cả về chất lượng và số lượng. Quá trình đào tạo được diễn ra ở trường đào tạo cũng có thể đào tạo trong quá trình sản xuất.
Đầu tư cho quỹ lương, công tác khen thưởng và đảm bảo lợi ích cho người lao động.
Trong cơ chế thị trường tiền lương được coi là giá cả sức lao động, vì vậy áp dụng chế độ trả lương cho người lao động là hợp với nguyên tắc phân phối theo lao động, sẽ là động lực kích thích mạnh mẽ, tạo động cơ cho họ làm việc có hiệu suất cao. Đầu tư vào quỹ lương bằng cách tăng quỹ lương sẽ làm cho người lao động làm việc tốt hơn, năng suất cao hơn. Việc đầu tư theo tiền lương phải trong điều kiện đầu tư phát triển của doanh nghiệp tăng, tức là cuộc đầu tư phải đem lại lợi nhuận trên cơ sở đó doanh nghiệp sẽ tiếp tục trích lợi nhuận để đầu tư.
Làm tốt công tác khen thưởng là một động lực cho người lao động làm việc. Doanh nghiệp cần có những quy định về thưởng phạt đối với người lao động nhằm khuyến khích họ làm việc. Có thể thưởng theo thành tích, thưởng theo phần công việc xuất sắc về thời gian, chất lượng công việc, tiết kiệm vật liệu tăng năng suất, hoa hồng bán hàng kết hợp lương với thưởng. Các khoản đầu tư khen thưởng được lấy từ các khoản khen thưởng phúc lợi, hàng năm doanh nghiệp trích lợi nhuận để lại cho quỹ lương này. Việc đầu tư cho khen thưởng khuyến khích người lao động làm việc tốt hơn, từ đó nâng cao chất lượng đội ngũ lao động và tinh thần trách nhiệm trong công việc.
Ngoài lương thưởng, người lao động muốn được hưởng thêm những sự quan tâm khác, đó chính là lợi ích của người lao động như chế độ BHXH cho người lao động, trợ cấp ốm đau, thai sản…Các lợi ích này có tác dụng động viên, khích lệ giữ nhân viên cho tổ chức, tăng cường kỹ luật lao động.
Như vậy, đầu tư vào nguồn nhân lực là vấn đề cần thiết đối với mỗi doanh nghiệp. Điều kiện lao động thuận lợi sẽ tạo điều kiện bảo đảm sức khoẻ và nâng cao khả năng làm việc của người lao động. Quan hệ lao động giữa người lao động và người sử dụng lao động ảnh hưởng khá nhiều đến chất lượng việc làm, quan hệ không tốt sẽ dẫn đến tình trạng như đình công, di chuyển lao động ra khỏi doanh nghiệp. Bởi vậy, đầu tư phải cải thiện được điều kiện làm việc và quan hệ lao động thì mới có hiệu quả.
3.2. Đầu tư vào hàng dự trữ.
a.Vai trò dự trữ hàng hoá.
Hàng dự trữ bao gồm các nguyên vật liệu, bán thành phẩm, dụng cụ, phụ tùng, thành phẩm tồn kho...
Hàng dự trữ là một trong những tài sản có giá trị lớn trong doanh nghiệp. Thông thường giá trị hàng dự trữ của các doanh nghiệp chiếm 40 – 50% tổng giá trị tài sản của các doanh nghiệp. Chính vì vậy, việc quản lý, kiểm soát tốt hàng dự trữ có một ý nghĩa quan trọng nó góp phần đảm bảo cho quá trình sản xuất tiến hành liên tục, tránh đứt quãng trên dây truyền sản xuất, đảm bảo sản xuất đáp ứng nhanh nhu cầu người tiêu dùng trong bất kỳ tình huống nào, doanh nghiệp có ý định tăng dự trữ. Tuy nhiên, doanh nghiệp lại phải tốn thêm chi phí khác cho dự trữ.
Tuỳ theo các loại hình doanh nghiệp khác nhau mà các loại hàng dự trữ cũng khác nhau, nội dung hoạch định, kiểm soát hàng dự trữ cũng khác nhau.
Đối với lĩnh vực buôn bán, doanh nghiệp mua hàng để bán kiếm lời, hay dự trữ của họ chủ yếu là hàng mua về và hàng chuẩn bị đến tay người tiêu dùng. Khi nghiên cứu về hàng dự trữ ta thường giải quyết vấn đề:
- Lượng đặt hàng bao nhiêu là tối ưu.
- Thời điểm đặt hàng.
b. Chi phí dự trữ.
b.1 Chi phí đặt hàng:
Là các chi phí có liên quan đến việc thiết lập đơn đặt hàng gồm các chi phí tìm nguồn hàng, thực hiện quy trình đặt hàng (giao dịch, ký kết hợp đồng, thông báo qua lại) và các chi phí chuẩn bị và thực hiện chuyển hàng đến kho của doanh nghiệp.
b.2. Chi phí tồn trữ hàng dự trữ:
Là chi phí phát sinh và thực hiện hoạt động hàng tồn trữ. Các chi phí được liệt kê theo bảng dưới đây.
Nhóm chi phí:
Chi phí về nhà cửa và kho tàng.
Tiền thuê và khấu hao nhà cửa.
Chi phí cho bảo hiểm nhà kho, kho hàng.
Chi phí cho thuê nhà đất.
Chi phí sử dụng thiết bị, phương tiện.
Tiền thuê và khấu hao dụng cụ, thiết bị.
Chi phí năng lượng.
Chi phí vận hành thiết bị.
Chi phí nhân lực cho hoạt động giám sát quản lý.
Phí tổn cho việc đầu tư vào hàng dự trữ.
Thuế đánh vào hàng dự trữ.
Chi phí cho việc vay mượn.
Bảo hiểm cho hàng dự trữ.
Thiệt hại của hàng dự trữ do mất mát, hư hỏng hoặc không sử dụng được.
c. Nguyên nhân về tăng chi phí dự trữ.
Nguyên nhân về lao động, thiết bị nguồn vật tư của nguồn cung ứng không đảm bảo các yêu cầu, do đó sản lượng sản xuất ra không đạt yêu cầu chất lượng.
Thiết kế công nghệ, kỹ thuật sản phẩm không chính xác.
Không nắm chắc yêu cầu của khách hàng.
Thiết lập các mối quan hệ không chặt chẽ giữa các khâu.
Hệ thống cung cấp chưa đảm bảo đúng yêu cầu hàng dự trữ (gây mất mát, hư hỏng).
3.3. Đầu tư vào tài sản cố định máy móc thiết bị và công nghệ.
Máy móc thiết bị là tài sản cố định của mỗi doanh nghiệp, là tiền đề để hoạt động sản xuất kinh doanh. Máy móc thiêt bị và công nghệ quyết định chất lượng sản phẩm, quyết định giá thành sản phẩm từ đó quyết định khách hàng và sự chiếm lĩnh của doanh nghiệp trên thị trường dẫn tới đánh giá khả năng cạnh tranh của một doanh nghiệp. Ngược lại, công nghệ lạc hậu dẫn đến năng suất thấp, tiêu hao nguyên vật liệu và năng lượng cao gây ô nhiễm môi trường và cuối cùng là sản xuất ra sản phẩm không thoả mãn nhu cầu thị trường về giá cả và chất lượng.
Theo điều tra của thống kê cho thấy tình trạng của các doanh nghiệp công nghiệp biểu hiện:
Thiết bị sử dụng ở nhiều doanh nghiệp đã quá cũ, thậm chí có những thiết bị đã sử dụng trên 30 năm chưa được đổi mới. Hệ số khấu hao thiết bị lớn, bình quân đến 33,5% các doanh nghiệp Nhà nước đến 46,9%.
Mức độ tự động hoá thấp, điều tra 9,314 doanh nghiệp công nghiệp cho thấy tỷ lệ tự động hoá chỉ còn 1,88%; trình độ bán tự động 19,63%; trình độ cơ khí 26,57%; trình độ bán dẫn cơ khí 37,73%; trình độ thủ công 16,19%. Điều nàycó nghĩa tỷ lệ sản xuất bán cơ khí và thủ công còn chiếm đến >50%. Doanh nghiệp nước ngoài tỷ lệ này là 10% và tỷ lệ tự động hoá cao hơn. nguyên nhân này chủ yếu do các khó khăn như các nhà quản lý chưa thực sự có quyết tâm việc đổi mới công nghệ; các nhà quản lý này thường bảo thủ sợ quyết định mạo hiểm. Nhiều doanh nghiệp coi trọng hoạt động nghiên cứu và phát triển sản phẩm nhằm thoả mãn nhu cầu của khách hàng, nhưng lại gặp nhiều khó khăn trong tiếp thi, từ khâu nghiên cứu thi trường, phát triển sản phẩm, giá cả, kênh tiêu thụ và xúc tiến tiền mặt. Do đó, thường không đem ra được một kế hoạch đầu tư đổi mới công nghệ có tính chiến lược. Khả năng yếu kém trong các doanh nghiệp chính là nguyên nhân của sự trì trệ trong đổi mới công nghệ. Do thiếu nhiều nguồn lực giỏi về công nghệ, nhiều giám đốc phụ trách kinh tế trong doanh nghiệp cũng chưa đáp ứng yêu cầu của tiến bộ công nghệ hiện đại. Nhiều doanh nghiệp thiếu thông tin về công nghệ đã hạn chế những đổi mới về công nghệ, nhiều doanh nghiệp đã nhập về những thiết bị lỗi thời không phù hợp không sử dụng được hoặc sử dụng không có hiệu quả, khó khăn trong việc huy động nguồn tài chính là nguyên nhân trực tiếp của tình trạng đổi mới công nghệ.
Những nguyên nhân trên khiến nhiều doanh nghiệp Nhà nước trở nên lạc hậu không theo kịp với công nghệ tiến ảnh hưởng tới khả năng cạnh tranh sản phẩm trong nước cũng như sản phẩm của nước ngoài.
Bên cạnh đó những bài học của việc đổi mới công nghệ trang thiết bị máy móc mà không có tính toán, gây lãng phí nhiều cho nên việc đổi mới thiết bị là cần thiết nhưng mặt khác phải tính toán đến hai yếu tố là số lượng và giá trị đầu tư đối mới thiết bị. Chắc chắn việc mua sắm thiết bị mới, xây dựng nhà xưởng mới cho phù hợp với yêu cầu mong muốn doanh nghiệp sẽ có giá trị tài sản tăng, giá thành cao dần dẫn tới giá bán cao. Ví dụ nhà máy gạch Thạch Bàn đầu tư thiết bị của Italia hiện đại thì giá bán buộc phải cao hơn gạch Đồng Tâm Sài Gòn (180.000đ/m2- 102.000đ/m2 ).
Do vậy việc chọn máy móc phù hợp với doanh nghiệp, phù hợp với yêu cầu khách hàng là vô cùng quan trọng tuyệt đối không mua máy móc thiết bị mới một cách ồ ạt tìm mọi cách để đổi mới được thiết bị mới và hiện đại bằng mọi giá. Tuyệt đối không được thiết kế hoặc đặt mua hệ thống thiết bị có công suất lớn hơn khả năng sản xuất và tiêu thụ mà nên đặt công suất thiết bị bằng hoặc nhỏ hơn khả năng sản xuất và tiêu thụ chi phí khấu hao sẽ hợp lý cho sản phẩm sau đó tăng dần, kinh nghiệm của một số doanh nghiệp như Công ty dệt may Tixgamex(TP HCM) phải có phương châm tìm được đầu ra trước khi đầu tư công nghệ, biện pháp này phát huy tối đa hiệu quả của của công nghệ nhập.
3.4. Đầu tư theo chiều rộng đa dạng hoá sản phẩm và chuyên môn hoá sản phẩm.
Với tác động của cuộc cách mạng khoa học công nghệ và quy luật cạnh tranh trên thị trường, nhiều doanh nghiệp đã phải sử dụng ngày càng rộng rãi các hình thức đa dạng hoá sản xuất, quá trình đó đã đem lại những giá trị bổ sung khiến các doanh nghiệp phát triển khá linh hoạt nhạy cảm và có độ đề kháng cao trong cạnh tranh. Chính vì vậy, đa dạng hoá sản xuất được coi là một trong những chiến lược kinh doanh khá phổ biến giúp các doanh nghiệp chẳng những trụ đứng mà ngày càng phát triển trên con đường sản xuất kinh doanh. Như vậy thực chất của đa dạng hoá ở đây là gì ? sự thể hiện các phương hướng sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp phát triển theo hướng nâng cao trình độ chuyên môn hoá, chỉ tập trung vào thực hiện những công việc cùng loại nhất định, sản xuất một loại sản phẩm hoặc các loại sản phẩm đồng dạng, sản xuất bộ phận, chi tiết của sản phẩm, thực hiện một hoặc một số giai đoạn của quá trình công nghệ sản xuất sản phẩm, điều này có lợi trong chỉ đạo, tổ chức sản xuất nâng cao trình độ chuyên môn của người lao động. Đa dạng hoá sản xuất liên quan tới việc xác định phương hướng hoạt động của doanh nghiệp đồng thời liên quan tới quá trình tổ chức hoạt động kinh doanh. Quá trình đa dạng hoá là quá trình kết hợp các yếu tố sản xuất về không gian và thời gian. Đa dạng hoá sản xuất có quan hệ hữu cơ với các hình thức tổ chức sản xuất khác, trước hết với chuyên môn hoá đó là xuất phát điểm để tiến hành đa dạng hoá. Nói cách khác đa dạng hoá phải được thực hiện trên cơ sở nền tảng chuyên môn hoá ban đầu của doanh nghiệp. Bất kỳ một doanh nghiệp nào khi mới hoạt động cũng xác định được lĩnh vực hoạt động trung tâm, từ lĩnh vực trung tâm đó doanh nghiệp sẽ thiết kế lựa chọn công nghệ và thiết bị phù hợp. Trong quá trình phát triển doanh nghiệp sẽ nắm bắt các cơ hội kinh doanh để mở sang lĩnh vực hoạt động khác, trong thực tế chúng ta thấy có nhiều doanh nghiệp khi đăng ký kinh doanh thường đăng ký đa lĩnh vực hoạt động song trong đó bao giờ có lĩnh vực hoạt động trung tâm, tạo nền tảng cho sự phát triển của nó.
Trong nền kinh tế thị trường ngày nay bất cứ một doanh nghiệp nào cũng cần xác định cho mình một ngành nghề trung tâm để từ đó đa dạng hoá sản phẩm, tuy nhiên việc đầu tư đa dạng hoá luôn phải được tính toán kỹ. Chuyên môn hoá phải luôn là hướng phát triển chủ đạo của doanh nghiệp ngay cả lĩnh vực đa dạng hoá. điều này có nghĩa các bộ phận được tạo lập từ đa dạng hoá, hoạt động phải vươn lên đến độ nhất định với lượng sản phẩm đạt trên mức hoà vốn tạo điều kiện sử dụng hết năng lực thiết bị và người lao động có chuyên môn sản xuất vào những hoạt động ổn định nhất định, nếu không bảo đảm được điều kiện này sẽ dẫn đến tình trạng nhàm chán kém hiệu qủa, sản phẩm sản xuất ra kém sức cạnh tranh trên thị trường. Do đó khi thực hiện đa dạng hoá người ta thường thiết lập những bộ phận sản xuất mới với những dự án được tính toán kỹ lưỡng như việc thành lập một doanh nghiệp mới. Trong dự án này phải tính toán đến nhu cầu, khả năng đảm bảo nguồn lực phải tính rõ các hướng kinh tế- xã hội có thể đạt được. Tìm hiểu những khả năng có thể gặp để khắc phục.
Quá trình thực hiện đa dạng hoá sản phẩm mang lại những khả năng tích cực nhất định, đa dạng hoá sản xuất là giải pháp tích cực, góp phần nâng cao hiệu quả kinh tế bảo đảm việc làm và thu nhập cho xã hội. Nâng cao hiệu quả kinh tế của các hoạt động sản xuất kinh doanh là mục tiêu trung tâm của công tác quản lý doanh nghiệp, trong từng doanh nghiệp hiệu quả đạt được là tất cả tiềm lực huy động và sử dụng cho việc thực hiện cơ cấu sản phẩm đã xác định. Trong thực tế, hiện tượng có tính phổ biến là các nguồn lực của doanh nghiệp không sử dụng hết mức thực tế mà thường nằm dưới giới hạn khả năng sản xuất. Việc đa dạng hoá sản xuất trên cơ sở nguồn lực sẵn có là cần thiết. Doanh nghiệp tự tạo tiền đề cần thiết để phát triển năng lực sản xuất của mình, ổn đinh và nâng cao đời sống cho người lao động và góp phần thoã mãn những nhu cầu đa dạng hoá của xã hội.
4. Những nhân tố tác động đến đầu tư của doanh nghiệp.
4.1. Doanh thu của doanh nghiệp.
Đầu tư sẽ đem lại những doanh thu cho bất cứ doanh nghiệp nếu nó cho phép doanh nghiệp đó bán được nhiều hàng hơn. Vì nếu đầu tư doanh nghiệp sẽ mở rộng quy mô sản xuất, sản lượng hàng hoá sản xuất ra sẽ nhiều hơn và doanh nghiệp có khả năng bán được nhiều hàng hơn, từ đó sẽ tăng doanh thu cho doanh nghiệp.
Tốc độ đầu tư phụ thuộc vào tốc độ sản lượng: khi sản lượng tăng mức đầu tư tăng, khi sản lượng giảm mức đầu tư giảm đi. Mà sản lượng tăng thường đồng nghĩa với doanh thu tăng, nghĩa là đầu tư phụ thuộc doanh thu.
4.2. Chi phí đầu tư của doanh nghiệp.
Chi phí là yếu tố quan trọng, các nhà đầu tư thường huy động tiền để mua hàng hoá vốn bằng vốn được vay, ví dụ như mua trả chậm hay mua cổ phiếu trên thị trường chứng khoán. Nhưng chi phí vốn vay là gì? Đó là lãi suất vay cần nhớ rằng lãi suất là giá phải trả trong việc sử dụng tiền vay trong một thời hạn. Để tác động tới những nhân tố này, chính phủ thường phải dùng chính sách tài khoá cụ thể là chính sách thuế hay sự đIều chỉnh tỷ lệ lãi suất có ảnh hưởng tới chi phí đầu tư. Dự án đầu tư khi lãi suất giới hạn (lãi suất vay) nhỏ hơn hệ số hoàn vốn nội bộ IRR của dự án.
4.3. Kỳ vọng.
Nhân tố thứ 3 là kỳ vọng: là niềm tin kinh doanh, tin cơ hội đầu tư. Nếu doanh nghiệp dự đoán tình hình kinh tế tương lai ở Việt Nam xấu đi họ sẽ giảm đầu tư. Ngược lại khi môi trường đầu tư thuận lợi, tiềm ẩn sự phát triển thì các doanh nghiệp sẽ có khả năng mở rộng sản xuất.
Ngoài ra các nhân tố trên còn nhiều nhân tố khác như cơ hội, tài chính, lãi suất, thuế ảnh hưởng tới đầu tư. Việc xác định các nhân tố ảnh hưởng tới đầu tư để từ đó có một dự án đầu tư thích hợp là kinh nghiệm của doanh nghiệp.
5. ảnh hưởng của việc đầu tư tới khả năng cạnh tranh của Công ty
Theo luật doanh nghiệp do Quốc hội thông qua ngày12/6/99. Mục đích của doanh nghiệp là thực hiện các hoạt động kinh doanh, có nghĩa là “Thực hiện một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lời ”.
Như vậy, có thể khẳng định sinh lời, làm giàu cho cá nhân hoặc một vài người sở hữu là mục đích trước mắt và lâu dài của doanh nghiệp. Trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của mình, mỗi doanh nghiệp dựa trên những căn cứ về thị trường và tiềm năng của doanh nghiệp, đều cố gắng xây dựng cho mình một chiến lược phát triển khả thi nhất, phát huy tiềm năng vốn có, khắc phục những yếu điểm chủ quan và khách quan, chiến lược phát triển được xây dựng nhằm thu được lợi nhuận khả thi nhất trong nền kinh tế thị trường hiện nay, khi mà các doanh nghiệp đều phải tự vươn lên, phát triển mạnh hay phá sản đều do năng lực tự thân của doanh nghiệp hay nói cách khác là khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Một doanh nghiệp có năng lực sản xuất chiếm lĩnh được thị trường được thể hiện qua 4 mặt sau:
- Khách hàng
- Sản phẩm
- Chất lượng
- Giá cả
Từ đó tăng khả năng tiêu thụ sản phẩm, tăng doanh thu, giảm chi phí, tăng khả năng chiếm lĩnh thị trường, tăng uy tín của doanh nghiệp trên thị trường , tồn tại vững chắc và an toàn.
Đầu tư trong doanh nghiệp là bộ phận của đầu tư phát triển, là việc bỏ tiền ra để tiến hành các hoạt động nhằm tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế, làm tăng tiềm lực sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Đầu tư quyết định cho sự ra đời , tồn tại và phát triển của mỗi doanh nghiệp, mỗi doanh nghiệp khi tiến hành sản xuất kinh doanh đều phải xây dựng nhà xưởng, cấu trúc hạ tầng, mua sắm và lắp đặt thiết bị, thực hiện công tác xây dựng cơ bản và thực hiện các chi phí khác gắn liền với sự hoạt động của một chu kỳ, của các cơ sở vật chất kỹ thuật vừa tạo ra. Để tiến hành hoạt động bình thường, các cơ sở này phải thường xuyên tiến hành sửa chữa lớn, hoặc thay đổi các cơ sở đã hao mòn, hư hỏng, đổi mới để thích ứng với yêu cầu của sự phát triển khoa học kỹ thuật và thay đổi trong nhu cầu tiêu dùng. Đặc biệt hiện nay khi mà ta đang đứng trước nhu cầu của hội nhập và phát triển kinh tế thì vai trò của đầu tư trong doanh nghiệp là phải làm sao để nâng cao khả năng cạnh tranh, để doanh nghiệp có thể có thể đứng vững trên thị trường và vươn ra thị trường quốc tế với nội dung sau:
Giảm chi phí sản xuất dẫn tới giảm giá thành sản phẩm
Nâng cao chất lượng sản phẩm và mở rộng năng lực sản xuất
Nâng cao chất lượng của người lao động
Từ đó nâng cao khả năng cạnh tranh cua doanh nghiệp. Như vậy đầu tư trong doanh nghiệp là tiền đề để tăng khả năng cạnh tranh, có đầu tư thì mới tạo ra được sản phẩm đáp ứng được nhu cầu của người tiêu dùng với chủng loại đa dạng phong phú, quy trình công nghệ kỹ thuật hiện đại sẽ tạo ra được các loại sản phẩm có chất lượng cao chiếm được lòng tin của khách hàng, sản phẩm sẽ được nhiều người biết đến, số lượng sản phẩm bán tăng sẽ là cơ sở để giảm giá thành, đưa sản phẩm đến tay người tiêu dùng rộng rãi trong cả nước từ đó nâng cao vị thế của doanh nghiệp trên thị trường điều này đồng nghĩa với việc tăng khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường. Vì vậy, đầu tư có vai trò quan trọng đối với khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp , là yếu tố quyết định trực tiếp tới chu kỳ sản phẩm. Một doanh nghiệp giỏi là một doanh nghiệp biết đầu tư đúng hướng, quá trình đầu tư sẽ đem lại lợi ích trực tiếp và gián tiếp cho doanh nghiệp , việc phân tích để tiến hành đầu tư sao cho có hiệu quả là mục đích của nhiều doanh nghiệp. Doanh nghiệp sẽ có khả năng vượt trội so với các đối thủ nếu biết sử dụng đúng khả năng và thực lực của mình để đầu tư.
Chương II
thực trạng về khả năng cạnh tranh và tình hình đầu tư ở Công ty pt xnk và đt VIEXIM.
I. Giới thiệu tổng quan về Công ty.
1. Quá trình hình thành và phát triển của Công ty.
Công ty PT XNK và Đầu Tư (VIEXIM) được thành lập theo quyết định số 145/QĐ- UB ngày 02/01/94 của UBND TPHN với tên ban đầu là Công ty Hoà Bình trực thuộc trung ương hội cựu chiến binh Việt Nam.
Sau đổi tên thành Công ty PTXNK và ĐT VIEXIM theo quyết định số 2122/QĐ- UB ngày 02/06/97, Công ty trở thành doanh nghiệp Nhà nước được cục tài chính doanh nghiệp quản lý về vốn, tài sản được Nhà nước cấp vốn 2 tỷ đồng. Trong quá trình hoạt động, để phù hợp với việc phát triển và mở rộng ngành nghề kinh doanh, ngày 5/9/01 Công ty VIEXIM được tiếp nhận về sở thương mại Hà Nội theo quyết định 5107/QĐ- UB của UBNDTPHN và được xếp hạng là doanh nghiệp loại 1.
Ngay từ khi mới ra đời Công ty đã tiến hành hoạt động kinh doanh theo hình thức kinh doanh mới nhằm thích hợp với cơ chế thị trường, các hoạt động của Công ty đặc biệt là hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu ngày càng phát triển, ngành hàng và thị trường ổn định, dần xác lập được mạng lưới khách hàng ngày càng rộng rãi cả trong và ngoài nước, được khách hàng rất tín nhiệm. Công ty trực tiếp tìm kiếm thị trường, giao dịch với bạn hàng để xuất khẩu và nhập khẩu những vật tư hàng hoá cần thiết cho sản xuất và tiêu dùng.
Hoạt động kinh doanh chủ yếu của Công ty hiện nay là nhập khẩu linh kiện xe máy dạng IKD từ các nước Trung Quốc, Thái Lan …để lắp ráp và bán trên thị trường Việt Nam, ngoài ra còn kinh doanh một số tư liệu phục vụ sản xuất. Mặt hàng kinh doanh xuất khẩu của Công ty là nông lâm thuỷ hải sản, thủ công mỹ nghệ.
Công ty còn mở rộng sản xuất kinh doanh qua việc đầu tư dưới hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh để sản xuất phụ tùng xe gắn máy và lắp ráp xe gắn máy với bên nước ngoài là Công tyTNHH Trùng Khánh- Huawei của Trung Quốc theo giấy phép đầu tư 20/GP- HN cấp.
Do nhu cầu sản xuất phát triển Công ty đã tiến hành mở rộng sản xuất qua đầu tư góp cổ phần vào Công ty TNHH chế tạo máy Huawei(hiện nay là Công ty liên doanh chế tạo máy Lifan- Việt Nam) theo giấy phép đầu tư 20A/ GP- HN ngày 09/08/01.
Những năm gần đây để đáp ứng với xu hướng phát triển của thị trường trong nước và quốc tế, thích ứng kịp thời với nhu cầu người tiêu dùng. Công ty hoạt động chính trong lĩnh vực nhập khẩu trực tiếp phụ tùng xe gắn máy và tiến hành lắp ráp sản phẩm hoàn chỉnh tại xưởng lắp ráp của Công ty. Hiện nay Công ty cung cấp các sản phẩm xe gắn máy với nhãn hiệu nổi tiếng DRAGON, đã có uy tín trên thị trường cả nước.
Trong quá trình hoạt động từ khi thành lập, Công ty luôn hoàn thành kế hoạch sản xuất kinh doanh, thực hiện đầy đủ nghĩa vụ đối với Nhà nước. Công ty luôn tuân thủ mọi quy định của pháp luật của Nhà nước về hoạt động xuất nhập khẩu, đảm bảo quyền lợi cho người lao động. Công ty được cơ quan quản lý xếp loại C (loại doanh nghiệp hoạt động tốt nhất). Mặc dù có không ít những khó khăn, Công ty VIEXIM không ngừng lớn mạnh, phát huy lợi thế và khẳng định vị thế trên ._.ông ty cần có kế hoạch để góp đủ vốn liên doanh là 930.000 USD ( quý 3 năm 2002) đồng thời góp 1,8 triệu USD trên tổng số vốn pháp định tăng là 6 triệu USD. Như vậy mục tiêu của Công ty là góp đủ vốn liên doanh nâng vốn pháp định để tạo thuận lợi cho Công ty tham gia hoạt động liên doanh với đối tác nước ngoài là Trung Quốc.
Nhằm mở rộng hơn nữa hoạt động sản xuất kinh doanh hiên nay tỷ lệ nội địa hoá của xe máy do Công ty lắp ráp cao nhất là xe Dragon 51% Công ty phần lớn là nhập khẩu các linh kiện của Trung Quốc và các linh kiện sản xuất tại Việt Nam. Để giảm được chi phí do mua các linh kiện từ bên ngoài Công ty cần có kế hoạch cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Hiện nay ngoài hai xưởng lắp ráp và liên doanh với nước ngoài Công ty đã nghiên cứu kỹ thị trường trong nước đưa ra phương án sản xuất nắp và lốc động cơ. Dự tính nguồn vốn.
- Mua máy móc thiết bị: 9,5 tỷ.
- Đầu tư nhà xưởng ( bao gồm tiền thuê đất) : 6,5 tỷ.
Dự tính nhà máy chế tạo động cơ đi vào hoạt động 7/2002. Để tiến hành đúng tiến độ, Công ty cần đưa ra kế hoạch sắp xếp huy động nguồn vốn, tuyển dụng và đào tạo lao động một cách kịp thời và có hiệu quả như vậy quá trình tạo ra sản phẩm mới có được chất lượng cao đáp ứng được nhu cầu của Công ty và nhu cầu trong nước, giảm giá thành xe máy nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường.
2.Đầu tư vào nguồn nhân lực.
- Phát huy nhân tố con người của Công ty.
Con người là trung tâm của mọi hoạt động, để nâng cao sức cạnh tranh Công ty cần phải chú trọng nhiều hơn trong vấn đề tổ chức đào tạo nâng cao trình độ cho cán bộ, đồng thời sắp xếp lao động một cách hợp lý đúng người đúng việc. Vì thị trường và nhu cầu thị trường luôn thay đổi Công ty có thể tuyển thêm cán bộ kỹ thuật chuyên về xe gắn máy, có trình độ ngoại ngữ có thể dễ dàng dịch các linh kiện phụ tùng mà Công ty nhập sang tiếng Việt được chính xác. Làm được điều này Công ty giảm được sai sót trongquá trình nhập linh kiện, tránh sự hiểu nhầm về linh kiện xe máy cần nhập với nhà cung cấp.
Đội ngũ công nhân tại xương lắp ráp cũng cần được quan tâm. Công ty nên tuyển chọn công nhân có tay nghề vững, có năng lực làm việc tốt có như vậy thì quá trình lắp ráp mới được tiến hành liên tục, tạo ra sản phẩm có chất lượng cao, đảm bảo. Công ty có thể thuê chuyên gia tại nơi công nhập khẩu linh kiện xe máy để hướng dẫn quy trình lắp ráp xe, như vậy việc lắp ráp xe được đảm bảo hơn. Bên cạnh đó Công ty phải xây dựng một nội quy kỹ luật rõ ràng, bắt buộc mọi người phải tuân theo nhằm đảm bảo tính kỹ luật trong khi làm việc, Công ty cũng cần xây dựng một chế độ khuyến khích lợi ích về kinh tế. Có nghĩa là chế độ khen thưởng kịp thời sẽ có tác dụng thúc đẩy hiệu lực, khuyến khích nhân viên làm việc tốt hơn.
Sản phẩm xe máy mang nhãn hiệu do Công ty lắp ráp chỉ mới xuất hiện trên thị trường tiêu dùng Việt Nam năm 2000 nên rất ít người biết đến. Điều này đòi hỏi Công ty cần đào tạo đội ngũ tiếp thị năng động và tách hẳn với các phòng ban tránh tình tránh tình trạng nhân viên Công ty làm việc không đúng chuyên môn, làm việc chồng chéo, phòng tiếp thị của Công ty trên danh nghĩa có thực nhưng không tồn tại.
Tình hình nhân sự tại các xưởng lắp ráp của Công ty cần phải tổ chức cho hợp lý hơn. Hiện nay Công ty có hai xưởng lắp ráp, đứng đầu các xưởng lắp ráp này là các cán bộ quản lý xưởng lắp ráp của Công ty, mỗi cán bộ quản lý từ 50- 60 công nhân lắp xe, họ phải liên tục nắm bắt tình hình hoạt động lắp ráp tại xưởng do đó vấn đề quản lý sẽ không có hiệu quả cao ở mỗi xưởng nên chia thành các tổ và sự khuyến khích bằng vật chất đối với tổ nào có hiệu quả chất lượng sản phẩm cao sẽ là động lực nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm.
- Đối với bộ máy quản lý của Công ty.
Một doanh nghiệp có đội ngũ cán bộ giỏi linh động có chính sách quản lý đúng đắn sẽ giúp doanh nghiệp vận hành thành công, vượt qua những khó khăn, đề ra những phương án nhằm phát huy lợi thế cạnh tranh ít gặp rủi ro. Do vậy vấn đề đào tạo các nhà quản lý là quan trọng, trước tiên phải đào tạo và đào tạo lại, trang bị cập nhật kiến thức cho các nhà quản lý, các kiến thức về quản trị, về cạnh tranh và về thị trường, từ đó các nhà quản trị dám nghĩ dám làm, dám chấp nhận rủi ro trên nền tảng có kiến thức có khoa học; đào tạo nâng cao tay nghề cán bộ kỹ thuật bằng phương pháp mời thầy các trường trong nước về giảng dạy nhằm nâng cao và cập nhật những sự phát triển của khoa học kỹ thuật. Mặt khác, Công ty nên mạnh dạn đưa các cán bộ trẻ có trình độ, có năng lực vào các vị trí quan trọng của Công ty, tiến hành đào tạo lại sắp xếp đúng người, đúng việc nhằm phát huy hết khả năng của mình. Công ty cần cần ban hành quy chế tuyển nhân viên lựa chọn người có tài đức, có năng lực thực sự không nên nhận người theo kiểu quen biết.
3. Vấn đề đầu tư vào hàng tồn kho và quản lý hàng nhập kho.
Để tiến hành hoạt động sản xuất thì buộc các doanh nghiệp phải luôn có hàng dự trữ. Ngành hàng xe máy cũng vậy theo nhu cầu qua nghiên cứu tìm hiểu trên thị trường doanh nghiệp tiến hành nhập linh kiện và phụ tùng trước khi lắp ráp. Tuy nhiên việc cung ứng đáp ứng sao cho các loại vật tư có biên độ giao động nhỏ nhất trong thời điểm so với nhu cầu tiêu dùng của sản xuất sản phẩm. thí dụ để lắp ráp một ngày một 100 xe thì hàng ngày lượng vật tư của 40 chi tiết nội địa hoá luôn giao động trong số 100 không được lấy cho một tuần 6 ngày 600 cái đầu tuần và 600 cái cho tuần tiếp theo. Tuy nhiên kho vật tư quá thừa một số chi tiết mặt khác một số chi tiết khác lại không có, từ việc cung ứng không đồng bộ dẫn đến sản xuất không liên tục, không đảm bảo chất lượng xe mất uy tín do thiếu phụ tùng phải lắp ráp vào các chi tiết khác.
Ví dụ, lượng nan hoa xe máy tồn kho 2 lần - 3 lần (1 bộ = 1 kg) do mua quá nhiều nan hoa, hoặc nan hoa không sử dụng được làm ứ đọng vốn trong khi đó nhiều loại vật tư, nhông, hộp xích, bô... thiếu cục bộ nhiều loại vật tư nhập ẩu, mũi đèo hàng, tay mắm, dây điện…dẫn đến việc tháo ra lấy vào mất thời gian của công nhân xưởng lắp ráp. Nhiều chi tiết mà kỹ thuật vật tư cho nhập hàng, nhập bừa nhập ẩu, nhập quá số lượng yêu cầu, gần 300 bình xăng nhập không kiểm tra khách hàng từ Hà Bắc, Hải Dương mang cả mấy chuyến xe lên đổi làm mất uy tín của Công ty. Bên cạnh đó các nhân viên khi nhập hàng thì tuỳ tiện (tiện kho nào nhập kho ấy ) hàng hoá để khắp các kho không quy vào được. Do vậy kho hàng lung tung. Vật tư hàng hoà không kiểm được hàng ngày. Do đó để quá trình lắp ráp được tiến hành thuận lợi, để việc đầu tư vào hàng dự trữ có hiệu quả tránh ứ đọng vốn sử dụng, vốn không hiệu quả Công ty cần khắc phục những điểm yếu trên:
Bố trí kho hàng: Hiện tại hàng hoá tại kho nên phân làm 3 loại
+ Hàng nhựa, cao su (không kể săm lốp, không kể yên vì loại này chiếm diện tích lớn).
+ Hàng sắt mạ, hàng dễ vỡ (gương)
+ ắc quy, xích và hàng sắt sơn
Để phân loại sắp xếp và bố trí từng loại vật tư phải tuỳ địa điểm cụ thể nhưng cuối cùng phải đạt được mục đích dễ lấy, dễ kiểm và bảo quản tốt.
Để đảm bảo chất lượng hàng hoá nhập kho cần phải có phiếu kiểm tra chất lượng chi tiết nội địa hoá. Phiếu này do kỹ thuật lập, ký tên cho mỗi lô hàng nhập kho. phiếu này phải viết riêng thì tính pháp luật mới cao, tinh thần trách nhiệm mới có được. Báo cáo xuất xe và lập chi tiết nội địa hoá được gửi hàng ngày về Công ty, ngoài ra khi thực hiện xuất nhập hàng phải có giấy tờ đầy đủ theo quy định. Trước khi hàng hoá vào kho đều phải được kiểm nhập, kiểm nghiệm và nếu thấy có sai khác, hao hụt mất mát…đều phải tiến hành lập biên bản với sự chứng kiến của các bên có liên quan để tiện cho việc giải quyết sau này.
Có giải quyết được vấn đề trên thì bộ máy hoạt động sản xuất kinh doanh mới tiến hành một cách bình thường tránh thất thoát nguồn vốn gây lãng phí làm giảm sụt hiệu quả kinh doanh của Công ty.
4. Nâng cao hiệu quả hoạt động Marketing nhằm phát triển thị trường.
* Quảng cáo.
Ngày nay quảng cáo đóng vai trò quan trọng trong quá trình giới thiệu tiếp cận người tiêu dùng nhằm lôi kéo người mua để có thể bán được nhiều hàng hơn và hơn hết nó có thể giới thiệu về Công ty làm khách hàng biết đến Công ty, nâng cao uy tín của Công ty, là một hình thức được áp dụng để nâng cao sức cạnh tranh của Công ty trong nền kinh tế thị trường ngày càng cạnh tranh khốc liệt. Hàng năm Công ty cũng tiến hành các hoạt động quảng cáo xong chi phí cho nó còn rất ít trên 100 triệu VND, đây cũng là nguyên nhân hạn chế dẫn đến sản phẩm của Công ty ít được người tiêu dùng biết tới. Do vậy, tăng chi phí quảng cáo khuyếch trương sản phẩm là việc cần làm của Công ty trong thời gian tới dự tính là 1 tỷ VND. Công ty có thể quảng cáo trên truyền hình vì đó là phương tiện hữu hiệu, sinh động nhưng rất đắt tiền. Vì vậy, cần phải chọn lọc kỹ hình ảnh, lời giới thiệu, luận cứ bán hàng độc đáo nhằm gây ấn tượng với người xem trong thời gian ngắn nhất. Bên cạnh đó ta có thể quảng cáo trên tạp chí, nên chú ý vào tạp chí có nhiều độc giả quảng cáo sẽ hiệu quả hơn.
Trong cơ chế thị trường hiện nay, các buổi hội thảo còn là dịp để các doanh nghiệp quảng cáo giới thiệu sản phẩm, nhãn hiệu của mình với người tiêu dùng. Thường xuyên tham gia các kì hội chợ, giới thiệu sản phẩm và lắng nghe những nhận xét của người trực tiếp tiêu dùng. Trong các kì hội chợ có thể tổ chức các hình thức thi tìm hiểu về doanh nghiệp, về sản phẩm…tham gia các chương trình bình chọn do cơ quan thông tin đại chúng tổ chức, một mặt đánh giá lại uy tín sản phẩm của doanh nghiệp trên thị trường, mặt khác đây là dịp người tiêu dùng hiểu biết thêm về doanh nghiệp.
*Khuyến mãi.
Có thể áp dụng từng đợt khuyến mãi như: tặng phẩm, giảm giá, tăng tỷ lệ hoa hồng… với những sản phẩm có giá trị không cao có in nhãn hiệu, logo của doanh nghiệp vừa là hàng khuyến mãi vừa tích cực quảng cáo cho doanh nghiệp. Nhu cầu xe máy ngày nay rất cao nên Công ty có thể có những đợt khuyến mãi như nhân ngày thành lập Công ty phát quà khuyến mãi…
*Truyền thông.
Uy tín của doanh nghiệp và sản phẩm được người tiêu dùng biết đến là biện pháp hữu hiệu của truyền thông. Thông qua bài viết, phóng sự truyền hình, các chương trình công tác xã hội giúp người tiêu dùng có ấn tượng tốt với tên tuổi của doanh nghiệp.Đặc biệt các doanh nghiệp có thể trực tiếp tài trợ sách vở, tài liệu, một số phương tiện học tập và thực tập cho sinh viên, thạc sĩ, tiến sĩ ở các trường đại học, chú ý sinh viên năm thứ nhất và năm cuối cùng vì đây là thời gian để lại ấn tượng nhiều nhất trong quá trình đi học của họ, thông qua chương trình này tạo nên một đội ngũ khách hàng lớn trong tương lai của doanh nghiệp.
*Thiết lập hệ thống phân phối.
Để có thể mở rộng thị trường của mình, bất kì một doanh nghiệp nào khi tham gia cạnh tranh đều có kế hoạch xây dựng mạng lưới bán hàng càng rộng lớn càng tốt, vì đó chính là cơ sở tốt nhất để bảo vệ thị trường và xâm nhập thị trường mới, chống lại sự tranh giành thị trường từ các đối thủ cạnh tranh của mình. Mặt khác, các doanh nghiệp có thể quản lý được giá cả thông qua chiết khấu bán hàng theo hệ thồng, giảm bớt tình trạng giảm giá cạnh tranh không lành mạnh, rủi ro trong công nơ, quản lý được chất lượng và bảo hành sản phẩm của mình. Để tăng sức cạnh tranh của mình cần phải xây dựng một hệ thống phân phố chắc chắn có hiệu quả hơn các đối thủ cạnh tranh, phối hợp chặt chẽ các chi nhánh , các xí nghiệp, quản lý các đại lý bán hàng.
Đối với các chi nhánh, hiện nay Công ty có các chi nhánh ở một số tỉnh tuy nhiên, hệ thống chi nhánh cũng chưa gắn bó chặt chẽ với Công ty, công ty chưa nắm được tình hình tiêu thụ tại các chi nhánh đồng thời các chi nhánh chưa phản hồi được hết các nhu cầu của khách hàng về sản phẩm. Do đó, Công ty cần đặt ra hệ thống chi nhánh có người đứng đầu thường xuyên kiểm tra giám sát, báo cáo tình hình về Công ty.
Đối với các đại lý bán buôn và bán lẻ của các khách hàng Công ty, hầu hết Công ty chưa có hệ thống chăm lo khách hàng. Các cửa hàng bảo dưỡng chưa được quan tâm đúng mức, rất ít và hầu như chỉ có một hay hai cửa hàng. Vì vây, trong thời gian tới Công ty nên mở một số cửa hàng bảo dưỡng cung cấp các linh kiện, phụ tùng của chính hãng để thay thế, các thiết bị kiểm tra, hiệu chỉnh và cả tài chính nữa, thống nhất mạng lưới bảo hành để cho người tiêu dùng phân biệt được rõ ràng hệ thống bảo hành xe của doanh nghiệp với hệ thống bảo hành của hãng khác, bên cạnh đó để tránh được hàng nhái của các hãng khác cần có thẻ bảo hành của chính Công ty, tem chống hàng giả…để người tiêu dùng Việt Nam nhận biết đâu là hàng thật đâu là hàng giả.
Để thắt chặt mối quan hệ giữa Công ty với khách hàng Công ty nên mở rộng mạng lưới bán hàng lẻ, số lượng đại lý cửa hàng bán hàng lẻ càng nhiều thì thị trường của Công ty ngày càng mở rộng. Để mở rộng mạng lưới này, Công ty có thể tiến hành đầu tư trang thiết bị cơ sở vật chất cho các cửa hàng này với các nhãn hiệu, biển quảng cáo của Công ty. Đây là hình thức nhằm khuyếch trương sản phẩm của Công ty. Đồng thời để kích thích việc bán hàng ở các đại lý cần có biện pháp hỗ trợ tài chính, như khen thưởng tỷ lệ hoa hồng, hỗ trợ các hoạt động dịch vụ kỹ thuật, cử cán bộ kỹ thuật xuống các đại lý giúp đỡ khách hàng nhằm nâng cao uy tín hoạt động của Công ty.
5. Đầu tư nghiên cứu đa dạng hoá sản phẩm.
Mạnh dạn đầu tư nghiên cứu nhập khẩu kết hợp sản xuất các động cơ có hàm lượng khoa học cao nhằm tăng dần tỷ lệ nội địa hoá. Tuy nhiên, trong quá trình nghiên cứu mặt hàng mới phải tuân thủ các bước như thăm dò thị trường,lên tiêu chuẩn, sản xuất lắp ráp thử, định giá, tránh tình trạng đầu tư nghiên cứu thời gian dài, chi phí lớn, thị trường không có nhu cầu vừa tốn hao tiền của, vừa lãng phí thời gian.
Đa dạng hoá sản phẩm là một biện pháp mà bất kì một doanh nghiệp nào cũng phải nghĩ tới khi tìm cách tăng cạnh tranh của mình. Công ty cần nghiên cứu thị trường, khách hàng cạnh tranh để đưa ra một loại sản phẩm phù hợp. Do vậy, việc nghiên cứu sản phẩm mới cũng như việc đa dạng hoá sản phẩm là một điều cần thiết để Công ty có thể mở rộng thị trường. Ví dụ, bên cạnh những mặt hàng truyền thống chất lượng cao mà người dân quen tiêu dùng như xe Wave, Dream Công ty nhập khẩu với số lượng vừa phải, Công ty chú trọng nhập khẩu linh kiện xe của Trung Quốc với kiểu dáng và nhãn hiệu mới, chất lượng đảm bảo cụ thể là các loại xe DRAGON, MEILUN, YIXIANG phù hợp với nhu cầu và chất lượng.
Hiện nay trên thị trường Việt Nam đang phổ biến loại xe LongTeng thuộc tập đoàn ô tô - xe máy Beng Teng ( Trung Quốc) có kiểu dáng giống như xe của Nhật Bản nhưng chỉ bằng 1/3 giá xe của Nhật Bản. Ngoài ra còn có các loại xe HUYUE gồm hai loại:
+ Wave HY110 ( giống xe Wave ).
+ Deluxe HY100 ( giống xe Dream lùn).
Nước ta hiện nay điều kiện tiêu dùng xe gắn máy luôn bị ảnh hưởng bởi điều kiện giao thông, điều kiện địa lý, một số vùng nông thôn và miền núi có hạn chế lớn về hệ thống giao thông, vì vậy ảnh hưởng về sử dụng phương tiện đi lại, nhất là xe gắn máy. Các loại xe MINSK, MZ, ETZ…được sử dụng phổ biến, còn ở thành phố thì những loại xe có kiểu dáng đẹp: Dream, Spacy, Suzuki… được ưa chuộng. Do đó Công ty cần nắm bắt được yêu cầu này để đưa ra các mặt hàng phù hợp với thị hiếu mà vẫn đảm bảo về chất lượng và giá cả. Tuy nhiên việc đa dạng hoá phải kết hợp với chuyên môn hoá khi thực hiện đa dạng hoá sản phẩm, cần xác định cho mình một cơ cấu sản phẩm tối ưu, trong phương án sản xuất phải lựa chọn sản phẩm riêng của mình tạo thế độc quyền, với những loại sản phẩm mà lượng tiêu thụ ít Công ty vẫn phải tiếp tục duy trì sản xuất để phục vụ nhu cầu thị trường, nhằm giữ chân khách hàng đặc biệt là khách hàng truyền thống song cần xem xét quy mô, cơ cấu của nó một cách hợp lý.
Thực hiện đa dạng hoá sản phẩm là một trong những biện pháp hữu hiệu để mở rộng thị trường, tăng sức cạnh tranh của Công ty trước các đối thủ cạnh tranh, song để có thể đa dạng hoá một cách có hiệu quả thì Công ty cần phải tăng cường các phương tiện kỹ thuật, các hoạt động thu thập, xử lý thông tin, thị trường , mở rộng quan hệ hợp tác với các đối thủ trong kinh doanh.
6. Giảm chi phí, hạ giá thành sản phẩm, lấy giá cả làm lợi thế cạnh tranh.
Để giảm chi phí- hạ giá thành sản phẩm là cả một giai đoạn, nghiên cứu tổng hợp của Công ty từ việc ký kết hợp đồng nhập khẩu linh kiện xe máy, tiếp nhận linh kiện lắp ráp xe máy nhập khẩu, bảo quản linh kiện lắp ráp xe máy nhập khẩu, lựa chọn bạn hàng đối tác làm ăn sao cho sản phẩm với giá thành không đắt nhưng vẫn đảm bảo chất lượng linh kiện nhập khẩu.
Việc ký hợp đồng nhập khẩu là vấn đề rất quan trong, thận trọng và khôn khéo sẽ tránh được các sơ suất về các chỉ tiêu kỹ thuật, chất lượng đảm bảo lô hàng phải đạt tiêu chuẩn do đó, người tham gia ký kết hợp đồng kinh doanh phải là người có kiến thức tổng hợp về mọi mặt, có hiểu biết sâu sắc, nắm vững về nghiệp vụ ngoại thương, hiểu biết về xe máy, có các kiến thức về văn hoá xã hội và kinh nghiệm thực tế.
Vấn đề tiếp nhận hàng hoá: Công ty phải kiểm tra hàng hoá về số lượng, chất lượng, cần phải cử người theo giám sát áp tải hàng hoá về kho của mình, đảm bảo được số lượng, chất lượng hàng hoá.
Lựa chọn bạn hàng đối tác làm ăn để có được phụ tùng và linh kiện phù hợp với nhu cầu lắp ráp của Công ty. Do vậy, khi lựa chọn bạn hàng cho mình công ty cần nghiên cứu tình hình hoạt động kinh doanh của đối tác, chất lượng sản phẩm và khả năng cung cấp hàng cho mình, các đối tác có trình độ kỹ thuật cao thường có những sản phẩm tốt, Công ty nên chú ý các đối tác có tên tuổi, uy tín trên thị trường sản phẩm đó. Công ty nên cố gắng liên hệ trực tiếp với người sản xuất, hạn chế hình thức liên hệ qua trung gian để có thể có những ưu đãi và thuận lợi. Bên cạnh đó, phải quan tâm đến đầu tư sản xuất phụ tùng, linh kiện, hạn chế sự lệ thuộc các nhà cung cấp trong nước và nước ngoài. Trước mắt Công ty đã liên doanh với tập đoàn Lifan sản xuất được một số phụ tùng, linh kiện có hàm lượng kỹ thuật không cao như vành nan hoa, chân chống, bình xăng… dự định trong thời gian tới Công ty sẽ sản xuất nắp và lốc động cơ. Như vậy việc sản xuất để tạo ra các sản phẩm của Công ty nhằm tăng tỷ lệ nội địa hoá, giảm chênh lệch chi phí so với cac sản phẩm mua ngoài sẽ tạo điều kiện hạ giá thành sản phẩm. Tuy nhên việc đảm bảo chất lượng vẫn là nhiệm vụ quan trọng.
Hiện nay, giá cả là công cụ cạnh tranh khá hữu hựu của Công ty. Với mục tiêu là mở rộng thị trường, giành được ưu thế trong cạnh tranh, Công ty cần áp dụng một chiến lược định giá phù hợp, mức gía đòi hỏi đủ cao để thu hồi vốn và có lãi song lại đủ thấp để thị trường có thể chấp nhận được. Do vậy, Công ty cần hạch toán và tính chính xác mọi chi phí bỏ ra như chi phí nhập khẩu, chi phí kho bãi, chi phí gia công lắp ráp. Công ty cần xác định sản phẩm của mình đang trong giai đoạn nào của chu kỳ sống của sản phẩm Công ty , Công ty cần phải nhận thấy rằng trên thị trường ngoài sản phẩm của Công ty còn có nhiều sản phẩm của hãng khác trên thị trường đặc biệt Công ty còn phải cạnh tranh với các liên doanh sản xuất và lắp ráp xe máy nổi tiếng ở Việt Nam như HONDA, SUZUKI, YAMHA …và 53 hãng lắp ráp xe máy với các sản phẩm đa dạng trên thị trường. Do vậy Công ty cần phải xác lập một mức giá hợp lý không thể đưa mức giá quá cao ngược lại nếu đưa mức giá quá thấp sẽ không đảm bảo được mức lợi nhuận Công ty nên sử dụng các mức giá khác nhau trên các thị trường khác nhau, mức giá khác nhau đối với sản phẩm khác nhau.
ở các thành phố do tốc độ phát triển nhanh nhu cầu đòi hỏi cao về mẫu mã và chất lượng, dịch vụ trước và sau khi bán hàng. Do vậy ta có thể áp dụng mức giá thị trường nhưng kèm theo đó là dịch vụ kỹ thuật miễn phí để thu hút khách hàng, những sản phẩm khuyến mãi hay cho hạ mức giá thấp hơn một chút nhằm tạo sự chú ý của khách hàng đối với sản phẩm. Đặc biệt đối với việc bán với một số lượng lớn ta cần có một mức giá riêng khác so với khách hàng mua lẻ để khuyến khích bán sản phẩm với số lượng lớn.
ở các vùng khác như vùng nông thôn miền núi Công ty có thể có các sản phẩm thích hợp phù hợp với các loại hình miền núi, động cơ phải tốt và có khả năng đi được trên địa hình đó, đồng thời do mức thu nhập ở đẩy thấp nên Công ty cần có một mức giá phù hợp để thu hút đông đảo người dân sử dụng.
Công ty cũng có thể áp dụng một số hình thức thanh toán theo từng thời kỳ như chiết khấu giảm giá…để khuyến khích khách hàng mua. Với khách hàng lớn, có quan hệ hợp tác lâu dài, Công ty có thể định ra một chính sách giá riêng để có quan hệ tốt với họ xong phải có một chính sách hợp lý đảm bảo có lãi, tình trạng dây dưa, công nợ khó đòi để làm được điều đó Công ty cần phải tìm hiểu khách hàng, nhất là khách hàng lớn khả năng tài chính của họ.
Do vậy, để có được một mức giá hợp lý Công ty cần tính toán chi phí chính xác, giảm tối đa các loại chi phí không cần thiết để đưa ra mức giá hợp lý thu hút được thị phần của khách hàng.
7.Một số giải pháp về tài chính.
Là một doanh nghiệp Nhà nước chuyên kinh doanh lắp ráp xe gắn máy vì vậy cần sử dụng nguồn vốn lưu động rất lớn; phần lớn vốn sử dụng là do Nhà nước cấp, một phần vốn huy động từ nội bộ Công ty tuy nhiên không đáng kể. Do đó Công ty cần phải huy động vốn bên ngoài. Do cơ cấu của Công ty còn nhỏ nên việc huy động vốn và phát hành cổ phiếu là khó khăn. Giải pháp tốt nhất là Công ty có thể đi vay vốn từ ngân hàng, có thể vay dài hạn hoặc vay ngắn hạn. Tuy nhiên trước khi có quyết định vay vốn Công ty nên tính toán so sánh cân nhắc giữa lãi suất tiền vay với tỷ suất lợi nhuận hoạt động kinh doanh có thể mang lại hiệu quả cho hoạt động vay vốn.
Công ty có thể đàm phán với nhà cung ứng để hưởng tín dụng từ nhà cung ứng( thời gian 30-90 ngày), có thể chuyển thành Công ty TNHH 1 thành viên( DNNN) có vốn Nhà nước trên 30 tỷ đồng( hiện nay là 2 tỷ đồng) hoặc xin cổ phần hoá vào năm 2004.
Bên cạnh đó vấn đề đặt ra là làm thế nào để sử dụng nguồn vốn hiện có của Công ty một cách có hiệu quả. Công ty cần phải chấp hành chế độ quản lý tài chính, tín dụng hối đoái của Nhà nước, tính toán khả năng lỗ lãi, thu hồi vốn trong kinh doanh, cũng như dự tính trước những rủi ro có thể xảy ra để có các bịên pháp phòng ngừa, để tăng hiệu quả sử dụng nguồn vốn lưu động cần tăng nhanh tốc độ lưu chuyển hàng hoá, lựa chọn phương thức thanh toán thuận lợi, an toàn tránh ứ đọng vốn trong qúa trình nhập khẩu nên phát huy hình thức nhập khẩu hàng đổi hàng giảm lượng ngoại tệ phải trả của Công ty thu được lợi nhuận từ cả hai hoạt động xuất khẩu và nhập khẩu.
Ngoài ra để sử dụng tốt nguồn vốn cố định Công ty cần gia tăng hàng hoá xuất nhập khẩu nhằm khai thác hết công suất của tài sản cố định giảm chi phí của tài sản cố định trên một đơn vị kinh doanh. Ngoài việc lắp ráp xe gắn máy từ những phụ tùng linh kiện của Công ty nhập khẩu vể Công ty có thể tận dụng hệ thống nhà xưởng có thể nhận lắp ráp gia công cho các hãng xe máy khác trên thị trường khi họ có nhu cầu.
Để bảo tồn phát huy được nguồn vốn Công ty phải thường xuyên phân tích đánh giá hiệu quả sử dụng vốn, nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả của việc sử dụng vốn để từ đó kịp thời có các phương án kinh doanh thích hợp.
III. Một số kiến nghị.
1. Về phía Nhà nước.
Trong kinh doanh, vai trò quản lý, định hướng của Nhà nước là vô cùng quan trọng. Trong những năm gần đây, ngành công nghiệp sản xuất xe máy đã có bước phát triển đáng kể nhiều biến động tổng đầu tư sản xuất. Tuy nhiên nó cũng gặp không ít bức xúc: Việc cấp ồ ạt các dự án đầu tư sản xuất lắp ráp xe máy năm 2001 đã làm cho ngành công nghiệp xe máy phát triển lộn xộn, nhà nước không kiểm soát được thậm chí còn dẫn tới nguy cơ làm mất cơ hội phát triển ngành công nghiệp xe máy của nước ta trong quá trình hội nhập quốc tế, mặc dù trước đó đã có thông tư liên bộ số 92/ TTLB- BCN- TCHQ, hướng dẫn chính sách ưu đãi thuế đối với sản xuất xe máy có hiệu lực từ năm 2002, quy định các doanh nghiệp được phép lắp ráp phải có tỷ lệ nội địa hoá tối thiểu là 20% song Bộ thương mại vẫn phải chính thức đề xuất và kiến nghị.Thủ tướng xem xét một số biện pháp quản lý nhập khẩu và sản xuất xe máy tại Việt Nam. Do vậy việc cấp phép quá nhiều cả doanh nghiệp trong nước và các doanh nghiệp liên doanh nên trong thời gian tới Nhà nước nên ngừng cấp giấy phép cho các liên doanh nước ngoài trong lĩnh vực sản xuất lắp ráp.
Đối với các doanh nghiệp trong nước chỉ nên lựa chọn 5-6 doanh nghiệp sản xuất, lắp ráp xe máy và những doanh nghiệp này có quy mô lớn có tỷ lệ nội địa hoá cao đạt 60% trở lên và lấy doanh nghiệp quốc doanh làm chủ đạo. Các doanh nghiệp còn lại( 45 doanh nghiệp) có thể phải giải thể hoặc chỉ làm vệ tinh lắp ráp cho các doanh nghiệp được lựa chọn. Những doanh nghiệp không đạt được tỷ lệ nội địa hoá theo yêu cầu sẽ chỉ được nhập khẩu với hạn mức là 500.000 bộ linh kiện/ năm.
Bên cạnh đó còn một thực tế khác, việc quản lý và quy định về công suất đăng kí của doanh nghiệp lắp ráp xe máy cũng chưa được rõ ràng, giống như kiểu” phân bố hạn ngạch” dễ dẫn tới tình trạng một số doanh nghiệp có sản phẩm bán chạy, đóng góp đầy đủ nghĩa vụ cho Nhà nước vẫn phải ngồi chơi xơi nước vì có hiệu quả hoạt động không tốt. Trong khi một số doanh nghiệp lo lót được thời gian xác nhận nội địa hoá nên được hưởng thuế nhập khẩu thấp. Từ thực trạng đó cho thấy vẫn chưa có giải pháp phát triển ngành công nghiệp xe máy từ phía cơ quan hữu trách, phát triển sản xuất xe máy không phải là phát triển” làng nghề” nên tình trạng toàn dân làm xe máy, đầu tư manh mún như hiện nay gây khó khăn về quản lý và khó đưa ngành công nghiệp xe máy Việt Nam đi đến mục tiêu” sản xuất xe máy mang nhãn hiệu Việt Nam “phù hợp với giá cả và chất lượng cho người tiêu dùng”.
Việc tạo ra một sản phẩm xe máy mang nhãn hiệu Việt Nam là bài toán không dễ giải, bao gồm nhiều yếu tố tác động như việc nội địa hoá, chính sách quản lý và đặc biệt là cho tới nay, ngành công nghiệp xe máy vẫn chưa có một quy hoạch phát triển chính thức và hoàn chỉnh như để sản xuất được một loại khung xe máy hoàn chỉnh thì riêng phần đầu tư máy đột dập cũ và khuôn, mua từ Trung Quốc cũng mất 20 tỷ, nêú làm thêm loại khung khác thì phải đầu tư thêm 30 % nữa. Trong khi số lượng đơn hàng của từng doanh nghiệp lại rất thấp. Vì vậy, một số doanh nghiệp đành phải nội địa hoá theo kiểu mua linh kiện từ nước ngoài về chỉ bán và sơn. Đó là chưa kể việc sản xuất động cơ được xem như là mấu chốt phát triển của ngành công nghiệp xe máy tới nay vẫn chưa được quan tâm đúng mức.
Đứng trước các vấn đề trên Công ty VIEXIM trong thời gian qua đã cố gắng hết sức làm tăng tỷ lệ nội địa hoá, mở rộng sản xuất đáp ứng yêu cầu đòi hỏi của Nhà nước song là một doanh nghiệp Nhà nước để có thể phát triển mạnh hơn nữa. Công ty cần trợ giúp từ phía Nhà nước đặc biệt là Sở thương mại.
Đề nghị sở xem xét hỗ trợ mặt bằng sản xuất kinh doanh trong đó có phương án sát nhập một Công ty có mặt bằng để Công ty đó có điều kiện hoàn chỉnh hệ thống bán hàng, giới thiệu sản phẩm và văn phòng làm việc, nâng cao được thế cạnh tranh của mình trên thương trường.
Hỗ trợ Công ty về định hướng phát triển một số ngành nghề cho phù hợp với chiến lược của ngành và thành phố giúp Công ty về kinh phí, tổ chức để phát triển ngành nghề đó.
Giúp đỡ Công ty trong việc tạo vốn, mặt bằng nhà xưởng cho các chương trình đầu tư liên doanh và đầu tư sản xuất để ngành công nghiệp xe máy của Công ty phát triển, trở thành doanh nghiệp Nhà nước chủ đạo trong chiến lược phát triển công nghiệp xe máy của thành phố Hà nội.
2. Về phía các ngành chủ quản.
* Tạo điều kiện vốn kinh doanh.
Nguồn vốn chi phối mọi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp do đó đơn vị chủ quản( hội cựu chiến binh Việt Nam) nên tạo điều kiện thuận lợi cho Công ty giúp Công ty có thể tăng nguồn vốn kinh doanh, có các biện pháp huy động vốn đặc biệt là nên tiến hành cổ phần hoá Công ty để nguồn vốn tăng lên, quá trình hoạt động kinh doanh cũng hiệu quả hơn.
* Trang bị thêm cơ sở vật chất kỹ thuật.
Hiện nay, Công ty đang có trụ sở là khu nhà 3 tầng tại 34 Lý Nam Đế là đơn vị chính của Công ty. Địa điểm hiện nay rất chặt hẹp không thích hợp với hoạt động của Công ty. Hội cựu chiến binh nên cho phép Công ty được cải tạo và nâng cấp khu nhà để có địa điểm thích hợp. Hệ thống cơ sở hạ tầng tốt là điều kiện để quá trình hoạt động kinh doanh của Công ty hiệu quả hơn.
Kết luận
Đầu tư phát triển là yếu tố quan trọng hàng đầu, quyết định tốc độ tăng trưởng kinh tế. Đầu tư phát triển đúng hướng và có hiệu quả sẽ tạo ra năng lực mới làm chuyển đổi cơ cấu các thành phần kinh tế, các vùng và các lãnh thổ theo hương CNH-HĐH đất nước. Với ý nghĩa và tầm quan trọng này trong 10 năm thực hiện mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế xã hội giai đoạn 1991-2000 Đảng và Nhà nước ta đã tập trung chỉ đại ưu tiên giành nguồn lực cho đầu tư phát triển. Tập trung ưu tiên đầu tư phát triển trong doanh nghiệp nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh trong nền kinh tế, phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội, tăng nguồn nhân lực khoa học kỹ thuật…Có thể nói mỗi doanh nghiệp bước vào nền kinh tế thị trường và hội nhập với nền kinh tế đều cảm nhận ngay được áp lực ngày càng lớn đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Do đó doanh nghiệp muốn tồn tại phải tiến hành đầu tư.
Cùng với xu hướng đó trong thời gian qua Công ty Xuất nhập khẩu và đầu tư VIEXIM đã không ngừng cố gắng đẩy mạnh hoạt động đầu tư nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh. Tuy kết quả đạt được còn khiêm tốn nhưng đã góp phần vào sự phát triển kinh tế, tạo công ăn việc làm cho hàng trăm lao động, góp phần thoả mãn nhu cầu của người tiêu dùng. Tuy nhiên so với yêu cầu đòi hỏi lớn trong thời kỳ đổi mới và phát triển kinh tế thì Công ty cần phải cố gắng khắc phục những bất hợp lý còn tồn tạiđể đạt được hiệu quả cao nhất trong hoạt động đầu tư, nâng cao khả năng cạnh tranh chiếm lĩnh thị trường trong nước và nước ngoài.
Tài liệu tham khảo
Giáo trình Quản lý Công nghệ – Trường Đại học KTQD Hà Nội - 2000
Giáo trình kinh tế Đầu tư – Trường Đại học KTQD Hà Nội – 2000
Tạp chí Thời báo Kinh tế – Số 97;98/99: 12;27;31/2000
Tạp chí Đầu tư – Số 7;10;19/2000
Tạp chí Ngoại thương- Số20/99
Sách “Một số vấn đề về cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường ” NXB giáo dục-1999
Báo cáo tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty VIEXIM
Một số bài luận văn K38, 39
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 33931.doc