Đầu tư của các Công ty xuyên quốc gia Mỹ tại Việt Nam

Bảng các chữ viết tắt tiếng Anh Afta : (Asian Free Trade Area) - Khu vực mậu dịch tự do Châu á AID : (Agency for International Development) - Cơ quan phát triển quan hệ quốc tế Hoa Kỳ APec : (Asean - Pacific Economic Cooperation) - Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu á - Thái Bình Dương. Asean : (Association of South East Asian Nations) - Hiệp hội các quốc gia Đông Nam á. EU : (European Union) - Liên minh châu Âu. EXIMBANK : (Export and Import Bank) - Ngân hàng xuất nhập khẩu Hoa Kỳ.

doc97 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2057 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Đầu tư của các Công ty xuyên quốc gia Mỹ tại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
FDI : (Foreign Direct Investment) - Đầu tư trực tiếp nước ngoài. GATT : (General Agreement on Tariff and Trade) - Hiệp định chung về thuế quan và thương mại. GDP : (Gross Domestic Productions) - Tổng sản phẩm quốc nội. IMF : (International Monetary Fund) - Quỹ tiền tệ quốc tế. MFN : (Most Favoured Nation) - Quy chế tối huệ quốc. NICS : (New Industriazation Countries) - Các nước công nghiệp mới. NTR : (Normal Trade Relation) - Quan hệ thương mại bình thường. OPIC : (Oversea Private Investment Corporation) - Công ty đầu tư tư nhân hải ngoại. R & D : (Research and Development) - Nghiên cứu và phát triển. TDA : (Trade and Develop Agency) - Tổ chức thương mại và phát triển Hoa Kỳ. TNC(S) : (Transnational Corporation(s) - Công ty xuyên quốc gia. VAT : (Value Added Tax) - Thuế giá trị gia tăng. WTO : (World Trade Orgnization) - Tổ chức thương mại thế giới. Lời mở đầu Tính cấp thiết của đề tài. Việt nam tiến hành công nghiệp hoá trong điều kiện tích lũy trong nước còn thấp, nhu cầu lớn về vốn đòi hỏi phải khai thác cả trong và ngoài nước dưới mọi hình thức. Cùng với nguồn vốn ODA và vốn đi vay khác, đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) do ưu thế nổi trội của nó là nguồn vốn không gây nợ, các TNC tự nguyện đầu tư và đi kèm theo vốn là thiết bị và công nghệ để thực hiện dự án, đang trở thành nguồn vốn nước ngoài quan trọng nhất đối với các nước đi sau, xuất phát điểm thấp, rất cần vốn, công nghệ và kỹ năng quản lý. Ngày nay, nhờ chính sách đổi mới, các công ty xuyên quốc gia đã có mặt trong nhiều ngành kinh tế, nhiều địa phương ở Việt Nam. Có rất nhiều đại diện của các công ty lớn từ các nước công nghiệp phát triển và cũng có với số lượng nhiều hơn, đại diện của các công ty vừa và nhỏ từ các nước trong khu vực. Có thể nói phần lớn đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam được thực hiện bởi các công ty xuyên quốc gia hay các công ty xuyên quốc gia chính là chủ thể thực hiện FDI ở Việt Nam. Để nâng cao hiệu quả thu hút các công ty xuyên quốc gia vào hoạt động ở nước ta, việc nghiên cứu, tìm hiểu về các công ty này là rất cần thiết. Là các công ty có sức mạnh kinh tế hơn hẳn so với các công ty xuyên quốc gia của các nước khác, cùng với ưu thế về khoa học công nghệ, sự hỗ trợ trực tiếp của chính phủ, các công ty xuyên quốc gia Hoa Kỳ giữ vai trò quan trọng chi phối nền kinh tế thế giới. Trong quá trình phát triển nếu khai thác được nguồn lực quan trọng này thì Việt Nam sẽ có thêm nguồn lực để phát triển kinh tế, hoà nhập vào nền kinh tế thế giới. Tuy nhiên cho đến nay đầu tư của công ty xuyên quốc gia Hoa Kỳ ở nước ta vẫn còn rất hạn chế. Hơn nữa, so với các công ty xuyên quốc gia Tây Âu và Nhật Bản, các công ty xuyên quốc gia Hoa kỳ còn tỏ ra kém hiệu quả hơn. Hiện trạng này đã đặt ra nhiều câu hỏi: Các công ty xuyên quốc gia Hoa Kỳ đã thực sự đầu tư vào Việt Nam chưa? Những nguyên nhân nào dẫn đến tình trạng hoạt động kém hiệu quả: hạn chế của họ hay cản trở từ phía các chính sách của Việt Nam? Các công ty xuyên quốc gia Hoa Kỳ có những lợi thế và bất lợi gì so với các công ty xuyên quốc gia khác đang hoạt động đầu tư tại Việt Nam? Để thu hút và nâng cao hiệu quả đầu tư của các công ty xuyên quốc gia Hoa Kỳ, chính phủ hai nước và bản thân các công ty xuyên quốc gia Hoa Kỳ cần phải làm gì? Chúng ta đã có thực tiễn quan hệ với các công ty xuyên quốc gia trong một vài năm qua, tuy nhiên chúng ta chưa có điều kiện nghiên cứu đến hiệu quả và kinh nghiệm hợp tác trên thực tế ở nước ta. Việc nghiên cứu về đầu tư của các TNC nói chung và đặc biệt đầu tư của các TNC Hoa Kỳ ở Việt Nam sẽ giúp chúng ta chủ động đưa ra các chính sách phù hợp; tránh được các khuynh hướng bất lợi cho Việt Nam; khai thác được đối tác đầu tư tiềm năng ... từ đó tháo gỡ khó khăn cho các công ty Hoa Kỳ ở Việt nam là một việc hết sức cần thiết. Trên đây là những cơ sở để lựa chọn đề tài: “Đầu tư của các công ty xuyên quốc gia Hoa Kỳ tại Việt nam”. Tình hình nghiên cứu: Đã có rất nhiều hội nghị, hội thảo khoa học được tổ chức, nhiều đề tài nghiên cứu đăng trên các báo, tạp chí .... nghiên cứu về đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt nam. Tuy nhiên, so với nhiều nước trong khu vực, đầu tư nước ngoài nói chung và đặc biệt là hoạt động của các công ty xuyên quốc gia nói riêng vẫn còn là lĩnh vực mới mẻ đối với nước ta. Bởi thế, còn có rất ít công trình nghiên cứu về các công ty xuyên quốc gia ở Việt Nam. Đến nay, ngoài đề tài nghiên cứu cấp Nhà nước: “Bản chất, đặc điểm và vai trò của các TNC trên thế giới, chính sách của chúng ta” do PGS. TS. Nguyễn Thiết Sơn làm chủ nhiệm đề tài (1996 - 2000), thì chưa có một công trình nghiên cứu nào có hệ thống và tổng thể về đầu tư của các công ty xuyên quốc gia ở Việt Nam. Hơn nữa, nghiên cứu về hoạt động của các công ty xuyên quốc gia của Hoa Kỳ thì lại càng ít, nếu có cũng mới chỉ ở mức mô tả về động thái đầu tư của Hoa Kỳ ở Việt Nam (Đỗ Đức Định, 2000; George C.Herring, 1996; Mark Mason, 1998; Nguyễn Minh Long, 2000; Phùng Xuân Nhạ, 2001). Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu: Phân tích cơ sở lý luận và thực tiễn quan trọng của chính sách thu hút đầu tư của các công ty xuyên quốc gia Hoa Kỳ ở Việt Nam. Khảo sát và đánh giá đầu tư của các công ty xuyên quốc gia Hoa Kỳ ở Việt Nam trong những năm gần đây. Gợi ý một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả đầu tư của các công ty xuyên quốc gia Hoa Kỳ ở Việt Nam. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu: Đối tượng: Hoạt động đầu tư của các công ty xuyên quốc gia Hoa Kỳ ở Việt Nam. Phạm vi: Luận văn không nghiên cứu đối tượng từ các góc độ kinh tế ngành cụ thể và khoa học quản lý mà chỉ tập trung phân tích dưới góc độ kinh tế học chính trị các cơ sở về mặt lý thuyết và thực tiễn về đầu tư của các công ty xuyên quốc gia Hoa Kỳ ở Việt nam. Mặt khác, thực tế đầu tư của Hoa kỳ vào Việt Nam hiện nay chủ yếu được thực hiện thông qua các chi nhánh của các công ty xuyên quốc gia do đó nghiên cứu đầu tư của Hoa kỳ vào Việt Nam thực chất là nghiên cứu đầu tư của các công ty xuyên quốc gia Hoa kỳ ở Việt Nam. Phương pháp nghiên cứu: Ngoài các phương pháp cơ bản được sử dụng trong nghiên cứu kinh tế như: Phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử ... luận văn còn sử dụng các phương pháp: phân tích so sánh, thống kê, điều tra mẫu. Dự kiến những đóng góp của luận văn: Làm rõ: bản chất và các yếu tố quyết định thu hút các công ty xuyên quốc gia của Hoa Kỳ vào Việt Nam. Đánh giá hoạt động đầu tư của các công ty xuyên quốc gia Hoa Kỳ ở Việt Nam. Đưa ra một số giải pháp nhằm thu hút và sử dụng có hiệu quả đầu tư của các công ty xuyên quốc gia Hoa Kỳ tại Việt nam. Bố cục của luận văn: Đề tài: "Đầu tư của các công ty xuyên quốc gia Hoa Kỳ ở Việt Nam" ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục các tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1. Cơ sở lý luận và thực tiễn của đầu tư các công ty xuyên quốc gia Hoa Kỳ ở Việt nam. Chương 2. Thực trạng đầu tư của các công ty xuyên quốc gia Hoa Kỳ ở Việt nam. Chương 3. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả đầu tư của các công ty xuyên quốc gia. Chương 1 Cơ sở lý luận và thực tiễn của đầu tư các công ty xuyên quốc gia Hoa Kỳ ở Việt nam Bản chất, đặc điểm và vai trò của các công ty xuyên quốc gia Hoa Kỳ 1.1.1. Khái niệm và định nghĩa về công ty xuyên quốc gia. Khi quá trình sản xuất - kinh doanh của một công ty vượt ra khỏi biên giới quốc gia và có quan hệ kinh tế chặt chẽ với nhiều nước thông qua việc thiết lập các chi nhánh ở nước ngoài thì công ty đó được gọi là công ty xuyên quốc gia. Sự phát triển liên tục của công ty xuyên quốc gia về quy mô, cơ cấu tổ chức, phương thức sở hữu từ sau chiến tranh thế giới lần thứ hai đến nay đã làm nảy sinh rất nhiều quan niệm và định nghĩa khác nhau về công ty xuyên quốc gia. Mặc dù đều thừa nhận rằng, các công ty xuyên quốc gia phải là những công ty độc quyền lớn, hoạt động trên phạm vi quốc tế, sử dụng nhân công, nguyên liệu cho sản xuất tại nước mà nó cắm nhánh và có thể gọi là công ty xuyên quốc gia hay đa quốc gia tùy theo tiến trình phát triển nhận thức chung về loại hình công ty này. Tuy nhiên, chúng ta có thể nhận thấy về cơ bản có hai loại quan niệm chính như sau: Thứ nhất, quan niệm về công ty quốc tế (International Corporation), trong đó bao gồm cả công ty toàn cầu, công ty xuyên quốc gia, công ty đa quốc gia, công ty siêu quốc gia. Những người theo quan niệm này không quan tâm đến nguồn gốc tư bản sở hữu cũng như quốc tịch của công ty, không chú ý đến bản chất quan hệ sản xuất của quốc gia có công ty đó hay chi nhánh của nó. Nói chung, họ chỉ quan tâm đến mặt hoạt động sản xuất kinh doanh, thương mại, đầu tư quốc tế hoá các hoạt động kinh doanh của các công ty mà thôi. Thứ hai, quan niệm về công ty xuyên quốc gia (Transnational Corporation) Là những công ty tư bản độc quyền có tư bản thuộc về chủ tư bản của một nước nhất định nào đó. ở đây, người ta chú ý đến tính chất sở hữu và tính quốc tịch của tư bản: vốn đầu tư - kinh doanh là của ai? ở đâu? Chủ tư bản ở một nước cụ thể nào đó có công ty mẹ đóng tại nước đó và thực hiện kinh doanh trong và ngoài nước, bằng cách lập các công ty con ở nước ngoài là hình thức điển hình của loại hình này. Ví dụ công ty Sony của Nhật Bản (tài sản tương ứng 46 tỷ USD), công ty Ford của Mỹ (tài sản tương ứng 263 tỷ USD) trong quá trình sản xuất và kinh doanh đã dần trở thành những công ty khổng lồ của thế giới, chúng đã thiết lập các chi nhánh ở nhiều nơi trên thế giới kể cả ở Việt nam và đều là những công ty xuyên quốc gia theo loại hình này. Dựa trên tiêu thức sở hữu để xác định loại hình công ty, người ta còn đưa ra khái niệm Công ty đa quốc gia (Multinational Corporation). Là công ty tư bản độc quyền thiết lập các chi nhánh ở nước ngoài để tiến hành các hoạt động kinh doanh quốc tế, nhưng khác với công ty xuyên quốc gia ở chỗ, tư bản thuộc sở hữu công ty mẹ là của hai hay nhiều nước. Ví dụ: công ty mẹ “Royal Dutch / Shell Group” và công ty mẹ “Unilever” có vốn sở hữu của các chủ tư bản Anh và Hà Lan (tài sản tương ứng là 124,4 tỷ USD). Công ty mẹ Fortis thuộc sở hữu của Hà Lan và Bỉ (tài sản 177 tỷ USD) là những công ty mẹ đã thiết lập hàng trăm chi nhánh ở nhiều nước trên thế giới và vì sở hữu của công ty tư bản của hai nước, do đó người ta gọi chúng là công ty đa quốc gia, hay còn gọi là công ty liên quốc gia, công ty siêu quốc gia. Sự phân định này chủ yếu căn cứ vào vốn của công ty, thuộc sở hữu tư bản một nước hay nhiều nước từ đó liên quan đến tập đoàn lãnh đạo quản lý của công ty. Nếu là công ty xuyên quốc gia thì tập đoàn lãnh đạo, quản lý thuộc về các nhà tư bản một nước. Nếu là công ty đa quốc gia thì hội đồng quản trị lãnh đạo của công ty bao gồm các nhà tư bản có cổ phần thuộc nhiều nước khác nhau. Sự phân định trên chỉ căn cứ vào công ty mẹ chứ không căn cứ vào các công ty hay xí nghiệp chi nhánh. Trong số 500 công ty lớn nhất thế giới hiện nay, chỉ có 3 công ty trên là thuộc sở hữu của hai nước. Số còn lại 497 công ty (99,4% tổng số các công ty) thuộc sở hữu chỉ của một nước, không có công ty nào thuộc sở hữu 3 nước trở lên. Như vậy, tính chất đa quốc gia của công ty mẹ là rất thấp. Hiện nay người ta ít dùng thuật ngữ “công ty đa quốc gia” mà dùng thuật ngữ “công ty xuyên quốc gia”. Ngày nay, không có công ty xuyên quốc gia nào là không phải công ty tư bản độc quyền lớn. Trong các công ty đó thường bao gồm nhiều loại tư bản (tư bản sản xuất, thương mại, tài chính ...) hoạt động liên kết với nhau. Điều đó cho phép các công ty có khả năng hoạt động linh hoạt có hiệu quả, phân tán được rủi ro trong kinh doanh. Như vậy, hai quan niệm trên khác nhau ở chỗ xem xét công ty xuyên quốc gia hoặc là giác độ kinh doanh quốc tế hoặc từ giác độ sở hữu. Các quan niệm này được hình thành từ lịch sử phát triển của các công ty hoạt động vượt ra khỏi biên giới quốc gia và hoạt động trên phạm vi quốc tế. Sự phát triển đó là một quá trình do vậy ngay từ thời kỳ đầu chưa thể có ngay những định nghĩa thống nhất về chúng. Một số định nghĩa về công ty xuyên quốc gia: Năm 1976, Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) đã viết trong cuốn “Định hướng cho các công ty đa quốc gia”: “Một công ty đa quốc gia bao gồm nhiều công ty hay thực thể kinh tế. Những thực thể này có thể thuộc quyền sở hữu cá nhân, thuộc quyền sở hữu nhà nước hay sở hữu hỗn hợp, được thành lập ở nhiều nước khác nhau và có mối liên kết chặt chẽ. Chúng ảnh hưởng đến hoạt động của nhau và đặc biệt cùng có chung mục đích và nguồn vốn kinh doanh. Trong một công ty đa quốc gia, mức độ tự chủ của các thực thể rất khác nhau, tùy thuộc vào bản chất mối liên kết và lĩnh vực hoạt động giữa chúng”. Nhóm các nhà nghiên cứu thuộc LHQ trong báo cáo “Tác động của các công ty đa quốc gia đến quá trình phát triển và quan hệ quốc tế” đã viết: “Công ty đa quốc gia là những công ty nắm quyền sở hữu hay kiểm soát hoạt động sản xuất và hệ thống bán hàng tại nhiều nước khác ngoài nước của mình. Đây không chỉ là công ty cổ phần, công ty tư nhân mà chúng có thể là những công ty dưới hình thức hợp tác xã hay thực thể thuộc quyền sở hữu Nhà nước”. Gần đây, năm 1998, trong Báo cáo Đầu tư Thế giới 1998, các chuyên gia của Liên Hiệp Quốc đã nêu định nghĩa về công ty xuyên quốc gia cụ thể hơn như sau: “Các công ty xuyên quốc gia là những công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc vô hạn bao gồm các công ty mẹ và các chi nhánh nước ngoài của chúng. Các công ty mẹ là các công ty mà việc kiểm soát tài sản của các thực thể kinh tế khác ở nước ngoài thường được thực hiện thông qua việc góp vốn tư bản cổ phần của chúng. Mức góp vốn 10% thường được xem như là ngưỡng đối với quyền kiểm soát tài sản của các công ty khác. Các chi nhánh nước ngoài (còn gọi là công ty con) là các công ty TNHH hoặc vô hạn trong đó chủ đầu tư là người sống ở nước ngoài, có mức góp vốn cho phép có được lợi ích lâu dài trong việc quản lý công ty đó (mức góp vốn cổ phần 10% đối với công ty TNHH hoặc tương đương với công ty trách nhiệm vô hạn)". Có khá nhiều định nghĩa về công ty xuyên quốc gia và tính xuyên suốt của việc chi phối quyền sở hữu công ty, thể hiện hợp lý bản chất nội dung phạm trù xuyên quốc gia trong các định nghĩa. Tuy nhiên, để nêu được một khái niệm bao quát cả nguồn gốc và bản chất của các công ty xuyên quốc gia phải xuất phát từ sự vận động lịch sử của hình thái tế bào của quan hệ sản xuất TBCN trong giai đoạn hiện nay được thể hiện ở các công ty xuyên quốc gia. Do đó, công ty xuyên quốc gia được hiểu là một loại cơ cấu tổ chức kinh doanh quốc tế, dựa trên cơ sở kết hợp giữa quá trình sản xuất quy mô lớn của nhiều thực thể kinh doanh quốc tế với quá trình phân phối và khai thác thị trường quốc tế để đạt hiệu quả tối ưu nhằm thu được lợi nhuận độc quyền cao. Tổng quan lý thuyết về sự hình thành và phát triển của các công ty xuyên quốc gia Vào cuối thập kỷ 60, việc mở rộng ồ ạt các chi nhánh của các công ty xuyên quốc gia ra nước ngoài đã trở thành hiện tượng nổi bật của nền kinh tế thế giới lúc bấy giờ. Nhiều học giả đã giải thích và dự đoán hiện tượng này bằng các luận điểm hoặc mô hình lý thuyết khác nhau. Mặc dù có sự khác nhau giữa các học giả, nhưng phần lớn đều xoay quanh việc giải thích tại sao công ty nội địa lại đầu tư ra nước ngoài hoặc lý giải nguyên nhân hình thành và phát triển của các công ty xuyên quốc gia? Chúng ta sẽ lần lượt xem xét các cách giải thích, dự đoán sự hình thành và phát triển của các công ty xuyên quốc gia từ các quan điểm hoặc mô hình lý thuyết của một số học giả tiêu biểu. Vào cuối những năm 60, lý thuyết chu kỳ sản phẩm của Vernon (1966) đã thu hút được nhiều sự chú ý của các học giả nghiên cứu về thương mại và đầu tư quốc tế. Vernon đã đưa ra cách giải thích các hiện tượng này từ chu kỳ phát triển của sản phẩm: đổi mới (sản phẩm mới, sản xuất quy mô nhỏ) đ tăng trưởng (sản xuất hàng loạt) đ mức bão hoà và bước vào giai đoạn suy thoái. Theo tác giả, giai đoạn đổi mới chỉ diễn ra ở những nước phát triển như Hoa Kỳ, vì ở đó mới có điều kiện để nghiên cứu và phát triển (R&D) và có khả năng triển khai sản xuất với khối lượng lớn. Đồng thời cũng chỉ ở những nước này thì kỹ thuật sản xuất tiên tiến với đặc trưng sử dụng nhiều vốn mới phát huy được hiệu quả sử dụng. Nhờ có lợi thế này, sản phẩm được sản xuất ra hàng loạt với giá thành hạ nhưng cũng nhanh chóng đạt tới điểm bão hoà. Để tránh lâm vào tình trạng suy thoái và khai thác hiệu quả sản xuất theo quy mô, các công ty phải mở rộng thị trường tiêu thụ ra nước ngoài, nhưng các hoạt động xuất khẩu đã gặp trở ngại bởi hàng rào thuế quan và các hạn chế thương mại của các Chính phủ do đó các công ty đã di chuyển sản xuất ra nước ngoài để vượt qua những trở ngại này và quá trình này đã hình thành nên các công ty xuyên quốc gia. Vào giữa thập kỷ 70, lý thuyết nội vi hoá của Bucley và Casson (1976) đã được sử dụng như là lý thuyết chính thống lúc bấy giờ để giải thích sự hình thành và phát triển của các công ty xuyên quốc gia (Jenkins, 1987). Giả định cơ bản của lý thuyết này là có sự không hoàn hảo của thị trường (market imperfections). Theo lý thuyết nội vi hoá, tính không hoàn hảo của thị trường được biểu hiện ở các mặt chủ yếu như cạnh tranh độc quyền (bán và mua); các hàng rào thuế quan (can thiệp của Chính phủ vào các hoạt động của thị trường); đặc điểm khó kiểm soát và áp dụng các yếu tố sản xuất (công nghệ, kỹ thuật quản lý, kiến thức marketing; ...). Những công ty có quy mô lớn thường có các lợi thế về hiệu quả cao, chi phối được giá cả thị trường vì thế chúng dễ dàng thắng được các đối thủ cạnh tranh của họ có quy mô vừa và nhỏ hoặc kém khả năng cạnh tranh ở nước ngoài. Việc khai thác lợi thế này là động lực thúc đẩy các công ty mở rộng thị trường ra nước ngoài (đặc biệt là vào các nước đang phát triển). Mặt khác, các rào cản thuế quan và phi thuế quan của nước nhập khẩu đã buộc các công ty phải chuyển các yếu tố sản xuất (vốn, công nghệ, kỹ thuật quản lý,...) sang nước này. Thay bằng xuất khẩu hàng hoá trực tiếp, các công ty di chuyển cơ sở sản xuất của chúng ra nước ngoài qua con đường đầu tư nước ngoài hoặc cho thuê giấy phép. Quá trình này đã tạo ra mạng lưới sản xuất quốc tế và kết quả là hình thành các công ty xuyên quốc gia. Khác với các cách giải thích như các lý thuyết trên, một số học giả (Aliber, 1970; Caves, 1982) lại sử dụng các mô hình lý thuyết để giải thích hiện tượng đầu tư ra nước ngoài thông qua sự lựa chọn của công ty giữa xuất khẩu, cho thuê giấy phép hoặc đầu tư trực tiếp ở nước ngoài. Theo mô hình lý thuyết của Aliber (1970), động lực thúc đẩy các công ty đầu tư ra nước ngoài là chi phí trung bình ở nước ngoài thấp hơn chi phí cùng loại ở chính quốc. Trước khi quyết định đầu tư ra nước ngoài, công ty phải so sánh hiệu quả giữa đầu tư với xuất khẩu hoặc cho thuê giấy phép. Trong trường hợp nào có hiệu quả hơn thì công ty sẽ quyết định trường hợp đó. Một cách tương tự như mô hình lý thuyết của Aliber và nhiều quan điểm lý thuyết chính thống trước đó, mô hình lý thuyết của Caves cũng giải thích nguyên nhân hình thành và phát triển của các công ty xuyên quốc gia từ sự lựa chọn của công ty giữa xuất khẩu hoặc đầu tư nước ngoài dựa trên so sánh chi phí biên và doanh thu biên của công ty trong các trường hợp xuất khẩu và đầu tư ở ngoài nước. Trên cơ sở các quan điểm lý thuyết gây nhiều tranh luận, Dunning (1977) đã tổng hợp lại, có tính chiết trung, để đưa ra cách giải thích đầy đủ hơn về sự hình thành và phát triển của các công ty xuyên quốc gia. Theo lý thuyết chiết trung, động lực thúc đẩy công ty đầu tư ra nước ngoài bao gồm 3 điều kiện chủ yếu: lợi thế về sở hữu, lợi thế của nước chủ nhà và lợi thế nội vi hoá của công ty. Lợi thế về sở hữu, trong đó chủ yếu về công nghệ, là điều kiện tiên quyết thúc đẩy công ty đầu tư ra nước ngoài. Các công ty có công nghệ hiện đại (ở các nước phát triển) sẽ có nhiều cơ hội chiến thắng các đối thủ cạnh tranh ở nước ngoài (các nước đang phát triển) kém về khả năng công nghệ. Bởi vậy, chúng đã tích cực đầu tư ra nước ngoài để khai thác lợi thế này. Lợi thế nước chủ nhà (đặc biệt ở các nước đang phát triển) là giá cả các yếu tố đầu vào (nguyên nhiên vật liệu, lao động ...) rẻ. Theo Dunning, để hấp dẫn các công ty đầu tư ra nước ngoài, nước chủ nhà phải có ít nhất một trong các yếu tố đầu vào rẻ hơn so với yếu tố cùng loại ở chính quốc. Lợi thế này là động lực thúc đẩy các công ty mở rộng cơ sở sản xuất ra nước ngoài theo hướng khai thác nguồn nguyên liệu. Ngoài hai điều kiện như đã phân tích, để quyết định đầu tư ra nước ngoài, công ty phải so sánh lợi ích giữa cho thuê các yếu tố sản xuất (chủ yếu là công nghệ) hoặc xuất khẩu với việc trực tiếp sử dụng các yếu tố sản xuất của họ ở nước ngoài. Nếu phương cách thứ nhất có lợi hơn thì công ty sẽ quyết định hướng vào phát triển thương mại (sản xuất trong nước để xuất khẩu). Ngược lại, họ sẽ quyết định đầu tư ra nước ngoài và chỉ trong trường hợp này mới hình thành các công ty xuyên quốc gia. Theo lý thuyết lợi thế cạnh tranh (theory of competitive advantage) của Porter (1990) đã giải thích sự hình thành của các công ty xuyên quốc gia từ lợi thế độc quyền về một yếu tố cụ thể (công nghệ, marketing,..) cho phép công ty chiến thắng đối thủ cạnh tranh ở nước ngoài, nhờ đó đã thúc đẩy họ đầu tư ra nước ngoài. Cũng theo Porter, sự can thiệp của Chính phủ có thể làm thay đổi lợi thế cạnh tranh của công ty vì thế làm tăng hoặc giảm động lực đầu tư ra nước ngoài của công ty. Trên quan điểm lý thuyết cạnh tranh không hoàn hảo của Robinson (1937), Hymer (1976) đã phát triển để giải thích sự hình thành của đầu tư trực tiếp nước ngoài. Hymer đã cho rằng, lợi thế cạnh tranh độc quyền đã cho phép công ty đạt được lợi nhuận trên mức trung bình nếu họ đầu tư ở nước ngoài. Thị trường không hoàn hảo đã tạo cơ hội cho công ty khai thác các lợi thế độc quyền (chủ yếu về công nghệ và hiệu quả kinh tế theo quy mô) ở bất kỳ nơi nào dù có hay không sự can thiệp của chính phủ. Trong các lý thuyết về công ty xuyên quốc gia, mô hình di chuyển vốn quốc tế của Macdougall-Kemp (1964) cũng được nhiều tác giả đề cập tới. Mô hình này đã chứng minh rằng nguyên nhân hình thành đầu tư nước ngoài là do sự chênh lệch về hiệu quả sử dụng vốn giữa các nước. Nguyên nhân di chuyển dòng vốn đầu tư quốc tế còn được giải thích bởi lý thuyết phân tán rủi ro (risk diversification). Lý thuyết này giải thích rằng các nhà đầu tư không chỉ quan tâm đến hiệu quả sử dụng của đồng vốn (lãi suất cao) mà còn phải chú ý đến mức độ rủi ro trong từng hạng mục đầu tư cụ thể (D.Salvatore, 1993). Vì lãi suất của các cổ phiếu phụ thuộc vào nhiều yếu tố của thị trường và khả năng kinh doanh của doanh nghiệp nên để tránh tình trạng mất trắng (phá sản), các nhà đầu tư không muốn bỏ hết vốn của mình vào một hạng mục đầu tư ở một thị trường nội địa. Bởi thế, họ quyết định giành một phần tài sản của mình để mua cổ phiếu, trái khoán, ... ở thị trường nước ngoài. Một hướng tiếp cận khác giải thích nguyên nhân hình thành đầu tư quốc tế từ quan điểm lý thuyết xuất khẩu tư bản của Lênin (1917). Trên cơ sở quy luật giá trị thặng dư, V.Lênin đã cho rằng việc xuất khẩu giá trị nhằm thu được giá trị thặng dư ở ngoài biên giới quốc gia đã trở thành một đặc trưng kinh tế của Chủ nghĩa tư bản đã bước sang giai đoạn độc quyền - Chủ nghĩa đế quốc. Theo V.Lênin, điểm điển hình của chủ nghĩa tư bản cũ, trong đó sự cạnh tranh tự do còn hoàn toàn thống trị, là việc xuất khẩu hàng hoá. Điểm điển hình của chủ nghĩa tư bản mới, trong đó các tổ chức độc quyền thống trị, là xuất khẩu tư bản. Cũng theo quan điểm lý thuyết trên, xuất khẩu tư bản được hình thành trên cơ sở chủ nghĩa tư bản đã bước vào giai đoạn độc quyền cao, khả năng tích luỹ lớn ở một số nước tư bản giàu nhất, do đó đã xuất hiện tình trạng “tư bản thừa” ở các nước này. Mặt khác, chừng nào chủ nghĩa tư bản vẫn còn là chủ nghĩa tư bản, số tư bản thừa vẫn còn được dùng không phải là để nâng cao mức sống của quần chúng nghèo khổ trong các nước đó, vì như thế sẽ đi đến kết quả làm giảm bớt lợi nhuận của bọn tư bản, mà để tăng thêm lợi nhuận bằng cách xuất khẩu tư bản ra nước ngoài, vào những nước lạc hậu. Trong các nước lạc hậu này, lợi nhuận thường cao, vì tư bản vẫn còn ít, giá đất đai tương đối thấp, tiền công hạ, nguyên liệu rẻ. Hơn nữa sở dĩ có thể xuất khẩu được tư bản là vì một số nước lạc hậu đã bị lôi cuốn vào quỹ đạo của chủ nghĩa tư bản thế giới. Ngoài ra, nguyên nhân của đầu tư nước ngoài còn được giải thích trong lý thuyết địa điểm công nghiệp (industrial location theory) là do công ty chuyển sản xuất ra nước ngoài cho gần nguồn cung cấp nguyên liệu hoặc gần thị trường tiêu thụ để giảm bớt chi phí vận tải, nhờ đó hạ thấp được giá thành sản phẩm (R.Vernon, 1974). Một số quan điểm lý thuyết khác như năm hình thái phát triển của đầu tư quốc tế (Dunning và Narula, 1996) ... đã giải thích nguyên nhân hình thành đầu tư quốc tế từ mục đích khai thác hiệu quả của vốn đầu tư, trong đó chủ yếu nhờ có thay đổi các chính sách kinh tế vĩ mô (tài chính, ngoại hối, ... ) của các nước tham gia đầu tư. Như vậy, qua các phân tích trên, có thể thấy hai đặc điểm nổi bật, có tính tương đồng giữa các quan điểm và mô hình lý thuyết về công ty xuyên quốc gia như sau: Thứ nhất, nguyên nhân quan trọng hình thành các công ty xuyên quốc gia là công ty khai thác các lợi thế độc quyền của chúng trong điều kiện thị trường không hoàn hảo và có sự chênh lệch về hiệu quả sử dụng vốn giữa các nước. Nguyên nhân này được bắt nguồn từ lợi thế so sánh trong phân công lao động quốc tế. Thứ hai, phần lớn các quan điểm lý thuyết mới giải thích sự hình thành công ty xuyên quốc gia từ một phía, tức là so sánh giữa chi phí và lợi ích của công ty trong việc lựa chọn lợi thế của họ giữa xuất khẩu, cho thuê giấy phép hoặc đầu tư nước ngoài, mà chưa xem xét đến nhiều nguyên nhân quan trọng khác (môi trường kinh doanh quốc tế) đã tác động vào quá trình hình thành và phát triển của các công ty xuyên quốc gia. Đây cũng chính là những hạn chế chung của các quan điểm và mô hình lý thuyết truyền thống về công ty xuyên quốc gia. Đặc điểm của các công ty xuyên quốc gia Hoa Kỳ Các công ty xuyên quốc gia Hoa Kỳ - những công ty có tầm cỡ lớn nhất thế giới: Hiện nay, trong số trên 50.000 công ty xuyên quốc gia - công ty mẹ trên thế giới, Hoa Kỳ có trên 3.000 công ty. Số liệu năm 1998 cho thấy trong số 500 công ty lớn nhất thế giới, Hoa Kỳ có 175 công ty, Nhật bản có 112 công ty, Đức: 42 công ty, Anh: 35... Như vậy, về số lượng, Hoa kỳ là nước có nhiều nhất số công ty nằm trong danh sách 500 công ty lớn nhất thế giới. Về thu nhập, 175 công ty Hoa Kỳ có thu nhập năm 1997 là 3.997.510,9 triệu USD, cao hơn Nhật gần 1.000 tỷ USD (thu nhập của các công ty Nhật bản: 2.963.427,8 triệu USD) và nhiều hơn các công ty Đức gần 4 lần (thu nhập của các công ty Đức: 1.058.539,5 triệu USD). Các công ty Hoa kỳ chiếm gần 35% tổng thu nhập của 500 công ty lớn nhất thế giới năm 1997. Về lợi nhuận, 175 công ty Hoa Kỳ có 246.134,2 triệu USD lợi nhuận trong năm 1997, cao hơn Nhật trên 16 lần, cao hơn Đức 8,5 lần và hơn Anh 5,5 lần. Trung bình năm 1997 lợn nhuận của mỗi công ty Hoa kỳ là 1,4 tỷ USD và lợi nhuận của các công ty Hoa kỳ chiếm gần 55% lợi nhuận của 500 công ty lớn nhất thế giới. Về lao động, các công ty Hoa kỳ là những công ty tuyển nhiều lao động vào làm việc nhất. Trong danh sách 50 công ty lớn nhất về lao động, Hoa Kỳ có 18 công ty, Nhật có 8 công ty. Ba công ty Hoa kỳ đứng đầu danh sách trên là: US Postal Service (898.384 người), Wal-Mart Stores (825.000 người) và General Motors (608.000 người). Các công ty Hoa kỳ có mô hình tổ chức điển hình và hoạt động rộng khắp thế giới: Các công ty Hoa kỳ luôn được cấu tạo bởi một công ty mẹ ở Hoa kỳ và nhiều công ty con, cắm nhánh ở nhiều nước khác nhau trên thế giới, chúng được tổ chức theo hình thức concern hoặc conglomerate và được quản lý theo kiểu mạng lưới. Cách thức tổ chức và quản lý như vậy tạo điều kiện cho các công ty Hoa kỳ hoạt động rộng khắp trên thế giới. Hoạt động của các công ty Hoa kỳ trên thế giới bên cạnh những nỗ lực của bản thân, chúng luôn được nhiều tổ chức của Chính phủ Hoa kỳ hỗ trợ, giúp đỡ trực tiếp, được luật pháp mở đường phát triển ra các nước. Các công ty chi nhánh ở nước ngoài chỉ cần có 10% sở hữu công ty mẹ là được coi như công ty con - một công ty của Hoa kỳ và như vậy, nó được đối xử như một công ty xuyên quốc gia Hoa kỳ hoạt động ở nước ngoài. Về nghiên cứu phát triển (R&D) và chuyển giao công nghệ: Do quá trình cạnh tranh toàn cầu và những biến đổi trong cơ cấu của các ngành, Hoa kỳ đã coi R&D và chuyển giao công nghệ là những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu nhằm bảo đảm vị trí cao của Hoa kỳ trên thế giới. Năm 1996, các TNC Hoa kỳ đã chi khoảng 115 tỷ USD và năm 1997 là 123 tỷ USD cho hoạt động này. Hiện nay, các TNC Hoa kỳ tập trung vốn R&D chủ yếu cho các ngành công nghiệp chế tạo, trong đó, đặc biệt là cho các ngành hoá chất, cơ khí, điện , điện tử, thiết bị giao thông - vận tải, dịch vụ. Do công nghệ của Hoa kỳ phát triển rất cao do đó các TNC Hoa kỳ thưởng chuyển giao công nghệ cao cho các nước phát triển và công nghệ thấp hơn (lạc hậu) cho các nước đang phát triển. Chính vì vậy, các nước ĐPT cần có chiến lược đúng đắn để nhận chuyển giao công nghệ vì sự phát triển chung của nền sản xuất trong nước. Một số đặc trưng khác: Một đặc trưng hoạt động khác của công ty xuyên quốc gia Hoa kỳ được thể hiện ở hình thức tổ chức, quản lý hoạt động công ty ở trong và ngoài nước. Các công ty Hoa kỳ có các hoạt động kinh doanh khắp nơi trên thế giới. Các công ty chi nhánh chỉ cần có 10% sở hữu của phía Hoa kỳ đã được coi là công ty con. Trên thực tế có trên 80% số công ty con ở nước ngoài của Hoa kỳ là các công ty con có 100% vốn của Hoa kỳ. Như vậy, có thể thấy rằng khi lập các chi nhánh ở nước ngoài, các công ty xuyên quốc gia Hoa Kỳ thường có xu hướng muốn lập các công ty có 100% sở hữu của mình. Các công ty Hoa kỳ hoạt động ở nước ngoài chủ yếu trong các lĩnh vực khai thác, lọc dầu và trong các ngành công nghiệp chế biến. Ngành dịch vụ tuy là một thế mạnh của Hoa kỳ nhưng lại có tỷ trọng thấp hơn nhiều so với các ngành trên (do ít lợi thế về quy mô, do một vài ngành dịch vụ không được nước sở tại cho phép hoạt động). Những hình thức tổ chức chủ yếu của các công t._.y xuyên quốc gia Hoa kỳ hiện nay là concern và conglomerate. Đây là những hình thức thích ứng được với quá trình kinh doanh hiện đại. Thực tế hoạt động của các công ty xuyên quốc gia Hoa kỳ cho thấy ít có công ty nào thuần túy được tổ chức theo kiểu concern hay conglomerate mà cách tổ chức hoạt động của chúng có những nét tương đôngf, đan xen, phụ thuộc vào điều kiện hoạt động cụ thể để áp dụng các biện pháp tổ chức, quản lý cho phù hợp với khả năng phát triển của mình. Cách thức tổ chức hoạt động của công ty còn phù thuộc vào khả năng trình độ của các nhà quản lý của công ty, của hệ thống nghiên cứu, quản lý, sản phẩm, thị trường ... Bối cảnh kinh tế - chính trị ảnh hưởng đến hoạt động của các công ty xuyên quốc gia Hoa Kỳ ở Việt Nam. 1.2.1. Quan điểm của Việt Nam đối với việc thu hút các công ty xuyên quốc gia. Toàn cầu hoá là xu thế không thể đảo ngược. Trong xu hướng đó không một quốc gia nào có thể phát triển mà lại không thực hiện mở rộng hoạt động kinh tế đối ngoại, không tham gia vào phân công lao động quốc tế. Nhất là đối với các nước đang phát triển mà thực tế là chậm phát triển, đi sau rất cần vốn, kỹ thuật công nghệ, kinh nghiệm quản lý, thị trường, tiếp thị ... thì càng cần thiết phải mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại. Các công ty xuyên quốc gia, nhất là các công ty xuyên quốc gia lớn thuộc các nước công nghiệp phát triển có đủ khả năng để đáp ứng các yêu cầu trên. Đồng thời, việc đầu tư, mở rộng thị trường vào các nước đang phát triển đang là mục tiêu chiến lược của các công ty xuyên quốc gia hiện nay. Do vậy, quốc gia nào có chiến lược đúng đắn, có sách lược mềm dẻo, biết cân nhắc lựa chọn và có quan điểm rõ ràng, chính sách giải pháp thích hợp trong từng giai đoạn, để tạo môi trường đầu tư hấp dẫn, thì có thể thu hút được nhiều công ty xuyên quốc gia vào đầu tư kinh doanh. Đối với nước ta, quan điểm về thu hút đầu tư nước ngoài đã được khẳng định rõ và luôn được đổi mới. Điều đó đã được thể hiện trong đường lối kinh tế đối ngoại của Đảng và là cơ sở để xây dựng các quan điểm chính sách đối với việc thu hút các công ty xuyên quốc gia vào Việt Nam. Chủ động thu hút các công ty xuyên quốc gia. Tính chủ động trong lĩnh vực thu hút đầu tư nước ngoài là yếu tố quyết định đến hiệu quả hoạt động của lĩnh vực này. có nâng cao tính chủ động thì mới tạo ra được môi trường đầu tư hấp dẫn, mới hướng được hoạt động đầu tư vào những mục tiêu đã xác định trước và như vậy mới hạn chế được sự bị động trong việc thu hút đầu tư làm cho việc thu hút đạt hiệu quả cao và có ý nghĩa. Tính chủ động phải được thể hiện thông qua việc chủ động xây dựng chiến lược, kế hoạch, chính sách nhằm tạo môi trường đầu tư hấp dẫn và bố trí các dự án theo định hướng của sự phát triển cơ cấu kinh tế. Mục tiêu của việc thu hút các công ty xuyên quốc gia là nhằm tranh thủ nguồn vốn, công nghệ và kinh nghiệm quản lý để phát triển kinh tế. Do đó, chiến lược thu hút đầu tư của các công ty xuyên quốc gia phải phù hợp với mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế của đất nước. Trên cơ sở mục tiêu chiến lược đó, căn cứ vào thực lực và khả năng của từng giai đoạn cụ thể để có kế hoạch định hướng đầu tư vào các ngành, lĩnh vực và vùng được ưu tiên. Cùng với việc xây dựng kế hoạch hướng các nhà đầu tư, việc xây dựng các dự án khả thi là cần thiết để chủ động kêu gọi đầu tư. Mục tiêu chiến lược thu hút các công ty xuyên quốc gia còn là cơ sở để định hướng cho việc tạo lập môi trường đầu tư và việc xây dựng khung pháp lý, chính sách khuyến khích cũng là nhằm mục đích bảo đảm thực hiện các mục tiêu. Để chủ động, ngoài việc xây dựng và tạo lập môi trường đầu tư cần có chiến lược, kế hoạch cụ thể. Đặc biệt cần chủ động tạo lập và lựa chọn đối tác đầu tư cũng như lựa chọn hình thức đầu tư thích hợp. Tạo lập đối tác trong nước là tạo ra các đối tác đáng tin cậy để các công ty xuyên quốc gia lựa chọn khi vào liên doanh. Đối với nước ta cần khẳng định rằng về lâu dài việc lựa chọn đối tác đầu tư là các công ty xuyên quốc gia và nên ưu tiên đối với công ty xuyên quốc gia lớn ở các nước công nghiệp phát triển như Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản. Các hình thức đầu tư cần được sử dụng một cách đa dạng, như hợp đồng gia công, xí nghiệp 100% vốn nước ngoài, xí nghiệp liên doanh, hình thức BOT, thiết lập các khu công nghiệp, khu chế xuất.. Vừa hợp tác, vừa đấu tranh để bảo đảm nguyên tắc giữ vững độc lập tự chủ, cùng có lợi. Mục đích đầu tư vào các nước chủ nhà của các công ty xuyên quốc gia là đạt lợi nhuận cao và họ luôn tìm cách để đạt được mục đích ấy. Đối với nước ta là nước nhận đầu tư, mục đích của ta là vốn, kỹ thuật công nghệ, thị trường, nhưng không để bị lệ thuộc, bị chèn ép, thiệt hại đến lợi ích quốc gia dân tộc. Trong quá trình hợp tác đầu tư, chúng ta phải vừa hợp tác, vừa đấu tranh để bảo vệ chủ quyền quốc gia (bao gồm quyền độc lập, quyền sở hữu lãnh thổ, quyền lựa chọn chế độ chính trị, xã hội, định hướng XHCN). Thu hút các công ty xuyên quốc gia có nghĩa là chúng ta tham gia vào phân công lao động và hợp tác quốc tế. Trong điều kiện toàn cầu hoá kinh tế, sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế dân tộc, giữa các bên đối tác đầu tư là không tránh khỏi, mỗi bên đều phải tuân theo những quy tắc chung và cần phải có sự nhượng bộ phần nào nhưng chúng ta cũng phải đấu tranh để giành phần lợi cho mình. Hợp tác với các công ty xuyên quốc gia, thì không thể đạt được tất cả các mục tiêu cùng một lúc trong điều kiện nguồn lực có hạn. Việc chấp nhận trả học phí cũng có nghĩa là lựa chọn mục tiêu phát triển theo mô hình mất cân đôí trong chừng mực nhất định. Nói cách khác, trong điều kiện của thời gian đầu, việc mất cân đối về cơ cấu kinh tế, sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, thâm hụt cán cân thương mại, chênh lệch trong phân phối thu nhập ... là khó tránh khỏi. Những vấn đề này chỉ có thể được giải quyết từng bước cùng với quá trình tăng trưởng và phát triển của toàn bộ nền kinh tế. Nó cũng phụ thuộc vào chính hiệu quả thu hút các công ty xuyên quốc gia gắn với chính sách khôn khéo của mỗi nước. Việc thu hút các công ty xuyên quốc gia chỉ trở thành tất yếu và thực sự có ý nghĩa khi nó đem lại lợi ích cho các bên tham gia theo nguyên tắc cùng có lợi. Như vậy, thu hút và hợp tác đầu tư với các công ty xuyên quốc gia, một mặt chúng ta phải biết thích nghi với những tập quán và quy tắc quốc tế, mặt khác phải đấu tranh để bảo đảm nguyên tắc cùng có lợi, giữ vững chủ quyền quốc gia, định hướng XHCN và bản sắc văn hóa dân tộc. Cần có sự nỗ lực chung của cả Nhà nước và các doanh nghiệp. Sự hấp dẫn các công ty xuyên quốc gia không chỉ ở môi trường đầu tư được tạo lập mà còn phải có được các doanh nghiệp có năng lực kinh doanh, nơi tin cậy để họ bỏ vốn đầu tư cùng sản xuất kinh doanh. Vì vậy, cần có sự kết hợp nỗ lực chung của cả Nhà nước và các doanh nghiệp. Nhà nước cần thực hiện xây dựng và hoàn thiện hệ thống luật pháp, chính sách, chiến lược kế hoạch để tạo ra môi trường đầu tư thông thoáng, “sân chơi” thuận lợi để vừa kích thích các doanh nghiệp trong nước nỗ lực vươn lên, vừa thu hút được các công ty xuyên quốc gia vào những lĩnh vực ưu tiên theo định hướng của mình. Các doanh nghiệp cần phấn đấu để phát triển và hoàn thiện, nâng cao năng lực tổ chức sản xuất kinh doanh của mình, nâng cao sức cạnh tranh và trở thành đối tác có tiềm lực để không rơi vào thế bị động, bất lợi, lệ thuộc trong quan hệ đàm phán, hợp tác với các công ty xuyên quốc gia, vươn lên để từng bước hoạt động đầu tư ra ngoài nước, thực hiện xuyên quốc gia hoá trong kinh doanh. Chính các doanh nghiệp trong nước chứ không phải ai khác là người biến sự nỗ lực của nhà nước thành hiện thực. Sự vươn lên của các doanh nghiệp trong nước để có quan hệ bình đẳng với các công ty xuyên quốc gia sẽ góp phần làm cho nền kinh tế phát triển độc lập tự chủ, không bị lệ thuộc vào nước ngoài. Nhà nước chẳng những cần tạo lập môi trường đầu tư thông thoáng mà còn là người bảo vệ quyền lợi cho các doanh nghiệp, trên cơ sở đó mà bảo vệ quyền lợi quốc gia dân tộc. Sự nỗ lực chung của Nhà nước và các doanh nghiệp chính là sự nỗ lực phấn đấu vì sự phát triển của đất nước, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh của nước ta. Phải nội sinh hóa ngoại lực, hiện đại hoá nội lực để phát triển bền vững lâu dài. Thu hút các công ty xuyên quốc gia là để tăng cường vốn đầu tư, tiếp nhận công nghệ tiên tiến, kinh nghiệm quản lý, thị trường ... biến nó thành nguồn lực nội sinh để tăng trưởng và phát triển. Nếu chúng ta không đủ năng lực để biến những cái nhận được từ các công ty xuyên quốc gia thành cái của chính mình và phát huy nó lên thì chúng ta không thể phát triển hoặc phát triển không lâu bền, dòng vốn có nguy cơ chảy ngược vào các công ty xuyên quốc gia, ngoại lực vào rồi lại ra đi không trở thành yếu tố nội sinh được. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát triển đất nước đòi hỏi chúng ta phải phát huy tối đa nội lực, tranh thủ ngoại lực, sử dụng nó một cách có hiệu quả nhất. Ngoại lực chỉ có thể được tiếp nhận và sử dụng có hiệu quả khi nội lực được phát huy đúng mức cuả nó. Nội lực được phát huy thì mới có thể thẩm thấu và chuyển hoá ngoại lực thành nội lực, sức mạnh của nội lực mới được nhân lên. Trong điều kiện kinh tế đất nước và thế giới hiện nay, chúng ta muốn phát huy được sức mạnh nội lực thì cần phải biết tận dụng yếu tố ngoại lực, làm điều kiện để tăng cường sức mạnh nội lực của đất nước. Nội lực là yếu tố giữ vai trò quyết định sự phát triển của đất nước. Chúng ta chỉ có thể tiếp tục đổi mới, mở cửa và hội nhập, có chính sách huy động mọi nhân lực, vật lực và tài lực đến mức tối đa, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, tham nhũng ... Ngoại lực có vai trò quan trọng ảnh hưởng tới khuynh hướng, kết quả vận động và phát triển kinh tế ở nước ta. Ngoại lực có cả tính tích cực và tiêu cực. Mặt tích cực của ngoại lực thể hiện ở chỗ nó có tác dụng thúc đẩy, hỗ trợ tạo điều kiện cho quá trình vận động và phát triển. Mặt tiêu cực của ngoại lực cũng không thể xem thường, nó có thể gây nên những khó khăn, cản trở, thậm chí đi đến phá hoại, làm chệch hướng vận động và phát triển của đất nước. Việc thực hiện mở cửa, tăng cường giao lưu quốc tế, tiếp nhận và sử dụng vốn đầu tư nước ngoài của các công ty xuyên quốc gia đòi hỏi chúng ta phải vừa phát huy tối đa hiệu quả tích cực của nó, thực hiện sự chuyển hoá, biến ngoại lực thành nội lực để phát triển, đồng thời phải hạn chế hậu quả tiêu cực đến mức tối thiểu. Nội sinh hoá ngoại lực và hiện đại hoá nội lực có thể hiểu là việc tiếp thu và chuyển hoá ngoại lực thành nội lực, làm cho nội lực được phát huy, ngày càng được tăng cường và phát triển. Trong quá trình đó, con người là yếu tố quyết định. Con người Việt Nam, truyền thống dân tộc và truyền thống cách mạng Việt Nam là yếu tố trung tâm của nội lực Việt Nam. Con người Việt Nam được phát triển có tri thức, có văn hoá, giàu lòng yêu nước, biết phát huy truyền thống, bản sắc dân tộc của mình sẽ là người có đủ khả năng sáng tạo, tiếp thu những thành quả tiên tiến của nhân loại, biến chúng thành cái của chính mình, làm chủ đất nước và đưa đất nước phát triển đi lên. Vì vậy, đầu tư phát triển con người, chăm lo giáo dục đào tạo, bồi dưỡng nhân cách, nâng cao mặt bằng dân trí, phát triển nhân lực, khoa học - công nghệ, văn hoá, giữ gìn và phát huy truyền thống tốt đẹp, bản sắc của dân tộc là hoạt động đầu tư quan trọng nhất để đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá phát triển đất nước, bảo đảm nội sinh hoá được ngoại lực và hiện đại hoá nội lực, tiếp nhận việc sử dụng đầu tư của các công ty xuyên quốc gia có hiệu quả. Tổng quan các chính sách thúc đẩy các công ty xuyên quốc gia đầu tư ra nước ngoài của Chính phủ Hoa Kỳ . Mục tiêu của Hoa Kỳ là phát huy lợi thế, củng cố sức mạnh và tăng cường vai trò lãnh đạo trong nền kinh tế toàn cầu, sắp đặt hệ thống thương mại, tài chính tiền tệ thế giới, định ra luật lệ mới chuẩn bị cho những thách thức của thế kỷ 21. Để thích nghi với toàn cầu hoá, một mặt Hoa Kỳ cơ cấu lại nền kinh tế, đi đinh vào các mũi nhọn cho phù hợp với giai đoạn phát triển mới của nền kinh tế thế giới, chủ động tác động vào việc xếp đặt lại các luật chơi mới của hệ thống thương mại, đầu tư, tài chính - tiền tệ quốc tế theo hướng tiếp tục đẩy mạnh tự do hoá thương mại và đầu tư trên bình diện toàn cầu, xuyên khu vực, khu vực và song phương. Đồng thời, Hoa Kỳ đã định ra chiến lược toàn cầu hoá kinh tế đối ngoại hướng tới thế kỷ 21, mục đích của nó là nhằm điều động và khai thác nguồn tài nguyên của toàn thế giới phục vụ cho lợi ích quốc gia, tiếp tục duy trì địa vị lãnh đạo và tiên phong.Việc lấy sức mạnh quốc gia để thúc đẩy kinh tế đối ngoại là một bộ phận cấu thành quan trọng của chiến lược kinh tế đối ngoại Hoa Kỳ.Vì thế Hoa Kỳ luôn khuyến khích các công ty xuyên quốc gia của mình tìm liếm các cơ hội kinh doanh ở nước ngoài nhằm tìm kiếm lợi nhuận và mở rộng tầm ảnh hưởng của Hoa Kỳ ở các nước đầu tư. Tìm hiểu quá trình đầu tư ra nước ngoài của các công ty xuyên quốc gia Hoa Kỳ, Nhật Bản và một số nước Châu âu chủ chốt cho thấy chiến lược đầu tư của các công ty xuyên quốc gia Hoa Kỳ và Châu âu (EU) có những điểm tương đồng. Họ đều quan tâm đến khả năng tiếp cận thị trường nước nhận đầu tư và coi đó là nền tảng để xây dựng chiến lược đầu tư của mình. Trong khi đó các công ty xuyên quốc gia Nhật Bản lại lấy nguồn lao động rẻ và các tài nguyên thiên nhiên là mục tiêu quan tâm khi đầu tư do nước ngoài nhằm đạt được những chi phí sản xuất thấp hơn. Điều này ảnh hưởng rõ rệt đến những chính sách khuyến khích các công ty xuyên quốc gia tham gia hoạt động đầu tư nước ngoài của Hoa Kỳ, Nhật Bản và EU. Trong khi lựa chọn nơi đầu tư mới, các công ty xuyên quốc gia Hoa Kỳ và EU quan tâm đến thị trường và khả năng tiêu thụ, nên chiến lược đầu tư của hầu hết các công ty xuyên quốc gia Hoa Kỳ đến muốn sản xuất và bán hàng hoá dịch vụ ngay tại nước nhận đầu tư và xuất khẩu ra ngoài. Vì thế nhìn chung, đa số các công ty xuyên quốc gia Hoa Kỳ đều có định hướng vào việc thực hiện hàng hoá tại chỗ là chính, chứ không phải để xuất khẩu. Đối với các chi nhánh của các công ty xuyên quốc gia Hoa Kỳ ở nước ngoài, 67% giá trị hàng hoá bán ra được thực hiện trên thị trường nước sở tại, 23% chuyển sang các thị trường thứ 3 và chỉ có 10% được chuyển về Hoa Kỳ. Nhằm đảm bảo để mỗi nhà đầu tư Hoa Kỳ đề có thể mua bảo hiểm đặc biêt, và giúp đỡ các công ty xuyên quốc gia phát hiện các rủi do chính trị nghiêm trọng ở các nước nhận đầu tư, đặc biệt là những nước đã nhận sự giúp đỡ của Hoa Kỳ, nay lại quay lại chiến bất động sản do Hoa Kỳ kiểm soát, mà không có bồi thường thiệt hại, Hoa Kỳ đã thành lập rất nhiều dịch vụ và các cơ quan hỗ trợ nhằm thúc đẩy các công ty xuyên quốc gia đầu tư ra nước ngoài. Bên cạnh các chính sách thương mại quốc tế, Hoa Kỳ có những tổ chức hỗ trợ đáng chú ý như: Ngân hàng xuất nhập khẩu (Exim Bank) Cơ quan phát triển quan hệ quốc tế (AID) Công ty đầu tư tư nhân ở nước ngoài (OPIC) Tổ chức thương mại và phát triển Hoa Kỳ (TDA) Ngoài ra Hoa Kỳ còn ký các hiệp định song phương với các đối tác như: Hiệp định thương mại, hiệp định bảo hộ đầu tư v.v... tham gia ký kết các hiệp định đa phương như GATT, WTO, hiệp định đảm bảo đầu tư đa phương (MIGA) và thành lập các khối kinh tế như NAFTA, APEC... Như vậy có thể thấy chính phủ Hoa Kỳ luôn có nhiều chính sách, biện pháp để thực hiện một mục đích quan trọng nhất là nhằm tạo lập một vị trí vững chắc cho mình trên thị trường quốc tế, đồng thời tạo môi trường kinh doanh thuận lợi cho các công ty xuyên quốc gia Hoa Kỳ hoạt động tại nước ngoài, tránh các rủi ro về chính trị và thương mại. Riêng đối với Việt Nam, ngày 3/2/1994 Tổng thống Bill Clintơn chính thức tuyên bố bãi bỏ lệnh cấm vận đối với Việt Nam đã mở đầu một thời kỳ mới trong quan hệ kinh tế Việt Nam và Hoa Kỳ. Tiếp đó, Bộ Thương mại Hoa Kỳ chuyển Việt Nam từ nhóm Z (gồm Bắc Triều Tiên, Cu Ba và Việt Nam) lên nhóm Y- ít hạn chế thương mại hơn (gồm Mông Cổ, Lào, Campuchia, Việt Nam cùng một số nước Đông âu và Liên Xô cũ ).Bộ Vận tải và Thương mại Hoa Kỳ cũng đã bãi bỏ lệnh cấm vận tàu biển và máy bay Hoa Kỳ vận chuyển hàng hoá sang Việt Nam, đồng thời cho phép tàu mang cờ Việt Nam được cập các cảng Hoa Kỳ. Nhận thấy Việt Nam là một thị trường tiêu thụ có tiềm năng lớn, các công ty xuyên quốc gia Hoa Kỳ đã nhanh chóng tiếp cận thị trường Việt Nam và lập tức tung sản phẩm của mình vào thị trường Việt Nam. Nhằm khuyến khích và hỗ trợ các công ty xuyên quốc gia của mình, các cơ quan hỗ trợ đầu tư của Hoa Kỳ như Eximbank, OPIC, AID... cũng đã đều có mặt tại Việt Nam. Đến năm 1997, hai nước đã thảo thuận thiết lập quan hệ song phương về bản quyền để tạo điều kiện cho các loại sản phẩm trí tuệ của Hoa Kỳ có mặt tại thị trường Việt Nam. Cùng với việc thảo thuận sơ bộ về Hiệp định Thương mại, Chính phủ Hoa Kỳ tuyên bố ngừng áp dụng Tu chánh án Jackson Vanik đối với Việt Nam, đã khích lệ các nhà đầu tư Hoa Kỳ yên tâm và vững tin vào triển vọng bình thường hoá quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ. Tóm lại, với các chính sách khuyến khích, hỗ trợ và thúc đẩy các công ty xuyên quốc gia của mình đầu tư ra nước ngoài, chính phủ Hoa Kỳ đã tạo điều kiện thuận lợi để các công ty xuyên quốc gia yên tâm đầu tư ra nước ngoài tránh được rủi ro và được bảo đảm những quyền lợi nhất định. Đó cũng là một trong những nguyên nhân giải thích tại sao Hoa Kỳ lại là nước đầu tư ra nước ngoài nhiều nhất trên thế giới. Lợi thế cạnh tranh của các công ty xuyên quốc gia Hoa kỳ tại Việt Nam. Các công ty xuyên quốc gia ở mỗi nước đều có những đặc trưng rất riêng có. Tại Việt Nam, những đặc trưng đó có thể gây ra sự khác biệt trong sản xuất kinh doanh của mỗi công ty. Việc xem xét các lợi thế so sánh của các công ty xuyên quốc gia mỗi nước giúp cho chúng ta có được những định hướng đúng đắn trong chiến lược thu hút đầu tư. Để hấp dẫn các nhà đầu tư Hoa kỳ và thu được nhiều lợi ích khi những công ty của họ đầu tư có hiệu quả tại Việt Nam, trước hết chúng ta phải tìm hiểu những lợi thế so sánh của họ đặc biệt đối với Nhật bản và EU. Khả năng tích luỹ và hiệu quả sử dụng vốn. Mặc dù tiêu chí giá trị tài sản của các công ty xuyên quốc gia Hoa Kỳ là thua kém so với các công ty xuyên quốc gia Nhật Bản nhưng theo đánh giá lại là những công ty làm ăn hiệu quả nhất. Trong số 500 công ty lớn nhất thế giới thì đứng đầu là 5 công ty của Nhật Bản nhưng nước này có tới 23 công ty bị thua lỗ, chiếm tới 51% tổng số công ty bị thu lỗ trong số 500 công ty, trong khi đó Hoa Kỳ chỉ có 8 công ty làm ăn thua lỗ. Trích nguồn từ đề tài KHXH 06-05 Chính lợi thế về tích luỹ tài sản và khả năng hoạt động hiệu quả thể hiện ở mức lợi nhuận trung bình cao và mức thua lỗ thấp hơn so với các công ty xuyên quốc gia của Nhật Bản và các nước khác đã giúp cho các công ty xuyên quốc gia Hoa Kỳ củng cố được vai trò trên thị trường thế giới. Tiềm năng về khoa học công nghệ và khả năng chuyển giao công nghệ. Có thể khẳng định rằng, khoa học công nghệ chính là một trong các yếu tố cạnh tranh quan trọng của các công ty xuyên quốc gia Hoa Kỳ, bởi khả năng vượt trội của công ty Hoa Kỳ trong việc đầu tư cho KHCN, trình độ và giá cả của công nghệ so với các quốc gia Châu Âu và Nhật Bản. Không chỉ các công ty mẹ mà các chi nhánh công ty Hoa Kỳ ở nước ngoài cũng tích cực tham gia vào các ngành công nghệ cao. Do sử dụng các thành tựu nghiên cứu khoa học trong và ngoài nước, tiếp cận được các công nghệ mới nên hoạt động của các công ty xuyên quốc gia của Hoa Kỳ đã có những ảnh hưởng tích cực đối với việc nâng cao khả năng cạnh tranh của nền kinh tế Hoa Kỳ nói chung và của các công ty xuyên quốc gia Hoa Kỳ nói riêng Hình thức chuyển giao công nghệ kỹ thuật giữa công ty mẹ và công ty con của Hoa Kỳ rất phong phú mà hình thức chủ yếu là thông qua ký kết hiệp định về chuyển giao kỹ thuật trọn gói hay chìa khoá giao tay Hoa Kỳ là quốc gia có công nghệ nguồn và luôn có nhu cầu chuyển giao công nghệ nhằm loại bỏ các công nghệ kém hiện đại, tạo ra các công nghệ mới. Tuy nhiên việc chuyển giao công nghệ phụ thuộc rất nhiều đến trình độ của các nước tiếp nhận.Trình độ phát triển thấp của Việt Nam cũng là một trong những trở ngại làm hạn chế việc chuyển giao công nghệ của các công ty xuyên quốc gia Hoa Kỳ do hiệu quả sử dụng không cao.Vì vậy trên thực tế, công nghệ được chuyển giao chủ yếu là công nghệ đã lạc hậu, tính cạnh tranh của sản phẩm tạo ra không cao nhằm đáp ứng nhu cầu trong nước. Nếu như các công ty xuyên quốc gia Hoa Kỳ chuyển giao công nghệ theo kiểu chìa khoá giao tay rất nhanh và thuận lợi thì các công ty xuyên quốc gia Nhật Bản kiểm soát rất thận trọng tốc độ chuyển giao, chỉ chuyển giao những công nghệ đã hoàn thiện mà việc ứng dụng nó sẽ thu lợi nhuận thấp ở Nhật Bản do chi phí lao động không có lợi thế trong cạnh tranh tại Nhật Bản. Chiến lược quản lý. Cùng với sự phát triển lâu dài của chủ nghĩa tư bản ở châu Âu và Hoa Kỳ đã khiến cho các TNC ở 2 khu vực này có những nét tương đồng trong cơ chế quản lý. Đó là việc các công ty mẹ quản lý mọi hoạt động chiến lược trong hệ thống công ty của mình, đề ra những chính sách chung cho công ty nhưng vẫn để cho các công ty con có sự độc lập tương đối nhất định. Khác với các công ty Hoa Kỳ và Châu Âu, các công ty con của Nhật Bản không độc lập hoạt động mà chỉ hoạt động như các vệ tinh, chỉ có quyền tự do ở một mức nhất định. Điều này đã khiến cho các công ty Hoa Kỳ và công ty của Châu Âu có những thuận lợi trong việc phát triển tại các thị trường do có những quyền hạn nhất định trong việc đề ra các chiến lược phù hợp với thị trường. Đặc biệt khi mà phần lớn luồng vốn của Hoa Kỳ vào Việt Nam là của các công ty con của công ty xuyên quốc gia Hoa Kỳ được đăng ký ở nước thứ 3 (đặc biệt là các nước châu á) thì sự độc lập tương đối trong chiến lược hoạt động này có ý nghĩa hết sức quan trọng. Có thể nói rằng với kết cấu vệ tinh dạng mềm, linh hoạt nên ác công ty xuyên quốc gia Hoa Kỳ nhanh chóng chiếm lĩnh độc quyền thị trường nó đến nhờ những chiến lược phù hợp. Trình độ quản lý trong sử dụng nguồn nhân lực. Xuất phát từ đặc điểm hoạt động của các công ty xuyên quốc gia tại Việt Nam có thể nhận thấy rằng giữa các công ty Hoa Kỳ và Nhật Bản có những quan điểm và cách sử dụng nguồn nhân lực rất khác nhau. Các công ty của Nhật Bản thích sử dụng nguồn lực của chính quốc để giữ các vị trí quan trọng trong công ty nhằm đảm bảo hiệu quả kinh doanh cũng như sự gắn bó trung thành với công ty. Trong khi đó, các công ty Hoa Kỳ đặc biệt thích sử dụng lao động bản địa là người Việt, đội ngũ nhân viên được tuyển dụng sau đó đào tạo và sử dụng luôn. Điều này đã khién cho các công ty Hoa Kỳ thu hút được những người thực sự có năng lực do chính sách đãi ngộ cao hấp dẫn, gắn liền với chế độ đề bạt theo năng lực cá nhân. đồng thời việc sử dụng đội ngũ lao động là người Việt Nam khắc phục được sự khác biệt trong văn hoá kinh doanh, giúp cho các công ty dễ dàng thâm nhập thị trường cũng như thuận lợi trong khi làm việc với các cơ quan chức năng giải quyết các vấn đề trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Bên cạnh đó, chiến lược sử dụng nguồn lực là người Việt khiến cho các công ty Hoa Kỳ tận dụng được những khuyến khích của chính phủ Việt Nam trong việc sử dụng và đào tạo lao động bản địa, giải quyết công ăn việc làm cho nguồn lao động. Xuất phát từ nhu cầu sử dụng lao động địa phương và tạo việc làm cho cán bộ công nhân viên trong dự án được khuyến khích do đó các công ty xuyên quốc gia Hoa Kỳ có lợi thế so với các công ty xuyên quốc gia khác đang hoạt động tại Việt Nam trong việc chấp nhận các dự án sử dụng nhiều lao động. Chiến lược xâm nhập thị trường. Các công ty Hoa Kỳ ở Việt Nam thích hình thức đầu tư 100% sở hữu vốn. Trong khi đó tại Việt Nam các hình thức liên doanh, liên kết được đặc biệt khuyến khích để đảm bảo sự kiểm soát của phía Việt Nam đối với nguồn vốn đầu tư từ nước ngoài. Các công ty Nhật Bản tỏ ra thích ứng với điều này vì nó đáp ứng được nhu cầu tạo khả năng khai thác tiềm lực của nước chủ nhà, có nhiều thuận lợi về mặt tuyển dụng nhân công, về tài chính, nguyên vật liệu và thị trường tiêu thụ sản phẩm cũng như giảm nhân tố rủi ro do không am hiểu thị trường. Về chiến lược tiếp cận thị trường, nếu như các công ty xuyên quốc gia Nhật Bản quan tâm đến thị trường Việt Nam ở nguồn lao động và tài nguyên thiên nhiên rẻ để giảm chi phí sản xuất thì các công ty Hoa Kỳ và Tây Âu chủ yếu quan tâm đến khả năng tiếp cận thị trường của các nước tiếp nhận đầu tư. Đó chính là nền tảng xây dựng chiến lược của các công ty xuyên quốc gia Hoa Kỳ do đó đa số các công ty xuyên quốc gia Hoa Kỳ đều định hướng thực hiện bán hàng hoá tại chỗ là chính, phần xuất khẩu ra các nước khác và về chính quốc là không đáng kể. Tuy nhiên trong điều kiện hiện nay của Việt Nam thì chiến lược đó chưa phù hợp với chính sách khuyến khích xuất khẩu của Việt Nam. Đây là một bất lợi so với các TNC Nhật Bản và các TNC Nhật bản đã tận dụng được lợi thế so sánh của Việt Nam để sản xuất ra các mặt hàng xuất khẩu. Theo số liệu của Bộ Kế Hoạch Đầu Tư thì trong năm 2002 doanh thu của các công ty xuyên quốc gia Nhật Bản là 6 tỷ thì trong đó có 3 tỷ được tạo ra từ lượng hàng hoá xuất khẩu. Về lựa chọn hình thức quảng cáo tiếp thị, so với các sản phẩm cùng loại, sản phẩm của Hoa Kỳ giá thành thường cao hơn của Nhật Bản do các công ty Nhật Bản đã hoạt động lâu dài tại Việt Nam nên chi phí đầu tư ban đầu đã dần được khấu hao. Bên cạnh đó sự khác biệt về văn hoá sẽ khiến cho những sản phẩm của Hoa Kỳ không phù hợp với thị hiếu tiêu dùng của người Việt Nam. Ngoài ra, các sản phẩm của Nhật Bản vốn phù hợp với điều kiện tự nhiên, tiết kiệm nhiên liệu, kiểu dáng đẹp, từ lâu đã được ưa chuộng trên thị trường Việt Nam (xe ô tô, xe máy, ...). Vì vậy, để thiết lập lại tương quan về mức độ cạnh tranh của sản phẩm, các công ty xuyên quốc gia Hoa Kỳ cần không ngừng tận dụng ưu thế của mình trong việc đầu tư cho hoạt động quảng cáo tiếp thị. Bên cạnh việc tiến hành các chiến dịch tiếp thị quảng cáo trực tiếp các công ty cũng cần nghiên cứu kỹ thị trường để đưa ra được các sản phẩm phù hợp đến với người tiêu dùng. Với mức độ đầu tư lớn cho hoạt động quảng cáo tiếp thị và nghiên cứu thị trường thì các công ty Hoa Kỳ sẽ không khó khăn trong việc thiết lập lại tương quan mức độ cạnh tranh sản phẩm. Cơ cấu đầu tư. Khác với khi đầu tư vào các nước ASEAN khác, đầu tư của Hoa Kỳ vào Việt Nam có xu hướng phát triển đa dạng. ở Việt Nam đã tập trung đầy đủ các ngành mà Hoa Kỳ có ưu thế cạnh tranh, đó là các ngành: dầu khí; công nghệ thông tin; sản xuất và lắp ráp ôtô; sản xuất nước giải khát... So với Hoa Kỳ, các công ty xuyên quốc gia của Nhật Bản tập trung vào các ngành công nghiệp có trình độ công nghệ cao, các lĩnh vực mũi nhọn mà ta còn yếu. Đây là một thế mạnh rất lớn của Nhật Bản trong lợi thế cạnh tranh về cơ cấu đầu tư theo ngành đó là các ngành công nghiệp điện tử, lắp ráp và sản xuất ô tô. Trong khi đó, các công ty xuyên quốc gia Tây Âu sản xuất kinh doanh trên tất cả các lĩnh vực, kể cả những lĩnh vực mà các nhà đầu tư khu vực khác ít quan tâm. Ngoài ngành dầu khí, ngành du lịch, nông nghiệp và chế biến nông phẩm, thì các công ty xuyên quốc gia Tây Âu rất quan tâm đến lĩnh vực dịch vụ và xây dựng kết cấu hạ tầng. Lĩnh vực này đã chiếm hơn 80% tổng vốn đầu tư của các nước Tây Âu vào Việt Nam. Đây chính là một thế mạnh của các công ty xuyên quốc gia Tây Âu vì đã bám rất sát với chiến lược thu hút đầu tư phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam để thu lợi nhuận Xét về cơ cấu lãnh thổ, các công ty xuyên quốc gia đang hoạt động ở Việt Nam trên hầu hết các tỉnh thành nhưng tập trung vào các thành phố lớn như thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Đồng Nai, nơi có điều kiện địa lý thuận lợi và có nhiều tiềm năng phát triển. Chính vì lý do đó mà không có lợi thế cạnh tranh rõ rệt của các công ty xuyên quốc gia các nước về cơ cấu đầu tư theo vùng lãnh thổ. Văn hoá, tập quán kinh doanh khác biệt là một khó khăn lớn trong việc tiếp cận thị trường Việt Nam của các công ty xuyên quốc gia Hoa kỳ. Sự khác biệt trong tư duy kinh doanh, văn hoá kinh doanh cũng như phong cách quản lý, cách thức làm việc tạo nên những bất lợi đối với các công ty xuyên quốc gia Hoa Kỳ so với các công ty của Nhật Bản và châu á. Sự khác biệt này bắt nguồn từ sự khác nhau trong văn hoá giao tiếp của người phương Tây và người á Đông Việc không phù hợp trong nét văn hoá giao tiếp nhiều khi lại dẫn đến những hiểu lầm không đáng có. So với các công ty xuyên quốc gia Nhật Bản, các công ty của Hoa Kỳ sẽ mất nhiều thời gian và công sức hơn để đạt được sự phù hợp trong văn hoá và tư duy kinh doanh. Bảng 1. Lợi thế so sánh của TNC Hoa Kỳ, Nhật và EU Hoa Kỳ Nhật EU Quan hệ kinh tế - xã hội - + + Vị trí địa lý - + - Vốn + 0 + Công nghệ + 0 + Tập quán kinh doanh - + - Giá cả sản phẩm sản xuất - + - Thu hút lao động - + - Xuất khẩu - + - Mức độ thận trọng - + 0 Lương lao động + - + Giá trị dự án + - + Nguồn: Phân tích nhận định của tác giả. Ghi chú: (+): Có lợi thế so sánh (0): Chưa xác định rõ ràng (-): Không có lợi thế so sánh. So với Nhật bản thì Hoa Kỳ có ít lợi thế ở Việt Nam. Các lợi thế so sánh của Hoa kỳ và Tây âu ở Việt Nam gần giống nhau bởi lẽ họ có những xuất phát điểm như nhau. Chính vì điều này mà tình hình hoạt động của các công ty xuyên quốc gia Hoa kỳ và Tây âu thường có những điểm tương đồng. Sự khác biệt của chúng chính là những ngành nghề mà hai nước này lựa chọn khi đầu tư vào Việt nam nên hiệu quả sản xuất kinh doanh cũng có phần khác biệt. Bởi ít lợi thế so sánh nên các công ty Hoa kỳ sẽ gặp nhiều khó khăn khi tham gia đầu tư vào Việt Nam. Tuy nhiên nếu biết phát huy lợi thế so sánh và khắc phục những bất lợi đã có thì các công ty xuyên quốc gia Hoa kỳ vẫn có thể hoạt động tốt tại Việt Nam. Khắc phục những khó khăn này không chỉ từ phía các nhà đầu tư bởi họ sẽ không làm nếu vẫn còn những khu vực phát huy được lợi thế của họ mà chuỷ yếu phải từ những nước thu hút đầu tư như Việt Nam. Khắc phục được chính là chúng ta đã tạo được một môi trường đầu tư hấp dẫn và thể hiện được thiện chí, mong muốn thu hút đầu tư của chúng ta. Quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ Thế kỷ 20 sẽ đi vào lịch sử nhân loại như một thế kỷ đem lại nh._.g các điều kiện thuận lợi để vừa kích thích các doanh nghiệp trong nước nỗ lục vươn lên, vừa thu hút được đầu tư của các công ty xuyên quốc gia Hoa Kỳ vào những lĩnh vực ưu tiên theo định hướng phát triển KT - XH của đất nước. Thứ hai, trước tiên phải cố gắng giải quyết tốt các mối quan hệ về kinh tế, chính trị với các quốc gia, các tổ chức phi chính phủ và các tổ chức kinh tế quốc tế để có được những khoản hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) đầu tư vào các đề án xây dựng hạ tầng cơ sở. Cùng với việc xây dựng cơ sở hạ tầng tốt, cung cấp các thông tin đầy đủ về môi trường đầu tư ở Việt Nam nhằm tăng tính hấp dẫn các công ty xuyên quốc gia, cần tập trung xây dựng một số khu công nghệ cao (bao gồm: khu chế xuất, khu công nghiệp...) với quy mô lớn, đầu tư đầy đủ ở những nơi có điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế như thành phố Hồ Chí Minh, Hà nội, Hải phòng... Không nên xây dựng tràn lan các khu công nghiệp với quy mô nhỏ, phân tán và đầu tư không đầy đủ. Để thực hiện được cần phải có chiến lược kế hoạch cụ thể cho cả trước mắt và lâu dài, tập trung vào các dự án trọng điểm, tránh dàn trải, phải có chính sách khuyến khích các nhà đầu tư trong nước bỏ vốn xây dựng các công trình với quy mô vừa và nhỏ, đổi mới hình thức BOT, đánh giá hiệu quả hoạt động của các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu thương mại tự do mạnh dạn loại bỏ những nơi không cần thiết, hỗ trợ những nơi có vị trí thuận lợi, có tác dụng lớn nhưng chưa có hiệu quả để phát triển trở thành nơi thật sự hấp dẫn các công ty xuyên quốc gia . Để nâng cao chất lượng hoạt động trong các lĩnh vực dịch vụ, thương mại, văn hoá, giáo dục nước ta cần quan tâm xây dựng thể chế chính trị, kinh tế theo hướng khuyến khích thu hút đầu tư nước ngoài, quan tâm hơn nữa về giáo dục, các hoạt động dịch vụ thương mại, thông tin, tư vấn phải được đổi mới và phát triển đảm bảo những điều kiện cần thiết để hoạt động đầu tư của các công ty xuyên quốc gia được tiến hành thuận lợi. Thứ ba, ngoài việc tìm hiểu thị trường, tình hình chính trị xã hội, các nhà đầu tư nước ngoài nói chung rất quan tâm đến việc tìm đối tác đầu tư, vì khi đầu tư vào một nước họ thường gặp một số khó khăn như phong tục tập quán, luật pháp... mặt khác trong hợp tác kinh doanh, các nhà đầu tư đều muốn giảm bớt vốn để hạn chế rủi ro, nên các công ty xuyên quốc gia thường tìm kiếm đối tác là công dân nước chủ nhà, để giảm bớt những khó khăn đó và chia sẻ rủi ro nếu có . Để tạo lập được các đối tác trong nước thực hiện liên doanh, hợp tác đầu tư với các công ty xuyên quốc gia một cách có hiệu quả, chúng ta cần phải xây dựng và phát triển các đối tác đầu tư trong nước thích hợp trong mối quan hệ kinh tế các đối tác nước ngoài, trong đó có các công ty xuyên quốc gia Hoa Kỳ. Đối tác đầu tư trong nước có năng lực và biết làm ăn với nước ngoài không chỉ là một nhân tố hấp dẫn với các công ty xuyên quốc gia Hoa Kỳ mà còn giúp thu hút thêm được nguồn vốn nước ngoài. Thông thường các nhà đầu tư nước ngoài nói chung, cũng như các công ty xuyên quốc gia Hoa Kỳ nói riêng muốn vào đầu tư kinh doanh ở một nước nào đó, ngoài việc tìm hiểu thị trường, tình hình chính trị xã hội, họ còn rất quan tâm đến việc tìm đối tác đầu tư. Chúng ta cần phải tiếp tục củng cố và phát triển các doanh nghiệp, xây dựng các tập đoàn kinh tế mạnh, khuyến khích đầu tư phát triển ở mọi thành phần kinh tế và nâng cao năng lực sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Trước mắt, cần củng cố và phát triển các tổng công ty 90 và 91, tập trung tăng cường vốn, công nghệ tiên tiến, thực hiện chiến lược đa dạng hoá sản xuất kinh doanh theo hướng đa lĩnh vực, đa sản phẩm và phạm vi hoạt động, đẩy mạnh cổ phần hoá các doanh nghiệp thành viên tiến tới cổ phần hoá cả tổng công ty, thực hiện chuyên môn hoá hoạt động của các doanh nghiệp thành viên, khuyến khích sự liên kết giữa chúng với nhau, tạo mạng lưới vệ tinh xung quanh là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, phân định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và mối quan hệ giữa hội đồng quản trị, tổng giám đốc, ban kiểm soát trong từng lĩnh vực cụ thể . Bên cạnh việc xây dựng và phát triển các tổng công ty theo mô hình tập đoàn kinh tế, thực tế ở nước ta nhiều doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân đã nhanh chóng mở rộng và phát triển sản xuất kinh doanh, xu hướng hình thành nhóm doanh nghiệp độc lập có tư cách pháp nhân, nhưng đặt dưới sự chỉ đạo quản lý của một nhóm chủ sở hữu đã trở nên rõ nét. Đây cũng là con đường hình thành tập đoàn tuy chậm nhưng chắc, tạo nên sức mạnh kinh tế trong và ngoài nước. Nhà nước cần có chính sách khuyến khích, hỗ trợ, giúp đỡ để họ vươn lên trở thành những doanh nghiệp mạnh thực hiện liên doanh, liên kết được với các công ty xuyên quốc gia . Cùng với sự hỗ trợ của nhà nước, các doanh nghiệp phải có sự nỗ lực cao, phấn đấu vươn lên. Điều đó phải được thể hiện bằng ý chí, quyết tâm đổi mới cơ chế tổ chức quản lý, tự chủ năng động sáng tạo trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Thứ tư, cần khắc phục nhanh chóng tình trạng thiếu về số lượng và yếu kém về năng lực của cán bộ nói chung và trực tiếp là cán bộ làm công tác đối ngoại, bao gồm kinh tế đối ngoại thông qua việc đào tạo, bồi dưỡng có hệ thống và có chất lượng. Điều chỉnh cơ cấu đào tạo hợp lý giữa việc đào tạo đội ngũ công nhân kỹ thuật, lao động có tay nghề cao với đội ngũ cán bộ, các nhà quản lý ; giữa các ngành nghề theo yêu cầu phát triển của đất nước. Mở rộng và phát triển các trung tâm dạy nghề, phối hợp với các nhà đầu tư nước ngoài đào tạo nghề cho người lao động ngay tại xí nghiệp liên doanh, xí nghiệp 100% vốn của họ . Đa dạng hoá các hình thức giáo dục đào tạo. Huy động các doanh nghiệp tham gia vào công tác đào tạo nghề, tài trợ cho công tác đào tạo giáo dục đội ngũ lao động của họ. Tăng cường hợp tác quốc tế trong lĩnh vực giáo dục đào tạo, nhất là việc đào tạo đội ngũ các nhà quản lý doanh nghiệp, các chuyên gia bậc cao, những chuyên gia kỹ thuật giỏi, đảm bảo mặt bằng quốc tế về năng lực trình độ . Thứ năm, cần nắm bắt đặc điểm của các nhà kinh doanh Hoa Kỳ, nhất là các tác phong và nguyên tắc kinh doanh của họ để có đối sách thích ứng. Nhìn chung, các nhà kinh doanh Hoa Kỳ đều rất năng dộng và quyết đoán trong kinh doanh, hơn nữa hầu hết họ đều có chiến lược kinh doanh dài hạn. Do đó, một mặt Việt Nam cần thay đổi tác phong làm việc của mình để thích ứng với cung cách làm ăn của các công ty xuyên quốc gia Hoa Kỳ; mặt khác, cần giữ gìn được những bản sắc của nguời Việt Nam, luôn có ý thức vươn lên học hỏi, tránh bị phụ thuộc, chi phối. Ngoài các giải pháp trên, chúng ta cần chú ý tới các ngành mà Hoa Kỳ có thế mạnh, thường phát triển đầu tư ra nước ngoài hơn cả như dầu khí, chế tạo máy móc, thiết bị phương tiện vận tải, xây dựng cơ sở hạ tầng... qua đó có chính sách thu hút vốn và chuyển giao công nghệ phù hợp. Chúng ta cần ý thức được mức độ công nghệ ở mỗi ngành trong thực tế Việt Nam, vì một số công nghệ là lạc hậu với Hoa Kỳ, nhưng lại có thể là hiện đại với Việt Nam. Riêng đối với bản thân các công ty xuyên quốc gia, nên chăng họ cần khắc phục các yếu tố tạo nên bất lợi cho hoạt động kinh doanh của mình. Nhằm khắc phục tình trạng không được thị trường chấp nhận sản phẩm, các công ty xuyên quốc gia nên giành nhiều thời gian cho việc nghiên cứu kỹ thị trường, tìm hiểu thói quen tập quán của người tiêu dùng Việt Nam. Nhằm tăng khả năng cạnh tranh của sản phẩm các công ty xuyên quốc gia Hoa kỳ nên triển khai sản xuất những sản phẩm có tính nội địa hoá cao giúp giảm chi phí nhập khẩu nguyên vật liệu, giảm giá thành sản phẩm, tăng cường hoạt động quảng cáo khuyến mại thích hợp với thị hiếu người tiêu dùng Việt Nam. Học tập kinh nghiệm kinh doanh của các công ty khác đã có nhiều năm hoạt động trên thị trường Việt Nam cũng là một việc nên làm đối với các công ty xuyên quốc gia Hoa kỳ. Toàn cầu hoá là xu thế không thể đảo ngược. Trong xu hướng đó không một quốc gia nào có thể phát triển mà lại không thực hiện mở rộng hoạt động kinh tế đối ngoại, không tham gia vào phân công lao động quốc tế. Nhất là đối với các nước đang phát triển mà thực tế là chậm phát triển, đi sau, rất cần vốn, kỹ thuật công nghệ, kinh nghiệm quản lý, thị trường, tiếp thị ...thì lại càng cần thiết phải mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại. Các công ty xuyên quốc gia, nhất là các công ty xuyên quốc gia lớn thuộc các nước công nghiệp phát triển có đủ khả năng để đáp ứng các yêu cầu trên. Đồng thời, việc đầu tư mở rộng thị trường vào các nước đang phát triển đang là mục tiêu chiến lược của các công ty xuyên quốc gia hiện nay. Do vậy, quốc gia nào có chiến lược đúng đắn, có sách lược mềm dẻo, biết cân nhắc lựa chọn và có quan điểm rõ ràng, chính sách giải pháp thích hợp trong từng giai đoạn, để tạo môi trường đầu tư hấp dẫn thì có thể thu hút được nhiều các công ty xuyên quốc gia vào đầu tư kinh doanh. Trên đây là một số đặc điểm đáng lưu ý khi xây dựng chính sách thu hút các công ty xuyên quốc gia và một vài gợi ý về các giải pháp nhằm giải quyết những vấn đề và thách thức đang đặt ra trước mắt đối với môi trường đầu tư của Việt Nam cũng như bản thân các công ty xuyên quốc gia Hoa kỳ. Hy vọng rằng, chính phủ Việt Nam sẽ có những chính sách thích hợp riêng đối với từng đối tác đầu tư quan trọng đặc biệt là Hoa Kỳ nhằm hỗ trợ cho họ kinh doanh đạt hiệu quả cao hơn và cũng là để có thể tận dụng được hết thế mạnh của các công ty đến từ Hoa Kỳ góp phần thúc đẩy quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Kết luận Với sức mạnh kinh tế hơn hẳn của các công ty xuyên quốc gia Hoa kỳ so với các nước khác và cùng với ưu thế về khoa học công nghệ, có sự hỗ trợ của Chính phủ, các công ty xuyên quốc gia Hoa kỳ đã phát triển nhanh chóng cả về số lượng và chất lượng. Các công ty này đi khắp nơi để tìm kiếm những đầu gút cho mạng lưới sản xuất và kinh doanh ngày càng rộng lớn của mình. Về phía mình, Việt Nam đã nhận thấy những tiềm năng to lớn mà các công ty Hoa kỳ có thể đem lại. Hai mong muốn đó sẽ gặp nhau nếu có một môi trường thuận lợi. Tuy nhiên, trên thực tế, hoạt động của các công ty xuyên quốc gia Hoa kỳ tại Việt Nam lại rất hạn chế mặc dù quan hệ Việt Nam - Hoa kỳ ngày càng tốt đẹp đánh dấu nhiều bước tiến thành công trong quan hệ kinh tế giữa hai bên. Những vấn đề và thách thức không chỉ xuất phát từ phía môi trường đầu tư của Việt Nam mà còn xuất phát từ trong nội bộ của các công ty xuyên quốc gia Hoa Kỳ. Bên cạnh những thuận lợi nhất định vẫn còn những khó khăn và tồn tại trong bức tranh đầu tư của Việt Nam và Hoa Kỳ tuy nhiên những vướng mắc đang dần được xoá bỏ để tiến tới một mối quan hệ hợp tác cả 2 bên đều có lợi. Để có thể nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư của các công ty xuyên quốc gia Hoa kỳ, tranh thủ được nguồn vốn lớn, công nghệ tiên tiến, kinh nghiệm quản lý hiện đại và thị trường rộng lớn của họ, giúp ta có thể thực hiện đi tắt, đón đầu rút ngắn khoảng cách với các nước trong khu vực và thế giới, việc tiếp tục cải cách chính sách, biện pháp cải thiện môi trường đầu tư đã trở thành vấn đề rất cấp bách hiện nay. Chúng ta hy vọng rằng với những nỗ lực đã và đang thực hiện, nhà nước ta và các công ty xuyên quốc gia Hoa kỳ sẽ đẩy mạnh và nâng cao hơn nữa hiệu quả đầu tư của các công ty ở Việt Nam. Góp phần không nhỏ vào sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá và phát triển đất nước. Phụ lục Phụ lục 1: Danh sách các tập đoàn lớn của Hoa Kỳ đã có đầu tư tại Việt Nam STT Tên tập đoàn Số D. án Tên dự án/ Hình thức đầu tư/ Nước đăng ký/ Nội dung SXKD TVĐT (USD) Vốn PĐ (USD) Vốn ĐT thực hiện (USD) 1 Cisco System 1 C.Ty TNHH Cisco System Vietnam - 100% vốn nước ngoài - Nước đăng ký Hà lan - Dịch vụ 500.000 250.000 250.000 2 Oracle 1 Công ty TNHH Oracle Vietnam - 100% vốn nước ngoài - Nước đăng ký Hoa kỳ - PTriển phần mềm. 1.065.000 250.000 250.000 3 IBM 1 Công ty TNHH IBM Vietnam - 100% vốn nước ngoài - Nước đăng ký Hoa Kỳ - Dịch vụ tin học. 2.700.000 1.500.000 507.000 4 Motorola 1 Công ty viễn thông Motorola Vietnam - 100% vốn nước ngoài - Nước đăng ký Hoa kỳ - Dịch vụ sửa chữa, bảo hành, bảo trì 2.000.000 1.000.000 1.000.000 5 Hewlett Packard 2 C.Ty TNHH Hewlett Packard Vietnam - 100% vốn nước ngoài - Nước đăng ký Hà lan - Dvụ công nghệ thông tin. C.Ty TNHH Compaq Vietnam - 100% vốn nước ngoài - Nước đăng ký Hà lan - Dịch vụ. 4.500.000 1.000.000 1.500.000 1.000.000 1.500.000 1.000.000 6 Gillette 1 Công ty TNHH Oral-B Vietnam - 100% Vốn nước ngoài - Nước đăng ký Hoa kỳ - SX bàn chải đánh răng. 5.000.000 2.500.000 5.000.000 7 Kimberly - Clark 2 Công ty TNHH Kimberly - Clark Vietnam - 100% Vốn nước ngoài - Nước đăng ký Hoa Kỳ - SX Băng vệ sinh, khăn lau mặt. Công ty TNHH Kimberly - Clark Vietnam - 100% Vốn nước ngoài -Nước đăng ký Hoa kỳ - SX Băng vệ sinh 3.196.000 10.000.000 3.196.000 4.000.000 3.196.000 7.800.000 8 Bank of America 1 Bank of America - 100 % vốn nước ngoài - Nước đăng ký Hoa Kỳ - Dịch vụ ngân hàng 15.000.000 15.000.000 15.000.000 9 J.P Morgan Chase 1 Chase Manhattan Bank - 100% vốn nước ngoài - Nước đăng ký Hoa kỳ - dịch vụ Ngân hàng 15.000.000 15.000.000 15.000.000 10 Citigroup 1 Citi Bank - 100% Vốn nước ngoài -Nước đăng ký Hoa kỳ - DV Ngân hàng 20.000.000 20.000.000 20.000.000 11 Conoco 5 - Hợp đồng dầu khí lô 15 - 2 (BBC giữa TCT dầu khí Việt nam - Japanese - Conoco) - Nước đăng ký Nhật bản. - Hợp đồng dầu khí lô 133,134 (BCC giữa TCT dầu khí Việt nam - Conoco) - Nước đăng ký VQ Anh. - HĐ dầu khí lô 15 - 1 (BCC giữa TCT dầu khí Việt nam - KNOC - Conoco - SK - Geopetrol) - Nước đăng ký Hà lan. - Hợp đồng dầu khí lô 16.2 (BCC giữa TCT dầu khí Việt nam - KNOC - Conoco) - Nước đăng ký Hàn Quốc. - Hợp đồng lô 05 - 3 (BCC giữa TCT dầu khí Việt nam - BP - Conoco) - Nước đăng ký VQ Anh. 47.000.000 30.000.000 28.500.000 22.000.000 42.400.000 47.000.000 30.000.000 28.500.000 22.000.000 42.400.000 628.663.260 14.187.453 68.163.582 21.200.000 143.617.132 12 Exxon Mobil 2 - HĐ thăm dò dầu khí lô 11-2 (BBC giữa TCT dầu khí Việt nam - Mobil - KNOC) - Nước đăng ký Hàn Quốc. - Unique Gas & Petrochemical (Việt nam) - Nước đăng ký Hồng Kông - Trữ, phân phối LPG, dầu nhờn. 84.000.000 36.000.000 84.000.000 10.800.000 143.114.707 33.052.601 13 Colgate – Palmolive 1 Công ty TNHH Colgate - Palmolive - 100% Vốn nước ngoài - Nước đăng ký Hoa kỳ - SX Xà phòng, thuốc đánh răng 40.000.000 10.700.000 15.700.000 14 Procter & Gamble 2 - C.Ty TNHH Procter & Gamble Vietnam - Liên doanh - Nước đăng ký Singapore - SX xà phòng, bột giặt, .... - C.Ty TNHH Procter & Gamble Đông dương - 100% vốn nước ngoài - Nước đăng ký Hoa kỳ - SX băng vệ sinh. 83.000.000 20.000.000 83.000.000 10.000.000 77.080.000 0 15 Pepsi & Co 1 Công ty nước giải khát quốc tế IBC - liên doanh - Nước đâng ký Hà lan - SX nước giải khát, nước tinh khiết 110.000.000 70.000.000 67.592.000 16 Coca - Cola 1 C.Ty TNHH nước giải khát Coca - Cola - 100% vốn nước ngoài - Nước đăng ký Singapore - SX nước ngọt các loại 358.611.000 113.836.600 95.928.950 17 Ford Motor 1 - C.Ty TNHH Ford Vietnam - L.doanh - Nước đăng ký Hoa kỳ - SX, lắp ráp ôtô 102.700.000 72.000.000 75.538.711 18 Cargill 1 - Công ty TNHH Cargill Vietnam --Nước đăng ký Hoa kỳ - SX, chế biến nông sản, thực phẩm. 74.462.200 22.878.000 32.532.980 19 Baker Hughes 1 - C.Ty TNHH Baker Hughes Vietnam - Nước đăng ký Hoa kỳ - dịch vụ dầu khí 10.000.000 3.030.000 1.207.000 20 Halliburton 1 - Công ty TNHH Halliburton Vietnam - Nước đăng ký Hoa kỳ – D/ vụ dầu khí. 9.200.000 2.760.000 9.760.000 21 Unocal 2 - Hợp đồng dầu khí lô B và 48/97 (BCC giữa TCT dầu khí - UNOCAL - Moeco) - Nước đăng ký Hoa kỳ. - Hợp đồng dầu khí lô 52/97 ( BCC giữa TCT dầu khí - UNOCAL - Moeco) - Nước đăng ký Hoa kỳ 12.000.000 30.800.000 12.000.000 30.800.000 56.750.432 30.840.000 22 AIG 1 C.Ty TNHH bảo hiểm Q.tế Hoa Kỳ - Nước đăng ký Bermuda – B.hiểm nhân thọ. 10.000.000 5.000.000 5.000.000 23 Minnesota Mining & Manufacturin 1 Công ty TNHH 3M Việt nam - Nước đăng ký Hoa kỳ - SX các sản phẩm kỹ thuật trong cáp điện. 4.350.000 4.146.000 750.000 24 Chevron Texaco 3 - CTy TNHH nhựa đường Caltex Việt nam - Nước đăng ký Singapore - Nhập khẩu, đóng gói, phân phối nhựa đường. - Công ty TNHH dầu nhớt Việt nam - Nước đăng ký Singapore - SX dầu nhớt bôi trơn. - Công ty TNHH khí hoá lỏng Caltex Việt nam - Nước đăng ký Singapore - Nhập khẩu, phân phối Gas 7.500.000 14.910.000 19.400.000 5.625.000 11.000.000 11.000.000 10.702.403 11.367.000 11.000.000 25 Corning 1 CTLD sản xuất cáp quang và phụ kiện FOCAL - Nước đăng ký Hoa kỳ – SX cáp quang và phụ kiện. 11.461.540 6.230.770 11.413.471 Nguồn: Vụ QLDA - Bộ Kế hoạch và Đầu tư, 2001. Phụ lục 2: Đầu tư trực tiếp nước ngoài theo ngành (Tính tới ngày 30/08/2003 - Chỉ tính các dự án còn hiệu lực) STT Chuyên ngành Số DA Tổng VĐT (Triệu USD) Đầu tư Th. hiện (Triệu USD) I I I Công nghiệp 2.710 22.123 15.273 CN dầu khí 30 1.933 3.992,5 Xây dựng 267 3.461 1.972 Các ngành CN khác 2.413 16.729 9.308,5 II Nông, lâm nghiệp 459 2.524 1.347 III Thuỷ sản 91 256 120 III Dịch vụ 809 14.716 6.243 GTVT - Bưu điện 112 2.584 1.012 Khách sạn – Du lịch 142 3.261 2.011 Tài chính - Ngân hàng 47 606 599 Văn hoá, y tế, giáo dục 139 750 225 XD Khu đô thị mới 3 2.467 0,4 XD Văn phòng - căn hộ 101 3.409 1.602,3 XD hạ tầng KCX - KCN 20 908 517 Dịch vụ khác 245 731 276 Tổng số: 4.069 39.619 22.983 Nguồn: Vụ QLDA - Bộ Kế hoạch và Đầu tư, 2003. Phụ lục 3: Đầu tư trực tiếp nước ngoài theo HTĐT ( Tính tới ngày 30/08/2003- chỉ tính các dự án còn hiệu lực ) Hình thức đầu tư Số dự án Vốn đăng ký Vốn thực hiện Doanh thu Lao động 100 vốn nước ngoàI 111 682,130 241,752 535,452 3.503 Liên doanh 35 310,646 141,427 343,473 1.265 Hợp đồng hợp tác KD 13 136,554 176,051 2,058 880 Tổng số 159 1.129,331 559,231 880,985 5.648 Nguồn: Vụ QLDA - Bộ Kế hoạch và Đầu tư, 2003. Phụ lục 4: Đầu tư trực tiếp nước ngoài theo nước (Tính tới ngày 30/08/2003 - Chỉ tính các dự án còn hiệu lực) STT Tên nước Số DA Tổng VĐT (Triệu USD) Đầu tư Th. hiện (Triệu USD) 1 Singapore 282 7.380 2.776 2 Đài loan 1.014 5.519 2.522 3 Nhật Bản 399 4.418 3.736 4 Hàn Quốc 596 3.922 2.254 5 Hồng Kông 281 3.027 1.773 6 Pháp 128 2.109 1.037 7 British Virgin Island 175 2.021 1.029 8 Hà Lan 49 1.704 1.579 9 Liên Bang Nga 42 217 156 10 Vương quốc Anh 50 1.196 1.112 11 Thái Lan 117 1.383 585 12 Malayxia 127 1.097 710 13 Hoa Kỳ 170 1.125 597 14 úc 79 463 268 15 Thuỵ Sĩ 24 626 517 16 Cayman island 11 475 399 17 CHLB Đức 44 241 121 18 Thuỵ Điển 9 454 359 19 Bermuda 5 260 157 20 Philippines 19 184 84 21 British West Indies 4 262 34 22 Trung Quốc 223 417 136 23 Channel islands 13 196 78 24 Indonexia 8 109 127 25 Đan Mạch 14 119 60 26 Canada 34 58 16 27 Bỉ 21 53 27 28 Nauy 11 39 15 29 New Zealand 9 40 9 30 ấn Độ 9 33 2 31 Cộng hoà Séc 6 36 8 32 Luxembourg 11 35 15 33 Turks & Caicos island 1 1 0,7 34 Ukraina 6 24 14 35 Liechtenstein 2 36 31 36 Italia 12 33 6 37 Ba Lan 5 29 14 38 I rắc 2 27 15 39 Isle of Man 1 15 1 40 Panama 3 13 2 41 Lào 4 11 5 Các nước khác 49 212 596 Tổng số: 4.069 39.619 22.983 Nguồn: Vụ QLDA - Bộ Kế hoạch và Đầu tư, 2003. Phụ lục 5: Đầu tư trực tiếp nước ngoài theo địa phương (Tính tới ngày 30/08/2003 - Chỉ tính các dự án còn hiệu lực) STT Địa phương Số D.án Tổng vốn ĐT (Triệu USD) Đầu tư thực hiện (Triệu USD) 1 TP Hồ Chí Minh 1.305 10.766 5.493 2 Hà nội 467 7.541 3.091 3 Đồng Nai 460 6.023 2.944 4 Bình Dương 701 3.199 1.592 5 Bà Rịa - Vũng tàu 83 1.883 1.135 6 Quảng Ngãi 8 30 11 7 Hải Phòng 136 1.439 1.088 8 Lâm Đồng 60 861 116 9 Hà Tây 37 420 217 10 Hải Dương 43 506 163 11 Thanh Hoá 10 444 410 12 Kiên Giang 6 448 393 13 Đà Nẵng 50 287 142 14 Quảng Ninh 49 310 181 15 Khánh Hoà 51 394 292 16 Long An 67 508 223 17 Vĩnh phúc 46 401 291 18 Nghệ An 9 230 109 19 Tây Ninh 59 241 170 20 Bắc Ninh 16 171 190 21 Thừa Thiên Huế 17 146 114 22 Phú Thọ 24 196 140 23 Cần Thơ 27 100 54 24 Quảng Nam 30 170 32 25 Hưng Yên 28 111 85 26 Tiền Giang 8 76 62 27 Bình Thuận 31 112 30 Các địa phương khác 241 2.606 4.215 Tổng số: 4.069 39.619 22.983 Nguồn: Vụ QLDA - Bộ Kế hoạch và Đầu tư, 2003. Phụ lục 6: Đầu tư trực tiếp nước ngoài theo năm Tổng vốn ĐT ĐT thực hiện 10 Đơn vị: tỷ USD 8 6 4 2 0 1997 1998 1999 2000 2001 2002 Phụ lục 7: So sánh môi trường đầu tư “cứng” ở các nước ASEAN STT Tên nước Sân bay Cảng biển Giao thông ĐIện lực Viễn thông Bình quân 1 Singapore 4.9 4.9 4.6 4.4 4.7 4.7 2 Brunei 3.3 3.0 3.3 3.6 3.5 3.3 3 Malaixia 3.1 3.1 2.7 2.6 3.2 2.9 4 TháI Lan 3.1 2.5 1.6 2.7 3.0 2.6 5 Philippin 2.3 2.4 1.9 2.2 2.7 2.3 6 Inđônêxia 3.0 2.4 2.3 2.6 2.7 2.6 7 Việt Nam 1.9 2.0 1.9 1.9 2.2 2.0 8 Mi-an-ma 1.6 1.5 1.6 1.4 1.4 1.5 9 Lào 1.5 - 1.5 1.7 1.5 1.5 Nguồn : Đầu tư quốc tế, TS. Phùng Xuân Nhạ, NXB Đại Học Quốc Gia, Hà Nội - 2001 (Ghi chú : xếp hạng theo thang điểm cao nhất là 5). Tài liệu tham khảo Báo cáo tình hình đầu tư của Hoa Kỳ tại Việt Nam,Vụ quản lý dự án -Bộ Kế hoạch và đầu tư, Hà Nội 08/2003. Báo cáo tình hình đầu tư của Hoa Kỳ tại Việt Nam,Vụ quản lý dự án -Bộ Kế hoạch và đầu tư , Hà Nội 11/2003. Báo cáo tình hình hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài 5 năm 1996-2000 và giải pháp cho đoạn 2001-2005 (trình chính phủ tại phiên họp ngày 28/3/2001), Bộ Kế hoạch và Đầu tư - Hà Nội 3/2001. Cải thiện hơn môi trường đầu tư, Báo Đầu tư, Số 39 - 2002. Nguyễn Hữu Cát, Thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trong quá trình công nghiệp hoá của các nước ASEAN và bài học cho Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam á, tháng 4/1996. Đầu tư trực tiếp của các công ty xuyên quốc gia ở các nước đang phát triển, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà nội - 1996. Đề tài khoa học xã hội 06 - 05, Bản chất, đặc điểm và vai trò của các công ty xuyên quốc gia và đa quốc gia trên thế giới và chính sách của chúng ta . Hội đồng lý luận trung ương - Bộ khoa học công nghệ và môi trường - Hà Nội, 2001 Đỗ Đức Định (chủ biên), Đầu tư trực tiếp nước ngoài ở một số nước đang phát triển, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà nội - 1993. Nguyễn Đỗ, Hoa Kỳ khuyến khích đầu tư ra thế giới, Thời báo Kinh tế Việt Nam, Số 30, 2001. Hà Văn Hội , Quan hệ kinh tế Việt Nam - Hoa Kỳ trong tiến trình hội nhập và phát triển kinh tế của Việt Nam, Luận văn thạc sỹ khoa học kinh tế - Đại học Quốc gia Hà Nội 2000. Hoa Kỳ - đối tác đầu tư lớn của Việt Nam,( tài liệu truy cập trên mạng Internet). Bộ thương Mại . Hà Nội 7/2003. Kinh tế và dự báo - 12 / 2003. Trần Quang Lâm , Nguồn gốc và bản chất của công ty xuyên quốc gia. Nguyễn Minh Long, Hoạt động của các công ty xuyên quốc gia Hoa Kỳ tại Việt Nam, Báo Tài chính quốc tế , Số 10-2000. Vũ Chí Lộc, Giáo trình đầu tư nước ngoài , NXB Giáo Dục-Hà Nội 1997. Luật đầu tư nước ngoài năm 1996 và luật sửa đổi, bổ sung một số điều của luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam( số 18/2000/QH) năm 2000. Nguyễn Tuấn Minh, Quan hệ kinh tế Việt Nam -Hoa Kỳ, Báo tài chính quốc tế, Số tháng 12-2001. Phùng Xuân Nhạ, Giáo trình Đầu tư quốc tế. NXB Đại Học Quốc Gia Hà Nội. 2001. Phùng Xuân Nhạ, Đầu tư trực tiếp nước ngoài phục vụ công nghiệp hoá ở Malaixia (Kinh nghiệm đối với Việt Nam ), NXB Thế giới, Hà Nội - 2000. Trịnh Trọng Nghĩa, 50 công ty hàng đầu thế giới , Nghiên cứu kinh tế, Số 275 - 2003. Nguyễn Khắc Thân, Vai trò công ty xuyên quốc gia đối với nền kinh tế các nước ASEAN, Nhà xuất bản Pháp lý Hà nội, 1992. Tạp chí Châu Mỹ ngày nay , số 4 - 2003. Tạp chí Đầu tư và phát triển số 65, tháng 4 / 2003. Tạp chí Đầu tư và phát triển số 102, tháng 7 / 2003. Tạp chí Đầu tư và phát triển số 123 , tháng 8 / 2003. Trường Xuân, Hoạt động của công ty Ford Việt Nam, Thông tin Kinh doanh và tiếp thị , Số 3 - 2001. Mục lục Nội dung Trang Bảng chữ cái viết tắt tiếng Anh Lời cảm ơn Mở đầu 1 Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của hoạt động đầu tư của công ty Hoa Kỳ ở Việt nam ....................................... 5 1.1. Bản chất, đặc điểm và vai trò của các công ty xuyên quốc gia Hoa Kỳ ........... 5 1.1.1. Khái niệm và định nghĩa về công ty xuyên quốc gia ........... ............................. 5 1.1.2. Tổng quan lý thuyết về sự hình thành và phát triển của các công ty xuyên quốc gia ................................................................................................................................... 8 1.1.3. Đặc điểm của các công ty xuyên quốc gia Hoa Kỳ ........................................... 14 1.2. Bối cảnh kinh tế - chính trị ảnh hưởng đến hoạt động của các công ty xuyên quốc gia Hoa Kỳ ở Việt Nam. ............................................................................................ 17 1.2.1. Quan điểm của Việt Nam đối với việc thu hút các công ty xuyên quốc gia. ............................................................................................................................................. 17 Tổng quan các chính sách thúc đẩy các công ty xuyên quốc gia đầu tư ra nước ngoài của Chính phủ Hoa Kỳ ....................................................................... 22 1.2.3. Lợi thế cạnh tranh của các công ty xuyên quốc gia Hoa kỳ tại Việt Nam .. 25 1.2.4. Quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ ................................................................................... 30 Kết luận chương 1 ................................................................................................................ 34 Chương 2: Thực trạng đầu tư của Các công ty xuyên quốc gia Hoa Kỳ ở Việt nam ......................................................................................................... 36 2.1. Tình hình đầu tư của các công ty XQG Hoa Kỳ ở Việt Nam ............................. 36 2.1.1. Động thái dòng vốn và quy mô dự án đầu tư ...................................................... 36 2.1.2. Cơ cấu đầu tư theo ngành ......................................................................................... 43 2.1.3. Cơ cấu đầu tư theo lãnh thổ ................................................................................... 47 2.1.4. Hình thức đầu tư ......................................................................................................... 48 2.2. Đánh giá về hoạt động đầu tư của các công ty XQG Hoa kỳ ở Việt nam. .. 50 Những vấn đề đặt ra hiện nay đối với việc thu hút các công ty xuyên quốc gia hoa kỳ ở Việt Nam ................................................................................................... 57 Kết luận chương 2 ................................................................................................................ 61 Chương 3: một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả đầu tư của các công ty xuyên quốc gia Hoa Kỳ ở Việt Nam ...................................... 62 3.1. Những thuận lợi và khó khăn trong việc thu hút các công ty xuyên quốc gia của Việt Nam hiện nay. ........................................................................................................ 62 Những thuận lợi. ..................................................................................................... 62 Những khó khăn. .................................................................................................... 66 Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư của các công ty xuyên quốc gia Hoa kỳ tại Việt Nam. ................................................ 71 Kết luận ................................................................................................................................... 77 Phụ lục ..................................................................................................................................... 78 Tài liệu tham khảo ............................................................................................................... 88 Tổng hợp tình hình đầu tư trực tiếp nước ngoài (Tính đến ngày 30 tháng 12 năm 2002) * Xuất khẩu và doanh thu (không kể dầu thô). Đơn vị: triệu USD Chỉ tiêu Thời kỳ 91 - 1995 Thời kỳ 1996 - 2000 2001 2002 1996 1997 1998 1999 2000 5 năm I. Số dự án đầu tư - Cấp mới 1.397 365 348 275 311 377 1.676 523 694 - Lượt tăng vốn 262 162 164 162 163 174 825 227 305 - Giải thể 237 54 85 101 86 113 439 94 93 - Hết hạn 12 4 6 2 2 2 16 1 2 II. Vốn đăng ký cấp mới và tăng vốn - Vốn đăng ký 16.244 8.640 4.649 3.897 1.568 2.014 20.768 2.536 1.379 - Tăng vốn 2.132 788 1.173 884 629 476 3.951 608 919 - Giải thể 1.522 1.141 544 2.428 784 1.794 6.691 1.434 690 - Hết hạn 98.6 146.1 24.4 19.1 1.1 2.5 193 3.8 332 - Còn hiệu lực tính từ đầu năm 1998 26.453 31.706 34.040 35.452 36.146 37.851 39.127 III. Vốn thực hiện 7.153 2.923 3.137 2.364 2.179 2.228 12.831 2.300 2.345 - Vốn từ nước ngoài 6.086 2.518 2.822 2.214 1.971 2.043 11.568 2.100 2.095 - Vốn của doanh nghiệp Việt Nam 1.067 405 315 150 208 185 1.263 200 250 IV. Doanh Thu* 4.106 2.800 3.955 4.380 5.711 7.921 24.767 8.200 9.000 V. Kim ngạch xuất nhập khẩu - Xuất khẩu 1.230 920 1.790 1.982 2.590 3.320 10.602 3.673 4.500 - Nhập khẩu 2.382 2.042 2.890 2.668 3.382 4.350 15.332 4.984 6.500 VI. Đóng góp của khu vực FDI - Tỷ trọng trong GDP (%) 7.4 9.1 10.0 11.8 12.7 13.1 - Nộp ngân sách 263 315 317 271 324 1.490 373 459 VII. Tốc độ tăng trưởng công nghiệp 21.7 - Khu vực FDI (%) 14.2 23.2 23.3 20.0 18.6 12.1 - Cả nước (%) 220 13.8 12.1 10.5 15.8 14.2 VIII. Giải quyết việc làm (nghìn người) 250 270 296 379 439 472 ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc37190.doc