Đầu tư FDI vào lĩnh vực công nghiệp điện tử, Thực trạng và giải pháp
Nguyễn Minh Long * Trung tâm đào tạo tư vấn phát triển kinh tế - xã hội Hà Nội
Tel: 93 468 93. Fax: 9345 021
Cùng với sự phát triển chung của nền kinh tế từ những năm đầu của thập kỷ 80, ngành công nghiệp điện tử nước ta đã có những bước phát triển hết sức nhanh chóng. Đến nay, nước ta đã có 22 dự án FDI vào ngành công nghiệp điện tử (kể cả trong và ngoài khu công nghiệp) được cấp giấy phép (chiếm 9% tổng số dự án đã đầu tư
12 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1399 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Đầu tư FDI vào lĩnh vực công nghiệp điện tử, thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
vào nước ta trong thời gian qua) với tổng số vốn đầu tư đăng ký là 615 triệu USD (chiếm 1,8% tổng vốn đầu tư). Theo đánh giá của các chuyên gia kinh tế thì hầu hết các dự án đầu tư nước ngoài được cấp giấy phép trong lĩnh vực công nghiệp điện tử đều triển khai đúng tiến độ cam kết và không có dự án nào bị rút giấy phép đầu tư.
Một đặc trưng quan trọng của các dự án điện tử là các sản phẩm sản xuất ra chủ yếu là dùng để xuất khẩu và thay thế hàng nhập khẩu. Do đó, việc ngày càng gia tăng lượng vốn vào lĩnh vực này rất phù hợp với chủ trương của Nhà nước ta đó là chủ trương phát triển các ngành công nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu và sản xuất các mặt hàng thay thế hàng nhập khẩu.
Đối với ngành công nghiệp điện tử nước ta, nguồn FDI chủ yếu được huy động từ các nước Châu á như Nhật, Nics, các nước ASEAN (chiếm 93,76%), trong khi đó nguồn FDI từ các nước Châu Âu - Châu Mỹ chỉ chiếm 1 tỉ lệ rất nhỏ. Thực tế về thu hút FDI vào trong nước nói chung và vào ngành công nghiệp điện tử nói riêng, cho thấy, những nước tập trung một khối lượng công nghệ phát triển và kết hợp trình độ quản lý tốt như Mỹ, Pháp, Đức...vẫn chưa xem Việt Nam là một môi trường đầu tư hấp dẫn, nhất là đầu tư vào lĩnh vực công nghiệp điện tử.
Nhìn chung, các dự án công nghiệp điện tử là có quy mô vốn trung bình và lớn. Quy mô vốn bình quân một dự án là 27.954.543 USD, như vậy, đây là ngành có vốn đầu tư rất lớn so với các ngành khác, bởi vì các dự án điện tử có hàm lượng công nghệ cao. Tuy nhiên, những dự án có quy mô vốn (dưới 5 triệu USD) cũng chiếm một tỷ lệ không nhỏ trong các dự án được cấp giấy phép là 31,8% (lượng vốn chiếm 1,16%); các dự án có quy mô vốn trung bình từ 5 - 10 triệu USD chiếm tỷ lệ 22,7%; còn các dự án có quy mô lớn (các dự án có mức vốn > 10 triệu USD) chiếm tới 45,7%. Đặc biệt, đã có những dự án có mức vốn đầu tư rất lớn trên 50 triệu USD như công ty TNHH Đầu tư Hanel có mức vốn 52 triệu USD; thậm chí có những dự án có mức vốn lên tới hàng trăm triệu USD như : công ty Đèn hình OWENHANEL 178.584.000 USD, công ty sản phẩm máy hình FUJITSU Việt Nam 198.818.719 USD... Với sự tham gia của bên nước ngoài là các tập đoàn và công ty lớn trên thế giới về Điện - Điện tử như Mitsubishi, Sony, Tosiba, JVC, Philip, Samsung, LG.
Theo số liệu của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, trong thời gian qua tổng số vốn thực hiện các dự án đầu tư nước ngoài trong ngành công nghiệp điện tử là 370 triệu USD (chiếm 60,5% tổng vốn đăng ký), đối với nước ta, trong giai đoạn này nguồn vốn nói trên là rất quan trọng. Tuy nhiên, quá trình thực hiện các dự án đầu tư vẫn chưa tốt, tiến độ triển khai còn chậm, mặc dù số lượng các dự án được cấp giấy phép là tương đối ít. Các dự án trong ngành công nghiệp điện tử bước đầu đã có dấu hiệu chững lại do bị bão hoà.
Trong thời gian qua, trong tổng số 22 dự án điện tử đang hoạt động có 14 dự án là dưới hình thức các xí nghiệp liên doanh (chiếm 63,6% tổng số dự án và chiếm 61% tổng số vốn đầu tư); 8 dự án dưới hình thức 100% vốn nước ngoài (chiếm 36,4% tổng số dự án và chiếm 39% tổng số vốn đầu tư). Tuy nhiên, trong thời gian tới xu hướng các dự án theo hình thức 100% vốn nước ngoài sẽ gia tăng. Đây là một xu hướng tất yếu bởi vì các chủ đầu tư nước ngoài muốn được điều hành xí nghiệp một các độc lập, có quyền tự quyết trong các hoạt động của Công ty mà theo luật pháp của Việt Nam thì trong các công ty liên doanh, Hội đồng quản trị được thành lập theo tỷ lệ vốn góp và một điều quan trọng là trong liên doanh Tổng giám đốc hoặc phó tổng giám đốc thứ nhất phải là người Việt Nam mà một trong hai người này lại có quyền phủ quyết. Mặt khác, đối với các dự án lớn, một thực tế là phía Việt Nam không đủ năng lực về tài chính để tham gia góp vốn.
Có thể nói, những dự án có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài của ngành công nghiệp điện tử đã trực tiếp đóng góp cho ngân sách nhà nước hàng trăm triệu USD, cũng như đã thu hút được hơn 5500 công nhân lao động kỹ thuật và các chuyên gia trong ngành điện tử. Bên cạnh đó, còn gián tiếp tạo ra việc làm cho hàng ngàn lao động gián tiếp có công ăn việc làm ổn định và có thu nhập như các công ty xây dựng, dịch vụ có liên quan. Một điều đặc biệt nữa là thông qua các dự án đó đã đào tạo cho Việt Nam một đội ngũ công nhân lành nghề có tác phong công nghiệp; một đội ngũ chuyên gia giỏi trong lĩnh vực công nghiệp điện tử. Tuy nhiên, lao động trong doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài nói chung và điện tử nói riêng còn nảy sinh nhiều vấn đề trong các doanh nghiệp, phần lớn người lao động chưa được đối xử đúng như quy chế của Nhà nước, bởi vì có khoảng 30% xí nghiệp có hợp đồng với người lao động và chỉ có khoảng 1/3 xí nghiệp có tổ chức công đoàn, vì thế vừa qua đã có rất nhiều tranh chấp, khiếu kiện.
Ngành công nghiệp điện tử của nước ta tuy được coi là ngành mũi nhọn nhưng đây là một ngành mới cho nên việc xây dựng và phát triển gặp nhiều khó khăn về công nghệ, đội ngũ chuyên gia, cơ sở hạ tầng... . Chủ trương của Nhà nước ta trong việc hợp tác đầu tư với nước ngoài là phải tiếp nhận những công nghệ tiên tiến phù hợp tình hình trong nước. Thông qua FDI, công nghệ được chuyển giao qua các hình thức như máy móc, thiết bị, kinh nghiệm quản lý, bí quyết kỹ thuật, nhãn hiệu hàng hoá...Tuy nhiên, trong thực tế chủ trương này chúng ta vẫn chưa đạt được theo ý muốn. Thời gian qua, chúng ta đã nhập khẩu nhiều công nghệ lạc hậu, thiếu đồng bộ với giá quá cao, gây ô nhiễm môi trường sinh thái và việc nhập những công nghệ lạc hậu không những không đạt được mục tiêu phát triển của ngành điện tử cũng như phát triển đất nước, mà nó còn làm gia tăng khoảng cách giữa ngành công nghệ điện tử nước ta với các nước trên thế giới. Đội ngũ cán bộ làm việc trong các xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực công nghiệp điện tử còn chưa đáp ứng được yêu cầu. Do đây là ngành công nghiệp mới có công nghệ tiên tiến, đòi hỏi cán bộ không những phải có trình độ chuyên môn cao mà còn đòi hỏi họ phải có kinh nghiệm trong quản lý, có trình độ vi tính và ngoại ngữ. Nhiều cán bộ Việt Nam chưa hiểu biết về luật pháp và thông lệ quốc tế, do đó dễ bị các chủ đầu tư chèn ép tạo nên thiệt thòi về quyền lợi và bất bình đẳng trong hợp tác quốc tế. Hạ tầng cơ sở nước ta quá yếu kém, điện nước thiếu và không ổn định, đường xá xuống cấp, hệ thống cảng biển sân bay chưa đạt tiêu chuẩn Quốc tế. Trong những năm gần đây, nhờ việc phát triển của ngành công nghiệp điện tử và công nghệ thông tin nên hệ thống thông tin liên lạc và viễn thông đã có nhiều cải thiện, tuy nhiên gía thuê nhà, dịch vụ văn phòng, phí viễn thông còn quá cao so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Việc giải toả mặt bằng gặp rất nhiều khó khăn, kéo dài làm giảm tiến độ triển khai dự án.
Cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ của các nước trong khu vực đã tác động rất lớn tới dòng FDI vào lĩnh vực công nghiệp điện tử nước ta. Cuộc khủng hoảng tài chính đã gây nên tình trạng mất giá đồng tiền của các nước trong khu vực. Do đó, một số nước đã có chính sách hạn chế dòng ngoại tệ xuất ra nước ngoài để đầu tư. Hiện tượng này không chỉ làm giảm nhịp độ đầu tư của nước ngoài vào lĩnh vực công nghiệp điện tử (đa số các nước đầu tư ở Châu á) mà còn giảm tiến độ thực hiện dự án của các nước này. Thực tế tại Việt Nam cho thấy, quy mô cũng như số lượng các dự án đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực điện tử giảm một cách đáng kể trong 2 năm, năm 1996 có 4 dự án, quy mô trung bình một dự án là 4.137.330 USD; năm 1997 có một dự án (vốn đầu tư là 10.000.000 USD), đáng chú ý là năm 1998 và năm 1999 không có dự án nào thuộc lĩnh vực điện tử được cấp giấy phép.
Việt Nam sắp gia nhập khối AFTA cũng tác động tới dòng FDI vào lĩnh vực công nghiệp điện tử, bởi vì nếu môi trường đầu tư của Việt Nam không hấp dẫn hơn một nước nào đó trong khối thì các chủ đầu tư sẽ đầu tư vào nước đó chứ không đầu tư vào Việt Nam, đây là một điều hết sức khó khăn đối với nước ta. Mặc dù môi trường đầu tư của Việt Nam được nhiều chuyên gia đánh giá là một môi trường đầu tư hấp dẫn, thì những hạn chế trên cũng đã làm cho môi trường đầu tư của nước ta có độ rủi ro cao, làm giảm lượng các nhà đầu tư nước ngoài ở Việt Nam.
Qua việc phân tích một số nét cơ bản về tình hình thu hút và sử dụng FDI vào lĩnh vực công nghiệp điện tử và công nghệ tin học nói trên. Để góp phần thực hiện thành công quá trình thu hút FDI vào trong nước nói chung và vào ngành công nghiệp điện tử nói riêng. Chúng tôi đưa ra một số giải pháp hữu hiệu nhằm thu hút và sử dụng một cách có hiệu quả nhất nguồn FDI trong lĩnh vực công nghiệp điện tử như sau :
Thứ nhất, về việc hoàn thiện môi trường pháp lý. Luật đầu tư nước ngoài ra đời đã trên 10 năm, qua các lần sửa đổi và ngày càng hoàn thiện, tuy nhiên còn có một số vấn đề cần tiếp tục sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện như sau:
- Nâng cấp một số văn bản pháp quy dưới luật sang hình thức luật. Nhìn chung Luật đầu tư trực tiếp nước ngoài của nước ta đã khá đầy đủ nhưng để hoàn chỉnh hơn, hấp dẫn hơn các nhà đầu tư đối với nước ta phải chuyển đổi một số quy định từ văn bản dưới luật sang hình thức luật để nó có giá trị pháp lý cao hơn và ổn định hơn ví dụ quy chế khu công nghiệp tập trung, khu chế xuất... thực hiện điều này giúp cho các nhà đầu tư vững tin hơn tránh tình trạng phải đối phó với sự thay đổi về mặt pháp lý.
- Hoàn thiện hệ thống pháp luật về thuế. Trong thời gian tới Nhà nứơc cần nhanh chóng ban hành các văn bản hướng đến thu thuế cũng như các loại phí một cách thống nhất và hợp lý, tránh tình trạng nhiều khoản thu không hợp lý làm phiền hà tới nhiều người, đặc biệt là các nhà đầu tư nước ngoài.
- Cải cách thủ tục hành chính, hình thành cơ chế, chính sách đồng bộ nhằm phát huy tiềm năng hỗ trợ và khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia thu hút vốn đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực công nghiệp điện tử. Đơn giản hoá thủ tục, quy trình xét duyệt thẩm định dự án đầu tư về quy trình "một cửa" và thời hạn xét duyệt rút ngắn tối đa.
Xây dựng và ban hành một hệ thống chính sách đồng bộ, ổn định nhằm tạo môi trường pháp lý thuận lợi trên địa bàn như chính sách đền bù giải phóng mặt bằng, cấp phép xây dựng, cấp phép xuất nhập khẩu, về ưu tiên giao đất, cho thuê đất đối với các dự án có thu hút vốn nước ngoài, chính sách giảm giá đất đối với khu công nghiệp điện tử với các dự án có quy mô lớn, diện rộng.
Thứ hai, về xây dựng kết cấu hạ tầng vật chất kỹ thuật. Trong điều kiện phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học công nghệ thì kết cấu hạ tầng vật chất kỹ thuật hiện đại là điều kiện tiên quyết vì kỹ thuật cao chỉ phát huy được trong một cơ sở hạ tầng thích hợp. Để nhanh chóng tiếp thu vốn và kỹ thuật nước ngoài, nước ta cần phát triển việc thành lập và mở rộng các đặc khu kinh tế: khu chế xuất, khu tự do buôn bán, khu công nghiệp kỹ thuật cao trên những vùng đất gắn những đô thị lớn, cảng biển, cảng hàng không..
Thứ ba, về vấn đề lao động. Đối với các nhà đầu tư đặc biệt là các nhà đầu tư trong lĩnh vực có hàm lượng công nghệ cao như ngành điện tử thì lao động sẽ không còn là sự hấp dẫn nhất đối với họ, bởi vì ở ngành này chi phí lao động chiếm tỷ lệ thấp và ngày càng có xu hướng giảm theo sự tiến bộ của khoa học công nghệ. Do đó, việc đào tạo ra một đội ngũ lao động có tay nghề cao, cần cù, chịu khó, có ý thức tổ chức kỹ thuật, trung thực mới là yếu tố cần thiết để thu hút đầu tư nước ngoài. Nhà nước cần phải tăng cường độ hấp dẫn trên cả 2 mặt: quy định tiền lương tối thiểu hợp lý của doanh nghiệp phù hợp với mặt bằng trong khu vực. Mặt khác, cần phải cải cách hệ thống giáo dục đào tạo, ý thức làm việc, kế hoạch đào tạo lại, trước mắt là đội ngũ lao động trực tiếp làm trong xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài để lao động của ta có trình độ ngang bằng Quốc tế và khu vực, nhằm nâng cao trình độ cạnh tranh trước mắt và lâu dài.
Thứ tư, phát triển dịch vụ tư vấn công nghiệp nói chung và công nghiệp điện tử nói riêng. Trong nền kinh tế thị trường, khi kinh tế phát triển tới một trình độ nào đó thì hoạt động của ngành dịch vụ sẽ xâm nhập vào hầu hết các lĩnh vực của hoạt động công nghiệp. Nó sẽ cung cấp cho các hoạt động công nghiệp các dịch vụ bao gồm từ tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, giao thông vận tải, bưu điện tới nghiên cứu triển khai khoa học công nghệ và đào tạo nguồn nhân lực, kể cả các dịch vụ về tư vấn pháp lý, tài chính, kế toán... và lúc đó, các doanh nghiệp công nghiệp thay vì trước kia phải tự cung cấp các loại dịch vụ này thì nay có điều kiện để giành nhiều thời gian hơn tập trung việc sản xuất các sản phẩm có chất lượng cao nhất với giá thành hạ nhất, trong điều kiện hiện có của mình. Đặc biệt, trong lĩnh vực công nghiệp điện tử, khi mà những điều kiện về cơ sở hạ tầng, thiết bị công nghệ, về nguồn nhân lực đang còn những bất cập, làm cho quá trình công nghiệp hoá đứng trước những nguy cơ phát triển "quá nóng" mà hậu quả của nó là không lường như một số nước trong khu vực đã gặp phải, thì việc tập trung đẩy mạnh hoạt động dịch vụ công nghiệp nói chung và công nghiệp điện tử nói riêng là một hoạt động cần khuyến khích phát triển.
Thứ năm, xây dựng chiến lược phát triển công nghiệp điện tử. Công nghiệp điện tử là ngành kinh tế mũi nhọn, do đó cần phải được khuyến khích trên các mặt như thuế quan, hỗ trợ hoạt động nghiên cứu và phát triển, xác định các mục tiêu và kế hoạch dài hạn. Đặc biệt, trong giai đoạn từ nay đến năm 2010, xây dựng được nền công nghiệp điện tử - tin học có cơ sở hạ tầng tương đối hợp lý, tham gia vào thị trường thế giới và hướng ra xuất khẩu thực sự trở thành một ngành công nghiệp mũi nhọn với quy mô doanh số đạt tới 10 - 12% GDP. Đồng thời, khi xây dựng các kế hoạch phát triển 5 năm của ngành cần phải nhận thức được ngành công nghiệp điện tử là một công cụ để nâng cao hiệu quả các hoạt động kinh tế của tất cả các khu vực kinh tế - những khu vực sẽ tăng khả năng cạnh tranh của nền kinh tế quốc dân./.
Thành phố đã đẩy mạnh công tác thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng từ 0% năm 1990 lên 12,64% trong cơ cấu GDP thành phố năm 2000. Trong GDP của Thành phố kinh tế nhà nước Trung ương chiếm tỷ trọng 57,2% (năm 2000), có tốc độ tăng trưởng bình quân 9,57%/năm (giai đoạn 1996-2000); kinh tế nhà nước địa phương chiếm tỷ trọng 9,2%, tốc độ tăng trưởng bình quân 6,5%/năm, khu vực ngoài nhà nước chiếm tỷ trọng 19,9%, tăng trưởng bình quân 7,9%/năm; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài chiếm tỷ trọng 13,7%, tăng trưởng bình quân 25,6%/năm.
Dự kiến vốn FDI giai đoạn 2001-2005: vốn đầu tư đăng ký đạt 4.800 triệu USD (tăng 4,5% so với giai đoạn 5 năm 1996-2000), vốn đầu tư thực hiện đạt 2.350 triệu USD (tăng 9% so với giai đoạn 1996-2000).
Giai đoạn 2006-2010: vốn FDI tăng nhanh,, vốn đăng ký đạt 8.600 triệu USD (tăng 56% so với giai đoạn 2001-2005), vốn đầu tư thực hiện đạt 3.980 triệu USD (tăng 69,4% so với giai đoạn 2001-2005).
FDI giai đoạn 2001-2010 bình quân thu hút 1,32 - 1,4 tỷ USD/năm. Tăng cường thu hút các dự án BOT, BTO, BO,... Đẩy mạnh đầu tư cơ sở hạ tầng kỹ thuật ngoài hàng rào cùng với tiến độ xây dựng triển khai khu công nghiệp tập trung. Khuyến khích đầu tư các khu nhà ở, dịch vụ của các dự án FDI. Tăng cường xúc tiến đầu tư. Đẩy mạnh đào tạo lao động theo yêu cầu của các dự án. Trong từng ngành, từng sản phẩm, tập trung lựa chọn các đối tác có tính chiến lược, khắc phục tình trạng chọn đối tác thiếu cân nhắc, hiệu quả thấp.
Tổ chức tốt việc huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn đầu tư để đảm bảo mục tiêu phát triển. Trong 10 năm tới (2001 - 2010) cần đầu tư trên địa bàn Thủ đô tổng số 329.000 tỷ đồng (bình quân hàng năm 32.900 tỷ đồng), riêng đầu tư bằng nguồn vốn FDI là 10.300 tỷ đồng/năm (vốn đăng ký 18.760 tỷ đồng/năm). Trong đó cần đầu tư cho các chương trình, dự án lớn là 101.255 tỷ đồng (bình quân hàng năm 10.126 tỷ đồng) từ các nguồn vốn ngân sách, vốn ODA và các nguồn vốn khác (xin xem biểu 3 và 4).
Giai đoạn 2001 - 2005 cần đầu tư 103.500 tỷ đồng, bình quân hàng năm 20.700 tỷ đồng (giai đoạn 1996 - 2000 đã đầu tư bình quân hàng năm 12.830 tỷ), riêng đầu tư bằng nguồn vốn FDI là 5.500 tỷ đồng/năm (vốn đăng ký 13.440 tỷ đồng/năm). Trong đó cần đầu tư cho các chương trình, dự án lớn là 40.500 tỷ đồng (bình quân hàng năm 8.100 tỷ đồng) từ các nguồn vốn ngân sách, vốn ODA và các nguồn vốn khác.
Giai đoạn 2006 - 2010 cần đầu tư 225.500 tỷ đồng, bình quân hàng năm 45.100 tỷ đồng, riêng đầu tư bằng nguồn vốn FDI là 15.100 tỷ đồng/năm (vốn đăng ký 24.080 tỷ đồng/năm). Trong đó cần đầu tư cho các chương trình, dự án lớn là 60.755 tỷ đồng (bình quân hàng năm 12.151 tỷ đồng) từ các nguồn vốn ngân sách, vốn ODA và các nguồn vốn khác.
Năm 2001 cần đầu tư 13.740 tỷ đồng, tăng 15,5% so với năm 2000 (năm 2000 ước tính tổng đầu tư xã hội là 11.895 tỷ đồng), riêng đầu tư bằng nguồn vốn FDI là 3.000 tỷ đồng (vốn đăng ký 6.860 tỷ đồng).
(Nguồn: Chiến lược 10 năm)
các Động lực và nhân tố chủ yếu
tác động tới thu hút FDI trên thế giới.
Th.S. Nguyễn Thị Kim Nhã Tổng cục Thống kê
Trên hết và xuyên suốt tất cả các thời kỳ, các quốc gia dù phát triển hay đang phát triển, dù là bên nhận đầu tư hay bên chủ đầu tư, thì động lực mạnh mẽ và bao quát nhất tạo ra và chi phối những dòng FDI chính là lợi nhuận, với khát vọng tìm kiếm các thị trường đầu tư, thị trường tiêu thụ, tránh sự nằm im phi kinh tế của các luồng vốn nhàn rỗi, tránh những rủi ro kinh tế khi đầu tư vào một thị trường (theo phương châm "không để tất cả trứng vào một giỏ").
Nếu không xét đến khả năng và nhu cầu về vốn đầu tư của cả bên nước chủ đầu tư lẫn bên nước nhận đầu tư, và với giả định bối cảnh chung của thế giới ở điều kiện bình thường cả về tự nhiên và nhân tạo, thì có thể nhận thấy dòng FDI chỉ thực sự mở rộng và ưa tìm đến những nơi có môi trường đầu tư đảm bảo cho dòng vốn sinh sôi nảy nở. Thực tiễn cho thấy tiêu chuẩn của môi trường đầu tư hấp dẫn, có sức cạnh tranh để thu hút FDI trước hết bao gồm các nhân tố:
Sự ổn định về kinh tế và chính trị - xã hội và luật pháp đầu tư.
Đây là điều kiện tiên quyết nhằm giảm thiểu những rủi ro KT -CT của vốn FDI vượt khỏi sự kiểm soát của chủ ĐTNN. Những bất ổn định KT - CT không chỉ làm cho dòng vốn này bị chững lại, thu hẹp, mà còn làm cho dòng vốn từ trong nước chảy ngược ra ngoài, tìm đến những nơi trú ẩn mới an toàn và hấp dẫn hơn.
Điều kiện này không chỉ bao gồm các yêu cầu về duy trì sự ổn định phát triển kinh tế và trật tự CT - XH cần thiết cho sự vận hành bình thường của đất nước, sự hoàn chỉnh hữu hiệu và tính có thể dự báo được của hệ thống pháp luật đầu tư theo xu hướng ngày càng tiếp cận tiêu chuẩn và thông lệ quốc tê, mà còn phải duy trì được dư luận và tâm lý xã hội chung thuận lợi và ủng hộ các nhà ĐTNN. Bất kỳ sự bất ổn định chính trị nào, các xung đột khu vực, nội chiến hay sự hoài nghi, tẩy chay, thiếu thiện cảm và "gây khó dễ" của giới lãnh đạo và nhân dân đối với vốn ĐTNN, đều là những nhân tố nhạy cảm tác động tiêu cực đến tâm lý và hành động thực tế của các chủ ĐTNN, cũng như làm chậm lại các cải cách chính sách cần thiết đối với việc thu hút FDI của nước chủ nhà.
Hệ thống pháp luật đầu tư của nước sở tại phải đảm bảo sự an toàn về vốn và cuộc sống cá nhân cho nhà đầu tư khi hoạt động đầu tư đó của họ không làm phương hại đến an ninh quốc gia, bảo đảm pháp lý đối với tài sản tư nhân và môi trường cạnh tranh lành mạnh, đảm bảo việc di chuyển lợi nhuận về nước cho các nhà đầu tư được dễ dàng, thuận lợi nhất cho hoạt động ĐTTTNN. Nội dung của hệ thống pháp luật càng đồng bộ, chặt chẽ, tiên tiến, nhưng cởi mở, phù hợp với luật pháp và thông lệ quốc tế thì khả năng hấp dẫn FDI càng cao.
Sự mềm dẻo, hấp dẫn của hệ thống chính sách khuyến khích ĐTNN.
Chính sách thương mại cần thông thoáng theo hướng tự do hoá để bảo đảm khả năng xuất - nhập khẩu các máy móc thiết bị, nguyên liệu sản xuất, cũng như sản phẩm, tức bảo đảm sự thuận lợi, kết nối liên tục các công đoạn hoạt động đầu tư của các nhà ĐTNN.
Chính sách tiền tệ phải giải quyết được các vấn đề chống lạm phát và ổn định tiền tệ. Chính sách lãi suất và tỷ giá tác động trực tiếp đến dòng chảy của FDI với tư cách là những yếu tố quyết định giá trị đầu tư và mức lợi nhuận thu được tại một thị trường xác định. Việc xem xét sự vận động của vốn nước ngoài ở các nước trên thế giới cho thấy, dòng vốn đầu tư dài hạn, nhất là FDI đổ vào một nước thường tỷ lệ thuận với sự gia tăng lòng tin của các chủ đầu tư, đồng thời lại tỷ lệ nghịch với độ chênh lệch lãi suất trong - ngoài nước, trong - ngoài khu vực. Nếu độ chênh lệch lãi suất đó càng cao, tư bản nước ngoài càng ưa đầu tư theo kiểu cho vay ngắn hạn, ít chịu rủi ro và hưởng lãi ngay trên chỉ số chênh lệch lãi suất đó. Hơn nữa, khi mức lãi suất trong nước cao hơn mức lãi suất quốc tế, thì sức hút với dòng vốn chảy vào càng mạnh. Tuy nhiên, đồng nghĩa với lãi suất cao là chi phí trong đầu tư cao, làm giảm đi lợi nhuận của các nhà đầu tư. Một tỷ giá hối đoái linh hoạt, phù hợp với tình hình phát triển kinh tế ở từng giai đoạn thì khả năng thu lợi nhuận từ xuất khâủ càng lớn, sức hấp dẫn với vốn nước ngoài càng lớn. Một nước có mức tăng trưởng xuất khẩu cao sẽ làm yên lòng các nhà đầu tư vì khả năng trả nợ của nước đó được bảo đảm hơn, độ mạo hiểm trong đầu tư sẽ giảm xuống.
Các mức ưu đãi tài chính - tiền tệ dành cho vốn ĐTNN trước hết phải bảo đảm cho các chủ đầu tư tìm kiếm được lợi nhuận cao nhất trong điều kiện kinh doanh chung của khu vực, của mỗi nước để khuyến khích họ đầu tư vào trong nước và vào những nơi mà Chính phủ muốn khuyến khích đầu tư.
Những ưu đãi về thuế chiếm vị trí quan trọng hàng đầu trong số các ưu đãi tài chính giành cho ĐTNN. Mức ưu đãi thuế cao hơn luôn được giành cho các dự án đầu tư có tỷ lệ vốn nước ngoài cao, quy mô lớn, dài hạn, hướng về thị trường nước ngoài, sử dụng nhiều nguyên vật liệu và lao động trong nước, tái đầu tư lợi nhuận và có mức độ "nội địa hóa" sản phẩm và công nghệ cao hơn.
Hệ thống thuế thi hành sẽ càng hiệu quả nếu càng rõ ràng, đơn giản, dễ áp dụng và mức thuế không được quá cao (so với lãi suất, lợi nhuận bình quân, so với mức thuế chung của khu vực và quốc tế...). Các thủ tục thuế, cũng như các thủ tục quản lý ĐTNN khác, phải được tinh giản hợp lý, tránh vòng vèo nhiều khâu trung gian, phải công khai và thuận lợi cho đối tượng chịu quản lý và nộp thuế. Tự do hoá đầu tư càng cao càng thu hút được nhiều vốn nước ngoài.
Sự hỗ trợ tín dụng (ở nhiều nước, Chính phủ đã lập ra các Quỹ hỗ trợ ĐTNN để hỗ trợ tín dụng cho các nhà đầu tư, nhất là cho những dự án thuộc diện khuyến khích đầu tư), cùng với các dịch vụ tài chính, bảo lãnh của Chính phủ, của các cơ quan tín dụng xuất khẩu và của các tổ chức tài chính đa phương như WB đã, đang và sẽ đóng vai trò to lớn làm tăng dòng vốn nước ngoài, nhất là FDI tư nhân vào các nước và khu vực, (trong đó có Việt Nam nói chung, Hà Nội nói riêng), đặc biệt vào lĩnh vực hạ tầng. Như vậy, một khi các rủi ro giảm xuống, tỷ lệ lợi nhuận tăng lên, thì các luồng vốn nước ngoài sẽ đổ vào nhiều và ổn định ngay cả khi tốc độ tăng trưởng chung của nước đó có chậm lại. Ngược lại, tư bản nước ngoài sẽ thận trọng hơn, thậm chí bỏ chạy nếu nước tiếp nhận đầu tư có "độ tin cậy thấp về tín dụng" - một chỉ số tổng hợp của các yếu tố như: rủi ro chính trị cao, phát triển kinh tế chậm, xuất khẩu kém, nợ cao và bất ổn định kinh tế vĩ mô. Khi đó, dù những ưu đãi tài chính rất cao được đưa ra cũng khó hấp dẫn được các nhà ĐTNN vốn năng động, thận trọng, luôn mong muốn và thường có nhiều cơ hội lựa chọn thị trường đầu tư như ý trên toàn thế giới.
Sự phát triển của cơ sở hạ tầng.
Ngoại trừ đối với các nhà ĐTNN chuyên kinh doanh trong lĩnh vực hạ tầng, còn sự phát triển của CSHTKT của một quốc gia và một địa phương tiếp nhận FDI luôn là điều kiện vật chất hàng đầu để các chủ đầu tư có thể nhanh chóng thông qua các quyết định và triển khai trên thực tế các dự án đầu tư đã cam kết. Một tổng thể hạ tầng phát triển phải bao gồm một hệ thống giao thông vận tải đồng bộ và hiện đại với các cầu, cảng, đường xá, kho bãi và các phương tiện vận tải đủ sức bao phủ quốc gia và đủ tầm hoạt động quốc tế; một hệ thống bưu điện thông tin liên lạc viễn thông với các phương tiện nghe - nhìn hiện đại, có thể nối mạng thống nhất toàn quốc và liên thông với toàn cầu; hệ thống điện nước dồi dào và phân bổ tiện lợi cho các hoạt động SXKD cũng như đời sống và một hệ thống mạng lưới cung cấp các loại dịch vụ khác (y tế, giáo dục, giải trí, các dịch vụ hải quan, tài chính, thương mại, quảng cáo, kỹ thuật,v.v..) phát triển rộng khắp, đa dạng và có chất lượng cao. Tóm lại, hệ thống kết cấu hạ tầng đó phải giúp cho các chủ ĐTNN tiện nghi và sự thoải mái dễ chịu như ở nhà họ, và giúp họ giảm được chi phí sản xuất về giao thông vận tải, trong khi không hề bị cản trở trong việc duy trì và phát triển các quan hệ làm ăn bình thường với các đối tác của họ trong cả nước, cũng như khắp toàn cầu. Trong các điều kiện và chính sách hạ tầng phục vụ FDI, chính sách đất đai và bất động sản có sức chi phối mạnh mẽ đến luồng FDI đổ vào một nước. Càng tạo cho các chủ ĐTNN sự an tâm về sở hữu và quyền chủ động định đoạt sử dụng mua bán đất đai, bất động sản mà họ có được bằng nguồn vốn đầu tư của mình như một đối tượng kinh doanh thì họ càng mở rộng hầu bao đầu tư lớn và lâu dài hơn vào các dự án trên lãnh thổ nước và địa phương tiếp nhận đầu tư.
Dịch vụ thông tin và tư vấn đầu tư đóng vai trò rất quan trọng đối với cả những nước thu hút vốn nước ngoài lẫn đối với các chủ ĐTNN. Nội dung hoạt động dịch vụ này rất phong phú và ngày càng mở rộng, bao gồm từ việc cung cấp thông tin cập nhật, có hệ thống, đáng tin cậy về môi trường đầu tư của nước và địa phương tiếp nhận đầu tư cũng như về các chủ ĐTNN cho các đối tác tiềm năng rộng rãi trong nước và trên toàn thế giới (trong đó các chủ đầu tư lớn luôn được chú ý săn sóc đặc biệt); hỗ trợ các đối tác đầu tư trong và ngoài nước tiếp xúc và lựa chọn các đối tác thích hợp, tin cậy; đến giúp đỡ các bên làm thủ tục ký kết các hợp động kinh doanh, thành lập các liên doanh, cả các dịch vụ tư vấn kỹ thuật và thông tin cần thiết khác liên quan đến đánh giá các quá trình và kết quả hoạt động kinh doanh. Việc phát triển hệ thống CSHT không chỉ là điều kiện cần để khai tăng sự hấp dẫn của môi trường đầu tư của mình, mà đó còn là cơ hội để nước và địa phương tiếp nhận đầu tư có thể và có khả năng thu lợi đầy đủ hơn từ dòng vốn nước ngoài đã thu hút được (thông qua tăng thu nhập từ dịch vụ vận tải, thương mại, tài chính, tư vấn thông tin phục vụ các dự án đầu tư đang và sẽ triển khai).
Sự phát triển của đội ngũ lao động, của trình độ khoa học - công nghệ và hệ thống doanh nghiệp trong nước và trên địa bàn.
Đội ngũ nhân lực có kỹ thuật cao là điều kiện hàng đầu để một nước và địa phương vượt qua được những hạn chế về tài nguyên thiên nhiên và trở nên hấp dẫn các nhà ĐTNN. Việc thiếu các nhân lực kỹ thuật lành nghề, các nhà lãnh đạo, quản lý cao cấp, các nhà doanh nghiệp tài ba và sự lạc hậu về trình độ KH - CN trong nước sẽ khó lòng đáp ứng được các yêu cầu của nhà đầu tư để triển khai các dự án của họ, làm chậm và thu hẹp lại dòng vốn nước ngoài chảy vào trong nước và địa phương.
Một hệ thống doanh nghiệp trong nước phát triển, đủ sức hấp thu công nghệ chuyển giao, và là đối tác ngày càng bình đẳng với các nhà ĐTNN, là điều kiện cần thiết để nước và địa phương tiếp nhận đầu tư có thể thu hút được nhiều hơn và hiệu quả hơn luồng vốn nước ngoài. Hệ thống các doanh nghiệp đó phải bao gồm cả những doanh nghiệp sản xuất lẫn dịch vụ ở tất cả các lĩnh vực, ngành nghề và thành thạo các nghiệp vụ kinh doanh quốc tế, đủ sức giữ được thị phần thích đáng tại thị trường trong nước và ngày càng có sức cạnh tranh trên thị trường thế giới. Mạng lưới các doanh nghiệp dịch vụ về tài chính - ngân hàng có vai trò quan trọng trong hệ thống đó, nhằm tạo ra các điều kiện thuận lợi cho việc huy động và lưu chuyển vốn trong nước và quốc tế. Càng tự do hoá tài chính và đầu tư sẽ càng tạo điều kiện thu hút các nhà đầu tư lớn.
Sự phát triển của nền hành chính quốc gia và hiệu quả của các dự án FDI đã triển khai.
Lực cản lớn nhất làm nản lòng các nhà đầu tư là thủ tục hành chính rườm ra, phiền phức gây tốn kém về thời gian và chi phí, làm mất cơ hội đầu tư. Bộ máy hành chính hiệu quả quyết định sự thành công không chỉ thu hút vốn nước ngoài mà còn của toàn bộ quá trình huy động, sử dụng vốn cho đầu tư phát triển của mỗi quốc gia cũng như mỗi địa phương. Bộ máy đó phải thống nhất, gọn nhẹ, sáng suốt và nhạy bén về chính sách, với những thủ tục hành chính, những quy định pháp lý có tính chất tổi thiểu, đơn giản, công khai và nhất quán, được thực hiện bởi những con người có trình độ chuyên môn cao, được giáo dục tốt và có kỷ luật, tôn trọng pháp luật.
Vì mục tiêu của FDI là nhằm thu lợi nhuận cao, do vậy, nếu các dự án FDI đã được triển khai đạt kết quả tỷ suất lợi nhuận cao sẽ khuyến khích và củng cố niềm tin cho các nhà ĐTNN tiếp tục đầu tư để tái sản xuất mở rộng, đồng thời nêu gương có sức thuyết phục các nhà ĐTNN khác yên tâm bỏ vốn. Điều này sẽ giúp cho nguồn vốn FDI tiếp tục tăng. Ngược lại, nếu các dự án đang triển khai kinh doanh không hiệu quả, thường xuyên thua lỗ sẽ làm nản lòng các nhà đầu tư, vì họ cho rằng môi trường đầu tư đã có rủi ro.
Tóm lại, FDI đã, đang và sẽ tìm đến quốc gia và địa phương nào có nền kinh tế- chính trị- xã hội ổn định; hệ thống pháp luật đầu tư đầy đủ, cởi mở, tin cậy và mang tính chuẩn mực quốc tế cao; Chính sách ưu đãi đầu tư linh hoạt và ở mức hấp dẫn, không thua kém các nước hoặc địa phương khác; có CSHT được chuẩn bị tốt; lao động có trình độ và rẻ; thị trường tiêu thụ lớn; nền hành chính hữu hiệu và các dự án đã triển khai kinh doanh đạt hiệu quả. Đặc biệt, việc quốc gia đó tham gia vào các tổ chức kinh tế khu vực và quốc tế, cũng như tuân thủ nghiêm túc các Công ước, quy định về luật pháp đầu tư và thông lệ đối xử quốc tế... sẽ là những yếu tố đảm bảo lòng tin và hấp dẫn các dòng FDI thậm chí còn mạnh hơn việc đưa ra các ưu đãi tài chính cao... nghĩa là dòng FDI chỉ ưa tìm đến những nơi đầu tư an toàn, đồng vốn được sử dụng có hiệu quả, quay vòng nhanh và ít rủi ro.
Các yếu tố trên mang tính phổ quát toàn thế giới, trong đó có Việt Nam, Thành phố Hà Nội cũng không nằm ngoài quy luật đó. So với cả nư._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 28331.doc